Để chọn một lý thuyết triết học và mỹ học được du nhập và có ảnh
hưởng rộng rãi nhất trong lý luận và sáng tác văn học ở miền Nam Việt Nam những
năm 1954-1975, có lẽ nhiều người sẽ không ngần ngại chọn chủ nghĩa hiện sinh. Ảnh
hưởng đó thể hiện ở chỗ đây là trào lưu, tuy lúc đậm lúc nhạt, nhưng đã hiện diện
gần như trọn cả một giai đoạn lịch sử đen tối và phức tạp. Ảnh hưởng đó thể hiện
cả trên bình diện lý luận lẫn trên bình diện sáng tác, cả trong giới chuyên môn
lẫn trong độc giả phổ cập, cả trong nhà trường lẫn ngoài nhà trường. Điều đó
còn thể hiện ở chỗ đây là một ảnh hưởng đa chiều, có thuận có nghịch, có hiện
sinh và phản hiện sinh, có những sản phẩm chính cấp và sản phẩm thứ cấp, có những
đứa con chính thức lẫn “những người con hoang”.
Khi chính quyền Ngô Đình Diệm “tiếp thu” miền Nam từ tay thực
dân Pháp, lý thuyết triết học phương Tây mà người Sài Gòn nghe nói đến đầu tiên
không phải là chủ nghĩa hiện sinh, mặc dù đây là lúc chủ nghĩa này đang hình
thành một trào lưu sôi nổi ở Tây Âu. Lý thuyết được gia đình họ Ngô đề cao và
quảng bá lúc đó là chủ nghĩa nhân vị (Personnalisme) của Emmanuel
Mounier.
Nhưng trong tiếp nhận của công chúng lúc đó, chủ nghĩa này quả
thực là một cái gì mơ hồ. Một mặt, những cán bộ tuyên truyền của “phong trào
Cách mạng quốc gia” do Ngô Đình Nhu lập ra đã giới thiệu lý thuyết của E.
Mounier một cách phiến diện: một lý thuyết đi tìm con đường thứ ba không thiếu
thiện chí nhưng cũng đầy ảo tưởng đã bị bẻ quặt một cách cố ý sang con đường thứ
nhất để thành một lý thuyết chống Cộng sơ lược và thiển cận. Mặt khác, những
người trí thức hiểu biết nhất, tuy không thể không hưởng ứng chủ trương của một
chế độ mà lúc đó họ chưa nhận ra đầy đủ những nanh vuốt tinh thần của nó, hẳn
cũng thấy ngượng ngùng khi lên tiếng quảng bá chủ nghĩa này bên cạnh những cán
bộ tuyên truyền hạng hai.
Không kể những tài liệu tuyên truyền của “Trung tâm Nhân vị” ở
Vĩnh Long, ngay những công trình nghiên cứu về Mounier và chủ nghĩa nhân vị lúc
đó, như Học thuyết xã hội nhân vị của Lê Thành Trị (1956), Những nhà văn
hóa mới cuả Nguyễn Nam Châu (1958), giá trị thực sự còn lại cũng rất ít.
Lý Chánh Trung từng phàn nàn rằng dưới chế độ Ngô Đình Diệm hầu như không mấy
người hiểu được thực chất tư tưởng Mounier, khi mà chính tạp chí Esprit do ông
này sáng lập lại bị cấm đoán ở đây. Cho nên, mặc dù có đề cập ở chỗ này chỗ
khác vấn đề con người trong tương quan với yếu tố “nhân vị”, yếu tố “cần lao”,
giới trí thức Tây học ở miền Nam lúc đó hầu như giữ một thái độ “kính nhi viễn
chi” với lý thuyết của Mounier. Phải hai năm sau khi chính quyền Ngô Đình Diệm
sụp đổ, Lý Chánh Trung mới viết trên tạp chí Hành trình bài E. Mounier,
con người của đối thoại (1), với lời lẽ nồng nhiệt, trong ý hướng hoà giải những
xung đột ở miền Nam lúc đó, nhằm vận động cho một cuộc “cách mạng không cộng sản”
mà những người chủ trương tạp chí này đề xuất.
Trong khi chủ nghĩa nhân vị được đón nhận lạnh nhạt như thế
và gần như bị “xoá sổ” trong đời sống văn hoá miền Nam sau cuộc đảo chính tháng
11-1963, thì chủ nghĩa hiện sinh, đến một cách muộn màng từ quê hương của nó
sau gần hai thập kỷ, càng ngày càng lôi cuốn một bộ phận lớn trí thức ở đây. Đáp
ứng niềm say mê của bạn đọc đối với chủ nghĩa hiện sinh, những tờ tạp chí lúc
đó như Đại học, Sáng tạo, Văn, Bách khoa… đều có những bài viết hay số báo đặc
biệt về trào lưu triết học và văn học này cùng những tác gia của nó như
Jean-Paul Sartre, Albert Camus… Hỗ trợ có hiệu quả cho việc tìm hiểu và nghiên
cứu đó là nỗ lực dịch thuật ngày càng sâu rộng những đứa con tinh thần của các
tác gia hiện sinh. Về lý thuyết là các công trình cuả F.
Nietzsche, K. Jaspers, M.
Heidegger, J.-P.
Sartre… Về sáng tác là tiểu thuyết, kịch bản văn học của A. Camus, J.-P.
Sartre, S.
de Beauvoir, F. Sagan…
Từ tháng 10-1961 đến tháng 9-1962, trên tạp chí Bách Khoa, dưới
bút hiệu Trần Hương Tử, Trần Thái Đỉnh đã viết một loạt bài giới thiệu chủ
nghĩa hiện sinh, về sau được tập hợp thành chuyên khảo Triết học hiện sinh (NXB
Thời mới, Sài Gòn, 1967, tái bản 1968). Văn phong khúc chiết, cách dẫn giải
linh hoạt của một ngòi bút am hiểu và có chủ kiến đã khiến cuốn sách của Trần
Thái Đỉnh vượt ra ngoài ranh giới trường ốc, đến với đông đảo bạn đọc và có một
tác động không nhỏ thời ấy. Sau khi trình bày một cái nhìn tổng quan về chủ
nghĩa hiện sinh, những đề tài và hai ngành chính của nó, tác giả đã đi sâu phân
tích quan niệm của Kierkegaard, Nietzsche, Husserl,
Jaspers, Marcel, Sartre và Heidegger.
Là một linh mục, không có gì khó hiểu khi Trần
Thái Đỉnh bày tỏ thiện cảm của mình đối với quan niệm của Kierkegaard,
Jaspers, Marcel - những nhà hiện sinh hữu thần, và không che giấu thái độ ác cảm
với Nietzsche, Sartre - những nhà hiện sinh vô thần. Ông nhận xét Sartre là người “lời
lẽ hay quá đáng và thiếu tinh thần xây dựng” (2). Theo ông, “triết lý của
Sartre là triết lý cá nhân, tư kỷ, trưởng giả, ngạo nghễ…” (3). Thậm chí, Trần
Thái Đỉnh còn gọi Sartre là “bạo tàn, độc ác và thiển cận”, đặc biệt
trong vấn đề tương chủ tính, tức là mối quan hệ giữa con người và tha nhân. Ông
tán thành khái niệm tha ngã, qua đó đề cao cả “cái tôi” lẫn “cái chúng ta” như
G. Marcel luôn nhấn mạnh, trong khi Sartre và Camus thì khẳng định sự cô đơn và
ngộ nhận như một định mệnh mà con người phải chịu đựng. Theo Trần Thái Đỉnh,
triết học Sartre là một thứ “triết học nghẹt thở”, vì nó “không
mở cho con người vươn lên tới Thượng đế”, là điều mà Jaspers và Marcel luôn đề
cập qua khái niệm “siêu việt tính” và “bao dung thể”. Về mặt này, quả là Sartre
đã đi theo con đường của F. Nietzsche: “Thượng đế đã chết!”. Mà khi
Thượng đế đã chết, thì con người không còn gì để bấu víu và được phép làm mọi sự.
Như vậy, dưới mắt nhìn của Trần Thái Đỉnh, triết học Sartre
là một thứ triết học phiến diện vì nó đã cắt đứt mối liên hệ của con người cả về
chiều ngang lẫn chiều dọc: về chiều ngang, nó không mở rộng sang tha nhân; về
chiều dọc, nó không nâng tầm lên Thượng đế. Giới thiệu chủ nghĩa hiện sinh, Trần
Thái Đỉnh tỏ ra chịu ảnh hưởng cách đánh giá của Mounier đối với Sartre. Người
sáng lập chủ nghĩa nhân vị đã gọi triết học Sartre là “triết học thoái
thác” (philosophie de dégagement) thay vì là triết học dấn thân (philosophie
d’engagement). Theo Mounier, chủ nghĩa hiện sinh hữu thần mới đích thực là hiện
sinh chủ nghĩa, còn chủ nghĩa hiện sinh vô thần chỉ là vô hiện sinh chủ nghĩa (inexistentialisme).
Và chính Trần Thái Đỉnh xem chủ nghĩa nhân vị của Mounier là “một cố gắng
để tổng hợp những ưu điểm của hai thuyết hiện sinh và mác-xít, đồng thời ra sức
tránh những tệ đoan (hiểu là cực đoan – HNP) của hai thuyết này”(4). Sự phê
phán tính chất vô thần của Sartre, như vậy, không phải không có âm hưởng của
chính sách chống vô thần của chế độ Việt Nam cộng hoà lúc đó. Điều đó cũng cắt
nghĩa việc lúc đầu Trần Thái Đỉnh không quan tâm lắm đến Heidegger có lẽ vì cho
rằng Heidegger là vô thần và tiêu cực, nhưng sau khi đọc Thư về nhân bản chủ
nghĩa thì ông thay đổi thái độ. Ông phát hiện rằng triết học Heidegger là một
“tiền môn” của đức tin, hay ít ra nó cũng không trái với đức tin Ky-tô giáo.
Đồng thời, cũng phải thấy rằng, là một tu sĩ và một nhà giáo
thuần thành, Trần Thái Đỉnh khó mà chia sẻ nhân sinh quan nhuốm màu bi đát và
thái độ nổi loạn của Sartre cũng như của Simone de Beauvoir và F. Sagan. Ngay
những dòng đầu tiên của Triết học hiện sinh, Trần Thái Đỉnh đã viết: “thuyết
hiện sinh có chứa đựng rất nhiều mầm mống tốt trộn lẫn với nhiều mầm mống xấu:
chính những vẻ tốt đẹp kia đã quyến rũ thanh thiếu niên, nhưng vì họ chưa đủ
tinh tường để phân biệt, cho nên họ nuốt luôn cả những chất độc pha trộn nơi
đó” (5). Kết thúc chương “Sartre - hiện sinh phi lý”, Trần Thái Đỉnh
còn bình luận: “Sartre thiếu tình yêu, nhưng ông sống xa hoa, với một gia
tài vào hạng lớn. Người con tinh thần của Sartre là Sagan cũng thuộc hàng trưởng
giả, thừa tiền thừa bạc, đã hưởng tất cả những gì mà dục tình con người có thể
thèm ước. (…) Ngày nay cũng vậy, hễ hết nếp sống trưởng giả, thì cái nọc hiện
sinh của Sartre cũng sẽ hết thời. Dân cần cù Việt Nam đòi một triết học hợp với
một sinh hoạt của mình hơn” (6). Nghe như tác giả gần với những nhà đạo đức ngày
xưa và ngày nay luôn kêu gọi tẩy chay văn hoá lai căng để giữ gìn bản sắc dân tộc.
Trần Thái Đỉnh vẫn giữ lập trường và niềm tin đó khi viết
chương “Biện chứng pháp ngày nay” trong Biện chứng pháp là gì?.
Mặc dù tán thành Sartre và Hyppolite trong cuộc tranh luận với Garaudy và
Vigier về phép biện chứng, Trần Thái Đỉnh vẫn chỉ trích quan niệm về con người
của Sartre: “Con người theo tư tưởng Sartre là con người vô cùng cô đơn,
không bao giờ thông cảm được với tha nhân: đối với Sartre, tha nhân vẫn giữ y
nguyên bộ mặt phi ngã mà Hegel đã mặc cho. Lập trường triết hiện sinh của
Sartre đã rõ: con người chỉ có thể lần lượt là đứng nhìn (être-regardant), hoặc
là bị nhìn (être-regardé). Không thể nào có hai cùng đứng nhìn, cho nên Sartre
luôn bị ám ảnh bởi tha nhân, sợ tha nhân ăn cắp mất chủ thể tính của ông, sợ
tha nhân biến ông thành bị nhìn, tức thành sự vật” (7).
Nếu Trần Thái Đỉnh chưa chú ý thích đáng đến vai trò của
Heidegger trong sự phát triển của tư tưởng hiện sinh, thì Lê Tôn Nghiêm - lúc
đó cũng là một linh mục và giáo sư Đại học Văn khoa Sài Gòn - lại dành một sự
quan tâm sâu sắc cho triết gia này. Ông đã viết hai công trình khá dày dặn để
trình bày triết học Heidegger: Heidegger trước sự phá sản của tư tưởng Tây
phương (NXB Lá Bối, Sài Gòn, 1970); Đâu là căn nguyên tư tưởng hay
con đường triết lý từ Kant đến Heidegger (NXB Trình Bày, Sài Gòn, 1970). Ở
cuốn thứ nhất, tác giả giới thiệu Heidegger như là lời giải đáp cho những vấn nạn
và bế tắc của triết học phương Tây hiện đại. Ở cuốn thứ hai, trong một phối cảnh
rộng hơn theo tiến trình tư tưởng từ thời Cận đại, Lê Tôn Nghiêm đã cho thấy những
đóng góp của Heidegger trong việc trả lời những câu hỏi của Kant trong Phê
phán lý tính thuần tuý về vấn đề con người (Tôi có thể biết gì? Tôi phải làm
gì?. Tôi được phép hy vọng gì?), từ đó tiến đến giải quyết câu hỏi then chốt làm
nền tảng cho việc trả lời ba câu hỏi trên: “Thế nào là tính thể con người”, nhằm
đặt nền móng cho khoa nhân thể học (tức nhân loại học, anthropologie - HNP).
Khác với Trần Thái Đỉnh có một văn phong mạch lạc, sáng rõ và
dễ tiếp nhận, Lê Tôn Nghiêm lại diễn đạt những vấn đề triết học chuyên sâu khá
nặng nề. Cũng khác với Trần Thái Đỉnh, ông thường dõi theo mạch tư duy triết học
nội tại mà ít liên hệ với bối cảnh đời sống văn hoá bao quanh. Đi sâu vào những
vấn đề chuyên biệt và bắt lấy nguồn mạch uyên nguyên của triết lý cũng là hướng
đi của Tạp chí Tư tưởng - cơ quan luận thuyết của Viện Đại học Vạn Hạnh
- khi tổ chức số báo đặc biệt về hiện tượng học của Husserl (số 1 bộ mới, ngày
01-6-1969) với những bài viết của Phạm
Công Thiện (Hiện tượng học và hiện tượng học Husserl), Ngô Trọng Anh (Vấn
đề thực tại trong hiện tượng học Husserl) và Lê Tôn Nghiêm (Môi trường tiên
nghiệm trong hiện tượng học Husserl về cuộc đời).
Đến công trình Những vấn đề triết học hiện đại (NXB
Ra khơi, Sài Gòn, 1971), Lê Tôn Nghiêm dành một chương viết về “Phong trào
hiện sinh với xã hội học”, trong đó ông trình bày chủ nghĩa hiện sinh gắn
với lý thuyết xã hội học của Max Weber. Lê Tôn Nghiêm đã dành những lời lẽ nồng
nhiệt cho hai ông tổ của triết học hiện sinh: “Kierkegaard và Nietzsche
bàng hoàng kinh sợ khi chứng kiến rõ ràng rằng nhân loại đang lăn xuống hố thẳm
và hai ông đã cố gắng đánh thức thế giới đang ngủ say. Họ là những nhân vật tối
cần cho chúng ta có thể thực hiện được những kinh nghiệm quyết liệt. Hiện giờ họ
vẫn chưa đạt được mục tiêu của họ là đánh thức nhân loại dậy” (8). Sau đó, tác
giả phân tích bốn chi lưu của chủ nghĩa hiện sinh mà ông định danh là: “triết học
về tính thể” của Heidegger, “triết học về sinh hoạt cảm xúc” của Scheler, “hữu
thể học có tính hiện tượng luận” của Sartre và “triết học hiện tượng luận lưỡng
tính” của Merleau-Ponty.
So với Trần Thái Đỉnh, Lê Tôn Nghiêm ít có thiên kiến với những
nhà hiện sinh vô thần và ông cũng trình bày chủ nghĩa hiện sinh trong tương
quan với chủ nghĩa Marx một cách thanh thản. Chẳng hạn, ông viết: “Một
cách tổng quát, Merleau-Ponty đã nhìn lý thuyết mác-xít như một phương thức lý
thuyết rất hùng hậu, nhưng nó phải được sử dụng để tiện lợi cho công cuộc khám
phá thêm và phải được duyệt xét lại theo ánh sáng của những điều kiện lịch sử
khác nhau khi đem áp dụng ở đó” (9).
Cùng giảng dạy ở Ban Triết học Tây phương của Trường Đại học
Văn khoa Sài Gòn như Trần Thái Đỉnh, Lê Tôn Nghiêm, và là khoa trưởng trường
này vào những năm cuối của cuộc chiến tranh, Lê Thành Trị đã biên soạn chuyên
khảo Hiện tượng luận về hiện sinh (Phủ Quốc vụ khanh đặc trách văn
hoá xb, Sài Gòn, 1969; Trung tâm học liệu Bộ Văn hoá Giáo dục và Thanh niên tái
bản, Sài Gòn, 1974). Mô phỏng nhan đề hai tác phẩm Hiện tượng luận về Tinh thần
của Hegel và Hiện tượng luận về tri giác của Merleau-Ponty, cuốn sách này gây
cho người đọc cảm tưởng rằng tác giả vận dụng hiện tượng luận để mô tả hiện
sinh con người, nhưng thực chất đây là một tổng kết về diễn trình của triết học
hiện sinh, từ ý nghĩa tổng quát của nó đến sự thể hiện ở những triết gia tiêu
biểu: Kierkegaard, Nietzsche, Jaspers, Sartre, Heidegger.
Tác giả Hiện tượng luận về hiện sinh vừa kết hợp giới thiệu
cuộc đời và hành trạng của các triết gia, vừa phân tích những đặc trưng tư tưởng
của họ. Chẳng hạn trong chương “J.-P. Sartre hay là tiếng sét đêm trường đến
giấc mơ đại đồng cho nhân loại”, có các tiểu mục: “Người con hoang đàng”, “Tính
tình và nhân cách”, “Văn nghiệp của Sartre”, “Trên con tàu hư vô”, “Ý thức là
khởi điểm”, “Thổi hư vô vào vũ trụ”… Sau những tiêu đề có tính chất “văn
chương” như vậy là những nội dung khá chuyên sâu và chi tiết. Theo chỗ chúng
tôi được biết, cuốn sách này của Lê Thành Trị chỉ có tác động hạn chế trong phạm
vi nhà trường đại học, chứ không gây ảnh hưởng sâu rộng như những cuốn sách của
Trần Thái Đỉnh và nhất là của Nguyễn
Văn Trung. Trước và sau đó, Lê Thành Trị đã công bố L’idée de la
Participation chez Gabriel Marcel (1961), Luận lý toán học đại cương (1966), Đường
vào triết học (1971)… nhưng có lẽ Hiện tượng luận về hiện sinh là
công trình đỉnh cao của ông.
Nói đến chủ nghĩa hiện sinh ở miền Nam, cần phải dành một chỗ
quan trọng cho Nguyễn Văn Trung, không chỉ vì ông là một trong những giáo sư
triết học viết nhiều về trào lưu này mà còn vì các tác phẩm của ông có một tiếng
vang lớn trong những năm tháng đó. Có thể nói Nguyễn Văn Trung là nhịp cầu
chính dẫn chủ nghĩa hiện sinh đi vào xã hội miền Nam và toả ra đến tầng lớp trí
thức, văn nghệ sĩ, sinh viên. Cùng làm việc với Trần Thái Đỉnh, Lê Tôn Nghiêm,
Lê Thành Trị ở Ban Triết học Tây phương thuộc Trường Đại học Văn khoa Sài Gòn,
nơi mà ông từng giữ cương vị Trưởng ban và Khoa trưởng, Nguyễn Văn Trung không
có một chuyên khảo riêng về chủ nghĩa hiện sinh như những đồng nghiệp nói trên.
Nhưng tư tưởng hiện sinh, đặc biệt là tư tưởng J.-P. Sartre, bàng bạc và thấm đẫm
trong hầu hết những công trình nghiên cứu triết học và văn học cũng như những
bài báo của Nguyễn Văn Trung, thể hiện cả trong thái độ chính trị và những hoạt
động xã hội của ông.
Cũng là người Ky tô hữu như Trần Thái Đỉnh, nhưng Nguyễn Văn
Trung có một lập trường khác hẳn về chủ nghĩa hiện sinh. Nếu người trước thiên
về chủ nghĩa hiện sinh hữu thần, thì người sau ngả về chủ nghĩa hiện sinh vô thần.
Nếu người trước chủ yếu xem chủ nghĩa hiện sinh như một đối tượng nghiên cứu,
thì người sau chủ yếu xem chủ nghĩa hiện sinh như một triết lý sống, một thái độ
làm người và ở đời. Về nước sau thời gian du học ở châu Âu, trong những bài báo
đầu tiên trên tạp chí Đại học, Nguyễn Văn Trung đã quảng bá và vận dụng chủ
nghĩa hiện sinh vào việc phân tích, đánh giá một số hiện tượng văn nghệ. Sau
đó, trong những công trình Triết học tổng quát, Đưa
vào triết học, Lược khảo văn học, Xây dựng tác phẩm tiểu thuyết…, ông
đã nhiều lần giới thiệu tư tưởng J.-P. Sartre.
Bạn đọc miền Nam làm quen với những khái niệm “dấn thân”, “chọn
lựa”, “ngụy tín”… một phần là nhờ những cuốn sách nhập môn triết học của Nguyễn
Văn Trung. Về lý luận văn học, chắc chắn ông đã tham khảo Qu’est-ce que la
littérature? của J.-P. Sartre khi viết Lược khảo văn học (tập
I: Những vấn đề tổng quát): cuốn trên đặt và giải quyết vấn đề viết là gì,
viết để làm gì, viết cho ai; thì cuốn dưới mở rộng thêm: viết là gì, viết cái
gì, tại sao viết, viết thế nào, viết cho ai. Tất nhiên, về mặt lý thuyết, Nguyễn
Văn Trung không chỉ vận dụng Sartre mà còn giới thiệu tư tưởng văn học của
Heidegger, Barthes…Về mặt thực tiễn, ông luôn bám sát để soi sáng những hiện tượng
văn học Việt Nam. Cũng vậy, trong tập II (Ngôn ngữ văn chương và kịch) và tập
III (Nghiên cứu và phê bình văn học), Nguyễn Văn Trung giới thiệu những quan niệm
của Sartre bên cạnh những quan niệm của P. Valéry, A. Robbe-Grillet, Ch.
Mauron, G. Bachelard, L. Goldmann… trong ý hướng vận dụng để giải quyết những vấn
đề đặt ra từ lịch sử văn học. Có thể nói, cho đến thời điểm ấy, ở nước ta, đây
là bộ sách lý luận văn học cập nhật những tư tưởng hiện đại một cách hệ thống
nhất.
Ra đời trước bộ Lược khảo văn học, chuyên khảo Xây dựng tác
phẩm tiểu thuyết, khi bàn về nhân vật và quan niệm về con người, cuộc đời trong
tiểu thuyết, đã khái quát thành ba quan niệm chủ yếu: (1) niềm tin có con
người, (2) hoài nghi con người và (3) vắng bóng con người. Quan niệm thứ
hai chính là của các nhà văn hiện sinh. Để dẫn chứng về nội dung và kỹ thuật thể
hiện của quan niệm đó, tác giả đã phân tích Buồn nôn của Sartre và Kẻ xa lạ của
Camus. Ảnh hưởng của phân tâm học hiện sinh cũng để lại dấu vết khá rõ trong Ca
tụng thân xác, Ngôn ngữ và thân xác của Nguyễn Văn Trung.
Với Nguyễn Văn Trung, Sartre không chỉ là một hiện tượng văn
hoá mà còn là một chỗ dựa tinh thần, một nguồn chia sẻ và lời giải đáp cho những
vấn đề của con người tại thế, trong hoàn cảnh sống cụ thể. Trong bài Sartre
trong đời tôi, ông viết: “Sartre khao khát tìm ra một triết học đem tới
cho cuộc đời trước mặt một ý nghĩa đích thực. Nói cách khác, Sartre coi triết học
là một cái gì quan trọng, cần thiết, gắn liền với đời sống; không phải chỉ là một
thứ đấu võ lý luận hay suy tưởng trừu tượng” (10). Ông đã tìm thấy ở Sartre một
hướng suy nghĩ phù hợp với người trí thức dấn thân: “Chúng ta không có thời
đại nào khác, ngoài thời đại hiện nay của chúng ta. Có thể có thời đại khác
thanh bình hơn, đẹp hơn, nhưng đó không phải thời đại của ta, thời đại có chiến
tranh nóng lạnh giữa hai khối, thời đại có mối đe doạ thường xuyên của bom
nguyên tử, thời đại đế quốc chủ nghĩa, thực dân xâm lăng… Chúng ta không có quyền
lựa chọn hoàn cảnh, thời đại, nhưng chỉ có thể lựa chọn trong hoàn cảnh, thời đại
của ta” (11).
Việc tiếp nhận chủ nghĩa hiện sinh của Nguyễn Văn Trung và một
số trí thức khuynh tả ở miền Nam cũng là một quá trình tương ứng với hai giai
đoạn phát triển trong tư tưởng của Sartre. Giai đoạn đầu gắn liền với những bài
viết của Nguyễn Văn Trung khi cộng tác với tạp chí Đại học và những công trình
biên khảo trước 1965, có thể thấy rõ ảnh hưởng của những suy tư triết học
trong Hữu thể và hư vô. Giai đoạn sau gắn liền với những hoạt động làm
báo Hành trình, Đất nước, đậm nét ảnh hưởng của Phê phán lý trí biện
chứng và các tạp chí Les Temps modernes, J’accuse. Quá trình thay đổi
đó trong thái độ của Nguyễn Văn Trung đối với Sartre không hẳn là một sự cắt đứt
hay gián đoạn trong nhận thức mà là một sự vận động có sự tác động của chính
hoàn cảnh, tương tự như thái độ của Sartre đối với Flaubert.
Chính là trong cảm hứng gợi lên từ tư tưởng dấn thân của
Sartre và phần nào tư tưởng phản kháng của Camus mà Nguyễn Văn Trung và những
người cùng khuynh hướng trong các tạp chí Hành trình, Đất nước, Trình bầy đã chọn
lựa tư thế của những người trí thức dấn thân và phản kháng tiêu biểu ở miền
Nam. Như một phát biểu của Sartre khi trả lời phỏng vấn của báo Le Point: “Tôi
không tin rằng người ta có thể là một người trí thức mà không tả” (12). Quả thật
là một điều kỳ lạ: trong khi các nhà nghiên cứu ở miền Bắc thường nhìn thấy chủ
yếu ở Sartre khía cạnh phi mác xít, thì ở miền Nam những người trí thức khuynh
tả lại tìm thấy ở Sartre một chỗ dựa và một nguồn động viên để đến gần với cuộc
đấu tranh dân tộc do những người cộng sản lãnh đạo. Không phải là ngẫu nhiên,
khi trên số báo cuối cùng của tạp chí Trình Bầy, sau những kỳ bị tịch thu
liên tục và trước khi phải đình bản vì sắc luật 007 của chính quyền Nguyễn Văn
Thiệu, chủ nhiệm kiêm chủ bút Thế Nguyên đã cho đăng lại trên những trang đầu bản
dịch Văn học của những tình thế cực đoan, trích từ Situations II của
J.-P. Sartre (13).
Tuy nhiên, trong phong trào hoà bình, dân tộc và dân chủ lúc
đó, những người trí thức khuynh tả ngày càng thấy chủ nghĩa hiện sinh là cái áo
quá chật đối với những suy tư của họ về thời cuộc, đất nước và con người. Nguyễn
Ngọc Lan và Lý Chánh Trung bận bịu với những bài bình luận chính trị nóng hổi
tính thời sự, hầu như không viết gì về chủ nghĩa hiện sinh. Một số cây bút thuộc
thế hệ trẻ hơn vừa trân trọng phẩm chất trí thức của Sartre, vừa kháng cự lại
những ảo tưởng của chủ nghĩa hiện sinh. Nguyễn Trọng Văn nhìn thấy văn chương
hiện sinh như một thứ “làm dáng trí thức” và cảnh báo về hậu quả không mong muốn
của sự truyền bá chủ nghĩa hiện sinh, qua hình ảnh “những người con hoang
của Nguyễn Văn Trung” (14). Thế Nguyên phê phán “văn chương hiện
sinh” là một thứ “văn nghệ theo đuôi”, hệ quả của “thói học
đòi làm sang” trong xã hội miền Nam (15).
Sau hơn 30 năm nhìn lại, một cách tổng quát, có thể nói chủ
nghĩa hiện sinh đã để lại ảnh hưởng trong đời sống xã hội miền Nam ở ba bình diện
sau đây:
Một, trên bình diện lý thuyết triết học và văn học: chủ
nghĩa hiện sinh gắn liền với sự hình thành một đội ngũ những nhà nghiên cứu, chủ
yếu trong giới đại học, thuộc hai thế hệ: thế hệ thứ nhất với Nguyễn Văn Trung,
Trần Thái Đỉnh, Lê Tôn Nghiêm, Lê Thành Trị, Tam Ích, Nghiêm Xuân Hồng… thế hệ
thứ hai với Vũ Đình Lưu, Thế Phong, Nguyễn Trọng Văn, Đặng Phùng Quân, Huỳnh
Phan Anh, Trần Xuân Kiêm, Trần Công Tiến, Nguyễn Quốc Trụ, Trần Nhựt Tân, Nguyễn
Nhật Duật… Có lẽ chưa và sẽ không có giai đoạn nào ở nước ta mà chủ nghĩa hiện
sinh được nghiên cứu sâu rộng, dưới nhiều góc độ như vậy. Và chúng tôi mạo muội
nghĩ, trong thời điểm đó, có lẽ ít có xứ sở nào ngoài Âu Mỹ mà chủ nghĩa hiện
sinh được nghiên cứu kỹ lưỡng đến mức ấy. Tuy nhiên, về mặt phê bình hiện sinh,
chưa có nhiều công trình đặc sắc. Những tác phẩm của Lê Tuyên, Đỗ Long Vân chủ
yếu là vận dụng phân tâm học hiện sinh soi sáng thế giới nghệ thuật của những
nhà thơ cổ điển, chứ không phải là phê bình trực tiếp những sáng tác văn học
đương thời.
Hai, trên bình diện sáng tác văn học: chủ nghĩa hiện sinh
đã đem lại cho văn học miền Nam những thay đổi đáng kể, với quan niệm nghệ
thuật về con người cô đơn trong một thế giới phi lý, với ngôn ngữ và kỹ thuật
mô tả hiện tượng luận. Đây có thể là ảnh hưởng tự phát, nhưng cũng có thể là ảnh
hưởng tự giác, ở những nhà văn trực tiếp đọc lý thuyết và sáng tác văn học hiện
sinh Tây Âu. Nhiều năm sau nhìn lại, Cung Tích Biền, một người trong cuộc, nhận
xét: “Do có đồng khí tương cầu, chủ nghĩa hiện sinh đã có đất gieo mầm tại
miền Nam một thời. Nó là dòng chảy, từ tư duy đến hành động, thái độ sống; nơi
mỗi cá thể thành những tập thể quần chúng; từ cục bộ trí thức đã lan toả đến một
tầng lớp xã hội; ảnh hưởng trực tiếp đến nhiều lãnh vực văn chương nghệ thuật,
âm nhạc, hội họa”(16). Chúng tôi có cảm nhận là trên bình diện sáng tác, độc giả
Sài Gòn đọc Camus nhiều hơn Sartre và do đó, ảnh hưởng của Camus về mặt nghệ
thuật có lẽ sâu sắc hơn. Phạm Công Thiện tinh tế khi nhận xét rằng “về con
người thì Sartre cho rằng hiện hữu có trước yếu tính (L’existence précède
l’essence), nhưng về nghệ thuật văn nghệ thì Sartre gián tiếp cho rằng yếu tính
có trước hiện hữu (L’essence précède l’existence)”(17). Nói theo ngôn ngữ ngày
nay, thì sáng tác của Sartre phần nào có tính chất minh họa cho triết học.
Ba, trên bình diện thái độ sống: ảnh hưởng của chủ
nghĩa hiện sinh cũng hết sức phức tạp. Một mặt, không thể chối cãi rằng nó dẫn
đến phản ứng “nổi loạn”, “tận hưởng cuộc đời” của một bộ phận thanh niên nông nổi
không tìm thấy đường đi trong chiến tranh, như Lý Chánh Trung, Nguyễn Văn Xuân,
Lữ Phương, Nguyễn Trọng Văn đã từng chỉ ra. Mặt khác, cũng phải thừa nhận rằng
nó gợi lên những suy tư, trăn trở về thân phận con người, ý thức trách nhiệm
trước tình cảnh đất nước và chọn lựa thái độ ứng xử cũng như hành động nhập cuộc
vì tha nhân. Có thể nói chủ nghĩa hiện sinh đã đáp ứng nỗi ưu tư của con người
và khao khát tự khẳng định khuôn mặt tinh thần của mình trong điều kiện nước
sôi lửa bỏng của dân tộc, đòi hỏi người trí thức không thể đứng “bên dòng lịch
sử”. Họ đã sống cái triết lý đó chứ không phải làm công việc dịch thuật hay
thông tin thuần túy bằng ngôn ngữ lãnh đạm của học thuật.
Từ những ảnh hưởng trên bình diện lý thuyết như khuôn khổ mà
bài viết này tự giới hạn, có thể rút ra những nhận xét gì?
Thứ nhất, có thể khẳng định rằng đại học miền Nam, tập trung
là các trường Đại học Văn khoa Sài Gòn và Huế, Viện Đại học Đà Lạt, Viện Đại học
Vạn Hạnh, đóng một vai trò rất quan trọng. Việc giới thiệu và giảng dạy rộng
rãi, đa dạng các khuynh hướng triết học và văn học hiện sinh, một phần thỏa mãn
nhu cầu có tính thời thượng của công chúng, phần khác đáp ứng một đòi hỏi về kiến
thức toàn diện mà đại học trang bị cho sinh viên. Trên thực tế, Nguyễn Văn
Trung không chỉ nghiên cứu, giảng dạy về chủ nghĩa hiện sinh mà cả về triết học
Phật giáo (Biện chứng giải thoát trong Phật giáo), Marx (Nhận diện Marx), Lenin
(Bài học cách mạng của Lenin), Althusser (Đọc Althusser)… Cũng vậy, Trần Thái Đỉnh
còn nghiên cứu, giảng dạy về triết học Descartes, Kant, biện chứng pháp Platon,
Hegel, Marx… Lê Tôn Nghiêm còn viết về Socrate, triết học cổ đại và trung đại…
Việc phổ biến chủ nghĩa hiện sinh trong bối cảnh một nền đại học mới xây dựng
muốn cập nhật những tư tưởng phương Tây hẳn là điều dễ hiểu.
Thứ hai, có những sự phân hóa rất lớn trong việc tiếp nhận
chủ nghĩa hiện sinh ở miền Nam. Theo chúng tôi, ít nhất cũng có đến ba sự phân
hóa.
Một, là sự phân hóa giữa những người tán dương chủ nghĩa hiện sinh hữu thần với những người ủng hộ chủ nghĩa hiện sinh vô thần. Tất nhiên đây không phải là sự phân hóa dứt khoát, với ranh giới tuyệt đối theo nghĩa đã chọn Kierkegaard thì không chọn Nietzsche, đã Marcel thì không Sartre, hay ngược lại.
Hai, là sự phân hóa giữa những người tán thành chủ nghĩa hiện sinh vô thần trong thái độ với Sartre và Camus. Những người khuynh hữu chia sẻ quan điểm triết học và văn nghệ của Camus hơn là Sartre. Những người khuynh tả thì ngược lại.
Ba, là sự phân hóa giữa chính những người yêu thích Sartre: một phía tìm cách nối dài văn chương phi lý, hư vô; phía kia thì đẩy lý thuyết dấn thân đến hành động trong một quan niệm “tri hành hợp nhất”.
Một, là sự phân hóa giữa những người tán dương chủ nghĩa hiện sinh hữu thần với những người ủng hộ chủ nghĩa hiện sinh vô thần. Tất nhiên đây không phải là sự phân hóa dứt khoát, với ranh giới tuyệt đối theo nghĩa đã chọn Kierkegaard thì không chọn Nietzsche, đã Marcel thì không Sartre, hay ngược lại.
Hai, là sự phân hóa giữa những người tán thành chủ nghĩa hiện sinh vô thần trong thái độ với Sartre và Camus. Những người khuynh hữu chia sẻ quan điểm triết học và văn nghệ của Camus hơn là Sartre. Những người khuynh tả thì ngược lại.
Ba, là sự phân hóa giữa chính những người yêu thích Sartre: một phía tìm cách nối dài văn chương phi lý, hư vô; phía kia thì đẩy lý thuyết dấn thân đến hành động trong một quan niệm “tri hành hợp nhất”.
Thứ ba, như một hệ quả của tình hình đó, là sự chuyển
hóa và đa dạng trong cách nhìn và tiếng nói lý giải chủ nghĩa hiện sinh. Chẳng
hạn trong vấn đề con người, có những cách nhìn nhận và đánh giá khác nhau giữa
những người nghiên cứu chủ nghĩa hiện sinh.
Ở cuối thập niên 50, Nguyễn Nam Châu đề cao Marcel, Mounier và xếp Sartre, Camus vào “văn nghệ nhân bản duy vật” (Sứ mệnh văn nghệ, NXB Đại học, Huế, 1958). Nhưng đến cuối thập niên 60, Đặng Phùng Quân giới thiệu trân trọng Marcel mà không thấy nhất thiết phải quy kết Sartre (Hiện hữu tha nhân với Gabriel Marcel, NXB Đêm Trắng, Sài Gòn, 1969). Từ góc độ đạo đức luận, Vũ Đình Lưu nghiêng về Camus hơn Sartre vì cho rằng Camus “có cái khôn ngoan lịch lãm của Đông phương” (18). Đi tìm những dị điểm và đồng điểm giữa chủ nghĩa hiện sinh và triết học phương Đông, triết học Phật giáo cũng là nỗ lực của nhiều học giả như Tam Ích, Thích Đức Nhuận, Bùi Giáng, Tuệ Sỹ, Ngô Trọng Anh… Người giải quyết vấn đề con người và tha nhân uyển chuyển và thỏa đáng nhất, theo thiển ý, chính là Trần Văn Toàn. Trong hai cuốn sách Xã hội và con người (NXB Nam Sơn, Sài Gòn, 1965), Tìm hiểu đời sống xã hội (NXB Nam Sơn, Sài Gòn, 1967), ông đã thể hiện một cuộc đối thoại triết lý trầm lặng, hòa nhã giữa chủ nghĩa hiện sinh và chủ nghĩa Marx và rút ra những đúc kết từ tinh hoa của cả hai.
Ở cuối thập niên 50, Nguyễn Nam Châu đề cao Marcel, Mounier và xếp Sartre, Camus vào “văn nghệ nhân bản duy vật” (Sứ mệnh văn nghệ, NXB Đại học, Huế, 1958). Nhưng đến cuối thập niên 60, Đặng Phùng Quân giới thiệu trân trọng Marcel mà không thấy nhất thiết phải quy kết Sartre (Hiện hữu tha nhân với Gabriel Marcel, NXB Đêm Trắng, Sài Gòn, 1969). Từ góc độ đạo đức luận, Vũ Đình Lưu nghiêng về Camus hơn Sartre vì cho rằng Camus “có cái khôn ngoan lịch lãm của Đông phương” (18). Đi tìm những dị điểm và đồng điểm giữa chủ nghĩa hiện sinh và triết học phương Đông, triết học Phật giáo cũng là nỗ lực của nhiều học giả như Tam Ích, Thích Đức Nhuận, Bùi Giáng, Tuệ Sỹ, Ngô Trọng Anh… Người giải quyết vấn đề con người và tha nhân uyển chuyển và thỏa đáng nhất, theo thiển ý, chính là Trần Văn Toàn. Trong hai cuốn sách Xã hội và con người (NXB Nam Sơn, Sài Gòn, 1965), Tìm hiểu đời sống xã hội (NXB Nam Sơn, Sài Gòn, 1967), ông đã thể hiện một cuộc đối thoại triết lý trầm lặng, hòa nhã giữa chủ nghĩa hiện sinh và chủ nghĩa Marx và rút ra những đúc kết từ tinh hoa của cả hai.
Như vậy là chủ nghĩa hiện sinh ở miền Nam đã được tiếp cận từ
nhiều cách nhìn khác nhau, những cách nhìn chắc chắn không thoát khỏi sự tác động
của bối cảnh xã hội cũng như lập trường chính trị của người viết, nhưng hầu hết
đều cho thấy tinh thần độc lập và tự trọng của người trí thức, nói theo những
suy nghĩ riêng của mình mà không rập khuôn, một giọng.
Chủ nghĩa hiện sinh là triết học của một thời đại không lặp lại.
Việc tiếp nhận, truyền bá, vận dụng nó cũng là “cơ duyên” của lịch sử. Nó đã đến
trong cái bối cảnh bi đát của xã hội miền Nam những năm 1954-1975, khi con người
khao khát tự do và quyền sống mong muốn suy tư về chính tự do và thân phận làm
người. Sau chiến tranh, hoàn cảnh xã hội đã thay đổi, chủ nghĩa hiện sinh không
còn chỗ đứng trong sinh hoạt trí thức.
Nhưng đến cuối những năm 80, vấn đề con người lại thu hút những
người cầm bút, âm hưởng hiện sinh lại được dấy lên trong sáng tác, đặc biệt của
những nhà văn trẻ. Có thể nói những ray rứt hiện sinh, trong khung cảnh một đời
sống hòa bình với nhiều nghịch cảnh, đã trở lại bằng con đường hình tượng. Cùng
với điều đó, sáng tác của Sartre, Camus… được hòa nhập vào đời sống văn học,
như những thành tựu khác của văn học thế giới. Chậm hơn một bước, người ta thấy
có nhu cầu đọc lại chủ thuyết này trên bình diện lý luận. Có lẽ đó là lý do dẫn
đến việc xuất bản và tái bản những cuốn sách của K. Jaspers (Triết học nhập môn),
M. Heidegger (Tác phẩm triết học), J.-P. Sartre (Văn học là gì?), Trần Thái Đỉnh
(Triết học hiện sinh), Lê Tôn Nghiêm (Đâu là căn nguyên tư tưởng hay con đường
triết lý từ Kant đến Heidegger), Nguyễn Văn Trung (Ca tụng thân xác), Bùi Giáng
(Martin Heidegger và tư tưởng hiện đại)… Việc xuất hiện lại trong muộn màng những
cuốn sách đó là một dấu hiệu tốt đẹp cho đời sống văn hóa tinh thần của đất nước.
Nhưng hoàn cảnh đã khác, tâm thế con người cũng khác, thì việc đọc lại những
công trình ấy chắc hẳn sẽ dẫn người ta đến những thu hoạch khác với giai đoạn
1954-1975.
Chú thích:
(1) Hành trình số 9, tháng 12-1965. In lại trong Lý Chánh
Trung: Ba năm xáo trộn, Nxb. Nam Sơn, Sài Gòn, 1967.
(2), (3), (4), (5), (6) Trần Thái Đỉnh: Triết học hiện sinh, Nxb. Thời Mới, Sài Gòn, 1968, tr.380, 384, 375, 10, 349.
(7) Trần Thái Đỉnh: Biện chứng pháp là gì, Nxb. Văn mới, Sài Gòn, 1973, tr.199.
(8), (9) Lê Tôn Nghiêm: Những vấn đề triết học hiện đại, Nxb. Ra Khơi, Sài Gòn, 1971, tr.158, 209.
(10) Nguyễn Văn Trung: Sartre trong đời tôi, Bách Khoa số 267-268, ngày 15-02 và 01-3-1968, tr.32.
(11) Nguyễn Văn Trung: Bđd, Bách Khoa số 269-270, ngày 15-3 và 01-4-1968, tr.19.
(12) Jean-Paul Sartre: Trí thức và cách mạng, Trình Bày số 14, ngày 15-02-1971.
(13) Đỗ Long Vân dịch, Trình Bày số 42, ngày 02-9-1972.
(14) Nguyễn Trọng Văn: Những người con hoang của Nguyễn Văn Trung, Bách Khoa số 264, Sài Gòn, ngày 01-01-1968.
(15) Thế Nguyên: Nghĩ về “văn chương hiện sinh” hay là tính chất “sì-nốp-bít” của xã hội miền Nam, Nghiên cứu văn học số 6, Sài Gòn, tháng 6-1968.
(16) Cung Tích Biền: Hiện sinh, một thời kỷ niệm. Trong Về một dòng văn chương, Nxb. Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh, 2001, tr.69.
(17) Phạm Công Thiện: Ý thức mới trong văn nghệ và triết học, Nxb. An Tiêm, Sài Gòn, 1966, tr.46.
(18) Vũ Đình Lưu: Nền tảng đạo đức luận của Sartre và Camus, Văn số 25, Sài Gòn, 1965, tr.39.
(2), (3), (4), (5), (6) Trần Thái Đỉnh: Triết học hiện sinh, Nxb. Thời Mới, Sài Gòn, 1968, tr.380, 384, 375, 10, 349.
(7) Trần Thái Đỉnh: Biện chứng pháp là gì, Nxb. Văn mới, Sài Gòn, 1973, tr.199.
(8), (9) Lê Tôn Nghiêm: Những vấn đề triết học hiện đại, Nxb. Ra Khơi, Sài Gòn, 1971, tr.158, 209.
(10) Nguyễn Văn Trung: Sartre trong đời tôi, Bách Khoa số 267-268, ngày 15-02 và 01-3-1968, tr.32.
(11) Nguyễn Văn Trung: Bđd, Bách Khoa số 269-270, ngày 15-3 và 01-4-1968, tr.19.
(12) Jean-Paul Sartre: Trí thức và cách mạng, Trình Bày số 14, ngày 15-02-1971.
(13) Đỗ Long Vân dịch, Trình Bày số 42, ngày 02-9-1972.
(14) Nguyễn Trọng Văn: Những người con hoang của Nguyễn Văn Trung, Bách Khoa số 264, Sài Gòn, ngày 01-01-1968.
(15) Thế Nguyên: Nghĩ về “văn chương hiện sinh” hay là tính chất “sì-nốp-bít” của xã hội miền Nam, Nghiên cứu văn học số 6, Sài Gòn, tháng 6-1968.
(16) Cung Tích Biền: Hiện sinh, một thời kỷ niệm. Trong Về một dòng văn chương, Nxb. Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh, 2001, tr.69.
(17) Phạm Công Thiện: Ý thức mới trong văn nghệ và triết học, Nxb. An Tiêm, Sài Gòn, 1966, tr.46.
(18) Vũ Đình Lưu: Nền tảng đạo đức luận của Sartre và Camus, Văn số 25, Sài Gòn, 1965, tr.39.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét