Thứ Hai, 14 tháng 10, 2019

Gửi thương về Huế 1

Gửi thương về Huế 1
Lời giới thiệu: ANH YẾN
Một trong những bài viết của anh Võ Quang Yến được nhiều độc giả cảm mến là bài "Làm dâu xứ Huế". Anh viết về chị Liliane, vợ anh. Quyển sách này, anh đề tặng chị trước hết. Mấy chục năm trước đây, báo Bách Khoa ở miền Nam cũ có mở một đề tài kéo dài trong nhiều số liên tiếp về hôn nhân Việt-Pháp làm nhiều người trẻ thích thú theo dõi trong đó có tôi. Tất nhiên tôi hâm mộ những trường hợp thành công, tương đối hiếm, và ngậm ngùi lòng tự nhủ lòng nên rút kết luận từ những trường hợp kia, nhiều hơn, để cảnh giác. Qua Pháp, quen với vợ chồng anh Yến trong bao nhiêu năm, không lúc nào nhìn anh chị mà tôi không có cảm tưởng như đang đọc tờ Bách Khoa ở hồi hấp dẫn nhất: anh chị là những người hiếm hoi có khả năng làm tôi mất lập trường.
Hạnh phúc giữa anh chị là chiếc nhẫn cưới mà làng Mỹ Cang heo hút của xứ Huế xa xăm đeo vào ngón tay của chị mấy chục năm sau khi anh chị bước vào tình sử của báo Bách Khoa. Làng Mỹ Cang có thêm dâu, điều đó có nghĩa là cô dâu mới làm đậm đà thêm tình nghĩa thủy chung của anh Yến với nơi chôn rau cắt rốn. Anh Yến có hai mối tình: nước tôi và vợ tôi. Hai mối tình nhập với nhau làm một như nước một dòng của sông Ô Lâu chảy qua làng Mỹ Cang.
Không phải bỗng nhiên mà tôi mở đầu với tờ Bách Khoa. Anh Yến, trước mắt thế hệ trên năm mươi tuổi, là Bách Khoa. Độc giả ở lứa tuổi ấy biết anh như tác giả được ưa chuộng của những bài viết khoa học phổ thông xuất hiện khá thường xuyên trên tờ báo có uy tín ấy. Nhờ đọc anh mà nhiều người trẻ đã thích khoa học. Trong một giai đoạn lịch sử còn quá hiếm thông tin khoa học, những bài viết dễ hiểu, trong sáng của anh đã mang lại những lượng kiến thức đứng đắn, đáp ứng đúng nhu cầu của những đầu óc vừa mới trưởng thành. Giá anh cứ có cơ hội tiếp tục như thế, vai trò giáo dục của anh đã lớn biết chừng nào!
Nhưng văn hóa Việt Nam nói chung, văn hóa Huế nói riêng, có một điều kỳ lạ, không mấy ai thoát nổi. Chúng ta ai cũng thích văn thơ. Trong bụng mỗi người Việt Nam dường như đều có thầm thì một ông thi sĩ. Phi lục bát bất thành phu phụ. Bất thành trí thức ! Người khoa học đến như bác Hoàng Xuân Hãn - mà anh Yến nhắc nhở nhiều lần - cũng đã từng hãnh diện với hai câu thơ bình dân học vụ không kém gì với công trình học giả của bác:
i tờ có móc cả hai
i ngắn có dấu tờ dài thêm ngang
Sĩ tử ngày xưa ai mà chẳng làm thơ? Không làm thơ thì không làm được cả chính trị. Làm sao máu thơ đó không chảy trong huyết quản của sĩ tử ngày nay ? Huống hồ sĩ tử đó si tình như anh Yến với cái xứ được mệnh danh là "đẹp và thơ"! Cho nên anh Yến chắp cánh văn thơ vào cây bút khoa học của anh là chuyện tất nhiên. Nhờ đó, nhà khoa học ngày xưa có dịp trải tâm tình với làng xóm, với đất nước, với dân tộc mà anh nồng nàn yêu như con trai mê gái.
Độc giả rất dễ nhận ra nồng độ của trái tim say mê ấy trong những trang nhật ký lý thú này. Riêng tôi, tôi chỉ xin trích ra đây hai chi tiết tầm thường nhất, vụn vặt nhất, nhưng tiêu biểu biết bao cho con người của anh Yến và tình cảm của anh. Tôi thấy đây như hai giọt máu chảy ra từ ngòi bút của anh Yến - nghĩa là từ trái tim trẻ dại của anh.
Giọt máu thứ nhất là bốn chữ "Hắc Kí Ni Sơn". Anh Yến si tình tiếng Việt đến độ Việt hóa cả cái xóm Hacquinière của thiên hạ. Hacquinière nằm trong thung lũng Chevreuse đẹp có tiếng của ngoại ô nam Paris. Vây quanh thung lũng là đồi. Nhà anh Yến nằm chênh vênh trên đồi, xinh xắn nép mình dưới những cây sồi lực lưỡng. Anh Yến nhiều lần âu yếm kể chuyện nhà của anh và khách Huế đến chơi trong sách. Đến chơi, khách lấy xe lửa xuống trạm Hacquinière. Địa danh này biến mất dưới ngòi bút của anh Yến, hóa kiếp Việt Nam thành tên Hắc Kí Ni Sơn. "Hắc Kí Ni" thì trung thực, bộc trực, nghe sao nói vậy. "Sơn" thì hơi ngông đối với dãy đồi con. Nhưng anh Yến cãi: cái tên Hắc Kí Ni Sơn đâu có dài gì hơn Hy Mã Lạp Sơn? Mà Hy Mã Lạp Sơn thì quá quen tai Việt Nam! Anh có lý quá. Anh có thể nói thêm: chẳng thế mà Hy Mã còn đi cả vào thơ của danh nhân:
Cao vút từng không, băng vượt núi
Trường sơn, Hy mã lạp, U ran
Thì Hắc Kí Ni cũng đi vào văn!
Giọt máu thứ hai, "Xô Thành", có một lịch sử khác, kém hùng vĩ hơn. Chị Yến lớn tuổi, không lên nổi đồi, dù là đồi con. Khách Huế đến chơi cũng vậy thôi, không lên nổi đồi của anh chị trong mùa tuyết, xe trượt mà chân cũng trượt. Cho nên anh chị dời tổ ấm về một căn nhà trong thành phố không xa đó bao nhiêu, thành phố sang, thành phố giàu, thành phố trưởng giả mang tên là Sceaux. Khi anh chị dọn nhà, tôi hồi hộp không biết anh sẽ cho thành phố này hóa kiếp thành tên gì của Việt Nam để ký dưới các bài viết của anh từ đó. Hay thế ! Cái thành phố trưởng giả cao sang này được anh Yến ban cho một tên Việt rất bình dân mà cũng rất trung thực : "Xô". Tiếng Việt không thích đơn côi, lẻ loi, nên anh Yến láy đôi tình tứ gọi tên "Xô Thành". Anh quên mất rồi, Huế của anh cũng đơn côi một chữ ! Trong các địa danh thành phố ở Việt Nam, dường như chỉ có Vinh đơn côi như thế với Huế. Bởi vậy, tôi thích gọi là "Xô", nghe vui tai, như khi mình gọi tên ở nhà của con. Nhưng anh Yến chắc đã nghĩ đến văn thơ nhiều hơn; chắc anh nghĩ đến khóe mắt của Dương Quý Phi, biết đâu nghĩ đến cả Kiều, khi làm khai sinh cho đứa con thứ hai của anh trước Ủy Ban Nhân Dân xã Mỹ Cang:
Lạ cho cái sóng khuynh thành
Làm cho đổ quán xiêu đình như chơi
Anh Yến là kẻ si tình với tiếng Việt từ khi anh viết cho Bách Khoa. Anh Việt hóa tất cả. Việt hóa cả thiên thần, thổ địa. Việt hóa cả hiện tại, tương lai. Anh Việt hóa vợ. Anh Việt hóa con. Bởi vì anh suốt đời là thằng học trò Mỹ Cang mải mê đi bắn cu xanh.
Cao Huy Thuần
ĐÔI DÒNG TÂM SỰ
Thuở mới qua học ở Pháp vào tuổi đôi mươi, từ những năm thập niên 50, tôi đã bắt đầu thử viết tiếng Việt, viết để khỏi quên tiếng mẹ đẻ, để quen với thành ngữ, để biết sử dụng danh từ, khi mình sống trong một môi trường hoàn toàn Pháp ngữ. Đề tài độc nhất tôi biết hồi đó là khoa học đang học ở trường. Những bài đầu tiên gởi về tờ Đại học ở Huế là những bài giáo khoa. Sau đó mới có yêu cầu những bài phổ thông. Tôi may mắn được anh Lê Ngộ Châu trước tiên nhận đăng trong tờ Bách Khoa ở Sài Gòn. Nhằm lúc vệ tinh nhân tạo liên tục được phóng lên không trung, tôi khai thác lúc ban đầu chủ đề không gian, vũ trụ trước khi mở rộng ra mọi khía cạnh khoa học, không ngoài mục đích thông tin, nhất là cho các độc giả thiếu báo chí, ít sành ngoại ngữ trong nước. Nhắm bạn đọc mức trung học phổ thông, tôi cố gắng viết đừng quá khó đọc. Cố gắng vì ai cũng biết viết phổ thông không phải dễ, nhất là muốn tránh những chi tiết rườm rà hay ngoài đề không có gì là khoa học. Đây là một thách thức mà tôi tự tạo vì ý thức mình không phải là một nhà văn, lại thiếu danh từ khoa học. Cuốn sách đầu giường hồi ấy của tôi là quyển Danh từ khoa học của Hoàng Xuân Hãn, thật có ích nhưng không đầy đủ. Dù muốn dù không tôi buộc phải đặt ra nhiều từ mới, tra qua xem lại với cuốn Dictionnaire vietnamien chinois français của cha Eugène Gouin được anh Lê Ngộ Châu chủ biên tờ Bách Khoa gởi biếu. Ngày nay tôi rất hãnh diện thấy nhiều từ đã được thông dụng. Dần dần tờ Phổ Thông của nhà thơ Nguyễn Vỹ cũng đòi hỏi và tôi dành cho báo nầy những bài bên lề khoa học, mức có phần thấp hơn một chút, liên quan nhiều hơn đến đời sống hằng ngày. Đến lượt chị Vân Trang ở tờ Hồn Trẻ yêu cầu tôi viết cho các em bé, từ đấy có mục Tại sao? trong ấy ông chú giải thích những hiện tượng thường gặp hằng ngày cho đứa cháu. Cơ quan xuất bản Phạm Quang Khai đã gom góp một số các bài nầy để cho đăng trong hai tập sách Nói chuyện khoa học và Vũ trụ và không gian (1968). Sau đó nhà xuất bản Lửa thiêng tiếp tục cho ra tập Giáo dục tính phái (1973) mà một vài chương đã được chọn đăng trong Bách Khoa. Ngày nay tôi mừng thầm thấy những bài viết không nhiều tham vọng đó đã được đọc và nhiều người lớn tuổi không ngần ngại cho tôi hay lúc tôi hồi hương sau mấy chục năm xa cách. Tôi rất cảm động khi có một nhà báo cho biết anh đã sao giữ những bài của tôi. Và phấn khởi biết bao khi một bạn đọc cũ bảo tôi: Nhờ đọc bài của anh hồi còn ở trung học mà nay tôi dấn thân vào ngành khảo cứu! Một lời nhỏ thôi mà gây cho tôi một mối thích thú lớn lao, mỗi nỗi hân hoan vô tận.
Sau 1975, tôi tạm ngừng viết vì hết còn yêu cầu. Một hôm, gặp bác Hoàng Xuân Hãn ở chùa Trúc Lâm (Villebon, miền nam Paris), tôi vui mừng được bác nhắc lại những bài tôi viết trong Bách Khoa và bác đề nghị cùng tôi in sách khoa học loại Que sais-je của Pháp nhưng chuyện ấn loát và nhất là tài chính phức tạp nên dự án không được thực hiện. Năm 1986, sau chuyến về thăm quê hương lần thứ nhất của tôi, nhiều bạn nghe tôi kể chuyện thấy thích thú và thúc dục tôi viết bài tường thuật. Những bài bút ký đầu tiên tôi chỉ viết về Huế là nơi tôi đã sống suốt thời niên thiếu trước khi đi du học và gởi đăng tờ Sông Hương ở Huế. Dần dần tôi mở rộng phạm vi đề tài, kể chuyện đời sống ở Pháp, ấn tượng những chuyến du hành khắp đất Á Đông, miêu tả những ngôi chùa cổ kính mà tôi may mắn được chiêm ngưỡng đặc biệt gởi về tờ Giác Ngộ. Sau Sông Hương, Người Sông Hương, Tập san Quốc Học, tờ Huế Xưa và Nay chịu nhận đăng rồi đến lượt tờ Nhớ Huế ở Thành phố Hồ Chí Minh, trong chương trình mở rộng ra ngoại quốc, cũng muốn có bài của tôi. Song song với các bài loại bút ký nầy, luôn theo yêu cầu, tôi viết một loạt bài có tính cách thời sự, kinh tế, khoa học đăng ở các tờ Kinh tế Sài gòn, Tuổi trẻ Chủ nhật, Đại Đoàn Kết, Văn hóa Du lịch, Khoa học Phổ thông, Quê Hương, Khoa học và Tổ quốc, Biển, Đất Mới, Hợp Lưu, Đoàn Kết, Hương Sen ở Việt Nam cũng như ở Pháp, Canađa, Hoa kỳ. Đặc biệt, cũng theo yêu cầu, tôi mở một mục ở tờ Lao Động xem như là một cánh cửa sổ hé ra nước ngoài. Tôi luôn nghĩ sáng kiến nầy rất xác đáng, cần thiết để mở rộng trí óc cho một số độc giả, nhưng tiếc là điều kiện đăng bài không cho phép tiếp tục. Về mặt khoa học, từ nhiều năm nay, tôi cộng tác thường xuyên với báo Thông tin Khoa học và Công nghệ ở Huế,bắt đầu với anh Lê Phước Thúy, nay đổi tên thành Nghiên cứu và Phát triển. Gần đây, trong tinh thần mở rộng giới bạn đọc, tôi lấy những bài khoa học đã đăng, sửa lại nếu cần, thêm tài liệu cho kịp thời sự rồi lần lượt gởi đăng trong các báo điện tử Khoa học @ Đời sống, Vietsciences, Chim Việt Cành Nam. Tôi cố gắng thực hiện những bài tổng thể hướng về cây thuốc đầy đủ tài liệu hầu mong giúp sức những bạn làm khảo cứu muốn đi sâu vào đề tài.
Những bạn đọc thuờng xuyên theo dõi những bài viết của tôi khen tôi viết siêng và viết đa dạng. Một cô bạn thời lết ghế nhà trường hiện định cư ở bên trời Úc cho nhiều đoạn tôi viết rất dễ thương. Hiếm nhận được phản ứng của độc giả như những nhà văn có tiếng, những lời bình phẩm tích cực nầy khuyến khích tôi trên đường viết lách. Có bạn phàn nàn không đọc được tất cả các bài của tôi. Thật vậy, bài đăng khắp nơi, sợ rồi một mai đây những bài viết của tôi tản mác bốn phương, chẳng biết đâu mà tìm. Từ đấy có ý kiến gom góp lại thành sách. Tôi ngần ngại vì đọc một bài ngắn dễ lướt qua, đọc cả một cuốn sách liệu sẽ được phản ứng ra sao? Tục ngữ có câu: Gậy ông đập lại lưng ông! So sánh hơn thiệt, với lại cũng nên để lại một chút gì cho con cháu, bạn bè, tôi quyết định cho in một phần các bài viết. Trong tập Gửi thương về Huế (nguyên văn là Gởi, nhà xuất bản sửa lại Gửi như lối nói người Bắc)nầy, tôi chỉ giới hạn một số bài bút ký có liên quan đến Huế mến yêu của tôi là những bài thổ lộ tâm can mang đậm tình quê hương. Mong độc giả thông cảm và tha thứ những tình cảm có khi bộc trực quá chừng.
Tôi xin cám ơn anh Nguyễn Phú Phong đã chịu khó bỏ thì giờ quí báu đọc lại bản thảo và đề nghị vài sửa đổi, anh Gs Cao Huy Thuần cuối hè nóng bức đã chịu hạ tay viết cho vài dòng giới thiệu nồng hậu, anh Gs Mai Quốc Liên mặc dầu công tác bề bộn đã chịu lảnh phần ấn loát cho cuốn sách nhỏ này ra đời.
Hắc Ký Ni Sơn mùa thu 1986
Xô thành mùa xuân 2006
Võ Quang Yến
Tái bút 2012
Trong cuốn tái bản nầy, các bài được chia thành bốn tập, thêm vào tập năm gồm có những bài phần lớn đăng sau khi cuốn sách xuất bản.
Tập I: Đường về xứ Huế

1 - VỀ THĂM QUÊ CŨ
1986: 37 năm từ Sài Gòn ra đi tưởng không hẹn ngày về. Thế mà rồi tôi cũng lên đường về thăm quê cũ. Thật ra, tôi bị thúc dục mọi bề: Huế mong đợi ông Hội trưởng Hội Người Yêu Huế; anh chị cháu chắt ao ước thấy lại hay làm quen đứa em, ông chú, ông cậu, người "ôn" lâu năm đi học xa, đỗ đạt chi đó rồi thành gia thất, lập cơ nghiệp bên phương trời Tây muôn trùng; hai đứa con trai thì đòi cha đưa về thăm nơi chôn dau cắt rún, nơi hai ông bà nội từ hai bàn tay trắng ra sức làm ăn, xây dựng cơ ngơi để nuôi một bầy con cho thành người. Làm sao chống cự lại được mãnh lực cả một số người đồng hương đang trông chờ, một gia đình đông đúc đang mong ngóng, nhiệt huyết của mấy đứa con "thế hệ thứ hai" sinh trưởng nơi đất khách, chỉ biết quê cha đất tổ qua sách vở, báo chí, dĩa nhạc, băng hình, chứ chính tiếng mẹ đẻ của cha mình cũng chỉ ngập ngừng được vài câu vài lời. Vì vậy tôi nhất quyết lên đường, mặc dầu trong trí óc đầy thắc mắc về những phiền phức, khó khăn mà bạn bè về trước đã kể lại. Nhưng tôi cũng mạnh dạn vì biết không phải về nước hoàn toàn vô danh, những bài viết phổ thông khoa học mấy mươi năm trước thế nào cũng đã có để lại một tiếng vang tích cực. Hơn nữa, với vài ba đề án khoa học, xã hội giúp ích xứ sở trong túi, lẽ nào không được tiếp đón niềm nở.
Thật vậy, xuống sân bay Tân Sơn Nhất là đã thấy ngay cái nồng hậu của người đồng bào, của con cháu trong gia đình. Cuộc tiếp đón nầy chắc chắn là còn vui vẻ hơn nếu trong bước đầu tiên trên đất quê hương không gặp những phiền toái tuy nhỏ và không quan trọng. Mình từ vùng lạnh đến, chưa quen nhiệt độ xứ nóng thì đã phải mồ hôi đầm đìa xếp hàng rất lâu để ra cửa. Vì sao có bốn, năm cái cửa thì chỉ có hai cái mở thôi? Vì sao bà con sống ở Pháp đã học xếp hàng, làm đuôi, về đây lại quên hết, mạnh ai nấy lấn? Sau đó phải qua Hải quan khám xét hành lý, đợi cũng lâu lắm mới đến phiên mình vì người ta kiểm điểm từng vật liệu, tiền nong. Vì sao có lắm người được ưu tiên nhờ một phép lạ nào đó? Vì sao hành khách không được kiểm soát theo thứ tự trình diện trước cửa? Kiểm soát kỹ càng liệu có tìm ra được mọi vụ gian lậu không? Chắc con buôn thì có cách đi của họ hay có ngả khác. Cái lưới tung ra chặn lọc loài kiến tí hon, liệu có bắt giữ được những con voi khổng lồ không? Tôi chưa có thì giờ suy nghĩ về các câu hỏi tràn gập đầu óc thì các anh trong ban liên lạc Huế-Bình Trị Thiên và một cô lộng lẫy trong chiếc áo dài tha thướt, với giọng nói ngọt ngào quen thuộc từ thuở ấu thơ, đã lại chào mừng nghênh tiếp, ân cần trao tặng tôi một đóa hoa tươi. Tôi rất tiếc ở nước ta, vào hồi đó, chưa có tục lệ ôm hôm chào mừng. Ngạc nhiên và biết bao vui sướng. Tôi chưa lại hồn thì họ cho hay: "Anh có gia đình đứng đợi ngoài kia!" Chao ôi, qua cửa kính, hơn ba mươi anh chị, cháu chắt chen lấn trong đám người đang đợi, vươn tay vẫy đón, nỗi vui mừng lộ hẳn trên mặt. Lần lượt bọn cháu chắt làm dấu (vì không nghe được qua cửa kính) giới thiệu từng đứa một vì lúc tôi ra đi, tất cả chúng nó đều chưa sinh ra hoặc còn quá nhỏ. Và phải hơn ba giờ sau tôi mới gặp gỡ được chúng. Tay bắt mặt mừng, hỏi han líu tíu, tôi được tiếp đón quá sức nồng nhiệt như một thần tượng. Trong số người đi đón tôi bùi ngùi không thấy bóng dáng chị ruột tôi, người đã săn sóc nuôi tôi hồi tôi còn nhỏ: chị hằng mong ngóng tôi từ ngày hòa bình trở lại nhưng chị đã mất ít lâu trước khi tôi về! Tôi cũng nhớ tiếc cụ mạ tôi sớm về cỏi Tiên trước lúc tôi lên đường, vượt trùng dương đi tìm miền đất lạ!
Từ Thành phố Hồ Chí Minh, tôi đã thuê một chiếc xe du lịch cùng hai đứa con và bầy cháu hai mươi sáu mạng chạy ba ngày ra đến Huế. Cuộc hành trình dọc theo xứ sở nầy là một dịp để học lại địa dư miền Nam Trung Việt : Phan Rí nằm đâu so với Phan Rang, Tuy Hòa nằm phía nam hay phía bắc Quy Nhơn? Mặc dầu có những đoạn đường đang sửa chữa, cầu gãy xe phải chạy xuống lòng sông, đường tương đối cũng tốt. Thỉnh thoảng lại được dừng xe tắm biển, ăn vặt. Nước ta sao có lắm trái ngon, vật lạ: chôm chôm Long Khánh, mít tố nữ, nho Phan Rang, thanh long Nha Trang, dừa Qui Nhơn, mía Quảng Ngãi, chưa kể măng cụt, nhãn, xoài, mạch nha, đường phổi,...
Qua Phan Rang phải ghé ngang Tháp Chàm. Quần thể Pô Klong Garai dựng đứng trên Đồi Trầu là nơi thờ vua Pô Romê, có bà vợ thứ ba là công chúa Ngọc Khoa. Đi suốt miền Trung, ngay trên quốc lộ, từ Nha Trang ra Đà Nẵng còn nhiều Tháp Chàm khác: Pô Nagar-Tháp Bà, Bánh Ít-Tháp Bạc, Hưng Thạnh-Tháp Đôi,... biết bao di tích nhắc nhở nàng công chúa Huyền Trân đời Trần đã chịu xa nhà, xa nước để Đại Việt nhận được sính lễ là hai châu Ô Lý từ thuở vua Chế Mân. Những điệu nam ai, nam bằng não nùng ai oán sau nầy nghe ở Huế gợi biết lại bao nhớ nhung, thương tiếc. Xe vượt Tuy Hoà, Qui Nhơn rồi Quảng Ngãi, Quảng Nam, tiến về Hội An, xông qua Vĩnh Điện. Tôi nhắc lại thành phố nhỏ xíu nầy vì hồi trước tôi đã học ba năm tiểu học ở đây. Xe chạy chậm lại nhưng ngoài cái cầu chứng kiến bao nhiêu nước mắt tuổi nhỏ, tôi chẳng còn nhận ra được một ngôi nhà nào: hơn 40 năm qua và hai cuộc chiền tranh! Chùa Non Nước vẫn đẹp như xưa. Nhưng xe đến quá chậm, chiều mau tàn và khách chỉ còn có trèo lên đỉnh cao nhìn trời, ngắm biển. Ngủ một đêm ở Đà Nẵng rồi sớm hôm sau chúng tôi trèo đèo Hải Vân. Chiếc xe du lịch trục trặc từ lâu, vừa đến chân đèo là máy hỏng hoàn toàn. Thế là một đứa cháu phải trở về Đà Nẳng thuê một xe khác. Mặc dầu lúc nhỏ tôi đã đi nhiều lần khúc đường Huế-Đà Nẵng, đây là lần đầu tiên tôi vượt đèo bằng xe hơi. Đường quanh co và phong cảnh thật hữu tình. Ở mỗi khuỷu đường là một bức tranh mới. Trên trời mây chập chờn cho xứng tên. Dưới chân núi, bãi cát chạy dài, trắng xóa dọc theo nước biển xanh đậm, không một bóng người. Làm sao không nghĩ tới được những bãi biển Hy Lạp, Nam Tư, Ai Cập, Tây Ban Nha,... khách nghỉ hè tấp nập, đông đúc. Xe chạy ngoằn ngoèo xuống đến Lăng Cô. Không còn sò huyết như tôi mong đợi, chỉ có tôm cua ăn cũng đã đời. Và giọng nói đã rời hẳn miệt Đà Nẵng để hướng về phía Huế. Thật ra, từ Nam chạy ra, và nhất là từ Pháp bay về, đến Lăng Cô có thể coi như là đã đến Huế.
Bụi tre, thửa ruộng, con trâu có thể không khác chi mấy ở trong Nam, nhưng đối với tôi đây là quê hương. Còn nhớ hồi nhỏ học trong cuốn sách Tập đọc có bài kể chuyện người đi du lịch khắp nơi, khi về được hỏi nơi nào đẹp hơn cả thì trả lời... Mình chủ quan đến thế ư? Hay là mình quá "yêu Huế một cách lãng mạn", quá trìu mến cái xứ Huế lâu năm xa cách nầy mà tâm tình bộc lộ quá chừng. Năm ngoái, trong một lá thư gởi về Huế, tôi tâm sự có lẽ hơi nhiều, một vài câu trong thơ đó được chuyển lại Paris, ngay sau đó một bà bạn đã gọi giây nói đến: "Chi mà viết Kim Sanh dữ rứa hè!" Xe chạy còn xa, chưa nhận ra chỗ mà đã thấy bảng vào thành phố Huế. Không mấy chốc xe đến Ngoẹo Dàng Xay, rồi cầu An Cựu. Sông An Cựu, nắng đục mưa trong, còn nhỏ như hồi nào. Chợ An Cựu thấy vẫn chật hẹp và đông đúc. Tôi biết chợ nầy nhiều vì trước khi rời Huế đã ở nhà anh tôi đường Bờ sông An Cựu nay đổi ra đường Phan Châu Trinh. Mấy hôm sau có dịp đi bách bộ lại trước ngôi nhà xưa, thấy có vẻ tiêu điều, mấy cây dừa đã bị đốn gần hết, cái vườn trước nhà không còn nữa, người ta đã dựng vào đó hai cái nhà khác. Đi qua nhà cũ mà lòng hơi tủi vì chẳng có ai đó để đón chào mình; láng giềng đã lẩn tránh nơi xa hay cũng có thể đã thành người thiên cổ! Đã 38 năm rồi, ai ở đây mà còn biết mình nữa? Hai chàng Lưu Nguyễn ngày xưa rời làng có ba ngày mà đã bị lãng quên huống là ... Cánh đồng An Cựu vẫn còn đó, cái "bót cò" nay thành trụ sở công an. Nhà Thiên Hựu nổi bật hơn trước vì vườn tược cây cối ít còn. Tôi nhớ hồi làm đội sinh rồi đội trưởng đội "Hùng sư dũng mãnh" đoàn Hướng đạo Lê Lai, đây là nơi dụng võ, tìm đường kín, học truyền tin, sử dụng nút,... Nhưng chưa kịp ôn lại quá khứ tìm về dĩ vãng thì cầu Trường Tiền đã hiện ra trước mắt, tuy gãy một vài, vẫn giữ phong cách ngày xưa. Sông Hương luôn còn gợn sóng, nước chảy đều đều. Thú quá! Trong mấy năm qua đã bao lần nhìn nước sông Seine mà hồi tưởng đến quê nhà. Giờ đây, Hương Giang lẫn lờ như cô gái Huế. Âu yếm nhìn tôi, hai đứa con kéo tôi ra khỏi chốn trầm tư: "Sao, cảm tưởng đầu tiên của ba là thế nào?" Mắt ướm lệ, tôi chỉ biết mỉm cười.
Đường Lê Lợi rồi khách sạn Hương Giang. Tôi được mời ở nhà khách thành phố nhưng còn vài ngày nữa chung sống với gia đình, tôi không nỡ bỏ rời bọn cháu. Ba ngày thăm viếng bà con, mồ mả rồi cung thành, lăng tẩm. Tôi cũng có đem hai con và các cháu về trên bờ sông Ô Lâu, ở cái thôn Mỹ Cang nhỏ xíu, nay thuộc xã Phong Hoà, thăm nơi tôi đã sống thời niên thiếu. Đây là làng mẹ (tôi nguyên quán làng Nam Phổ, nơi mà con gái ở lỗ trèo cau đó) nhưng tôi đã sinh trưởng ở đây, sống những ngày thơ ngây ấu trĩ và sau đó là những ngày cách mạng chớm nở, những buổi cướp chính quyền sôi nổi tưng bừng. Rồi suốt trong hai năm liền, những buổi tập tự vệ náo nhiệt, những hôm tuyên truyền hào hứng, những đêm họp thiếu niên vui tươi... đã để lại trong ký ức tôi biết bao kỷ niệm sống động, êm đềm. Tôi còn nhớ mãi những tối truyền bá quốc ngữ, những mái tóc bạc cặm cụi trên cái bảng gỗ, dưới ánh đèn dầu leo lét; những buổi học hát, tiếng cười dòn của các cô thôn nữ hồn nhiên; những đêm trăng sáng cùng bầy trẻ nô đùa, học tập "chúng ta hôm nay hiệp vầy, cùng nhau nắm tay...", các em còn nhớ không? Rồi cũng đến hôm khai giảng, tôi phải từ biệt làng xóm vô Huế học, cả đoàn thiếu niên tự động lên ga Mỹ Chánh tiễn đưa, sụt sùi nước mắt như biệt từ anh Giải Phóng Quân lên đường ra trận. Sau đó là những ngày khói lửa của một cuộc trường kỳ kháng chiến. Sơ tán rồi mỗi người một ngả. Cả bầy thiếu niên tôi chỉ gặp lại được một ít vì nhiều em đã hy sinh trong hai cuộc chiến tương tàn. Tôi giật mình nghe giới thiệu: "Anh còn nhớ o Sớm không?": tôi còn tìm đôi má ửng hồng của tuổi mười hai! Thế mới thấy sức tàn phá của thời gian nhất là trên phụ nữ miền quê thật là mãnh liệt. Bến Đình còn đó nhưng tôi tìm mãi không ra cây đa đầu làng, bên cạnh chợ cũ, nơi mấy anh em núp bắn cu xanh với cái ná cao su giản dị, và cũng là nơi đã diễn ra những trận đá banh hào hứng trong suốt mấy tháng nghỉ hè. Những trận lụt vừa qua nghe nói cũng đã tàn hại rất nhiều.
Huế bị đổ vỡ khá lớn. Đi một vòng thành nội hay các lăng tẩm thì thấy rõ. Mà ngay ở thành phố cũng còn nhiều vết tích điêu tàn. Công viên trước hai trường Quốc Học (Khải Định cũ) và Hai Bà Trưng (Đồng Khánh cũ) tiêu điều vì thời gian và sau cơn bão số tám năm ngoái. Chỉ còn đài Trận vong chiến sĩ là còn đứng vững. Những cột dàn hoa bây giờ trơ trụi như ở một di tích cổ Hy Lạp không hồn. Bông hoa đây đó chỉ còn vài cây, vết tích của một thời xưa lộng lẫy. Tôi tìm mãi mới thấy được một cây phượng vĩ có ít hoa đỏ thắm. Có lẽ mùa thi đã qua hay vì hết còn hoa phượng, ve sầu cũng im hơi lặng tiếng. Tôi nghe nói đã lâu, bây giờ mới thấy cầu Phú Xuân bắc qua sông Hương, trước trụ sở Ủy ban nhân dân tức là Thừa Phủ lúc trước. Cầu rộng, xe chạy được nhiều, nhưng không có phong cách của cầu Trường Tiền. Đằng khác, nhìn từ cầu Trường Tiền (rét rỉ, cần phải sơn lại) ngó lên Bạch Hổ, sông Hương bị cách đoạn, làm mất một hình ảnh mỹ miều của chốn cố đô.
Tôi may mắn được các bạn chở xe máy cho đi viếng các chùa chiền lân cận: Từ Hiếu, Tây Thiên, Trúc Lâm, Bảo Quốc... Cổ kính như xưa, các chùa tương đối ít bị chiến tranh và bão lụt tàn phá. Từ một chốn náo nhiệt như thành phố Paris về đây, thật là những nơi thâm u tĩnh mịch, tiếng vọng lên chỉ là lời kinh, mõ gõ hay là tiếng chim kêu ríu rít trong rừng. Tôi nhớ lại hồi trước cắm trại gần đây, chắc đã ồn ào phiền nhiễu các nhà sư khá nhiều. Cái chùa đập vào trí óc tôi nhất là chùa Huyền Không. Chùa nầy không nằm bên phía Nam Giao như các chùa khác mà phải ngược dòng sông Hương, lên quá Thiên Mụ rồi còn phải đi nữa mới đến nơi. Chúng tôi viếng được một cái vườn đơn sơ, mộc mạc mà kiến trúc mỹ miều biết bao. Ao sen nhỏ, chiếc cầu tre, túp lều tranh,... mới tạo, mỗi chi tiết tỏ ra một suy nghĩ lâu dài. Khắp nơi, những bài thơ nhỏ gài lên cây, lên lá, lên phên nhà,... nói lên tư duy của các nhà sư, nhất là của người sáng lập, hôm ấy vắng mặt, sau này tôi mới được biết là thầy Giới Đức. Huế cũng còn đẹp ở các cảnh thiên nhiên.
Ai đã được đi chơi đồi thông Thiên An lấp lánh dưới ánh nắng chiều, sau trận mưa rào, chắc cũng phải ngây ngất như tôi trước núi rừng bát ngát. Xa xa túp lều tranh yên tĩnh thả khói nhẹ vươn lên nền trời gợn mây dìu dịu. Gần hơn, một thiếu nữ nhẹ nhàng tiến bước, tà áo dài tung lên trước gió lộng: một hình ảnh giữ lại tất cả tình cảm của khách dạo rừng. Tôi bỗng thông cảm anh chàng băng rừng vượt núi về tìm cưới cho được một người vợ Huế.
Tôi chẳng có được nhiều thì giờ để mơ mộng. Thành phố Huế đợi tôi, trách móc về mấy ngày rồi mà chưa chính thức bắt tay vào việc. Người Huế mình sao câu nệ quá: gặp ông nầy ông kia phải theo một thứ tự trên dưới! Thời buổi khoa học, thì giờ lại hiếm hoi, vì sao phải mất công với những điều không cần thiết? Dù sao, tôi đã được viếng xí nghiệp Hương Giang làm bút bi, đi thăm tòa soạn Sông Hương. Ông bạn Lê Trọng Sâm, ngưòi bạn hồi nhỏ ở làng Phước Tích kế cạnh, cũng lại thăm với ông giám đốc nhà xuất bản Thuận Hóa với một gói sách dày mà các anh đã in. Tôi cũng được gặp nhiều anh họa sĩ như Bửu Chỉ, Phạm Đăng Trí... trong một khu vườn tuyệt đẹp của xứ Huế: vườn An Hiên của bà Lan Hữu. Sau này anh Phạm Đăng Trí còn có cho coi tranh ở nhà riêng. Tranh đẹp đã đành rồi mà suy tư của anh còn vương nặng tình cảm Huế. Ban ca nhạc cổ truyền Huế do ông hội trưởng Tôn Thất Toàn dẫn đầu thì tổ chức cho chúng tôi một đêm trình diễn. Tôi thích nhạc Huế, bấy lâu chỉ nghe được qua băng máy, bây giờ được thưởng thức nhạc sống thật là linh động, mê hồn. Giọng ca của các cô Vân Sinh, Thanh Tâm, Minh Mẫn... về ca Huế nay chắc không có giọng nào sánh bằng. Tuy nhiên, nếu nhạc Huế trình diễn trong phòng có cái ấm cúng thân mật, nghe nhạc nầy trên sông Hương, một đêm trăng tỏ, bên nước vỗ nhẹ vào mạng thuyền, thì lại là một hứng thú khác. Thật chăng phải có một tâm hồn rất Huế mới biết thưởng thức những thú vị tế nhị nấy. Sau nầy, tôi rất cảm động khi nghe bảo tuy xa Huế đã lâu tôi vẫn còn giữ nguyên cái giọng Huế thuần túy, không hề lai Nam, lai Bắc, lai Tây. Một lần khác, tôi đuợc khen còn biết ngồi xếp bàn ăn cơm trên chiếu trải dưới đất... Những lời khen chân thành và vô tư nầy đã chứng minh cho tôi là văn hóa phương Tây dù lâu năm vẫn không lột bỏ được bản chất đã ấp ủ vững bền từ thuở nhỏ và khắc sâu trong lòng mình.
Phải chăng vì cái tâm hồn Huế còn tồn tại mãnh liệt trong lòng mà tôi cũng rất thích đồ ăn Huế. Tôi thật may mắn vì từ Paris các bà trong Hội Người Yêu Huế nấu ăn đã giỏi, về thành phố Hồ Chí Minh gặp mấy đứa cháu gái nấu ăn cũng tuyệt vời, sau đó đến Huế, nơi nguồn cội, thì hết còn đòi hỏi gì thêm. Chỉ có một món rau muống chấm mắm nêm mà cũng phải đợi mấy chục năm mới lại được hưởng cái hương vị thanh tao, đậm đà hơn cả mấy cái pho-mat Camembert hay Roquefort của Pháp. Cá trê kho nghệ, mới ngửi qua mùi đã thấy ngon lành, cary Ấn Độ hay tagin Ma Rôc làm sao sánh bằng. Về Huế ăn ngon thì cũng phải làm việc nhiều. Là dân khoa học, tôi được dẫn đi thăm trường Đại học Tổng hợp, Trung tâm Kỹ thuật Tổng hợp Hướng nghiệp, Bệnh viện Trung ương, Bệnh viện Thành phố. Nhận xét rõ ràng nhất là mình thiếu quá nhiều vật liệu, máy móc, phụ tùng, thuốc men... Một việc giản dị như chiết xuất agar từ rau câu chỉ vàng trồng vớt từ các đầm phá Bình Trị Thiên cũng cần phải dụng cụ tối thiểu mới mong đạt được một mức sản xuất đáng kể. Đằng khác kỹ thuật mình còn kém quá. Tôi hy vọng những cơ quan khảo cứu ở Huế sớm bắt tay nhau làm việc chung thì kết quả mới khả quan hơn. Và trong điều kiện ấy, từ Pháp chúng tôi mới tiếp sức được dễ dàng. Rồi đây, nếu dự án thực hiện được, sẽ có thực tập sinh ta qua Pháp học thêm, những chuyên viên Pháp về Huế hướng dẫn. Vì ngoài đề tài trồng rau câu, chiết xuất agar, còn có vấn đề phát triển đầm phá, nuôi tôm nuôi cá. Các nhà lãnh đạo, ở Huế cũng như ở Hà Nội, đã nhận định sử dụng một cách khoa học tài nguyên đất nước là một việc vô cùng quan trọng cho tương lai đất nước thì ta phải ra công thực hiện những dự án đã phác họa mới mong góp phần đắc lực vào công tác phát triển kinh tế nước nhà.
Các dự án nầy cũng như hoạt động của Hội Người Yêu Huế, tôi đã có dịp trình bày trong cuộc hội thảo kỷ niệm Hội trường Quốc Học 90 năm. Rất nhiều bạn bè từ khắp các miền đất Việt Nam đã về Huế gặp mặt. Đây là một dịp để thầy trò, bạn cũ tụ họp nhau sau bốn mươi năm xa cách, từ hồi kháng chiến bắt đầu. Anh chị em mỗi người một ngả, con đường đi mỗi người chọn một nơi, bây giờ đứng trước nhau, bắt tay nhau, tình thân ái xưa kia không những còn giữ mà lại có phần quý nhau hơn. Môt anh bạn đại tá bảo tôi phận sự dành độc lập cho Tổ quốc của quân nhân đã xong, bây giờ đến lượt các nhà khoa học kỹ thuật, những chuyên viên kinh tế phải ra tay xây dựng kiến thiết đất nước, như vậy nhiều người chọn những con đường khác nhau sẽ bổ túc cho nhau. Cảm động nhất là hôm một số anh em tổ chức đi thăm một anh bạn học cũ ở ngoài Triều Sơn Tây không về dự Hội trường Quốc Học. Trời hôm ấy mưa dầm dề, may nhờ mượn đưọc một chiếc xe quân đội. Từ xa, tôi đã nhận ra đươc anh ta, tóc bạc răng sún vì đã trải qua biết bao cực khổ trong những năm tranh đấu. Mặc dầu nhiều năm xa cách, anh ta cũng nhận ra tôi ngay, vừa cười lớn, vừa tiến lại ôm choàng tôi, hai tay vỗ mạnh vào vai tôi tưởng như bầm tím sau kỳ hội ngộ đó. Đôi mắt ngấn lệ, bọn tôi nhìn nhau bật cười thỏa mãn. Sau đó cả bọn bạn cũ, văn sĩ, thi sĩ, họa sĩ, sĩ quan, kỹ sư, giáo sư... quây quần với nhau dưới mái hiên nhà và được chị bạn cho ăn nào bánh bèo, nào chè đậu quyên. Thì ra anh chị đã sửa soạn đón chúng tôi từ trước, hú vía, nếu không đến được thì họ sẽ thất vọng đến mức nào! Sau nầy anh bạn cho biết từ trong khu đã theo dõi sinh hoạt của tôi qua các tờ Đại Học, Bách Khoa, Phổ Thông nhưng không biết khuynh hướng của tôi ngả về phía nào. Vừa rồi đọc Sông Hương thấy tên tôi ghép liền với Hội Người Yêu Huế mới hí hửng mừng thầm. Mấy ai được sống những phút chờ đợi bạn cũ hào hứng như vậy.
Năm tuần sống động ở quê hương, nhiều ngày đầm ấm với gia đình, một buổi chiều rạo rực trong ánh nắng vàng, một tối dạo chơi nghe đàn hát trên sông Hương,... biết bao kỷ niệm đã cắt đứt một mảnh tim tôi giữ lại nơi quê nhà. Vào những hôm đi thuyền gông-đôn trên các kênh Venitia trong đêm tối, những chiều chạy ghe phơ-lut ngược dòng sông Nil vào lúc mặt trời sắp lặn, tôi không sao không khỏi so sánh với cuộc đi dạo trên sông Hương. Giờ đây, những đêm trăng sáng, chắc lại phải mò về xóm La Tinh, nhìn nước sông Seine chảy để mơ về Hương Giang bên kia chân trời.
Hắc Ký Ni Sơn tháng 9.1986
Sông Hương 24 1987

2- VỀ LÀM DÂU HUẾ
Hơn 30 năm chung sống, nhà tôi đã được tôi kể cho nghe nhiều về cảnh đẹp, người hiền của nước Việt Nam ta, về những buổi nghe hát trên sông Hương một tối trăng tỏ, những buổi tắm đêm giữa sông Ô Lâu ngoài thôn Mỹ Cang, những mùa thi cử phượng đỏ rực trời, ve kêu rầu rĩ... Quê hương tôi nghe kể sao vui tươi đẹp đẽ lại đầy dẫy cảm tình nên nàng cứ náo nức mãi. Năm nay, không dằn lòng được, tôi chịu đem nàng và mụn gái út thăm làng xưa xóm cũ của tôi cũng như nàng đã từng đưa tôi về viếng vùng Morvan hẻo lánh của nàng, quanh năm mưa lạnh nhưng kỷ niềm tràn trề. Vả lại hai năm trước đây, hai đứa con trai đã theo tôi về thăm quê cha đất tổ.
Tôi về trước nên khi nhà tôi và con gái đến sân bay Tân Sơn Nhất thì đã có tôi và bầy cháu chắt lại đón. Tôi đã giải thích về Hải quan phức tạp nên cả hai mẹ con đều chờ đợi những thủ tục phiền toái. Không ai dè không đầy một giờ sau khi máy bay hạ cánh, bập bẹ mấy câu tiếng Việt vừa học "Tôi hiểu được chút ít chứ chưa nói thạo" nàng đưa con ra khỏi cửa dễ dàng như ở một phi trường châu Âu, trước những con mắt tháng phục của bà con đi đón. Có lẽ mái tóc vàng của nàng thêm vào một bộ mặt bỡ ngỡ đã gây cảm tình và thuyết phục anh hải quan dễ dãi cho nàng.
Tôi đã từng kể cho nhà tôi nghe về đại gia đình ở nước ta, bây giờ nàng mới thực sự chứng kiến cái đông đúc của các anh chị em và bầy cháu chắt. Nào thím, nào mợ, nào cô, nào bà, các câu chào tới tấp, các bó hoa trao tay, làm sao phân biệt được ai là bạn bè Hội đồng hương Huế, ai là thân nhân ruột thịt hớn hở mặt mày. May là tôi đã chuẩn bị soạn trước một danh sách gia đình loại cây gia phả để nhà tôi và con gái lanh chóng kiểm nhận được vị trí của mỗi người. Lần đầu tiên gia đình tôi tiếp đón một cô dâu Pháp, một đứa cháu gái lai, nên ai cũng tò mò muốn nhìn tận mắt, rờ tận tay, vì từ lâu ai cũng náo nức muốn gặp mà chỉ nghe mô tả qua thư từ hay ngắm nhìn trong hình ảnh. Mặc dầu đã nghe nói trước, ai cũng ngạc nhiên nhìn hai người sinh sống bên trời Âu cầm đũa thành thạo và gọi đích danh các món ăn bằng tiếng Việt, phản ứng gần như một người ở quê nhà.
Về đến nhà cô cháu, đến lượt nhà tôi và con gái tiếp xúc với thực tại tiện nghi. Nhà không có phòng riêng, cửa sổ thì mở ra ngoài hành lang có người qua lại. Bếp núc, bể rửa đặt ngay dưới đất, khi nấu ăn hay rửa chén đọi phải lum khum hay ngồi chỏ hỏ. Nước khi có khi không, nhiều khi có thì áp lực lại quá yếu để nước phun ra khỏi vòi, phải lấy gáo múc từ lu ra,... May mà cô cháu mượn được tấm nệm không thì khổ cho cái lưng, ít cho nhà tôi mà nhiều cho tôi, lâu ngay quên nằm giường tre, phản gỗ. Lần đầu tiên nằm trong mùng một đêm trời nóng thấy ngột ngạt nhưng bị muỗi cắn còn khó chịu hơn. Cũng may nhà mát mẻ, thoáng khí nên dù không có máy điều hòa, quạt điện cũng chịu đựng được. Thấy ra tuy tiện nghi sơ sài, rút cuộc cũng đầy đủ: tôi nghĩ đến đề nghị của ai đó cho phép tư nhân đón tiếp du khách tại nhà như ở các nước Âu Mỹ, rất cần thiết hiện nay vào lúc hệ thống khách sạn chưa hoàn hảo mà mong ước mở mang du lịch lại lớn.
Sau một hôm nghỉ sức, làm thủ tục nhập cảnh và được chở xe Honda đi dạo quanh thành phố (một phương tiện di chuyển rất tiện lợi, vừa lanh chóng, vừa mát mẻ, thoáng khí lại mặc sức xem xét xung quanh), nhà tôi và con gái theo tôi cùng bầy cháu chắt thuê xe ô tô ra Huế. Như đã thấy hai năm trước, đường sá trong Nam tương đối tốt, càng ra ngoài Bắc càng xấu hơn. Đoạn đường quanh Phan Rang là tệ nhất. Có khi cầu sửa, xe phải chạy xuống lòng sông, may mà về hè nên sông khô cạn. Nhiều khúc đường biến thành công trường nhưng như tuồng tốc độ hư hỏng lớn hơn tốc độ sửa chữa nên cứ sợ với đà nầy vài năm nữa đường vẫn còn xấu. So với hai năm trước, năm nay đường xấu hơn nhiều. Cần ra Huế gấp cho kịp công tác nên chạy hai ngày xe đã đến nơi.
Từ hai năm nay, Huế chẳng có chi thay đổi: cầu Trường Tiền vẫn còn gãy một vài, nhà khách Hương Giang 2 không cao lên mấy chút, xe xích lô vẫn thiếu nệm, xe thồ chạy kêu khách như xưa. Chỉ có giá cả đồng tiền là thay đổi, cũng như mọi nơi trong nước. Và cũng vì chuyện đồng mới đồng cũ mà tôi bị hớ một lần. Hôm ấy muốn đi xe thồ từ khách sạn Hương Giang lên bệnh viện, anh đạp xe đòi tôi 10 đồng. Thấy rẻ quá, khi xuống xe, tôi trả anh ta 50 đồng. Anh ta mỉm cười cám ơn. Sau nầy người ta giải thích cho tôi nhưng đã chậm mất rồi, 10 đồng anh ta đòi là 100 đồng đó. Thì ra anh đạp xe, có lẽ là một nhà trí thức thiếu thốn, vẫn còn giữ phong cách người dân Huế xưa. Giờ đây tôi chỉ biết xin lỗi anh trên trang giấy nầy. Sau nầy, ở trong Nam thì không như vậy. Nhà tôi thường được xem là bà Liên Xô mà ở Huế thì không khi nào bị lôi thôi với chuyện trả tiền xe xích lô. Ở thành phố Hồ Chí Minh, khi thấy tôi là Việt kiều và nhà tôi là người ngoại quốc thì anh phu xe nhân đôi giá tiền lúc xuống xe nếu không là nhân ba, nhân năm so với giá đã mặc cả!
Để tránh, hay nói đúng hơn để thu nhỏ thất vọng, tôi thường giảng cho nhà tôi rất tiêu cực về điều kiện sinh sống làm ăn ở Việt Nam nói chung, ở Huế nói riêng. Nhưng chúng tôi là khách, có khi là khách quý, nên nhà tôi khó lòng nhận định được thiếu thốn của dân ta. Chỉ khi đi ăn tối nhà bạn, thấy bị cắt điện, có nhiều xóm gần như thường xuyên mỗi tối, mới biết là có vấn đề. Không biết vì ăn dưới ánh đèn dầu hay đèn sáp nên rất ngon hơn hay chính các bà bạn nấu ăn giỏi quá. Chúng tôi được nếm cá đủ loại, nấu đủ mọi cách, đủ các món chè, đặc biệt món chè bột lọc bọc thịt quay, lâu ngày quá quên mất mùi vị, và một món chè ít thấy nhưng khẩu vị thật đặc biệt : chè thưng! Nhà tôi còn nhớ mãi chuyện đi xe xích lô. Nàng vừa lo sợ vừa thán phục anh phu xe. Một hôm chúng tôi được chở đi An Cựu ban đêm, đường sá không đèn, xích lô cũng không có mà xe cộ đi lại thật lại đông đúc. Anh phu xe vừa đạp thật lanh vừa rung lục lạc, dùng tai thế mắt, chỉ nghe thôi mà không vấp váp đụng chạm gì hết. Ở Việt Nam, đi qua đường thường cứ thong thả tiến bước, xe cộ tự động tránh người đi bộ, lưỡng lự là dễ bị tông. Mỗi lần đi xe thồ, xích lô cũng như khi đi bộ dọc đường, nhất là ở trong Nam, bạn bè khuyên nên để ý hành lý, xắc tay để khỏi bị mất cắp. Chúng tôi chưa từng thấy giữa đường có ai bị giật bóp, rút kẹp. Chỉ có một lần ở Đà Lạt, chắc có người quá thương muốn giữ tôi lại nên rọc bị mượn mất cái thẻ hộ chiếu của tôi, mãi khi gần rời nước mới trả lại, làm tôi mất không biết thời giờ khai báo và gần suốt thời gian ở Việt Nam tôi đi lại chỉ với một tờ khai mất giấy.
Về Huế, tôi tranh thủ đưa nhà tôi, con gái và cháu chắt đi xem Đại Nội, lăng tẩm, chùa chiền, đi đò ngược dòng sông Hương hay nghe hát trên sông. Lần này, dùng dằng ở Tử cấm thành, lủi qua đám cỏ bao phủ nền gạch rêu xanh, tôi không khỏi ngậm ngùi nghĩ đến quá khứ lộng lẫy của chốn vương triều. Ngoài các lăng gần thành phố dễ đi như các lăng Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, Khải Định, năm nay chúng tôi được dẫn đi viếng lăng Gia Long. Trời nắng nóng mà chỉ có thể đi bộ đến thì cũng có phần mệt, nhưng đây là một cố gắng đáng làm. Chỉ có hơn 160 năm mà mồ mả điêu tàn, nhà thờ đổ vỡ. Tuy vậy, lên đây nhìn phong cảnh quanh lăng, rừng núi hoang vu mới cảm thấy cái hùng vĩ của đất nước. Tôi cũng có dịp trở lại thăm chùa Từ Hiếu cổ kính, được mấy thầy cho ăn mấy trái khế ngọt lịm vừa mới hái ngay trong sân chùa trên cây đã sống qua một thế kỷ. Tại chùa Đông Thuyền thì chúng tôi được sư bà Diệu Không mời dùng cơm chay: nghệ thuật nấu nướng ở Huế, nhất là cách nấu đồ lạt, thật là tinh vi. Đặc biệt tôi được dự kiến sư ông Trúc Lâm biểu diễn đánh trống ở chùa Vạn Phước: người lớn tuổi như ông mà sao thấy còn dẻo dang quá sức. Tôi không thể không đưa gia đình lên viếng lại chùa Huyền Không đã có dịp chiêm ngưỡng hai năm trước. Lần nầy, chúng tôi may mắn được thấy Giới Đức mời dùng trà và dẫn đi xem phong lan, cây kiểng. Trên vách tường vẫn còn treo la liệt những bài thơ viết họa như các bức tranh, chứng tỏ cảm tưởng đầu tiên của tôi là đúng: các thầy đã có tâm hồn rất thi sĩ mới trang trí được một vườn chùa tao nhã như vậy. Rời chùa ra về mà lòng tôi còn vấn vương, không biết trong đời mình biết bao giờ mới được rảnh rang để đi vãn cảnh chùa, ngắm hoa phong lan và ngồi đàm đạo với các vị chân tu. Lần nầy tôi vẫn còn xúc động khi nghe ca Huế trên sông, có khi dưới trăng tỏ, có khi giữa trời tối đen. Nhà tôi thì chưa chắc đã biết thưởng thức đúng mức các bản nam ai, nam bình dù mấy điệu hò phần nào dường như đã chinh phục được nàng vì có lúc nàng tỏ ra cảm động, nắm chặt tay tôi như để thầm bảo nàng thông cảm tôi và muốn cùng tôi rung động trong giây phút tao nhã ấy.
Tất cả cháu chắt đều theo vợ chồng tôi về thăm làng Mỹ Cang trên bờ sông Ô Lâu gần Quảng Trị. Tôi dẫn cả gia đình đi xem chỗ nhà cũ của cụ mạ tôi, bây giờ chỉ còn dấu vết một cái nền nhà giữa vườn sắn sum sê. Cạnh nhà, bàn thờ Nghĩa trủng còn nguyên vẹn trong lúc đình chùa xung quanh đều bị khói lửa phá hủy tan hoang. Tôi còn nhớ năm 1947, vào lúc quân Pháp hăm he đổ bộ vào miền Trung, trong đêm Lửa thiêng mồng 1 tháng 5, bao nhiêu miếu đình địch quân có thể dùng làm doanh trại đều bị đốt cháy, cả vùng rực lửa và tiếng nổ lách tách không ngớt suốt đêm. Bến Đình quen thuộc cả một thời thơ ấu vẫn còn đấy nhưng cây đa che bóng chợ cũ thì bị gãy từ lâu. Bà con bên ngoại và người quen thuộc nghe tin chúng tôi về đã tụ lại gặp gỡ đông đúc, và quanh nồi sắn, rổ khoai, chúng tôi đã ôn lại những kỷ niệm xa xưa của một thời không còn nữa. Dĩ vãng vui tươi, đầm ấm, chắc nhà tôi cũng cảm thấy tuy không còn phim bóng, băng thanh thời trước, bao nhiêu hình ảnh đẹp đẽ hầu như lạt phai dần như dòng nước sông Ô Lâu thong thả chảy ra tan hòa vào Biển Đông.
Nhà tôi theo tôi về Huế không phải chỉ để thăm gia đình, viếng mồ mả, làm quen với bạn bè của tôi. Nàng hy vọng về làm dâu Huế với tất cả nhiệt tình của một nhà giáo yêu nghề. Trường Đại học Tổng hợp cần tăng cường dự án nuôi trồng rau câu, chiết xuất agar? Nàng cùng tôi tiếp sức anh Daniel Christiaen, giám đốc hảng Pronatec, làm việc với các cơ quan đại học và xí nghiệp hầu mong đi đến một thỏa hiệp hợp tác giữa Huế và Lille trong ngành khảo cứu cũng như bên phía sản xuất. Khoa Hóa có yêu cầu muốn biết về các phương pháp mới trong môn hóa học hữu cơ: một buổi nói chuyện đã được tổ chức ngay với các giáo viên, giáo sư đại học và cao đẳng sư phạm. Hội Pháp Ngữ mong muốn phát triển trong tương lai ? Sau nhiều buổi tiếp xúc, bàn cãi, nàng nhận lời thay mặt Hội tiếp xúc với các cơ quan Pháp có thẩm quyền. Ngày nay mấy ai biết chúng tôi đã khởi đầu công tác thành lập Alliance Française ở Việt Nam ngay từ Paris? Những hoạt động khác biệt nầy thật ra nằm trong một phạm vi: là giảng sư đại học và khảo cứu viên khoa học, nàng chỉ muốn đem kiến thức của mình phục vụ quê chồng. Sau này ở thành phố Hồ Chí Minh, nàng còn nói chuyện, thuyết minh ở trường Đại học Tổng hợp, Viện Khoa học, không những về hóa học mà còn về các phương pháp giáo huấn, cách tổ chức ở các trường kỹ sư hóa học ở Pháp. Ở đâu, nàng cũng nhận thấy một thế hệ thanh niên tò mò, hiếu học và đấy là điểm hết sức tích cực trong một bầu không khí không được phấn khởi lắm hiện nay ở nước ta: nhiều bạn giáo viên, nhất là ở cấp trung học, đã than phiền học sinh không chịu học hành nữa vì không thấy ngõ ra của nhà trường, không thấy một tương lai nếu không sáng lạng thì ít nhất cũng đúng mức dành cho kẻ cặm cụi dùi mài. Đây là một vấn đề quan trọng, to lớn, dính dấp đến nhiều lĩnh vực chính trị, xã hội, kinh tế,... mà các nhà lãnh đạo phải kiếm cách giải quyết gấp rút.
Trên máy bay về Pháp, lẽ tất nhiên chúng tôi chỉ nói chuyện về Việt Nam, về Huế, chuyện gia đình, công tác, chuyện các dự án đã bắt đầu, các tiến triển trong tương lai, và chúng tôi mừng thầm nhận thấy trước tình thế khó khăn về kinh tế của đất nước đã bắt đầu xuất hiện những dấu hiệu lạc quan. Riêng phần tôi không tiếc đã đưa vợ về thăm xóm xưa làng cũ, còn nhà tôi thì rất hân hoan phấn khởi, đinh ninh có thể làm được chút gì, không nhiều thì ít cho đất nước quê chồng.
Hắc ký Ni Sơn tháng 9.1988
Sông Hương 34 1988

3- LẠI MỘT LẦN VỀ THĂM HUẾ
Từ mười hai năm nay, nghĩa là từ ngày về Huế lần đầu tiên nhân lễ 90 năm Quốc Học và 5 năm Sông Hương, tôi đã nhiều lần trở qua Huế nhưng thường đi công tác với bạn nước ngoài, không ở được lâu, có khi chỉ lướt qua một, hai hôm. Có bạn đã trách tôi về thăm Huế như gió thoảng, mây bay làm như mình là con người vô tình với nơi chôn nhau cắt rốn. Lần nầy, tôi muốn đánh dấu 50 năm xa Huế. Thêm nữa, nhà tôi lại có yêu cầu ở lại lâu lâu để có dịp đi sâu hơn vào đời sống, văn hóa của xứ sở ông chồng. Thật vậy, hơn mấy chục năm chung sống với một người gốc Huế, ngày ngày nghe nói chuyện Huế, xem hình ảnh Huế, thưởng thức nhạc Huế, nàng ước mong tận mắt thấy, tận tai nghe, tận mũi ngửi hương vị của chốn cố đô cổ kính mà tập san Đô Thành Hiếu Cổ trong hơn 30 năm đã không ngớt miêu tả, ca ngợi.
Như mọi lần, chúng tôi được ân cần tiếp đón, từ các anh chị trong các ủy ban, Trường Đại học Mỹ thuật, sở Khoa học Công nghệ và Môi trường, Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế, qua những bạn bè xa xưa, ngoại trừ một vài trường hợp hiếm hoi chắc phải chạy theo đời sống mới, các bạn hết còn thì giờ cùng chúng tôi chén thù chén tạc như những lần trước, ngồi ôn lại những kỷ niệm vui buồn của thời non trẻ. Trái lại có bạn mới quen lại rất sốt sắng, chịu khó chạy tìm sách báo, tài liệu, một lần biếu ngay cả tập sách quý của mình khi thấy chúng tôi gặp khó khăn làm thủ tục gởi về Pháp mấy pho sách sao chụp. Xin thành thật đa tạ. Thấy ra mấy bài báo tôi viết trước đây đã để lại một chút dư vang. Có người hỏi han về những thông tin mới, cũng có bạn nhắc tới những bài viết thuở xưa trong các báo Phổ Thông, Bách Khoa, Đại Học làm tôi tưởng nhớ lại cả một thời sinh viên đầy nhiệt tình, nhiệt huyết.
Nói đến đời sống mới thì dễ thấy nó đang lên ở chốn kinh kỳ. Chỉ bước tới đường Lê Lợi, từ đầu cầu Trường Tiền xuống đến Đập Đá là thấy ngay tốc độ của cuộc chạy đua rầm rộ vào không gian du lịch, khách sạn cao lớn (mới nhất là Saigon-Morin, ngay ở chỗ nhà hàng Morin Frères cũ), cửa hàng la liệt, quầy quán đầy đường. Nhiều phòng du lịch mở cửa cả buổi tối, trình bày đủ những chuyến tham quan quanh vùng. Nhiều cửa hàng hình ảnh mở cửa suốt đêm, phục vụ lanh chóng hơn cả Sài Gòn, Hà Nội, mà chất lượng chẳng kém gì những nơi khác. Xe taxi, tuy mới có, chạy đủ theo yêu cầu, gọi thì có ngay, giá cả phải chăng, nghĩa là chẳng đắt hơn ở Sài Gòn và thấy còn rẻ hơn ở Đà Nẵng. Hơn nữa, các anh tài xế mà chúng tôi gặp đều trẻ tuổi, lại lễ phép, có phần dễ thương là điều cần yếu trong ngành dịch vụ. Đáng buồn là cho mấy cậu xích lô, xe thồ, cạnh tranh khó khăn với xe taxi. Vì hiếm khách, các cậu phải năn nỉ, kỳ kèo, làm phiền lòng những du khách chỉ muốn thong dong bách bộ. Với vài chục ngàn đồng mỗi ngày, chắc nghề nầy chẳng còn sống sót được lâu.
Lẽ tất nhiên, như nhiều nước khác đang tìm một lối ra sau nhiều năm chiến tranh hay một thời kỳ ngoại bang đô hộ, du lịch là ngành tương đối dễ xây dựng trong bước đầu để làm nền tảng cho kinh tế. Tuy nhiên, nó không dễ như mới thấy đâu ! Tiếp khách du lịch không phải chỉ có khách sạn, quán ăn, phương tiện di chuyển từ máy bay, xe hơi, qua tàu bè, đường sá, mà còn phải lo mặt sách báo, người hướng dẫn, thú tiêu khiển, quà lưu niệm,... Ở Huế, chúng tôi thấy các đội ngũ ca nhạc truyền thống cùng thuyền bè chuyên chở phát triển rất lớn. Đây là một điều đáng mừng vì bên lề khía cạnh thu nhập, ta cống hiến những màn văn nghệ xứ sở, món ăn tinh thần cần yếu nhất là cho những du khách trí thức muốn tích trữ trong đầu óc thêm vài kiến thức văn hóa ngoài lĩnh vực vật chất quà cáp lưu niệm. Nhưng phải coi chừng, người ngoại quốc càng ngày càng đòi hỏi, cần phải luôn trau dồi chất lượng, không thể đàn hát bất cứ bài gì. Chẳng hạn, đi một buổi hát đò mà không nghe được một điệu hò hay một bàn Nam ai, Nam bằng là một thiếu sót. Khi một du khách đặt câu hỏi : "hò mái nhì và hò mái đẩy khác nhau thế nào ?", hướng dẫn viên không thể ứng khẩu đặt bày một câu trả lời. Một hôm đi ngang một khách sạn lớn, chúng tôi nghe kèn trống inh ỏi. Nếu tổ chức một đám cưới vương tôn giả thì không sao. Nếu là một cuộc lễ cung đình thì khác : đây là truyền thống của đất nước ta, có nên đem ra làm trò mua vui không ? Hôm ở trong Đại Nội cũng vậy. Nhiều bộ y phục vua chúa đang được sửa soạn để cho khách mặc trước khi lên ngai vàng chụp ảnh. Nếu làm ở một căn nhà nào đó thì không có vấn đề, nhưng thực hiện ở điện Thái Hòa thì là một chuyện vô lễ không tha thứ được. Vua chúa dù sao là những bậc đáng được thờ kính, ta không thể đưa ra làm trò. Cũng trong vòng lễ nghĩa, tưởng nên cấm tiệt du khách ở trần hay mặc quần đùi đi vào các nhà thờ, nhà chùa, điện đài nghiêm chỉnh. Cần nên biết chăng mình phải biết tự trọng mới mong người ta trọng mình và càng nghiêm khắc người ta lại càng quý mình hơn.
Vẫn trong lĩnh vực du lịch, nghề làm hướng dẫn viên đang thu hút nhiều thanh niên thiếu nữ, kể cả những sinh viên tốt nghiệp trường Đại học Sư phạm. Đồng lương giáo viên không bao lăm, lẽ tất nhiên các cô cậu có học sinh ngữ tìm được một lối ra dễ thở trong ngành nầy. Cái khó mà chắc là họ sẽ thấy ngay khi vào nghề là vốn liếng lịch sử, văn hóa. Ngày nay, khách du lịch sành sõi lắm : nếu có người như trước kia đi cho biết mà thôi, nhiều vị bây giờ sửa soạn kỹ càng, tài liệu đầy túi trước khi viếng thăm một địa điểm. Như vậy nghĩa là hướng dẫn viên không thể giải thích bất cứ thế nào : đỉnh đồng trong Đại Nội không phải để thắp hương, Quan Âm không phải là Madame Bouddha. Một hôm ở chùa Thiên Mụ, chúng tôi lặng người sửng sốt nghe một thanh niên giải thích bằng tiếng Pháp đức Di Lặc chỉ là một ông Thần Tài và ngạc nhiên không thấy bầy trẻ quấn quít ông. Giỏi ngoại ngữ chưa đủ, hướng dẫn viên trong trường hợp nầy, nếu không thông thạo Phật giáo, ít nhất cũng cần phải am hiểu chút ít Tam thế, phân biệt các vị Phật quá khứ, hiện tại, vị lai...Nếu du khách chỉ biết đạo giáo nước ta qua lời giảng ngắn ngủi thiếu thốn nầy thì e rằng họ sẽ không những có một ý niệm sai lầm mà còn phán xét không tốt về tín ngưỡng của ta. Tôi còn nhớ có đọc đâu đây, cũng ở chùa Thiên Mụ, một hướng dẫn viên dịch "canh gà" là "chicken soup" trong câu thơ bất hủ "Tiếng chuông Thiên Mụ canh gà Thọ Xương". Thế mới biết trình độ văn hóa quan trọng đến bực nào! Trong ý thức này, tôi mừng thấy một nhà văn đã được bổ nhiệm làm Giám đốc sở Ngoại vụ tỉnh Thừa Thiên - Huế.
Qua CODEV Việt Pháp, chúng tôi biết tiểu công nghệ đang trên đà phát triển. Tuy nhiên, hôm đi dạo dọc theo bờ sông An Cựu, ghé thăm xóm Phủ Cam, chúng tôi ngạc nhiên không tìm ra các nhà chằm nón đầy dẫy những năm trước. Xuống Vỹ Dạ, qua Cồn Hến, thấy ngành làm mũ có vẻ phát đạt, tuy vậy cũng nghe có người phàn nàn không có việc làm mặc dầu ở trong nghề đã nhiều năm. Lên Kim Long, tiệm hàng gỗ sơn mài tôi có ghé lại trước đây không còn nữa. Trái lại ở Nam Phổ quê tôi, chúng tôi được đưa vào xem một xưởng chạm trổ với một nghệ nhân tỏ vẻ yêu nghề. Tôi sực nhớ những đầu rồng trên các thuyền du lịch sao thiếu mỹ thuật quá, tương tự như ở các xưởng phim nghèo làm lâu đài bằng giấy các tông để làm phông các màn phim chiếu hay vật liệu trang hoàng trong nhà nhiều người mới giàu lên. Tại sao không cậy những thợ chạm trổ dư sức thực hiện những đầu rồng có chất lượng của một vùng chuyên môn? Huế có truyền thống về chạm trổ, cũng như sơn mài, thêu dệt, thấy như những khả năng nầy chưa được khai thác hoàn toàn. Tôi muốn đề cập đến mức xuất khẩu chứ không chỉ giới hạn ở những món hàng bày bán trong các cửa hàng du lịch.
Ăn uống như thuở nào vẫn phát đạt, không khác gì những thành phố khác. Tuy vậy, như tuồng quán cơm, tiệm nước mọc ra có phần nhiều hơn. Có lẽ lần nầy ở lại lâu, có thì giờ lặn lội đi tìm nên chúng tôi có cảm tưởng như vậy. Dù sao, mấy tuần ở Huế đã hiến chúng tôi cơ hội để thưởng thức các quán bèo-nậm-lọc cạnh cung An Định, bánh khoái ở Bến Ngự, Đông Ba, chè đủ loại khắp nơi, là những món thành phố nào cũng có nhưng không ngon bằng, đặc biệt rất hiếm ở Paris mà hương vị cũng lại khác. Cái thích thú nữa là ở các quán nầy ăn uống vào giờ giấc nào cũng được, đặc biệt món chè, không nhất thiết phải dọn như món tráng miệng sau bữa cơm mà để ăn vặt suốt ngày! Kỳ về lần nầy, đặc biệt chúng tôi được bà con ở Nam Phổ cho ăn cháo bánh canh. Cháo bánh canh mà ăn ở Nam Phổ thì không đâu sánh bằng. Hôm đi tản mạn trong thành nội, chúng tôi lại may mắn gặp được một quán bán bánh su sê, một cái bánh độc đáo của quê tôi mà ngày nay hầu như mai một. Trong các thứ trái cây, ngoài chuối, thơm, cam, quýt, những trái khá hiếm ở phương trời Tây là nhãn, vẫn ngon tuy hột có hơi lớn, và xoài, loại xoài cát ngọt lịm mặc dầu dẹp và không to bằng xoài tượng ở trong Nam.
Tuy chưa hoàn toàn phổ biến, ta có lệ kêu nước uống trong bữa cơm thay cho tô canh, mặc dầu canh chua nấu ngon có thể là thành phần chính trong thực đơn. Nếu nước khoáng thường dành cho người ngoại quốc, bia là một thức uống được nhiều người ưa chuộng. Chưa được gởi ra nước ngoài như Halida của Hà Nội hay Tsing Tsao của Trung Hoa, Huda của Huế chất lượng cũng không kém gì (Chú thích: tôi không có cổ phần trong hiệu bia này!) và đi đâu cũng tìm thấy chứ không phải như bia Sông Hàn ở Đà Nẵng hỏi mãi không ra. Nhưng uống nước thì thường người ta thường uống trong các tiệm nước, rất may ít có karaôkê như nhiều nơi khác. Tôi đã có đọc những bài tường thuật về cách thức quảng cáo Pepsi, Cola ngay từ hôm Hoa Kỳ hủy bỏ cấm vận, nay mới được mục kích rõ ràng. Tuy rất rẻ, quá rẻ so với giá bán ở Âu Mỹ, tôi vẫn tự hỏi làm sao người quen với những đọi nước chè xanh nóng đậm đà, mát cổ lại bỏ quên đi để chấp nhận một thức uống ngoại lai có khi lại độc hại cho cơ thể. Khó khăn của hãng Cola hiện nay có thể giải đáp một phần nào câu hỏi của tôi.
Bên lề nước uống, những quán nước tình cờ lại hiến cho tôi một thích thú bất ngờ. Lúc đầu chỉ là một chuyện ngẫu nhiên, nhưng khi đã nếm mùi thì lại bỏ công đi tìm. Đó là tên các quán nước. Môt hôm tôi được thấy tên quán Giọt đắng, kể đã là lạ, rồi Chiều nhớ cũng thật hay hay. Một chiều trời tốt, cần đợi xem và luôn tiện chụp hình mặt trời lặn trên sông Hương, chúng tôi tìm một chỗ trên bờ sông, rơi vào quán Lộng gió, thể hiện nơi mình đang ngồi. Nhưng thơ mộng hơn là quán Thì thầm trên đường lên lăng, về Pháp lâu rồi mà còn mãi văng vẳng bên tai tiếng gió rì rào trong mấy vườn thông rậm. Sau cùng, như tiếng thở dài của một thiếu phụ có phần trách móc, đấy là tên quán Đã đành trong một ngõ hẻm ở Phú Hiệp nhân hôm đi dạo dọc sông Đông Ba một buổi chiều vàng, nắng ấm, xuống đến Bao Vinh rồi quay về Gia Hội. Ai dám bảo Huế hết còn thơ mộng? Hôm ấy, một anh bạn tò mò chạy xe theo hỏi bọn tôi đi đâu. Anh không dè chúng tôi đi tìm tâm hồn đất nước sau bức hàng rào bông kiểng, trên mấy đọt tre xanh cao, trong tiếng hò ru con văng vẳng từ túp lều tranh tĩnh mịch đồng quê,...
Nếu ở làng xóm chất thơ còn sống động, điện đài lăng tẩm còn vẫn giữ phong cách cổ kính ngày xưa. Nhân lại làm việc với Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô, chúng tôi được hướng dẫn đi xem những miếu điện đang được trùng tu, một dịp để quan sát nhũng sườn kèo mở tung ra ánh sáng, những gian phòng trống rỗng không có bàn kệ trang hoàng. Tuy vậy, chúng tôi cũng lợi dụng cơ hội đi viếng lại cửa Ngọ Môn mà mấy chục năm trước, lúc còn là học sinh tiểu học, tôi đã diễn hành phía trước, phất cờ tung hô khẩu hiệu "Hoàng đế vạn tuế" nhân ngày lễ sinh nhật của vua Bảo Đại, điện Thái Hòa mà năm trường Trung học Khải Định tạm dọn qua đây, học sinh chúng tôi vô phép chen nhau ngồi lên ngai vàng làm vua trong vài ba phút,... Hôm gặp Cựu hoàng đi vác thánh giá nhân tuần lễ thánh ở Paris, tôi có dịp kể lại với Ngài chuyện nầy, cũng như tôi đã có dịp chiêm ngưỡng dung nhan Ngài trên đường lên Nam Giao, Cựu hoàng không có phản ứng như người đã quên bỏ hoàn toàn quá khứ, một dĩ vãng quả đúng là vàng son.
Các anh bên trường Đại học Mỹ thuật có nhã ý thuê đò đi viếng các lăng Gia Long, Minh Mạng và ghé điện Hòn Chén trên đường về. Chúng tôi lần này được các giáo sư trong trường hướng dẫn nên cuộc du hành thật là bổ ích. Chúng tôi vui mừng thấy lăng Gia Long xa xôi từ lâu bỏ quên, nay trên đường được sửa sang lại, điện thờ được dựng đứng, mái lại lợp ngói như xưa. Hôm du ngoạn này, trời lại đổ mưa, thành thử suốt thời gian đò chạy, ví chi ngồi ngoài ướt át xem phong cảnh, chúng tôi ngồi quây quần trong sàn đò, quanh mấy ly rượu Minh Mạng Thang của công ty Dược phẩm Thừa Thiên. Đây là lần đầu tiên tôi được thưởng thức loại rượu mới được ra đời gần đây. Rượu uống được nhất trong bình của anh bạn đã có thêm vào mật ong, nhân sâm,... Nghe nói nhiều tỉnh muốn sản xuất loại rượu nầy. Tôi không tin là rượu bán ra trong thương trường giống hệt rượu các vị vua chúa đã dùng ngày xưa, nhưng vấn đề là thang thuốc thực sự gồm có những cây gì. Nhiều báo chí đã đề cập đến đề tài nầy và ngay ở Huế đã có một hội đồng xét xử. Đứng về mặt khoa học, tuởng cũng nên kê bản các cây đã dùng trong thang thuốc và tìm biết hoạt chất của chúng từ đấy mới mong chỉ định được phân minh thành phần một đơn thuốc bổ ích.
Nói chung, cốt yếu chuyến về Huế lần nầy của chúng tôi là để viếng các chùa. Vì vậy một phần lớn thì giờ đã để dành cho chùa chiền. Nhưng chùa Huế quá nhiều, chúng tôi lại muốn quan sát tường tận nên phải giới hạn lại một số ít, những chùa xưa cổ, có sự tích rõ ràng, có tầm mức quan trọng, có ảnh hưởng lớn lao lên cộng đồng Phật giáo nói chung, lên quần chúng Huế nói riêng. Ngôi chùa được nói đến nhiều nhất ở ngoại quốc là chùa Thiên Mụ. Riêng tập san Đô Thành Hiếu Cổ đã dành nhiều trang miêu tả tường tận. Gần đây chùa lại được UNESCO kê liệt vào Di tích Lịch sử Thế giới đồng thời với thành phố Huế. Có ai đi ngang qua đất Thần Kinh mà không viếng thăm chùa Thiên Mụ? Vì vậy, chúng tôi chú trọng trước tiên đến ngôi chùa nầy, nhưng nhờ các cháu chở xe máy đưa đi, chúng tôi cũng đã viếng thêm các chùa Diệu Đế, Quốc Ân, Bảo Quang, Từ Hiếu, Hồng Ân, Đông Thuyền,... Đâu đâu chúng tôi cũng được tiếp đón niềm nở như những đứa con đi xa về. Các tu sĩ cũng như các cư sĩ không ngần ngại dẫn chúng tôi đi xem các điện và giải thích tường tận mỗi khi có câu hỏi. Ở chùa Báo Quốc, chúng tôi được viếng thăm trường Phật giáo mới thành lập: chưa bao giờ chúng tôi gặp gỡ một số sư thầy, sư cô trẻ và đông như vậy. Ở chùa Trúc Lâm, chúng tôi được xem cả bộ kinh Kim Cang do Tỳ kheo ni Diệu Tâm (Nguyễn Thị Nhu) thêu trên lụa thời Tây Sơn. Ở chùa Kim Tiên, chúng tôi được dự kiến một buổi tán tụng khi các vị sư hiệu chính trước khi lên đường qua Pháp biểu diễn. Ở chùa Từ Đàm, chúng tôi quỳ dự suốt sáng chủ nhật một buổi tụng kinh Diệu Pháp Liên Hoa, sau khi nghe một vị sư thuyết pháp cần phải đoàn kết hòa giải trong cộng đồng Phật giáo. Đấy là chưa nói đến những cuộc gặp gỡ thân mật với các gia đình Phật tử... thành thử chuyến về quê nầy giúp chúng tôi hiểu biết thêm nhiều về đời sống ở quê hương.
Kể chuyện về thăm cố đô còn thiếu sót nếu tôi không nhắc đến hôm đi viếng cơ sở Nuôi dạy Trẻ mồ côi ở chùa Đức Sơn và nhà trẻ mầm non Hoa Mai ở khu Đống Đa. Ở chùa Đức Sơn, các sư cô đã bỏ công tốn sức biết bao để tự túc xây dựng một nhà trẻ sạch sẽ, đàng hoàng mặc dầu đã gặp đủ thứ khó khăn. Ở nhà trẻ Hoa Mai, ngay ở cửa vào, hai bảng dạy vệ sinh và lễ phép thường thức. Nếu chúng tôi hiểu đúng chị Hiệu trưởng thì các bài dạy nầy không phải chỉ để cho con trẻ mà thôi. Đi quanh một vòng thì thấy mọi phòng đều được tổ chức chu đáo, trẻ em tươm tất, dụng cụ đầy đủ . Vẫn biết đây là công trình mũi nhọn của tỉnh, được UNICEF tài trợ nên mới đầy đủ tiện nghi như vậy và chắc không phải ai cũng có thể gởi con vào đây, nhưng trước mắt những người ngoại quốc lại tham quan, cứu giúp, luôn gặp những cảnh nghèo khổ, lầm than, có nên chăng cần cho họ biết người Việt Nam khi có điều kiện cũng đủ khả năng thực hiện những tác phẩm hoàn hảo, không kém gì bên Âu Mỹ.
Sau cùng, nhân ngắm những đứa bé bụ bẫm, dễ thương ở các nhà trẻ, tôi tưởng cũng cần nêu lên một vấn đề cần được giải quyết nay mai. Từ Pháp tôi nghe nói phong phanh Huế không cho con nuôi nữa. Về đây tôi không có cảm tưởng như vậy. Có người đã biện luận nên cho một đứa bé mồ côi hay bị cha mẹ ruồng bỏ một dịp may tìm được hạnh phúc trong một gia đình xa lạ nhưng tràn đầy tình thương. Suy nghĩ nầy đúng quá. Nhưng những năm sau nầy, chuyện tìm kiếm con nuôi đang vượt quá khuôn khổ nhân đạo để bước qua lĩnh vực kinh tế. Tình cờ làm thông ngôn, tôi biết một bà nọ được cậy giữ một đứa trẻ trong vòng một tháng trong khi chờ đợi cha mẹ nuôi từ Pháp về đón: bà ta đòi tiền công hai triệu đồng! Khi biết một giáo viên mới ra trường ăn lương mỗi tháng hai trăm ngàn, một vị phục vụ nhà khách ba trăm ngàn thì số tiền kia phải chăng là quá đáng? Tôi sợ đây chỉ là cái chỏm của phiến núi băng trôi. Những tay trung gian khác còn đòi bao nhiêu?
Đây chỉ là chuyện nhỏ trong thời kỳ chạy theo đời sống mới, thời buổi kinh tế thị trường, mọi người đều tìm cách kiếm ăn, làm tiền, cũng dễ hiểu thôi. Tôi hy vọng đấy chỉ là chuyện nhất thời, ít lâu nữa rồi cũng biến mất. Ở Huế hiện có những dự kiến lớn lao trên đường thực hiện mà được bàn tán nhất là đồ án hải cảng Chân Mây đã được dự thảo từ thời chiến. Với một chiều dài 10km, một cái đập 700m, một độ sâu từ 6 đến 14m, cảng vùng biển nước sâu nầy có khả năng cho ra vào những tàu bè 50-70 ngàn tấn. Vùng kinh tế mới sẽ khuếch trương một khu vực dân cư 100-150 ngàn người. Theo dự án, cảng sẽ chuyên chở 2 triệu tấn hàng năm 2005 và qua 2010, số lượng nầy sẽ tăng lên 4 triệu. Nếu thực hiện được như vậy, cảng sẽ phát triển không những Huế - Thừa Thiên mà cả các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, sẽ có ảnh hưởng lớn lên hoạt động của Quảng Nam - Đà Nẵng. Ngày nào đường dây xuất nhập khẩu cảng nối liền miền Trung nước ta với miền Bắc Thái Lan xuyên qua Lào thì ngay cả nền kinh tế Việt Nam cũng sẽ xáo động không ít trong một tương lai tốt đẹp. Những người có trách nhiệm đã tỏ ra thấy xa, nhìn rộng. Phải đợi vài năm nữa mới bắt đầu thấy kết quả và nhân đó nghiêm chỉnh đánh giá nền tảng dự án hiện đang làm nhiều người phân vân. Chúng tôi mong muốn có dịp về lại thăm Huế để theo dõi tiến triển những loại đồ án loại nầy vô cùng hấp dẫn. Một chuyến đi vui vẻ, thành công như vừa qua thúc dục, khuyến khích chúng tôi mau tổ chức một chuyến về khác.
Hắc Ký Ni Sơn xuân 1998
Huế Xưa và Nay 28 1998

4- ĐƯỢC GẶP NHAU
Không phải tôi viết lầm tựa đề cuốn sách của chị Hỷ Khương đâu. Trước khi còn gặp nhau, tất nhiên cần phải được gặp nhau. "Duyên số" "bắt đầu từ mấy chục năm trước, vào khoảng những thập niên 50-60, lúc tôi còn là một thư sinh nghèo sống tha phương cầu thực ở phương trời Pháp xa thẳm, dùi mài kinh sử để tìm một lối thoát cho tương lai. Thấy mấy bác công nhân qua đây hồi đầu thế chiến, chỉ một chục năm sau đã bắt đầu quên tiếng mẹ đẻ, ăn nói lai căng, tôi hoảng sợ tình cảnh mất gốc quên nước. Sinh sống trong một môi trường Pháp ngữ, tôi cảm thấy cần tiếp tục trau dồi tiếng Việt, hoàn thiện lối viết, sử dụng từ ngữ,... vì thật khi ra đi mang trong mình không bao vốn liếng tiếng mẹ, nhất là nuôi mộng muốn về nước phục vụ một khi học hành xong xuôi. Vì vậy, hồi ấy tôi tranh thủ viết nhiều bài khoa học và phổ thông đủ loại đăng trên báo chí bên nhà, đặc biệt ở các tờ Đại Học, Bách Khoa, Phổ Thông, Hồn Trẻ,... Hai ông chủ bút Lê Ngộ Châu, Nguyễn Vỹ, thay vì trả tiền nhuận bút, gởi qua quà tặng, nào là sách báo, nào là tranh cảnh sơn dầu,... và vài ba cát xét tự thâu vì chưa có bán trên thị trường. Xen lẫn với những khúc nhạc Khánh Ly, Trịnh Công Sơn, Phạm Duy, những bài vè, điệu sáo,... có một câu hò mái nhì
Chiều chiều trước bến Văn Lâu,
Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm...
tưởng là câu hát dân gian như bao nhiều khác, mãi sau nầy nghe anh Trần Văn Khê nói chuyện mới biết tác giả là cố thi sĩ Ưng Bình Thúc Giạ Thị. Người trình dìễn không ai khác là ái nữ của cụ, quận chúa Tôn Nữ Hỷ Khương.
Một điệu Huế thân thuộc, quen tai, lại thêm một giọng hò tuy thâm trầm nhưng bộc lộ biết bao tình cảm, nhớ nhung đã gây nhiều xúc cảm nơi chàng trai sống xa nước, nhớ nhà nơi đất khách quê ngưòi. Thế rồi, như Mỵ Nương đòi thấy Trương Chi, chàng trai si tình ôm ấp nỗi lòng man mác, ước nguyện một ngày mai kia được gặp mặt người có giọng hò quyến rũ ấy mà trí tuởng tượng hình dung một cô gái đế đô dịu hiền, một cô tôn nữ đất Thần kinh yêu kiều như thường được miêu tả trong văn thơ. Và cái gì phải đến rồi cũng đến, kiên nhẫn chờ đợi thì rồi mộng mơ lãng mạn ấy một ngày cũng được thỏa mãn.
Đầu năm 1998, nhân về Huế để nhà tôi sưu tầm tài liệu dự thảo một luận văn về chùa Thiên Mụ, chúng tôi lưu lại Sài Gòn ít lâu. Hôm đi dự lễ Tết học sinh cũ hai trường Đồng Khánh và Quốc Học, chúng tôi được báo chủ nhật tuần sau có cuộc họp đồng hương Thừa Thiên - Huế. Mừng quá, sáng hôm ấy, chúng tôi lại sớm, hy vọng gặp gỡ, trò chuyện được nhiều. Nào ngờ, có mặt chưa được bao lâu thì một anh, có lẽ trong ban tổ chức, lại thỏ thẻ cho biết hôm nay là một cuộc họp nội bộ. Thấy tôi không hiểu ngay, anh nhấn mạnh chỉ là một cuộc họp nội bộ. Chao ôi , một cuộc họp đồng hương mà người đồng hương ở xa về lại bị đuổi đi, chi mà lạ lùng và ốt dột dữ rứa, họa chăng hai chữ đồng hương đã thay dổi định nghĩa qua những biến cố lịch sử. Nhà tôi, một người Pháp học thức trình độ đại học, sống chung với ông chồng Huế mấy chục năm nay, luôn tìm biết cái tinh hoa của nền văn hóa Việt Nam, cái tinh túy của tâm hồn xứ Huế, cũng không hiểu nổi cái tinh vi độc đáo ấy của cơ chế áp dụng chính sách mở cửa, đổi mới đề xuất từ nhiều năm nay. Nhưng kỷ luật là kỷ luật. Vừa buồn tủi, lại vừa tiếc nuối khi biết có thêm sau đó lễ mừng thọ nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương mà những bài hát đã êm ru suốt đời niên thiếu của tôi.
Chiều tàn trên bến Hương giang lờ trôi,
Bóng chim bay về chân núi xa vời...
chúng tôi lủi thủi ra về, quên ngay cả hai cái máy ảnh trên bàn. Sau nầy, lúc trở lại lấy, nội bộ đang ngoan ngoản chăm chỉ nghe một ca sĩ, ngạc nhiên thấy tôi lặng thinh vô ra, không một liếc mắt, không một nụ cười.
Nhưng duyên số là do trời định. Ngày chủ nhật đáng buồn tủi hôm đó lại cống hiến chúng tôi dịp may trình diện chị Hỷ Khương bấy lâu mong chờ. Tay bắt mặt mừng, biết bao điều nói dù là cuôc gặp gỡ đầu tiên, nhưng vì chúng tôi buộc phải ra về trước nên hẹn tái ngộ sau chuyến thăm Huế của chúng tôi. Hôm ấy, tại tư gia chị, chúng tôi lại hân hạnh được tiếp xúc nữ sĩ Mộng Tuyết, tác giả cuốn Nàng Âu Cơ trong chậu úp mà tôi vừa mới dẫn trong một bài khoa học về trầm hương đăng ở Huế. Chị Hỷ Khương đã biếu tặng chúng tôi hai tập phim về cụ Ưng Bình và cuốn Hồi ký viết về thân phụ kính yêu. Thật là những phẩm vật quý báu nhất là đối với những người con như chúng tôi sống xa quê hương mà lòng luôn hướng về nơi quê cha đất tổ. Những tài liệu về Huế đã giúp chúng tôi sống gần hơn với nơi chôn nhau cắt rún, dễ ôn tưởng lại những kỷ niệm của thời xa xưa. Đặc biệt, chúng tôi lại được nghe giọng hò của chị Hỷ Khương sau nhiều năm thấy như già đặn và thấm thía hơn. Và như để chan hòa tình cảm đã un đúc với những kỷ vật đã nhận được, gần đây, từ Nam Đô chị gởi tặng thêm chúng tôi cuốn sách thơ Còn gặp nhau tiếp nối những thi tập Đợi mùa trăng, Mộng thanh bình ra đời khoảng 30 năm về trước, với những lời đề tặng thân tình.
Tôi không phải là một nhà thơ, không biết thổ lộ tâm tình như Mộng Tuyết thất tiểu muội đã làm trong bài cảm nghĩ về thi phẩm ấy. Tuy nhiên, đọc đi ngẫm lại nhiều lần, tôi thấy xuất phát một cái tình nồng nàn trong thơ của Hỷ Khưong
Trước sau chỉ một chút tình
Thiết tha trân trọng để dành cho nhau
tích trữ, chồng chất với nhau thì:
Túi tình trĩu nặng bờ vai
Nửa thương nửa nhớ thêm dài giấc mơ
tràn đầy khắp nơi, trong mỗi giờ phút của cuộc sống
Tình cùng thơ nhạc say ngâm hứng
Tình với non sông đẹp bóng hình
dù không đồng điệu với tất cả mọi người
Tri kỷ đời nay dễ mấy người
Trăm năm mua lấy "chút tình" mà thôi!

Như thơ đã phản ảnh, chị là một người đa tình, đa cảm
Tưởng đã mất trong cuộc tình dang dở
Nào ngờ đâu còn tìm lại mùi hương
trung thành, chung thủy
Tình tôi các bạn đã hay
Tình ai từ đó đến nay vẫn nồng
hào phóng, độ lượng
Nợ tình nào có ai vay
Khi đem trang trải biết ngày nào xong.
Tuy ở một phương trời khác, chị luôn gởi lòng về sưởi ấm nơi quê hưong yêu dấu
Ai đi qua ngã Kim Long
Bên ni, bên nớ, sang sông ngóng đò
hay:
Ai về Vỹ Dạ khói sương
Mờ mờ nhân ảnh người thương thuở nào...
Và đó là một trong những yếu tố quan trọng để chị hòa mình với anh chị em đồng hương ở Nam Đô. Cũng có thể coi đó, nói theo ngôn ngữ hóa học, là chất xúc tác để tôi được gặp chị sau mấy chục năm hằng mong, hay nói rộng ra, để chúng ta được gặp nhau, điều kiện tất yếu để rồi còn gặp nhau.
Được gặp nhau mới còn gặp nhau
Say, chơi, vui, thương nhớ nao nao
Khúc tình xưa, huyền vi, chân lý,
Trĩu nặng vai bài thơ thuở nào...
Hắc Ký Ni Sơn một đêm trăng thu 2000
Nhớ Huế Trường Huế 2000

5- ĐEM CON CHÁU VỀ THĂM QUÊ NỘI
Mấy năm nay nhà tôi sức khỏe kém, tôi không thể đưa nàng về thăm quê như trước. Nhưng năm nay đứa con trưởng lại có yêu cầu tôi đưa gia đình nó về gặp gia đình, bà con, viếng nhà thờ họ ở Nam Phổ, nơi tôi sống lên ở Mỹ Cang, mồ mả cụ mạ tôi cùng chú bác trên sườn núi Ngự Bình,... Mặc dầu bệnh cúm gà đang bắt đầu hoành hành, trời hè nắng nóng mà tôi hằng sợ, tôi không thể từ chối một thiện chí, làm thất vọng một gia đình đứa con. Hơn nữa, tôi còn xem đó là một bổn phận, một điều may mắn vì biết bao những đứa con sinh trưởng trên đất lạ không muốn dính líu gì nữa với quê hương cha mình. Rút cuộc, nếu chuyến về nói chung không hoàn toàn đạt kết quả mong muốn, riêng phần tôi đã hết sức hài lòng đã lại có dịp cùng con cháu đi dọc lòng đất nước.
Ở miền Nam, thời gian chỉ cho phép tôi đưa chúng đi một vòng vài ngày về đồng bằng sông Cửu Long, lên Tây Ninh, Củ Chi và viếng quanh Thành phố Hồ Chí Minh. Riêng phần tôi đã có dịp lại thăm Giáo sư Mai Quốc Liên để bàn về cuốn sách Gởi thương về Huế mà Trung tâm Nghiên cứu Quốc học sẽ xuất bản cho tôi. Tôi còn may mắn được mời lại dự lễ mừng thọ 85 tuổi đúng ngày sinh nhật của anh Giáo sư Trần Văn Khê tại nhà chị thi sĩ Hỷ Khương. Sau đó, chúng tôi thuê một chiếc xe hơi thong thả ra miền Trung. Lần đầu tiên tôi được ghé Mũi Né xem những đồi cát đỏ màu có tiếng nhưng vì quá đông người nên không có nét quyến rũ như ở trong hình ảnh. Đường xe chạy từ Mũi Né ra Nha Trang mới tinh bày ra trước mắt một phong cảnh hùng vĩ, chỉ sợ nay mai khách sạn, nhà nghỉ lại choáng chỗ, che mất tầm mắt. Nha Trang với bờ biển dài tăm tắp, Tháp Bà sừng sững trên đồi cao, chuyến đi tàu thủy quanh các đảo đã để lại một ấn tượng khó quên. Rồi Hội An cổ kính, chùa Non Nước đồ sộ, Đà Nẵng năng động cho thấy một viễn tượng về tương lai đất nước, mang trong lòng một viện Bảo tàng Điêu khắc Chăm nhắc lại một quá khứ đã vĩnh viễn đi qua. Và sau cùng, xe vượt đèo Hải Vân, theo con đường quanh co dọc sườn núi dẫn đến Huế bấy lâu mong đợi.
Kinh thành, cung điện, lăng tẩm, chùa chiền là những điểm tham quan cổ điển không tránh được. Chuyến ra quê mẹ Mỹ Cang đối với tôi là một cuộc hành hương về lại dĩ vãng, nhưng tôi tự hỏi bọn con cháu đặt vào đấy chút tâm tình ở mức nào. Tôi biết chúng nó cảm động hôm về Nam Phổ vái trước bàn thờ tổ tiên dòng họ Võ Quang, nhất là sau đó thấy tên tuổi của chúng trong cuốn gia phả mà người cháu bà con đã có công ghi chép. Cũng như hôm tôi đưa chúng lên núi Ngự Bình thắp hương trên mồ mả cụ, mạ, anh tôi cùng các chú bác khác. Khó cầm lòng tưởng nhớ tới những người thân đã mất, xa cách nhau hơn một nửa thế kỷ, mắt ướm lệ, tôi đứng lâu lặng nhìn khói hương nhẹ tỏa trong gió. Tôi không chắc con cháu tôi chia sẻ hoàn toàn niềm trắc ẩn của tôi nhưng trước vẻ ngậm ngùi của tôi, thế nào chúng cũng đã bị lây một nỗi luyến tiếc tiềm tàng, thể hiện qua một thời gian im lặng, không những ngay trên sườn núi mà còn cả trên đường về.
Nói về Mỹ Cang, tôi phải nhắc tới một anh bạn mới. Từ Matxcơva, anh Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn đã có nhắn khi về quê Phong Điền, tôi phải kiếm cách gặp cho được anh đồng hương Nguyễn Thế, làm ở ủy ban huyện, mà anh đã làm quen ở cuộc hội thảo Hán Nôm vừa qua ở Hà Nội. Anh Thế còn trẻ, chỉ là một nhân viên ban văn hóa, nhưng vô cùng hiếu kỳ, năng động. Tuy làm ở Phong Điền, anh luôn đi lại với Huế và chắc còn cả suốt tỉnh Thừa Thiên. Về mặt văn hóa anh là một túi đầy kiến thức. Anh vui vẻ dẫn tôi xem và giải thích tường tận chân bệ Văn Trạc Hòa hiện đang được trưng bày trong viện Bảo tàng Lịch sử Thừa Thiên ở Huế mà anh đã đóng góp nhiều trong việc đưa chở về đây. Anh còn đưa tôi về Phong Điền xem một tráng tường Chăm trong sân chùa Ưu Đàm. Hiện ở Paris, phong trào khảo cứu về Champa cổ đang lên cao với những cuộc hội thảo về Champa cổ của hội SACHA, triễn lãm điêu khắc Champa tại viện Bảo tàng Á Đông Guimet, lớp dạy nghệ thuật Champa ở điện Louvre,... nên tôi rất nhạy cảm trước các di tích dính líu đến những đồng bào miền Nam nầy. Tôi tự hỏi một tráng tường quí đẹp như vậy mà để ngoài trời liệu lâu ngày có bị rêu phong lấp phủ, mưa gió làm hư hỏng không, chưa nói đến chuyện dễ bị mất cắp như đã thấy ở nhiều nơi.
Sau đó, anh Thế dành cho tôi một món quà bầt ngờ. Anh đưa tôi một lần nữa về lại làng Mỹ Cang, vào thăm nhà một người láng diềng, chỉ một cái lu Tàu rồi hỏi: "Anh có nhớ cái lu ấy không?". Tôi lưỡng lự vì hồi trước có thấy nhiều lu ở trong nhà nhưng còn nhỏ nên không để ý đến. "Cái lu nầy lúc trước là của o Mỳ, của mạ anh đó!" Rồi anh tường tận giải thích con đường đi của nó hơn năm chục năm nay từ nhà cụ mạ tôi qua nhà nầy. Chao ôi, cả một thời thơ ấu xa xăm, những cảnh tượng gia đình vui tươi, đầm ấm hay đau thương, khổ cực trong khoảnh khắc hiện ra lại trước mắt. Tôi mân mê thành lu, nặn óc để cố tìm một chi tiết gì còn nhớ. Muốn đem về Pháp một hình ảnh của quá khứ, tôi chụp lia lịa vài tấm hình, rồi nằm sấp xuống đất để chụp gần hai hình vẽ trên thành lu. Nhà văn Nguyễn Xuân Hòa tháp tùng chúng tôi trong chuyến hành hương nầy, cảm xúc phát lên tràng cười, đánh dấu cho một tình bạn mới chớm nở. Tôi thông cảm: một ông tiến sĩ già, vì ngoài bảy mươi là cổ lai hy rồi, về thăm quê nhà sau nhiều năm xa cách, nằm sấp dưới đất chụp hình cái lu lúc trước của gia đình là một cảnh tượng hy hữu tuy dễ phát cười cũng gây động lòng!
Nói đến bạn bè, tôi thật đã đạt được nhiều kết quả tốt trong chuyến về Huế nầy. Tôi đã gặp lại được một số bạn quen lâu hay mới quen những năm sau nầy. Có những bạn đãi ăn ở những quán sang, ngon, có những bạn cho nghe hát dưới đò một đêm trên sông Hương. Biết tôi khó tánh khi nghe những điệu ca hò Huế, tội nghiệp anh bạn đã chịu khó chạy tìm những ca sĩ điêu luyện sành nghề. Một bạn còn chở xe cho tôi lên xem mặt trời lặn trên đồi Vọng Cảnh hiện đang là mục tiêu một cuộc tranh thủ của những người yêu Huế để chống lại một dự án khách sạn đã có giấy phép xây dựng. Một anh bạn học cùng lớp một nửa thế kỷ trước những năm sau này có hơi xa lánh vì công ăn việc làm, nay vui vẻ bắt lại liên lạc và quanh một dĩa bánh khoái dân dã ở Gia Hội, chúng tôi đã cùng nhau ôn lại biết bao kỷ niệm ngày xưa. Năm nay đặc biệt tôi được mời dự một đám cưới cổ truyền của hai bạn trẻ sống ở Paris nhưng về đây xây dựng gia đình trước đông đủ bà con hai họ. Tôi xin thành thực cám ơn các bạn đã xem tôi như là người trong nhà. Và trong bữa tiệc cưới, có những bạn chưa quen lại chào hỏi vì đã đọc những bài của tôi viết những chục năm trước trong các báo Bách khoaPhổ thông. Lại một dịp để nhớ lại quá khứ xa xăm.
Thấy tôi còn vương vấn nhiều với Huế, các con cháu tôi đề nghị tôi ở lại thêm vài ngày và chúng lấy tàu lửa ra Hà Nội trước. Thấy chúng tháo vát giỏi để có thể tự tổ chức cuộc viếng thăm miền Bắc nên tôi nhận lời ngay. Nhờ vậy tôi có nhiều thì giờ hơn dành cho bạn bè. Hơn nữa, tôi còn được đi viếng động Phong Nha đã từng được cho là kỳ quan thế giới thứ 8 và năm 2003 đã được UNESCO ghép vào vùng Kẻ Bàng để công nhận thành Di tích thế giới. Một điểm lạc quan cần phải nêu ra là con đường thật tốt từ Huế đi Phong Nha, nhất là đoạn đường trên núi ở Đồng Hới, một khúc của con đường mới xuyên Việt. Ngạc nhiên của tôi đã bắt đầu từ hôm đi xe hơi từ thủ đô Nam bộ ra miền Trung. Không chỉ con đường mới từ Mũi Né đi Nha Trang là tốt mà mọi đoạn đường trên quốc lộ 1 đều được tráng nhựa xe chạy bon bon. Tôi nhớ cách đây 5 năm, muốn đi viếng tháp Pô Rômê, xe phải chạy băng qua đồi cát xóc đảo, nay có đường tráng nhựa dẫn thẳng ngay lại chân tháp. Trên mặt du lịch đây là một thắng lợi lớn, một điểm tích cực cần phải nhấn mạnh. Về phát triển đất nước, tôi đã có dịp trình bày với các nhà báo đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh hôm họ theo tôi về Cai Bè quay phim tôi và con cháu.
Rút cuộc, dù bịn rịn, tôi phải đáp tàu lửa rời Huế đi Hà Nội. Anh bạn mới Nguyễn Xuân Hoàng tiễn tôi ra ga, dạt dào tình cảm quyến luyến. Khi chia tay, anh trao tôi bản thảo hai bài văn anh viết về tôi làm tôi rất cảm kích tính nhạy cảm của anh. Bà con, bạn bè ở Hà thành cũng tiếp đón tôi ân cần. Ăn uống, dạo chơi, các bạn đã muốn tôi biết sâu về miền Bắc như tôi đã biết Huế. Năm nay, tôi không đi Hạ Long, Hoa Lư cổ điển, mà chỉ đi viếng các chùa Bút Tháp, chùa Dâu, chùa Đậu. Đặc biệt, tôi đã thực hiện được một phần mong ước từ lâu : viếng miền Việt Bắc với những phong cảnh núi non, sắc tộc phong phú. Các bạn tôi đã cho tôi đi Lạng Sơn xem núi Tô Thị, động Tam Thanh. Viện Bảo tàng Dân tộc không hướng dẫn được các lối đi khác, tôi đành ghi tên với SinhCafé đi Sapa ba ngày, cọng thêm một ngày đi xe máy lên Lai Châu. Tuy ngắn ngủi và rất có giới hạn, tôi đã mục kích được một số phong cảnh đồng ruộng bậc thang bát ngát, ngắm được đỉnh Fansipan hùng vĩ trong một dãy núi sương mù bao phủ, đi dạo trong các bản đồng quê Lao Chải, Tả Vận, Giang Ta Chải tưởng như quen thuộc của thời thơ ấu. Nhân ngủ ở Bản Hồ, tôi tiếp xúc được một số người miền núi chất phát, hiền lành, học hỏi được cách sống của họ. Bước đầu ngắn ngủi nầy khuyến khích tôi mau kiếm cách trở lại viếng thăm những vùng khác miền Việt Bắc mênh mông, gấp xem những y phục phụ nữ đang chuyển mình từ các vạc áo thêu dệt đặc sắc qua những mảnh vải vô vị nhập cảng Trung Quốc. Tuy tiếc nuối quá khứ, tôi tưởng ta cần phải chấp nhận cuộc hiện đại hóa vì các y phục kia chỉ tồn tại được trong cách tân, như ca nhạc, hội họa, hay mọi nghệ thuật khác, theo những điều kiện của trào lưu đổi mới đang lan tràn trên đất nước.
Nói chung, về phần tôi, như mọi lần về thăm quê khác, tôi luôn phấn khởi gặp lại bạn bè, bà con, làm giàu thêm đuợc ít nhiều kiến thức của mình về xứ sở mà tôi đã xa vắng hơn một nửa thế kỷ. Lần nầy tôi còn hân hoan đem được gia đình đứa con trưởng về thăm quê cũ. Tôi chắc chúng đã vui vẻ sống những ngày ở quê hương ông, cha. Tuy nhiên, sinh ra và sống lên ở đất Pháp, mặc dầu những cố gắng của vợ chồng chúng tôi để chúng không thấy Việt Nam là một nước xa lạ (sách báo, hình ảnh, dĩa nhạc, ăn ưống, phim ảnh, chùa chiền, lễ hội,...), như tuồng chúng không hoàn toàn thoải mái khi tiếp xúc với gia đình trong nước. Ở mỗi thành phố lớn, tôi luôn có tổ chức một cuộc họp mặt, ăn uống giữa các bà con. Bất đồng ngôn ngữ là một trở ngại lớn. Các con cháu tôi phàn nàn không có mấy ai trò chuyện bằng tiếng Pháp với bọn nó. Con tôi lại bực tức khi có ai hỏi tại sao nó không học tiếng Việt để có thể trao đổi với bà con. Bọn nó còn trách móc không mấy gia đình mời mọc về nhà: chúng nó không hình dung được tất cả những phiền phức của một cuộc tiếp đón một nhóm đông người ngoại quốc, dù thuộc cùng gia đình. Nhân đi nghe hát trên sông Hương với những ca sĩ già dặn thuần thục những điệu ca hò Huế, con tôi còn trách tôi đã trình bày một nền văn hóa đã qua; có lẽ nó chờ đợi những ca sĩ trẻ tuổi nhún nhẩy trong nhạc điệu rầm rập, dưới ánh đèn chớp nhoáng đủ màu. Như vậy thì chẳng thà từ Pháp ghi nó vào một tour dành cho người ngoại quốc!
Có người bạn Pháp bảo tôi về Việt Nam đến bốn, năm lần mới biết thương yêu cái xứ nầy. Và anh tiên đoán thế nào chuyến đi nầy cũng để lại một ấn tượng sâu sắc cho bọn con cháu, ít nhất trong tim các cháu nhỏ, sau nầy lớn lên mới có dịp bộc lộ. Lời nói của anh an ủi tôi một phần nào. Trên máy bay về lại Pháp, tôi cứ nghĩ mặc dầu thái độ thường bị môi trường, xã hội chi phối, khi các con tôi nhìn đất nước Việt Nam với con mắt người ngoại quốc thì nhiệm vụ giáo dục gia đình của mình chưa được trọn vẹn, một nhiệm vụ tề gia mà bên ta trước đây các cụ thường xếp tuần tự sau tu thân và trước trị quốc, bình thiên hạ. Anh bạn Giáo sư Cao Huy Thuần có viết tôi là người đã Việt hóa các nơi tôi ở, ngay cả cô vợ đầm của tôi, nhưng chắc chắn là tôi chưa thành công Việt hóa được tất cả mấy đứa con Tây của tôi. Mea culpa. Hy vọng trong tương lai tôi sẽ Việt hóa được vài đứa cháu Tây!
Xô thành tiết sương giáng 2005
Nhớ Huế 28 Huế Xuân 2006
Quê hương 5 2006

6- TÌM VỀ HÌNH ẢNH CỐ HƯƠNG
Mỗi lần về thăm đất nước, tôi thích đi tản mạn khắp nơi, tìm kiếm những hình ảnh quen thuộc hoặc đã sống qua hoặc đã tưởng tượng khi đọc những áng văn hứng thú, những câu thơ gợi tả. Những hình ảnh nầy, như mọi kẻ sống tha hương, tôi rất thèm muốn sau một thời gian không được mục kích. Dĩ nhiên có những băng, dĩa phim ảnh, nhưng xem ở máy truyền hình, gò bó trong một khung màn nhỏ bé, dù hình quay điêu luyện, màu sắc hữu tình, phim ảnh thiếu một chiều sâu, thiếu hương vị mà chỉ có đứng trước cảnh sắc mới trực tiếp nhận thức được. Vì vậy, mỗi lần tại chỗ tôi cố ghi nhớ sâu đậm từng chi tiết trong ký ức để mong giữ được lâu dài. Và để giúp trí óc với tuổi tác ngày càng suy sụp, mặc dầu không phải phương cách tối ưu, nhưng thà có chút ít còn hơn không, tôi chụp ảnh những phong cảnh đã thấy, những cảnh tượng đã sống, cố gắng ghi nhận trung thực được chừng nào hay chừng nấy để sau nầy mỗi lần xem lại dễ ôn tưởng những cảm giác đã làm rung động lòng mình. Cái khó là máy ảnh lắm lúc không thực hiện đúng như mong muốn của người chụp. Có điều lạ lùng là mỗi lần tôi lại sợ không có dịp về lại hay về mà không có dịp sống những cảnh tượng đầy cảm xúc nên chụp thật nhiều ảnh, đôi khi quá nhiều. May bây giờ có máy số numérique nên mặc sức chụp mà không sợ thiếu phim như hồi trước với máy bạc argentique. Mấy đứa cháu tháp tùng thường ngạc nhiên hỏi sao tôi chụp nhiều ảnh thế nhất là những cảnh tượng đối với chúng không có một ý nghĩa gì : con trâu về chuồng, bông lúa mới trổ hay gánh hàng bán bún trên đường Lê Lợi. Thật ra, tất cả các ảnh chụp không đạt kết quả giống nhau, có khi gấp chụp mau thì ảnh xấu lại nhiều hơn ảnh tốt. Nhưng về nhà, soát trên máy, mặc sức loại bỏ những hình ảnh không thích, giữ lại một phần ba, một phần tư tổng số. Có bạn nhận xét tất cả những hình ảnh của nữ sĩ nhiếp ảnh Đào Hoa Nữ đều rất xinh đẹp. Thật thế, đấy là nhờ tài năng của nhà nghệ sĩ. Để đạt những kết quả tuyệt vời đó, chắc cô cũng đã ngược xuôi tất tả chạy tìm góc độ, chờ đợi ánh sáng, chứ chỉ trông mong ở may mắn thôi để có đủ điều kiện chụp được hình đẹp thì mấy lúc mà gặp được, mặc dầu tôi thường quan niệm may mắn hay lại với ai biết khích động nó, dọn đường cho nó, sẵn sàng đón nhận nó, và biết đâu cô cũng đã loại bỏ một số ảnh không vừa ý...
Rời nước vào tuổi đôi mươi, lại vào thời chiến tranh, tôi chẳng biết bao lăm cảnh đẹp của đất nước. Vì vậy, trong hai mươi năm gần đây, mỗi lần có dịp về thăm quê hương, tôi không tiếc công lặn lội bắc nam, chạy miền duyên hải, trèo núi cao nguyên, khi xe hơi, xe máy, khi cuốc bộ bao bị trên vai. Tôi lại còn phấn khởi tiện dịp giới thiệu cho nhà tôi, một cô dâu xa lạ, những phong cảnh hùng vĩ, những cảnh tượng hữu tình của quê hương mình. Trong nam, đồng bằng sông Cửu Long với dòng sông bạc ngầu cuồn cuộn, với những kênh lạch lao xao lau sậy để lại một ấn tượng khó quên. Đâu đây những cầu khỉ bấp bênh, mảnh dẻ cống hiến một hình ảnh sâu đậm của quê hương một thuở. Gần đây, nhiều hội đoàn đã thực hiện công tác hữu ích xây dựng những cầu bê tông thay thế, tiện lợi và an toàn thật, thế là hình ảnh các cầu khỉ dần dần sẽ biến mất trong phong cảnh miền quê. Làm sao quên được những ngày đi viếng quê hương Đồng Khởi, vượt Tiền Giang ở bến phà Rạch Miểu, để rồi mặc sức ngắm nghía các cô gái Bến Tre có nét mặt thanh tao trên một cơ thể vạm vỡ, với một giọng nói "ngọt ngào như sông nước Cửu Long". Tôi nhớ được mời ngủ một đêm ở hoa lạc viên Nhân Nghĩa, nghe tiếng gió rì rào trong hàng dừa cao vút, đầy trái ngọt lịm, cùng bác Minh nhấp chén rượu mùi ở đài Vọng Cảnh, cạnh các khóm long, kim, thủy trúc, các chậu nguyệt bạch, trang đài tỉa gọt công phu. Đi xa xuống miền nam, không khi nào tôi cảm thấy gần đất nước bằng lúc xe chạy qua những cánh đồng bát ngát, ruộng lúa xanh rờn, đàng xa những bầy cò vỗ cánh bay tít tận chân trời xanh thẳm. Tôi rất hãnh diện chụp được cảnh mặt trời lặn trên Biển Đông ở cạnh Hà Tiên. Về Pháp, khi cho bạn bè xem ảnh, tôi tự hào khoe khoang đã lặn lội hơn một vạn cây số mới chụp được những ảnh ấy
Lên miền Trung, nhà tôi và tôi đã chạy dọc đất nước Cham Pa tìm xem những di tích Chăm cổ hiện đang được thế giới chú ý và nhiều nhóm khảo cứu bỏ công khai quật, tìm hiểu. Kỷ niệm khó quên là hôm chúng tôi muốn viếng xem nhóm tháp Pô Dam. Xe hơi, xe máy không chạy lại được, chỉ còn một cách là cuốc bộ dưới nắng mặt trời gay gắt, trên hai đường rầy xen lẫn cỏ hoang gai góc, đầy dẫy rắn rết, có khi phải qua cầu nhảy từ thanh gỗ nầy đến thanh gỗ khác, chờ lúc tàu hỏa không bất thường chạy qua. Phần thưởng là trên đường về, không có quán cơm, người làng mời thưởng thức nước mấy trái dừa mát dịu vừa mới hái. Và kết quả là dương bản hình ảnh hiếm có của tôi được một ông giáo sư chiếu ở lớp dạy nghệ thuật điêu khắc Chăm ở điện Louvre. Ngoài Bắc, những thửa ruộng bậc thang xếp hàng trên sườn núi vùng Sa Pa cống hiến những bức tranh đẹp mắt mà tôi đã từng mục kích được trên các nẻo đường ở Tích Lan, Ba Li. Tô điểm vùng quê hùng vĩ nầy là y phục các cô gái sắc tộc, đủ màu muôn vẻ. Đáng tiếc là với cuộc phát triển của thời đại, hết còn thì giờ thêu thùa chuẩn bị một đám cưới cổ truyền, các cô đang mua vải Tàu loè loẹt may áo quần thay thế, bắt đầu một cuộc cách tân cần thiết nhưng chưa chắc đã đi đúng với chiều hướng mỹ quan. Miền Bắc may mắn có được nhiều chùa chiền xưa quý, kiến trúc độc đáo, chứa đựng những tượng hình chạm trổ tinh vi như tượng Quan Âm thiên thủ thiên nhãn ở Chùa Bút Tháp, những tượng Kim Đồng, Ngọc Nữ ở chùa Dâu, những tượng La Hán ở chùa Tây Phương được xếp vào những kỳ quan không những chỉ ở nước ta mà còn khắp thế giới. Làm sao không hãnh diện được khi thấy chiếu ở điện Louvre hình ảnh những hình tượng này xem là tượng trưng cho nghệ thuật Việt Nam!
Phong cảnh đẹp đẽ, nước non hữu tình khắp Nam, Trung, Bắc, bên ta có thiếu gì. Tôi rất lấy làm lạ và cũng có phần buồn khi nghe một anh bạn bảo không muốn về nước nữa vì không còn gì để xem... Tội nghiệp cho bạn ấy không biết tận hưởng cái đẹp Trời đã ban cho. Riêng phần tôi, hơn mười lần về thăm đất nước đã cống hiến cho tôi biết bao hạnh phúc và cũng biết bao kỷ niệm đã dồn lại trong mấy cuốn sách và mấy dĩa hình. Tuy vậy, hình ảnh đẹp từ Nam ra Bắc, xem đi coi lại trong sách, trong dĩa mãi không chán, đối với tôi cũng còn thiếu một cái gì đó. Khó đòi hỏi ở một cái ảnh một giọng nói, một lời bình, một điệu bộ thân thuộc. Khi nghe một con gà gáy trên đảo Cồn Phụng hay ở thôn Lao Chải, tôi tưởng như nghe một giọng nam hay giọng bắc tuy luôn vẫn là tiếng một con gà Việt Nam. Có lẽ trong thâm tâm tôi cái giọng tùy thuộc cái thấy. Xin đừng cười, nếu nghe con gà gáy ở An Cựu, chắc tôi nhận ra một giọng Huế! Vì vậy, mỗi lần về thăm cố đô, tôi không quên đưa nhà tôi rong dạo khắp vùng, xem xét tường tận nơi quen biết cũng như chốn chưa bao giờ đặt chân đến. Những năm nhà tôi soạn thảo luận văn về chùa Thiên Mụ, con đường quen thuộc của chúng tôi là từ nhà khách (nay không còn nữa) đường Lý Thường Kiệt, qua cầu Phú Xuân rồi dọc sông Hương lên đến Kim Long. Mấy anh phu xích lô hằng ngày thấy chúng tôi thường năn nỉ mời chúng tôi lên xe, không hiểu đi bộ đối với chúng tôi là một điều cần thiết. Có anh nhìn nhà tôi rồi quay qua tôi mạnh dạn: răng bố tiết kiệm không chịu lên xe, vài đồng tiền xe đã có bà Mỹ kia trả mà! Dạo ấy, quầy quán còn đang tấp nập trên bờ sông Hương, đi dạo ở đây chịu khó nghe nhìn là một điều thích thú. Cũng ở đây, chúng tôi đã hân hạnh có dịp kính cẩn nghiêng mình trước lăng mộ cha Léopold Cadière, người đã bỏ nhiều công khảo cứu, ghi nhận phong tục tập quán vùng quanh Huế mà những bài đăng trong tờ báo của Đô thành hiếu cổ BAVH ngày nay là những tập tài liệu quí báu. Và có phong cảnh nào hữu tình bằng khi ngồi trên thềm chùa Thiên Mụ nhìn con đò dọc yên tĩnh xuôi mái vào lúc chiều tàn, mây hồng lặng lẽ che bóng mặt trời sắp khuất.
Một con đường khác không kém phần thú vị là từ Gia Hội dọc theo sông Đông Ba đến Bao Vinh. Một lần đầu chúng tôi ngạc nhiên vui thú gặp được không biết bao quán bán chè đủ loại. Chúng tôi la cà từ quán nầy qua quán nọ, thưởng thức đủ thứ chè trong lúc các chị bán hàng mặc sức bàn tán về mái tóc của nhà tôi mà họ không biết là vàng hay bạc, thật ra lẫn lộn hai màu. Năm sau trở lại, các quán chè đã biến mất, để lại cho chúng tôi một nỗi thất vọng khôn xiết. Qua khỏi cầu Bao Vinh, chúng tôi rơi vào một lăng mộ tuy hoang vắng, rêu phong, cỏ dại mọc đầy nhưng còn giữ vẻ hoành tráng. Bên hông lăng, một đống bình vôi sứt mẻ hay còn nguyên vẹn nhưng đựng đầy vôi cứng. Một người qua đường giải thích đó là mộ táng một một vị khai canh. Chắc trong sách vở của làng còn có ghi tên tuổi sự nghiệp của con người hùng xưa đó. Đượm một nỗi luyến tiếc, chúng tôi không khỏi xao xuyến suy nghĩ về khái niệm vô thường và ngậm ngùi tự hỏi đâu là giá trị vĩnh cữu trên cỏi đời nầy. Đi ngang qua làng Phụng Hiệp, những làn điệu câu hò ru con giọng Huế đặc sệt vang vọng từ sau mầy hàng rào bông kiểng xác nhận đây chính là quê hương tôi. Một thích thú khác bất ngờ lại đến với tôi: bản tên quán nước Đã đành trong một ngỏ hẽm, như tiếng thở dài của một thiếu phụ chịu đựng số phận của mình. Tên quán nầy là bước đầu một cuộc săn kiếm thú vị: Giọt đắng, Chiều nhớ gợi lên biết bao tâm tình của kẻ phải chịu đau khổ hay đang phải xa cách người yêu. Quán Lộng gió thể hiện trời nước mênh mông trước một sông Hương sóng nước khuynh thành, một dãy Trường Sơn trùng trùng điệp điệp. Và bao nhiêu cảm xúc chỉ còn biết thổn thức trong quán Thì thầm trên đường lên các lăng, sau núi Ngự Bình trụi bóng cây xanh, trong tiếng gió rì rào mấy đồi thông xào xạt.
Một chuyến dạo chơi ghi nặng trong trí ức là băng qua Đập Đá, xuống đến Vỹ Dạ, thẳng đường Cồn Hến. Ở đây, muốn ăn cơm hến, phải lại thật sớm và thích cơm nguội. Buổi chiều chỉ còn có đi nhìn mấy hàng cau để tưởng nhớ đến nhà thi sĩ đa tình mặc dầu mấy câu thơ bất hủ ca ngợi ánh nắng ban mai. Cảnh vật tĩnh mịch ở đây rất phù hợp với những ngôi miếu có phần điêu tàn, nghe nói sẽ được trùng tu. Có cô con gái giải thích cho chúng tôi là để thờ Bà. Nhà tôi đang còn dang dở với Bà Trời Thiên Mụ nên muốn tìm biết là thờ Bà nào. Thì Bà là Bà ! Có lẽ chỉ có một Bà nên dân chúng không cần chỉ định là Bà nào. Nhớ đến hồi Nguyễn Hoàng vào trấn nhậm ở đây, có thể không muốn cùng thờ bà Liễu Hạnh như ở ngoài Bắc, nên phải tạo ra một Bà Trời riêng biệt để khẳng định bản chất độc lập của mình, dù phải dựa vào một vị thần bản địa có thể là Thiên Y A Na, không phải Việt mà Chăm. Thì thôi, cứ việc Việt hóa bà ta đi. Hơn nhiều trăm năm trước, vị chúa Nguyễn đầu tiên đã có ý chí thống nhất các sắc tộc thành một dân tộc Việt Nam mà ta là người thừa kế làm sao cho xứng danh truyền thống. Bên cạnh bờ sông có thờ một phiến đá hình tam giác gọi là ông Mốc, lúc trước là cái cọc để đánh dấu ranh giới hai làng. Một phiến đá khác ngày nay nằm ngay giữa đường nhưng không ai dám chạm vào vì nghe nói rất linh thiêng. Cô gái hồi nảy căn dặn chớ đá chân vào, sẽ bị Ngài trừng phạt ngay. Từ biệt Bà, từ biệt Ngài, trên chuyến đò chở từ Cồn Hến (bây giờ hết còn đò!) về đến bến cầu Trường Tiền, nhìn mây trời bát ngát, sóng nước dao động, chúng tôi không khỏi bâng khuâng về chuyện tín ngưỡng của người Huế nói riêng, của người Việt Nam nói chung. Nhưng nói cho cùng, dân tộc nào mà không có chuyện tin tưởng thần linh, ngay cả bên Nhật Bản là một nước tân tiến về mặt khoa học kỹ thuật mà vấn đề thờ cây, cúng đá luôn vẫn tồn tại, còn có người Phù Tang hãnh diện tôn vinh việc thờ phụng thiên nhiên, tạo hóa. Đừng nói đến những nước khác như Ấn Độ, Nam Dương, Miến Điện,... thì tín ngưỡng dân gian vô cùng phong phú và chắc còn lưu lại lâu dài.
Chuyến dạo chơi quanh thành nội gợi lại trong trí ức tôi cả một thời đang lớn lên. Từ nhỏ, thời tiểu học, trọ ở Kho Rèn, tôi đã từng theo các anh tôi vượt cầu Trường Tiền qua phố, vào thành nội, đi quanh các cung điện, viếng thăm mấy Viện Bảo tàng rồi vào Tịnh tâm xem sen, mỗi lần là cả một cuộc hành trình xa xôi đầy cảm hứng. Vào ngày sinh nhật vua Bảo Đại, học sinh các trường từ sáng sớm đã phải tập trung diễu hành trước lầu Ngọ Môn, hô to Hoàng đế vạn tuế, từ xa chỉ thấy đức vua khăn áo vàng hoe thấp thoáng giữa đám quan viên triều phục chỉnh tề. Bất bình là sau cuộc diễu hành, nghe nói chỉ có con cháu Tôn thất được mời dự tiệc mừng vua còn bao nhiêu học sinh khác phải lủi thủi ra về. Sau nầy, ở Paris, tôi có dịp gợi với lại Cựu Hoàng những kỷ niệm xa xôi nầy vài năm trước khi Ngài mất và Ngài tuồng như không còn nhớ gì nữa. Lớn lên, ở tuổi trung học, theo Hướng đạo, Kỳ đài là nơi thi truyền tin để thi lấy badge: tôi còn nhớ một anh thủy quân được nhờ lại đứng trên chân cột cờ, phất hai cánh cờ nhỏ đánh một bản sémaphore ; hồi ấy tôi tự hào đọc giỏi khi học tập, vậy mà trước tốc độ biểu diễn của người chuyên nghiệp ngày thi chỉ biết lắc đầu chịu thua. Sau nầy đây là nơi tôi được chứng kiến những cuộc thả diều ngoạn mục. Nhưng kỷ niệm sâu đậm nhất là những năm cách mạng, trường Khải Định dành cho Giải phóng quân, học sinh phải vào học trong nội. Đây là cung cấm thời trước, bây giờ mặc sức chạy nhảy, đùa giởn, đá banh. Chúng tôi ngang nhiên tranh nhau trong vài phút ngồi lên ngai vàng ở Điện Thái Hòa, đóng vai vua nhìn ra bái đình tưởng như đang có chín hàng quan lại phủ phục tỏ lòng tôn kính. Ngày nay, Điện Thái Hòa được sơn son thép vàng chói lọi mới tanh nhưng ở đằng sau Tử cấm thành chỉ còn là một khuôn viên điêu tàn, vết tích một thời vàng son không bao giờ trở lại nữa.
Tôi còn muốn kể thêm một chuyến hành hương đầy kỷ niệm thời xưa : dọc con sông đào An Cựu. Trước khi rời Huế, tôi trọ tại nhà anh tôi truớc tản cư ở gần cung An Định (bây giờ thành quen biết với mấy quán bèo nậm lọc bên cạnh), tản cư thì về ở bên kia sông, ngay truớc Dòng Cứu Thế. Sông An Cựu không nắng đục mưa trong như trong câu hò mà vào kỳ khai giảng thường mưa lớn và nước sông dâng lên đục ngầu, ngập hai đường bên bờ sông. Ngược dòng sông một khoảng là xóm Kho Rèn, nơi tôi trọ tại nhà anh cả lúc còn học tiểu học. Tôi còn nhớ mỗi lần về khuya, đi ngang qua Nhà Máy Điện nghe máy chạy rầm rộ mà sợ vô cùng. Lên một khúc nữa là xóm Phủ Cam, nhà anh cả tôi dọn lên ngay trước trụ sở đức Hồng Y mà mỗi chủ nhật có xe hơi đưa bà Nam Phương lại rửa tội. Mấy năm đầu mới về, tôi thích vào các hẽm xóm xem gọt tre, ủi lá làm nón, một nghề ngày nay đang mai một. Tiếp theo xóm nầy là Bến Ngự của cụ Phan Bội Châu. Đâu còn nữa chiếc đò đậu gốc cây sung? Ở cạnh cầu là một dãy quán bán guốc đủ loại, chọn xong là người bán đóng ngay quai guốc theo đúng chân mình. Lên một chút nữa là Nam Giao. Làm sao quên được ngày tế, đứng đợi trên đường từ sáng để xem đoàn rước cờ xúy rập trời, đức vua Bảo Đại trẻ đẹp, nghiêm nghị trong chiếc kiệu sơn son thép vàng mà đúng ra người dân đen phải cúi đầu, không có quyền nhìn ngó. Và trước khi đổ vào sông Hương, dòng sông lướt qua trước nhà ga với những chuyến đi, chuyến về từ Mỹ Chánh trước và sau các kỳ nghỉ học, những cuộc chen chúc mua vé, dành chỗ ngồi, những nỗi buồn ly biệt, chia tay,... Từ An Cựu tiến vế phía nam là Nghẹo Dàng Xay dẫn lên chân núi Ngự Bình, nơi có mồ mã cụ mạ và anh tôi. Năm vừa rồi, tôi có đem gia đình đứa con trưởng về đây đốt nén hương tưởng nhớ ông bà đã có công gây dựng một gia đình mà họ không hề có một ý tưởng ngày nay đã phát triển rộng lớn thế nào trên khắp năm châu.
Hình ảnh quê hương biết bao lưu luyến, nhất là những hình phong cảnh gợi lên những nơi chốn đã sống, những hình cảnh tượng ghi lại những kỷ niệm vui buồn. Đêm khuya không ngủ, dù không có tiếng gà gáy eo óc, tiếng chuông chùa ngân nga, cuốn sách, dĩa ảnh, dù không có giọng nói quen thuộc, tiếng hò da diết, là nơi khuây khỏa lòng thương thầm kín, nỗi nhớ mông lung của kẻ tha hương nơi đất trời xa lạ.
Xô thành một đêm không ngủ xuân 2006
Sông Hương ngoài biên giới nxb Trẻ 2006

7- CHỒNG VÀ CHÙA
Giới thiệu một cuốn sách: Chùa Thiên Mụ ở Huế
Bao giờ cạn nước Đồng Nai
Nát chùa Thiên Mụ mới sai tấm lòng.
Hò Huế
Năm 1988, sau 30 năm sống chung với nhau, tôi mới có dịp đem nhà tôi về thăm quê hương, xứ sở. Lần đầu tiên về thăm tổ quốc ông chồng, ở một đất nước xa xăm, cách quê mình hơn một vạn cây số, lẽ tất nhiên nàng bồi hồi xao xuyến nhưng không thấy xa lạ vì không phải đi một mình và nhất là nhờ mấy chục năm chia sẻ vui buồn với một người không ngớt cống hiến đủ mọi cách để nàng tìm hiểu một nền văn hóa xưa cổ, một dân tộc hào hùng. Trong nhiều năm, chúng tôi đã đi từ Nam ra Bắc, chạy ngang dọc đồng bằng sông Cửu Long, suốt duyên hải miền Trung, lên Tây nguyên hùng vĩ, tham quan danh lam thắng cảnh quanh sông Hồng, không quên ghé nhiều ngày đất Thần kinh quê quán của tôi. Cùng với Đại nội, lăng tẩm, chúng tôi chú trọng nhiều đến các chùa chiền luôn còn sống động trong lòng dân chúng. Trong số các nơi thờ Phật, một ngôi chùa làm nàng xúc động và chúng tôi đã để nhiều giờ khi thơ thẩn xốc lá rụng sân vườn, ngắm bông hoa tươi thắm, khi đàm đạo với mấy vị sư hay ngồi trên những bậc thang trước chùa trầm ngâm nhìn mây trắng tỏa bóng sông Hương: chùa Thiên Mụ. Tọa lạc xa thành phố náo nhiệt, tĩnh mịch của một nơi tu hành, có một tầm nhìn bao quát khúc sông trầm lắng, ngôi chùa nầy khác hẵn những cửa thiền khác trong vùng và không phải tình cờ mà chùa được đựng lên ở đó.
Vì vậy, về lại Pháp, vào lúc hưu trí sau một đời giảng dạy hóa học ở đại học, lại lết ghế nhà trường để trau dồi Việt ngữ sau mấy chục năm tạm gác dở dang. Khi cần phải soạn thảo một luận văn cử nhân ngôn ngữ và văn minh Đông Á, được ông giáo sư khuyên nên chọn một đề tài trong ấy tác giả có dịp trình bày đủ mặt lịch sử, đạo giáo, văn hóa, kiến trúc, điêu khắc, là những ngành học nàng đang chú trọng và kiếm cách hoàn thiện những năm sau nầy, nàng vui mừng tìm ra ở chùa Thiên Mụ một đối tượng có thể thực hiện trong khả năng của mình. Thật vậy, được xây dựng từ thời chúa Nguyễn Hoàng năm 1601, vài năm sau từ ngoài Bắc vào đây lập nghiệp, trở thành ngôi chùa chính thức của triều Nguyễn, liên tục chứng kiến những bước thăng trầm, những thời thịnh suy của vương triều cuối cùng nước ta, góp phần vào cuộc phát triển Phật giáo ở Việt Nam, chùa Thiên Mụ hay Linh Mụ Tự đã để lại nhiều tài liệu trong sách sử, những chi tiết ngay tại chỗ mà hiện ngày nay lắm nhà học giả đang còn bỏ công tìm hiểu. Hơn nữa, từ năm 1993, là một cơ sở quan trọng của Huế, cùng với thành phố, chùa đã được Cơ quan Văn hóa Liên hiệp quốc công nhận làm Di sản Nhân loại. Sau một thời gian lục lọi ở các thư viện Paris, nàng đã về Huế hai năm liền để xem xét kiến trúc, trang trí trong chùa, cùng mấy vị sư và bà con bạn bè Phật tử tìm hiểu vai trò của thiền thất trong đời sống cộng đồng ở chốn đế đô. Như đứa con cưng từ xa trở về, tôi đã mở được cho nàng một số cửa gần đây hầu như khép kín, mặc dầu khách tham quan ngày càng đông vì không một tuyến du lịch nào ghé Huế mà có thể bỏ qua chùa Thiên Mụ. Hơn nữa, tôi được nàng cậy làm phóng viên nhiếp ảnh chụp hình minh họa luận văn, một bổn phận thích thú mà tôi không cần được mời mọc mới thực hành.
Luận văn soạn xong, nàng đã đưa trình bày trước ban giám khảo gồm có Giáo sư Philippe Langlet, Viện Đại học Paris VII, và anh Nguyễn Phú Phong, Giám đốc Nghiên cứu ở Trung tâm quốc gia Khảo cứu Khoa học Pháp tháng 6 năm 1998. Phải đợi sáu năm, luận văn mới được tờ Péninsule, Cơ quan khảo cứu liên ngành về bán đảo Đông Nam Á, chịu nhận cho in thành bài báo, nhưng vì số trang có hạn, báo yêu cầu rút gọn chương bàn luận về Phật giáo Việt Nam, cắt bỏ thư tịch, phương pháp soạn thảo cùng những phụ lục tưởng rất bổ ích cho những khảo cứu viên có thể dùng làm tài liệu. Phần hình ảnh cũng bị giới hạn rất nhiều, báo chỉ muốn giữ những hình cần thiết cho việc chứng minh, nàng phải ra sức thương lượng báo mới chịu cho thêm vài cái. Điều tích cực là báo trình bày rõ ràng, in đẹp, ngay cả hình ảnh mặc dầu không in lên giấy bóng. Theo yêu cầu của nàng, bài báo được góp lại in ra thành sách Cahier de Péninsule (*), có thêm những bài giới thiệu của Giáo sư Minh Chi, Phó Viện trưởng Viện Phật học Thành phố Hồ Chí Minh và Giáo sư Philippe Langlet, giám đốc đề tài.
Tuy rút gọn thành một cuốn sách nhỏ dưới 100 trang, luận văn nầy đáp ứng nhu cầu của một công trình nghiên cứu đại học của sinh viên mức cử nhân vì nội dung phong phú nhưng không rườm rà, hiến cho người đọc một cái nhìn tổng quát đầy đủ về một ngôi chùa được sắp trong số những thiền thất xưa nhất của xứ Huế. Thật vậy, chùa Thiên Mụ đã được xây dựng trên công trình một ngôi chùa củ mà ngôi chùa củ nầy cũng đã dựa lên nền tảng một ngôi tháp Chăm. Cũng dễ hiểu vì trước khi Đoan Vương Nguyễn Hoàng vào đến đây, vùng nầy là đất nước Champa, dù có người ở, đối với di dân người Việt là nơi hoang vu, man dã
Đến đây đất nước lạ lùng,
Con chim kêu cũng sợ, con cá vùng cũng lo.

Những năm gần đây, nhiều cuộc quật khởi tìm kiếm di tích Champa cổ đã được thực hiện trên đất Thừa Thiên Huế, nếu đào bới quanh chùa Thiên Mụ chắc sẽ bắt được một vài tàn tích giúp biết thêm đôi chút về ngôi tháp Chăm kia mà những nhà khảo cứu đã có đặt câu hỏi. Sau đó sự tích trong Việt Nam khai quốc chí truyện hay trong Đại Nam thực lục tiền biên kể chuyện một bà già mặc áo đỏ quần xanh như một thiên thần lại báo tin "sau sẽ có một vị chân chúa đến sửa chùa này mà thu góp khí thiêng để giữ long mạch cho lâu bền" đem lại cho nhà Nguyễn một quyền chính thống và ngôi chùa một danh xưng thích hợp: chùa Thiên Mụ. Khi nhà Nguyễn muốn độc lập đối với Bắc hà với bà Liễu Hạnh thì cũng cần có trong Nam một Bà Trời tương ứng dù bà này là Pô Inu Nagar xuất thân từ tin tưởng của người Chăm. Âu cũng là một chuyện nhập gia tùy tục.
Trong gần 350 năm, cho đến những sự kiện lịch sử năm 1945, chùa đã lần lượt được các chúa Nguyễn rồi các vua Nguyễn tiếp tục mở mang, xây dựng, trang trí, trùng tu. Đặc biệt Minh Vương Nguyễn Phúc Chu cho xây những Điện Đại Hùng, Điện Địa Tạng, Điện Quan Âm, đúc Chuông Đại Hồng Chung bằng đồng nặng hơn hai tấn, vua Thiệu Trị cho xây Đình Hương Nguyện với bánh xe Pháp luân, tháp Từ Nhơn bảy tầng, sau đổi tên thành Bửu Tháp Phước Duyên. Trong chừng ấy năm, chùa đã là đỉnh cao Phật giáo của cả một vùng. Ai đi ngang qua Huế mà không nghe tiếng chuông chùa
Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Thiên Mụ canh gà Thọ Xương
dù không biết câu hò Huế này phát xuất từ một câu thơ của Dương Khuê ngoài Bắc với tiếng chuông Trấn Vũ. Thú vị là câu hò ấy cũng theo đà Nam tiến
Gió đưa tàu chuối la đà
Tiếng chuông Xá Lợi canh gà Thủ Thiêm!
Tiếng chuông chùa thả hồi hằng ngày là chiếc cầu nối chốn cửa thiền với đời sống dân gian. Chỉ một chuyện tình tự cũng qua sự chứng kiến của chùa
Tiếng chuông Thiên Mụ dặn dò
Em đi: cảnh vắng, hẹn hò cùng ai?
Một thi sỉ như Nam Trân Nguyễn Ngọc Sĩ, thời tiền chiến, làm sao không cảm xúc được trước cảnh hữu tình của Huế đẹp và thơ
Mờ ớ xa xa gà gáy sáng
Trong chùa canh cảnh tiếng chuông hồi.
Éo le có lẽ là sự tích truyền miệng kể lại chuyện tình của Hoàng Cô em vua Gia Long yêu đương sư ông Liễu Đạt Thiệt Thành từ Gia Định được mời ra Huế làm tăng cang ở chùa Thiên Mụ đồng thời pháp sư trong triều đình; khi thấy nhà sư tự thiêu để tránh mọi liên lạc vật chất trên đời này, cô nàng cũng thất vọng tự tử... Cảm động hơn là ngay trên tường chùa, đau đớn không nguôi sau khi bà Kính Phi Nguyễn Thị Lan lìa trần để lại 11 đứa con, chúa Hiển Tông Nguyễn Phúc Chu gởi gắm lòng mình vào bốn bài thơ, tuy tường đã trúc, may mắn còn được ghi lại trong Đại Nam liệt truyện tiền biên.
Vấn thiên hà sự thiết ngô phi!
Hoa tạ, tam cung nguyệt yếm huy.
dịch:
Cớ chi trời lại cướp phi ta!
Hoa rụng, ba cung bóng nguyệt tà.
Chùa đã phản ảnh một phần nào tâm tư của dân gian, vua chúa cũng như thi sĩ hay người dân thường.
Đọc cuốn sách nầy, độc giả biết thêm được một khúc sử Việt Nam, hiểu thêm một phần văn hóa, đời sống ở chốn sông Hương núi Ngự và nhất là theo dõi sự tích một ngôi chùa Phật giáo quan trọng bậc nhất suốt miền Trung. Philippe Dumont, trong tờ Carnets du Vietnam, nhân bài giới thiệu sách, đã viết "học để hiểu" và khuyên khách du lịch nên đọc để khỏi phải "faire" (có thể hiểu lướt qua) ngôi chùa. Hội Những Người Bạn Viễn Đông AFAO thấy ngay lợi ích của cuốn sách cho những khách tham dự các chuyến tổ chức của mình nên nhận lời ủng hộ tinh thần việc xuất bản. Thật vậy, ví chi dịch ra Việt ngữ như đã có nhiều người đề nghị, khi cho in bằng tiếng Pháp, với một khổ sách vừa tầm, nhà tôi nhắm các độc giả tiếng Pháp, đặc biệt những du khách đã có ghé qua chùa và muốn đem về một kỷ niệm có ý nghĩa. Công tác khảo cứu nầy có thể tiếp tục trong khuôn khổ một luận án tiến sĩ, nhưng nhà tôi nghĩ đã quá thất thập cổ lai hy, hết còn tuổi sưu tầm bằng cấp. Trái lại, nàng để dành thì giờ tự do tiếp tục học hỏi văn minh Đông Nam Á ở Trường Cao học Thực hành EPHE, lịch sử nghệ thuật, điêu khắc Chăm ở Viện bảo tàng Louvre, đạo giáo ở Viện Đại học Phật giáo Âu châu UBE,...
Lấy chùa Thiên Mụ làm đề tài luận văn, nhà tôi đã đi sâu vào lòng dân tộc Việt Nam, quê hương của chồng. Tôi mừng thầm vì càng đi sâu vào lòng người Việt, nàng càng biết rõ hơn tâm hồn tôi. Nhà văn Trần Công Tấn đã có tặng cho nhà tôi trong một bài báo đăng ở các tờ Phụ Nữ và Sông Hương, danh hiệu "nàng dâu Tây của Huế", tôi thì thường nói nôm na"cô đầm dâu Huế" gây tò mò trong giới phụ nữ đất Thần kinh. Những người bạn Pháp cho là nàng đã bị Việt hóa, trong khi ấy những bạn tôi thì lại bảo tôi đã thành Tây. Tuy nhiên anh bạn giáo sư Cao huy Thuần trong bài giới thiệu cuốn sách Gởi thương về Huế sắp xuất bản của tôi thì lại viết tôi đã Việt hóa nơi tôi ở, vợ con tôi... Thật ra, sống tha hương, lập gia đình nơi đất khách quê người với một bạn đường ngoại quốc nên chăng nhập gia tùy tục, sống hội nhập nơi định cư, hòa hợp với môi trường, có thế mới mong tổ chức được một cuộc đời hài hòa, đằm thắm, vui thích cho chính mình, cho gia đình mình và cho cả cộng đồng.
Xô thànhTết Bính Tuất 2006
Đoàn Kết 503 - 504 2006
(*) Le temple de la Dame Céleste (Chùa Thiên Mụ) à Hué
sanctuaire bouddhique et miroir de l'ancienne capitale du Vietnam
Etude de Võ Quang Liliane - Phographies de Võ Quang Yến
Cahiers de Péninsule n° 6 (2004), 94 trang, 23cm
Editions Scripta SEGIP, Resmarec, 22170 Lanrodec (France) ediscripta@aol.com

Tập II : Làm gì cho Huế 

8- HƯỚNG VỀ MIỀN TRUNG 
Một cây làm chẳng nên non
Ba cây chụm lại thành hòn núi cao.
Ca dao
Nước Việt Nam ta là một dãy đất dài mà đến nay quyền lực thường được tập trung vào hai cực bắc nam: Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh. Miền Trung, dù phong cảnh có hữu tình bao nhiêu đi nữa, vẫn luôn thiếu thốn mọi bề, từ hạ tầng cơ sở qua chất xám, năng lực,... Cách đây mấy năm, khi tôi về nước công tác trên vấn đề rau câu, chiết xuất agar, một ông thứ trưởng thân mật bảo tôi: "Anh đừng mất công với Huế, chẳng được gì đâu!". Hồi ấy, tôi không muốn tin. Giờ đây, sau mấy năm lặn lội chật vật mà mục tiêu vẫn chưa đạt được, nhớ lại lời khuyên ấy, tôi kiếm cách tìm hiểu.
Một vài nhận xét dễ thấy từ đất Pháp: giáo sư, bác sĩ, thực tập sinh Việt Nam qua Pháp tham quan hay tu nghiệp rất ít người phát xuất từ miền Trung. Cách đây tám năm, tôi gặp được một bác sĩ làm việc ở bệnh viện Huế nhưng anh là người Bắc. Nếu có thực tập sinh người Huế thì họ là người công tác ở Hà Nội hay Thành phố Hồ Chí Minh. Sau nầy, phải đợi khi có sự kết hợp giữa hai trường Đại học Huế và Paris VI mới thấy các giáo sư và bác sĩ Huế qua Pháp. Gần đây, bắt đầu có vài giáo sư Pháp ngữ. Còn thực tập sinh trường Đại học Tổng hợp Huế thì đếm trên đầu ngón tay. Người ta có thể lấy lý do là chuyên gia Huế không có đủ tài lực. Cũng có thể anh tài đã tránh về Huế làm việc, hay đã lỡ về thì lại kiếm cách bỏ đi. Hỏi Phòng Hợp tác Khoa học Kỹ thuật ở bộ Ngoại giao Pháp thì được trả lời đây là chuyện nội bộ Việt Nam, họ không muốn nhúng tay vào. Tuy nhiên, vài năm trước đây, Sứ quán Pháp ở Hà Nội rất mong muốn thực hiện một công trình gì ở miền Trung trong khuôn khổ hợp tác giữa hai nước.
Trong một cuộc gặp gỡ giữa những nhà khảo cứu Pháp có dự án hợp tác với Việt Nam, một đề nghị được đưa ra: Pháp chỉ nên làm việc với những cơ quan, những trường đại học nào đã sẵn có một đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật nếu không xuất sắc, ít ra cũng phải có mức độ khá cao. Về mặt hữu hiệu, đây là một điều kiện cần thiết. Tuy nhiên, tôi đã lên tiếng bắt bẻ vì đề nghị nầy ưu đãi các thành phố lớn như Hà Nội hay Thành phố Hồ Chí Minh. Hồi ấy, đang chuẩn bị chương trình rau câu - agar cho Huế, tôi đã mạnh dạn nhấn mạnh cần phải giúp các trường học, các thành phố nhỏ mới mong họ có cơ hội ngóc đầu lên. Ngay sau cuộc bàn cãi sôi nổi đó, vị tham tán chịu trách nhiệm về văn hóa và khoa học ở sứ quán Việt Nam tại Pháp gán cho tôi danh hiệu "le fanatique de Hué", có thể hiểu là người cuồng tín hay người nhiệt tín của xứ Huế. Tôi tưởng có thể hãnh diện với lời chê - khen nầy. Dù sao, kỳ họp năm 1987 của Ủy ban Hỗn hợp Hợp tác Khoa học Kỹ thuật Pháp - Việt đã chấp thuận dự án để rồi đặt lại vấn đề kỳ họp năm 1989. Ngày nay, dự án tạm ngưng để đặt vào một chương trình rộng lớn toàn quốc về khảo cứu tất cả tài nguyên biển cả, từ nuôi tôm, nuôi cá, qua trồng rau câu, vớt rong tảo, chế biến mọi hóa chất,... Trong một chương trình khuôn khổ quốc gia nầy, chưa biết số phận dự án rau câu - agar Huế sẽ trôi dạt vào đâu.
Tôi đang phân vân về khả năng của một thành phố nhỏ trong cuộc thực hiện một chương trình khoa học kỹ thuật cỡ vừa hay cỡ lớn thì nhận được thư Đà Nẵng. Đà Nẵng có tiếng là năng động, người dân tháo vát. Mặc dầu không có đầm phá để nuôi trồng rau câu như ở Thừa Thiên, ty Hải sản cũng muốn xây dựng một đơn vị sản xuất agar và họ sẵn sàng bắt tay làm việc chung với Huế. Vậy thì trên một đề tài rất có giới hạn nầy, tại sao không họp ba thành phố Huế, Đà Nẵng, Nha Trang lại để cùng thực hiện chung dự án? Nha Trang có kinh nghiệm về công tác nầy từ lâu, giúp vào một tay thì việc lại chóng thành. Gần đây, phòng thí nghiệm ở trường Đại học Lille ở Pháp đã từng làm việc với trường Đại học Tổng hợp Huế cũng có nhận được yêu cầu hợp tác của Nha Trang. Ví như làm việc riêng biệt, sao lại không hợp lực với nhau? Như vậy, mỗi thành phố với thế mạnh của mình có thể đóng góp đắc lực.
Từ một vấn đề tương đối nhỏ nầy, nếu làm chung được việc, có thể mơ đến một cuộc hợp tác rộng rãi hơn trên nhiều lĩnh vực văn hóa, kỹ thuật, kinh doanh, du lịch... Đây không phải là một cuộc hợp tỉnh (để rồi đi đến chia tỉnh) như đã thấy mà là một công tác chung, có thể nhất thời, trong một vài dự án chủ yếu, cấn thiết. Mỗi một thành phố vẫn giữ riêng nền hành chánh độc lập của mình. Lấy đề tài du lịch cho dễ thấy: có ai đi viếng thăm Huế mà không muốn tham quan toàn miền Trung? Nha Trang, Đà Nẵng nằm cùng Huế trong một chương trình du lịch là chuyện dĩ nhiên thiết thực. Tôi nhớ đến "làng ẩm" bên nước Sri Lanka là tổ chức tụ họp những nhà nông trong một vùng với mục đích chăm lo việc chia nước, sửa sang đê, rạch để phân phối nước từ trên các ngọn núi lửa chảy về, không dính dấp gì đến "làng khô" là cơ quan hành chánh: tổ chức nầy vận dụng từ nhiều thế kỷ!
Có người bảo tôi kém trí nhớ: Đà Nẵng và Huế là anh em kình địch, trong quá khứ ít khi ăn ý với nhau. Đây là chuyện đã qua, cần chăng phải nhắc lại. Thêm nữa, đồng ý với nhau vì thấy lợi ích cho mỗi bên trên một vài đề tài là thừa đủ. Khi đã làm việc chung với nhau trong các lĩnh vực ấy, biết nhau, quý trọng nhau rồi, tất nhiên mọi kỷ niệm ít vui, ít tốt sẽ dần dần quên đi. Điểm quan trọng mà các thành phố nên luôn nhớ là giữa hai cực bắc, nam tương đối khá mạnh, một miền Trung vươn mình trổi dậy, gây lên một sức mạnh vững chắc thì dễ thực hiện một thăng bằng cần thiết cho toàn thể quốc gia. Đây là hình ảnh mà chúng tôi mong các nhà lãnh đạo lưu ý. Bên Pháp nầy, ngoài Hội Người Yêu Huế, còn có các hội thân hữu Nha Trang, Đà Nẵng: tôi chắc là các bạn sẽ sẵn sàng bắt tay hưởng ứng công cuộc kết hợp này. Nhưng mọi sự phải bắt đầu bên Việt Nam.
Hắc Ký Ni Sơntháng 11.1990
Đại Đoàn Kết 49 1990

9- LÀM GÌ CHO HUẾ 
Lần này rời Huế (1989) cũng như mọi bận khác, các bạn bè tiễn đưa đều ân cần nhắn nhủ: gắng làm chút gì cho Huế nhé! Vâng, thương Huế, nhớ Huế đâu có đủ, mỗi người xa Huế cần thấy phải làm gì cho Huế, cho xứ Huế thân thương, như là một chuyện dĩ nhiên. Cái khó là làm gì hữu ích cho đồng bào xứ sở, cho chính người dân đang nghèo khổ, khó khăn.
Có nhiều bạn bè đã chịu khó chạy xin thuốc men, thu lượm dụng cụ máy móc mới, cũ gởi về, hoặc quyên tiền lập quỹ học bổng, xây dựng nhà trẻ hay dựng trại nuôi dê lấy sữa. Bên nhà nhận được quà biếu thì vui mừng thu lãnh nhưng liệu viện trợ rồi có lâu dài vĩnh viễn không? Và sống mãi với tinh thần chờ đợi bên ngoài thì biết bao giờ mới bay nhảy được một mình? Đi xa hơn, điều đình với các cơ quan quốc tế đưa về đắp đập, xây dựng trạm bơm nước, nhà máy thủy điện,... là việc làm có tầm mức lâu dài hơn. Tự lực cánh sinh là một khẩu hiệu rất hay mà tôi thường được nghe nói bên nhà từ lâu. Bạn thương dân thì quý nhất là giúp họ có phương tiện phát triển. Trong quá khứ, người Việt đã chứng minh có đủ thông minh trí tuệ để tháo vát trước các tình thế khó khăn. Giúp họ dụng cụ, kỹ thuật tức là giúp họ làm ăn để tiến tới một cuộc sống độc lập... Tây Đức, Nhật Bản kiệt quệ biết bao sau thế chiến thứ hai, vậy mà ngày nay đứng vào hạng cường quốc thế giới. Gần ta hơn, Đại Hàn, Đài Loan, Thái Lan, Singapor, cách đây không lâu còn đang là các nước chậm tiến mà nay đã trở thành những rồng con năng động, nay mai sẽ giữ một chân đứng quan trọng không những quanh Thái Bình Dương, "lỗ rún" tương lai của nhân loại, mà còn có thể trên cả toàn cầu.
Việt Nam đang ở vào một tình trạng lịch sử và chính trị đặc biệt. Có thể nói ta đang có nhiều khó khăn sau mấy chục năm chinh chiến, nhưng chưa chắc đã có nhiều hơn một vài nước khác, vậy mà người ta đã ngấc đầu lên được. Riêng Huế ở vào một địa điểm ít thuận lợi: kỹ nghệ ít ỏi, canh nông không nhiều, giao thông đi lại khó khăn. Nhiều người còn bảo, mặc dầu cách mạng, chiến tranh, Huế vẫn chưa lột bỏ được hết tinh thần quan lại đã một thời tiêm nhiễm hai bờ sông Hương. Đây lại là một điểm khó khăn khác cần phải khắc phục nếu Huế muốn vùng lên để tự giải thoát cho mình. Mấy năm nay, Huế muốn mở mang du lịch. Ý kiến nầy có căn bản, phát triển được là một lối thoát rất tốt cho Huế. Nhưng du lịch ngày nay đã đạt đến một mức độ rất cao, không thể chỉ biếu cho khách bầu thơ túi rượu như thời ông cha ta ngày xưa là đủ. Ngoài những tiện nghi tối thiểu cần phải cung cấp đầy đủ (khách sạn, quán cơm, giải trí,...) ta còn phải biết cách tổ chức, tiếp đón, lưu khách, tìm kiếm phương tiện cống hiến du khách một kiến thức không rộng lớn cũng vừa phải về văn hóa lịch sử của Huế, vì ta có thể tự hào thành phố của ta là độc nhất ở Việt Nam còn có đủ thành quách lăng tẩm của vua chúa một triều đình bên cạnh những thắng cảnh sông nước hữu tình : Bạch Mã, Túy Vân, Cảnh Dương, Trường Sơn...mấy ai bước qua một lần mà không muốn dừng lại. Có điều du lịch là một vấn đề cần phải giải quyết cho cả toàn quốc vì chuyện giao thông đi lại, đổi chác ngoại tệ, thị thực thông hành,... đâu phải là việc riêng của Huế. Vì vậy dù muốn dù không, du lịch ở Huế phụ thuộc rất nhiều vào chương trình phát triển của cả nước.
Trong chuyến về thăm quê vừa qua, tôi may mắn được đưa đi xem vài cơ sở tiểu công nghệ ở Huế. Nón lá, đồ mây, vải thêu là những sản phẩm có thể bán ra nước ngoài, tuy còn phải hoàn hảo thêm, nhiều khi phải cố gắng theo chiều hướng thẩm mỹ của khách hàng. Có lẽ đồ gốm, chạm cẩn là những món hàng có thể cạnh tranh trên thị trường thế giới. Khách du lịch ghé qua sân bay Bangkok thấy các cửa hàng trình bày sáng sủa, chói mắt nhưng nhìn kỹ thì các mục đồ gỗ đâu có tinh vi bằng các bàn ghế chạm trổ ở Huế. Trong các loại đồ gỗ Á Đông mà tôi đã gặp đây đó, tôi chỉ thấy đồ của Indonesia là có thể so sánh với đồ gỗ của ta. Đây là một món hàng có thể xuất khẩu nhưng cần được tổ chức. Ngoài các tiệm thủ công nầy, tôi được đưa đi lên Bình Điền thăm Trại chăn nuôi Vùng đồi. Ở đây, 26 chàng trai, cô gái, tuổi mới ra trường hay ở bộ đội về, đang khai khẩn đất hoang, phát triển gò đồi, trồng bạch đàn, hồ tiêu, nuôi bò, nuôi vịt. Với một tinh thần khai thác hăng hái, tràn đầy nhiệt tình, các thanh niên nầy đã bắt đầu khai hoang được hơn 20 hecta đất trong số 100 hecta dự trù, trồng được 800 gốc hồ tiêu để đạt cho được 3000 gốc. Các cô cậu sống rất vui vẻ nhưng tôi thấy họ thiếu giải trí: một cây đàn, một máy vô tuyến điện, vài ba bộ cờ. Họ cũng ít có cơ hội về Huế. Một bạn trai đã tâm sự với tôi: "Cháu muốn lấy vợ mà ở đây chỉ có bốn cô, còn ở Huế thì có cô nào muốn lên đây?". Ai muốn giúp Huế thì nên hổ trợ các trại chăn nuôi kiểu kibboutz nầy vì họ là đầu mối sản xuất mà một nước muốn mạnh thì phải sản xuất nhiều.
Vùng quanh Huế rừng hoang còn nhiều mà đầm phá cũng không ít. Người ta cho tôi biết hiện nay, diện tích đầm phá quanh Huế là bằng diện tích các đầm phá miền Bắc. Đây là những bể cạn khổng lồ để nuôi tôm cá, trồng rau câu. Vào một lúc mà ta muốn khai thác các tài nguyên đất nước thì chuyện nuôi trồng ở các đầm phá phải được đặt ra gấp rút. Thật ra ở Việt Nam nói chung, Thừa Thiên - Huế nói riêng, đã có chương trình mở mang bờ biển. Nếu nghe nói người Úc đã có ký kết với ta về đề tài nuôi tôm, phía trồng rau câu chưa thấy có bóng dáng đầu tư. Chúng tôi đã có bắt đầu một chương trình hợp tác giữa Huế và vài cơ quan Pháp về chuyện nuôi trồng rau câu và chiết xuất agar từ rau câu ra. Agar không chỉ là một thức ăn mọi nhà nội trợ biết chiết xuất, mà còn là một hóa chất được dùng rất nhiều trong kỹ nghệ, đặc biệt là về thực phẩm. Agar cũng đã được dùng làm keo, giấy, dược phẩm, thuốc men.
Trong ngành sinh vật học, agar là một môi trường đặc sắc để nuôi dưỡng vi sinh, thực hiện cấy mô (một phương cách "ươm cây trong ống" đang bắt đầu thịnh hành) làm cho agar trở nên một sản phẩm có giá trị trên thị trường thế giới nếu có phẩm lượng tốt. Từ hơn mười năm nay, nhiều xí nghiệp công, tư bên nước ta, ngay cả nhiều trường đại học, ty thủy sản đua nhau sản xuất agar, nhưng vì thiếu kiến thức căn bản khoa học, chưa đạt mức kỹ thuật cần thiết nên sản phẩm chế tạo ra không có đủ tiêu chuẩn quốc tế, từ đó không xuất khẩu được. Chúng tôi đề nghị xây dựng một đơn vị sản xuất tối tân ở Thừa Thiên-Huế, đào tạo chuyên viên tại Pháp về nuôi trồng rau câu, chiết xuất agar, kiểm soát sản phẩm và, nếu cần, chăm lo cả việc tìm kiếm thị trường. Lẽ tất nhiên mọi sự bắt đầu với tài chánh, và vấn đề nấy cần phải được giải quyết trước nhất bằng cách này hay cách nọ: chuyện thông thường cần hiểu là khi một người đầu tư thì mong thu nhập lợi tức, trừ khi mình tự bỏ vốn thì mình có toàn quyền về sản phẩm chế tạo.
Dù sao, bất cứ tiền vốn ở đâu lại, một chuyện dĩ nhiên là phải ra công làm việc. Chúng tôi đề nghị một cuộc hợp tác giữa ngành đại học và xí nghiệp: một bên lo khảo cứu, kiểm tra, bên kia chịu trách nhiệm khâu sản xuất. Tài nguyên chất xám mình hiếm, chỉ có một cuộc hợp tác thật sự, thật tình với nhau mới mong làm nên được việc. Theo chúng tôi thấy thì Trường Đại học Hà Nội và Xí nghiệp Hải Phòng đã hiểu rõ tấm mức quan trọng của một cuộc hợp tác loại nầy nên đã làm việc với nhau. Nuôi trồng rau câu, chiết xuất agar là công việc của Khoa Sinh Trường Đại học Tổng hợp Huế. Chúng tôi có tham vọng giúp nâng cao trình độ vài khoa khác. Chúng tôi đã có đề nghị với Khoa Hóa một chương trình hợp tác khảo cứu: đào tạo, đưa thực tập sinh qua Pháp khảo cứu trong một phòng thí nghiệm trên đề tài phân tích nước lợ ở các đầm phá Thừa Thiên - Huế (trong đồ án rộng lớn phát triển miền biển), đồng thời theo dõi phương pháp giáo huấn hóa học các trung tâm chuyên tu. Chúng tôi không quên Khoa Toán Tin học và cũng có đề nghị một chương trình đào tạo giáo viên, chuyên viên, khảo cứu viên cho khoa nầy ở Pháp. Những người chỉnh lý các chương trình nầy không cần phải là đặc biệt người Huế, người Việt, mà chỉ là những người có dính dấp ít nhiều với Huế và một phần nào có yêu Huế.
Thật vậy, Huế cần có được nhiều người yêu và không chỉ trong số những người đã sinh trưởng hoặc đã sống lên ở Huế. Ở Pháp, số người Việt và Pháp đã từng có liên lạc với Huế rất nhiều. Bây giờ phải tạo điều kiện cho họ luôn biết tình hình, thời sự ở Huế, theo dõi những biến chuyển ở đất Thần Kinh chẳng hạn qua những bài báo, những buổi nói chuyện, những đêm văn nghệ,... Không phải tình cờ mà Hội Người Yêu Huế đã có cho ra tờ thông tin liên lạc (xin cám ơn chị Ngọc Quế đã bỏ công đánh máy mấy số đầu), tổ chức những Đêm Thanh Hải hát Trịnh Công Sơn, Đêm Hè Huế với một đám cưới cổ truyền trên sân khấu,... Trước hè, họa sĩ Bửu Chỉ đã được mời qua Paris triển lãm hai lần ở Nhà Việt Nam và ở trụ sở UNESCO nhờ sự hỗ trợ tài chánh của Cơ quan Công giáo Chống đói và để Phát triển CCFD. Sang năm một họa sĩ khác cùng một văn sĩ sẽ được mời qua trong thời gian Hai tháng với Huế vào khoảng sau xuân. Trong lúc chờ đợi, ngày 9 tháng 12 sắp tới, trong khuôn khổ ngày khảo cứu về Việt Nam do Hội người Pháp bạn Viễn Đông AFAO tổ chức tại viện Bảo tàng Guimet, anh Lê Văn Hảo sẽ thuyết trình về tình hình hiện nay của điện đài lăng tẩm ở Huế. Để thêm phần hào hứng, tôi sẽ cho chiếu hình ảnh đã chụp ở Huế trong mấy kỳ về thăm quê vừa qua. Hơn nữa, nhân dịp nầy,các vị lãnh đạo UNESCO sẽ được mời đến dự vì chúng tôi có tham vọng đặt lại vấn đề trùng tu thành nội.
Đầu tháng 12 sắp tới cũng sẽ nhóm ở Paris Ủy ban Hỗn hợp Khoa học Kỹ thuật Pháp Việt. Trong những buổi làm việc với các nhà khoa học Pháp cũng như ở bộ ngoại giao, tôi đã có dịp trình bày tình hình hiện nay ở Huế. Đến nay, các cuộc hợp tác, quỹ viện trợ thường đến với các thủ đô Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh. Đến lúc quốc tế cần phải biết tới miền Trung đất Việt mà Huế đã là thủ phủ cả một thời. Vẫn biết đội ngũ cán bộ khoa học ở Huế còn cần phải được tu bổ, cải lương nên cuộc phát triển gặp nhiều khó khăn, nhưng phải có bắt đầu mới đếm được những bước tiếp theo, sau đó mới hòng đạt đến mức cao độ. Ở nước ngoài, người yêu Huế có khả năng, thiện chí mà lại vô tư không hiếm, tưởng Huế nên cần tiếp xúc làm việc với họ. Tôi tin tưởng ở tính kiên nhẫn, cần cù của người dân Huế, nhất là hiện nay ở Huế có một anh chủ tịch năng động, biết đặt nặng chuyện phát triển văn hóa, khoa học, kỹ thuật thì với sự cố gắng của mọi người, Huế chắc chắn sẽ thành công vùng lên trở thành một kinh đô trù phú như trước.
Hắc Ký Ni Sơn tháng 11.1989
Đại Đoàn Kết 4-5 1990

10- CÔNG TÁC TRÊN QUÊ HƯƠNG
Đi tha hương cầu thực lâu năm, nay đây mai đó, dãi dầu sương gió đất khách quê người, bây giờ có dịp về lại chốn chôn dau cắt rốn, nơi đầy kỷ niệm thời niên thiếu, làm sao không hân hoan, phấn khởi được. Thêm cùng với chuyến về thăm gia đình, đất nước, gắn liến được một công tác giúp ích đồng bào, bà con thì lại càng vô cùng thú vị.
Khi đặt chân lên đất quê hương, dù chưa quen lại sức nóng nhiệt đới, cảnh tượng ồn ào tấp nập các nước phương Đông, đứa con trở về vẫn thấy rạo rực trong lòng, tâm hồn lâng lâng như khi bước vào một nơi tưởng như xa lạ mà lại quen thuộc vô chừng. Có ai đó đã viết là khi qua Paris được đưa đi dạo vườn Luxembourg ở xóm La Tinh thì tưởng như bước vào một nơi quen biết mặc dầu chưa hề bao giờ có dịp tới đây: biết bao sách truyện đã hằng miêu tả khu vườn tuyệt diệu này! Thì đây cũng vậy, tuy không phải cùng trường hợp. Sau nầy, mỗi lần cho bạn bè xem hình ảnh đã chụp, bất cứ đồng bào hay người ngoại quốc, có nhiều bạn đã bảo: anh đã cảm nhận đất nước Việt Nam từ bên trong sâu đậm, từ đáy lòng đầy tình yêu, vượt hẳn tầm mắt nông cạn của một du khách thiển cận, vô tình. Thật vậy, khi viếng thăm một nơi xa lạ, dù đã có chuẩn bị từ trước, dù có hướng dẫn viên giải thích tường tận, thường được chỉ thỏa mãn về mặt kiến thức, còn về tình cảm thì mấy khi được xúc động như khi đứng trước điện đài Parthenon trên đồi cao lộng gió, trước Kim Tự Tháp nguy nga giữa bãi sa mạc mênh mông nắng cháy. Trái lại, chỉ đi dạo trên bờ đê giữa các cánh đồng lúa mướt, hay chạy dọc theo các bãi cát vắng vẻ bờ biển miền Trung, hay cả khi len lỏi trên các lề đường tấp nập, mỗi lần tôi lại cảm thấy một mối thích thú đặc biệt.
Tôi còn nhớ rõ một hôm trời mát dịu, cùng đứa cháu đạp xe đi khắp Hà Nội mà tôi ít biết, xem ba mươi sáu phố phường đông đúc, phố Hàng Đào sáng choang và ngập tràn hàng hóa, xem Bờ Hồ nhộn nhịp, những gánh hàng chập chờn bên những ngọn đèn leo lét gây nên một cảnh tượng khá lãng mạn ở chốn đô thành. Cảm hứng nhất là thấp thoáng trong bóng tối, các cặp trai gái in bóng trên mặt hồ, thản nhiên tình tự, quên hẳn vũ trụ bên ngoài như hầu hết các cặp tình nhân khác trên thế giới: ngày nào còn có tình yêu là ngày ấy còn đời sống, còn hy vọng. Làm sao quên được những ngày đi viếng quê hương Đồng Khởi, vượt Tiền Giang ở bến phà Rạch Miếu, để rồi mặc sức ngắm các cô gái Bến Tre có nét mặt thanh tao trên cơ thể vạm vỡ, với giọng nói "ngọt ngào như sông nước sông Cửu Long". Làm sao quên được hôm ngủ lại ở hoa lạc viên Nhân Nghĩa, nghe tiếng gió rì rào trong hàng dừa cao vút đầy trái cây ngọt lịm, cùng bác Minh nhấp chén rượu thuốc ở Đài Vọng Cảnh, cạnh các khóm long, kim, thủy trúc đủ loại, các chậu nguyệt bạch, trang đài tỉa gọt công phu.
Viếng lạc hoa viên đất Khởi Đồng,
Dừa cây cao vút lối qua sông,
Bến Tre lừng tiếng đường xa vắng,
Băng lướt Tiền Giang ghe bập bồng.
Làm sao quên được chiều hôm đi dạo trên đồi Thiên An ở Huế, quanh rừng cây sào sạt, trong tiếng thì thầm của ngàn thông vi vút, với hình ảnh tà áo nhẹ bay dưới ánh nắng chiều tàn.
Một chiều hạ nắng trên đồi thông,
Trầm lắng chuông chiều động cửa không,
Nàng bước chân đi trong gió nhẹ,
Giữa nơi tĩnh mịch chốn hư không.
Làm sao quên được hôm ăn chay trên bờ sông An Cựu, lâu ngày chẳng còn biết cách thức hòa điệu các món được trình bày rất mỹ thuật theo kiểu Huế. Tối hôm đó, bạn bè đã hiến cho tôi một đêm văn nghệ, dành cho tôi những những bài hát hay nhất, những vần thơ độc đáo, những câu chuyện đậm đà, thú vi. Tôi chưa bao giờ có mặt ở một buổi họp mà những từ ngữ "mô, tê, răng, rứa" được dùng nhiều như vậy; thấy như ở đây mỗi một người, kể cả tôi, đều cố ý dùng những danh từ địa phương như để khẳng định mình là người trong cuộc, mình là con người sống lên tại chỗ chứ không phải là dân ngoài nhập vào. Cảm động nhất là khi cô Diệu Hoàng tươi sáng, ví von trình diễn bài Nhớ thôn Mỹ, một bài thơ của tôi được cháu Bửu Phôi phổ nhạc, tiếng vổ tay khen ngợi làm cho tôi thơm lây được một phần nào trong giới văn nghệ quê nhà. Khích động nhất có lẽ là hôm tôi về thăm lại làng xóm cũ, nơi quê mẹ nhưng cũng là nơi tôi đã sống một thời vô tư, ấu trẻ. Bến Đình, Nghĩa trũng còn nguyên vẹn, sông Ô Lâu vẫn cuồn cuộn chảy, thờ ơ với đứa trẻ hồi xưa đã biết bao lần tung tăng bơi lội, đùa giởn nơi đây.
Đây quê mẹ ấp ủ tình thương,
Đây xóm làng bao nổi vấn vương,
Nơi đã qua những năm trẻ dại,
Những ngày sống rực nắng trong vườn.

Từ Làng Hói rồi lên Phò Trạch, những kỷ niệm xa xăm dần dần hiện ra trước mắt: mấy chục năm trước, một nhóm trai trẻ ở huyện Phong Điền có dự tính khi hết chiến tranh, tức khắc sau khi hòa bình trở lại thì lên đây khai khẩn đất hoang, lập đồn điền, trồng cây nuôi thú. Các bạn ấy nay không còn nữa và truông Phò Trạch vẫn còn hoang dại dưới ánh mặt trời gay gắt. Chuyện xây đắp, kiến thiết kéo tôi trở lại với hiện tại: tôi về đây công tác chứ không phải để ôn tưởng quá khứ xa xăm. Nước ta đang nghèo, phải khai triển tài nguyên sẵn có. Đầm phá Thừa Thiên cũng như suốt bờ biển ba miền có nhiều tôm cá, rau câu, rong tảo đủ loại. Phải nuôi trồng sao đây để có sản phẩm xuất khẩu. Ta đang sống ở một thời đại mà văn minh đã đem lại ô nhiễm ở mọi môi trường. Bên cạnh kế hoạch lọc sạch nước uống, ta phải nghĩ đến chuyện huỷ đốt hay ủ men rác rưới ra khí, thành phân. Vỏ tôm vỏ cua chế biến ra thức ăn cho súc vật đã là tốt, đem chiết xuất chế biến chitin lại còn quý hơn. Những dự án nầy chỉ cần máy móc kỹ thuật, khỏi phải mua nguyên liệu ở nước ngoài. Nếu biết năm 1989 Việt Nam đã nhập cảng đến 2 tỷ rưởi đôla mà trong ấy hơn một nửa là nguyên liệu và nhiên liệu thì thấy rõ tất cả mặt quan trọng của một cuộc kỹ nghệ hóa nước nhà. Hơn nữa, nếu biết thêm cũng trong năm 1989 ta xuất cảng dưới xa 2 tỷ đôla thì lại càng thấy cần phải nổ lực cố gắng nhiều mới mong lập lại được cân bằng của cán cân. Chỉ có hai thế đôi ngả: hoặc xuất cảng nhiều hơn, hoặc nhập cảng ít lại, hay tốt nhất là vừa xuất cảng nhiều vừa nhập cảng ít lại. Cứ lấy Nhật Bản, Đại Hàn mà làm gương: những nước hầu như không có nguyên liệu mà kỹ nghệ họ lên cao đến mức nào?
Cũng như năm ngoái, năm nay tôi về Việt Nam với anh bạn Daniel Christiaen để tiếp tục cụ thể chương trình nuôi trồng rau câu, chiết xuất agar từ rau câu chỉ vàng, một chương trình khởi đầu từ nhiều năm trước. Mục đích năm nay là đặt nền móng cho một đơn vị sản xuất agar. Theo tính toán của hảng Pronatec, ta có thể chế tạo loại agar xuất khẩu, riêng ở Huế năm đầu tiên khoảng 45 tấn, thu nhập hơn 700.000 đôla.. Trả xong tiền vay để mua nhà máy, phí tổn điện, nước, nhân công và ngay cả tiền mua rau câu của nông dân, cũng còn lại được một phần ba. Số tiền hằng năm nầy có thể tăng lên, tỷ lệ với số lượng agar sản xuất. Ngoài chuyện lợi lọc kinh tế, nên nghĩ đến một yếu tố vô cùng quan trọng cho ta hiện nay là cuộc chuyển giao kỹ thuật. Ta cần phải học hỏi, khảo sát để hiểu biết cặn kẽ cách nuôi trồng rau câu, chiết xuất agar. Ta cũng cần phải thông thạo các phương pháp kiểm soát phẩm lượng một món hàng xuất khẩu đánh giá cao nhãn hiệu "agar Việt Nam" hay "agar Huế". Vào một lúc mà nước ta muốn mở mang kinh tế, đây là một dịp tiện lợi để phát triển một nguồn nguyên liệu mà ta sẵn có. Tôi chỉ đổ dầu vào lửa mà thôi. Từ hơn mười năm nay, biết bao trường đại học tổng hợp, viện khoa học, ty thủy sản,... khảo cứu, học hỏi về rau câu, biết bao xí nghiệp lớn, nhỏ đua nhau chế tạo agar ở nước ta mà đã có được mấy kilô bán ra nước ngoài? Tình trạng đáng tiếc nầy bắt nguồn từ sự thiếu thốn kỹ thuật và phương tiện.
Chương trình của chúng tôi là đề nghị đào tạo cán bộ, kiểm soát phẩm lượng và kỹ thuật chế biến tại Pháp, kiếm vốn đầu tư để xây dựng nhà máy ngay trên đất nước ta. Hảng Pronatec cam kết theo dõi qui trình từ lúc nuôi trồng rau câu cho đến khi gởi agar bán ra ngoại quốc. Công lao của họ sẽ được trả bằng agar chứ họ không đòi hỏi ngoại tệ mà ta không có. Nhưng thực hiện chương trình là ta phải đảm nhận hoàn toàn: đại học chăm lo chuyện khảo cứu, kiểm soát, xí nghiệp chịu trách nhiệm khâu chế biến, sản xuất. Đây là một cuộc hợp tác giữa các cơ quan của ta và ngoại quốc. Đã đến lúc cần phải xóa bỏ ý niệm lưu hành thông thường đến nay: hợp tác là viện trợ. Không, hợp tác chỉ có hiệu quả khi đôi bên làm tròn nhiệm vụ của mình. Và đấy là điểm khó vì ngay từ đầu, Daniel Christiaen thấy ngay ban giám hiệu Trường Đại học Tổng hợp Huế không thi hành chương trình phía mình trong khi Pronatec đã đưa qua Pháp một cán bộ giảng dạy và hai thực tập sinh. Cuộc hợp tác không thể đi xa hơn và tôi là một trong những người thất vọng nhiều nhất. Về ngồi ở nhà khách Lý Thường Kiệt, mục kích một trận mưa rào, nhìn mưa rơi tầm tã trên lá, tuôn chảy xuống cành, xuống thân cây, lan tràn ra mặt đất, tôi suýt viết: Trời mưa ở Huế sao buồn thế? nhưng câu nầy đã được Nguyễn Bính viết thành thơ. Thôi thì ta về ta tắm ao ta.
Đã khá lâu trời Huế ủ mây,
Gió lùa thổi nước trút lay cây,
Từ phòng vắng vọng qua song cửa,
Cảm thấy lòng man mác khó khuây.
Người Việt ta làm ăn thành đạt ở nước ngoài khá nhiều, số người muốn giúp ích đất nước cũng không hiếm. Nhưng lắm người, đang lưỡng lự vì không rõ tình thế bên nhà. Nếu tạo được điều kiện tốt, mặc dầu thất vọng, tôi luôn tin tưởng những người con sống xa quê ấy sẽ là những chiếc cầu nối vững chắc trong các cuộc đầu tư giữa trong và ngoài nước, ở khối nầy hay khối kia, và các kỳ công tác của những người làm trung gian này là những dịp để họ vừa đóng góp vào cuộc xây dựng xứ sở vừa tìm hiểu thêm văn hóa quê hương.
Hắc Ký Ni Sơn tháng 4.1990
Đại Đoàn Kết 24 1990

11- HƠI THỞ SÔNG HƯƠNG 
(Nhân "Hai tháng với Huế" ở Paris)
Cái may của người Huế là có được một thành phố Huế để thương, để nhớ và cả để giận, để hờn. Ý nghĩ này lởn vởn trong đầu óc tôi suốt tối hôm nghe Thúy Vân hát theo nhịp điệu đàn tranh của Ngọc Diệp ở Nhà Việt Nam ngày thứ bảy 5.5.90 vừa qua. Trong suốt buổi tối hôm đó, tôi chắc là thính giả, nhất là ai đã sinh trưởng và lớn lên ở Huế, đếu có cảm tưởng như tôi: qua giọng hát, tiếng đàn, người nghe như đang được đưa về đất Huế, trên bờ sông Hương dịu mát dưới ánh trăng thanh hay trong rừng thông rào rạt qua tia nắng chiều. Một anh bạn ngồi cạnh tôi thì thầm: "May mà tôi vừa mới về thăm Huế, không thì khóc được". Tôi thú thật ngay với anh ta: "Tôi vừa mới về qua mà vẫn khóc như thường!". Người Huế có lẽ vì quá giàu tình cảm nên mới xúc động nhiều khi nghe lại giọng Huế, thấy lại hình ảnh quê xưa. Sau buổi trình diễn, nhân trò chuyện với mấy người quen, tôi thổ lộ hơi nhiều cảm xúc của mình, một cô bạn người Nam bẻ lại: "Bộ anh tưởng chỉ có người Huế các anh là giàu tình cảm thôi à?" làm tôi hơi thẹn vì không biết giữ kín nỗi lòng.
Câu nói của cô bạn dù sao cũng nhắc lại cho tôi là trong phòng không chỉ có khán giả người Huế. Liệu các bạn chỉ biết Huế qua sách vở, phim truyện, qua một chuyến tham quan ngắn hạn, có thấy tâm hồn rạo rực khi nghe đàn ca nhạc Huế như mình không? Tôi chắc những bài Đây thôn Vỹ DạNhớ Huế ngâm theo lối Huế, những khúc hò ru con, mái nhì thế nào cũng lay chuyển lòng nhiều người, mặc dầu chưa có dịp đặt chân lên đất Huế và dừng bước lại đây. Nhất là họ không phải đi viếng thăm môt mình: người hướng dẫn qua Huế hôm đó là anh Cao Huy Thuần mà các bạn hâm mộ nhạc Trịnh Công Sơn đã thưởng thức lời nói duyên dáng trong một băng nhạc của Thanh Hải. Giới thiệu Huế phải có anh Thuần. Anh đã thấm nhuần tư tưởng, phong cách, lời ăn tiếng nói, nói chung một chữ chất Huế, sâu đậm đến nỗi mỗi câu trình bày của anh dày đặc tâm tư Huế và buộc người nghe nếu không trở lại thì cũng tưởng tượng đến một khung cảnh nào đó của Huế. Đi vào lòng Huế với anh Thuần, người nghe có cảm giác được dẫn về quê mẹ thân thương của người con đã trưởng thành nơi đây.
Quê mẹ nầy đã nổi bật trong những câu ca của Thúy Vân. Có lẽ giọng hát của cô chưa được điêu luyện bằng giọng hát của vài ca sĩ nổi tiếng đã trình diễn ở Paris, nhưng giọng hát nầy thật thà, mộc mạc, tràn đầy tình cảm, dễ thấm sâu vào tâm hồn thính giả. Cách đây mấy năm, lúc mới về tiếp xúc lại quê hương, tôi đã được nghe Thúy Vân hát trên đò giữa lòng sông Hương. Tôi còn giữ mãi hình ảnh một cô gái buồn, ít cười, ít nói. Giờ đây, gặp lại Thúy Vân, với mái tóc ngắn, tôi đã tìm ra một bộ mặt vui tươi, một thiếu phụ hoạt bát, đương thì. Có lẽ điệu hát Huế là điệu hát buồn nên giọng hát của cô thích hợp với nhạc Huế. Tuy nhiên, trong đêm hát vừa qua, những người mê nhạc Huế cảm thấy bị thiếu thốn ít nhiều vì không nghe được một điệu nam ai, nam bình, một bài cổ bản, bình bán, ngay cả một câu kim tiền, lưu thủy. Qua phần thứ nhì, Thúy Vân tỏ ra không chỉ chuyên môn về cổ nhạc mà biết cả tân nhạc. Những bản Hoa rụng ven sông hay Đưa em tìm động hoa vàng đã được nhiều ca sĩ trình diễn nhưng qua giọng hát trầm, ấm của Thúy Vân, người nghe không khỏi rung động trước các khúc tình ca ấy.
Cũng ở phần thứ nhì nầy, Ngọc Diệp đã cho thính giả thưởng thức một bài độc tấu đàn tranh Tứ đại cảnh. Nếu nhạc mới phải đệm qua đàn ghi-ta, nhạc xưa Huế không thể thiếu đàn tranh. Mà không phải bất cứ tiếng đàn tranh nào. Tiếng đàn của Ngọc Diệp thánh thót, vấn vương, càng nghe càng thấy gợi lên hình ảnh đền đài, lăng tẩm của chốn đế vương, hình ảnh cô lái đò uyển chuyển trên nước xanh, sóng dịu. Nhìn mấy ngón tay dài của cô linh động vuốt ve, gảy, nhấn dây, phiếm, khán giả như bị thôi miên và có thể một lúc nào đó quên hẳn mình đang nghe đàn để ngao du vào nơi tiên cảnh. Một nhà văn Huế đã giải thích có lẽ phong cách quý phái của đất Thần Kinh đã được truyền qua tiếng đàn của Ngọc Diệp. Đêm nhạc vừa qua chỉ là đêm đầu tiên một loạt ba đêm nhạc Hơi thở sông Hương tổ chức tại Nhà Việt Nam ở Paris. Trong chương trình Hai tháng với Huế, Nhà Việt Nam có nhã ý mời hai cô Thúy Vân và Ngọc Diệp từ Huế sang trong ba tháng. Ban tổ chức cũng có ý hay là khánh thành ngay chiều hôm đó, cùng trong một phòng, một cuộc triển lãm hình Huế của Marc-Antoine de Montclos và Võ Quang Yến. Vì vậy, suốt buổi tối, lời giới thiệu của Cao Huy Thuần, tiếng hát đàn của Thúy Vân, Ngọc Diệp đã vang dội trong một bầu không khí rặc Huế. Một phần lớn các địa điểm, gợi ý đã được hình dung qua mấy chục bức hình chụp màu. Từ Bao Vinh qua An Cựu, từ Đại Nội lên chùa chiền, lăng tẩm, nhiều hình góc đường, xóm cũ, sông núi, điện đài đã giúp người xem xác định được phong cảnh thanh lịch của xứ Hương Bình cũng như thành quách điêu tàn của chốn đế đô. Rồi đây sẽ có giáo sư Trần Văn Khê giảng giải về nhạc cung đình, hòa thượng Thích Thiện Châu thuyết trình về chùa cổ và Phật giáo ở Huế, và sau cùng họa sĩ Hoàng Đăng Nhuận sẽ triển lãm tranh vẽ của anh.
Ngay từ bây giờ, chắc chắn là Hai tháng với Huế, đặc biệt những đêm Hơi thở sông Hương, sẽ để lại trong lòng khán giả, nhất là trong lòng các người Huế, một ấn tượng sâu đậm, một mối tình khó quên.
Hắc Ký Ni Sơn tháng 5.1990
Đoàn Kết 423 1990
Văn hóa du lịch 6.1990

12- HOÀNG ĐĂNG NHUẬN GIỮA PARIS 
(Nhân cuộc triển lãm tranh ở UNESCO)
Xuân năm nay ở Paris không giống xuân mọi năm. Sau một đợt nóng bất thường, trời trở lại dịu hơn. Sau một thời gian khô hạn, đúng vào lúc cây cỏ nẩy mầm, trời lại đổ mưa, ngay cả vào dịp cuối xuân, lúc người ta đang chờ đợi trời tốt để tổ chức các cuộc vui ngoài vườn hay những buổi dạo chơi trong rừng núi. Anh Nhuận đổ bộ lên đất Paris vào những ngày thất thường ấy, tuy nhiên trong một khung cảnh có thể nói là dễ chịu, trời hết lạnh lại bắt đầu nóng ấm, mưa nắng chập chờn làm tăng thêm độ tương phản giữa các màu sắc lung linh trong hình ảnh kinh đô ánh sáng.
Trong những hôm dạo rong dọc theo phố phường, anh Nhuận đã chịu khó giải thích cho tôi, một kẻ phàm phu trong lĩnh vực hội họa, những mẫu xinh, nét đẹp, những contour - danh từ của anh - của mái nhà, tường vách của các đỉnh nhà thờ, cung điện lấp ló sau các ngõ hẻm, đường hẹp xóm La Tinh. Đây đường chợ Mouffetard, linh động không kém gì chợ Đông Ba, bắt đầu từ nhà thờ thánh Médard, cạnh ngã tư Les Gobelins thẳng lên công trường Contrescarpe, đầy dẫy quán ăn xứ Hy Lạp. Đây trường học trang nghiêm Henri IV và nhà thờ thánh Etienne-du-Mont tráng lệ xây mặt ra điện Panthéon hùng vĩ, oai phong. Đây con đường dốc cao Núi thánh Geneviève đổ ra xóm Mutualité mà trước 1975 là nơi gặp gỡ hàng ngày của Việt kiều vì là nơi có quán Thanh Bình bán thực phẩm Á Đông. Bên kia sông Seine, nhà thờ Đức Bà sừng sững đồ sộ hướng lưng vào đài kỷ niệm dân tộc Do Thái bị thảm hại trong kỳ thế chiến vừa qua. Đi dọc theo bờ sông khắp đảo La Cité nằm giữa hai nhánh sông Seine, chắc anh Nhuận không sao không nghĩ đến sông Hương bên kia chân trời. Anh rất thích thú cái hình tôi chụp anh ôm chùm cột điện, cô đơn ở mũi đảo, trước sông nước hữu tình, xa xa xếp dài những lâu đài cổ kính của một thời đại lịch sử nước Pháp. Sau nầy tôi mới biết anh nhớ vợ, nhớ con mặc dầu ra đi chưa đầy hai tháng. Nghệ sĩ nào mà không đa tình, đa cảm!
Cũng may mà trong thời gian ở Pháp tuy dài, anh cũng ít được rảnh rang. Ngoài những hôm đi thăm bạn bè, những buổi đi ngắm xem đường sá xe cộ ở công trường Concorde hay đại lộ Champs-Elysées, tháp gương giữa sân điện Louvre, hay sát với nghề nghiệp hơn, xem xét các bạn đồng nghiệp trổ tài ở Pont des Arts hay công trường Tertre trên đồi Montmartre, anh phải chuẩn bị cho hai buổi triển lãm ở Paris: từ 5 đến 15.6 ở trụ sở UNESCO và từ 16 đến 30.6.1990 tại Nhà Việt Nam. Tôi viết mấy dòng này hôm cuộc triển lãm ở UNESCO vừa được khánh thành. Trưng bày được 50 bức tranh giữa kinh đô nước Pháp, ở một nơi đông đảo nhất dân ngoại quốc tứ xứ, là một hân hạnh lớn cho nhà nghệ sĩ, tôi chắc anh Nhuận rất ý thức về may mắn này và sẽ ghi lâu trong lòng. Mặc dầu lễ khánh thành kéo dài hai tiếng đồng hồ, người ra kẻ vào liên tục, lúc tôi đọc bài diễn văn khai mạc và giới thiệu, cũng khoảng trên dưới 80 khán giả bao quanh anh Nhuận để khen ngợi các tác phẩm của anh.
Tôi nhận ra những người lại xem tranh anh có thể kê làm hai loại: những đồng bào Việt Nam xa nhà và những bạn ngoại quốc yêu chuộng nghệ thuật. Người đã biết đất nước Việt Nam, ngoài nghệ thuật, còn chú trọng đến phong cảnh quê hương. Một giàn hoa che bóng, một triền núi cỏ may, một bụi hoa ngũ sắc, một ngôi lăng điêu tàn, một hồ Tịnh Tâm trên nền trời tím đậm, hay vài dây hàng rao kẽm gai sét rỉ xen lẫn hoa dại sáng tươi,... là những hình ảnh gợi lên biết bao thương nhớ. Vì vậy không ai lấy làm lạ khi thấy mấy bức tranh ấy được dành trước nhất. Những bạn chưa bước chân đến Việt Nam thì chỉ đánh giá tranh qua nghệ thật. Tuy hơi ngạc nhiên, nhưng tôi phải chấp nhận khiếu thẩm mỹ riêng của mỗi người khi thấy mấy người khách nước ngoài giữ phần mấy bức tranh thành phố hay đồi núi chìm đắm trong bóng tối tuy thực hiện ở một xứ chan hoà ánh nắng. Từ đó tôi đã kiếm cách tìm hiểu anh bạn họa sĩ qua mấy bài báo viết về anh bên nhà. Thì ra đường phố đã chiếm một phần lớn trong số các họa phẩm của anh. Mà không phải phố nào cũng giống nhau. "Giai điệu trong tranh biến ảo với những tiết nhịp bất ngờ: có khi là những tiết điệu đung đưa tuổi trẻ; có khi là nhịp chậm buồn lặng lẽ; có khúc khoan thai suy tưởng" (Trần Phương Kỳ). Đằng khác, "phố Nhuận vắng mà không buồn, chói lọi mà không phơi bày, khép và mở một thế giới nội tâm dành riêng, một thế giới đầy mơ mộng và khát vọng của những ngày người ta còn trẻ" (Hoàng Phủ Ngọc Tường). Thế mới biết tâm tình một bức tranh phải qua những dòng văn đậm đà, thắm thiết của những nhà văn không kém phần nhạy cảm mới thổ lộ được rõ ràng. Chưa chắc tất cả những người mua tranh đã diễn tả nổi hứng thú của mình. Dù sao đã có nhiều người đặt mua vì phòng triển lãm đầy dẫy những tấm thiếp đề "réservé" dán dưới các bức tranh và đây là bằng chứng cụ thể lòng hâm mộ của khán giả.
Chúng tôi rất mừng thấy anh Nhuận thành công trong chuyến qua Pháp nầy. Được xuất ngoại trong thời buổi nầy đã là một cái hên mà mấy nghệ sĩ được gặp. Được nhiều người ngưỡng mộ tranh mình lại là một cái may khác. Người ta thường thấy cái may hay lại với ai biết gây ra nó. Không có vẽ tranh đẹp thì ai chịu khó tổ chức chuyến đi, tổ chức cuộc triển lãm cho mình, để cho có người lại thưởng ngoạn và mua tranh? Nhưng cũng chớ nên quên vai trò của những người đứng ra tổ chức. Riêng phần nhóm bạn Huế đã ra sức nhiều trong công chuyện nầy, chúng tôi rất hân hoan vì đã tranh thủ đưa ra trình bày được ở kinh thành xán lạn nầy một sản phẩm có giá trị của xứ Huế. Cũng có thể nói là một sản phẩm mới lạ như một cô khách lại ngắm tranh người Brazil đã gợi ý: "Tôi rất thích thú ngạc nhiên thấy ở phòng triển lãm này một lối vẽ không những tinh vi, độc đáo, mà còn mới mẻ, cận đại, hay ho không kém gì lối vẽ cổ điển, truyền thống của những người Á Đông các anh!". Chỉ một câu bình phẩm khuyến khích nhỏ đó là đủ để chúng tôi phấn khởi, đủ để đền bù mọi công lao mà chúng tôi đã bỏ ra từ mấy tháng nay.
Cần thêm chăng thì chỉ là lời cám ơn nồng nhiệt hai cơ quan CCFDAIPU đã góp phần thiết thực trong chuyện tổ chức chuyến đi và triển lãm tranh Hoàng Đăng Nhuận.
Hắc Ký Ni Sơn tháng 6.1990
Đoàn Kết 425.1990
Tuổi trẻ Chủ nhật 7.1990

13- GỞI THƯƠNG VỀ HUẾ 
(Bên lề Hai tháng với Huế ở Paris)
Chưa bao giờ Paris đã nghe, nói, nhìn nhiều về Huế như hai tháng 5 và 6.1990 vừa qua. Cũng dễ hiểu thôi: sau những cuộc triển lãm các họa sĩ Hà Nội, Sài Gòn mấy năm trước, Huế rất đáng được đưa ra trình bày giữa kinh đô ánh sáng. Hơn thế nữa, Hai tháng với Huế đã rất phong phú với nhiều tiết mục đặc sắc mà những người chịu khó theo dõi không thể nào quên được.
Ngay từ ngày mở đầu, Huế đã đi sâu vào lòng người đến dự. Trong gian phòng ấm cúng của Nhà Việt Nam, một cuộc triển lãm hình ảnh đã được khánh thành hôm 5 tháng 6. Hai nhà nhiếp ảnh Marc-Antoine Montclos và Võ Quang Yến trưng bày 20 bức ảnh màu chụp từ Đại Nội lên Khiêm Lăng, từ Bao Vinh qua An Cựu, từ cửa Thượng Tứ xuống cầu ngói Thanh Toàn, từ gánh hàng rong đường Lê Lợi đến những người đãi vàng thượng lưu sông Hương,... Người xem đã để ý đến những hình chụp lăng Thiệu Trị hoang vắng với đàn bò lủi ăn trong sân điện, đền Văn Thánh điêu tàn sau vườn sắn che lấp mấy hàng bia,...
Chính trong bầu không khí gợi nhớ thương Huế đó, tối hôm ấy bắt đầu đợt hát Hơi thở sông Hương do Thúy Vân và Ngọc Diệp trình bày. Tại Nhà Việt Nam, hai cô trình diễn ba đêm 5, 26 và 23 tháng 6. Tiếng hát Thúy Vân đầm ấm, chân tình, suốt buổi tối đã đưa thính giả về lại chốn cố đô lưu luyến. Đệm vào những điệu hát địa phương của xứ Hương Bình là tiếng đàn tranh của Ngọc Diệp thánh thót, vấn vương lại càng làm cho người nghe xúc cảm, mơ màng. Một vài giọt lệ thấm mi mắt chỉ rõ nỗi nhớ thương thấm thía mà hai cô đã thành công gây ra. Những lời giới thiệu lưu loát, dí dỏm của anh Cao Huy Thuần càng nâng cao tài nghệ của hai nghệ sĩ. Rút cuộc, câu nói, tiếng đàn, điệu hát đã hòa âm trong một gian phòng thắm đậm hình ảnh quê hương, một cuộc trùng hợp toàn vẹn dễ làm rung cảm tim gan người tham dự.
Để cho bạn bè Pháp và ngoại quốc cũng thưởng thức được những điệu hò, câu hát miền sông Hương núi Ngự, hai cô Thúy Vân và Ngọc Diệp còn trình diễn một tối ở viện Bảo tàng Guimet do Hội người Pháp bạn Viễn Đông tổ chức. Lần nầy người giới thiệu là nhạc sư Trần Văn Khê, có tiếng không những ở Việt Nam mà còn rất nhiều ở ngoài nước. Những lời giải thích của giáo sư rất rõ ràng, uyên bác và giúp nhiều người nước ngoài hiểu thêm cái tinh túy nhạc điệu, dân ca miền Trung. Tuy nhiên anh Khê tâm tư với tôi đêm nhạc hôm nay là của hai cô, anh không muốn diễn đạt dài dòng. Anh chỉ họa thêm với cây đàn tỳ bà mà anh đã học cách chơi kiểu Huế cách đây năm, sáu mươi năm với bà cô!
Tiếp theo sau cuộc trưng bày hình ảnh ở Nhà Việt Nam là cuộc triển lãm cùng chỗ tranh vẽ của Hoàng Đăng Nhuận từ 16 đến 30. Đây là cuộc triển lãm thứ hai, lần thứ nhất ở trụ sở UNESCO từ 5 đến 15. Tranh đem từ Việt Nam sang, anh Nhuận đã trưng bày cho khán giả quốc tế một lối vẽ mới, sâu sắc, tinh vi mà đậm đà, dễ gây thương nhớ. Nhiều bạn ngoại quốc lại xem đã ngạc nhiên thích thú tìm ra trong các tranh nầy những nét độc đáo tuy không cổ điển như thường thấy ở các tranh của các tác giả Á Đông. Một số lớn tranh được giữ mua đã đánh giá phần nào lòng hưởng mộ tranh của anh.
Để cho Hai tháng với Huế được đầy đủ, Nhà Việt Nam tổ chức thêm hai buổi nói chuyện: Nhạc cung đình Huế hôm 9 tháng 6 giáo sư Trần Văn Khê đảm nhận và Chúa cổ và Phật giáo ở Huế hôm 16 tháng 6 qua thuyết trình của hòa thượng Thích Thiện Châu. Nhà Việt Nam cũng còn chọn lựa trưng bày và bán một số sách về Huế trong thời gian hai tháng vừa qua. Tối hôm Hơi thở sông Hương cuối cùng ngày 23 tháng 6, hãng Médiapoly cho phát hành băng nhạc Huế tên của nỗi nhớ của Thúy Vân và Ngọc Diệp. Như vậy, những ai còn muốn tiếp tục mơ màng với Huế còn có thể kéo dài thời gian này.
Hôm bế mạc cuộc triển lãm Hoàng Đăng Nhuận cũng là hôm kết thúc chương trình Hai tháng với Huế ở ParisKiểm điểm số người đến dự triển lãm, đi nghe ca nhạc, số người mua tranh, mua băng hát, số người ký vào sổ vàng, có thể nói Hai tháng với Huế đã là một thành công. Những người tổ chức, Nhà Việt Nam, các bạn Huế có thể tự hào đã góp phần vào cuộc gây ra được trong dư luận kiều bào cũng như trong nhiều giới ngoại quốc ở Paris một lối nhìn đầy cảm tình về xứ Huế muôn thuở... Một bà bạn tôi từ bên Đức qua thăm, luôn tiện để xem hình, xem tranh, nghe hát, rất tiếc là không đem được đứa con nuôi của bà, một cậu bé quê gốc Huế vì bà tin chắc nó cũng sẽ rung động như bà trước những gì đã nghe, đã thấy.
Cái mộng bây giờ là làm sao phát huy lại được phong trào trùng tu thành nội vì ngay sau Hai tháng với Huế này, bạn bè đã rất nhạy cảm với tình hình ở thành phố thân thương của ta. Trong tương lai gần và xa, công việc sẽ không thiếu, thiếu chăng chỉ là nhiệt tình, thiện chí của những người vô tư, thật tình yêu Huế.
Hác Ký Ni Sơn tháng 7.1990
Đại Đoàn Kết 34 1990

14- RAU CÂU HUẾ
Hôm tôi được sống những giây phút thần tiên ở Huế không phải là hôm đi du ngoạn mà là nhân một chuyến tham quan các vùng nuôi trồng rau câu. Ở Miền Trung, xung quanh Huế - Thừa Thiên, đầm phá chiếm đến 42.000 hecta, nghĩa là bằng diện tích tất cả đầm phá miền Bắc. Về mặt nuôi tôm, các nhà kỹ nghệ Úc nghe nói đã có ký kết với các cơ quan sở tại. Bên phần rau câu, mặc dầu cố gắng của nhiều trường, nhiều sở, đến nay chưa biết sẽ phát triển ra thế nào.
Sau 1975, chính quyền đã ý thức tầm mức quan trọng của đầm phá trong cuộc kiến thiết, xây dựng xứ sở. Bên trường Đại học Tổng hợp Huế cũng như phía ty Thủy sản (lúc bấy giờ thuộc tỉnh Thừa Thiên - Huế) đều có quyết định khai thác nguồn tài sản rau câu thiên nhiên nầy. Rau câu chỉ vàng mọc ở các đầm phá miền Trung là một thứ rong gọi là đỏ thuộc loại Gracilaria verrucosa, có đặc tính chứa trong mình một chất gel, nôm na ta gọi là thạch hay thạch trắng mà các bà nội trợ trong vùng đều biết chiết xuất khi đem rau câu đun nóng trong nước rồi để nguội lại. Trên thế giới, người ta gọi nó agar-agar, hay rút gọn agar, một danh từ tiếng Mã Lai. Ngày nay, agar được dùng trong nhiều lĩnh vực, từ thực phẩm (bánh, mức, kem, đồ giải khát), kỹ nghệ (đồ hộp, phim, giấy, keo, hồ) qua dược phẩm (màng bọc thuốc, khuông đóng răng, chất nhũ tương), y học (thuốc nhuận trường, thuốc băng bó, chất ăn ít năng lượng)...Ngoài ra, và còn quan trọng hơn, nhờ tính chất trung hòa điện học, ổn định nhiệt học và sức đông cao, lại thêm có khả năng kháng cự vi sinh vật nên agar càng ngày càng được dùng nhiều trong ngành vi sinh vật để làm môi trường canh cấy tế bào động vật, thực vật và gần đây trong các kỹ thuật cấy mô. Nếu ta để ý thấy các kỹ thuật này đang phát triển mạnh mẽ khắp nơi thì ta thấy ngay agar, đặc biệt agar rose là một thể của agar và hỗn hợp với nó trong rau câu, rồi đây sẽ chiếm một thị trường tiêu thụ lớn.
Trường Đại học Tổng hợp Huế, tuy thiếu điều kiện, từ năm 1977, song song với cuộc khảo sát các loài tôm cua, các động vật nổi, các phytoplankton ở đầm phá, đã thực hiện một số khảo cứu căn bản về cách nuôi trồng rau câu hay rong câu chỉ vàng: ảnh hưởng cường độ ánh sáng, nhiệt độ, độ mặn môi trường, nồng độ phân bón lên hàm lượng, chất lượng, năng suất, cường độ quang hợp, hô hấp, sự sinh trưởng của rau câu. Cách đây năm năm, trường cũng đã bắt đầu xây dựng một cái pilôt để chiết xuất agar. Trên nguyên tắc, cuộc chiết xuất nầy không có gì khó, chỉ cần một nồi lớn để nấu rau câu trong nuớc, một máy lọc tinh vi và một máy đông lạnh cùng một máy ép để tách agar ra khỏi nước. Có điều ta thiếu phương tiện, thiếu kỹ thuật, thêm vào đó thiếu một cơ quan thương mãi quan sát thị trường, tính toán sản xuất và phương tiện xuất cảng. Đằng khác, nếu nhắm thị trường sinh vật học là thị trường tương lai thì agar sản xuất phải đạt mức xuất khẩu và hơn nữa phải kiếm cách sản xuất agar rose bằng phương pháp lọc hay, tối tân hơn, bằng cách ghép gen rất thịnh hành vào thời buổi nầy. Muốn vậy, bước đầu là phải thông hiểu môn hóa học agar cần thiết trong thời gian chế tạo cũng như sau nầy trong khâu kiểm tra.
Ví chi mằn mò mất công, một giải pháp công hiệu là đi học nước ngoài. Thì đây, phòng thí nghiệm Equipe Polysaccharides Pariétaux des Végétaux ở viện Đại học Lille Flandre Artois, bây giờ có Laboratoire de Cytophysiologie Végétale et de Phycologie tiếp tục, chịu nhận hợp tác với trường Đại học Tổng hợp Huế trong chương trình nuôi trồng rau câu, chiết xuất agar. Cũng nên biết là Pháp cần agar mà rong tảo chứa agar lại hiếm ở Pháp. Nhờ sự hỗ trợ của AUPELP (Hội các Viện Đại học dùng Tiếng Pháp) và bộ Ngoại giao Pháp, ba cán bộ giảng dạy ở Huế đã qua tham quan hai tuần và thực tập sáu tháng ở Lille, trong luôn hai năm 1989-1990. Hy vọng còn sẽ có các thực tập sinh khác qua Pháp nếu Ủy ban Hỗn hợp Hợp tác Khoa học Kỹ thuật Pháp - Việt tiếp tục chấp nhận và ủng hộ chương trình.
Bước qua giai đoạn áp dụng thì hãng Pronatec, một công ty khảo cứu và phát triển kỹ nghệ công nghiệp rong tảo ở Lille, có khả năng cùng ta xây dựng một đơn vị sản xuất tại chỗ. Đề nghị là kỹ sư ta qua Lille với một số rau câu cùng chuyên viên của họ chiết xuất agar trên pilôt, sau đó mới xác định các thành phần của nhà máy tương lai, từ nồi nấu qua máy lọc, máy lạnh, máy ép. Nếu ta muốn, họ có thể giúp ta quản lý cuộc nuôi trồng vì đầm phá lớn, mỗi nơi có một phẩm chất môi trường khác nhau, nhiệt độ thay đổi quanh năm nên nồng độ agar cũng từ đó mà tăng gia hay giảm bớt,... nên cần biết ở nơi nào, vào lúc nào là cần gặt lượm rau câu, chưa kể phải chỉ định tính chất, số lượng và thời gian rắc rải phân bón. Ngoài ra, họ cũng có thể cùng ta tìm kiếm vốn đầu tư và, rất quan trọng, thăm dò mặt thị trường.
Hiện nay chưa thấy có một thống kê rõ rệt về sản xuất agar trên thế giới nhưng phỏng chừng cũng khoảng 8.000 tấn mỗi năm, trong số ấy Nhật Bản chiếm gần 40%. Về mặt tiêu thụ thì người ta chỉ biết mỗi năm gia tăng 4-5%, Hoa Kỳ đứng hàng đầu với trên 500 tấn mỗi năm, trị giá khoảng 10 triệu đôla. Bên Âu Châu thì tổng số dùng chỉ nằm trong vòng 1.000 tấn mỗi năm. Trước một thị trường như vậy, vị trí của agar ta đứng vào đâu?
Những năm gần đây, vùng Huế - Thừa Thiên chỉ khai khẩn 200 hecta để trồng rau câu, phơi khô bán cho Nhật Bản rồi sau đó Việt Nam mua lại agar chất lượng tốt của họ. Tương lai gần là ta có thể tăng diện tích trồng lên 300-800 hecta. Đến nay, năng suất rau câu khá thấp: 0,5-0,7 tấn/hecta ở các hợp tác xã và 1-1,5 tấn/hecta ở các nông trường quốc doanh. Vài năm nữa, năng suất nầy có thể tăng lên 1-1,8 tấn/hecta mỗi năm (rau câu ráo nước). Về chiết xuất thì tùy theo hiệu năng của nhà máy, nhưng có thể tính 20-40% agar từ rau câu khô. Tính trên diện tích 1.700 hecta thì hằng năm có thể thu hoạch 1.700-3.100 tấn rau câu, chiết xuất ra được 340-1240 tấn agar. Nếu tính theo năng suất quốc tế, số lượng agar sản xuất hằng năm có thể đạt đến 1.380-3000 tấn. Lẽ tất nhiên con số này còn nằm trong mong ước, nhưng nếu chỉ lấy phân nửa, 1.500 tấn mỗi năm so với số sản xuất thế giới 8.000 tấn thì cũng không có chi đáng thẹn.
Trong một lúc mà tình hình nước ta đang cần phát triển gấp, ở một chương trình mà ta có sẵn tài nguyên, chỉ cần máy móc, dụng cụ chứ khỏi đem ngoại tệ đi mua nguyên liệu ở nước ngoài, thì dự án nuôi trồng rau câu chiết xuất agar phải nằm trong danh sách các công cuộc cần được thực hiện ưu tiên. Chính quyền đã thấy rõ lợi ích thì vì sao đã mấy năm rồi chẳng thấy đồ án tiến triển được bao nhiêu?
Hắc Ký Ni Sơntháng 3.1991
Tuổi tré Chủ nhật 17 1991

15- BỐN HỌA SĨ HUẾ Ở PARIS 
(Triển lãm tranh tại Trung tâm Văn hóa Pháp Việt)
Nhận lời mời của Hội Henri de Toulouse, với sự hỗ trợ của Hội CODEV Việt Pháp, bốn họa sĩ Vĩnh Phối, Trương Bé, Phạm Đại và Nguyễn Đức Huy, giáo sư và giảng viên tại trường Đại học Nghệ thuật Huế, đã qua Pháp làm việc ba tháng hè (1994) vừa qua.
Truyền thống của Hội Saint-Henri là hằng năm mời một số họa sĩ quốc tế lại sáng tác vài tuần hay vài tháng ở vùng Lauragais miền nam nước Pháp. Sau các buổi sáng tác trong xưởng dựng lên giữa cánh đồng hoa hướng dương, ven rừng chập chờn bóng mát, là giờ trao đổi ý kiến, những buổi tranh luận say mê về các trào lưu nghệ thuật hiện đại, có khi quanh bàn ăn nức mùi phó mát hay nước mắm phương xa.
Đây là lần đầu tiên các họa sĩ Việt Nam được mời tham dự. Tuy đã từng tiếp xúc với nghệ thuật Tây phương, thông thạo kỹ thuật tân tiến, các anh đã học thêm được nhiều kinh nghiệm qua mấy tháng với Hội Saint-Henri. Và hôm 11.9 một số tranh của các anh đã được đem triển lãm trong số hơn 100 tác phẩm được sáng tác trong vùng của các bạn đồng nghiệp quốc tế. Các anh đã bán được hơn 30 tác phẩm tranh và tuợng, tiền bán đấu giá sau đó thu được sẽ giúp Hội tổ chức cho những cuộc gặp gỡ sau.
Phòng tranh Saint-Henri vừa đóng cửa thì bốn anh bạn lên ngay Paris để khánh thành cuộc triển lãm ở Trung tâm Văn hóa Pháp Việt hôm 13.9. Đây là một tòa nhà khá rộng nằm ngay giữa xóm La Tinh: ngoài phòng tranh còn có quầy bán sách, báo, băng nhạc, có quán cơm phục vụ phở, cháo hằng ngày. Suốt tuần còn có tổ chức những buổi học tiếng Việt, dạy đàn tranh, những buổi diễn thuyết trên các đề tài văn hóa Việt Nam.
Nếu hai bạn Phối và Huy có chuẩn bị đem từ bên nhà sang một số tranh và đưa ra trình bày cùng những bức vừa vẽ, hai anh Bé và Đại chỉ có triển lãm vài bức vừa mới sáng tác. Tranh của hai anh nếu là số ít thì lại là toàn kích thước khổ lớn và thuộc thể loại trừu tượng. Những bức Rừng sâu thẳm (đã được giữ mua ngay), Hồn Tạo hóa, Cánh đồng xanh của anh Đại cũng như những bức Trăng, Thu, Hạnh phúc, Phố cũ,... của anh Bé "đã dẫn dắt người thưởng ngoạn vào thế giới sâu thẳm của tâm hồn, của tư duy tư tưởng". Ngày nay, nhiều họa sĩ đã từ hiện thực bước qua trừu tượng vì họ cho "đó là nghệ thuật có sức biểu hiện nội tâm phong phú và đa dạng, có khả năng khái quát cao". Tuy vậy người xem tranh, muốn tận hưởng cái đẹp lối vẽ nầy, cũng cần được huấn luyện ít nhiều như khi nghe nhạc cận đại của Tôn Thất Tiết hay Nguyễn Thiện Đạo ngày nay rất có tiếng ở Âu châu.
Huy có lẽ là họa sĩ trẻ tuổi nhất trong số bốn anh. Anh chuyên môn về sơn mài nhưng cũng sử dụng các chất liệu khác, từ sơn dầu qua pastel, acrylic. Anh sáng tác đủ các thể loại: phong cảnh, chân dung, tĩnh vật,... nhưng đề tài luôn hướng về quê xứ Việt Nam, chủ đề ngày xưa hay có tư tưởng của đời sống xã hội ngày nay. Những bức Mùa xuân đi chùa, Phụ nữ, Ngôi miếu, Bà già, Sinh nhật hay Cánh đồng quê, Bé chăn trâu, Lăng Tự Đức,... mang đậm tính chất Việt Nam. Người xem thấy rõ anh đã phát triển và cách tân các mô típ vào hình thức truyền thống để xây dựng các tác phẩm của mình. Rất dễ thông cảm khi biết tất cả các sáng tác của anh ở Pháp của anh đều lấy đầu đề chung là Nostalgie (Tình hoài hương).
Anh Phối là người đã lăn lộn nhiều trong giới hội họa và có nhiều kinh nghiệm. Tiếp thu nghệ thuật phương Tây hơn 30 năm nay, anh đã sáng tác nhiều tranh lụa, sơn dầu, theo nhiều thể loại khác nhau, từ biểu hiện lập thể siêu thực qua phi hình thể trừu tượng. Anh đã tham dự nhiều cuộc triển lãm ở trong và ngoài nước, đã được trao tặng nhiều giải thưởng và có nhiếu tác phẩm lưu trữ ở các viện bảo tàng. Anh thường sáng tác trên chủ đề hòa bình, trở về cội nguồn với truyền thống văn minh gốc. Nhiều tranh của anh đã thể hiện Thời đại đồ đồng, Văn hoá Đông Sơn, Hùng Vương dựng nước. Những bức tranh Thánh Gióng hay Âu Cơ Lạc Long Quân, Rồng ba - Văn minh cổ nói lên tất cả tâm tư của anh. Ngày nay anh sáng tác theo chiều hướng đổi mới: lập thể biểu hiện, trừu tượng có chủ đề như phản ảnh cuộc sống xã hội hay trở về cội nguồn dân tộc. Tuy sử dụng kỹ thuật mới, "tư duy sáng tạo của anh vẫn còn giữ tính Đông Phương hiện đại". Tôi là người xem tranh gốc cố đô, ở xa xóm cũ, thì những bức Ngọ Môn hay Huế vẫn luôn gây trong lòng tôi một nỗi thích thú thầm kín, một tia nắng sưởi ấm tâm can.
Sau Bửu Chỉ, Hoàng Đăng Nhuận, Dương Đình Sang, lại bốn họa sĩ Huế có dịp trình bày tác phẩm ở kinh thành ánh sáng. Chuyến Pháp du của các bạn tuy tương đối ngắn hạn và có lẽ cũng chẳng đem lại được bao nhiêu lợi nhuận tài chánh, đã giúp các bạn tiếp xúc với hội họa, văn hóa phương Tây. Hai cuộc triển lãm Saint-Henri và ở Paris dù sao đã đưa ra công chúng tên tuổi các bạn tuy ở bên nhà các bạn không phải là những họa sĩ mới nhập làng, và từ đấy dễ vươn cao lên.
Hắc Ký Ni Sơn đầu thu 1994
Sông Hương Tết Ất Hợi 1995

16- HƯƠNG VỊ HUẾ GIỮA NAM ĐÔ 
Huế chưa có sân bay quốc tế nên từ nước ngoài mỗi lần muốn về thăm sông Hương núi Ngự phải chọn sân bay Tân Sơn Nhất hay Nội Bài. Năm nay vì có ý định tham quan đồng bằng sông Cửu Long, tôi và nhà tôi chọn đỗ cánh Sài Gòn. Không biết là tình cờ hay may mắn, mà tôi tin thường may mắn dễ lại với ai có lòng tin và nhiều nhiệt huyết, vì mới chân ướt chân ráo đến nhà đứa cháu là có tin được mời đi dự buổi gặp mặt đầu năm của hai hội cựu học sinh Quốc Học - Đồng Khánh.
Sáng hôm chủ nhật 8.2.98, quen thói Âu Tây, chúng tôi lại chỗ họp đúng 8 giờ rưởi. Trừ những vị trong ban tổ chức, có lẽ chúng tôi là khách đến sớm nhất. Cũng hay thôi vì như vậy chúng tôi có dịp hàn huyên với nhũng bạn chưa từng quen biết. Học sinh Quốc Học - Đồng Khánh không nhất thiết phải là người Huế nhưng hôm đó giọng ọ ẹ miền Trung rầm rập hội trường, ở trên sân khấu cũng như trong phòng. Sau những bài diễn văn cần thiết, phần văn nghệ dồi dào tỏ ra các anh chị vẫn luôn còn giữ vẻ trẻ trung của thời học sinh thuở trước. Ngồi nghe và ngắm nhìn những ca sĩ, nhạc sĩ tiêu biểu, râu tóc điểm màu tiêu muối, sắc mặt của những bậc phụ huynh mà vẫn tươi tắn, nhanh nhẹn, phong độ tưởng như còn ở tuổi đôi mươi, tôi cảm phục và mừng thầm cho nhưng người biết sống mãi không già.
Trong phòng họp hôm đó, tôi đã làm quen được một số bạn mới nhưng cũng vui mừng gặp lại vài bạn xưa tưởng như không khi nào còn có dịp hội ngộ. Một chị khá lớn tuổi hỏi tôi có phải là người năm mươi năm trước đã kèm học hai đứa trẻ bên Hàng Bè. Tôi không nhận ra chị ngay nhưng bổng nhiên nhớ lại cả một thời niên thiếu, học năm cuối ở trường Khải Định trước khi vô Sài Gòn. Hồi ấy vừa đi học lớp đệ nhị khoa học B, tôi vừa làm "gia sư", túi không đầy tiền nhưng sống một cuộc đời vô tư, hồn nhiên. Chính vào dịp đó mà tôi đã làm quen với những xóm Đông Ba, Gia Hội náo nhiệt từ thuở nào. Tôi cũng nhớ lại cầu Trường Tiền vừa mới bị sụp một vài, hàng ngày phải đi đò vượt qua sông Hương, một dịp để các học sinh vẩy nước chòng ghẹo các cô áo trắng tóc thề e lệ núp sau chiếc nón bài thơ nhưng vẫn khúc khích chuyện trò, không chút bực tức, có khi nghiêng nón biếu tặng cả một nụ cười duyên dáng hay một liếc nhìn chấn động lòng chàng trai.
Cũng trong buổi họp đó, chúng tôi gặp lại một anh bạn quen từ bên Pháp nhưng bặt tin mấy chục năm nay. Cuộc trùng phùng đã gợi lại cho chúng tôi những kỷ niệm vui tươi của thời... chưa cưới. Hồi ấy chúng tôi là sinh viên sống ở xóm La Tinh tại Paris. Hôm 14.7.54, năm Điện Biên Phủ, sau một ngày học đừ người, vào khoảng 5 giờ chiều, tôi đi xem khiêu vũ được tổ chức khắp các nẻo đường nhân lễ quốc khánh Pháp. Tôi làm quen với hai cô chị em nữ sinh ở công trường Sorbonne sau khi nhảy một điệu valse với cô em. Trời đổ mưa và dàn nhạc cũng ngừng đánh, tôi mời hai cô về nhà uống trà và sau đó ăn tối: món ăn độc nhất mà tôi biết nấu và lúc nào cũng sẵn có vật liệu ở phòng trọ hồi ấy là bún trộn với pho mat Gruyère (bún khô không khi nào hư còn pho mat thì đặt ngoài cửa sổ cũng đủ lạnh để giữ nhiều ngày). Tối hôm đó, cả một bọn bạn tụ họp tại phòng tôi để cùng nhau đi xem đốt pháo bông ở Pont Neuf, rồi đi nghe nhạc và khiêu vũ trước Hôtel de Ville. Trời mát, nhạc hay, bạn bè vui vẻ, chúng tôi quên mất giờ chuyến métro cuối cùng. Sau đó, không ai có tiền thuê taxi, phải hộ vệ hai nàng cuốc bộ về nhà ở tận trên quận 19 miền Bắc Paris, hai người tình nguyện là tôi và anh bạn Nguyễn Tế. Ba năm sau, cô chị trở thành vợ tôi còn anh Tế thì trong thời gian ấy đã lên đường về nước phục vụ. Nhà tôi nhận ngay ra anh mặc dầu nhiều năm xa cách. Đã về hưu như chúng tôi, anh không khác trước bao lăm thời trẻ, từ nét mặt, điệu bộ, đến cách ăn nói, phê phán tình hình, nhưng anh không còn nhớ gì về cái đêm 14.7 đó nữa.
Thấy cuộc gặp mặt bạn bè xưa vui quá nên khi được tin có buổi họp đồng hương Huế - Thừa Thiên chủ nhật sau, chúng tôi tranh thủ ngay thời gian để đến dự. Nhớ lại những buổi họp đồng hương vài năm trước ở đường Phan Đăng Lưu, tưng bừng, náo nhiệt với một bầu không khí văn nghệ sôi nổi nhưng êm đềm, chúng tôi mừng thầm lại được sống những giờ phút ấm áp khó quên. Như chủ nhật tuần trước, chúng tôi thuộc số những ngưới có mặt sớm nhất. Nhưng ngay sau đó, có người nhỏ nhẹ cho chúng tôi biết hôm nay là một buổi họp nội bộ. Hiểu ý, chúng tôi chào hỏi qua loa vài bạn quen rồi ra về với ít nhiều luyến tiếc nhất là sau nầy biết có cuộc mừng thọ nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương mà những bản nhạc trữ tình như Đêm đông, Người đẹp vườn xuân, Bướm hoa,... đã làm rung động cả một thời tuổi trẻ của tôi, hay lưu luyến như bài Trên sông Hương mà âm điệu mấy chục năm sau vẫn còn gợi lên hình ảnh giòng sông êm ả hữu tình
Chiều tàn trên bến mang theo hoàng hôn,
Dòng sông buồn mơ chiếu áng mây hồng,...
Nhưng như tôi thường nghĩ, trong cái rủi thường có lẫn vào một cái may: hôm đó, chúng tôi lại có duyên gặp mặt chị Hỷ Khương mà những câu ngâm thơ bài Đây thôn Vỹ Dạ của Hàn Mặc Tử đầy xúc cảm đã đi vào lòng tôi trong một cát xét thời Bách Khoa mấy chục năm trước. Chính chị đã đưa chúng tôi lại thưởng thức những món đặc sản ở quán Ngự Viên của họa sĩ Tôn Thất Văn và chị Dẫn. Chất lượng thực đơn ở đây vô cùng đặc sắc, có món thanh tao hơn cả ở chính đất Thần Kinh mà chúng tôi vừa có dịp về thăm. Chị Dẫn, tuy vừa mới ở nhà bếp ra, tươi tỉnh như một cô gái dậy thì với nét mặt dịu hiền của một bà mẹ. Cảm kích trước quán cơm Huế yên tĩnh này giữa chốn Nam Đô náo nhiệt, nữ sĩ Hỷ Khương đã có hai câu thơ tặng anh Văn, chị Dẫn đóng khung trên tường.
Vườn Ngự trăng vàng soi bóng trúc
Thềm hoa kính Dẫn bước Văn nhân.
Giáo sư Vũ Khiêm khi đọc hai câu thơ này biết tên hai vợ chồng chủ nhân quán Ngự Viên, cũng cao hứng lấy chữ Văn và chữ Dẫn làm thành hai câu đối chữ Hán mà hoa tay hiện rõ trên nét tuyệt vời
Văn đài dĩ túy Hương giang tửu
Dẫn lộ do phùng ngự uyển hoa.
Tráng miệng hôm đó là món chè đậu ngự ngon ngọt quí báu mà sang đất Pháp phải may mắn lắm mới gặp được. Chị Hỷ Khương đề nghị một câu đối
Vườn Ngự, ta ngồi xơi đậu ngự.
Vế đối là công tác tập thể của ba người
Đầm Sen, mình đứng ngắm hoa sen.
Trên xe taxi về nhà, tôi ngẫm nghĩ Đầm Sen là ở đất Sài Gòn, phải đưa cho được câu đối về chốn Hương Bình
Núi Bằng, gió lộng thoáng chim bằng.
Vế đối này chắc chắn là không chỉnh bằng, nhưng tưởng Bằng cũng gần với Ngự hơn Sen!
Chị Hỷ Khương còn quý khách hơn: ngoài cuốn Hồi ức về cha tôi Ưng Bình Thúc Giạ Thị để
Lời xưa di huấn thời son trẻ
Con vẫn mang theo suốt cuộc đời
chị còn biếu tặng chúng tôi hai cuốn băng vidéo Tình Thúc Giạ, thơ văn cụ qua tiếng hát của chị, và Lễ kỷ niệm 120 năm sinh Cụ tổ chức ở Huế hè năm ngoái. Với những món quà tặng văn hóa quí báu nầy, tôi luôn sống với Huế mặc dầu xa cách hằng nghìn dặm.
Bên phần bác sĩ Dương Cẩm Chương cũng có mặt tối hôm ở Ngự Viên thì lại nhã tặng chúng tôi cuốn Còn vang trong gió của tác giả phu nhân Thân Thị Ngọc Quế mà bác sĩ đã minh họa với những bức tranh tràn đầy nghệ thuật vẻ ở Việt Nam. Chúng tôi không xa lạ với thơ chị Quế và đã có bài cảm nghĩ (bài gởi về tạp chí Sông Hương ở Huế, không được đăng) khi hơn 10 năm về trước nữ sĩ cho ra tập thơ đầu tay Giọt nước cành sen mà tôi hân hạnh còn giữ một bản thảo.
Ngắm giọt nước cành sen
Nhớ về cung thành nội
Buổi tĩnh tâm nắng chiều
Hương còn đọng trên môi.
Thân kính đa tạ các anh chị.
Thì ra tinh thần Huế vẫn luôn tồn tại, bất chấp thời gian, không gian. Riêng phần chúng tôi, những kẻ mải mê trong thế giới khoa học khô khan, ngụp lặn trong hiện thực vật chất xô bồ, qua cuộc tiếp xúc với các anh chị nghệ nhân lỗi lạc, với những bài thơ tình thâm, những bản nhạc động lòng, những tranh tượng siêu hình, đã học hỏi được thêm nhiều trên mặt văn nghệ và từ đó có dịp trau dồi nhận thức cảm tính của mình để sống lâu mãi trong tổng thể tình cảm, nội tâm của con người Huế.
Hắc Ký Ni Sơnmùa Phật Đản 2542
Người Sông Hương 1999

17- TỪ DEBUSSY ĐẾN TÔN THÂT TIẾT 
Nước Pháp mùa xuân năm nay hân hoan tổ chức "Những ngày nhạc Việt Nam". Hai đoàn Phú Xuân (Nhạc Cung đình và Ca Huế) và Thái Hà (ca trù) được mời qua trình diễn từ 10 đến 17 tháng 5 năm 2002. Nói cho đúng, trừ hai buổi diễn tối hôm 10 ở nhà thờ Saint-Loup de Naud (Seine-et-Marne) và tối hôm 17 ở rạp Théâtre des Nouveautés tại Le Parvis - Tarbes (Pyrénées), tất cả những buổi khác đều được tổ chức ngay tại Paris. Khởi đầu hai chiều thứ bảy 11 và chủ nhật 12, khán giả được xem không trả tiền ba xuất Nhạc Cung đình lúc 15, 16 và 17 giờ tại Cité de la Musique. 14 nhạc sĩ quanh hai cụ Trần Kích và Nguyễn Kế, nguyên là nhạc công trong dàn nhạc Cung đình lúc trước, biểu diễn ngay trong đại sảnh Rue Musicale, đứng trên một bục gỗ, không có trang trí đặc biệt nên cảnh tượng không được trang nghiêm như hai danh từ cung đình đòi hỏi. Ban nhạc tương đối không đông nên có vẻ lẻ tẻ dưới vòm nhà cao vút. Lần nầy ban Nhạc Cung đình có thêm bóng dáng một phụ nữ, cô Tôn Nữ Lệ Hoa, chuyên môn đàn tranh trong nhóm Ca Huế. Hôm tôi lại xem vào chiều thứ bảy thấy khá ít khán giả, có lẽ vì chương trình không được phổ biến rộng rãi. Ngoài một số có ghế của phòng xem máy truyền hình bên cạnh, phần lớn khán giả ngồi ngay dưới sàn nhà.... Những bài Tam luân cửu chuyển, Thập thủ liên hoàn, Phụng vũ, Mã vũ, Tẩu mã, Song tấu, Bông, Mán,... quen thuộc trong một lúc đã đưa hồn tôi về quê xưa, quá khứ, nhưng chắc gây không ít thắc mắc, lạ lùng cho những người nước ngoài tò mò lại nghe, mặc dầu kèn, trống trong những cuộc diễn hành ở đây cũng vang dậy không kém và dân Parisien ngày nay đã có nhiều dịp tiếp xúc nhạc quốc tế. Có lẽ cần thêm vài lời giải thích tuy đã có người cho tôi hay nhạc chỉ cần cảm chứ không cần hiểu. Hay ít nhất cũng phải giới thiệu vị trí của nhạc cung đình trong nền văn hóa Việt Nam.
Trái với xuất nhạc cung đình, buỗi trình diễn ca Huế và ca trù có bán vé lúc 16 giờ rưởi trong Amphithéâtre du Musée thì phòng nhạc chật cứng thính giả. Tuy ít có người Việt, tôi cũng mừng thấy mặc dầu quảng cáo không rầm rộ, khách thích nhạc không thiếu người hâm mộ ca Huế và ca trù là hai thể nhạc trong phòng, theo tôi, rất khó nghe, khó thưởng thức cho lỗ tai người ngoại quốc, đặc biệt người Âu. Sau nhiều năm mới lại được nghe, tôi thấy giọng hát cô Thanh Tâm già dặn thêm nhiều. Tờ giới thiệu viết cô là ca sĩ đào tạo truyền thống ca Huế hay nhất. Kim tiền, lưu thủy, cổ bản, xuân phong, long hổ, nam bình, hầu văn, lý giao duyên, tương tư khúc, tứ đại cảnh, hò mái nhì đủ cả. Riêng tôi chỉ tiếc thiếu mấy câu nam ai... mà cô Minh Mẫn đã ca tặng tôi hồi tôi về thăm quê hương lần thứ nhất, trên một chuyến dạo đò đêm. Nghe ca Huế dưới bầu trời Paris, xa Huế hằng ngàn dặm, tôi không sao tránh được nhớ lại những đêm nhạc trên sông Hương, trăng thanh, gió mát, rượu nồng, bạn vui. Sau buổi trình diễn, cô bán một dĩa CD với giá ủng hộ. Sáng kiến hay tuy không lạ, giúp thính giả về nhà có dịp nghe lại. Tiếng hát cô Thúy Hoa, học trò nữ nghệ sĩ ca trù có tiếng Quách Thị Hồ nay đã mất, thét nhạc hay hát nói, hát giai hay hát ru, bác phản hay chừ khi, xẩm huê tình ba mươi sáu giọng, vẫn luôn réo rắt, não nuột trong tiếng đệm đàn đáy của hiền huynh Nguyễn Mạnh Tiên và tiếng trống cầm chầu của thân phụ cụ Nguyễn Văn Mùi. Lần này, đoàn có thêm ca sĩ Thanh Hoài, nguyên là nghệ sĩ hát chèo, hiến thêm một điểm sinh động trong cuộc biểu diễn.
Tối hôm thứ ba 14, cả hai đoàn lại trình diễn ở Trung tâm IRCAM-Pompidou. Trong chương trình tối hôm đó có thêm bốn bản nhạc cận đại: Nhịp đơn, nhịp kép của Vũ Nhật Tân, Những ngón chân của Trần Kim Ngọc, Vang vọng của Nguyễn Thiên Đạo và Movement của P.Q.Phan. Cho trình diễn xen lẫn hai loại nhạc truyền thống và cận đại, đều xuất xứ Việt Nam, là một ý kiến rất hay, nhất là trước khán giả ngoại quốc, có thể hiểu như là để nói lên một bước tiến trong ngành âm nhạc của nước ta, tìm cái mới những luôn luôn giữ cái cũ. Sáng kiến nầy còn có nhiều ý nghĩa hơn nữa tối hôm thứ năm 16 tại rạp Cirque d'Hiver-Bouglione. Bốn chương trình đặc sắc nối tiếp nhau: nhạc Debussy trước và sau, kèm ở giữa nhạc cung đình Huế và bản nhạc cận đại Truyền thuyết Đất phương Nam của nhạc sĩ Tôn Thất Tiết. Tại sao Claude Debussy (1862-1918)? Vì ông là một nhạc sĩ phóng khoáng. Theo ông "nhạc là một nghệ thuật tự do, tung phọt, một nghệ thuật ngoài trời, một nghệ thuật ở mức độ những nguyên tố, gió, trời, biển" nên ông muốn cho nhạc mình thoát ra khỏi những khuôn khổ xã hội ngột ngạt, những chân trời âm thanh hạn chế. Luôn hướng về Đông phương, lòng ông được thỏa mãn ở hai hội chợ thuộc địa 1899 và 1900, có dịp thưởng thức nhạc gamelan Nam dương hay theo dõi một gánh nhạc rong Nam Kỳ. Sau đó ông còn dịp tiếp cận nhạc Trung Hoa, nhạc Ấn Độ,... và dần dần những tác phẩm của ông "xây dựng một vũ trụ âm thanh chìm đắm trong không gian âm nhạc, gây ra những mối liên quan với phương Đông và hôm nay với nhạc Tôn Thất Tiết".
Những Vua Hùng là một bản nhạc 17 phút, không lời, tuy có một giọng hát soprano như một tiếng đàn huyền diệu nổi bật trong mấy chục cây violon, violoncelle, harpe, kèn clarinette, hautbois, cor, sáo trống, chiêng, xập xỏa đủ thứ. Chỉ huy Dàn nhạc Quốc gia Ile de France là nhạc trưởng Jacques Mercier, người, đã từng điều khiển dàn nhạc giao hưởng ở London, Berlin, Amsterdam, Stokholm, Munchen, Genève,... Tôi không quen nhạc Âu Tây lại càng ít nghe nhạc cận đại. Được nhà tôi hướng dẫn và thúc đẩy, tôi chịu đi nghe mấy buổi. Thì ra lỗ tai mình cũng cần được huấn luyện. Mua thêm được dĩa CD Légendes de la Terre du Sud của cùng dàn nhạc, nghe đi nghe lại nhiều lần, tôi hòa mình với tác giả. Sau nầy, biết vậy, anh Tôn Thất Tiết gởi tặng chúng tôi nhiều dĩa khác của anh. Trong dĩa nhạc vừa mới mua, lời kể chuyện được kịch sĩ trứ danh Georges Wilson đảm nhận, cô Syvaine Davené đóng góp giọng hát.
Trong bản Những Vua Hùng, khi nước Văn Lang được dựng lên sau cơn hỗn loạn cũng như khi quanh núi Tản Viên tràn ngập thủy triều sau trận giao chiến Thủy Tinh - Sơn Tinh, giọng hát ngân lên, tuy không lời, chỉ âm vị, nhưng du dương, kéo dài trên những nguyên âm, làm thay đổi hình ảnh của lịch sử, một lịch sử xa xăm, huyền thoại của đất nước. Lịch sử được xích lại gần hơn, thiết thực, quen thuộc với nhạc cung đình Huế. Nếu dàn nhạc giao hưởng với mấy chục nhạc công chiếm đầy sân khấu, ban Phú Xuân mười mấy người thấy thật lẻ loi giữa rạp xiếc rộng lớn như hôm trước ở Cité de la Musique. Ví như có được ban đại nhạc 43 người như xưa!
Tuy ngoài chương trình "Những ngày nhạc Việt Nam", cũng cần nói đến buổi trình diễn đúng là dành cho con trẻ nhưng thật ra người lớn cũng thấy thú vị. Đây lại là một bài học khác : nhạc cũng như người nghe nhạc không có tuổi! Đó là hôm trình diễn hai bản nhạc cận đại Truyền thuyết Đất phương Nam của nhạc sĩ Tôn Thất Tiết, cũng ở rạp Cirque d'Hiever- Bouglione, chiều thứ bảy 17, hai xuất, mỗi xuất 35 phút. Cử tọa toàn là con trẻ, người lớn phần đông là phụ huynh hay giáo viên đi kèm. Chương trình gồm có bản Những Vua Hùng đã thấy, cộng thêm truyện Thị Tơ tức sự tích con tằm (19 phút). Đây là một đề tài rộng lớn để tác giả mặc sức sử dụng những nhạc cụ. Hung thần, nhạc dữ, hiền thần, nhạc dịu. Một tiếng xập xỏa, tai biến sẽ xảy ra. Hơi thở con người được thể hiện qua những nhạc khí thổi. Những nhạc khí dây miêu tả những diễn biến dịu lành. Những tiếng trống, tiếng chuông tường trình biến chuyển khắc khổ của một cô gái nghèo, vô phúc, mồ côi, được đức Quan Âm phù hộ, hiền thần che chở, biến thân thành con tằm xe tơ, khắc sâu tên mình vào lòng dân gian. Tôn Thất Tiết biết phô diễn quan hệ mất thiết giữa con người và tạo hóa, giữa thần thoại và lịch sử. Về mặt kỹ thuật âm nhạc "anh dung hòa phách nhạc liên tục phương Đông với những vành thời tương phản phương Tây, thực hiện một dung hợp những quãng điều hòa và những tiểu quãng nhạc Âu với những thang âm nhạc Việt" (tài liệu Radio France). Anh đã nối liền Đông và Tây với một nghệ thuật tinh tế đầy chất thơ, tránh khỏi mọi xu hướng mô phỏng nông cạn.
Sinh năm 1933 ở Huế, anh Tiết bắt đầu học nhạc ngay ở đất Thần kinh trước khi qua Pháp năm 25 tuổi học hòa âm và đối âm ở Ecole Normale de Musique. Sau đó, anh được nhận vào Conservatoire National de Musique ở Paris. Ở trường nầy, anh học tiếp đối âm, nhạc fuga và soạn nhạc với Jean River và André Jolivet. Anh là tác giả một số tác phẩm đủ loại: 12 bản cho dàn nhạc trong ấy có Tứ Đại Cảnh (1968), Hy Vọng (1971), Ngũ Hành (1973), Vô Vi (1974), Ấn Tượng (1974-75), Những Truyền Thuyết Đất Phương Nam (1996); 16 bản cho nhạc phòng trong ấy có Niệm (1974), Chu Kỳ I, II (1976), III, IV (1977), Phong Vũ (1991), Xuân Vũ (1993); 5 bản nhạc hát trong ấy có Vang Bóng Thời Xưa (1969), Kiêm Ái (1978), Chu Kỳ VI (1993). Như đã được lưu ý trong bản tiểu sử ở nội bộ Radio France, tuy học nhạc Âu, anh không quên gốc Việt của mình và đã trở về tìm nguồn nhạc trong tư tưởng Á Đông, trong truyền thống Trung Hoa như Kinh dịch cũng như trong Phật giáo hay Ấn Độ giáo. Anh thích làm sống lại tinh thần nhạc truyền thống Việt Nam, nhất là nhạc thiêng liêng, nhạc triều đình. Ngoài những bản đã thấy, người ta còn nhận ra những bản mang tên Pháp Incarnations structurales (Những sự hóa thân cấu trúc, 1967), Terre-Feu (Đất-Lửa, 1981), Jeu des cinq Éléments (Ngũ hành, 1982), Moments rituels (Những thời khắc nghi lễ, 1992) trong số nhạc phòng, Prajna Paramita (Ba la mật da, 1988) trong số nhạc hát. Le chemin de Bouddha (Con đường Đức Phật, 1990-91) là một bản kịch múa. Anh đã lãnh nhiều giải thưởng như giải Lili Boulanger (1972) của Hội SACEM, giải Diễn đàn Quốc tế những Nhà soạn nhạc ở UNESCO (1975), giải Sáng tác của Bộ Văn hóa (1981). Anh cũng còn là tác giả nhạc đệm cho hai phim Mùi đu đủ xanh và Xích lô của nhà đạo diễn Trần Anh Hùng. Anh với Nguyễn Thiên Đạo là hai nhà soạn nhạc cận đại Việt Nam có tiếng nhất ở Pháp và ngoại quốc.
Với một tinh thần luôn hướng về đất nước như thế, tất nhiên anh sáng lập ra Association France-Vietnam pour la Musique (Hội Pháp-Việt cho Âm nhạc) năm 1993, nhắm mục đích giúp Việt Nam phát triển âm nhạc. Đã nhiều lần, anh tranh thủ đưa hai đoàn Phú Xuân và Thái Hà qua trình diễn ở Pháp và châu Âu. Lần nầy, anh có được sự hợp tác của những hội CODEV Việt-Pháp, SACEM, tổ chức liên chính phủ Pháp thoại ACCT cùng những địa điểm đón nhận các đoàn biểu diễn. Rất tiếc là anh bảo tổ chức vật chất quá nặng và anh không muốn tiếp tục nữa. Hy vọng đây chỉ là những lời thốt ra trong lúc mệt mỏi. Tôi có đề nghị với anh xin đóng góp cả hai tay (và cả hai chân vì nghe nói dẫn các đoàn đi lại đòi hỏi nhiều nghị lực) và anh cứ kêu tôi khi cần. Trong lúc chờ đợi, tôi giúp sức trong sở trường của tôi: tôi biếu anh những hình ảnh chụp hai đoàn để  cung cấp cho báo chí ngày càng chú ý đến nhạc Việt Nam nói chung, nhạc Huế nói riêng. Dù sao, tôi chắc những người tổ chức đã thỏa mãn ước mong. "Những ngày nhạc Việt Nam" vang âm như hồi Thiên Mụ êm dịu, xa xăm nhưng chứa chan nét duyên quyến rũ.
Hắc Ký Ni Sơnmùa xuân 2002
Nhớ Huế 16 Huế phương xa 2002

18- TIẾN TỚI HỘI NGƯỜI YÊU HUẾ
Sau 1975, đất nước thống nhất, người Việt sống ở nước ngoài hướng mắt về quê cũ, náo nức tính ngày hồi hương trong lúc một số người trong nước đã thành công hay đang thực hiện chuyện xuất dương di tản. Sự ra đi của bà con, bạn bè dù sao đã đè nén một phần nào lên nhiệt huyết của những đứa con sống nơi xa xứ. Về hay không về? Rút cuộc, ít nhất trong một vài năm, số người chần chừ chiếm số khá đông tuy mọi người đều ý thức cần làm gì cho tổ quốc, cho quê hương. Ai mà không yêu nơi chôn rau cắt rốn, nhớ đến những ngày vui tươi thơ ấu trong một gia đình đầm ấm, nơi miền sông núi hài hòa vẻ đẹp thiên nhiên? Từ đấy làm sao không nóng lòng về lại quê cũ, nếu không để xây dựng một cái gì đó thì ít ra cũng gặp lại bà con nhiều năm không tin tức, ngắm nhìn dòng nước uống quanh cánh đồng rực vàng lúa chín hay bâng khuâng trước cánh đồi phản chiếu ánh nắng mặt trời êm dịu vào lúc chiều tàn?
Du học ở Pháp lâu năm, tôi may thường gặp được đồng bào khắp nước cũng như bạn bè đồng hương quê Huế hay những người đã từng sống và làm việc ở Huế, mỗi lần hiến tôi một dịp hồi tưởng lại quá khứ. Hồi mới qua Paris, tôi được anh bạn Tôn Thất Ngộ, sau nầy có phòng mạch nha y bên Rabat, kinh đô xứ Maroc, đem lại thăm gia đình Giáo sư Trương Công Cừu. Gần sáu mươi năm sau, tôi còn nhớ rõ mồn một tiếng nói giọng Huế quen thuộc của cô cháu bé, trong khoảnh khắc đưa tôi về lại mái nhà anh tôi cạnh cầu Kho Rèn, nơi ở trọ mấy năm tiểu học, cùng chung sống với mấy cháu con anh tôi. Sau đó tôi có dịp lại giữ con cho anh chị Nguyễn Duy Thu Lương - Trương Thị Hoa Diên ở Paris, hai thầy cũ của tôi ở trường Khải Định, nay anh học trường điện, chị học trường buôn. Anh chị học hành bận bịu, tôi cũng vậy nhưng tranh thủ được thời gian đi đón cháu vào cuối chiều, khi tan học. Trong lòng tôi là thực hiện một việc thiện loại BA (bonne action) đoàn hướng đạo thời tiền chiến nhưng anh chị rất sòng phẳng, nhất quyết trả công cho được, bất đắc dĩ tôi phải nhận tiền, đóng góp vào ngân quỷ sít sao của tôi hồi đó. Nhưng đối với tôi, nếu em bé chưa nói được gì nhiều, trò chuyện bằng tiếng Huế với hai anh chị là một hạnh phúc của kẻ hằng ngày sống trong một môi trường Pháp ngữ.
Vào đầu thập niên 50, những năm đầu tôi ở xứ Pháp, một số bạn trẻ quê Huế qua học trung học, có lẽ tình cờ, tập trung ở Grenoble và tôi trở nên người anh lớn hướng dẫn: những Nguyễn Văn Dinh, Nguyễn Văn Đạt, Nguyễn Vinh, Thân Trọng Cương,... Tôi đã có dịp cùng với anh bạn này đem xe đạp về viếng vùng nam nước Pháp, chạy ngang dọc bờ Địa Trung Hải, ở lại nhà cô Crayone một thời đã dạy ở trường trung học Đồng Khánh. Cũng ở Grenoble tôi được tiếp xúc với anh Tôn Thất Thiện, bây giờ định cư ở Canada, trước đó vài năm còn là phó đoàn trưởng đoàn hướng đạo Lê Lai của tôi ở Huế. Anh khuyên tôi đừng lấy vợ đầm và đừng làm chính trị! Đấy là năm tôi nói được nhiều tiếng Huế nhất trong một thành phố tương đối nhỏ. Sau đấy, lên học Paris, tuy người Việt nhiều nhưng thành phố quá lớn để dễ gặp nhau nếu không là ở những ngày lễ hội, Tết nhất. Tôi nhớ có gặp được thầy Nguyễn Huy Bảo tuy tôi quá trẻ để theo học lớp triết lý với thầy. Thầy nói giọng Bắc nhưng thầy đã là giáo sư nhiều năm ở trường trung học Khải Định. Trong trí óc tôi luôn còn lảng vảng hình ảnh một ông giáo sư tinh nghịch, trước số đông học sinh, nhiêm nghị phán một câu: Monsieur Nồng pompe Madame Hamel khi thầy Đoàn Nồng đang lịch sự bơm xe giùm bà giáo sư Hamel. Tràng cười rũ rượi chứng minh các học sinh đã thấu hiểu lời phán hài hước của thầy Bảo nay đã qua đời.
Một vị mà mà tôi hân hạnh được hội kiến nhiều lần là bác Hoàng Xuân Hãn. Bác nói giọng Nghệ Tĩnh nhưng đã từng làm bộ trưởng bộ Giáo dục trong Nội các Trần Trọng Kim ở Huế sau cuộc đảo chính Nhật. Hôm lần đầu tôi lại tự giới thiệu với bác ở thiền viện Trúc Lâm, ngoại ô xa nam Paris, tôi hân hoan được nghe: tôi đã đọc tất cả các bài của Yến viết trong Bách Khoa! Thì ra tôi không phải là người xa lạ đối với bác. Thế là chúng tôi măc sức đàm đạo về khoa học và nhất là về phương cách phổ thông khoa học trong nhân dân, đặc biệt trong đám thanh niên. Tôi không quên thưa với bác cuốn sách đầu giường của tôi hồi mới bắt đầu viết là cuốn Danh từ khoa học của bác vì hồi đó đang còn là sinh viên tôi chỉ biết những đế tài khoa học học ở trường hay đọc trong sách báo. Sau nhiều buổi bàn cải, chúng tôi đi đến một kết luận cần cho ra một loạt những cuốn sách nhỏ loại Que sais-je? của Pháp. Bác chịu tiếp xúc những tác giả có thể viết, tôi lo mặt ấn loát. Chuyện khó mà chúng tôi không vượt qua được là vấn đề tài chánh vì, theo tôi, không phải xuất bản một cuốn mà là một bộ sách đề cập nhiều đề tài khác nhau. Bác đã ra đi trước khi dự án đang còn trong trứng.
Mùa hè trước khi tôi rời Huế đi du học Sài Gòn, thấy Bùi Xuân Bào có mở lớp dạy Pháp văn trong cơ sở trường Thiên hựu ở Huế. Thầy đã giỏi môn này trước khi học và đậu cử nhân, tiến sĩ văn chương Pháp. Ở Paris, sau khi hết còn nhiệm vụ công cán, sẵn có xe hơi, thầy thường chở vợ chồng chúng tôi đi chơi và nhất là thầy chịu đọc lại luận văn tốt nghiệp trường Viễn Đông Sinh Ngữ của nhà tôi, trên đề tại cuốn sách Đoạn Tuyệt của Nhất Linh. Tôi cũng được tiếp xúc hai anh chị nha sĩ Bửu Điềm - Phùng Thị Cúc, chị Cúc sau nầy nổi tiếng trên thế giới với những tác phẩm điêu khắc Điềm Phùng Thị và đã để lại một nhà trưng bày ở Huế, lúc ở Paris cả hai hoàn toàn dấn thân vào công cuộc tranh đấu dành độc lập cho đất nước. Anh Điềm lúc trước là giáo sư Anh văn của tôi, cho nên hồi mới gặp nhau tôi thưa là thầy. Thấy anh mỗi lần cười lớn, tôi phải phân minh: nhất tự vi sư, bán tự vi sư mà! Anh Điềm thích nói chuyện chính trị, nhiều khi hết cả thì giờ chữa răng. Một hôm anh tự hào kể suốt tối hôm qua đi dán áp phích; dù thông cảm sự đóng góp tích cực của anh, tôi nhẹ nhàng góp ý: dán bích chương thì ai làm cũng được, nhưng khảo cứu cách phòng răng, chữa răng dễ dàng, ít tốn cho dân nghèo thì chỉ nha sĩ mới là người có khả năng thực hiện hữu hiệu nhất.
Dù sao, những buổi nói chuyện với anh chị Điềm dần dần đã dẫn tới nhu cầu thành lập một hội đồng hương Huế ở Paris. Sau đó, qua nhiều buổi gặp gỡ, bàn tán, một nhóm anh chị em đồng ý khai sinh Hội Người Yêu Huế, tên gọi ban đầu hơi khó nghe nhưng không biết dịch chữ amis de Hué làm sao cho ổn. Điều lệ và nội dung của Hội rất dễ dàng được đặt ra:
- Bảo dưỡng và tăng cường tình bạn giữa những người yêu Huế,
- Góp phần vào cuộc mở mang du lịch và văn hóa ở Huế trong tinh thần lời kêu gọi của ông Giám đốc UNESCO ngày 25.11.1981 mong muốn Huế bảo tồn một môi trường đô thị biết bao tràn đầy lịch sử trong một dấu ấn hài hòa sâu đậm và bảo vệ sự phong phú sinh động một linh hồn tập thể, đem lại hạnh phúc cho người ở Huế cũng như đem lại thú vị cho khách đến viếng. Từ đấy, những mục tiêu đã được nêu ra:
- Động viên tất cả bạn bè yêu Huế, không phân biệt Nam Bắc Trung, không phân biệt chính kiến;
- Góp phần làm cho Huế trở thành một trung tâm văn hóa và du lịch của cả nước và của Á châu;
- Chứng tỏ người Việt Nam ở xa vẫn khắng khít với quê hương và do đó phá vỡ sự phân biệt giữa người Việt ở trong và ngoài nước: Huế là một bằng chứng cụ thể cho tinh thần đó.
Chọn bầu ban điều hành không gặp gì khó khăn nêu không là khi chỉ định chức vị chủ tịch. Ai cũng khiêm tốn không chịu nhận lời. Sau cùng một giải pháp được được ra, tuy không cổ điển nhưng tích cực giải quyết được khó khăn là bạn nào có thùng thơ lớn nhất (vì hy vọng thư từ sẽ rất dồi dào) thì được bầu vào cương vị đó! Vào dạo ấy, tôi vừa mới tự xây nhà, mua nhiều sách báo, dĩa hát cở to nên có xây một thùng thơ thật lớn, có thể nhận bất cứ sách dĩa loại nào, vì vậy anh chị em đồng ý bầu tôi làm chủ tịch đầu tiên, một chức vụ tôi làm tròn được sáu nhiệm kỳ một năm (1984-1990).
Để cho hợp lệ, điều lệ, nội dung Hội và tên tuổi ban trị sự được gởi lên toà thị chính, xin được thành lập một hội bất vụ lợi trong khuôn khổ đạo luật 1901. Và tờ công báo xuất bản ngày 12.4.1984 ghi Hội được đăng ký chính thức ngày 21.3.1984. Từ đây, lần lượt nhiều cuộc gặp gỡ tại nhà anh nầy, chị nọ trong ban điếu hành để thiết lập và thi hành chương trình hành động cụ thể. Thường là sáng chủ nhật và sau đó chủ nhà mời dùng cơm. Mấy bà Huế là những nhà làm bếp rành nghề nên giải pháp nầy hoàn toàn được tán thành. Anh chị bác sĩ Lê Thái ở Le Chesnay cạnh Versailles là những người đầu tiên đón tiếp Hội. Chị Cẩm Hà tìm đâu được một trại chăn nuôi gần nhà chịu cho ấp trứng theo chỉ dẫn của chị nên chúng tôi năng được thưởng thức món trứng gà lộn. Tôi còn nhớ hôm đến lượt vợ chồng chúng tôi tiếp Hội, nhà tôi là bà đầm chính cống không biết nấu cơm Huế cũng không dám nấu cơm Việt cho người Việt, sợ bị so sánh, nên sau nhiều hôm bàn cải với tôi, nàng quyết định soạn một thực đơn Pháp lai Việt, bánh phồng tôm đệm rượu khai vị, thịt heo quay ướp ngũ vị hương...phó mát đủ loại, trái cây nhiều thứ, rượu vang hay nước trà, cà phê tùy tiện. Nàng thêm nghệ tây nhuộm cơm màu vàng, như người Pháp thường dọn với nấm xào. Khi nồi cơm bưng ra, tôi để ý thấy có một vài nét nhăn trên mặt. Cha Nguyễn Đình Thi vội vớt vát: thì thử ăn đã rồi mới có ý kiến sau chứ!
Chương trình làm việc gồm có nhiều tiết mục nhưng nói chung thì có hai mục tiêu: tổ chức ở Pháp để cho người Pháp và cũng cả người Việt biết Huế và làm việc với bên nhà theo khả năng của Hội và yêu cầu của Huế. Ý kiến đưa ra ở mỗi buổi họp rất phong phú nhưng thường bị giới hạn trong việc thực hiện. Về trình diễn nghệ thuật văn hóa Huế, Hội tổ chức một đêm văn nghệ và phim ảnh (24.3.1984), hai đêm (30.11.1985 và 20.6.1987) Thanh Hải hát Trịnh Công Sơn tại Nhà Sinh viên Đông Nam Á ở Cư xá Đại học Paris. Giữa hai đêm nầy, một Đêm Hè Huế được dựng lên tối hôm 28.6.1986 tại phòng khánh tiết tòa thị sảnh Paris quận 19. Tất cả các hội viên đều điều động con cháu đông đúc, hoặc dọn dẹp trong phòng, chuẩn bị thức ăn, hoặc đón chào khách khứa hay làm diễn viên trên sân khấu. Cái may là các anh chị đã có sẵn áo quần thời xưa, khỏi phải may, chỉ phải nới rộng ít nhiều. Thành thử hơn 200 người đến dự được mục kích, ngoài những bản đàn, bài hát, một đám cưới cổ truyền Huế với cô dâu mặc áo mạn lục, chú rể bận áo thụng xanh, ông gia bà gia khăn đen áo dài, đám rước có đủ cau trầu, heo quay, quạt lọng, cúng vái trước bàn thờ, tiên chỉ dẫn đầu. Trong vai này, anh Nguyễn Đôn Bật (nay đã mất) rất oai nghi bệ vệ với bộ râu bạc dài. Tiền vé bán thu nhập khá nhiều, thêm vào những món tiền biếu tặng khá lớn của những nhà hảo tâm. Tôi may mắn có chị thủ quỷ Nguyễn Khoa Song Xuân tinh thông lo liệu mọi tiền bạc, chịu trách nhiệm ngay cả chữ ký các giấy tờ thu tiêu, chủ tịch khỏi phải bận tâm mệt óc. Sau nầy, anh Bửu Chỉ, rồi chính ngay anh Trịnh Công Sơn (1989) có dịp qua Pháp. Nếu chúng tôi lo chuyện triễn lãm cho họa sĩ, Hội chỉ góp sức với Nhà Việt Nam trong những buổi biểu diễn của nhạc sĩ.
Qua năm 1990, Hội lại kết hợp với Nhà Việt Nam tổ chức Hai tháng Huế: Nhà Việt Nam lo liệu cho ca sĩ Thúy Vân và nghệ sĩ đàn tranh Ngọc Diệp qua Pháp, Hội thương lượng với Tổ chức Công giáo Phát triển và Chống đói CCFD để có được hai vé máy bay cho họa sĩ Hoàng Đăng Nhuận và nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường (rút cuộc không qua được trong chuyến này). Một loạt ba đêm nhạc (5.5, 26.5 và 23.6) được dựng lên ở Nhà Việt Nam với anh giáo sư Cao Huy Thuần làm người giới thiệu. Riêng phần tôi được nhờ trang hoàng phòng hát với những hình ảnh Huế, góp phần gợi tả với tiếng đàn giọng hát một tinh thần đất Thần kinh giữa đô thành ánh sáng. Cũng trong khuôn khổ Hai tháng Huế, anh giáo sư Trần Văn Khê thành công tổ chức một tối ở viện Bảo tàng Á Đông Guimet với hai cô nghệ sĩ Huế. Còn họa sĩ Hoàng Đăng Nhuận thì, cũng như họa sĩ Bửu Chỉ trước đó, được chị Kim Ba thương lượng với Hội các Nhân viên AIPU để các anh được phép triễn lãm ngay trong trụ sở UNESCO ở Paris. Sau đó còn có bốn anh Trương Bé, Vĩnh Phối, Phạm Đại, Nguyễn Đức Huy, giáo sư, giảng viên trường Đại học Nghệ thuật Huế, sau ba tháng được Hội Saint-Henri-de-Toulouse mời qua ở vùng Lauragais miền nam nước Pháp, trên đường về Huế có ghé Paris triển lãm ở Trung tâm Văn hóa Pháp Việt (1994) ở Paris,... Cũng nên biết thêm còn có qua biểu diễn ở Paris một đoàn mười lăm giáo sư, giảng sư, nhạc sĩ trường Đại học Nghệ thuật Huế tại trụ sở UNESCO (1993), một đoàn nghệ sĩ mười lăm nhạc công và hai mươi nghệ nhân nhạc cung đình Huế tại Nhà Văn hóa Thế giới (1995), một đoàn năm tu sĩ Phật giáo và ba nhạc công trong chương trình liên hoan Trí tưởng tượng (1998). Những chuyến đi nầy nằm ngoài chương trình của Hội nhưng chúng tôi luôn có mặt góp phần. Tôi còn nhớ mãi hôm các anh chị trường Đại học Nghệ thuật với ông bầu giáo sư Hà Sâm kẻ mang đàn người cầm sáo lại biễu diễn ở nhà chúng tôi trên đỉnh Hắc Ký Ni Sơn, gây vui nhộn một tối trăng tròn ấp ủ biết bao tình thương trìu mến.
Về chuyện hợp tác với bên nhà, ý kiến cũng rất phong phú. Với khả năng của từng người, chúng tôi đã tiếp xúc nhiều tổ chức, cơ quan như Tổ chức Công giáo Phát triển và Chống đói CCFD, Chương trình Hợp tác Quốc tế Phát triển và Đoàn kết CIDSE,... để thử xúc tiến một vài đề tài: trạm bơm, trạm tưới nước, xây dựng nhà trẻ, công ty du lịch, chương trình thủy điện, khảo cứu nước ót, xí nghiệp thuốc lá, xí nghiệp làm đường, xí nghiệp làm nước ngọt, học bổng cho học sinh, hợp tác xã về dệt, thuốc men cho bệnh viện, sửa chữa cầu Trường tiền, máy sao chụp cho nhà in, dụng cụ cho các phòng thí nghiệm, nghiên cứu và khai thác thủy sản, chiết rút agar từ rong câu chỉ vàng, dự án hợp tác và kết nghĩa Đại học, dự án hợp tác và kết nghĩa với một thành phố lịch sử Pháp,... Các anh chị trong ban điều hành chia nhau lo liệu, ai thấy có một khả năng trong số yêu cầu thì dấn thân vào, người lo chuyện tiếp xúc với Huế nhiều là anh tổng thư ký kỷ sư Lê Huy Cận. Sau những chuyến đi về của một vài vị, có những đề tài được phát triển nhưng cũng có nhiều ý kiến phải tạm dừng. Còn ai biết cái máy sao chụp đầu tiên ở Huế là do Hội gởi biếu toà soạn báo Sông Hương? Còn ai nhớ sau 1975, chiếc đồng hồ đầu tiên trên nhà ga Huế cũng là quà biếu của Hội. Có ai thông cảm một bạn của Hội đã kệ nệ mang về một máy vi tính cho Trung tâm Tổng hợp Hướng nghiệp? Nhà điêu khắc Điềm Phùng Thị (nay đã mất), họa sĩ Lê Bá Đảng, cố họa sĩ Việt Hồ, giáo sư Lê Thành Khôi, cố nữ sĩ Thái Ngộ Khê, chị Tôn Thất Hữu,... nằm trong số những ân nhân đã đóng góp quà gởi về Huế. Để tiện việc thông tin, hai tờ báo liên lạc bằng tiếng Pháp và tiếng Việt đã được bắt đầu, nhưng chỉ ra được có vài số. Một dạo thi sĩ Thân Thị Ngọc Quế (nay cũng đã mất) tình nguyện đánh máy giúp, luôn tiện còn tặng vài bài thơ chưa in. Hội có ý muốn thực hiện một giai phẩm về Huế nhưng ngoài bài vở phải chạy xin, còn có vấn đề nan giải là tài chánh. Dự án in những sách về Huế cũng gặp cùng trở ngại. Thỉnh thoảng Hội có tổ chức những buổi nhạc như những đêm Thanh Hải hát Trịnh Công Sơn đã thấy, hay những bửa ăn, như hôm 25.10.1987 ở nhà anh chị Võ Bạt Tụy ở Longjumeau, để quyên tiền giúp bảo lụt ở Huế. Thường Hội cũng có tổ chức ăn Tết ở nhà riêng hay ở quán cơm. Tôi còn nhớ năm 1985, Hội ăn Tết Ất Sửu ở quán cơm Sông Hương của chị Phạm Thị Hoàn (27.1) trên một bờ sông thơ mộng ở Yerres. Hôm ấy bác gái Hoàng Xuân Hãn xuất thân là dược sư, vui tính kể chuyện ma quỷ gây lên những trận cười rầm vang thế pháo ngày xuân.
Hội không quên tiếp xúc với những người đồng hương ngoài nước Pháp. Chị Trương Thị Hoa Diên, cựu giáo sư trường Khải Định, hiện định cư ở Mỹ, tán thành chủ trương của Hội:... Những gì trong tiềm thức, trong thâm tâm mình ước ao làm cái gì thì nay đã có nhóm bạn bè cùng thông cảm can đảm đứng ra làm, làm tôi vừa cảm phục và mến thương... Đối với nước Đức gần gũi, một phái đoàn của Hội đã qua Munchen gặp gỡ các Việt kiều đồng hương bên đó tại nhà chị giáo sư Thái Thị Kim Lan. Có những trắc trở không cho phép chúng tôi thực hiện một Hội rộng lớn ở Âu châu, thật đáng tiếc. Tuy tôi và nhiều bạn thuở khai sinh Hội không còn hoạt động trong khuôn khổ Hội nữa, anh giáo sư Hoàng Nhân (nay đã mất), nhân chuyến qua Pháp năm 1996, cậy tôi tổ chức tại nhà tôi hôm 05.05 một cuộc gặp với cựu hội viên và cựu học sinh trường Khải Định. Thì ra danh nghĩa Hội bất chấp thời gian vẫn luôn tồn tại. Cũng như gần đây, năm 2002, nhân qua Munchen giới thiệu tuồng Lộ Địch của thân phụ, khi ghé qua Paris, nữ sĩ Tôn Nữ Hỷ Khương đã tiếp xúc với những bạn yêu Huế trong một cuộc gặp gỡ thơ văn âm nhạc với giáo sư Trần Văn Khê chiều hôm 3.11 tại Phật đường Khuông Việt ở Orsay. Riêng bản thân tôi rất hân hạnh nhân danh Hội trưởng Hội Người Yêu Huế, được mời đọc điếu văn trước mặt đông đủ bá quan Việt Pháp, hôm 28.3.1987 tại chùa Vincennes ở Paris, kể lại cuộc đời sóng gió của Hoàng đế Duy Tân, nhân hài cốt của đức vua trên đường chở về nước. Sau nầy, Hoàng thân Nguyễn Phúc Bảo Vang, thứ nam của Hoàng thân Vĩnh San, viết trong lời đề tặng cuốn sách của ông cho tôi: "Một khúc đoạn lịch sử, một chốc lát vĩnh hằng... Thân ái ". Lịch sử dù là khúc đoạn ngắn ngủi cũng sẽ tồn tại đời đời.
Hội Người Yêu Huế được khai sinh cách đây đúng 25 năm, gần một phần tư thế kỷ, nay đã trưởng thành, đúng là điểm tụ họp tình nghĩa người đồng hương nơi xa xứ. Vì ra đời trong mục tiêu một hội bất vụ lợi, Hội chắc chắn sẽ được tiếp tục hoạt động mãi mãi, ngày nào mối tình nầy còn mặn nồng và luôn hướng về thành phố thân thương của tất cả những người yêu Huế.
Hắc Ký Ni Sơn thu - đông 2008
Nhớ Huế 40 Huế Xuân Kỷ Sửu 2009.

Bài và ảnh Võ Quang Yến
Theo http://chimvie3.free.fr/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Mặt nạ bươm bướm - Khi cuồng si là khởi nguồn mọi tội lỗi “Chúng ta rồi sẽ thay đổi, người ta yêu cũng vậy. Nhưng sẽ thật may mắn nếu ta...