Đặng
Thế Phong - Sống và chết
Đặng Thế Phong có hai mảnh đời khác nhau. Cuộc đời của ông
khi bố ông còn sống, và cái thời kỳ sau khi bố ông mất độ năm 1935.
Khi bố ông còn sống gia đình của ông được hưởng cuộc sống ổn định, khá giả của một công chức của sở Trước Bạ Nam Định. Gia đình họ Đặng ở nhà số 9 Hàng Đồng là trung tâm thành phố Nam Định. Vì vậy, ông Đặng Hiển Thế, bố của Đặng Thế Phong, cho con mình được học tại các trường uy tín nhất xứ Nam Định là Trường Thành Chung (tức là École primaire superieure franco-indigène de Nam-Dinh) và trường dòng L'École St. Thomas D'Aquin. Khi bố ông mất cuộc đời của ông vào bước ngoặt mới.
Khi bố ông còn sống gia đình của ông được hưởng cuộc sống ổn định, khá giả của một công chức của sở Trước Bạ Nam Định. Gia đình họ Đặng ở nhà số 9 Hàng Đồng là trung tâm thành phố Nam Định. Vì vậy, ông Đặng Hiển Thế, bố của Đặng Thế Phong, cho con mình được học tại các trường uy tín nhất xứ Nam Định là Trường Thành Chung (tức là École primaire superieure franco-indigène de Nam-Dinh) và trường dòng L'École St. Thomas D'Aquin. Khi bố ông mất cuộc đời của ông vào bước ngoặt mới.
Quảng cáo,
Học Sinh 5 tháng 5 1939, tr. 18
Học Sinh 5 tháng 5 1939, tr. 18
Nhiều nhạc sĩ Việt nổi tiếng xưa đều bị mồ côi cha sớm giống Đặng Thế Phong
bao gồm Phạm Duy, Văn Cao, Trịnh Công Sơn, Trần Tiến. Không biết như vậy cũng
là nguyên cớ giúp các nhạc sĩ theo nghề xướng ca vô loại, là không bị bố bắt phải
học kiếm bằng và lên chức. Với Đặng Thế Phong cũng như Phạm Duy thì tình thế
này đã giúp hai người nổi máu giang hồ xách đàn ra đi.
Thời thanh niên của Đặng Thế Phong là rất "thanh niên." Nhà văn Phạm
Cao Củng kể rằng nhạc sĩ Phong thích bơi lội và từng đi trẩy Hội Chùa Hương. Phạm
Cao Củng kể về lúc hai anh em ngủ trong chùa Ngoài ngắm ánh trăng. Một điều chắc
chăn nữa là Đặng Thế Phong là hướng đạo sinh hay đi cắm trại. Trong khoảng thời
gian ấy Đặng Thế Phong cũng hay lên Hải Phòng ở với Phạm Cao Củng và làm quen với
hai anh em Hoàng Kim Quí và Hoàng Phú (tức hai nhạc sĩ Hoàng Quý và Tô Vũ).
Giống một số nhạc sĩ tiền phong lúc bây giờ như Phạm Duy, Văn Cao, Nguyễn Đình
Phúc và Nguyễn Đức Toàn, Đặng Thế Phong học hội họa một thời tại L'École
Supérieure des Beaux-Arts de l'Indochine (Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương).
So với các nhạc sĩ được nhắc đến ở trên, Đặng Thế Phong là một người anh, một
người đi trước. Có nghĩa là phải cố tìm cách mưu sinh trong thời gian này khi
mà tân nhạc chưa có cơ sở để giúp đỡ một người nhạc trẻ kiếm sống bằng con đường
nghệ thuật của mình.
"Sáng trong rừng" của Đặng Thế Phong,
Học Sinh 22
tháng 6 1939, tr. 7
Các nguồn chính (primary source) về cuộc đời Đặng Thế Phong cũng hiếm, nhưng
một giai đoạn của đời ông được chứng minh bằng tư liệu là thời ông làm cho báo
Học Sinh ("pour la jeunesse scolaire") do Phạm Cao Củng thành lập. Học
sinh là những trang phụ lục của Tiểu Thuyết Nhật Báo dành cho giới trẻ được xuất
bản từ 5 tháng 5 1939. Vì cảnh nghèo Đặng Thế Phong phải bỏ dở học hành ở trường
Cao Đẳng Mỹ Thuật để kiếm sống. Ông được cái may là được tựa vào một người anh
kết nghĩa Phạm Cao Củng và ông cũng đã cho nhạc sĩ này làm cho tờ báo mình.
Tên Đặng Thế Phong xuất hiện trong số báo đầu tiên trong mục quảng cáo "những
bài hát của nhạc sỹ trẻ tuổi Đặng Thế Phong đặt ra riêng cho các em nhỏ Học
Sinh." Tôi cho lời đó chứng minh rằng Đặng Thế Phong là một người có kinh
nghiệm tổ chức và dạy nhạc cho các em hướng đạo sinh, dạy các bài ca Pháp với
lời Việt, và đã bắt đầu sáng tác ca khúc cho lứa tuổi ấy.
"Sáng trăng" của Đặng Thế Phong,
Học Sinh 24
tháng 8 1939, 8
Ngày 22 tháng 6 1939 bài ca "Sáng trong rừng" của Đặng Thế Phong được
đăng trên trang Học Sinh. Bài ca này được "riêng tặng các bạn 'Hương đạo
sinh' và Sói con'." Lời ca "Sáng trong rừng" tỏ ra nhiều xúc cảm
và đắm mê bởi cảnh đẹp rực rỡ của bình minh - "Tâm hồn ai không say đắm cảnh
rừng tuyệt với." Ông soạn một giai điệu có tính vui của hành khúc kèn lệnh,
nhưng cũng có nét buồn của điệu rê/ D thứ.
Ban Kịch Học Sinh,
Học Sinh 23 tháng 11 1939, tr. 14
Bài ca "Sáng trăng" được đăng trên báo Học Sinh ngày 24 tháng 8 1939.
Theo nhịp "gai et rythmé" (vui vẻ và nhịp nhàng) Đặng Thế Phong soạn
một ca khúc ngắn theo điệu re/ D trưởng. Giai điệu này cũng có tính kèn lệnh dễ
cho thiếu niên hát. Lời ca của "Sáng trăng" khuyến khích các em hướng
đạo sinh vui lên để đỡ buồn nhớ khi cắm trại xa nhà.
Kèm theo các sinh hoạt tòa soạn, báo Học Sinh cũng tổ chức những buổi văn nghệ.
Trên trang 13 của số báo ngày 23 tháng 11 1939 có một tấm ảnh với Ban Kịch Học
Sinh vừa biểu diễn ở Chợ Phiên Thanh Niên ở Hà Nội hai hôm 18 và 19 tháng 11
1939. Trong tấm ảnh ấy có ba người lớn và bẩy em học sinh. Bên trái là
"anh Đặng Thế Phong đứng đầu ban âm nhạc." Còn hai người lớn khác thực
hiện dàn cảnh cho ban kịch là "chị Nga" (tức Phạm Thị Trường, vợ của
của Phạm Cao Củng) và Vũ Đức Toa (một nhà văn cũng có tên bút Muỗi Sài Gòn). Có
bốn người trai trẻ cầm các nhạc cụ như phong cầm, banjo, ghi ta và violon. (Một
chi tiết thú vị là người đứng trước chị Nga và cầm cây đàn banjo là Hà Đình
Thau sau này được biết đến với tên bút Từ Linh là bạn thân của nhạc sĩ Đoàn Chuẩn.
Người thiếu nhiên đứng bên cạnh Đặng Thế Phong và cầm kèn phong cầm tên là Hà
Đình Kim, chắc là anh của Hà Đình Thau).
Báo Học Sinh không đăng nhiều thông tin về âm nhạc của ban nhạc thiếu niên này
biểu diễn. Chỉ có một chi tiết là "hai em Nguyễn Bá Lộ và Hà Đình Thau đã
rập ra cùng các bạn hát bài "Quay quanh, quay quanh", hòa với kèn
accordéon, rất vui, như dục [giục] hết thẩy các người xem cùng đứng giậy, giắt
tay nhau, ca hát và quay tròn..." Bài "Quay quanh" không biết có
phải là một tác phẩm của Đặng Thế Phong sáng tác hay là một bài tây đặt lời Việt?
Tấm cám, truyện của Phạm Cao Củng, tranh của
Đặng Thế
Phong, Học Sinh 9 tháng 5 1940, tr. 2
Tấm ảnh này chứng tỏ thêm một điều quan trọng là năm đó Đặng Thế Phong là một
người nhạc sĩ có đủ trình độ để tổ chức và diễn tập một đội âm nhạc. Ông phải dạy
bốn nhạc cụ cho bốn học sinh trẻ. Và trong tấm ảnh ta cũng được gặp một thanh
niên đúng 20 tuổi, cao, khỏe, đẹp trai và ăn mặc lịch sự.
Từ 26 tháng 10 báo Học Sinh bắt đầu quảng cáo một bài ca mới của Đặng Thế
Phong. "Đêm thu" mới được đăng trên trang Học Sinh ngày 28 tháng 12
1939 trong số báo đặc biệt dành cho "các em gái." Lời ca của bài ca
này cũng vẽ cảnh đẹp của thiên nhiên như "Sáng trong rừng." Buổi sáng
thì xôn xao đầy hy vọng của một ngày mới, song ban đêm thì lại "im như mắc
buồn." Khác với các bài ca hướng đạo sinh ngắn, "Đêm thu" là một
bài ca trọn vẹn mà cũng chuyển điệu từ sol/ G thứ sang sol/ G trưởng. Các
nghệ sĩ biểu diễn bài ca này từ xưa đến nay hay hát đoạn điệu thứ theo nhịp chậm
rồi hát đoạn trưởng nhanh hơn. Nhưng, thực ra khi ghi bài "Đêm thu"
trên trang báo Học Sinh nhạc sĩ đặt ra nhịp "tempo di valse moderato"
nghĩa là toàn bài ca nên biểu diễn theo nhịp valse vừa.
Khi đăng trên trang báo, "Đêm thu" đề tên hai tác giả - "âm nhạc
của Đặng Thế Phong" và "lời ca của Hoàng Thái." Hoàng Thái là ai
vậy? Vai tháng sau Hoàng Thái cũng viết một bài giới thiệu mục mới của Đặng Thế
Phong trên báo đầu năm 1940, như vậy Hoàng Thái là một người làm việc với báo Học
Sinh. Trong Hồi Ký, thì Phạm Cao Củng cho rằng Nguyễn Trường Thọ, người chú họ
của nhạc sĩ "là người đã đặt lời nhiều bản nhạc Đặng Thế Phong."
Hoàng Thái có phải là Nguyễn Trường Thọ? Hay có thể Hoàng Thái chính là Phạm
Cao Củng là người viết lời cho bài ca "Gắng lên chùa" mà được in trên
trang tờ báo Tin Mới năm 1940.
Trong quyển Hồi ký một đời người (1993), Phạm Cao Lũy đã trích dẫn những lời kể
của Nguyễn Trường Thọ về thời gian đó. Ông Thọ nói rằng lời ca của "Con
thuyền không bến" được viết khi hai chú cháu ở chung trong một nhà tranh tại
trại hàng hoa Ngoc Hà.'' Ông Thọ hồi tưởng rằng ông viết những lời này do một
"tình cảm nặng nề" của một mối tình đầu. Nguyễn Trường Thọ cũng cho rằng
lời ca của bài "Vạn cổ sầu" (được phổ biến với tên "Giọt mưa
thu") là của Đặng Thế Phong loạn lời với ông Thọ góp ý một ít.
Công việc chính của Đặng Thế Phong ở báo Học Sinh sau một thời gian là vẽ tranh
minh họa và tranh chuyện ký. Từ tháng 9 1939 các tranh của ông được xuất hiện
trên trang báo với nhiều tên bút khác nhau như Phg, Levent (tiếng Pháp là cơn
gió - tức phong), thephong, Tổng Phệ, và Khải Phong. Ông làm minh họa cho các
tranh chuyện nhiều kỳ như Giặc cờ đen, Tấm Cám, và Cảnh Lâm, hồ sám (một chuyện
mạo hiểm như Tarzan). Từ tháng 6 1940 thì nhiều kỳ của các tranh chuyện được ký
tên Bình Phong. Không biết đây có phải là Đặng Thế Phong và họa sĩ Tạ Thúc Bình
làm chung. Từ 12 tháng 9 1940 thì Tạ Thúc Bình thành người họa sĩ chính của báo
Học Sinh và Đặng Thế Phong vẽ tranh ít hơn.
Nhạc sĩ Hoàng Trọng, một người đồng hương của Đặng Thế Phong, đã kể cho tôi
nghe rằng Đặng Thế Phong với Bùi Công Kỳ đã mở ra một "nhà hàng vẽ" ở
Nam Định độ năm 1940. Thực ra Đặng Thế Phong phải làm nghệ thuật thương mại
như một thợ vẽ tranh. Nhưng nói như thế không có nghĩa là ông thiếu tài năng hội
họa. Học ở trường mỹ thuật thì ông biết luật phối cảnh, biết cách in đá. Làm
tranh chuyện ông cũng phải biết phát triển các nhân vật. Nếu chưa phải là xuất
sắc thì nghệ thuật vẽ của Đặng Thế Phong phải coi là chuyên nghiệp.
Đầu năm 1940 Đặng Thế Phong soạn một mục giảng dạy những điều
cơ sở về nhạc lý như cái gam, các nốt, khoa, trường độ, v.v...
Như vậy Đặng Thế Phong có một trình độ âm nhạc Tây phương rất vững chắc. Các bài hát được chép ra rất đúng, và các nốt giai điệu hợp với luật hòa âm nhạc tây phương. Chắc người nhạc sĩ đã được đào tạo rất tốt ở trường dòng (và rất có thể Đặng Thế Phong từng theo đạo Thiên Chúa - em út của nhạc sĩ, Đặng Thanh Kim, là tín đồ Công giáo). Ngoài tài năng và nền học thức, Đặng Thế Phong cũng giữ một niềm đắm mê âm nhạc. Theo ký ức của Nguyễn Trường Thọ thì "Phong thích ôm cây lục huyền cầm nghêu ngao hát suốt ngày." Đặng Thế say mê âm nhạc đến hơi thở cuối cùng. Lúc lâm chung, ông xin em út của mình ca và đàn bài "Serenade" của Schubert cho mình nghe.
Như vậy Đặng Thế Phong có một trình độ âm nhạc Tây phương rất vững chắc. Các bài hát được chép ra rất đúng, và các nốt giai điệu hợp với luật hòa âm nhạc tây phương. Chắc người nhạc sĩ đã được đào tạo rất tốt ở trường dòng (và rất có thể Đặng Thế Phong từng theo đạo Thiên Chúa - em út của nhạc sĩ, Đặng Thanh Kim, là tín đồ Công giáo). Ngoài tài năng và nền học thức, Đặng Thế Phong cũng giữ một niềm đắm mê âm nhạc. Theo ký ức của Nguyễn Trường Thọ thì "Phong thích ôm cây lục huyền cầm nghêu ngao hát suốt ngày." Đặng Thế say mê âm nhạc đến hơi thở cuối cùng. Lúc lâm chung, ông xin em út của mình ca và đàn bài "Serenade" của Schubert cho mình nghe.
"Sáng trong rừng" của Đặng Thế Phong,
Học Sinh 22 tháng 6 1939, tr.
7
Báo Trung Bắc tân văn của 22 tháng 12 1940 có bài phê bình kịch
Cái Vạ của Vũ Trọng Can biểu diễn hôm 16 tháng 12 tại rạp Olympia nói đến sự
tham gia của một ca sĩ tên Thế Phong. Số cuối cùng của báo Học Sinh xuất bản 14
tháng 1. 1941 báo cáo các thành viên của một báo mới có tên Chiếu bóng. Tên Thế
Phong có mặt trong tòa soạn. Không biết tờ báo ấy có bao giờ xuất bản, nhưng ít
lâu sau Đặng Thế Phong đã đi vào Nam để cố kiếm sống bằng cách dạy âm nhạc và vẽ
pa-nô cho rạp chiếu bóng ở Nam Vang.
Tôi chưa thấy tư liệu nào nói ông mắc bệnh lao từ lúc nào,
nhưng chính bệnh nhân Đặng Thế Phong là hình ảnh được trao cho chúng ta. Nhạc
sĩ/ họa sĩ Nguyễn Đình Phúc đến hội Trí Tri nghe ông hát và kể đến "một
thanh niên, mặt xanh lướt như được nạn bằng sáp, đang vừa đệm ghita, vừa hát…
Cái mặt sáp ong đã xanh lại càng xanh trắng bệch ra. Đặng Thế Phong ôm ngực ho,
một cơn ho rũ rượi." Đến xem Đặng Thế Phong ở rạp Olympia Nguyễn Ngọc Oánh
cũng nhắc đến một "hình ảnh... đã cho tôi một ấn tượng không quên về nghệ
sĩ tài ba ấy trong hoàn cảnh nghiệt ngã của lịch sử." Đặng Thế Phong qua đời
ngày 2 tháng 8 1942 ở Nam Định, chết non như một Franz Schubert của Việt Nam.
Nghệ sĩ tài hoa mệnh yểu Đặng Thế Phong để lại ba ca khúc vượt
thời gian là "Con thuyền không bến," "Giọt mưa thu" và
"Đêm thu." Với thêm ba ca khúc được nhắc đến ở trên thì tổng kết thì
ông từng sáng tối thiểu là 6 ca khúc. Tôi biết đến thêm hai ba ca khúc khác nữa.
Phạm Duy bàn đến bài ca "Sáng rừng" (khác với "Sáng trong rừng)
trong những bài ông viết về lịch sử nhạc tiền chiến trong tạp chí Văn Học năm
1985. Tôi cũng có thêm thông tin về các bài ca "Đồ Sơn" (theo một bài
viết của nhạc sĩ Lê Mộng Bảo, một người khi còn trẻ cũng gửi bài viết cho tạp
chí Học Sinh) và "Sầm Sơn (theo tư liệu Lê Hoàng Long).
Khi còn sống "Con thuyền không bến" và "Giọt
mưa thu," hai kiệt tác của Đặng Thế Phong, chưa được phổ biến rộng rãi.
Nhưng ít lâu sau hai bài ca này được nổi như cồn và thành quen thuộc đối với giới
yêu nhạc cải cách. Trong lịch sử âm nhạc Việt Nam hiếm có bài ca được thu
thanh, biểu diễn và phát thanh nhiều như hai tác phẩm ấy. Mặc dù đã chưa được
thu thanh hay in làm bản nhạc, nhiều người từng sống những năm Đại Chiến thứ II
(1941-1945) đều nhắc đến hai bài ca này trong hồi ký và khi trả lời phỏng vấn.
Chắc chúng được dần dã phổ biến nhờ việc ghi chép vào các quyển sổ và nhờ chuyển
miệng.
Nhạc sĩ Vân Đông nhắc trong hồi ký Một trên gọi, một cuộc đời
và tình yêu âm nhạc rằng ban nhạc của mình ở Quảng Ngãi từng hát bài ca ấy lúc
bấy giờ. Giáo sư ngôn ngữ học Nguyễn Đình Hòa nhắc các bạn bè trẻ Hà Nội hát
"Con thuyền không bến" với nhau. Nhạc sĩ Văn Ký cũng kể rằng nhóm âm
nhạc của mình cũng biểu diễn "Giọt mưa thu" ở Thanh Hóa. Giáo sư nha
khoa Nguyễn Thành Nguyên kể cho tôi nghe rằng khi sang Nhật du học lúc bấy giờ
các nữ du học sinh cũng hát "Giọt mưa thu." Nghĩa là hai bài hát của
Đặng Thế Phong đã đi vào đời sống của thế hệ đó rất nhanh.
Mồng 3 tháng 9 1946, vài tháng trước kháng chiến bùng nổ, nhà
nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tổ chức một buổi nhạc "để tiếp đón thính giả
ngoại quốc." Buổi biểu diễn này có vai trò ngoại giao - các vị lãnh sự nước
Anh, Mỹ, Trung Quốc và một số sĩ quan Pháp đến nghe. Mục đích của buổi này là
trình bày tinh hoa của nền nhạc Việt để đất nước và dân tộc của mình được công
nhận và tôn trọng. Chương trình của buổi biểu diễn được chia ra thành ba phần.
Một phần là nhạc truyền thống Việt Nam (nhạc Huế). Trong phần thứ hai một dàn
nhạc biểu diễn nhạc cổ điển tây phương trình bày một thể loại nhạc quen thuộc
cho người nước ngoại đến nghe. Người Việt có khả năng chơi nhạc cổ điển cũng
chứng minh rằng người Việt được am hiểu một thể loại nhạc quốc tế được coi như
là đỉnh cao của âm nhạc nhân loại. Phần thứ ba gồm ba ca khúc của tác giả Việt
sáng tác. Dưới sự điều khiển của Đinh Ngọc Liên, ban nhạc Vệ Quốc Đoàn và giọng
hát vợ ông là nghệ sĩ Bùi Thị Thái thính giả nước ngoại được nghe bài
"Thiên Thai" của Văn Cao và hai bài "Con thuyền không bến"
và "Giọt mưa thu" của Đặng Thế Phong.
Một điều tất nhiên là trong dịp này họ không thể thể hiện những
tác phẩm "diệt thù," "phan thây uống máu" cho khách nước
ngoại. Nhưng dù thế nữa ba ca khúc ấy được coi như sự gặp gỡ hài hòa của hai nền
âm nhạc tây phương và Việt Nam. Các ca khúc của Văn Cao và Đặng Thế Phong lấy cảm
hứng từ nhạc xứ Việt và được viết và trình bày theo phương pháp tây phương. Bài
"Một buổi hòa nhạc tưng bừng" đăng trên báo Cứu Quốc ngày 5 tháng 9
1946 kết luận rằng các tác phẩm mới này "làm cho mọi người say sưa và đặt
nhiều tin tưởng vào tương lai âm nhạc Việt Nam."
Những năm đầu kháng chiến chống Pháp ca khúc của Đặng Thế
Phong còn rất phổ biến rộng rãi và được hát như bình thường. Nhưng ít năm sau,
lập trường văn hóa trong vùng khánh chiến thay đổi. Trong hồi ký Chuyện mình
chuyện đời, nhạc sĩ/ họa sĩ Nguyễn Đình Phúc có kể đến một nữ ca sĩ hát bài
"Giọt mưa thu" với tiếng ghi ta "phóng khoáng và bay bướm"
của nhạc sĩ Bùi Công Kỳ đệm đàn theo. (Bùi Công Kỳ được đề tên là người viết lời
trên bản "Giọt mưa thu" của Hoàng Mai Lưu xuất bản năm 1946). Nhưng
trong chương sau của hồi ký ông, khi Nguyễn Đình Phúc lên chức làm "cán bộ
lãnh đạo của nhà nước" thì ông lại cấm cô ấy hát "Giọt mưa thu"
nữa.
Việc cấm nhạc Đặng Thế Phong ở nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa
đã kéo dài độ 40 năm đến 1989. Bị cấm không có nghĩa là biến đi. Nhiều người Việt
đã giữ các bài ca ấy trong lòng mình - kể cả giữ lại cho tinh thần chiến đấu.
Năm 1966 ở Vĩnh Linh, Nguyễn Đình Phúc lúc biểu diễn phục vụ lính chiến kể rằng
các "anh giải phóng quân" cứ yêu cầu những bài ca lãng mạn xưa như
"Con thuyền không bến." Chính trị viên quân đội bảo "các nghệ
sĩ cứ hát" vì "chất dân gian và âm hưởng nhạc Việt Nam" trong
các bài ca sẽ làm các người lính hăng hái chiến đấu. Hồi ký của Nguyễn Đăng Mạnh
cũng kể về giá trị của một bài ca như "Giọt mưa thu" đối với một nhà
văn của phe cũ như Nguyễn Tuân. Ông kể rằng có một lúc nhà văn này "vừa uống
vừa khóc, vừa hát đi hát lại" bài ca "Giọt mưa thu." Bị phê phán
là hát "khóc nhân tình" thì Nguyễn Tuân bác bỏ nói "mình buồn cho
những kiếp người chịu oan khuất, buồn cho đời."
Ở xứ Việt dưới Pháp quyền rồi sau 1954 ở nước Việt Nam Cộng
Hòa thì nhạc Đặng Thế Phong lại được tha hồ phổ biến. Ba bài "Con thuyền
không bến," "Đêm thu," và "Giọt mưa thu" được phát
thanh nhiều. "Đêm thu" và "Giọt mưa thu" được nhà xuất bản
Tinh Hoa in từ năm 1949. Ca sĩ Minh Trang đã thu "Con thuyền không bến"
cho hãng đĩa Polyphon, Châu Kỳ thu "Đêm thu" cho hãng Philips, Văn Lý
thu "Giọt mưa thu" cho hãng Oria.
Các bài ca Đặng Thế Phong cũng được phát thanh và thu đĩa
băng nhiều ở miền nam thời nước Việt Nam Cộng Hòa. Nhà xuất bản Diên Hồng in lại
hai bài "Giọt mưa thu" và "Con thuyền không bến." Nghe ca
sĩ Thanh Thúy hát "Giọt mưa thu" đã thành một nguồn cảm hứng cho Trịnh
Công Sơn sáng tác bài ca "Ướt mi." Trong thời kỳ này bài tiểu sử đầu
tiên về nhạc sĩ Đặng Thế Phong xuất hiện. Trên bìa sau của "Giọt mưa
thu" (ẩn phẩm Diên Hồng năm 1964), Lê Hoàng Long cho lên một tấm ảnh một số
chi tiết về đời nhạc sĩ mà ông trích từ tập 2 của của cuốn Nhạc sỹ Danh tiếng
Hiện đại (hình như không xuất bản?).
Sau khi nước Việt được thống nhất thì các bài hát Đặng Thế
Phong bị cấm toàn quốc. Ngày 15 tháng 10 năm 1989 Cục Âm nhạc và Múa bắt đầu cấp
phép cho các bài ca xưa được phép lưu hành. Ba bài ca của Đặng Thế Phong nằm
trong đợt cấp phép lưu hành đầu tiên này. Thực ra quần chúng đã đi phía trước
pháp luật. Tết 1988, Nhà hát Tuổi Trẻ ở Hà Nội cho biểu diễn "Giọt mưa
thu" trong một chương trình "giới thiệu những nhạc phẩm đặc sắc trước
va sau Cách Mạng Tháng Tám." Ngày 15 tháng 7 1988, nhạc sĩ Phạm Trọng Cầu
đã giúp cho Hội Âm Nhạc Thành Phố Hồ Chí Minh tổ chức một "chương trình thể
nghiệm giới thiệu ca khúc trữ tình" với hai ca khúc Đặng Thế Phong tại Câu
Lạc Bộ Thể dục Thể thao Bến Nghé. Khán giả rất đón mừng chương trình vì
"vé bán sạch từ trước cả tuần."
Các nhà phê bình âm nhạc của chính phủ Việt Nam tìm mọi cách
giải thích ý nghĩa các bài ca xưa có vấn đề như các bài của Đặng Thế Phong. Bởi
vì nhạc Đặng Thế Phong xuất hiện trước các biến cố 1945, như vậy nó phản ánh
lên một xã hội Việt bị thực dân đô hộ. Theo lời ông Đào Trọng Từ thì "Giọt
mưa thu" biểu hiện những người có tính mơ mộng, nhạy cảm sống trong một xã
hội bế tắc. Nó gợi ra nỗi đau đớn của một thế hệ phụ nữ khóc trong sự phiền muộn
của một nước nô lệ. Còn Nguyễn Viên thì "Con thuyền không bến … lênh đênh
chỉ biết trôi theo dòng đời lạc lõng, không có lối thoát, chỉ có thở
than…" Trương Quang Lục cũng thừa nhận rằng những ca khúc của "dòng
lãng mạn" thời xưa "đã đạt một giá trị nghệ thuật nhất định"
nhưng bị hạn chế về mặt "nhân sinh quan do điều kiện lịch sử cụ thể khi
chúng ra đời."
Năm 2000 Viện Âm Nhạc xuất bản một tác phẩm 1000 trang với chủ
đề Âm nhạc mới Việt Nam: Tiến trình và thành tựu. Các tác giả của quyển này
khen Đặng Thế Phong về sự nhạy cảm "trong việc diễn đạt nỗi buồn tê
tái." Nhưng đây chỉ là "nỗi bơ vơ của một tầng lớp trung gian"
là một thành phần xã hội "mất phương hướng trong cái biển cả của những xáo
động lịch sử, đặc biệt là sau cơn khủng bố trắng những năm 1931-1935." Đặng
Thế Phong có phụ thuộc về "tầng lớp trung gian" không? Điều đó khó
xác nhận thế nào. Nếu sống lâu Đặng Thế Phong theo cách mạng, làm công chức văn
hóa cho nhà nước không? Hay di cư vào Nam, xin tỵ nạn ở Mỹ? Ai mà biết được.
Nhưng lịch sử Việt Nam đòi hỏi mỗi người phải chọn đúng một phương hướng. Các
con đứa tinh thần của ông cũng bị biển cả đấm thùm thụp, nhưng rốt cục được vượt
biên, vượt thời gian và sống sốt.
Các bài viết về cuộc đời và tình nhân Đặng Thế Phong bắt đầu
xuất hiện các tờ báo Việt vài năm sau khi các bài hát của ông được cấp phép hát
lại. Năm 1991 báo Nhân Dân đăng bài "Đặng Thế Phong va người tình chung thủy"
tựa vào một cuộc phỏng vấn em gái út của nhạc sĩ.
Đặng Thế Phong được sinh 14 tháng 4 1918. Ông tiêu biểu cho
các nghệ sĩ nghèo không được đánh giá cao và hưởng lợi lộc khi không còn sống.
Một điều đáng tiếc nữa phải đợi đến thế kỷ 21 để Việt nam mới có luật vững chắc
bảo vệ quyền tác giả âm nhạc. Theo Công Ước Berne thì bản quyền của một tác phẩm
chỉ được đem thi hành đến 50 năm sau khi tác giả mất. Như vậy từ năm 1992 nhạc
của Đặng Thế Phong đã vào phạm vi công cộng. Khi còn sống thì hình như Đặng Thế
Phong không bị ai bóc lột mà chỉ có việc là ông sống và chết trước khi thời cơ
ông đến. Dù sao thì các tác phẩm của ông vẫn rất gần gũi với các người yêu nhạc
Việt.
Ông Jason Gibbs có bằng tiến sĩ về Lý thuyết và Sáng tác âm
nhạc từ Đại học Pittsburgh, chuyên nghiên cứu âm nhạc Việt Nam. Bài viết gửi
BBC được ông viết trực tiếp bằng tiếng Việt, mở đầu loạt bài sẽ đăng về các
gương mặt nhạc sĩ Việt Nam.
28/2/2017
Jason Gibbs
Jason Gibbs
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét