Thứ Hai, 10 tháng 2, 2020

Tu bụi 2

Tu bụi 2
CHƯƠNG TÁM
Cỏ và hoa 
Nghiệp cũng là duyên. Khi tai họa đến là nghiệp báo. Khi điều tốt đến là duyên lành. Nghiệp và duyên trùng trùng nối đuôi nhau. Nghiệp như cái búa vô hình giáng xuống tạo ra sự đổ vỡ và duyên như chất keo khi dính thì hợp, khi hết dính thì tan. Duyên nghiệp không còn là tiếng vọng ra từ cửa chùa mà đã trở thành ý niệm đời thường của đại chúng.
Đã tạo nghiệp thì phải trả nghiệp; đã trồng duyên thì sẽ được hưởng duyên. Trí Hải tin điều đó như một nguyên tắc công bằng xã hội.
Trong cái không khí thâm cung lạnh ngắt của triều thần lúc đăng triều nghị sự, chỉ còn hình ảnh của các thái giám là vui mắt và linh động nhất. Các quan thì nhất nhất nghiêm cẩn từ cái thở đến cái nhìn. Những lọn tóc dài quấn gọn trong chiếc mũ bình thiên để lộ những cần cổ trắng ngần trên áo gấm. Mắt hướng về quân vương nhưng gáy vẫn rờn rợn với hơi lạnh lưỡi kiếm vô hình của nhà vua có thể giáng xuống vì những sai phạm bất ngờ.
Các thái giám hình như số phận sinh ra không phải để làm người mà để làm cái bóng của con người. Trong cung cấm, giữa đại triều nghi cũng như ngoài tử cấm thành, các thái giám vẫn lượn lờ như những cái bóng. Cái bóng không dựa vào quá khứ mà cũng chẳng vịn vào tương lai. Vệt bóng đêm ngày múa may theo vật chủ, nên khi chưa gặp thời thì chỉ là dư âm, dư ảnh len lỏi và tan loãng giữa những khe hở của đời sống; khi gặp thời lại biến hóa theo tài năng và quyền lực; lúc đắc thì thế rất dễ trở thành hung thần ác sát.
Thái giám chức lớn mặc áo rộng màu lục. Giám trẻ mặc áo màu xanh. Rất khác với hình thêu loan phượng của các quan văn và hình thêu lân ly của các quan võ, trên ngực áo thái giám thêu hoa mầu xanh nền đỏ. Nét đặc biệt nhất trong trang phục của thái giám là cái mũ màu đen thêu chỉ vàng hình một con ve và một cái đuôi con chuột. Một biểu tượng hiểu như là người thái giám được ví với con ve sống tinh khiết với những giọt sương trên cành để phục vụ.  Đồng thời, thái giám cũng ví với con chuột chui rúc, len lỏi được vào bất cứ khe hở nào kín đáo nhất trong nhà.
Hơn một năm, từ ngày vua Minh Mạng lên ngôi, lần đầu tiên Trí Hải được triệu vào cung. So với vua Gia Long, người lên làm vua sau cuộc binh đao, trực tiếp cầm quân chiến đấu và chiến thắng với sự kiên trì, thao lược, thì vua Minh Mạng là một ông vua hành chánh.  Điển hình là một người con vua được đào tạo cẩn thận để lên làm vua trong khung cảnh “bốn phương phẳng lặng hai kinh vững vàng” của vua cha truyền lại. Vua Minh Mạng tập trung vào việc củng cố quyền lực đương triều ngay từ khi mới lên ngôi.  Hướng đi đã quá rõ ràng: Tiến gần với Trung Hoa và chống Tây Phương. Chống Tây Phương chẳng phải là một sách lược quốc kế dân sinh mà là một phản ứng tình cảm trước mắt. Phải xóa sạch ảnh hưởng còn sót lại của hoàng tử Cảnh, đông cung thái tử đã được vua Gia Long giao cho linh mục Bá Đa Lộc lúc mới lên 5 để đem qua Pháp đào tạo, chuẩn bị nối ngôi. Hoàng tử Cảnh bất ngờ chết sớm, nhưng con cái và kẻ tâm phúc vẫn còn sống là bóng đen còn đe dọa. Nhân vật gần gũi nhất với hoàng tử Cảnh và tiếp cận với người Pháp một cách chính thức, công khai được vua Gia Long chuẩn nhiệm là Trí Hải.  Thế nhưng bao nhiêu sự nhòm ngó, rình rập, theo dõi công khai lẫn bí mật vẫn chưa nêu ra được một nghi vấn nào về hành vi xử sự thiên lệch của Trí Hải. Sự thẳng thắn và trong sáng của Trí Hải làm cho mọi người vừa kính nể vừa khó chịu. Kính nể đã đành, nhưng khó chịu vì chân dung con người phải là một bức tượng đóng rêu; bức tượng phải hoen ố, nếu không vì bão tố, cũng vì thời gian. Bức tượng trong sáng hoài làm cho sương tuyết và thiên hướng sinh diệt của con người mất đi chỗ dựa tự nhiên và cũng không còn nơi trú ẩn quen thuộc của nó. Trí Hải là một loại tượng đài không dựng bằng hình hài hiện thực mà lại được dựng lên đâu đó trong những góc khuất của tâm hồn cây cỏ.
Trời đã gần trưa, nắng chiếm gần hết các tấm đá sẩm màu của sân chầu. Các tầng cấp đá thanh chạm hình rồng vắng bóng người. Ngoài sân chỉ còn hai con nghê bằng đồng, tượng trưng cho uy quyền của vua, có vẻ như đang đứng gác. Trong khung cảnh của một đại tiền đình rộng mênh mông, các trướng liễn đỏ chói, vàng óng ánh, các cột lớn chạm trổ cầu kỳ và công phu được sơn son thếp vàng rực rỡ soi bóng xuống nền đại sảnh bóng láng như gương. Xa khuất trong bóng mờ của một thiên các mầu hoa lý, cô lập sau làn khói nhẹ tỏa từ lư trầm, nhà vua vẫn còn đĩnh đạc ngồi đó sau buổi lễ đại triều. Các quan văn võ đại thần lương đống của triều đình được lệnh ở lại chầu vua trong một phiên nghị sự bất thường.
Thình lình có hiệu lệnh, tất cả đều im bặt. Ngay tiếng thở khò khè của các vị quan già cũng phải nén bớt. Một vị quan triều từ cánh tả tiến đến trước ngai vua, lạy năm lạy và quỳ sang một bên đọc lệnh. Thì ra đây là bản văn luận tội Trí Hải về việc tham gia đánh cờ tại kinh đô, làm kinh động triều đình và bá tánh trong thời điểm có quốc tang.
Các quan không ngạc nhiên về bản án mà nín thở chờ đợi cái gì sẽ đến. Không ai nghĩ Trí Hải là một nhân vật thân Tây hay là vây cánh của hoàng tử Cảnh cần phải nhanh tay trừ khử. Nhưng thà dập tắt một con đom đóm nghi ngờ vẫn hơn là mất công chữa đám cháy về sau.
Lời tuyên đọc án lệnh chấm dứt từ lâu mà bá quan vẫn im lặng như tờ. Nhà vua tuy có quyền uy tuyệt đối, nhưng vẫn cần một sự luận tội tập thể của quần thần trên thân phận những nhân vật tiếng tăm lẫy lừng như Trí Hải. Trên những chiếc chiếu gấm màu rực rỡ dệt khéo tay, hướng về phía ngai, Trí Hải đứng cùng với hai vị hoàng thích gần gũi nhất với vua, chờ đợi. Cậu bé ngoan ngoãn ngày xưa, bước đi không dám động gót giày, chí thú hầu hạ bên cạnh vua cha mỗi lần Trí Hải đến viếng vua Gia Long bây giờ là hoàng đế đương triều.
Sự im lặng vẫn kéo dài sau lời truyền của vua gọi các quan tham gia bình nghị. Trong giây phút nghiêm trọng này, đối với các lão thần thì sự lo sợ bị quở về thái độ lặng im tiêu cực không thắng nỗi ưu tư về tai tiếng vô hình đầy khắc nghiệt của bia miệng đời sau. Thà ngậm miệng như đậy bình, giữ ý như giữ thành dẫu sao vẫn an thân hơn là lên tiếng trong lúc nầy.
Trong không khí trầm trịch khó thở, tiếng con dơi đổi chỗ cũng nghe rõ mồn một. Từ sau chiếc cột chạm rồng leo, ló ra bộ mặt nhẵn nhụi và chiếc áo lục dài của vị trưởng thái giám. Vì có cơ hội tiếp cận với nhau thường xuyên trong chốn thâm cung, Vua và các thái giám hầu cận rất ít khi nói với nhau bằng lời. Vua chỉ cần lừ mắt, liếc mắt, mím miệng hay ra hiệu chỉ bằng ngón tay… là các thái giám đã hiểu một cách rõ ràng và thi hành mệnh lệnh răm rắp, tức thời. Trong không khí im lặng nghẹt thở, viên trưởng thái giám đã bắt gặp một tín hiệu nào đó của nhà vua. Khuôn mặt trắng xanh của ông khi nhợt nhạt, khi lấm tấm đỏ lên, với dáng nhấp nhổm không yên, chứng tỏ người thái giám trưởng đang chiến đấu dữ dội với một tình trạng khó xử nào đó. Cuối cùng, người ta thấy mặt ông vã mồ hôi, mắt như lạc đi, miệng méo xệch khi ông cố thẳng lưng bước ra, đứng khép nép trước mặt bá quan văn võ. Ông liếc cạn Trí Hải mấy lần trước khi thu hết can đảm đứng ra hài tội.
Trước sự ngạc nhiên đến chưng hửng của lớp quan triều đang nén thở chờ đợi, giọng the thé của viên trưởng thái giám cố làm ra vẻ đĩnh đạc cất lên:
- Muôn tâu hoàng thượng, khải bẩm chư bá quan văn võ. Tôn ông Trí Hải là bậc trí giả tài cao học rộng nhưng hành xử còn thua kẻ thất phu. Trong lúc đại tang của tiên vương vừa mới giáp năm, bá tính lòng đau như cắt, nước mắt còn chảy mỗi ngày thì hoàng thân Trí Hải đã mãi lo việc cờ bạc vui chơi. Lại nữa, Thái Ấp là ơn vua lộc nước ban cho vậy mà dám đem ra đặt trên chiếu bạc với Hàn Kỳ Vương. Tội lớn tày trời, xin nghiêm trị để làm gương cho bá tánh!
Tiếng nhốn nháo của giới quan triều từ lâu im lặng bắt đầu nổi lên sau lời tâu của viên trưởng thái giám. Vua phải dằn hốt ngà thành tiếng để ra dấu im lặng.
Các quan hầu chánh điện lom khom đi quanh thì thào nói vào tai các quan để thỉnh ý có ai muốn phát biểu, nhưng chẳng có ai đủ can đảm tâu trình lời nào trong giờ phút nghiêm trọng này. Hầu như mọi đôi mắt đều mở lớn dồn về phía Trí Hải để xem phản ứng của ông ra sao. Ván cờ lịch sử trên sông Hương vừa qua càng tạo điều kiện cho những giai thoại về Trí Hải được thổi phồng như chuyện huyền thoại. Nét giả tưởng, huyền thoại có vẻ như rất hợp với dáng dấp và vẻ mặt của Trí Hải trong không khí nghị triều im phăng phắc nầy.  Trí Hải ngồi im lặng, một nửa người khuất sau bóng của cột điện chạm rồng phụng dát bạc, dát vàng nổi trên nền son rực rỡ. Đôi mắt chẳng nhìn ai. Khuôn mặt thanh tú sáng lên nét thông minh và tĩnh lặng.  Người ta có cảm giác thân xác Trí Hải không còn thuộc về cõi trần gian ô trọc nầy. Nó sẵn sàng bay lên nhẹ như bông. Vẻ an lạc của Trí Hải ít nhiều gây nên sự ghen tức biến thành căm giận trong tâm lý của một số quan triều. Đấy là những vị Ba Gấm thường xuyên run rẩy khi bước chân vào chánh điện mà hoàng thượng đăng triều đang ngự trên ngai. Sự bình thản gần như không nghe, không thấy của Trí Hải trước lời buộc tội gay gắt của trưởng thái giám được suy diễn thành thái độ cao ngạo và thách thức.
Quan hành khiển bộ Công bắt được tín hiệu của của hoàng thượng qua viên trưởng thái giám. Ông ta đứng lên tâu trình ý kiến. Ngoài sự lập lại ý chính của thái giám, quan hành khiển còn sụt sùi khóc lóc vì nhớ tiên đế vừa băng hà. Tấm màn trình diễn đã được kéo lên. Hàng đại quan nhất phẩm triều đình đã đạt đến đỉnh cao của danh vọng nên thường cân nhắc lời nói trước mặt hoàng thượng hết sức cẩn trọng. Bởi vậy, các đại thần đều im lặng. Nhưng đây là phiên chợ lý tưởng của các quan nhỏ từ nhị hay tam phẩm trở xuống cạnh tranh nhau. Rất ít quan chịu mất điểm trong cơ hội nghìn năm một thuở nầy. Vị quan sau phải khóc to hơn và lời hài tội Trí Hải cũng phải gay gắt hơn các vị quan trước mới mong chiếm thế ưu việt thượng phong. Vua phải ra lệnh cho phép nói, nhưng cấm khóc mới tránh được tình trạng có thể có quan chuẩn bị lăn đùng ra ngất xỉu vì… tiếc thương tiên đế.
Trí Hải phải nén lắm mới ngăn được giọt nước mắt sắp sửa rơi xuống. Nỗi cảm thương dấy lên trong lòng Trí Hải không phải để thương nhớ ai mà vì thương cho vận nước. Những năm theo hoàng tử Cảnh ở thủ đô Pháp thời trước Cách mạng 1789, Trí Hải đã chứng kiến, tuy không hiểu hết mọi góc cạnh sâu xa của vấn đề, nhưng đã tới tận nơi, theo đám người trẻ vỗ tay hoan hô, la hét, cổ võ những cuộc tranh luận chính trị thẳng thắn, công bằng giữa giai cấp lãnh đạo, quý tộc và các thành phần xã hội. Điệu sống cởi mở nầy đã tạo ra sức mạnh cho đất nước Pháp chuẩn bị phiêu lưu vào những cuộc chinh phục thế giới. Qua những cuộc tiếp xúc với người Pháp đến Việt Nam, Trí Hải thấy được chiến lược từng bước chiếm Viễn Đông làm thị trường thuộc địa của Pháp là điều không tránh khỏi. Thế nhưng cả vua quan đương triều không hề quan tâm chuyện bên ngoài. Lời bình nghị trong các dịp đăng triều để quan có dịp tâu trình lên vua những quốc kế dân sinh thì toàn là những lời tung hô, nịnh hót, tâng bốc. Dối trá trở thành một phương tiện phổ thông để ẩn mình hay tiến thân trên đường bá đạo. Theo dõi các quan nhỏ muốn thành quan to nên phải bắt chước nhau lập lại lời nói ngớ ngẩn và sự kết tội vu vơ do viên trưởng thái giám mở màn để làm vui lòng vua, Trí Hải ngao ngán thở dài.  Đã chuẩn bị tinh thần từ ngày ấm Thuyên và phe cánh hoàng tử Cảnh bị triệt hạ, Trí Hải chẳng cảm thấy một chút gì nao núng tinh thần hay sợ hãi. Nhưng nỗi buồn từ đâu lại đến. Nhìn chiếc thuyền chở nặng đang đuối dần phía mũi nhưng phía lái vẫn hát hò. Nói chẳng ai nghe mà còn bị cho là muốn phá hoại cuộc vui.
Các quan như đang say sưa trong cuộc ném đá lên đầu kẻ bị cho là “dị giáo” thời trung cổ.
Vua lại phải dằn hốt ngà lần nữa để bảo các quan im lặng. Những tiếng nói kia dù nhiều ít chừng nào thì cũng chỉ là tiếng lao xao. Vua và các quan đều đang chờ đợi một tiếng nói chung cuộc. Tiếng nói có uy thế từ thời tiên đế nên mọi người đều hiểu sức mạnh đầy ngự trị của nó: Tiếng nói của Quan thượng  thư bộ hình Lê Trung Ẩn.
Không khí thâm cung vãn hồi trở lại khi Lê Trung Ẩn, thủ lãnh sĩ phu Bắc hà và cũng là đương kim thượng thư bộ hình lên tiếng:
- Tâu hoàng thượng, chiếu theo luật nước đã đặt định từ thời tiên vương, quan thái giám không được lạm bàn vào việc nước hay bất cứ việc gì lớn nhỏ liên quan đến pháp chế của triều đình.  Nay quan tổng thái giám đã công khai vi phạm. Vậy theo hình luật đương triều, tội đáng xử chém đầu, không có trường hợp giảm khinh, cải án!  Cúi mong hoàng thượng ban chỉ.
Lập tức sau lời tuyên án của quan chấp pháp, người ta thấy bộ phẩm phục màu lục và bộ mặt kinh hoàng của quan quản thái giám rơi xuống nền nhà, tiếp theo là tiếng rên dài như tiếng thét tuyệt vọng:
- Ối! Cha mẹ ơi, chết con rồi!
Sự nghiêm cẩn của Lê Trung Ẩn trong vai trò trọng thần chấp pháp đã nổi tiếng từ thời vua Gia Long nên chẳng ai lên tiếng để cứu một thái giám đến hồi thất thế. Xoay qua vấn đề Trí Hải, Lê Trung Ẩn trình bày một cách vừa đủ:
- Tâu hoàng thượng, đánh giặc bằng gươm giáo hay đánh giặc bằng trí óc, mỗi cách thế đều có sự quan trọng và ý nghĩa riêng của nó. Hàn Kỳ Vương không đem quân lính mà đem quân cờ từ nước lớn Trung Hoa vào khiêu chiến nước ta, làm cho bá tánh bị trêu ngươi, người người nổi giận. Hoàng thân Trí Hải đấu cờ với Hàn Kỳ Vương là một cuộc đấu trí rất gay go không thua gì trận quyết đấu binh hùng tướng mạnh một còn một mất trên chiến trường. Xét về cả hai mặt pháp lý và đạo lý chẳng những không có gì sai phạm mà còn chấm dứt được sự khiêu khích gây hiểu lầm và thù nghịch giữa dân ta và giới Hoa kiều tại kinh đô khắp nơi trong nước. Đây không phải là hành vi cờ bạc vui chơi mà đây là một cuộc chiến đấu bằng trí óc giữa nhân tài hai nước. Hoàng thân Trí Hải đã có công to phò tiên đế từ thời dựng nước. Tâm của Hoàng thân sáng như sao khuê. Hành động của Hoàng thân là một sự dấn thân đầy tài ba và can đảm. Đứng về mặt bảo vệ danh dự và quyền lợi của triều đình và bá tánh, Hoàng thân đã làm một việc tốt đầy quang minh chính đại. Nếu đã không xét về công thì thôi, chứ lẽ nào lại đi luận tội.
Các quan nhất phẩm cảm thấy quả thật “lời nói là bạc, im lặng là vàng”. Các quan nhị phẩm, tam phẩm đã lỡ phóng lao nịnh hót chóng mặt nhìn nhau. 
Tiếng nói sang sảng qua lời tâu của Lê Trung Ẩn đầy sức thuyết phục, vừa chan chứa tình người, vừa đượm tình đất nước làm cho các quan văn võ, phần đông là các vị lão thần, bồi hồi nhớ lại buổi đại tiệc gần hai mươi năm xưa ở Ngự Viên giữa nhóm sĩ phu Bắc Hà và vua Gia Long. Những tâm hồn trãi dài theo chiều dài của đất nước và vươn lên theo chiều cao của lương tri vẫn thường xuyên bị vật vờ với gió chướng từ mọi phía. Vững vàng thì đứng dậy mà chao đảo thì co cụm rút lui và tàn lụi như đám ma Hời Chiêm quốc. 
Sau lời tâu của Lê Trung Ẩn, nhìn một lượt sự bày tỏ hiện ra trên khuôn mặt các đại thần rường cột của triều đình, nhà vua cũng biết được là giới trọng thần đang mạnh mẽ ủng hộ ý kiến của Quan thượng thư bộ Hình. Quyền lực của vua mang danh nghĩa nằm trên thiên hạ nhưng thực tế lại ở trong tay các đại thần. Vua biết là không nên và không thể đi xa hơn nên lạnh lùng “chuẩn tấu” và ra lệnh bãi triều.
Từ trên gò cao đình Thái Ấp, Phạm Xảo có thể nhìn bao quát khu dân cư trải dài trên cánh đồng mênh mông loáng nước đang đợi mùa cấy Đông Xuân. Lác đác trên đường quê, có nhiều nhóm nông dân đang gánh gồng bồng bế nhau di chuyển ra khỏi làng. Phạm Xảo men theo con đường quê, bước lần đến gần hỏi chuyện. Những người ra đi cúi gầm mặt, lầm lũi bước, chẳng ai nói với ai một lời. Hết nhóm nầy qua nhóm khác, cuối cùng mới có một cụ già nhìn trước nhìn sau nói nho nhỏ:
- Vừa qua, có mật chỉ từ quan triều đưa xuống rằng, Hoàng thân chủ Thái Ấp bị Hoàng thượng hạch tội, chúng tôi ở trong vùng chủ quản của hoàng thân sợ bị liên lụy nên đành phải bồng bế nhau ra đi.
Không hỏi thêm lời nào, Phạm Xảo quay về dinh ông Hoàng, gặp Trí Hải để báo tin nông dân rời Thái Ấp như một dấu hiệu chẳng lành rồi lên tiếng:
- Đốn cây to không ngã, giờ bứt lá chặt cành...
Trí Hải nhìn về phía ruộng đồng, thoáng ưu tư nhưng chẳng nói gì.  Phạm Xảo lại bình luận:
- Còn đám nông dân kia thật là bạc nghĩa. Hoàng thân đối với họ trước sau như bát nước đầy, như tình thân quyến vậy mà chỉ mới nghe qua một tin đồn chưa rõ đầu đuôi thế nào đã vội bỏ đi. Tại sao chúng ta không giữ họ lại để nghe giải thích cho rõ ràng rồi đi hay ở tùy ý.
Trí Hải vẫn điềm nhiên:
- Tội nghiệp cho đám nông dân nghèo khổ và thật thà, họ đáng thương hơn là đáng trách. Thời nào họ cũng chỉ là công cụ áo cơm. Đất lành thì chim đậu, đất dữ thỉ bỏ đi là tâm lý thường tình. Người xưa có nói “thuận Thiên dã tồn, nghịch Thiên dã vong” nghĩa là thuận với Trời thì còn mà nghịch với Trời thì diệt. Trời là hình ảnh của một sức mạnh khống chế mọi chuyện. Trời giữa trần gian nầy là Vua, là quan quân triều đình. Đã đến lúc chúng ta cần phải buông bỏ tất cả thôi Huynh. Còn một chút gì vướng mắc quanh ta là sẽ bị coi như còn cầm khí giới.
Phạm Xảo không tán thành:
- Như vậy là buông tay, chấp nhận thua cuộc mà không có một phản ứng nào để bảo vệ cho mình à?
- Trận chiến của lương tri thường không có biên giới và vũ khí rõ ràng, nên thắng có khi là thua và ngược lại.
- Một kẻ giết người cướp của là thua hay thắng trong trận chiến lương tri?
- Đã không có lương tri thì làm gì có trận chiến, có thắng hay thua. Mất lương tri thì tất cả chỉ còn là bóng đen của một sự trống rỗng vô tận hay là một cuộc hủy hoại tàn độc mà thôi.
Hai người im lặng đuổi theo ý nghĩ riêng. Nguồn suy tưởng của mỗi người khi đầy ắp chuyện đời, khi trống trơn chả có bóng dáng nào lai vãng.
Rồi những ngày xôn xao về tin đồn và phản ứng của người dân Thái Ấp đi qua và nguội dần trong vắng lặng. Khu làng trù phú một thời trong Thái Ấp thưa dần. Hơn năm trăm nóc nhà ngày trước nay chỉ còn trơ lại vài chục gia đình nông dân khó khăn đành phải ở liều tại chỗ.
Hình như tất cả những cái nhìn ái ngại của phía hoàng tộc và triều thần đều dồn về phía Trí Hải. Có rất ít kẻ hả hê đáng kiếp, có người thương cảm ưu tư, nhưng phần đông xót xa thầm lặng. Trí Hải và cuộc đời như một cuốn sách viết chuyện thần tiên, vừa gần vừa xa với mọi người nhưng hoàn toàn vô hại. Một cốt tiên mang dáng người phàm không làm cho ai mất công tìm kiếm hay xua đuổi. Nhưng khi nhân vật có dáng huyền thọai ấy sắp bị đọa vì sự nổi giận của thiên đình, người trần chẳng có ai tưởng tượng sẽ đưa lưng ra đỡ. Từ trong ước mơ thầm kín là thế giới tự do tuyệt đối, con người tha hồ bày tỏ sự khen chê. Người nông dân ra đi mà tấm lòng vẫn còn để lại. Người ta không ở lại để làm ruộng nhưng vẫn thường xuyên ghé về Thái Ấp. Mảnh đất trồng lúa ngày xưa nay được chia mảnh để trồng hoa như một cử chỉ bày tỏ lòng thương quý chủ nhân. Ai cũng biết Trí Hải là người yêu hoa và là một nhà chơi hoa tài tử ở kinh thành. 
Cuối mùa Xuân, khi bắt đầu nắng ấm, hoa nở rộ muôn màu muôn vẻ. Được bàn tay của hàng trăm nông dân sớm sớm, chiều chiều tạt qua chăm bón, những cành hoa nhanh chóng vươn mình lên lấp đồng cỏ dại. Cả Thái Ấp là một rừng hoa rực rỡ tuyệt vời.  Hoa Thái Ấp phát khởi từ những nâng niu và tấm lòng yêu thương của người nông dân đơn giản thật thà nên cả sắc và hương đều thoát ra dáng vẻ dịu dàng, thanh thoát. Hoa nơi đây không phải là những loài hoa quý tộc, vương giả, đuợc chăm bón thường xuyên và điệu nghệ như ở hoàng cung và kinh thành. Nhờ vậy, sự nẩy mầm vươn lên và trổ hoa tự nhiên, hài hòa bằng vẻ đẹp không kiêu sa mà gợi cảm. Nét đẹp hồn nhiên đi thẳng vào lòng người. Khi con người đã nhận ra tín hiệu của cái đẹp thì cái đẹp tự nó sẽ cung đón tâm hồn về ngự giữa trần gian đầy thánh thiện. 
Rừng hoa Thái Ấp làm chấn động kinh thành, nhưng chẳng có ai đi xử tội một rừng hoa. Giữa mùa hoa, người bốn phương kéo đến xem hoa trùng trùng như trẩy hội. Tài tử giai nhân trải lòng hít thở trong thế giới hương sắc của vạn loài hoa. Điều họ mong ước nhất mà chẳng bao giờ thỏa mãn, đó là làm sao gặp được hoàng thân chủ Thái Ấp một lần. Không ai biết rằng sau dãy trường thành trên đồi xa, cả Trí Hải, Phạm Xảo và đôi ba gia nhân còn ở lại đang xới đất, ươm cây, tự lo lấy miếng ăn vì kho lương thực của Thái Ấp đã tháo khoán phát hết cho nông dân. Thuế canh điền là nguồn lợi tức duy nhất cũng không còn.
Phạm Xảo ngạc nhiên với sự làm lụng chăm chỉ của Trí Hải.  Dường như Trí Hải để hết tâm tư trên từng luống đất. Mỗi lát cuốc vững vàng và chắc nịch như người nông dân từng trải tay nghề. Trí Hải cười vui hồn nhiên và có vẻ như chẳng để thì giờ hay khoảng trống của đầu óc để mất công suy nghĩ điều gì xa hơn là việc làm trước mắt. Một lần trong bữa cơm chiều, Phạm Xảo hỏi:
- Tôi vẫn thắc mắc là tại sao hoàng thân lại có vẻ thoải mái và vui vẻ trong một hoàn cảnh đáng buồn và vất vả như những ngày nầy?
Trí Hải chưa trả lời mà hỏi lại:
- Thế Huynh có thấy thoải mái và vui vẻ trong công việc tay chân mới mẽ nầy không?
Phạm Xảo trả lời không do dự:
- Thật lòng là không. Tôi làm vì phải làm để lo nhu cầu cơm áo mà thôi.
Trí Hải hỏi lại:
- Cơm áo để làm gì?
- Để sống.
- Vậy thì mình tự tạo sự sống cho mình không phải là điều đáng vui sao huynh?
Phạm Xảo không nói gì, Trí Hải nói như gợi lại tâm sự:
- Hơn nửa đời người, tôi sống nhờ người khác. Người khác đổ mồ hôi và sức lao động để tạo ra miếng ăn và sự sống cho tôi chỉ vì tôi được sinh ra trong họ hàng vua chúa. Tôi đã làm được gì để có được dinh cơ và Thái Ấp này.
- Tôi hiểu. Nhưng đó là sự phân công xã hội. Người được lãnh đạo phải làm ra của cải vật chất để nuôi sống người lãnh đạo.
- Ai cho con người quyền lãnh đạo người khác?
- Người có sức mạnh và tài năng thì nắm quyền lãnh đạo là lẽ tự nhiên.
- Vẫn có biết bao nhiêu nhân vật xưa nay chẳng có tài năng gì cả nhưng vẫn nắm quyền lãnh đạo. Như trường hợp những vị ấu chúa, lên ngôi hoàng đế để chăn dắt muôn dân mà còn mũi chảy lò thò, chẳng hạn, thì tài năng ở đâu?
- Không có tài năng nhưng có sức mạnh của quan quân và dòng họ vua bao quanh ấu chúa.
- Đấy chỉ là một cách nói khác của luật sinh tồn mạnh được yếu thua mà thôi. Bởi vậy, sự bất lực và yếu đuối nhất của con người là chẳng ai cầm được vận mệnh của chính mình. Người ta vừa là chủ nhân vừa là nạn nhân; vừa là kẻ lãnh đạo vừa là người bị lãnh đạo. Sự thay đổi nhiều khi là một đời, một thời hay một khắc... của sự thuận thời, đắc thế mà thôi.
- Như vậy, xã hội là một mớ hỗn mang, chẳng có quy lật gì cả hay sao?
- Có chứ. Có quy luật nhưng là quy luật của chính nó hay nói khác hơn là của chính khung cảnh và thời điểm nó xuất hiện. Sẽ không có hai ánh sao băng hoàn toàn giống nhau trong dãi thiên hà trên kia; cũng như không bao giờ có một quy luật xã hội có thể đem ứng dụng đúng đắn cho tất cả mọi thời dưới cõi thế nầy. 
Phạm Xảo đứng bên cửa sổ nhà ăn nhìn về phía thôn ấp dưới kia, hỏi một cách mệt mỏi:
- Hoàng thân có dự tính gì cho Thái Ấp trong những ngày sắp tới?  Không lẽ chúng ta lại cùng nhau biến thành nông dân cuốc đất bất đắc dĩ như thế nầy mãi?
Trí Hải lắc đầu nhè nhẹ:
- Huynh không thấy một rừng hoa dưới kia sao? Ruộng hoang biến thành rừng hoa ngoài sự dự tính của tất cả mọi người chỉ trong một thời gian ngắn. Cái tâm lúa gạo của người nông dân nở hoa được như thế nầy cũng vì những mầm hoa đẹp nhất đã được vun xới và đâm chồi nẩy lộc trong lòng mỗi người Thái Ấp nầy từ bao nhiêu năm qua. Tìm ngày mai trong chính những gì chúng ta đang làm hôm nay. Vì chúng ta buông xả tất cả để tháo khoán hết kho liễm lúa gạo tích trữ mà cấp cho nông dân khi họ đang gặp lúc ngặt nghèo mất mùa lúa, nên hôm nay mới được mùa hoa.
Phạm Xảo xoa hai bàn tay chai đất của mình vào nhau và vịn khung cửa sổ đứng nhìn. Người từ kinh thành về xem hoa như hội. Những khóm hoa, luống hoa, vườn hoa và cả biển hoa huy hoàng nở rộ. Hoa phơi phới như một sự đền bù cho nụ cười không nở được khi người nông dân câm nín bỏ làng ra đi. Phạm Xảo không ngoái lui mà vẫn cảm nhận được có một nụ cười của Trí Hải đằng sau.
- Đẹp quá!
- Cả Thái Ấp nở hoa... và chúng ta đi cuốc đất!
Không biết ai là lời khen, ai là tiếng vọng; nhưng cả hai đều hướng đến một nụ cười đầy hoa và đầy tiếng đùa vui của một ngày mới nở.          
CHƯƠNG CHÍN
Rỗng Lặng 
Chẳng ai phân biệt được đó là ngôi nhà hoang, cái miếu cũ hay ngôi chùa cổ nếu không có âm thanh ngân nga như tiếng cầu kinh từ một nơi xa vắng vọng về. Tất cả ẩn sau tàn cây xanh. Mái ngói đóng rêu xanh rì và mép ngói nhấp nhô sắp đến hồi sụt lỡ. Sợ gây tiếng động làm tì vết tiếng hát trong ngần, Trí Hải và Phạm Xảo rón rén vén hiên lá bước vào. Phải qua cái cổng gạch tô vôi hàu loang lổ mới đến cái bình phong chắn trước bể cạn nứt nẻ lâu ngày không còn một giọt nước. Núp dưới bóng những cây sanh, cây bồ đề, cây phong... cổ thụ, ngôi nhà gạch xưa cũ suốt ngày không ngoi lên được cho ánh nắng mặt trời rọi vào, dù chỉ là dăm bảy chấm nắng vàng lốm đốm.
Trước hiên nhà, hai mẹ con mèo mướp quyện nhau nằm ngủ lim dim. Trong số những người ngồi xếp bàn hay duỗi chân, lưng tựa vào tường thoải mái, có cả thằng Vui điên nổi tiếng cả kinh thành.  Thằng Vui điên nổi tiếng một cách tội tình không phải vì được phong tước vương hầu, hay vì đậu bằng tiến sĩ làm ông nghè ông cống mà chỉ vì cái quần đùi. Quanh năm nó chỉ có độc một chiếc quần xà lỏn.  Mưa lạnh buốt da cũng như nắng cháy lưng trần, thằng Vui chỉ thắng độc nhất cái quần xà lỏn với đầu trần, mình trần và chân trần chạy rông khắp kinh thành. Tấm giấy thông hành độc nhất của nó là nụ cười muôn thuở trên môi. Nụ cười bất tận trên khuôn mặt tiếu lâm và cái quần cộc của thằng Vui đã an ủi được cả những kẻ khốn cùng nhất. Nhìn thằng Vui chạy tóe nước trong cơn lạnh mùa Đông cắt da của xứ Huế, người khốn khổ nhất cũng cảm nhận và an ủi được rằng, ít ra trên đời cũng còn có kẻ khốn cùng hơn mình.
Tiếng tụng kinh của ai đó như một tiếng hát phiêu linh. Ngôn tự vẫn ràng buộc trong một qui ước mơ hồ của lời kinh. Nhưng âm thanh bay lượn vào cõi mênh mông, không phải đậu trên mỗi nhịp chuông, tiếng mõ. Âm thanh hồn nhiên như tia nắng mai phủ cả bầu trời lồng lộng:
Sâu thẳm, cao vời huyền diệu quá
Trăm, ngàn, vạn kiếp khó tìm nhau
Nay nghe thấy được điều tâm nguyện
Hiểu nghĩa Như Lai ý nhiệm mầu...
Trí Hải nhẩm đọc theo bốn câu "Khai kinh kệ" bằng chữ Hán:
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp
Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ
Ngã kim kiến văn đắc thọ trì
Nguyện giải Như Lai chơn thiệt nghĩa
Cuối căn phòng không rộng, mờ trong ánh sáng xanh hắt ra từ những bờ lá thấp phản ánh mặt trời, một nhà sư áo vàng ngã mầu đất sậm, giơ cao dùi mõ nhưng không đánh xuống mà chỉ chạm vào thành mõ rất khẽ, tạo ra một âm thanh đục trầm thấm sâu mà không dội. Giọng nhà sư trong và ấm, ngân nga tự do như hòa điệu với thời gian buổi chiều trôi chầm chậm ngoài kia. Cùng với đám người đang ngồi sẵn lặng nghe từ bao giờ, Trí Hải và Phạm Xảo chẳng ai nói với ai một lời, cùng ngồi xuống. Có những thanh âm huyền diệu làm cho tiếng lá rơi cũng thành một tạp âm chẳng ai chờ đợi. Có những sự gào thét im lìm mà chỉ có tâm thức mình nghe. Tiếng niệm kinh của nhà sư chấm dứt lâu rồi mà đám người nghe vẫn còn ngồi im lặng trong váng vất của dư âm. Cho đến khi nhà sư đứng dậy, tươi cười  tiến về phía cửa vào, mọi người mới lần lượt di chuyển theo.
Một chút ngỡ ngàng nhưng không mấy ngạc nhiên khi Trí Hải nhận ra nhà sư là người đốt than đã gặp trên núi. Trí Hải bước đến trước mặt nhà sư, chào hỏi:
- Xin chào sư bác. Sư bác còn nhớ tôi không?
Nhà sư nhìn Trí Hải với đôi mắt dịu hiền và tươi mát của người mới gặp lần đầu, trả lời một cách hồn nhiên làm người nghe chưng hửng:
- Có mà không!
Trí Hải cố gợi lại điểm tựa của ký ức:
- Lần đầu chúng ta gặp nhau khi sư bác đốt than và lần cuối gặp nhau là khi sư bác nhắc tôi về cái "tâm không - xả bỏ..." trong thuật đánh cờ đó mà, lẽ nào sư bác lại không nhớ?
Nhà sư vẫn giữ dáng cười hiền hậu và chân tình, trả lời:
- Không nhớ quý hữu mà chỉ nhớ một nhân vật cao cờ đang chết đuối. Đã ngoi lên bờ được rồi, sao quý hữu không nhớ hiện tại mà phải quay lui mang quá khứ về đây?
Trí Hải vẫn thắc mắc:
- Không có quá khứ thì làm sao có hiện tại. Không có hiện tại làm gì có tương lai?
Giọng nhà sư nhỏ lại và trầm xuống như nhắc nhở:
- Ích gì đâu để kéo những vui buồn đã qua hay chưa tới. Cột dính chùm quá khứ với hiện tại, làm cho hiện tại bị lay động và mất hết vẻ hồn nhiên vì những cái không phải là chính nó hay của nó. Cơm nóng hôi hổi trước mắt không chịu ăn lại phải trộn cơm nguội hôm qua và gạo sống chưa nấu vào cơm nóng trước mắt để làm gì.  Mỗi lần gặp nhau muốn có niềm vui và giao tình chân thực thì  cần được xem như là lần đầu và cũng là lần cuối. Quên chuyện đã qua và khoan nghĩ tới chuyện chưa đến để dành cho hiện tại chút tươi mát, thảnh thơi. Lắng lòng nghe một câu kinh, uống một chén nước chè xanh và giữ lòng an lạc là hạnh phúc trong tầm tay. Nắm lại và giữ nguồn hạnh phúc khỏi mất tiền mua vì nó ở trong ta. Nào mời quý hữu...
Vị sư đưa tay mời nhóm khách lơ thơ chừng mươi người vào lại căn phòng trống duy nhất của ngôi nhà gạch quá cũ kỹ rêu phong để dùng trà. Quay về phía Trí Hải bên cạnh, nhà sư nói vừa đủ hai người nghe:
- Quý hữu biết rồi, một ngày qua là một chuổi đổi thay. Trong giờ khắc nầy quý hữu gặp tôi là một thầy tu; và quý hữu là một khách thập phương ghé lại nghe kinh. Bị than không còn trên vai tôi và những thế cờ cũng chẳng còn trong trí quý hữu. Mỗi chúng ta là một con người khác, một nhân vật mới. Mọi người, mọi vật đều đang thay đổi. Sự thay đổi tiếp diễn liên tục trong từng nháy mắt. Có khi sự thay đổi toàn triệt đến tận cùng như là chết đi và sống lại...
Trí Hải chợt nhận ra cái ý nghĩa thâm sâu trong giọng nói ấm áp của nhà sư:
- Ý sư bác muốn nói đến sự vô thường trong từng nhấp nháy của dòng sống không biết đâu là điểm khởi đầu hay kết thúc?!
Nhà sư im lặng thay cho một sự trả lời đồng tình. Đám khách thập phương, từ người mặc áo gấm lam có hoa văn chìm, thêu nhãn hiệu "Cô Ba Gấm" nức tiếng đương thời - một chỉ dấu thuộc hàng quý tộc - đến những người dân nghèo áo quần vá chằng, vá đụp, đều ngồi xuống nền nhà lót bằng đá thanh đã nứt nẻ nhiều nơi nhưng còn sạch sẽ. Cái bình trà lớn và chục cái chén đất nhỏ kiểu rất lạ bày sẵn trên hai tàu lá chuối xanh còn nguyên vẹn để giữa phòng. Nhà sư mở cửa hông, đến bên lò nước đang sôi, xách ấm nước sôi chế vào bình trà với một phong thái nhẹ nhàng và cẩn trọng. Mùi thơm phảng phất thoảng hương khói man dại của một loại gỗ rừng đang cháy lọt vào khung cửa hẹp. Trí Hải nhắm mắt và hít mạnh. Mùi hương cũ của bếp than đang cháy bị nhà sư tưới nước tắt nửa chừng trong rừng hôm nào phả mạnh vào mũi. Từng cảm quan bén nhạy nhất  của Trí Hải trỗi dậy. Thì ra, than chín chỉ mang lại sức đốt, nhưng than "sống" mới mang theo hơi hưởng của loài cây phát sinh ra nó.
Trà đến từ đọt non mới nhú ra hai lá của vô số cây trà hoang trên núi mà nhà sư đã hái về ướp sen rồi sao khô để dành đãi khách.  Hương trà thơm như hương rừng tổng hợp muôn ngàn cây núi. Vị trà chát đầu lưỡi, lưu lại vị ngọt sau cùng trong cổ có sức níu kéo mang đầy ấn tượng thanh thoát lẫn huyền hoặc khó phân tích hay gọi tên vì nó là vật mời của một nhà sư kỳ lạ... "không giống ai".  Nhà sư âm thầm xuất hiện giữa kinh thành nổi tiếng là kinh đô của chùa chiền; và cũng là đất thánh của hàng tu sĩ cấp cao nầy bằng một cung cách riêng.
Theo dấu nhà sư, người ta nhớ lại từ đầu, không rõ từ đâu lại, một người có dáng vẻ như nhà sư vì chiếc đầu tròn nhẵn bóng và nét an lạc tự tại trên một khuôn mặt vừa già vừa trẻ. Căn nhà hoang một thời, được dùng làm nơi thờ tự của "tôn nhơn" Đoan Vương thứ phi, bỏ hoang vì không người thừa tự. Một người thuộc hàng con cháu xa của dòng Đoan Vương bỏ công của ra sửa sang chút đỉnh và mời nhà sư vào ở. Từ đó, căn nhà hoang sống lại trong vẻ côi cút ẩn nhẩn nhưng vẫn tỏa ra cái không khí quý tộc, đài các vô hình của một cung phi thất sủng về chiều. Người cư trú cũng có vẻ vừa thật, vừa thần thoại như ngôi nhà. Người đàn ông khi khoác áo nhà sư; khi vác cuốc, mặc áo cộc chàm của người lao động; khi cầm rìu mang gánh của gã tiều phu. Bởi vậy, nhân vật lạ lùng nầy mang nhiều tên mà không ai biết tên nào là đúng, vì gọi tên nào nhà sư cũng hoan hỉ gật đầu. Người căn cứ vào cách sống đạm bạc, đơn sơ và lam lũ và bất chấp hình tướng của nhà sư thì gọi là "Thiền Sư Tu Bụi". Người chỉ chú ý cặp mèo lúc nào cũng có mặt trước hiên nhà thì gọi là "Thầy Miêu". Người nghe được vài ba câu nói sâu xa hiếm hoi và biết chút ít tông tích của nhà sư thì gọi là "Sư Minh Thiền". Và, thậm chí có người chỉ gặp nhà sư khi đốt than, đốn củi thì gọi là "Thầy Tiều"... Có vẻ như không tên gọi nào sai mà cũng chẳng có tên gọi nào vừa vặn cho nhà sư. Cái tên như bóng nắng nhuộm sáng thịt da nhưng chợt đến, chợt đi không nằm lại với con người.
Trên bệ thờ chạm bằng đá Thanh đặt ở cuối phòng không biết đã xuất hiện ở đó từ thời nào, cắm đầy hoa tươi và trái cây đủ loại. Trên tường chỉ thấy hình hai bàn tay nuột nà bằng thạch cao, nét chạm rất tinh vi. Một bàn tay chỉ mặt trăng và một bàn tay cầm đóa sen nở hàm tiếu. Hai bàn tay như đang nâng một khung kính soi hình bầu dục, chiều cao to bằng người đứng thẳng. Khung kính thếp vàng đã lóc men và cũ kỹ, nhưng mặt kính vẫn còn trong vắt. Chẳng thấy tượng Phật hay tượng thánh nào khác ngoài chiếc kính lồ lộ mà tất cả mọi người trong phòng chỉ cần ngước nhẹ nhìn vào tấm kính thì cũng thấy được ảnh mình soi trong đó.
Những người ghé lại nghe kinh ngày một đông. Dường như nhà sư chỉ đọc kinh khi nào đang ở một trạng thái thanh tịnh, siêu thoát nhất. Người theo dõi có cảm giác rằng, nhà sư đọc kinh bằng một cảm xúc trọn vẹn hay hứng khởi vô biên như nghệ sĩ xuất hiện trên sân khấu, chẳng có một thời biểu nào rõ rệt. Tất cả đều theo cái tinh thần "tùy duyên"; có duyên thì gặp. Hầu hết những lời kinh gốc từ chữ Phạn và chữ Hán, đều được nhà sư dịch ra bằng một thứ ngôn ngữ thuần Việt trong sáng như ca dao và giàu vần điệu đẹp như thơ.
Sau ngày gặp sư Trúc Lâm từ hai năm trước, Trí Hải nghe như có sự thay đổi từ trong cách nhìn và cách cảm nhận về thế giới xung quanh. Đó không phải là một thế giới lạnh lùng và cô quạnh. Con người không phải sinh ra để đếm ngày tháng đi qua; để đón những đứa bé mới ra đời và tiễn biệt những người vừa mới chết hay để tiếc nuối tuổi thanh xuân nhạt dần với sự già nua hiện đến. Người ta biết rõ sự tan hợp rất vô thường nên không "chạy lui về tương lai" bằng cách đem cái quá khứ đặt vào tương lai mà quên mất hiện tại. Mỗi con người không phải là một thế giới riêng. Không ai tự cô lập khỏi cuộc đời để rút về một nơi trú ẩn tốt nhất mà núp bóng hạnh phúc, chống lại sự biến dịch và giữ được mãi những gì mình ưa thích.
Ngày xưa, những thế giới an toàn vương giả nhất, nhưng cũng đầy chuyện thêu dệt hoang tưởng nhất trong cung cấm như Vọng Nguyệt Thành, Tử Cấm Thành, cung A Phòng... chỉ là những thế giới an toàn mong manh của cái tổ chim treo trên ngọn cây trước sức công phá của gió bão thời gian đầy biến dịch. Đó là sự thu mình vào cái ngã tưởng tượng được xem như là lâu đài kiên cố. Vì tưởng tượng nên đấy chỉ là "giả ngã" - một cái tôi bọt bèo nấp bóng dưới một cái cái ta không có thật. Chỉ khi nào cái Giả Ngã bị xua tan như màn đêm thì cái Chân Ngã mới xuất hiện. Và khi chân ngã xuất hiện thì sẽ thấy được Ngã là một cái gì rộng lớn bao gồm toàn thể vũ trụ: Cái giới hạn vươn tới và hoà nhập vào cái vô cùng là khi Tiểu Ngã chuyển hóa thành Đại Ngã! Một giọt sương đã hoà vào đại dương thì không bao giờ mất mà cũng chẳng bao giờ còn. Giọt sương treo đầu cành là thật vì rõ ràng nó hiện hữu dưới dạng một giọt nước đang long lanh dưới ánh mặt trời. Nhưng đồng thời nó cũng không thật vì nó vừa kết tụ bằng hơi nước và sẽ tan đi rất nhanh cùng với tia nắng ban mai. Giọt sương có đó và không đó. Giọt sương như có, như không vì nó được tạo ra bằng hơi nước, độ lạnh, bóng đêm, cành cây và sẽ tan đi vì nắng, vì gió, vì hơi ấm của ánh sáng ban ngày. Con người "vĩ đại" và hiện hữu lâu hơn vì nó là kết tụ của hằng tỉ tỉ giọt sương, hàng muôn muôn hạt bụi. Nó có sự kết tụ qua lại của hằng hà sa số tế bào vật chất và ngọn lửa ý thức. Dẫu sự hiện hữu của con người có lâu hơn giọt sương nhưng khi khối giả hợp nầy tan rã thì khoảng không gian nhỏ bé của thân người đã chiếm cũng sẽ khép lại không còn dấu vết.
Rốt lại, cõi người ta và cuộc sống hiện tại nầy dù chỉ là một sự trú chân tạm bợ của những giọt sương. Thế nhưng kiếp người hiện hữu vẫn là một trạm trú chân sống động nhất, hiện thực nhất, đầy ý thức nhất để con người tìm một hướng đi, tìm một con đường về và tìm một nơi sẽ đến... Chỉ có con người chính mình chứ không ai khác chịu trách nhiệm lấy đời mình. Con người có khả năng tìm một con đường mình thích: Một sự bám víu đơn giản, dễ dãi và tự nhiên “ai sao mình vậy” vào cuộc sống trước mắt mà chẳng suy tư gì hơn là đời sống áo cơm. Một sự cố chấp đứng lại nhìn mình tàn lụi theo mỗi ngày qua, ý thức được mình đang bị hủy diệt mà không làm gì cả. Một sự buông xả cầu giải thoát.
Tạm trốn trong bóng mát của thời gian để cỡi trên chuyến tàu thành, trụ, hoại, không đang lăn bánh về chân trời hủy diệt là một thái độ không chọn lựa - mà tự nhiên thành chọn lựa - của con người.
Trí Hải đã tìm thấy nơi nhà sư một phong thái riêng hợp với danh xưng "Thầy Tiều" hơn cả. Đấy là một con đường thênh thang của tự do đầy gió rừng, dáng núi và mây trắng phiêu du của tư tưởng.  Không rõ phát xuất từ một khát vọng hay một biên kiến nào ẩn kín trong tâm hồn, Trí Hải cảm thấy mỗi ngày mình càng gần gũi hơn với thầy Tiều. Đặc biệt là khi nhà sư tụng kinh với giọng ngân vang đầy cảm khái của một lời thông đạt đến nhân sinh, nhưng cũng rất u trầm mang tiếng gọi từ sự khát khao giải thoát.          
Theo nhà sư thì kinh là một phương tiện truyền thông của tình cảm, tư tưởng và đức tin. Thiếu đức tin thì kinh chỉ là thơ ca đầy tưởng tượng lãng mạn; thiếu tình cảm thì kinh chỉ là bộ luật tôn giáo; và thiếu tư tưởng thì kinh chỉ là một hệ thống thần chú bí ẩn. Có lần Trí Hải hỏi rằng, người ta thường đọc kinh với sự tha thiết hít hà, đôi khi ai oán như tiếng khóc than để nói lên thân phận bọt bèo của thân phận làm người, nỗi đau khổ nhân sinh và niềm kính sợ sức mạnh siêu hình đang vây bủa xung quanh. Thế nhưng vì sao sư lại đọc kinh với phong thái đam mê và sự xướng âm trầm bỗng của một nhà nghệ sĩ như vậy, nhà sư trả lời:
- Khác nhau ở chỗ là nhiều người tụng kinh với cái tâm cầu khẩn những thế lực thần linh cao cả đâu đó để xin ban ân, chứng giám, tự xem bản thân mình cũng chỉ là vật trợ lực phát ra tiếng như cái mõ, cái chuông. Nơi đây không phải là chốn cầu khẩn mà là nơi tu tập. Tu tập không phải là họp nhau để ca ngợi sự cao siêu của một đấng siêu quần bạt tụy nào đó, và run rẩy ăn năn hối cải, kính sợ cầu xin.  Tu tập là tìm về với sự cao cả có sẵn trong chính mình đã bao năm bị vùi lấp. Nên đọc kinh là hát, là nói lời ngợi ca. Tiếng hát làm cho trong trẻo mặt đời bụi bặm. Từ đó, cái chân tâm, Phật tánh nằm sẵn trong chính mình hiển lộ. Đừng đọc kinh để làm vui lòng ai cả. Đọc kinh để làm vui lòng mình trước đã. Đọc kinh để cho con ngựa bất kham, khó tính và nhạy cảm trong lòng mỗi con người ngừng hí lộng, tạm dừng chân lại và lắng nghe.
Nói về kinh kệ nhà Phật, Trí Hải lại thắc mắc:
- Nhưng trong tôn giáo nào cũng giống nhau, kinh là lời của vị giáo chủ chứ đâu phải là một bài thơ hay để ngâm, hoặc như một bản nhạc du dương để hát?
- Đạo Phật khác với tất cả các tôn giáo khác. Tôn giáo nào cũng cần một Thượng Đế, một cuốn kinh thánh và một đấng tiên tri. Riêng đạo Phật thì chỉ cần con người chính mình và một đầu óc biết quét dọn cho thành rỗng không như mây trắng.
- Nếu chỉ cần một tâm não rỗng lặng như mây trắng thì đâu cần kinh sách nhiều đến thế?
Thầy Tiều khoác tay như muốn vứt bỏ một điều gì:   
- Tất cả kinh sách và sự hành trì theo tinh thần đạo Phật là phương tiện để học cách rũ bụi, quét bụi, tu bụi… làm cho cái trí được rỗng không và cái tâm phẳng lặng. Kinh là viên kim cương sắc bén giúp cạo sạch lớp lớp cáu bẩn của lòng ham muốn, ý hung ác và trí lì lợm. Kinh là cái chổi giúp quét sạch bụi trần. Kinh là cỗ xe giúp chở người qua bờ an lạc bên kia. Kinh không bao giờ là tín điều, là phù phép, là những lời hô gió, gọi mưa làm phép lạ. Kinh không bao giờ là sản phẩm để thờ phụng hay đọc tụng mê man.
Một cách e dè, Trí Hải hỏi lại:
- Nói thế thì kinh văn chẳng phải lời chí thánh của Phật và chư tổ để cung nghinh, đọc tụng và thờ phụng hay sao?
Vẫn nở nụ cười vui, thấy Tiều trả lời:
- Kinh là đôi giày bảy dặm, thoăn thoắt bước đi, giúp những bàn chân trần vượt gió bụi và đè chông gai để về nơi bến cũ của chính mình. Kinh đọc tụng rình rang để khấn đảo, cung bái là lời vô hồn bị đọc và bị lãng quên. Kinh vang vọng như tiếng sóng dâng lên ngoài biển cả để thức tỉnh dòng suối đang ngủ yên trong thế giới riêng sâu kín của mỗi con người là kinh giữa đời, kinh đang sống.
- Làm sao biết được đâu là dòng suối đang ngủ yên trong mỗi con người?
- Chân không. Tâm rỗng lặng, trí rỗng lặng, tình rỗng lặng thì chân tánh hiện.
Trí Hải nhìn vào vẻ mặt an hòa như đang cười của nhà sư và hỏi lại:
- Có phải ý thầy nói là một đầu óc trẻ thơ chăng?
Nhà sư ngẫm nghĩ và trả lời:
- Làm sao quý hữu biết được đầu óc trẻ thơ là rỗng không? Chân không là một trạng thái rỗng lặng tuyệt vời trong tỉnh thức chứ không phải là trống rỗng. Khi ta biết ta là ai, biết ngôi chùa là ngôi chùa, biết ông Phật là ông Phật, biết người là người, biết cành hoa là cành hoa, biết con chim là con chim, biết ánh nắng là ánh nắng, biết đau khổ là đau khổ, biết niềm vui là niềm vui... là khi ta đang bước những bước đầu tiên vào vùng đất tỉnh thức, vùng trời tĩnh lặng.  Nếu ta không ôm đồm của người làm của mình, đừng tìm hoa trong lửa, không tìm nắng trong mưa... là tìm ra lối vào an lạc.
Trí Hải nhận xét:
- Nếu chỉ đơn giản như thế mà thôi thì chẳng khó, ai cũng có khả năng tìm được.
Nhà sư lắc đầu:
- Vậy mà có biết bao người tìm cả một đời không thấy đó quý hữu ạ.
- Vì bị lạc?
- Căn cứ vào điểm tụ nơi đâu hay bản đồ chỉ hướng nào để biết lạc hay không?
Trí Hải còn đang theo dòng suy nghĩ thì nhà sư đã tự trả lời:
- Người ta vẫn quen bám víu vào điểm lạc của mình để kéo người khác lạc theo. Đó là trường hợp những người bỏ chính mình để đi cầu xin những tha lực trên trời dưới đất và năng nỗ kéo người khác theo mình đi cầu xin. Họ níu người làm ta; níu vật làm tâm nên cũng níu mê lầm làm giải thoát. Họ níu Phật, níu thánh, níu thần mà không chịu níu mình. Họ đem phương tiện làm cứu cánh, như xây một ngôi chùa thật lớn và núp bóng trong bốn bức tường vôi mà cứ tưởng lầm mình đang núp bóng từ bi của đức Phật. Họ núp trong chiếc áo mà cứ tưởng lầm rằng mình là chiếc áo. Họ chỉ mặt trăng mà cứ tưởng ngón tay mình là mặt trăng. Họ nguyện cầu, van xin, hứa hẹn và tự chôn mình dưới những tàng kinh mà không chịu vực cái tâm quý giá nhất của mình vươn dậy để lên đường.
- Lên đường! Đường nào?
Nhà sư không nói gì mà ra dấu mời Trí Hải đứng dậy theo mình. Trí Hải theo nhà sư đến trước đài gương sáng. Cả hai lẳng lặng ngồi xuống. Trí Hải ngước mắt nhìn và thấy bóng mình hiện ra lồ lộ trong gương. Mới ngoài năm mươi mà dáng mệt mỏi đã hiện ra rõ nét.  Lần đầu Trí Hải mới có dịp nhìn mình chăm chú đến như thế. Đã có những đốm đồi mồi dấu hiệu của tuổi già hiện trên khuôn mặt thanh tú một thời. Những đường nhăn sẵn sàng xông tới như những đoàn quân hẹn hò giáp trận trên khuôn mặt đã qua giờ ngọ. Học theo động tác của nhà sư, Trí Hải ngồi ngay ngắn, xếp bàn và đôi mắt quan sát từ từ kéo xuống trong thế mở lim dim. Trạng thái bồn chồn ban đầu dịu xuống. Những ý nghĩ muốn nhảy xổ ra khỏi đầu lắng lại. Đầu óc đầy đặc bao nhiêu là chuyện đời như tạm đóng cửa không trao đổi với bên ngoài để chất chồng thêm phiền muộn. Khi không còn liên tục nạp thêm thức ăn hỗn tạp phi vật thể, vô hình, trí óc từ từ rỗng lặng. Cái tâm không bị những xung động nghịch chiều làm rối lọan, cái tâm như mặt trăng không có mây che, chiếu vằng vặc và xa vời trên bãi vắng của cảm xúc. Trí Hải có thể nghe từng tiếng lá khô và hạt vông vang rơi trên mái và bắt gặp hơi thở của mình dường như dài và sâu hơn. Trí Hải cảm nhận được rằng mình đang có một trái tim, không phải một trái tim đập rộn ràng vì tham lam và cảm xúc, mà một trái tim làm việc cần cù một cách dễ thương và gần gũi như con trâu cày ruộng trên đồng. Trí Hải cảm nghe niềm hạnh phúc khi biết mình đang sống. Sống trong từng chớp mắt của thời gian. Người ta quen đếm dòng sống bằng năm mà quên đếm bằng chớp mắt nên tất cả đều quên giây phút đang sống nầy trong biển đời trôi nổi đã qua và trong dòng đời hứa hẹn chưa tới của câu chuyện cứ lập đi, lập lại hoài hết năm ngoái đến sang năm.
Trí Hải đứng dậy theo vị sư. Nhà sư chẳng nói một lời nào và thản nhiên như thể cả hai vừa uống một tách nước lạnh.
Trên đường về một mình, bao nhiêu ý nghĩ vừa lạ, vừa quen ào ạt kéo đến vây bủa Trí Hải trong im lặng. Nhiều câu hỏi về thân thế nhà sư hiện đến.Trí Hải đã từng được thấy nhiều nhóm, nhiều trường, nhiều lớp, nhiều khóa học, nhiều môn phái... tu thiền. Từ hình thức đơn giản đến rình rang lễ lạt, cúng rước hoa đèn cũng lắm, nhưng chưa có một cách kiểu ngồi thiền theo môn phái tu nào mà lỏng lẻo một cách gần như nhạt thếch đến thế. Bao ý nghĩ so sánh về những pháp tu thiền xuất hồn đi bốn cõi, đạt đến định lực thần thông tự tại không ngừng lay động tâm tư Trí Hải. Sự ngây thơ của một người lắm khi không đến từ sự hiểu biết giới hạn, giản đơn mà đến từ sự uyên bác - hiểu biết quá nhiều mà không áp dụng như người ăn no mà không tiêu hóa - hóa thành bội thực. Kiến thức không có hệ thống thường chạy rông như thỏ lạc đường. Ngã ba nầy rẽ quanh, rẽ quất, mở ra nhiều ngã ba khác và cứ thế, cả vạn nẻo đường không biết đâu là một hướng đi đích thực dẫn đến nơi mình muốn đến. Đúng hướng, con chim về tổ, con thỏ về hang, con người về nơi an trú.
Lạc đường thì cả trăm con đường vẫn không có một lối đi. Khi đã lạc đường thì dù là nhà thông thái, người hoang dã, bà giàu sang, ông bần cùng... cũng chỉ là kẻ lạc đường. Lạc đường là lạc đường. Không có lạc đường cao hay lạc đường thấp; lạc đường giỏi hay lạc đường kém. Lạc đường càng lâu, càng cách xa nơi đến hơn. Tu một trăm năm mà bị lạc thì khoảng cách với bờ giác ngộ càng xa một trăm lần so với người mới đến mà nhận ra rằng, mình bị lạc, để quay về đúng hướng. Mê muôn kiếp mà ngộ nhất thời vì đi lạc suốt muôn kiếp. Bỗng có một giây phút nào đó tỉnh thức quay về đúng hướng để tiến ngay vào điểm chuẩn đã nằm sẵn đợi chờ bao nhiêu đời, bao nhiêu kiếp ngay chính trong tâm mình.
Vì mãi miết theo đuổi dòng suy nghĩ về khái niệm lạc đường, Trí Hải vượt qua lối rẽ vào dinh ông Hoàng đã qua xa mà vẫn tiến bước.  Trong đêm tối, con đường len lõi giữa những bụi cây mọc hoang bỗng cụt lối. Trí Hải chợt nhìn lên, đôi mắt bắt gặp bóng tối, mới nhận ra mình đã bị lạc đường. Có thể bị lạc đường ngay trong khu vườn mình làm chủ. Có ánh đèn di chuyển phía xa, Trí Hải đi về phía đó và gặp một người đang dò đường bước đi với cây đuốc bện bằng rơm gọi là "con cúi" khi đỏ, khi tắt lay lắt theo gió.
Người cầm đuốc mừng rỡ lên tiếng:
-  May quá, được gặp bác! Tôi tìm đường về xóm Sông mà bị lạc.  Xin bác làm ơn chỉ cho tôi lối đi ra khỏi khu vườn cây dại mọc um tùm này. Tôi muốn tìm đường về xóm Sông.
Trí Hải thân mật:
- Tôi cũng về ngã xóm Sông. Chúng ta cùng đi.
Người bộ hành lạ mặt hỏi như muốn khẳng định lại niềm tin của mình:
- Bác biết đường vùng này quá rành rõi rồi phải không?
Trí Hải đáp nhanh:
- Không! Tôi cũng đang bị lạc như bác.
Người khách lạ đưa cao cây đuốc lên trời:
- Trời đất! Hai gã lạc đường định dắt nhau đi tìm phương hướng hay sao đây?
Trí Hải cười cười:
- Tôi và bác đều lạc nhưng cũng đều biết mình đang lạc. Biết lạc thì thế nào cũng tìm ra đường mà. Chỉ sợ kẻ lạc đường mà không biết mình lạc nên cùng dắt mình và dẫn người đi lạc mà thôi.
Kẻ đồng hành biểu đồng tình:
- Phải. Biết mình lạc đường thì sớm muộn gì cũng tìm ra lối. Ta đi cả con đuốc cúi sắp tàn.
Gió mạnh. Đốm lửa cuối cùng ở đầu cây đuốc bện bằng rơm rụng xuống. Hai người xa lạ bỗng cảm thấy gần nhau hơn vì chung một bóng tối trên một con đường. Dẫu là con đường đang lạc lối. Nhưng chắc chắn không sớm thì muộn sẽ có nẻo quay về.
CHƯƠNG MƯỜI
Tiếng Vỗ Một Bàn Tay 
- Mỗi người chỉ có một cuộc đời để sống, vậy mà biết bao nhiêu người đã xài cuộc sống nầy một cách phí phạm như thể là họ còn có một cuộc đời khác đang cất để dành trong tủ không bằng…
Trí Hải và Phạm Xảo đến thăm thầy Tiều gặp khi thầy đang cười khúc khích nghe lời nhận xét về cuộc đời của một người khách lạ. Thầy Tiều có vẻ vô tâm và cười đùa một cách dễ dàng làm những người vốn quen với vẻ nghiêm cẩn và quan trọng bên ngoài lắm lúc lấy làm khó chịu. Cái vô tâm của thầy Tiều là thầy cảm ứng mọi sự việc xảy ra trong đời sống xung quanh rất nhanh. Nhưng rồi thầy cũng quên rất nhanh và dường như chẳng còn dấu vết gì lưu lại trong lòng thầy cả.
Thầy Tiều quay qua hỏi hai người khách mới bước chân vào nhà một cách bất chợt:
- Hai vị đây có vị nào đang cất riêng một cuộc sống khác ở nhà hay ở đâu đó không?
Hỏi xong thầy lại cười khúc khích có vẻ như không chờ đợi câu trả lời. Người khách đến trước cau mày. Hai người khách mới đến thoáng vẻ bỡ ngỡ. Phạm Xảo không nói gì. Trí Hải trả lời với giọng nửa đùa nửa thật:
- Có. Nhiều lắm. Nhưng không biết là những cuộc sống khác sẽ vui hơn hay buồn hơn cuộc đời này. Bách thiên vạn kiếp nan tạo ngộ... mà.
- Tốt! Tốt lắm. Dễ thôi. Nhìn đời đang có thì biết rõ đời trước, đời sau thôi.
Rồi thầy lại day qua phía người khác đến trước hỏi tiếp:
- Còn quý hữu sao lại nghèo thế?! Bộ chỉ có một cuộc đời hiện tại này thôi nên phải hà tiện, không dám xài nó à?
Người được hỏi miễn cưỡng trả lời:
- Theo thuyết nhà Phật thì có vô số kiếp tức là có hằng hà sa số cuộc đời. Nhưng đó là những số kiếp quá khứ và vị lai làm sao nhớ được hay biết được mà tính! Đấy là chưa nói đến trường hợp có khi kiếp sau không sinh được làm người trở lại mà thành một loài hạ đẳng nào đó thì biết làm sao đây?!
Thầy Tiều bỗng bật cười thành tiếng. Thầy nói trong tiếng cười chưa dứt:
- Tốt! Tốt lắm. Thế quý hữu có dự định kiếp sau làm gì không?
Người khách giơ hay tay lên trời:
- Trời đất! Nếu như tôi dự định được cho kiếp sau giống như mình dự định vẽ họa đồ cho một căn nhà tương lai thì tôi đến đây làm gì?
Điệu bộ và tiếng than "Trời đất" của người khách làm Trí Hải nhớ lại người bộ hành cùng đi lạc với mình trong đêm.
Thầy Tiều hỏi một cách thẳng thắn:
- Vậy quý hữu có dự định đến đây để làm gì?
Người khách có vẻ bực bội, cao giọng:
- Trời đất! Sao thầy lại hỏi thế. Tôi tìm chùa, tìm cao tăng để học đạo, tu hành cho giải thoát chứ chả lẽ đến đây để buôn bán vịt trời à?
Thầy Tiều lại cười khúc khích. Nhưng chỉ trong một thoáng, thầy lại đắm mình tư lự và hỏi như hỏi chính mình:
- Buôn bán vịt trời! Ý thật hay. Mà có cần vốn liếng nhiều không và lời lãi như thế nào?
Phạm Xảo góp ý:
- Không cần vốn mà chỉ có lời. Khi nhỏ khi to tùy theo lúc. Càng lừa được nhiều người nhẹ dạ và bán được càng nhiều bầy vịt thì càng lời to.
Thầy Tiều dang cả hai tay ra đón lấy ý kiến Phạm Xảo, rồi hỏi một cách nhiệt tình:
- Thực tế là phải làm sao?
- Dễ lắm thầy à. Thì cứ nhận bừa một bầy vịt trời nào đó đang hạ cánh tìm mồi trên đồng và nhận đó là vịt của nhà mình, rồi gạ gẫm người qua kẻ lại để bán vịt. Ai ham mua được vịt giá rẻ mạt thì mua.  Mua xong thì người bán lỉnh mất và vịt thì bay bỗng lên trời mất dạng là xong chuyện.
Ra vẻ tán thưởng, thầy Tiều gợi ý:
- Hay lắm. Hay lắm! Kiếm ăn dễ vậy sao chúng ta không hè nhau đi buôn vịt trời kia?
Vẻ năng nỗ của thầy dịu lại khi Phạm Xảo giải thích:
- Đó là nói đại thể, chứ đi vào ngõ ngách thì muôn phần rắc rối.  Người lái vịt trời đã gian thì phải ngoan. Phải biết lộng giả thành chân, đóng trò khéo léo, khi muốn biến cái giả thành cái thật. Bợm lái có thể chỉ chỏ, gọi tên, mô tả, tô vẽ từng con vịt trời trong bầy vịt trời mà hắn ta chẳng biết gì cả khi chúng đang rỉa nước trên đồng sâu, làm cho người mua mê mẩn. Cái giả cố làm cho thật nên nước sơn bên ngoài bao giờ cũng đẹp hơn cả cái thật.
Thầy Tiều lại tiếp tục hỏi Phạm Xảo:
- Thế thì bầy vịt trời có thật hay giả ?
Phạm Xảo không lưỡng lự suy nghĩ mà trả lời ngay:
- Hoàn toàn có thật. Nhưng thật mà giả. Nhìn thì thấy mà không bao giờ bắt được trên tay.
Thầy Tiều tỏ vẻ quan tâm hơn:
- Vậy phải làm sao để có được trong tay?
- Phải nuôi từ trứng bé thầy ạ.
- Nuôi cho đến khi khôn lớn thì thuộc về người nuôi phải không?
- Giống vịt đồng đủ lông đủ cánh thì bay đi. Chúng nó thuộc về cảnh thiên nhiên trời cao đất rộng, chẳng chịu thuộc về ai cả.
Chân dợm bước, tay nắm con vịt đồng tưởng tượng đưa lên trong khoảng không, thầy Tiều lại hỏi Phạm Xảo:
- Thế thì con vịt sinh ra để làm gì?
Vuốt má mình bằng cả hai tay, với một chút lúng túng, Phạm Xảo hỏi lại:
- Thế thì con người sinh ra để làm gì?
Thầy Tiều cười hì hì, trả lời dễ dàng:
- Để làm người!
Phạm Xảo mặt hớn hở, tiếp lời:
- Thì con vịt sinh ra để làm vịt!
Cách trả lời chắp đuôi, huề vốn của Phạm Xảo lại được thầy Tiều vỗ tay tỏ vẻ tán thưởng như trẻ thơ vừa khám phá ra món đồ chơi mới.  Thầy bày tỏ ý mình  một cách hồn nhiên:
- Quả thật không khác! Không khác! Tìm về đạo Phật cũng như nuôi vịt trời. Nuôi là một cách gieo mầm, chăm chút ươm bón, không chụp giật được. Đạo nằm trước mắt mà không thể mua bán. Ham mua giá rẻ thì chỉ mua được cái bóng. Săn đuổi bằng sức mạnh hay lưới bẫy thì chỉ tóm được một mớ thịt vô hồn. Muốn đưa đạo vào đời phải có công phu, phải ươm nhân, tạo mầm và chăm nuôi từ trứng bé. Dẫu biết giống vịt trời nuôi lớn sẽ bay đi, nhưng vẫn còn cái bóng... và rồi cái bóng cũng không còn mà chỉ còn cái bóng trong tâm.  Đạo Phật là cái đọng lại trong hồn khi không còn cái bóng... Hì, hì! Ngộ thật!
Người khách lạ lầm lũi bước ra cửa chẳng chào ai. Nhưng bất ngờ ông ta quay phắt lại nhăn mặt nhìn nhà sư, nói giọng chua chát:
- Thưa sư ông, tôi mất công đội đàng than dạ đi tìm thầy học Đạo mà công uổng danh hư. Gặp thầy không nghe nói chuyện từ bi trí tuệ gì cả mà toàn là những chuyện nhảm nhí chả đâu vào đâu. Thử hỏi thầy, thầy để Đạo của thầy ở đâu mà không nói cho ai biết vậy?
Thầy Tiều lại cười rung cả đôi vai. Thầy làm bộ tìm quanh không thấy rồi lắc đầu hỏi lại người khách:
- Không thấy. Không thấy Đạo đâu cả. Cái Đạo mà quý hữu đang tìm nó giống cái gì mà lại lôi kéo quý hữu mạnh đến như thế? Quý hữu có thể cho tôi biết rõ Đạo như thế nào, rồi biết đâu tôi cũng có thể giúp quý hữu một tay để tìm ra nó?
Người khách vẫn còn cái giọng giận dữ, nói gằn từng tiếng lúc đầu, rồi thao thao về sau. Ông ta nói như đọc thuộc lòng Tam quy, Ngũ giới, Tứ diệu đế, Bát chánh đạo... rồi Tánh không, Duyên khởi mỗi lúc một hăng. Cuối cùng, có lẽ vì sợ hụt hơi, ông ta tạm ngưng lại, rồi thở phào và kết luận một cách đầy kiêu hãnh:
- Đó, thầy nghe không? Đấy mới đúng là Chánh Đạo!
Thầy Tiều vỗ tay:
- Hay lắm. Hay lắm! Nhưng quý hữu vừa đọc cái gì mà nhiều thế?!
Người khách nói như gắt:
- Thì kinh chứ gì nữa. Tôi vừa nói về Đạo mà. Ối thiên địa quỷ thần ơi, tôi nói Đạo đến dàng trời như thế mà thầy còn hỏi là tôi nói gì thì không biết thầy còn tỉnh táo hay không? Bây giờ đến lượt thầy nói về Đạo đi nha!
- Đạo gì?
- Thì đạo Phật của thầy chứ có đạo gì vào đây nữa.
- Hình như quý hữu đã nói hết rồi. Mà thật tình thì tôi có đạo gì đâu để mà kể!
Người khách cười mũi, vẻ bực bội:
- Thầy nói như chuyện đùa. Đầu tròn áo vuông thế kia mà lại nói không theo đạo nào là nghĩa làm sao?
Thầy Tiều vẫn không dứt cái giọng vui đùa:
- Ý tôi nói là cái đạo Phật theo cách suy nghĩ của quý hữu đó mà.
- Đạo Phật trong tôi không giống đạo Phật của thầy. Cũng được. Nhưng người đi tu như thầy mà nói về Đạo sẽ hay ho và cao siêu hơn kẻ phàm phu như tôi nhiều. Sao thầy không thuyết pháp cho người ta nghe với?
Trầm giọng, thầy Tiều nói với người khách:
- Đạo là con đường để đi, không phải là chuyện trầu cau, trà nước để nói cho nhiều quý hữu ạ.
Người khách tỏ vẻ không bằng lòng:
- Đạo Phật nằm trong tam tạng kinh điển, đạo Chúa nằm trong kinh thánh, đạo Nho nằm trong tứ thư ngũ kinh... chứ có đạo nào nằm giữa đường, giữa sá đâu mà thầy nói vậy. Muốn hiểu đạo hay muốn biết lối nào mà đi thì phải có người giảng đạo hay chỉ đường vạch lối chứ đâu có vớ vẩn kiếm đạo ngoài đường được, thưa thầy.
Thầy Tiều vẫn vui vẻ:
- Nói đạo, cầu đạo mà không hành đạo thì chẳng bao giờ thấy đạo. 
Khách đắn đo một chút rồi hỏi:
- Xin mạo muội hỏi thầy là thầy đang tu với ước mong sẽ đạt thành quả vị gì sau nầy?
Thầy Tiều cười:
- Thành gì cũng được! Miễn là cầm chắc mình đang làm việc tốt. Gieo nhân lành thì gặt quả tốt thôi.
- Vậy thì đi tu để làm gì?
- Để tìm cách giải phóng cho mình khỏi bị sự cột trói của chính mình và của người khác.
- Thầy nói nghe thật lạ tai. Tu theo Phật là phải buộc mình trong giới luật của nhà Phật chứ làm gì có chuyện "giải phóng" tự do theo ý mình muốn?
- Đạo của Phật và giới luật của nhà Phật là cái phao để mình nương theo đó cho khỏi chìm trong khi ráng sức bơi qua bờ bên kia. Đến bờ mình mong muốn rồi thì nghiêng mình cảm tạ và buông phao để đi tự do trên bờ bến mới chứ chẳng lẽ cứ ôm phao hoài như thế!
- Nói thì dễ nhưng biết bao giờ mới bơi được qua sông?
- Càng buông hết càng nhẹ, càng thảnh thơi thì càng bơi nhanh hơn. Vừa bơi vừa bị vướng, vừa cố quay lại níu kéo vô số vật trên bờ bến cũ thì có khi hết một đời chưa rời bến được, nói chi đến việc qua được bờ bên kia.
- Bờ bên kia có phải là cõi Phật không?
- Tôi thấy bờ bên kia nhưng chưa qua thì làm sao tôi biết được. 
Ông khách lắc đầu:
- Đang mang kiếp làm người mà cất công đi tu để mong "thành gì cũng được" là tu lỗ vốn. Tôi tình thật hỏi thầy là quả thật thầy không muốn thành Phật hay sao?
- Tại sao tôi đang là tôi như thế nầy lại phải tìm mọi cách để biến mình thành một người khác. Tôi là tôi, Phật là Phật. Vì cớ gì tôi phải xóa bỏ chính tôi để lo tu cho thành Phật?
- Vì Phật là đấng giác ngộ.
- Giác ngộ là gì?
- Là thành Phật.
- Bằng cách nào?
- Tu.
- Làm sao tu?
- Đến chùa và ăn chay niệm Phật để cầu Phật.
- Đức Phật trong ý nghĩ của quý hữu đã nhập Niết bàn cách đây hơn hai nghìn mấy trăm năm rồi. Đi tìm Phật ở chùa sẽ không bao giờ gặp đâu. Chùa không có Phật.
Cao giọng bất bình, ông khách hỏi lại:
- Chùa là nơi để thờ Phật mà sao lại không có Phật?
Vẫn thản nhiên, nhà sư trả lời:
- Đúng. Chùa chỉ là một ngôi nhà để thờ tượng Phật. Thờ có nghĩa là vọng Phật hay hướng Phật chứ không phải là nuôi Phật. Nên đó chẳng phải là nơi có Phật.
- Vậy Phật ở đâu?
- Phật không phải là ông thần ban phước hay giáng họa từ trên trời hiện xuống. Phật không phải là một đấng thần linh dắt ta đến chốn Niết bàn. Ta ở trong Phật. Phật ở trong ta. Mỗi ta đều có Phật và mỗi Phật đều có ta. Câu nói khẳng định đầu tiên của đức Phật tương lai với cuộc đời là: “Thiên thượng, thiên hạ, duy ngã độc tôn!” Trên trời, dưới đất chỉ có ta làm chủ chính ta. Khi tự mình tìm thấy được tính Phật trong chính mình là thành Phật.
- Thế còn pháp khí và chư tăng ni thì sao?
- Tất cả đều là những phương tiện tốt hơn để đi tìm tính Phật. 
- Thầy nói vậy thì chả lẽ chẳng có ai dắt dẫn mình đến cõi Phật hay sao?
- Cõi Phật ở ngay trong lòng quý hữu. Vậy nên ngoài quý hữu ra, không ai đủ sức làm cho cái tính Phật trong quý hữu hiển lộ. Ai cũng có thể thành Phật trong chính mình, chứ không ai thành Phật trong người khác hay phải biến thành người khác mới thành Phật cả.
- Phải bắt đầu từ đâu để có thể làm cho tánh Phật trong ta hiển lộ?
- Quét những lớp bụi mờ mỗi ngày trong kiếp sống hiện tiền và tích lũy từ bao kiếp trước. Quét mỗi khắc, quét mỗi canh, quét mỗi ngày không bao giờ ngưng nghỉ. Coi chừng lá rụng nhiều hơn lá quét và bụi bám dày hơn bụi lau. Quét dọn siêng năng không bằng ngưng xả rác.
- Phủi bụi hay tu?
- Tu là phủi bụi!
- Tu bụi?
- Vâng, có lẽ phải thế thôi. Tu bụi trước đã, tu đạo sau. Không tu bụi thì làm sao lau sạch được bụi để sáng mắt, thấy đường mà đi.
- Làm sao để lau bụi bên trong, bụi trong định kiến và tâm hồn?
- Là im lặng, định tâm để nhìn sâu, nhìn thẳng vào trong chính mình. Chỉ có ánh sáng mới xua được bóng tối. Chỉ có trí tuệ mới xua được vô minh. Vô minh chính là lớp bụi trong ta. Càng nói, càng phân tích lý luận, càng không hiểu.  Bụi trần gian khó chùi sạch nhất là bụi đóng trong đầu mình. 
Sau câu nói đó, thầy Tiều im lặng trong khi ông khách vẫn nhấp nhổm ngồi không yên.
Ông khách vẫn còn ấm ức và muốn thách thức với thầy Tiều và tất cả các người đang lui tới trong chùa. Ông khách xuất thân là một nhà tu cởi áo hoàn tục. Với kiến thức sẵn có mà ông ta được học bao năm ở nhà chùa, cộng thêm với nỗ lực dùi mài đọc sách, ông hết sức tự hào với cái kho kinh điển trong đầu mình. Không ai xua đuổi ông ta ra khỏi chùa. Chính sự mê mờ không muốn tu để giải thoát mà chỉ muốn tu như một lối đầu tư lời nhiều lỗ ít đã làm ông ta mất kiên nhẫn, sớm chán nản với nếp sống tu hành kham nhẫn đã đưa ông khách xa dần với đời tu sĩ. Thêm vào đó, lòng kiêu căng, ngã mạn không muốn thua ai, đã lôi kéo ông khách ra nhảy múa giữa đời nên chiếc chìa khóa tâm linh của ông để mở cổng chùa cũng mất. Không vào lại được cửa nhà chùa, ông ta đâm ra hận đời, hận mình, hận người. Ông ta quyết trả thù đời bằng cách chu du đến nhiều nơi có chùa chiền, tu viện để thách đố, đấu lý với các nhà sư.  Ông ta muốn xem vì cớ gì mà ông ta không ở lại chùa được, trong khi những người cùng tuổi với ông vẫn còn đang tu học thuần thành và nghiêm cẩn. Sự cố chấp và lòng ganh tỵ đã làm cho ông khách xem chốn chùa chiền là một đấu trường của hý luận hơn là một môi trường tu hành.
Quay về phía người khách và những người đang im lặng chăm chú theo dõi cuộc đối thọai, thầy Tiều mời mọi người tham gia ngồi tĩnh tâm như thường lệ.
Thầy Tiều sửa lại chiếc áo nà sư mầu vàng đất cho ngay ngắn, thắp nhang lên lư hương. Thầy nhẹ nhàng ngồi xuống xếp bàn ngay ngắn đối diện với khách rồi đưa tay đĩnh đạc đánh 3 tiếng chuông. Ba tiếng chuông nối nhau ngân dài. Dư âm rung động nhỏ dần và ngấm vào không gian, vào vật thể và vào lòng người một cách rất nhẹ mà sâu. Khuôn mặt thanh thản của nhà sư như tắm trong nguồn an lạc.  Miệng cười và đôi mắt sáng ngước nhìn tất cả mọi người rồi từ từ khép nhỏ lại nhưng không nhắm hẳn. Người khách nhổm người trong tư thế sẵn sàng  lắng nghe lời nói của nhà sư nhưng trên nét môi cười của nhà sư chỉ còn sự im lặng.
Những người khác dường như đã quen thuộc với bầu không khí tĩnh tâm lắng đọng nầy nên họ từ từ lẳng lặng ngồi xếp bàn, mắt nhắm lại, hay nhìn về vẻ mặt và dáng ngồi an nhiên tự tại của thầy Tiều. Người khách lên tiếng đằng hắng giọng mấy lần như để nhắc nhà sư phải nói lên điều gì nhưng tiếng động chẳng làm ai chú ý và gây ra một cảm giác so le, thô thiển. Ông khách chỉ muốn bật ra lời thách thức để xem nhà sư có thuộc nhiều lý thuyết và kinh kệ nhà Phật như ông ta không.
Đợi mãi. Chỉ có sự im lặng kéo dài mà tiếng muỗi bay vo ve cũng rõ ràng nghe được. Một sự chấn động gần như bùng vỡ và một cảm giác sôi bỏng lôi ông khách đứng dậy và tiến về phía nhà sư.
Ông khách nghiến răng và chỉ muốn buông lời thóa mạ nhà sư sao lại "hèn nhát" không dám công nhiên lớn lối đấu lý, thi tài với ông ta.  Đúng khi ông khách lên đến đỉnh điểm của sự đôi co đang nung nấu lòng ông ta thì nhà sư mở mắt và mỉm cười. Đôi mắt đầy thiện cảm và nhân ái đi theo nụ cười mát dượi của thầy Tiều làm cho ông khách bối rối. Ông cố bặm miệng, thở dốc và đóng kín cửa giao tình để chống lại sự cám dỗ chinh phục, nhưng toàn thân nhà sư như toát ra một hơi ấm vô hình mà chan hoà hiền dịu làm cho ông khách bỗng đâm ra sợ hãi chính mình. Sợ hãi gã "tôi" hung hãn đang run rẩy trên đà tung mình vào cuộc chiến đấu. Lực đối cản với "gã tôi" lúc nầy lại là một khoảng không im lìm và xa vắng. Những mũi tên hằn học không hình tướng của người khách bắn ra bay vút vào một nơi nào không có điểm tựa nên trôi đi và mất dạng. Nụ cười của nhà sư như đóa hoa đã nở, không hề biết khép lại trước luồng giông bão làm cho mũi tên của người khách mất tiêu điểm. Thù hận bắn vào thương yêu cũng như người xạ thủ đứng bắn mặt trời. Tên lạc phương nào nhưng ánh nắng vẫn chan hòa không cạn bớt. Cái tôi nhỏ bé đầy thù hận của ông khách như tảng băng tan từng miếng dưới hơi ấm mặt trời. Trong một thoáng bất ngờ nhất, ông khách cảm thấy như có một vật rơi nặng nề đang vật vã nằm xuống trong mình. Ông cảm thấy nổi tức giận dịu lại. Ngọn núi thách đố thấp dần cho đến khi trải ra trên cánh đồng xanh mướt êm ả như nhung.  Cánh đồng tâm thức mở ra đón luồng gió mới. Sự an hòa trở lại.  Người khách từ từ ngồi xuống. Có một nụ cười về muộn trên môi...
Giờ khắc trôi qua với từng đợt cảm xúc dồn dập, chậm dần rồi ngưng tụ. Cảm giác bứt  rứt như đám cỏ tranh khô nằm rạp xuống cho ngọn gió chiều thổi êm nhẹ như nhung. Sự im lặng là một giấc ngủ ngày êm ả. Cho đến khi ba tiếng chuông thong thả gióng lên báo hiệu giờ tĩnh tâm đã hết. Sự lắng đọng kéo dài không muốn động. Người khách có cảm tưởng như chưa bao giờ có ai đó đã từng nói với mình nhiều bằng sự im lặng vừa qua. Ông khách cười vu vơ với đám lá bên ngoài khung cửa sổ. Đã lâu lắm mới có được một nụ cười trên môi người đầy sân hận.
Sáng hôm sau như thường lệ, khi tiếng gà gáy sáng đầu tiên vừa cất lên, thầy Tiều đã thức dậy mở cửa ra sân để luyện nội nhiệt.
Thầy Tiều đã trải qua một thời kỳ khá dài tu học trong các vùng giá lạnh nhất của xứ Tây Tạng. Cái lạnh miền băng tuyết đủ làm cho luồng hơi nước vừa thở ra khỏi miệng đông thành bụi đá thế mà các đại lão thiền sư Tây Tạng vẫn quanh năm thay đổi trên mình lớp y vàng mỏng manh. Nội nhiệt hay nội hỏa (Tumo) là một trong sáu phép tu Na-rô-pa (nãropa) được gọi là Na-rô Lục Pháp tại Tây Tạng. Đây là phép tu căn bản nhập môn để các hành giả có thể tự nâng thân nhiệt cao tới mức sôi bỏng, chống lại cái lạnh ghê người của vùng núi xứ tuyết. Nhưng riêng với thiền sư Đạt Lai Đề Văn, là bổn sư của thầy Tiều, thì cái nóng, cái lạnh là bản chất tự nhiên của thiên nhiên. Con người cũng chỉ là một sinh vật thiên nhiên nên muốn sống còn phải tự luyện mình để có thể quen với cái lạnh, sống cùng với cái lạnh chứ không phải đương đầu chống với cái lạnh, vì sức chống càng mạnh thì lực trả càng cao.  Phép Quán Thiên Thiền Định là ngắm nhìn vận trình thiên nhiên và trật tự của thiên nhiên để trầm tư luyện hơi thở, quan sát các trung khu và nội huyệt của chính thân tâm mình và tập trung vào linh ảnh của các âm ngữ như “Om”, “Hum”, “Ram” để cho cái Tôi của mình nương theo cái Chúng; cho cái Tiểu Ngã hoà vào Đại Ngã mà hành trì tu chứng.
Cửa vừa hé mở đã thấy một bóng người lù lù ngồi ngay trước hiên nhà. Nhìn kỹ, hóa ra là người khách hôm qua. Thầy Tiều lên tiếng hỏi trước:
- Ủa! Quý hữu chưa về? Sao quý hữu không vào trong mà ngồi ngoài này cho lạnh?
Với giọng chậm rãi còn ngái ngủ, người khách trả lời:
- Tôi đã lên đò dọc đi được hai bến sông rồi, nhưng phải quyết định quay về vì một chuyện mà có lẽ nói ra thầy sẽ cười vì cho là quá nhỏ. Thế nhưng đối với tôi lại quá lớn.
Thầy Tiều lại cười, tiếng cười buổi sáng thật trong:
- Quý hữu tóm được con voi mà tôi lại biến voi thành chuột sao?
- Có lẽ gần gần như vậy thầy ạ.
Thầy Tiều không vội trả lời khách mà hít một hơi thật sâu rồi thở ra nhè nhẹ và mời khách:
- Mời quý hữu vào trong uống trà cho ấm đã.
Bên khay trà phảng phất hương sen, trong không khí ấm áp, hai người cảm thấy gần nhau hơn. Thầy Tiều nhìn dáng vẻ mệt mỏi của người khách lạ và đưa tay mời:
- Mời quý hữu dùng trà!
Người khách nắm hai tay để lên ngực:
- Thưa thầy, xin thầy gọi tôi là Tâm An. Đây là pháp danh mà vị bổn sư đầu tiên của tôi đã đặt năm tôi mười tuổi, ngày mới phát tâm xuất gia.
Thầy Tiều nhắc lại câu chuyện đang còn bỏ lửng:
- Hồi nãy, đạo hữu Tâm An đề cập đến chuyện to to, nhỏ nhỏ gì đó.  Có phải ý đạo hữu muốn nói về tướng voi to hơn chuột, nhưng tánh chuột cũng như voi, phải không?
Người khách lộ vẻ cảm động khi được người đối diện thay đổi cách xưng hô từ "quý hữu" đầy vẻ lễ nghi sang cách xưng hô "đạo hữu" và gọi tên thân mật.  Ông ta tiếp lời:
- Tánh và tướng, thật tình tôi chưa nghĩ xa đến vậy. Thế mà suốt đêm qua đã không ngủ được rồi chỉ vì tôi cứ trằn trọc hoài về ý nghĩa chữ "Tu Bụi" mà thầy dùng. Nó mang một vẻ gì đó vừa bình dân, vừa sù sì, vừa sắc nhọn; nhưng cũng rất gợi hình, thực tế và đầy cảm khái khi tôi hỏi "phủi bụi hay tu?", thầy đã đáp lại "tu là phủi bụi hay tu bụi cũng thế thôi!"  Trong đời, tôi chỉ thấy người ta dán màu, tô vẽ, sơn son thếp vàng cho cái tu. Cái tu được đánh bóng đến mức trơn lu, mòn nhẵn các góc cạnh làm cho cái tu cũng chìm lĩm và mù mờ bên cạnh cái làm, cái ăn, cái ngủ, cái chơi. Nào là tu hành, tu dưỡng, tu đạo, tu trì, tu thân, tu tâm, tu nhân, tu tiên, tu thánh... nhưng chưa hề nghe ai nói đến "tu bụi" bao giờ!
- Hì, hì! Con voi của đạo hữu ỷ lớn ăn hiếp con chuột nhỏ nhoi của tôi sao. Cái tướng to dềnh dàng bên ngoài của con voi đang che khuất cái tánh nằm sâu trong con chuột rồi đó. Đạo hữu có tên là Tâm An, nhưng tâm đạo hữu có an hay loạn lại là chuyện khác. Tên gọi chưa phải là cái được gọi nên chấp nhặt cái tên làm gì. Như khi người ta dùng danh xưng: Cha, bố, bọ, tía, thầy... để chỉ một người đàn ông sinh thành ra đứa con thì tên gọi chỉ là quy ước tạm thời trong một khung cảnh tùy duyên nào đó mà thôi.
- Thế thì người ta đành phải im lặng thôi sao. Tên gọi chẳng phải là vật được gọi thì dùng chữ nghĩa và lời nói làm gì cho phiền hà đã chứ?!
- Bởi vậy mà ông thầy Bồ Đề Đạt Ma từ xứ Ấn Độ xa xôi, mới chân ướt chân ráo qua Tàu thời Lương Vũ Đế, đi đâu cũng thấy kinh sách, chùa chiền, cờ quạt nói chuyện Phật thánh tràn ngập. Thế mà nói chuyện đạo với Vua thì vua thiếu căn cơ; nói với tăng thì tăng quá câu chấp. Nên kinh quá, ngài Đạt Ma mới về Thiếu Lâm Tự, chẳng nói chẳng rằng ngồi nhìn bức tường đá vô tri tới chín năm.  Chín năm thiền định mà vẫn sợ lời nói, chữ nghĩa chạy theo thêm rối trí nên thầy Đạt Ma phải dặn dò rằng: "Nè, khỏi viết lách ghi chép thư từ sách vở lôi thôi. Hãy nói chuyện Đạo bằng tấm lòng riêng chân thật của mình. Hễ khi nào thấy được con người thật đang ẩn mặt nằm sâu trong chính mình, ấy là lúc thành Phật đó nhé!" Hi, hi!
Tiếng cười vô tư của thầy Tiều khỏe khoắn như trẻ thơ. 
Tâm An tiếp lời:
- Có phải thầy đang nói tới tâm ấn của đức Phật trên cánh hoa sen với nụ cười Ca Diếp trong Hội Liên Hoa hay thầy nhắc tới lời Đạt Ma Tổ Sư khi ngài nói: "Bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền, trực chỉ chân tâm, kiến tánh thành Phật" không?
Thầy Tiều nhắm mắt cười khúc khích:
- Đạo hữu ơi là đạo hữu. Ngài sính sách vở chữ nghĩa tới nước nầy thì làm sao mà qua được bến đò!
Tâm An ngạc nhiên, hỏi:
- Bến đò nào?
- Bến đò tới xứ chân tâm không cần lời, cần chữ đó mà.
- Thế thì phải làm gì?
- Làm gì cũng được miễn là làm bằng một tấm lòng.
- Tu chăng?
- Cũng hay thôi. Nếu tu là sửa. Sửa tâm cho bình thản, sửa trí cho sáng suốt, sửa thân cho an lành. Chẳng có gì xa vời hay bí hiểm cả.
Người khách có tên Tâm An ngồi tư lự rất lâu bên tách trà đã nguội, trong khi thầy Tiều luôn tay làm những công việc hàng ngày. Tâm An lên tiếng:
- Thú thật với thầy, xin thầy bỏ lỗi nếu tôi nói điều nầy có hơi quá đáng. Tôi có cảm tưởng như thầy mang một tâm tính đơn giản và nhẹ nhàng của trẻ thơ. Thầy rất nhạy cảm nhưng mọi việc trôi qua trước mắt thầy đều tan đi rất mau và chẳng còn lại dấu vết gì trong lòng thầy cả.
- Nếu vậy thì theo đạo hữu Tâm An, tôi là người khổ sở hay sung sướng?
- Dĩ nhiên là sung sướng.
- Sao đạo hữu không phải là tôi mà lại biết tôi sung sướng?
- Thắc mắc kiểu Trang Tử và tâm trạng sung sướng của bầy cá ngày xưa là chỉ bằng nhắm mắt lý luận mà thiếu quan sát. Thân và tâm là dòng suối phản chiếu lẫn nhau.
- Chỉ mong như thế.
Trong một phút không ai chờ đợi, kể cả thầy Tiều, lời thỉnh cầu của người khách tên Tâm An bày tỏ thật đột ngột:
- Xin thầy cho tôi ở lại đây để làm thị giả cho thầy được không?
Sự quyết định của Thầy Tiều cũng đột ngột không kém:
- Được. Nhưng tôi không cần thị giả. Tôi tự lo cho tôi mọi việc được rồi. Đạo hữu muốn ở lại đây bao lâu hay muốn đi lúc nào cũng được. Chỉ xin nói thẳng một điều là nơi đây "bất tác, bất thực" -không làm, không ăn. Tôi cũng như đạo hữu, đều phải tự mình canh tác, lo lấy miếng ăn.
- Vậy thầy không nhận sự cúng dường nào từ phía thiện nam tín nữ cả hay sao?
- Không. Tôi đang tu cho tôi, tại sao lại còn phải đi vay nợ của người khác. Càng vay càng khó trả. Tu là cầu thoát nợ mà còn vay nợ thì làm sao tu?
- Nếu thầy cho tôi ở lại đây tôi sẽ xin cúng dường một khoản kim ngân rất lớn. Tùy thầy muốn tùy nghi sử dụng vào việc xây chùa, đúc chuông, dựng tượng hay tổ chức thành lập và nuôi dưỡng tăng đoàn càng tốt.
Thầy Tiều quyết định đơn giản:
- Đạo hữu về đây, chỉ xin nhớ cho một một điều rằng, hôm qua là quá khứ, ngày mai là tương lai. Những gì "đã" và "sẽ" ở xa, nhớ để mà quên đi cho nhẹ người. Hiện tại chúng ta đang sống. Cuộc sống vốn vô thường, nhưng phải xem cái vô thường là cái bình thường.  Như chết là hình ảnh của vô thường nhưng lại là sự bình thường vì ai cũng phải chết. Hiện tại chính là gương soi của quá khứ và viễn cảnh của tương lai. Xin đừng lấy gì từ quá khứ làm khuấy động hiện tại và cũng đừng chỉ biết dán mắt vào ngày mai mà quên mất hôm nay. Tu là sống đời ngay thẳng trong tỉnh thức. Sống ngay thẳng trong tỉnh thức, ấy là tu. Tu trong giây phút hiện tiền này đây hay sẽ chẳng bao giờ...
Tâm An đăm đăm nhìn ánh sáng ban mai vừa lên nắng hàng tre phương Đông, rồi lầm thầm tự hỏi: "Tuổi nhỏ xuất gia bất thành. Vào đời làm đại thương gia đã thành công rực rỡ. Tay chân và tâm hồn đã ngập tràn trong bạc tiền vật chất. Tuổi già phủi tay xuất gia lần nữa, tự tay cuốc đất tạo lấy miếng ăn, không biết có thành hay không?!"
Tiếng thầy Tiều càng vui như nắng:
- Lại đang bỏ phí nắng vàng của hiện tại để đi lan man vào quá khứ hay tương lai đó phải không? Nói mau!
Tâm An bỗng cảm thấy mình nhỏ lại với cảm giác đứa bé ăn vụng bị bắt gặp, liền thú thật trong nỗi vui của một ngày mới:
- Cả hai thầy ạ.
Đưa một bàn tay lên, thầy Tiều nhịp đều như đang vỗ với một bàn tay khác trong tưởng tượng:
- Vỗ với quá khứ nghe buồn vì ngày qua đã mất; vỗ với tương lai bỗng nhạt vì hoài niệm trống không; vỗ với hiện tại nghe tiếng vọng của trái tim mình và tiếng đập của đôi cánh bướm.
- Thầy đang làm thơ?
- Không! Đang nghe tiếng vỗ của một bàn tay đó chứ!
CHƯƠNG MƯỜI MỘT
Bốn Người Bạn Đồng Hành 
Những trận mưa đầu mùa trút xuống. Cây cối rũ rượi, vật vã trong mưa to gió lớn. Sông núi, thiên nhiên, thành quách, lâu đài, nhà cửa, đường sá đẫm mình trong nước mưa. Cùng với tiếng kêu ếch nhái râm ran trong bóng đêm, sự chuyển mình răng rắc trong các tầng mái ngói của cái dinh cơ có đủ nhà lớn, nhà trung, nhà bé của dinh ông Hoàng đã có tuổi cần tu sửa cấp thời, làm mọi người ái ngại.
Từ khi người nông dân bỏ làng xóm ra đi, mấy trăm mẫu đất nhất đẳng điền của Thái Ấp rực rỡ mầu hoa, làm đẹp cho dân gian và đất trời nhưng chẳng thu được cho chủ nhân một món lợi nhỏ vật chất nào.  Kho lẫm trống trơn, lâu đài chứa tòan sách vở bút nghiên, chủ nhân phải đổ mồ hôi lo lấy miếng ăn ngày lại ngày không một tiếng than van mà bên ngoài chẳng ai hay biết. Danh ông Hoàng thường đi đôi với quyền uy và phú quý với vô số của nổi của chìm. Kẻ hầu người hạ đã rủ nhau đi biệt từ lâu. Phú quý chỉ còn là danh tiếng hảo và những tòa nhà đã già nua mục rửa không đủ khả năng sửa sang ngày càng xuống cấp. Cho đến mùa mưa năm nay thì nước mưa đã bắt đầu tự do tuôn vào ngôi nhà chính sau khi liên tiếp làm tình làm tội mấy ngôi nhà phụ khắp các phía đông tây, tả hữu. Cứ mỗi lần hai người di chuyển từ một gian mưa dột đến một chỗ khô ráo hơn, Phạm Xảo như già thêm mấy tuổi vì ưu tư; trong khi Trí Hải cũng có chút trầm tư nhưng thoáng qua rất nhanh.
Ngôi nhà cũ cũng như tuổi già. Tuổi thanh xuân thường nằm xuống chỉ vì một chứng bệnh hay một nguyên nhân, nhưng tuổi già nằm xuống thường là tổng hợp của bao nguyên nhân và nhiều chứng bệnh họp lại. Dinh ông Hoàng vốn được xây dựng theo kiểu trang hoàng. Kiến trúc không xây bằng gỗ quý, loại “thiết mộc” và vôi đá mà lại được dựng lên bằng loại gỗ trầm hương đẹp và thơm nhưng lại khá mong manh trước rìu búa của thời gian. Tuy chỉ mới quá tuổi heo may nhưng những mảnh nhà thi nhau sụt xuống và vữa ra. Mái và tường chỉ còn là tàn ô che nắng. Bữa ăn hàng ngày của ông Hoàng còn phải đổ mồ hôi mới kiếm ra. Nói chi đến việc tu sửa dinh cơ là điều không thể nào kham nổi.
Bản tính cùng thói quen bất chấp và không cần để ý đến vật chất, tiền bạc do hoàn cảnh ưu đãi tạo ra nơi ông Hoàng đã lấm tấm hơi cay. Cái vương giả, quý tộc phải có thế lực hay tiền tài vật chất làm bảo chứng. Nếu không, nó chỉ là một ngọn núi  tự nó vô tri và trơ trụi. Dẫu cho tâm có  bình thản và chí có vui cảnh an bần lạc đạo đến bao nhiêu đi nữa thì Trí Hải cũng phải dụi mắt nhìn thẳng vào thực trạng của ngôi nhà đang đổ nát mà chẳng có một đồng tu sửa. Im lặng là đồng tình với sự hủy diệt ngày lại ngày không thể nào tránh khỏi. Nhưng mở miệng để cầu xin hay kêu gọi giúp đỡ thì quả là điều ghê gớm mà giới ông Hoàng, bà Chúa không bao giờ làm nổi. Với giới hoàng thân quốc thích mà phải hạ mình cầu cạnh xin xỏ vật chất thì còn tệ hơn là bị tước bỏ danh vị hay bị lưu đày biệt xứ.
Sau bức tường thành cao chắn ngang tầm mắt vẫn nhận ánh sáng mặt trời mỗi ngày nằm chễm chệ trên đồi là tòa lâu đài dột nát. Kẻ bàng quang đứng bên ngoài vẫn không biết được những gì đang xảy ra bên trong. Mọi sự tiếp xúc với bên ngoài đều được Phạm Xảo xếp đặt tại trấn phong đình. Đây là ngôi nhà chắn gió mới xây về sau nằm sát bên ngoài cổng chính tương đối còn nguyên vẹn. Khách vãng lai muốn vào thăm dinh ông Hoàng đều bị khéo léo từ chối mà không nêu rõ lý do.
Với tinh thần võ tướng, thẳng băng và bộc trực một cách thực tế, Phạm Xảo lo lắng, quay quắt khi nhìn thấy dinh cơ ông Hoàng chỉ còn là một cái vỏ tiêu điều từ từ đổ xuống. Tinh thần có mạnh mẽ đến mức nào thì cũng khó mà chống đỡ sự tàn tạ của thế giới vật chất bằng hai bàn tay không. Phạm Xảo và Trí Hải như hai cực nóng lạnh của cuộc sống. Với phong thái quý tộc, trầm tĩnh, sâu kín có khi đến độ dửng dưng, Trí Hải như một cung điệu trầm, một cực lạnh bên cạnh bên cạnh một Phạm Xảo trung thành, xông xáo, nóng bỏng và xem dư luận như là một lọai thước đo của giá trị làm người. Phạm Xảo không thể nào chia sẻ được với cái lãng mạn truyền đời trong tinh thần kẻ sĩ là xem cái nghèo cũng là một đức hạnh - Đức hạnh của những hàn sĩ cổ điển thường xem "tiền tài như phấn thổ, nghĩa trọng tợ thiên kim!"
Phạm Xảo không biết phải gọi tên hay diễn dịch như thế nào về cách sống thản nhiên và thủ phận của Trí Hải. Không dám nói trắng ra vì lòng ngưỡng mộ Trí Hải bao năm qua vẫn còn ăn sâu trong tiềm thức. Nhưng Phạm Xảo tự hỏi rằng, đâu là bản lĩnh của một ông Hoàng vẫn thường xuyên thao thức với giấc mơ mở nước giúp đời. Đâu là tài năng quyền biến thật sự của người hiền sĩ quý tộc trước hoàn cảnh đổi thay. Trí Hải vẫn chí thú canh tác để tự nuôi sống mình như một người lao động vô danh. Dáng vẻ hăm hở mỗi sáng vác cuốc ra vườn, những giọt mồ hôi lòng đòng trên trán và nụ cười tươi mới, vô tư sau mỗi đợt lao động của Trí Hải làm Phạm Xảo nhăn mặt.
Không giữ mãi nỗi khó chịu một mình, Phạm Xảo đem suy nghĩ của mình nói với Trí Hải:
- Hoàng thân có dự tính trở thành người cuốc cày trồng trọt chuyên nghiệp không?
Trí Hải trả lời đơn giản:
- Đói thì ăn, khát thì uống, mệt thì thở, cần cái ăn cái sống thì phải làm việc chứ có gì quan trọng đâu mà phải dự tính lâu dài.
- Hoàng thân là dòng dõi hoàng tộc mà làm việc tay chân như một kẻ dân thường không sợ người ta chê cười hay sao?
- Ai chê cười vậy?
- Vua, quan và bá tánh đều cười.
 - Tại sao chê cười?
- Vì người ta cho rằng, Hoàng thân là kẻ bất tài mới phải hạ mình làm việc tay chân như thế?
- Đã có khi nào tôi tự xưng mình là kẻ có tài đâu mà phải sợ bị chê là bất tài!
- Nhưng làm việc tay chân kiếm ăn là công việc của người tầm thường, có khi là hèn mọn.
- Nếu không phải là người hèn mọn thì là người gì?
- Là người cao quý.
- Tại sao người sống bằng sức lao động của chính mình thì lại thuộc vào hàng hèn mọn và kẻ sống bằng sức lao động của người khác thì lại cho là cao quý?
- Vì xã hội đã cho như thế.
- Xã hội là ai vậy?
- Là con người.
- Thì tôi cũng là con người và bây giờ nếu tôi nói ngược lại thì sao?
- Thì Hoàng thân nghiễm nhiên tự đặt mình vào thế chống lại xã hội chứ sao!
- Nếu cần chống lại xã hội để bảo vệ lẽ phải thì cũng nên chống phải không huynh?
- Chống lại xã hội là một việc làm trời biển cũng như vác nạng chống trời, đấy là một việc làm đem muối bỏ biển sẽ không đến đâu cả.
- Không. Tôi nghĩ khác. Hễ có khởi thì có động, có đi thì có đến. Khi đủ sức thì chống "động" để cải tạo cái xã hội sai lầm ấy. Khi chưa đủ sức thì chống "tĩnh" để đừng đồng lõa với sự sai lầm của xã hội ấy.  Biết sai mà vẫn làm vì sợ người vốn đã sai - chê sai - thì mới thật là sai.
Phạm Xảo bật cười, kéo Trì Hải về với thực tế:
- Hoàng thân à, đúng hay sai chưa gấp bằng việc cứu hỏa. Tòa dinh cơ nầy đang bị đốt cháy vì lửa nghèo đây. Làm thế nào để có tiền cứu nó mới là điều cần bàn lúc nầy.
- Vạn lý Trường thành, đền Đế thiên Đế thích, những tháp Chàm, đền miếu quanh ta xây dựng kiên cố thế kia, nhưng rồi cũng theo thời gian mà đổ nát. Tất cả đều biến dịch theo cái vòng thành, trụ, hoại, không... có gì đáng ngạc nhiên hay thắc mắc đâu.
Phạm Xảo lắc đầu:
- E rằng, Hoàng thân lại đi quá xa nữa rồi. Tôi không có gì cao xa mà chỉ muốn nói những điều trước mắt. Đó là khi dinh cơ nầy hoàn toàn đổ nát thì không những vong linh các đấng thánh hiền, tiên liệt của tôn tộc sẽ không có một chỗ an vị để thờ mà ngay chúng ta nay mai cũng không có một mái nhà để ở. Chuyện trước mắt là cuộc sống ngày lại ngày. Hoàng thân đừng theo cụ Khổng Tử ngày xưa bàn toàn chuyện trị nước, bình thiên hạ xa vời, trong khi bản thân cụ không tìm ra một vùng đất để nương thân, không một minh chủ biết dùng mình.
- Thà không có chỗ nương thân vẫn còn hơn là xuôi tay vội vàng nương thân vào nơi bất xứng.
- Con nhà tướng chúng tôi thì nương thân đâu cũng được miễn là đừng hao binh tổn tướng và cuối cùng thắng được giặc.
- Phải chăng vì thế mà một trận chiến thường không đẹp như một bài thơ?
- Nhưng một trận chiến thắng lẫy lừng và một bài thơ tuyệt tác đều là tác phẩm quý giá muôn đời của nhân loại.
- Như vậy là huynh đã đồng ý rằng hình thức thăng trầm, tan hợp, tốt xấu... có hay không tùy hoàn cảnh. Hình tướng không quan trọng bằng chân tướng phải không?
- Vâng, hoàng thân. Đúng vậy! Trong hoàn cảnh hiện tại của chúng ta, chân tướng bây giờ là ngọn lửa nghèo đang bén gió bùng lên đó.
- Cám ơn huynh đã lo lắng. Vì rất quan tâm về ngọn lửa nghèo đang thiêu hủy dần tòa nhà đã quá cổ xưa nầy nên tôi không làm gì cả để cứu nó. Vì như huynh biết rõ, tôi chỉ cần ngỏ lời với các đại thần đầu triều mà tôi đã cất nhắc họ hay với các đại gia cự phú trong hoàng tộc thì tòa nhà nầy sẽ được dễ dàng xây lại mười phần to đẹp hơn xưa. Nhưng một tòa lâu đài mới dựng lên cũng sẽ có ngọn lửa giàu sang thiêu hủy dần theo cách ngược lại. Tôi im lặng để cố từng giờ, từng khắc dập tắt cả hai ngọn lửa... sẵn sàng thiêu hủy đời mình.  Đó là ngọn lửa nghèo và ngọn lửa giàu sang!
Phạm Xảo lại gần, nắm bàn tay của Trí Hải, định nói một lời nào đó, nhưng tiếng cười của thầy Tiều và Tâm An từ ngoài cổng đi vào đã cắt đứt dòng đối thọai giữa hai người. Tâm An lên tiếng:
- Hì hì! Ối giời ơi! Chính vậy. Chính vậy!
- Chính vậy cái gì?
Phạm Xảo hỏi dồn. Tâm An giải thích:
- Đệ không đến nổi độn căn nên vừa nghe hai vị nói đến lửa giàu, lửa nghèo là hiểu liền. Đệ liên tưởng ngay đến khi dập tắt được cả hai ngọn lửa tham của giàu, ngọn lửa khổ của nghèo thì mới kiếm được củi để nhen được lửa từ bi trong bếp.
- Này Tâm An, sáng sớm muốn vận động cho giãn gân cốt hay sao mà chạy lòng vòng dữ vậy? Muốn nhen lửa nào thì cứ việc nhóm lửa đó chứ cần gì phải dập tắt, hý luận lung tung như vậy đã chứ.
Tâm An lắc đầu phản đối lời Phạm Xảo:
- Hề, đại huynh. Đừng đùa với lửa chớ! Lửa giàu lửa nghèo của huynh là lửa tâm; lửa bếp của đệ là lửa tướng. Nhóm lửa tướng mà chưa tắt lửa tâm là sẽ dẫn đến cảnh: "Trống Tràng Thành lung lay bóng nguyệt. Khói Cam Tuyền mờ mịt thức mây..." cho mà coi. Hề hề!
Tâm An là người trẻ nhất trong nhóm và cũng là người thường mang lại nụ cười cho cả nhóm. Vốn đã từng quen với lối sống kinh doanh đầy tiểu xảo và sôi động đời thường, Tâm An vừa thực tế vừa mơ mộng. Cái thực tế chưa bị thui chột và cái mơ mộng chưa đến nỗi hoang tưởng làm cho người ta đứng vững giữa cõi người đáng yêu.  Con người đáng yêu vì không phải quỷ mà cũng chẳng phải là thánh. Và cuộc sống cũng đáng yêu chỉ vì con người chưa hóa đá để xác định mình là ai và tự cho mình được lựa chọn giữa đường sang xứ quỷ và lối về đất thánh.
Vẫn với cái giọng dí dỏm và lối nói ví von gợi cảm, Tâm An nói tiếp:
- Thì chính thái tử Tất Đạt Đa dập tắt ngọn lửa giàu sang để  trốn khỏi hoàng cung mới có tu sĩ Cồ Đàm. Và tu sĩ Cồ Đàm dập tắt ngọn lửa nghèo khi kiệt sức bên bờ sông Ni Liên Thuyền để nhận bát sữa của nàng Tu Xà Đa sau sáu năm khổ hạnh mới có đức Phật Thích Ca...
Phạm Xảo nhìn Tâm An và hỏi
- Còn Tâm An thì dập tắt được lửa gì?
- Kẻ tiểu sinh tài hèn sức mọn này cũng vừa dập tắt được hai ngọn lửa sinh tử cặp kè của trần gian ta đó. Hai ngọn lửa mà thiếu chúng thì chẳng những không tu hành gì được ráo trọi mà có khi hết sống nổi nữa là khác. Xin thưa, đó là lửa nấu nước trà và lửa... nấu cơm!
Những giọng cười vui mở lối ra đồng.
Căn nhà cổ của thầy Tiều và Tâm An đang trú ngụ không có đất trồng trọt. Trí Hải sẵn lòng mời thầy Tiều và Tâm An sang canh tác mấy sào đất vườn màu mỡ và kín đáo bên trong nội thành của phủ ông Hoàng.
Bốn người trở thành bạn hữu. Chính cuộc sống đơn giản và đạm bạc đưa họ đến gần nhau. Một tướng quân đã từng xông pha trận mạc như Phạm Xảo. Một ông hoàng thông thái từng sống ở phương Tây như Trí Hải. Một nhà tu đã từng tu tập ở núi rừng Tây Tạng như Thầy Tiều. Một chú tiểu tu không thành mà thành nhà đại phú giao thương từ Tàu đến Nhật như Tâm An. Họ cùng gặp nhau ở một điểm:  Đem vô thường về với bình thường và đi tìm một cái chung từ những cái riêng của cá tính khác biệt.
Nhờ đất đai màu mỡ và nhu cầu ăn uống chẳng là bao nên việc canh tác chẳng chiếm nhiều thì giờ. Cả bốn người thường rủ nhau vào rừng đốn củi, đốt than, hái trà mọc hoang trên núi và theo thầy Tiều ngồi tĩnh tọa định tâm.
Khi tâm đã định, sự xôn xao của đời thường không có đất nẩy mầm, đâm nhánh. Ta cảm thấy ta gần gũi với ta hơn. Mình hiểu mình hơn và trở về làm bạn với chính mình. Cảm giác an bình tự tại có ngay nơi mình mà chẳng phải tìm kiếm đâu xa. Mình có mình là bạn của mình nên cái nhu cầu tranh đua và so sánh với một đối tượng ngoài mình không có lý do phát triển. Ta là người mà người cũng là ta. Bởi thế, nhóm bốn người tìm về nhau bằng tâm cảm. Nhiều lúc không ai nói với ai một lời nhưng họ cảm thấy gần nhau hơn. Cái tâm phẳng lặng cũng như mặt biển bao la không gợn sóng. Người ta thấy được cả con chuồn chuồn và đàn muỗi mắt vờn nhau trên biển cả. Người ta nghe được cả tiếng sóng gọi dã tràng lúc đêm khuya. Trong trạng thái an hòa, lòng người trải rộng đến vô biên, nên lặng lẽ gặp nhau một cách tự nhiên mà không cần tìm kiếm.   
Ngồi yên im lặng hay tĩnh tọa định tâm đối với thầy Tiều và ba người bạn là một món ăn "bữa lỡ" tinh thần sau những giờ làm việc. Theo thầy Tiều thì trí óc cũng như bắp thịt, cần phải có sự nghỉ ngơi. Bắp thịt không vận động thì nghỉ, nhưng suy tưởng là cả một dòng tồn tục lưu truyền không dễ gì chận lại theo ý muốn. Điều khiển trí óc không đơn giản như điều khiển chân tay. Chân tay không thể tách rời thân thể để phiêu lưu ngoài tầm tay với, chân duỗi. Nhưng tư tưởng thì tha hồ phiêu du tận đến ngoài vũ trụ; có khi đến cả cõi phi thời gian vô tưởng xứ. Có những bàn tay phá thành đắp lũy, nhưng không ngăn được mảy may nỗi yêu ghét, giận hờn.
Hôm nay, cũng như những buổi chiều sau khi ngồi tĩnh tọa định tâm khác, câu chuyện lại xoay quanh những đề tài không định trước.
Tâm An mở đầu câu chuyện một cách dí dỏm:
- Thưa thiền sư và nhị vị thiền giả, tôi thường thắc mắc và tự hỏi rằng, nếu ví thử như tất cả mọi người đều ngồi thiền và đi tu diệt dục cả thì loài người sẽ biến khỏi thế giới ta bà nầy không quá 100 năm.  Tuy lúc đó con người không có, nhưng chúng sanh vẫn còn. Không có bóng con người ai sẽ giúp chúng sanh tu hành giác ngộ?
Thầy Tiều cười hề hề dễ dãi:
- Này, Tâm An đang nói chuyện với ai đó? Ở đây làm gì có thiền sư hay thiền giả mà thưa với bẩm rôm rả thiệt tình thế.
- Thầy ơi! Ngày nào thầy cũng tọa thiền, thiền định thế kia mà còn không phải là thiền sư thì biết kiếm thiền sư ở đâu mà học đạo hở Thầy?
Cái cười càng rộng rãi hơn, thầy Tiều trả lời:
- Có tìm khắp cả ba ngàn thế giới cũng chẳng có thiền sư hay thiền giả nào cả. Người ta gọi thiền, nói thiền vì sợ mình không phải là thiền đó thôi.
- Đúng rồi! Đúng rồi thầy ạ. Ủa! Mà nếu vậy thì thiền là gì và thiền đang ở đâu?! Ai ngồi xếp bàn, im lặng, nhắm mắt hay lim dim thì cũng gọi là tọa thiền hay thiền định cả mà.
- Hì! Hì! Nếu người ta không gọi đó là thiền mà gọi đó là "phiền" hay "hiền" hay "ghiền"... chẳng hạn thì người ngồi có cảm thấy khác nhau gì không?
- Chắc cũng vậy thôi thầy ạ. Nhưng thiền thật sự là gì mới được chứ?
- Thiền hả? Ồ! Thiền chẳng là gì cả. Thiền là một giọt sương long lanh an tịnh trong lòng mỗi người. Nhìn đến nó và nghĩ đến nó thì nó còn mà nắm bắt thì nó sẽ tan.
- Dù nắm bắt nó bằng cái tên cũng không được hả thầy?
- Làm sao gọi tên một giọt sương? Giọt sương chiếu đám mây thành giọt trắng, chiếu ánh nắng thành giọt hồng; chiếu bầu trời thành giọt xanh, chiếu mênh mông thành giọt... giọt...
- Giọt gì hở thầy?
- Không biết nữa!
- Ô hay! Thầy mà cũng không biết nữa thì ai biết?
- Có lẽ... có lẽ bản thân giọt sương tự biết lấy.
- Hay thật! Hay thật! Một giọt sương tự biết lấy một giọt sương.  Thầy ơi! Có phải vì vậy mà ông Lão Tử gọi nó là "Đạo khả đạo phi thường đạo..." phải không thầy?
- Trời đất, tâm linh cùng một trạng thái giao hòa tuyệt đối từ vô thủy đến vô chung. Vô thủy và vô chung không bao giờ có điểm khởi đầu và điểm kết thúc nên chỉ là Một. Trạng thái Một Cùng Tận Cùng Đích đó không thể phân, không thể giải; vừa có đủ hình tướng bao gồm cả càn khôn, vừa là không - cái không tự tại, vắng lặng chứ không phải cái không trống rỗng, vét sạch, nghèo nàn - không tuyệt đối.  Nên gọi là gì cũng đúng mà có gọi là...  gì gì đi nữa cũng không đúng cả. Lão Tử có gọi đó là Đạo, các vị hiền triết phương Đông gọi là Khí Hạo Nhiên, đức Phật gọi là Tánh Không... thì tất cả đều là những khái niệm tương đối để chỉ cái thể tính tuyệt đối chỉ có thể thông đạt được qua trực nhận mà không thể nghĩ bàn...
- Ối thầy ơi là thầy! Tôi ngộp thở mất. Ngộp thở vì toàn cả những chuyện quá cao xa gì đâu. Tôi chỉ thích hình ảnh thiền là giọt sương của thầy thôi à.
- Đúng! Đúng! Quên hết thiền, quên hết những đỉnh núi danh từ cao xa nực nội đó đi. Rán giữ một giọt sương long lanh trong lòng đừng cho nó vỡ thì sẽ được an tịnh.
- Đừng đi xa nữa. Tâm An thử nghĩ đến một cái gì đó gần gũi nhất xem sao?
- Để làm gì, thưa thầy?
- Để biết rằng, mình vẫn chưa biết hết được điều gần nhất quanh mình thì vội đi xa làm gì cho dễ lạc đường.
- Cái gần nhất là thân thể, là cuộc sống của chính mình thì làm sao mà không biết được.
Thầy Tiều cười tủm tỉm, nhìn thẳng vào mắt Tâm An dò hỏi:
- Thế Tâm An có biết được cái gần nhất là tiếng ngáy của mình không?
- Ồ! Tất nhiên là biết tỏng đi chứ!
- Làm sao?
- Thì người khác biết mình ngủ ngáy tức là mình ngáy.
- Không, tôi muốn nói chính Tâm An kìa.
- Ơ! Biết mà không biết. Mình ngủ say mới ngáy. Mà khi ngủ say rồi thì làm sao nghe được hay biết được tiếng ngáy của mình như thế nào và mình ngủ có ngáy hay không nhỉ!
Thầy Tiều kết luận một cách đầy hài tính:
- Nếu nhà ngươi chịu thua vì không biết được tiếng ngáy của mình thì phải chịu phạt. Hình phạt hôm nay là phải đi hốt than bỏ và bao để kịp mang về nhà cả trời sắp tối.
Tâm An bóp trán suy nghĩ.  Có những điều đơn giản như thế mà chẳng bao giờ mình để ý. Tiếng ngáy mình như thế nào; trí óc mình có tỉnh táo như người khác hay không; dáng vẻ của mình đáng yêu hay đáng ghét; điệu sống của mình đáng mến hay khó ưa. Suy nghĩ đến tình thương trời biển bao la trong tấm thân yếu gầy của mẹ; tưởng tượng đến ánh mắt hồng hoang của tình yêu; suy gẫm những chuyện đời gian truân và hạnh phúc... Tâm An có cảm tưởng như mình là một cái kén chưa nở giữa biển đời dấy động triền miên.  Gió chiều chừng như trở lạnh. Tâm An lặng lẽ đứng lên đi kiếm bao hốt than trong tiếng cười khúc khích đắc thắng của thầy Tiều.
Phạm Xảo đứng lên theo và cùng kiếm bao hốt than với Tâm An.
- Hề hề đại huynh! Chỉ nghe, chưa đặt quẻ mà cũng bị thua lây sao?
Tâm An nói đùa với Phạm Xảo khi thấy lão bằng hữu tốt bụng tình nguyện đến giúp một tay. Phạm Xảo cũng đùa vui tiếp lời:
- Thấy cảnh thiền sư bắt nạt thiền sinh, ta đây cũng động lòng nghĩa hiệp mà ra tay giúp kẻ sa cơ!
Tiếng cười của Phạm Xảo và Tâm An khuất dần sau những lùm cây. Trí Hải ngồi một mình với thầy Tiều, hỏi chuyện:
- Cuộc trò chuyện giữa thầy và Tâm An thật là thú vị. Tôi cũng có cơ duyên đọc nhiều sách thiền nhưng thú thật là tôi không thích thiền vì những nguyên tắc thực hành quá gò bó và những tảng lý thuyết quá cao xa; nhiều khi mơ hồ, mâu thuẫn ngỡ như là hoang tưởng. Thế nhưng kể từ khi gặp thầy,  tôi có hơi quan tâm về thiền trở lại, nhưng chỉ sợ kiến thức của mình về thiền học chưa đủ căn cơ để có thể đến với thiền một cách đúng đắn.
- Quý hữu miễn chấp. Tôi chẳng quan tâm về thiền là gì cả.
- Ngày nào thầy cũng ngồi thiền cả mà sao thầy lại nói thế?
- Quả tôi có ngồi yên lặng định tâm mỗi ngày như hoàng hữu nói, nhưng đấy không phải là thiền. Bầu trời mênh mông trong mỗi người thì muôn màu muôn vẻ. Sự trầm tư an tịnh khi có khi không, nhưng động và tịnh là hai trạng thái song hành đã hiện hữu một lần với lịch sử của con người và sự sống. Thiền là một tên gọi trạng thái an tịnh đó mới xuất hiện từ mấy nghìn năm nay ở Ấn Độ và Trung Hoa rồi lan truyền đến các nơi khác. Thiền với những nguyên lý và phương cách đạt thiền giới hạn riêng của nó trong giới thiền gia. Có giới thì phải có hạn, tôi yêu tự do đầu tiên và cuối cùng trong chính mình và không muốn thuộc về giới hạn hay hình tướng nào cả.
Trí Hải tủm tỉm cười, nói với nhà sư:
- Thầy cũng không thuộc về chiếc áo nhà tu mà thầy đang khoác lên mình đó sao?
- Không, chiếc áo không làm nên tôi, nhưng tôi tự nguyện giới hạn những nguyên tắc và nhu cầu cuộc sống của bản thân mình theo những quy ước tương đối của mầu áo đó. Người ta thường ôm chiếc áo mà bỏ rơi con người vì họ đồng hóa chiếc áo với con người. Tôi thì mỗi giờ khắc đi qua tự điều chỉnh và giới hạn con người mình cho gần với chiếc áo. Nếu một ngày nào đó, tôi không đủ duyên đi theo với chiếc áo thì tôi phải khoác một chiếc áo khác, thế thôi!
- Lúc đó thì thầy làm sao mà tu được nữa?
- Tu và khoác áo tu là mượn thuyền để qua sông mê, về bến ngộ.  Tôi đang chèo thuyền giữa bờ mê và bến ngộ trên dòng sông mê đang chảy siết. Không tiến phải lùi, không thể neo thuyền giữa dòng cuồng lưu đang chảy băng băng về phía trước.
- Ngồi trong lòng thuyền xao động giữa luồng sóng dữ, thầy dựa vào cột mốc nào để biết mình mỗi ngày một gần với bến ngộ, thưa thầy?
- Ngỡ như mông lung nhưng rõ ràng lắm quý hữu ạ. Bến ngộ là bến không. Bến không bắt đầu từ tâm không. Tâm không là tâm rỗng lặng. Mỗi ngày ngồi an tịnh, mà quý hữu muốn gọi là thiền hay một danh xưng nào đó tùy nghi cũng được, để xả những lớp bụi của ngày qua. Đấy là những lớp bụi của đời thường thế tục mà không ít thì nhiều ai cũng bị bám do sư tham giận, kiêu căng, si mê, lầm lạc... mà ra.
- Thầy là bậc tu hành mà cũng bị bụi đời thường bám vào mỗi ngày nữa sao?
- Lớp bụi trần thế không dày thì mỏng ở đâu cũng có, lúc nào cũng có, không miễn nhiễm cho ai cả. Nó xuất hiện dưới vô vàn hình thái. Càng quan trọng lễ nghi, càng rườm rà hình thức, càng say mê lý thuyết thì lại càng có nguy cơ tiếp cận với lớp bụi dày hơn.
- Thế thầy có lo sợ đến một ngày nào đó thầy phải xa chiếc áo không?
Thầy Tiều cười hì hì một cách thảnh thơi:
- Tôi không lo sợ phải xa chiếc áo mà chỉ lo sợ rằng, lỡ một ngày hay một hoàn cảnh nào đó mình không còn xứng đáng khoác chiếc áo nữa mà vẫn được người đời ca ngợi. Và sợ nhất là chính mình không những không còn cơ hội để nhìn lại sự suy đồi của chính mình cho rõ mà còn cảm thấy tự hào, hãnh diện một cách vô minh như thể mình đang lên hàng thánh thiện.
Nhìn khuôn mặt vui vui với nụ cười chưa hết của thầy Tiều, Trí Hải nói nhẹ nhàng:
- Thầy chấp nhặt làm gì vào những danh từ cho phiền. Mọi tên gọi, kể cả thiền, chẳng khác gì là một mảnh gỗ mục cho con gián bám vào đó mà sống còn trong cơn lũ lụt.
- Thế nhưng người ta vẫn xem mảnh gỗ mục cứu lũ trước mắt là lâu đài kiên cố của sự sống đời đời.
- Đó không phải là bản chất mà chỉ là tiếng vọng.
Thầy Tiều gật gù:
- Tiếng vọng? Ý quý hữu muốn nói là tiếng vọng của một nguồn thiền đại ngộ nào chăng?
Trí Hải đưa tay vẽ một vòng tròn tưởng tượng trong tầm nhìn của thầy Tiều, rồi giải thích:
- Thiền - nếu có thể tạm gọi những phút định tâm của thầy bằng một tên gọi như thế - là tiếng nói của im lặng, là dáng vẻ không hình tướng. Ai hỏi làm chi tiếng của mây, màu của gió... Mây không có tiếng, gió không có màu, nhưng nó vẫn hiện diện quanh ta.  Sự lặng im mà xoay chuyển của mây gió chính là tiếng vọng của đất trời, của thiên nhiên vũ trụ.
Thầy Tiều lại hỏi:
- Thế thì đâu là tiếng vọng của lòng ham muốn về một sự sống đời đời?
- Đó chính là tiếng vọng của một tâm trạng mang khát vọng bất tử, ước mơ một sự sống đời đời. Thiền là tiếng vọng của một sự khát khao muốn gặp được lối đi mà người ta thường gọi là "ngộ đạo."  Ngộ đạo là gặp con đường tìm về giải thoát để ra khỏi vòng sinh tử, an trú đời đời trong an lạc.
Đặt câu hỏi như một lời giảng giải, thầy Tiều hỏi:
- Một khát vọng như thế có chính đáng khi thập lọai chúng sanh còn trong biển khổ hay không?
Trí Hải lắc đầu:
- Làm sao chúng ta biết được. Cây roi là vật chính đáng của người thợ cày, nhưng lại là vật không chính đáng đối với con trâu. Mọi người cứ gán cho nắm xôi là khát vọng chính đáng của thằng Bờm, nhưng lại có kẻ cho nụ cười mới chính là khát vọng của nó. Tất cả mọi người đều đúng mà cũng có thể chẳng ai đúng cả.
- Nguyên nhân vì sao cái sai và cái đúng không tách bạch rạch ròi mà dễ dàng trộn lẫn với nhau như thế?
- Vì tất cả chỉ là tiếng vọng. Tiếng vọng của gió không phải là gió; tiếng vọng của mưa không phải là mưa. Người ta nắm bắt tiếng vọng nên biên giới giữa sai và đúng, giữa giả và thật không dễ dàng phân định.
- Vậy thì làm sao để nắm bắt cho được cái bản thân thật sự của các đối tượng?
Thầy Tiều hỏi, Trí Hải lặng im một lát và trả lời ngập ngừng:
- Làm sao? Như thể một cuộc săn đuổi với cái bóng của chính mình và của vạn vật. Câu hỏi đơn giản nhưng câu trả lời không dễ dàng. Thầy nghĩ thế nào?
Thầy Tiều ngồi trên bãi cỏ, xếp bàn:
- Quý hữu đi tìm ý nghĩa cuộc đời trong kho sách vở và bằng lý luận, tôi tìm ý nghĩa cuộc đời trong chính tôi và ngay giữa cuộc đời nầy bằng thực chứng.
- Như thế có nghĩa là tôi đang săn đuổi và thầy đang nắm bắt?
Không gật đầu, cũng chẳng lắc đầu, thầy Tiều lắng sâu trong trạng thái an tịnh.
Trí Hải vẫn băn khoăn về ý nghĩa của sự thực chứng mà thầy Tiều vừa nói. "Hình như là vậy!" Trí Hải suy nghĩ và tự trả lời cho mình.  Kẻ tìm lại chính mình cũng như kẻ đi tìm rùa. Càng la hét ồn ào, con rùa càng rụt cổ co lại vào trong vỏ. Càng vội vàng và nóng nảy tóm cho được con rùa thì chỉ tóm được cái vỏ. Cái kho tàng dấu kín trong ta không thể lấy bạc vàng mua được; không thể dùng sức mạnh chinh phục được; không thể dùng lý luận rủ rê được. Chỉ có sự im lặng tuyệt đối với cái tâm an hòa, cái trí không Không (không gợn một chút dơ, không thoáng một định kiến, không vọng tưởng gì cả...) mới giao hòa được với cái kho tàng vô giá đó. Giao hoà để chính mình là kho tàng chứ không phải là kẻ sở hữu kho tàng. Kho tàng là mình; mình là kho tàng nên không mất mà cũng chẳng được; không có Có mà cũng chẳng có Không.
Tiếng nói cười khi oang oang, khi ríu rít hồn nhiên của Phạm Xảo và Tâm An đánh động cái im lặng không biết đã kéo dài bao lâu giữa thầy Tiều và Trí Hải. Tâm An gõ gõ vào vách núi, lên tiếng:
- Hai sơn nhân ngủ gục, mau dậy đi về cả trời tối.
Thầy Tiều và Trí Hải cùng mở mắt to, nhìn nhau. Có nụ cười trong mắt. Thầy Tiều nói bất chợt:
- Thiền hả?!
Trí Hải trả lời theo:
- Ủa, thiền?!
Cả hai cùng cười. Tiếng cười như nắng.
Nhìn sâu vào đôi mắt trong veo, nửa ngây thơ trong sáng, nửa sương tuyết già nua của thầy Tiều, Trí Hải cảm nhận được chặng đường tâm linh qua nhiều trăn trở cũng như đầy hoan lạc của nhà sư. Trí Hải hỏi với ý nghĩ chân thành, không vướng víu sự khen chê:
- Xin hỏi thật là Thầy đã "ngộ" lần nào chưa?
Thầy Tiều cười thành tiếng:
- Mê muôn kiếp, ngộ nhất thời. Nhưng ngộ là gì và ngộ để làm gì mới được chứ?
Trí Hải có vẻ dè dặt:
- Theo sách vở mà tôi đã đọc thì "ngộ" là một trạng thái hoan lạc, một sự bùng vỡ như tái sinh. Người ngộ đạo thấy thật tướng của chính mình và vạn vật. Từ giây phút ngộ đạo tâm thức của họ đã mở cửa đi vào một thế giới mới. Hệ thống giá trị, lề thói sinh hoạt và so sánh cũ biến mất. Người ngộ đạo san phẳng những chướng ngại trên đường để đi tới.
Thầy Tiều không biểu tỏ một phản ứng nhiệt tình nào khi được hỏi, trả lời với giọng đều đều, thản nhiên:
- Không, tôi không khác gì với mọi người cả.  Đói thì ăn, khát thì uống, buồn ngủ thì nằm ngủ. Tôi sống giữa cuộc đời này, sống thì thở, chết thì xuôi tay nhắm mắt thôi, không đi đâu hết.
- Nhưng rồi tới một ngày nào đó thầy phải xa nó, phải giải thoát, phải thành Phật chứ.
- Giải thoát và thành Phật ngay giữa thế gian nầy. Đức Phật nói pháp sau khi ngài đắc đạo, nhưng người đời nay lại đua nhau nói pháp trước khi tự bản thân mình thấy đạo. Họ sợ vô thường, sợ tái sinh nên níu nhau nói chuyện, cầu khấn lời giải thoát cho đỡ sợ.
- Vậy thì thầy có cầu giải thoát và sợ sinh tử vô thường không?
Thầy Tiều nói với giọng vui như bông đùa:
- Phải sợ nhiều hơn người thường, không dai sức chịu khổ lâu dài mới đi tu cho mau giải thoát  chứ. Cọp ai mà không sợ, nhưng rồi cũng phải chọn một trong ba con đường: Một là làm nhà cho cao để tránh nó, hai là làm chuồng cho chắc để nhốt nó, ba là đối diện với nó để đương đầu với nó...
- Tu là chọn thái độ nào?
- Đương đầu với nó để khuất phục nó.
- Nếu lỡ mình thua nó và nó ăn thịt mình thì sao?
- Thì mất mạng chứ sao.
- Mạng một người đi tu và mạng một người dân thường mạng nào lớn hơn?
- Người nào to béo hơn thì mạng lớn hơn!
- Mạng lớn hơn thì Phật tánh có lớn hơn không?
Thầy Tiều đáp giọng tự nhiên như nói về một chân lý:
- Lớn hơn chứ!
Phạm Xảo chen vào:
- Mới tuần trước Thầy nói Phật tánh luôn luôn ngang nhau giữa tất cả mọi người mà!
Tâm An lên tiếng ngay:
Có lần thầy nói người càng to lớn đẫy đà thì Phật tánh càng nhỏ.
Thầy Tiều tỏ vẻ thống khoái lên tiếng thúc giục:
- Vậy thì trong quý hữu đây ai đã thấy được Phật tánh rồi?
Cả Tâm An và Phạm Xảo đều trả lời nhanh là "Chưa thấy!" Riêng Trí Hải thì không nói gì. Lát sau nói nhỏ như nói một mình:
- Kiến tánh thì thành Phật rồi chứ đâu còn đứng đây.
Vỗ hai tay vào nhau với vẻ đầy thích thú, thầy Tiều chỉ quanh:
- Đó! đó! Chưa thấy thì làm sao mà biết to hay nhỏ. Nên to nhỏ cũng như nhau thôi. Ánh sáng chưa đến là bóng tối. Làm gì có bóng tối cao hay bóng tối thấp. Làm gì có ánh sáng to hay ánh sáng nhỏ. Nhưng dù sáng và tối có cao thấp hay to nhỏ gì chăng nữa thì cũng chỉ có ánh sáng mới xua tan được bóng tối. Ai cũng nói đến Phật tánh, xác định là có Phật tánh trong mỗi chính mình, mà chưa ai thấy được Phật tánh cả. Vì sao, thưa quý hữu?
Vẫn là người năng nỗ nhất trong nhóm, Tâm An lên tiếng ngay:
- Vì không có Phật tánh hay Phật tánh là cái gì cao xa và vĩ đại quá nên chỉ có Phật hay những bậc thượng căn mới thấy được, mới tìm ra được mà thôi.
- Quý hữu đói bụng chưa?
Câu hỏi lạc đề và quá bình thường của thầy Tiều làm mọi người có cảm tưởng như thầy cố đánh trống lãng để khỏi rơi vào thế bí.  Không ai lên tiếng nhưng bước đi chậm lại giữa lúc chiều xuống và đêm sắp về đang lên tiếng giúp cho mọi người trả lời rằng, họ đang đói bụng cồn cào. Bước đi. Im lặng. Thầy Tiều lên tiếng như nói từ tiếng vọng xa xăm:
- Chúng ta có vẻ như đang hiểu khá rõ về mình trong lúc nầy.  Hiểu cái bụng rỗng không, cái tâm lặng lẽ và cái ý muốn ăn. Nhìn được chính mình là nhìn được Phật tánh. Lắng lòng tìm đến với mình và biết mình đang đói bụng. Phật tánh không thấy được bằng mắt mà chỉ cảm nhận được bằng tâm. Cảm nhận trong phút này, sống với nó trong phút nầy, hòa quyện với nó và biến thành chính nó...
Tâm An kêu lên:
- A ha! Chúng ta đang thành Phật...! Đói chóng thành Phật hơn no sao, thưa thầy?
Như muốn kéo Tâm An về lại với thực tại, thầy Tiều nói át đi:
- Tâm An, coi chừng lại hỏng mất! Khi biết mình đang thành Phật là đã xa Phật nghìn trùng mất rồi.
- Phật trong ta mà xa ta nghìn trùng. Thầy nói nghe mâu thuẫn quá đi thôi! Hằng hà sa số người trong tứ chúng đang rán tu cho chóng thành Phật đều đang xa Phật nghìn trùng cả sao. Ba mươi ba vị tổ Thiền tông chưa có ai thành Phật?
- Phật không phải là bức tượng đồng hay tượng gỗ để chúng ta đeo bên mình hay đặt thờ trong nhà. Phật cũng không phải là những bài kinh đầy lời Phật nói mà ta thuộc nằm lòng và ngày lại ngày ngân nga đọc tụng. Phật cũng không phải là những ý niệm chủ quan mà ta thường nghĩ tới. Phật là cái Ta thánh thiện trong ta. Khi ta thánh thiện ta là Phật. Chỉ một khởi niệm rất nhỏ mang tính phân biệt Ta và Phật hay Phật và Ta đang tìm nhau dấy lên là Phật đã xa ta nghìn trùng.
Trí Hải lập lại:
- Thầy vẫn chưa trả lời câu hỏi của tôi.
Thầy Tiều nhìn rất xa vào đốm sao hôm  vừa mới mọc:
- Tâm linh làm gì có ấn chứng. Tôi đã trải qua nhiều nổi u ẩn, khổ đau cùng hoan lạc như tất cả mọi người. Nếu có khác chăng so với mọi người là tôi biết rõ mình và biết nỗi khổ đau cùng hoan lạc của mình trong vắng lặng. Khi niềm hoan lạc thắng khổ đau là khi tôi biết mình đang bước trên đường đạo.
Gió từ triền sông thổi lại không nhiều mà Trí Hải bỗng cảm thấy lạnh mình. Trí óc trôi lênh đênh vào thế giới của thầy Tiều, Trí Hải nghĩ đến những vị Bồ tát thành Phật nhưng lại không bỏ chúng sanh đằng sau để thong dong vào nước Phật riêng mình. Cưu mang những kiếp người lấm bụi. Thiền sư ngộ đạo thỏng tay vào chợ sống đời lây lất bên cạnh những con người sống bụi, ăn bụi, uống bụi, nghĩ bụi. Hạnh Bồ tát nguyện ở lại giữa trần gian gió bụi này sao mà tuyệt vời đến thế. Lời nguyện cưu mang cõi trần này để hóa giải khổ đau thành an lạc. Tu. Tu Bụi. Hạnh tu giữa cuộc đời của chí thánh và phàm nhân đâu có chấp trước chuyện ba ngàn thế giới mà chỉ cần lắng đọng ở tâm mình. Con người là sinh vật có sự sống nên bảo vệ sự sống là bảo vệ con người, đâu phải cần quanh co triết lý xa xôi.
Gió chiều rung tàn lá chìm dần trong bóng tối. Tiếng lạnh cả hư không.
CHƯƠNG MƯỜI HAI
Quán Trọ Thân Tâm 
Tòa nhà hư cũ đang xuống dốc vẫn đứng sừng sững như một biểu tượng của uy quyền và phú quý. Dinh ông Hoàng một thời vang bóng đã in hình vào tâm ảnh của những người ngưỡng mộ. Họ bị choáng ngợp bởi hình tướng và tin đồn, dẫu có khi tin đồn chỉ là phó sản của mơ mộng và tưởng tượng viễn vông. Chuyện xưa có loài đá nguyên sinh hút được bóng người. Những người dọi bóng bên hồ trên vỉa đá, bóng qua khỏi nước, nước không còn giữ bóng, nhưng thềm đá vẫn lưu ảnh người cho hết một đời của đá. Do vậy nên cái vẻ đời thường dẫu có thịnh hay tàn cũng không ai để ý. Người ta đã quen với cái bóng in hình trên vỉa đá. Do vậy, tòa nhà chỉ còn là một mớ vật thể kiến trúc từ thời xa lắc sắp lụi tàn, nhưng cái dư ảnh của nó trong mắt nhìn và từ suy nghĩ của người bên ngoài không chịu đổ theo. Người ta vẫn gọi là "Dinh Ông Hoàng" với tất cả vẻ trang trọng như vẫn thường gọi từ thời quá khứ. Người ta vẫn kể cho nhau những câu chuyện khác thường, đôi khi đượm mầu thần thọai, với những chi tiết thêm thắt cho hợp với nồng độ của câu chuyện. Cuộc đời thường - không đủ hương vị cho nỗi đam mê về một cuộc đời mơ ước - nên người ta cần huyền thoại để tự đưa nhau vào những góc khuất của hạnh phúc.
Một góc lâu đài suốt ngày không có nắng vì ẩn dưới tàn cây xanh.  Nơi đây đang trở thành một thế giới mới. Thế giới của ý niệm bao trùm lên hiện thực. Phạm Xảo, xông xáo và cẩn trọng với tâm lý lão tướng, ưa nhìn ngắm thiên nhiên, hít thở không gian và nắm bắt thời gian bằng chinh phục. Tâm An, người đã thành công hơn người trong thương trường, xuôi ngược khắp vùng Đông Á, đang muốn buông bỏ cái được trong tay để làm lại cái mất của quá khứ. Thầy Tiều, người đã chọn hướng đi nhưng lại không muốn men theo những con đường mòn có sẵn. Chỉ riêng Trí Hải vẫn bước đi giữa đường đời gập ghềnh bằng bước chân dò dẫm.
Thời gian từ thuở tóc xanh về miền tóc bạc chỉ có một con đường thẳng. Nhưng hai cặp xuất (dấn thân) và xử (rút lui) lại xoay vòng tròn nên làm cho cuộc đời trở thành vòng lẩn quẩn. Tu là tìm một điểm tựa để thoát thân chứ không phải để mắc vòng lẩn quẩn. Bởi vậy, có người cho đi tu là dấn thân, người lại cho đi tu là rút lui.  Cũng đều là hàng vương giả xuất trần đi tu mà vua Trần Nhân Tôn thì dấn thân mà vua Lý Huệ Tôn thì rút lui,m trốn chạy. Mặt trời mọc ở xứ Đoài thì đồng thời cũng là mặt trời lặn ở xứ Đông. Tu đúng nghĩa là dấn thân, là mọc, là đối mặt với cuộc đời chứ không bao giờ trốn chạy.
Với đời thường, cứ mỗi mười năm nhìn lại, thấy mình đã lớn hay đã già đúng tuổi mà không thấy tiếc quãng đời đã đi qua là kể như tạm ra khỏi vòng tròn lẩn quẩn, len chân được trên đường đi tới. Ngược lại, là đi loanh quanh. Cái vòng tròn trứng và gà vẫn xoay.  Xoay theo một điệu buồn xưa cũ. Trong cái trứng đã thấy được khả năng con gà và qua con gà cũng thấy được bóng dáng cái trứng. Muôn năm không thay đổi. Cần một sự đập vỡ nào đó để cho cái vòng tròn âm u thành con đường náo nức đi vào cuộc đời. Dẫu được sống thêm một khắc mà thiếu đi cái náo nức tươi mới ấy là vẫn bị chìm lĩm giữa đời; là thiếu mất hương hoa của cuộc sống; là trốn biệt vào quá khứ hay tương lai.
Cái háo hức tuổi trẻ lên đường sang Pháp, rồi hồi hương với hoàng tử Cảnh, một hoàng đế tương lai, đã nguội lạnh từ lâu trong lòng Trí Hải. Dư âm tiếng gáy con gà và dáng như hư, như thực lẫn trong mây của sư Trúc Lâm vẫn đeo đẳng theo Trí Hải như một "công án".  Đấy là một ẩn số không thể giải bằng sự thông thái của lý trí đơn thuần. Tiếng gáy của con gà trong đêm mở hé cánh cửa bình minh vào cuộc sống. Trí Hải mới chỉ nhìn ánh nắng sau khung cửa hé ấy.  Phải tắm gội, phải hòa tan vào trong nắng để thấy được mình là nắng...
Trong bốn người, Tâm An quả thật là con người của hành động thực tế.  Đã ba, bốn hôm rồi Tâm An đi vắng. Mọi người chỉ được báo là Tâm An "đi công chuyện" mà không biết đi đâu. Nếu ai theo sát Tâm An sẽ ngạc nhiên khi thấy người nầy đứng suốt ngày dưới chân núi Trường Sơn, nơi khởi phát thượng nguồn sông Hương. Mắt người ấy ngơ ngẩn nhìn như bị thôi miên vào một mỏm đá nhô ra từ triền núi. Trên đó có một cây tùng mọc lên với dáng uốn éo đẹp như tranh vẽ của một danh họa Trung Hoa. Gốc tùng có vẻ như từng to hơn mấy người ôm, nhưng giờ đã quắt lại. Đá mài, gió dập, mưa vùi đẽo mòn gốc cây thành góc cạnh. Trông xa, gốc cây hóa dầu có dáng như một bức tường nhỏ láng bóng, đen sì. Thân cây mé phía đông có một con đường trắng mầu gỗ tươi còn sống và trên đỉnh của con đường trắng đó là ngọn một cây tùng cổ thụ. Thân, nhánh và tàn cây thu nhỏ lại bằng hai vành nón. Trong tầm mắt, cây tùng cổ mộc hiện ra vừa uy nghi sừng sững, vừa ảo ảnh khói sương, vừa uốn lượn kỳ tú, vừa nhỏ nhắn khiêm cung.
Cây đứng đó bao đời không ai hay nhưng rồi một lần, cây lọt vào tầm nhìn của một gã săn cây lão luyện giang hồ. Cây không còn yên thân nơi chốn cũ. Mấy hôm sau, một toán thợ đá neo dây, dựng khung, suốt mấy ngày liền; đục, cưa, đẽo, gọt, cố tách tảng đá làm nền cho gốc cây tùng ra khỏi sườn núi. Được thuê bằng một giá cao chưa từng thấy, đội thợ đá đã tách dùng mọi khả năng, kinh nghiệm và phương tiện tuyệt xảo nhất của nghề nghiệp để tách rời và mang được cả nền lẫn cây cổ mộc xuống núi và đưa về vị trí theo đơn đặt hàng của thân chủ Tâm An.
Rồi một sớm mai, cả thầy Tiều, Trí Hải, Phạm Xảo dụi mắt ngỡ như chuyện thần tiên khi nhìn thấy cây tùng cổ mộc mọc trên hòn núi nhỏ đứng sừng sững ở một góc rợp bóng trong khu lâu đài phôi pha của ông Hoàng. Tâm An đứng sẵn ở đấy cười tủm tỉm như một câu trả lời. Mắt không rời cây cổ mộc, giọng hớn hở, hỏi:
- Đẹp không?
Không có tiếng trả lời, nhưng đã có những đôi mắt chiêm ngắm dồn vào cây cổ mộc nói thay.
Mùi trầm hương thoang thoảng trong không gian chung quanh cây cổ mộc thân hóa kỳ nam. Cây cổ mộc trên hòn núi nhỏ có một sự  thu hút lạ lùng. Cả góc lâu đài như lạ lẫm hẳn đi với dáng đứng kỳ vĩ của cây cổ tùng biến dạng. Mỗi người nhìn một cách. Hình ảnh cây cổ mộc làm Phạm Xảo nhớ thuở cầm quân trong những trận thư hùng Tây Sơn - Nguyễn Ánh. Một lần băng qua biên giới Cao Miên, người ngựa lạc vào rừng Đế Thiên, Đế Thích. Phạm Xảo chống đốc kiếm nhìn trời. Cây cổ tùng trong những ngày chinh chiến đó hiện ra đầy vẻ thách đố với sức chịu đựng của con người. Cây bạch tùng trước mắt hôm nay gợi lại thuở vang bóng ngày xưa. Cái chớp mắt của ngọn triều tâm lý hiện về. Phạm Xảo loay hoay tìm đốc kiếm. Nhưng chỉ có hai bàn tay không đan vào nhau. Tất cả vụt bay đi.  Phạm Xảo bỡ ngỡ tìm một chỗ dựa. Chẳng có một chỗ dựa nào ngoài chính mình. Gió sớm mai thổi qua ngọn bạch tùng làm vang lên tiếng lá rì rào. Điệu nhạc cổ sơ bay về phía chân trời cao viễn.
Riêng thầy Tiều và Trí Hải thì mắt vẫn nhìn cây bạch tùng cổ mộc, nhưng chẳng nói năng hay biểu tỏ một thái độ nào. Cái đẹp tự nó chẳng là tương lai hay quá khứ. Vẻ đẹp thu hút cái nhìn. Nhìn để sáng tạo và khám phá. Sáng tạo để biết trân trọng cái đẹp và khám phá để biết yêu cái đẹp. Khám phá là chặng đường chinh phục hay bị chinh phục và yêu là dính mắc.
Thầy Tiều rất nhạy cảm về cái đẹp. Vẻ đẹp làm cho thầy xúc động lặng người. Vẻ đẹp rực rỡ như mặt trời mọc ở phương Đông, rồi lặn ở phương Tây không còn dấu vết khi đêm về. Thầy đắm đuối trong cái đẹp như tắm ánh nắng mặt trời. Ngập mình trong nắng. Nắng tắt. Mình trở lại với bóng tối. Thầy Tiều không mang theo cái đẹp vào tương lai hay gởi gắm cái đẹp vào quá khứ. Thầy rộng mở đón nhận và buông thả cái đẹp ngay giữa hiện tiền của nó. Thầy không so sánh mà cũng chẳng phê phán cái đẹp. Con công óng mượt và con nhím lởm chởm gai nhọn; con chim phượng hoàng diêm dúa và con gà mái đơn sơ... tất cả đều có vẻ đẹp nòi giống riêng của mỗi loài. Thầy không níu ngày qua đêm và kéo đêm về trong ngày. Biết yêu cái đẹp và biết buông cái mình yêu là tự do cuối cùng và tuyệt đối của mỗi con người đang sống. Tự do, đơn giản chỉ vì không bị cột buộc vào bất cứ giá trị hay dư ảnh, dư âm nào khác ngoài chính bản thân của cái đẹp trong khoảnh khắc cái đẹp và người thưởng thức vẻ đẹp hòa quyện với nhau; rồi thôi. Dính mà không mắc. Hòa mà không đồng.
Trí Hải thì có vẻ như ngược lại. Tuy không bị đắm vào vẻ đẹp, nhưng mắt nhìn mà lòng cứ loay hoay khám phá. Khám phá vẻ đẹp là mất công trau chuốt hay phân thân một giọt sương trên cỏ. So sánh vẻ đẹp là tìm một cái gì nằm ngoài vẻ đẹp. Muốn cho một giọt nước đẹp hơn hay xấu hơn là giọt sương long lanh trên cỏ, người ta không thể tìm ra vẻ đẹp của hiện thực mà mãi đi tìm cái đẹp của dự phóng.  Đẹp là đẹp. Vẻ đẹp tự nó có một giá trị hiện thực trên chính nó. Một nguời đẹp là chính vì người đó đẹp. Vẻ đẹp của nàng do chính nàng đẹp chứ chẳng phải vì nàng giống người cung nữ hay một nàng tiên nào đó. Đẹp là đẹp tự nó chứ đâu phải vì làm cho "Tây Thi mất vía, Hằng Nga giật mình" mới  thật sự là đẹp? Trong mắt nhìn của Trí Hải, một vẻ đẹp đích thực còn ở tận đâu đâu. Chưa bao giờ Trí Hải may mắn được một lần thật sự rung động trước vẻ đẹp của một người, nên chưa hề có bóng dáng một người đàn bà xinh đẹp nào hiện ra trong đời và bên mình. Trí Hải mãi mê tìm một vẻ đẹp trí tuệ tách rời hiện thực. Vẻ đẹp của một ước mơ trong giấc mơ chưa đến giờ đi ngủ.
Với Tâm An thì mọi thứ trên đời đều ở trong tương quan so sánh; đều có thể cân đo đong đếm được.
Chắp tay vào nhau như để cảm tạ một linh hồn tạo vật chí tôn, Tâm An say sưa nói về cây cổ mộc:
- Chúng ta đang đứng trước một gia tài vô giá. Hơn hai mươi năm kinh doanh và làm giàu với nghề buôn bán cây cảnh, tôi chỉ đọc sách để biết những loại cổ mộc quý hiếm. Trong sách Cổ Mộc Kỳ Danh của Chu Hạo Nhiên đời nhà Chu bên Tàu có nói đến một loại kỳ danh cổ mộc tuổi cả nghìn năm. Thân cây biến thành kỳ, tinh hoa kết tụ của một. Chỉ có một sợi trong toàn thể thân cây là còn tươi và phát triển đâm chồi nẩy lộc bình thường. Theo Chu Hạo Nhiên, kỳ nam là tinh chất kết tụ cao nhất của giống trầm hương. Kỳ nam thông thường màu nâu đậm, phải trải qua cả nghìn năm mới có được kỳ nam đen mịn và láng bóng. Thông thường chỉ có cây gió trên rừng bị tật, cần tinh dầu bao quanh để bảo vệ chỗ khuyết tật. Lâu năm tinh dầu mới kết tụ thành trầm. Giống trầm bạch tùng tuy cực kỳ hiếm hoi nhưng vẫn có trường hợp kết tụ thành trầm. Qua bao nhiêu năm hút đủ khí âm dương và tinh chất của rừng núi và mây trời, những mảnh dầu trầm rải rác trong thân cây ngưng tụ lại để thành kỳ. Kỳ nam là thể tinh túy tuyệt hảo nhất của trầm hương nên khó mà bị phôi pha, suy suyển hay xâm thực của thời gian và mưa nắng...
Phạm Xảo chen vào:
- Vậy có phải cây bạch tùng cổ mộc trước mắt chúng ta đây cũng là loại cổ mộc kỳ danh mà Chu Hạo Nhiên đã nói đến đó không?
Tâm An trả lời hớn hở:
- Chính đó! Chính đó! Hôm nay chúng ta đã có Kỳ Nam Cổ Mộc trong tay. Dẫu cho có vàng ròng nghìn lạng, cũng chỉ mới dám đứng xa mà nhìn giống cổ mộc nghìn năm nầy. Chỉ cần nửa giá cây cổ mộc nầy cũng thừa sức để xây lại Lầu Ông Hoàng đẹp đẽ, huy hoàng hơn hẳn khi xưa rồi đấy. Hì, hì!
Tâm An cười khóai trá vì đang mãi đuổi theo một giấc mơ thật đơn giản. Đơn giản mà thực tế và có thể thực hiện được trong cuộc đời nầy. Ước mơ đích thực là một giấc mơ không bao giờ có thật.  Bởi vì một đối tượng đã nắm bắt được trong tay thì không còn là ước mơ nữa. Thiên Thai là chốn ước mơ, nhưng khi Lưu Nguyễn đã tìm đến được rồi thì lại muốn quay về. Con người là sinh vật địa cầu duy nhất biết ước mơ. Và ước mơ cũng là cội nguồn của khổ đau vì khi nắm được sự mơ ước trong tay rồi lại không vừa lòng và cất công đi tìm một mơ ước khác. Tuổi trẻ đầy ước mơ, Tâm An đi tìm sự thỏa mãn cho khát vọng sống đời đời bằng cách tìm lên chùa đi tu. Tu không thành, Tâm An trở lại đời thường. Tuổi trung niên cần một bản sắc, Tâm An tìm những giá trị ngoài mình như vật chất tiền tài để dựa vào đó mà định nghĩa cho mình là ai. 
Tuổi sắp về già lại đi tìm một sự sống trường thọ để cố thắng nỗi ám ảnh xám xịt của một cái chết không tránh khỏi ngày một đến gần. Càng còn lại ít thời gian, sự trốn chạy cái chết bằng niềm mơ tưởng về một sự sống đời đời nơi cõi thánh càng gấp. Tôn giáo là đại lộ hoàng hôn vào cõi thánh sau khi chết. Và một đấng chí thánh là thành trì  bất khả xâm lăng; là quyền lực tuyệt đối, vô địch, vô nhiễm, miên viễn cho những linh hồn chạy trốn thần chết tìm đến ẩn náu.
Chỉ một cây cổ mộc mà bốn người đón nhận bốn cách khác nhau.  Ai cũng cảm nhận được rằng, cây cổ mộc có một giá trị to lớn không lường được giữa cuộc đời nầy. Nhưng ai cũng thắc mắc mà không thể nói ra hay giải thích cho thật rõ ràng rằng, tại sao cây cổ mộc không được nhìn như một cây lão tùng có dáng đẹp tuyệt vời mà phải mặc lên nó những giá trị quá vĩ đại và xa vời như thế.
Một cây cổ mộc mình mẩy đầy thương tật. Nó đứng trơ vơ nghìn năm trên núi cao và cố vươn lên để sống còn trong cuộc tranh sống dữ dội với thiên nhiên.
Đã nghìn năm qua, cành đại tùng nhỏ bé đã chiến thắng nắng gió, chịu đựng tuyết sương để sống còn trên đỉnh núi. Nhưng một chiều qua, nó đã bị bại. Nó bị bứng ra khỏi núi đá, bị những đôi mắt giới hạn của con người đem giá trị cơm áo tầm thường sánh với oai linh rừng thẳm. Trong đôi mắt chiến thắng của con người nhỏ bé, cây cổ tùng mất bóng. Nó bị bật gốc ra khỏi khu rừng thiêng để chen chân vào đám cây vườn đứng thẳng lối, ngay hàng che bóng mát. Mất đi không nhất thiết là biến mất. Mất đi có thể vẫn còn đó với tiếng tăm lừng lẫy, với hình tướng có khi còn chói lọi và rực rỡ hơn xưa. Nhưng tiếng vọng chỉ là dư âm từ quá khứ dội về và vẻ long lanh, lấp lánh đều do ánh sáng phản chiếu từ bên ngoài hắt tới. Mất đi vì tim đã lụi tàn và ánh sáng từ bên trong đã tắt. Cây cổ mộc Trường Sơn đã bị tham vọng bình thường của Tâm An bứng bật gốc mang đi. Sự hiên ngang và nghĩa sống vô biên trên đỉnh cao rừng thẳm không còn nữa. Cổ mộc đang bị đo đếm, tính toán, khen chê theo những quy ước nhỏ bé của con người.
Thông qua mạng lưới kinh doanh cây cảnh rộng lớn của Tâm An, giờ đã chuyển lại cho các con, tiếng đồn cây lão tùng cổ mộc nghìn năm chuyển đi vừa nhanh vừa xa. Hàng ngày, có nhiều khách bốn phương lão luyện trong nghề kéo về chiêm ngắm. Khu vườn phía Đông của dinh ông Hoàng dần dần trở thành một thị trường trưng bày và đổi chác cây cảnh ngoài dự kiến của chủ nhân. Ngoài khách khắp các miền trong nước, có cả khách tận xứ Phù Tang, Thượng Hải, Nam Dương ghé sang để tận mắt chiêm ngưỡng cây cổ mộc nghìn năm. Người ta bàn đến cây kiểng Việt Nam, cổ mộc của Tàu, "bon sai" của Nhật nổi tiếng xưa nay với tuổi thọ mấy trăm năm chồng chất, nhưng chưa ai thấy được cổ mộc kỳ nam tuổi ngót nghìn năm như thế.
Vốn đã quen với lối sống thương trường trong bao nhiêu năm, Tâm An tỏ ta linh hoạt, lịch lãm trong việc bàn thảo, quyết định với khách hàng và khách đến viếng. Việc kinh doanh nơi góc vườn xa khuất nầy diễn ra như thực, như hư. Người ta chỉ trao đổi thì thào rồi kéo nhau ra xa sau các góc khuất lùm cây để trao tiền, trả giá. Thương trường như đền thánh. Khách sành điệu đến ngắm cây cổ mộc vừa bị thu hút, vừa tỏ ra kính cẩn của dáng vẻ con chiên về trước tượng thánh. Tất cả chỉ mua bán đổi chác quanh đám cây nhỏ. Chưa ai dám đem tiền tài ra lượng giá hay ngỏ ý mua bán cây lão tùng cổ mộc.
Càng ngày góc vườn càng có nhiều cây cảnh lạ mắt với bao dáng đẹp tuyệt vời. Những cây rừng mọc hoang co quắt trên vách đá núi cheo leo, thời gian chất chồng, oằn mình sống cằn cỗi chỉ bằng hơi nước và chất men hầu như cạn kiệt từ trong đá... bỗng trở thành danh mộc và được ưa chuộng một cách bất ngờ. Đã có nhiều nông dân bỏ cày cuốc vào rừng sâu săn cây. Lắm tiều phu tạm ngừng đốt than, đốn củi để truy tìm cây kiểng. Kiếm được một cây cổ mộc dáng lạ, độ lớn vừa vặn trồng trong chậu kiểng, từ rừng sâu mang về là kể như trúng năm bảy vụ mùa bội thu.
Tâm An đã tỏ ra có biệt tài về cách xếp bộ, phân loại, đặt tên các loại cây kiểng. Tâm An "Việt hóa" một cách dễ dàng nhưng không kém phần sâu sắc mà ngay cả những nhân vật trong giới cây kiểng cũng phải thừa nhận.
Các trường phái chọn loại hình làm đặc tính tiêu biểu cho cây kiểng, xưa nay vẫn quanh quẩn trong các loại hình cổ kính như: Long giáng, Hổ quỳ, Linh xà, Phi điểu, Tiên tọa, Kê minh... Hay phái võ đương thì chia thành các thế: Kim kê độc lập, Tiên ông tọa thạch, Võ Tòng đả hổ, Hạng Vũ cử đỉnh, Độc trụ kình thiên, Xuyên vân yến... Phái biểu đạt tình cảm thì có: Cuồng lưu, Hạ vũ, Phong đầu, Vân tán... Tích tuồng thì có: Huynh đệ đồng khoa, Phụ tử đăng khoa, Tây Thi tiễn Phạm Lãi, Cao Tiệm Ly tấu trúc, Lữ Bố hí Điêu Thuyền...
Mỗi buổi chiều, khi các mẩu cây kiểng quanh khu vườn phía Đông sắp được xếp vào một vị trí nào đó, Tâm An thường đi quanh và nói với thợ vườn:
- Hình thế tích tình phương dụng đạo.
Niên hương sắc biến tự chân không.
Lúc đầu chẳng ai hiểu là Tâm An muốn nói gì. Hay có người hiểu như đấy chỉ là một câu thơ chữ Nho ngẫu hứng nào đó chẳng ăn nhập gì đến cây cảnh. Nghe hoài thành quen tai. Một hôm, Tâm An giải thích làm mọi người hiểu ra một cách thú vị, rằng:
- Thú chơi cây cảnh là một thú chơi tiêu dao, tao nhã có ảnh hưởng lớn đến đời sống tinh thần. Đấy là một thế giới thiên nhiên thu nhỏ có một nội dung, một điệu sống một phong thái riêng mà đời thường không so được. Người chơi cây cảnh cũng đem hết tưởng tượng, tinh thần và suy nghĩ vào cây như người nghệ sĩ lúc viết văn, làm thơ, họa hình, tấu nhạc. "Hình, thế, tích, tình, phương, dụng, đạo": Là 7 nét tiêu biểu nhất về vẻ đẹp ngoại hình của cổ mộc. Cây kiểng trước hết phải có hình dáng. Khách chơi cây phải biết ngắm nhìn và phóng tầm tưởng tượng vào mỗi sự hiện hữu độc đáo của cây để "thấy" được cái hồn, cái phách của cây có diện mạo như thế nào (hình). Tiếp đến là thế của cây. Cây cảnh phát triển thành nhiều thế khác nhau như: Thế chống đỡ, thế xuôi theo chiều gió, thế ẻo lả, thế u hoài, thế vươn dậy (thế). Sự kết hợp các phần của cây làm cho người ta liên tưởng đến một cảnh gợi hình nào đó trong truyện xưa tích cũ (tích). Cây có thể diễn đạt được cái tình như khao khát, đón mời, trông đợi, quay đi (tình). Có những loại cây sống và hợp ở vùng đất nầy mà không hợp với nơi khác (phương). Cây chưng trong chậu kiểng cũng được dùng thích hợp cho từng hoàn cảnh. Chậu kiểng chúc thọ khác với chậu kiểng mừng đăng khoa hay vui duyên mới (dụng). Và có những cây kiểng nói lên được tinh thần siêu thoát, chấm phá không dựa vào đâu, như như bất động (đạo).
Giải thích hết câu đầu trong sự lặng yên gật gù của những người xung quanh. Tâm An tủm tỉm cười, chắp tay sau lưng len lỏi đi vào trong những nhóm cây đã chia thành hàng, thành lớp. Có tiếng gọi từ phía người nghe vẫn còn chờ đợi và tiếng hỏi vọng:
- Xin đương chủ vui lòng giải thích nốt câu thứ hai.
Tâm An không vội vàng quay lại trả lời mà lắng hết tâm tư và đôi mắt để ngắm cây kỳ nam cổ mộc. Vẫn mùi hương trầm thoang thoảng phát ra tự nhiên từ thân cây làm tăng vẻ quý phái và tôn nghiêm. Tâm An như quên hết thế giới xung quanh, quỳ một chân trên bệ đá làm nền cho cổ mộc với đôi mắt ướt ngước lên tận đầu cành. Kính cẩn. Đam mê. Và trầm mặc... Cả nhóm, không ai nói với ai một lời, tự động lẳng lặng làm theo. Cây bạch tùng cổ mộc kỳ nam hiện ra. Đôi nhánh trắng dưới tàn lá xanh, viền quanh co từ thân trầm đen tuyền. Đôi nhánh bạch tùng vươn ra thầm lặng như đôi bàn tay thánh thiện vô cùng. Tâm An lên tiếng:
- "Niên, hương, sắc, biến, tự, chân, không": Cây cũng như người.  Ngoài vẻ đẹp bên ngoài, phải có hồn phách. Cây có dáng đẹp đã đành, nhưng tuổi càng cao, càng có giá trị (niên). Cây có loại ứa nhựa tiết ra mùi, có lọai không. Mùi cây thì nhiều nhưng tựu trung có 3: Thanh, trọc và bình. Thanh là mùi thơm dịu như mộc, như lan.  Trọc là mùi hăng hắc như sung, như phượng. Bình là có mùi thoảng qua nhưng không rõ ràng nên chẳng ai để ý (hương). Một cây có thể có nhiều màu nhưng toàn thể lại hòa điệu theo một màu nhất định.  Cây có lục sắc, nghĩa là sáu màu chính, nhưng chia làm hai bộ: Ấm và lạnh. Xanh, lam, trắng là bộ lạnh. Đỏ, tím, vàng là bộ ấm (sắc).  Màu sắc của cây có loại thường định không thay đổi, có loại thay đổi theo ngày đêm, thời khắc trong ngày; hay thay đổi theo mùa (biến).  Cây càng mang tính độc lập cao, càng có giá trị. Có những loài cây phải cần dựa vào một đối tượng khác mới đứng vững, mới có giá trị, mới thấy được mình (tự). Cây cũng như một nhân vật. Có loại xuất hiện đích thực là mình. Có loại phải mượn một hình dạng khác. Có loại gốc là thảo mộc nhưng biến hình muông thú. Cây càng giữ được tính gốc của chính nó chừng nào mà vẫn không mất vẻ đẹp, càng được đánh giá cao (chân). Và tuyệt tác của một cây kiểng là khi nhìn vào cây, cây bỗng biến mất. Vì cây mở ra hình tượng một thế giới nhỏ nhưng cao viễn hơn mình (không).
Cao nhất của dáng cây là đạt tới hình tượng siêu thoát của đạo và sâu nhất của hồn cây là đạt tới cảnh không. Người không biến tướng thành một cái gì cao hơn mình là một bị thịt và cây không thoát ra khỏi tầm vóc và chủng loại của nó thì chỉ là một khúc gỗ tươi...
Tâm An vừa nói đến đó thì đã nghe tiếng cười khúc khích của thầy Tiều trên đường vác cuốc trở về. Theo sau là Trí Hải và Phạm Xảo.  Thầy Tiều lên tiếng trước:
- Hì! Hì! Bất tác bất thực. Không làm không ăn. Tâm An theo cây kiểng, bỏ canh tác nên hôm nay khỏi ăn...
Lại đến lượt Tâm An cười giòn tan, vừa cười vừa trả lời:
- Thầy à, xin thầy thư thả một chút cho đệ tử có lời phân giải đã nào. Thầy có biết là một cây kiểng bé nhất trong góc vườn nầy cũng đủ cho cả bốn thầy trò chúng ta sống thừa thãi sung sướng trong vài năm không ạ?!
Phạm Xảo nhướng mắt ngạc nhiên:
- Cây kiểng mà cao giá đến thế sao?
Tâm An vừa chỉ tay lên cây bạch tùng cổ mộc vừa giải thích:
- Cả cái dinh ông Hoàng và Thái ấp này còn có giá chứ cây cổ mộc kỳ nam kia thì vô giá.
Thầy Tiều vẫn không tắt nụ cười, đáp lại:
- Giá trị đo bằng hình tướng là cái thước của ma vương. Ma vương có thể biến hóa con rắn, con chồn thành người đẹp nhưng lại không biến được tâm hồn từ hung ác sang thánh thiện. Con người thì ngược lại, không đổi được hình tướng nhưng đổi được tâm hồn. Sự thay đổi không phải là một cuộc viễn chinh ồ ạt mà tiệm tiến như nước chảy đá mòn. Người thì gọi đó là "tu", người thì gọi đó là dưỡng, kẻ thì gọi là giáo. Tên gọi không quan trọng bằng chính hành động. Chúng ta đang bắt đầu đi tìm suối nguồn đổi thay đó từ chính hơi thở và cái ăn, cái uống hàng ngày. Chúng ta cuốc đất trồng rau vì đã hứa rằng, hễ không làm thì không ăn. Nếu chỉ đơn giản lấy cái ăn của người khác làm cái ăn của mình thì tâm ta không yên ổn khi sống bằng vay nợ. Tâm không an thì ngồi chơi cũng còn bị bứt rứt, tìm đâu ra khoảng tâm không thanh tịnh để mà nhìn lại mình. Nói chi đến chuyện tu hành cho xa xôi. Nay Tâm An để hết tâm lực vào việc đổi chác kinh doanh cây kiểng là hướng đến mục đích gì? Vì tiền chăng? Nếu kiếm ra tiền thật nhiều, chúng ta sẽ làm gì tiếp? Xây một dinh thự đồ sộ như dinh ông Hoàng nầy ngày xưa chăng? Mua một tài sản hàng trăm mẫu ruộng phì nhiêu nhất đẳng điền như Thái ấp này chăng? Chạy chọt cho được một địa vị gần vua như Hoàng thân Trí Hải nầy đã từng có chăng? Câu trả lời đã có sẵn trước mắt từ lâu rằng:  Chẳng đi đến đâu cả! Khi chất keo không còn dính, tòa nhà sập. Đất đến một thời điểm nào đó, đất trở lại đất không. Danh lợi không đeo mãi với con người, người trở về với tay không và chờ ngày hủy diệt.
Tâm An nhìn thầy Tiều buồn bã, hoàng hôn ném những mảng tối trên khu vườn. Khách đã kéo nhau về hết. Chỉ còn bốn người trơ vơ nghe gió đêm về xao xác trong khu vườn. Trong sâu lắng, mỗi người lắng nghe nỗi cô tịch trong lòng mình độc thọai. Tâm An lên tiếng:
- Thưa Thầy và nhị vị hiền hữu, giàu có tôi đã từng. Ngày xưa và cả bây giờ, tiền bạc muôn khối tôi chỉ cần búng tay ra là có. Từ mấy ngày qua, tôi mang ý nghĩ là sẽ gây dựng một khu vườn cây cảnh đặc biệt tại góc vườn phía Đông nầy, khu vườn gồm toàn cây kiểng độc đáo mà từ xưa rày chưa ai từng có. Tôi muốn xây dựng lại dinh ông Hoàng đang đổ nát bằng tiền của chính cây kiểng nơi góc vườn nầy. Và mục đích sau cùng là muốn biến nơi đây thành một khu vườn Thiền với đủ loài cổ mộc danh tiếng nhất cho cả nước và lân bang biết danh. Rồi cũng chính nơi đây sẽ là khu thiền viện đẹp nhất mà thiên hạ chưa bao giờ thấy. Suốt mấy ngày qua, khách sành điệu cây kiểng bốn phương đến viếng không ngớt. Không ngờ kế hoạch khởi đầu của tôi lại thành công và trôi chảy dễ dàng như thế. Có lẽ khắp nơi đang được mùa tu. Thầy và quý hữu đi quanh kinh đô mà xem.  Vua xây chùa, quan xây chùa, bá tánh xây chùa, tu sĩ khắp nơi kéo về tu học... Các vị cao tăng thạc đức đang đứng giữa huy hoàng đèn đưa lọng rước. Giữa chốn kinh đô, đường tu thăng tiến mạnh mẽ và thuận lợi đến như thế, lẽ nào chúng ta lại tự cô lập trong một ngôi nhà cũ kỹ dùng tạm làm chùa và sống hẩm hút bằng tương rau tự trồng, tự cung, tự cấp nơi cái dinh cơ cũ nát, nghèo khó thế nầy?
Thầy Tiều dang tay ra không nói lời nào. Vẻ mặt vẫn cười vui như còn đang mãi miết tìm bắt những luồng gió lạ. Đầu thầy gục gặt không ai biết là Thầy tán đồng hay bác bỏ ý tưởng của Tâm An.
Chiều về, Phạm Xảo pha một bình chè xanh với những đọt chè non sau vườn vừa mới hái. Giọng Thầy ung dung như kể chuyện đời xưa:
- Phật tu đạo và đắc đạo dưới gốc cây bồ đề. Sơ tổ thiền tông, Bồ Đề Đạt Ma, chín năm ngồi đối bóng với bức tường khô khốc để hành đạo. Lục tổ Huệ Năng đến với đạo trong cảnh bổ củi, nấu ăn. Vua Trần Nhân Tông bỏ triều đình lên núi Yên Tử mà tu. Xưa nay, có ai đắc đạo vì chùa to, tượng lớn đâu. Mái chùa là quán trọ của tâm hồn. Chùa là bóng mát nghỉ chân trên con đường tìm đạo chứ đâu phải là suối nguồn của đạo. Đạo ở trong lòng, không ở trong quán trọ. Tâm An đừng mất công loay hoay đi tìm đạo trong những quán trọ vì vẻ hào nhoáng bên ngoài mà quên mất nguồn đạo trôi  chảy thầm lặng trong chính lòng mình.
- Nhưng thưa thầy, việc xây chùa, đúc tượng, kinh kệ, thuyết pháp rầm rộ như hiện nay có phải là con đường tu đạo đang tới hồi hưng thịnh không?
- Quý lắm! Mái chùa nuôi dưỡng lòng thanh tịnh. Kinh kệ làm vơi kiếp khổ đau. Nhà chùa càng xuất hiện nhiều chừng nào; thì nhà tù, nhà chứa, nhà ma... càng biến mất đi chừng đó. Nên xây dựng chùa chiền, tu viện là việc làm phước đức.
- Như vậy, nếu có một nhà đại phú, một mình cho xây hàng chục, hàng trăm ngôi chùa, chắc là phước đức sẽ lớn lắm phải không ạ?
- Nếu xây chùa bằng tâm thánh thì người đó sẽ được mười lần phước đức. Nếu xây chùa bằng tâm phàm thì người đó đã gieo mười căn nghiệp chướng.
- Tâm phàm hay tâm thánh cũng đều phải trút hầu bao ra mà chi phí, trang trải. Làm sao để có thể phân biệt được tâm phàm và tâm thánh sau đống tiền dâng cúng?
- Tâm thánh là cái tâm uyên nguyên thánh thiện trong mỗi con người. Đó là chân tâm, là trí tuệ, là đôi mắt nhìn thấu suốt cái cốt lỏi chân thật của con người và vạn vật. Đã không thì đại danh hay vô danh cũng là không. Tâm phàm là tâm chấp. Đã chấp rồi thì từ một lời nói, một ý thoáng qua hay một tơ hào đều chấp. Đem tâm chấp để xây chùa là tiếp tay vun bồi cho cái tôi kiêu căng - mà chữ nhà chùa gọi là ngã mạn - ngày một lớn lên thô cứng và dày đặc che khuất cả tâm người, tâm thánh. Họ lầm tưởng chùa là Phật hay ảo tưởng Phật là chùa mà quên mất vị Phật rất thật hiện diện trong chính mình. Người ta quen cầu xin lạy lục những thế lực ngoài mình, cúng bái những điện đền tận đâu đâu mà chẳng bao giờ đảnh lễ cái đền thiêng thầm lặng trong chính mình.
Tâm An thở dài:
- Chao ơi! Thế thì khó quá thầy ạ. Biết đâu là tâm phàm, đâu là tâm Phật để lường đây? Như tôi muốn buôn cây xây chùa thì đó là tâm phàm hay tâm Phật, thưa Thầy?
Thầy Tiều lại cười dễ dãi:
- Tâm phàm hay tâm Phật là một, không hai. Khi một người biểu tỏ lòng thương yêu, giúp đỡ người cùng khổ là đang mang tâm Phật. Cũng người đó mà khi nổi lòng tham lam, thù hận là đang sống với tâm phàm.
- Thế thì tâm Thầy là tâm phàm hay tâm Phật vậy?
- Cả hai! Với kẻ đã nguyện đi tu như tôi thì khi biết mình mang tâm phàm bụi bặm cần phải gội rửa từng khoảnh khắc trong tỉnh tức và thanh tịnh thì đó là tâm Phật. Khi tự cho mình mang tâm Phật để làm thầy thiên hạ thì đó là tâm phàm. Khi tôi nói và nghĩ về tiền tài, vật chất là để tâm phàm làm chủ. Khi tôi làm và nói những điều phẩm hạnh hay kêu gọi người đời làm những điều đạo hạnh với cái tâm an nhiên rỗng lặng thì đó là tâm Phật làm chủ.
Tâm An vái dài:
- Vậy là mấy hôm nay, mỗi ngày tôi đã mang tâm Phật nhiều hơn tâm phàm rồi Thầy ạ. Tay tôi làm, miệng tôi nói năng đổi chác cây cảnh với mọi người, nhưng lòng tôi không khi nào bị xáo động. Tiền nào của đó. Ai phải thì tiếp, ai trái thì thôi. Không vui khi bán được.  Không buồn khi ế hàng. Không vội bực mình khi ai chê. Không vội mừng rỡ khi ai khen. Tâm tôi thản nhiên và phẳng lặng khi trao tiền bạc bán cây cảnh cho nhóm thợ xây dựng thiền đường. Tôi thấy rất rõ là mình chẳng sở hữu gì cả và cũng chẳng quan tâm gì đến điều đó. Tôi chẳng cần một đồng xu cho riêng mình.
- Tâm rỗng lặng nhìn chùa thấy chùa. Tâm bon chen nhìn chùa thấy quán. Tâm sân hận ngồi trong chùa mà chẳng biết chùa đâu. Tâm si mê đến chùa chỉ để lễ bái cầu xin. Tâm mới là nơi an trú. Chùa chỉ là mái nhà che mưa nắng để tìm về chân tâm. Có chùa, có tâm, chùa như ngôi nhà có chủ. Có chùa, không tâm, chùa là lữ quán qua ngày.  Có tâm, không chùa như đi trong nắng hạn mà thiếu mất bóng cây.
Phạm Xảo đi nhặt củi quanh vườn trở lại, nghe Tâm An trần tình, cười thành tiếng:
- Buôn bán ít mà mong tiền nhiều là gian thương. Buôn bán nhiều mà mong tiền ít là Ba Gấmơng. Buôn bán mà không cần tiền như Tâm An nhà ta là thánh thương, có phải không à?
Tâm An cười đùa theo giòn giã:
- Là “đáng thương" huynh ạ!
- Đúng là đáng thương mà thương không đáng, nên không đáng thương.
- Thương hay ghét thì cũng đã xong rồi.
- Đóng cửa?
- Có cửa đâu mà đóng. Nhưng đã đủ tiền xây nhà thiền rồi thì kiếm tiền nữa để làm chi?
Phạm Xảo "ồ" lên:
- Thì ra trên đời nầy không phải chỉ có một Hoàng thân nhà tôi là người coi đồng tiền như ảo ảnh sắc không mà Tâm An huynh đệ đây cũng vậy. Thế nhà thiền bao giờ khởi công?
- Một cái “chòi thiền” thì đúng hơn. Cái chòi như một cái dù lá, trương lên và xếp lại chỉ đơn giản như cất nón chào nhau thôi.
- Có thật sự là phải cần một mái thiền thì tâm thiền mới phát tiết không?
Tâm An đang còn lúng túng với câu hỏi của Phạm Xảo thì thầy Tiều đã lên tiếng giải cứu:
- Mưa rơi là mưa rơi. Nắng dọi là nắng dọi. Ca, xang, thiền, ngủ... thì cứ việc ca, xang, thiền, ngủ. Sao lại phải đeo mang nhà cửa vào làm gì cho thêm nặng nề vậy kìa?
Tâm An có cảm tưởng như thầy đang đùa với việc làm của mình, nên cố sửa giọng cho chững chạc hơn, lên tiếng:
- Vậy thưa thầy, như thế thì bao nhiêu chùa chiền, thiền viện đều không cần thiết cả sao?
- Tôi không tu thiền theo pháp môn nào, nên cũng chẳng trả lời thay cho ai được cả. Nhưng khi cần thì một hạt cát cũng cần; mà đã không cần thì cả thế giới nầy cũng chẳng có gì đáng kể.
Sau câu nói của thầy Tiều, Tâm An lững thững đi một mình dưới những tàn cây xanh. Bốc một nhúm cát nhỏ để lên lòng bàn tay, rồi đưa lên ngang tầm môi, chúm miệng thổi nhè nhẹ. Dăm hạt cát bay đi mất dạng. Có ai cần một hạt cát. Giữa thinh lặng bao la, dường như chẳng ai cần ai. Thế nhưng Tâm An lại chợt buồn khi nghĩ rằng, mình vừa đuổi đi, phụ lòng vài hạt cát.
CHƯƠNG MƯỜI BA
Dáng Vẻ Thời Gian 
Người đứng ngoài nhìn vào, đó là một khu rừng nhỏ. Nét xa xăm và cô tịch của dáng rừng tạo nên do những cành cổ mộc mọc rải rác trên đá và trãi dài trên những lối đi. Nhìn rừng cây, người ta dễ liên tưởng đến một ông tiên trên núi đi lạc về đồng bằng. Mỗi gốc cây là một dáng xưa cổ tùng hoang dã. Mỗi phiến đá như còn in dấu vết rêu phong sương tuyết của rừng sâu.
Hoa kiểng là một thú chơi tao nhã, giàu tính nghệ thuật. Thế giới trùng điệp của núi rừng thiên nhiên bạt ngàn được chắt lọc kỹ càng, mang về tô điểm cho khung cảnh nhỏ riêng tư. Núi đồi, khe suối, sông hồ hùng vĩ được thu nhỏ lại thành một thế giới tượng trưng trong một giới hạn nào đó gọi là giả sơn, hay là non bộ. Một hòn giả sơn có thể lớn như khu vườn hay bé bằng nắm tay.  
Tâm An đã cho thợ xây mô phỏng theo bức vẽ về một ngọn giả sơn đã được dựng lên từ cả nghìn năm trước. Đó là hòn núi giả lớn nhất trong lịch sử cây cảnh Việt Nam tên "Vạn tuế Sơn" của Lý Thái Tông được chế tác năm Mậu Thìn, 1028. Theo sử sách ghi lại, ngọn giả sơn ấy có kích thước cao hàng chục, dài hàng trăm thước.
Theo Tâm An thì trong chòm họ hàng cây cảnh phương Đông, Trung Hoa là xứ có lịch sử chơi hoa kiểng sớm nhất. Tiếng Tàu gọi cây kiểng là "bồn tài" có nghĩa là cây trồng trong khay, trong chậu.  Nguồn gốc xa xưa của "bồn tài" là đầu óc giàu tưởng tượng và bàn tay trồng tỉa khéo léo của giới cây kiểng. Họ đã uốn nắn, cắt xén, tạo hình cây trồng trong chậu thành hình con rồng lượn, con rắn cuốn, con voi nằm, con ngựa phi, con hạc chầu, con công múa. Đến khi khuynh hướng tự nhiên có chỗ dựa tri thức của Đạo học và tinh thần thoát tục của Thiền tông thì khuynh hướng tạo hình của cây kiểng cũng chuyển hướng. Thiền hướng con người trở về với thế giới nhỏ trong cái tâm an lạc của chính mình. Nhà tạo hình cây kiểng cũng muốn mô phỏng những cây đại thụ có cành lá rườm rà tỏa chiết cả một vùng thu nhỏ lại như thu nhỏ một vầng trăng  trong đáy mắt.
Kiểng Tàu theo chân các thiền sư Trung Hoa du nhập vào xứ Phù Tang trong thời đại Kamakura, cuối thế kỷ 12 nhưng mãi  đến năm thế kỷ sau thì nghệ thuật cây cảnh mới trở thành một phần văn hóa của xứ nầy. Cùng một khái niệm "bồn tài" của Tàu, nghệ thuật trồng cây kiểng trong chậu thành "bon sai" của Nhật. Thiền đạo kết hợp với tinh thần võ sĩ đạo của Nhật, nghệ thuật bon-sai của Nhật không nhìn cây cảnh qua hoa lá mà nhìn mỗi chậu kiểng như là một tác phẩm nghệ thuật mang tính trầm tư và giải thoát đầy thiền vị. Nhà nghệ sĩ bon-sai cũng như nhà điêu khắc hay hội họa, họ tái tạo thiên nhiên, diễn đạt chí hướng, tâm tư và tình cảm  của mình bằng chất liệu cây thật. Thiền sư Gukaido của Nhật nhận xét rằng, nghệ sĩ bon-sai mới nhập môn thì nhìn cây lá bằng Mắt. Lên một cấp cao hơn nữa thì nhìn bằng khuynh hướng của Ý Thức và "thấm" hơn thì nhìn bằng Tâm và cao hơn hết là nhìn bằng Đạo.
Cây kiểng Trung Hoa thường đi với đá hay tượng, tháp, chùa chiền trang trí kèm với cây. Cây kiểng Trung Hoa là ảnh để ngắm, từ ngoàì nhìn vào. Nhưng bon-sai là sự thể hiện của cái nhìn từ bên trong nhìn ra. Bon-sai tạo ra một thế giới tĩnh lặng cổ sơ, một sự trang trọng của rừng già không vướng bận. Mỗi cây bon-sai đúng nghĩa tự nó có một linh hồn, không cần phải dựa vào tượng đài hay điển tích để định nghĩa cho mình. Dù xuất hiện dưới dáng mọc thẳng hiên ngang, dáng nghiêng theo chiều gió, dáng cheo leo bên sườn non, dáng liễu rũ mai gầy, dáng trơ vơ băng tuyết, dáng cô độc kiêu xa... thì triết lý bon-sai vẫn bàng bạc phẩm cách trung chính của người quân tử trong Nho Giáo và trong tinh thần Võ Sĩ Đạo. Cây kiểng bao giờ cũng ở thế tĩnh lặng giữa đời, không bao giờ chồm về phía trước hay cành vươn ra như muốn ôm choàng lấy người xem.
Khi nghệ thuật cây kiểng phát triển về miền Hoa Nam, nắng ấm và sự xuề xòa cởi mở của thiên nhiên và con người miền Nam góp phần vào nghệ thuật tạo hình cây cảnh. Nếu cây cảnh miền Hoa Bắc diễn tả hết vẻ đẹp chấm phá của mây khói và sương tuyết thì cây cảnh miền Hoa Nam diễn tả sức sống vừa gần gũi với khái niệm đời thường; nhưng cũng đầy vẻ cổ kính và trang đài của tạo vật.
Nghệ thuật cây cảnh miền Hoa Nam du nhập vào Việt Nam rất sớm. Giới nghệ nhân cây cảnh xứ Việt không thoát ly dòng lịch sử và thực tại của giang sơn đất nước mình. Như được un đúc từ tâm lý chống đỡ truyền đời sự xâm thực của những nguồn văn hóa ngoại lai và sự xâm lăng của những thế lực phương xa tràn tới, cây kiểng Việt Nam vô hình chung mang dáng vẻ chống đỡ nhiều hơn là chấm phá và thoát ly. Những khuynh hướng tạo hình cây cảnh phổ biến và được ưa chuộng là "Lấy nạng chống trời" (Độc trụ kình thiên), Ba cây chụm lại thành hòn núi cao, Hòn vọng phu, Thác đổ, Bố con lên đường (Phụ tử đăng trình)...
Mãn Nguyệt Am - nhà nhỏ đầy trăng - là tên mà Tâm An tự đặt cho cái nhà nhỏ ở góc vườn cây cảnh phía Đông vừa mới hoàn thành.  Nghe tên, Phạm Xảo cười ngất và hỏi:
- Gặp đêm ba mươi không trăng sao thì gọi là gì?
Tâm An cười theo, thêm vào:
- Ơ! Thì gọi là U Minh Cốc!
Phạm Xảo vỗ tay khoái trá:
- Ba mươi trời tối: U Minh Cốc
Giữa tháng trăng đầy: Mãn Nguyệt Am.
Đến lượt Tâm An nắm tay Phạm Xảo cười hề hề nhưng không dấu được nỗi xúc động tình cờ:
- Hai câu, hai ý, hai tên đối nhau chan chát. Hay quá là hay huynh tướng công ạ. Cái nhà như lòng người: Vui buồn, sáng tối, gần xa, ấm lạnh... đều xuất phát ra từ một cõi chung.
Cái tên Mãn Nguyệt Am dành cho ngôi nhà không phải phát xuất từ ngẫu hứng mà từ hiện thực.
Với sở trường kinh doanh nghệ thuật cây cảnh dày dạn, Tâm An đã sưu tầm được những loại cây kiểng quý hiếm cùng lúc với việc dựng nhà chỉ trong vòng một tháng. Cái nhà thật ra chỉ là những khung thủy tinh màu hay trong suốt được sản xuất và đóng khung tại Phường Đúc. Tâm An nắm vững được kỹ thuật chế tạo và pha màu thủy tinh của ngành đúc kim loại và nghề gốm quanh vùng Thành Lồi, Phường Đúc nên có khả năng hoàn toàn chủ động sản xuất những tấm thủy tinh có độ dày và màu sắc theo ý muốn.
Chủ ý của Tâm An là dựng một thiền thất theo kiểu "vô môn quan", nhà mà chẳng có nhà; cửa mà không có cửa. Tường và mái của thiền thất là những mảnh thủy tinh có màu sắc chìm lẫn trong cây cỏ. Có chỗ trong suốt để nhìn ra cây cảnh thiên nhiên rủ bóng quanh nhà. Bước vào thiền thất, khách thoạt nhìn sẽ không có cảm giác là mình đang bước vào nội thất mà thấy mình đang bước vào một thế giới nhỏ. Những chậu kiểng được thiết trí theo lối phát triển tự nhiên. Có chậu xếp sâu bên trong, có chậu rủ lá bên ngoài. Những cây cổ mộc lâu năm, do những nghệ nhân kỳ lão trực tiếp tự tay uốn tỉa tài tình theo đủ mọi khuynh hướng cây cảnh. Những hàng cây lớn bé được xếp đặt một cách khéo léo và tự nhiên mang hình tượng rất gần với khu rừng đại lão. Cây kiểng tạo ra một thế giới cổ kính. Một thế giới nhỏ nhắn về kích thước nhưng trãi dài, mở rộng trong tầm nhìn và sâu lắng trong cảm xúc. Cây Kỳ Nam Cổ Mộc chiếm một vị trí đặc biệt nơi thiền thất. Giữa rừng cây kiểng đàn em và con cháu, cây cổ mộc vừa có dáng uy nghi của người thống lãnh, vừa có dáng hiền hòa trầm mặc của một ẩn sĩ đã gác hết chuyện đời vào kho cố sự.
Đêm nguyên tiêu, trăng đẹp như muốn mở cửa trút hết ánh sáng xuống tràn mặt đất.  Bốn người trong ngôi nhà có thể nghe được cả tiếng thở của người kia nhưng khó thấy nét mặt của nhau. Cây kiểng lọc trăng thành một rừng hoa với điểm sáng chen bóng lá che khuất mặt người. Thầy Tiều nhận xét:
- Trăng đẹp quá và kiến trúc ngôi nhà khéo quá. Nhưng để làm gì với ngôi nhà này?
Hơi chững lại trước câu hỏi gần như vô tâm của thầy Tiều, Tâm An cố giải thích nhưng không tin lời nói mình sẽ có một tác dụng nào khá hơn:
- Thì nhà thiền là để tu thiền chứ để làm gì nữa đâu, thưa thầy.
Chẳng nhìn quanh ngôi nhà mới, mắt thầy Tiều hướng về một cõi riêng từ trong dòng suy tưởng của thầy:
- Nhốt trăng trong lồng kiếng cũng như nuôi chim trong lồng son; có bóng, có ảnh, nhưng không có hồn. Trăng thật đó mà không phải là trăng. Chim thật đó mà không phải là là chim. Trăng là trăng của muôn phương. Chim là chim của bầu trời tự do. Thiền là hơi thở giao hòa với vũ trụ; thiền là cái tâm nầy hoà quyện với đất trời... Tâm An dựng cái nhà cây kiểng nầy giỏi lắm, đẹp lắm. Nếu chỉ vì nhà đẹp mà vào đây ngồi thiền thì sẽ mất mạng không chừng...
Tâm An tròn mắt hỏi dồn:
- Thầy! Thưa thầy, thầy vừa nói... vào đây ngồi thiền thì sẽ mất mạng không chừng có nghĩa là... sao?
Thầy Tiều lại cười, tiếng cười đôn hậu làm Tâm An hơi yên lòng.  Thầy nói với giọng đùa vui:
- Hì! Hì! Nhà đẹp thế nầy mà rủ nhau vào đây ngồi xếp bàn, nhắm mắt thì sẽ chẳng thấy gì; ngồi trong nhà đẹp mà chẳng thấy thì có khác gì ngồi ngoài đường. Nếu mở mắt để nhìn ngắm khu rừng cổ mộc hùng vĩ xinh đẹp nầy và bị thu hút vì vẻ đẹp nhân tạo của nó thì lại nương theo cái giả để tìm cái thật. Thiền là một cuộc hành trình gian nan đi tìm cái thật: Cái thật của chính mình mà giới sính chữ gọi là "bản lai diện mục" và cái thật trong chính mình mà hàng sính đạo gọi là "minh tâm kiến tánh". Ngõ vào thiền không phải trụ ở nhà thiền mà có muôn vạn nẻo. Cửa thiền đúng nghĩa là chiếc thuyền làm bằng cái tâm không rỗng lặng. Buồm là sự chuyên tâm thiền định. Gió là năng lực tu tiến riêng của mỗi con người. Thuyền đi nhanh hay chậm, có về bến được hay không còn tùy vào cả ba sức mạnh tổng hợp là thuyền, buồm và gió. Thuyền  có nhẹ nhàng lướt sóng hay bị sóng ngầm nước xoáy cuốn hút giữa chừng, buồm có giương lên đón gió và gió có thổi hay không... Tâm An quý hữu à, nhà nầy đẹp lắm, nhưng chỉ là bến đợi nghỉ chân thôi. Nó không phải là thuyền, không phải buồm mà cũng chẳng phải là gió.
- Thầy ví von hay lắm, nhưng thầy chưa nói rõ vì sao lại có thể bị "mất mạng" trong ngôi nhà nầy?
- Mất mạng không phải là vấn đề chết sống. Mất mạng đối với một hành giả cửa thiền là ngồi trên thuyền đang trôi mà tự cho rằng mình đã tới bến. Nếu lại được trú trong ngôi nhà đẹp đẽ này nữa thì rất dễ bị khung cảnh rừng cây kiểng cổ mộc trang trí quanh đây tạo ra một cảm giác núi rừng kỳ tú ảo tưởng. Một thiền giả học thiền mà cứ ngỡ mình đắc đạo sẽ thuyết giảng những điều đang tìm bằng cái giọng chí tôn của hàng giác ngộ. Ngộ lắm! Quý hữu ạ. Cũng thế, sự mất mạng đối với một người hành thiền là mang ảo tưởng mình đã đạt được chân thiền chỉ bằng khối kiến thức về thiền đã học trong sách vở. Nếu người đó cũng được ngồi trong ngôi nhà đẹp đẽ nầy nữa để tu thiền thì sẽ lạc vì thiền sẽ trở thành ly rượu thánh.  Rượu thánh làm say men cứu rỗi. Thiền giả chưa có công phu thiền định thường say đắm trong cơn men cứu rỗi của chính mình. Từ đó, ngồi trong nhà thiền để tìm đường giải thoát chẳng khác gì con chim tìm bầu trời cao rộng trong chiếc lồng son. Như thế, thay vì tìm về, tìm lại… thì người ấy càng ngày càng đi xa mất hút. Đi xa mất hút cõi về của chính mình cũng là một hình thức ly thân… mất mạng.
Tâm An hỏi lại:
- Không lẽ thầy bảo phải đứng đường, đứng chợ để tu thiền mới dễ tìm được nẻo thiền sao?
Thầy Tiều lắc đầu:
- Tâm thiền thì mọi việc đều thiền. Khi cần thì vào chùa, khi có việc thì ra đứng đường đứng chợ, khi đói thì ăn, khi khát thì uống, khi mệt thì nằm ngủ... đều có khả năng thiền định, chẳng khác gì nhau khi tâm không thay đổi.
- Vậy thì thưa thầy, thầy đang làm gì đây?
Thầy Tiều trả lời gọn lỏn mà cũng đầy xác quyết:
- Thiền!
- Nhưng thầy đang nói chuyện mà?
- Thì nói chuyện bằng tâm thiền.
- Nhưng chính thầy vẫn thường nói là thầy chẳng biết thiền là gì cả, chẳng quan tâm về thiền mà chỉ có định tâm thôi?
Thầy Tiều chẳng buồn để ý câu hỏi hay trả lời mà lại hát vu vơ một mình. Tâm An đưa cả hai tay lên khỏi đầu ra dáng thất vọng:
- Thầy ơi! Đang nói chuyện nửa chừng thầy lại bỏ lững để hát vu vơ. Có lý nào đó cũng là thiền nữa sao?
- Chánh thiền!
- Thầy đang tỉnh hay mơ?
- Tỉnh!
- Thiền?
- Thiền!
- Sao việc gì thầy cũng vừa cho là thiền và lại vừa phủ nhận tính thiền của nó  dễ dàng vậy?
- Tâm An nghĩ thiền thì nó là thiền; nghĩ nó không phải là thiền thì nó không phải là thiền. Thiền không phải là tên gọi. Thiền là một trạng thái được sống thật, sống tận cùng với nguồn suối bao la của chân tâm; sống mở tung mọi cánh cửa cao viễn của trí tuệ và đập vỡ mọi khái niệm thông thường để tự giải thoát sự trói buộc của cảm giác. 
Không nói, không hỏi gì thêm, Tâm An ra trước ngõ xoay xoay tảng đá có ghi hàng chữ "Mãn Nguyệt Am" và đẩy mạnh xuống chân đồi.  Tiếng đá chạm vào đá lục cục như một câu kinh thật không lời.
Ngôi nhà thiền của Tâm An có cái tên rất gợi hình đã theo biển đá lăn xuống đồi. Cái nhà tự đặt tên cho nó theo cái "dụng" tùy lúc.  Giữa mùa trăng, ngôi nhà thủy tinh là nơi đẹp nhất để đón trăng nên được gọi là Nhà Trăng. Mỗi tháng đôi lần, ngôi nhà được chọn làm nơi tập thiền và nói chuyện thiền thì gọi là Nhà Tràng. Và thường khi căn nhà là chỗ lý tưởng để uống trà nên lại được gọi là Nhà Trà.
Khi ngôi nhà thành Nhà Trăng thì chỉ có bốn người là Trí Hải, Thầy Tiều, Phạm Xảo và Tâm An tới viếng. Người ít nói nhất trong nhóm Nhà Trăng là Trí Hải. Tâm An đi từ thắc mắc đến ngạc nhiên khi điểm lại ngày tháng qua. Ngôi nhà lập trên dinh cơ của Trí Hải mà chủ nhân chưa hề hỏi han đến. Trí Hải có mặt giữa mọi người nhưng chưa bao giờ góp ý khen chê. Đợi mãi đến một ngày, Tâm An mới lên tiếng:
- Thưa hoàng thân, Nhà Trăng dựng trên mảnh vườn phía đông đẹp nhất của tôn Huynh, nhưng chưa hề được nghe ý kiến nào của Huynh cả. Vậy là thế nào?
Trí Hải nhìn sâu vào mắt Tâm An và trả lời nhỏ nhẻ:
- Ngôi nhà đẹp thì đã có thầy Tiều khen. Vườn cây quý thì đã có Phạm Xảo khen. Tôi không thấy đẹp nên không khen, đơn giản thế thôi.
Tâm An hỏi một cách kiên nhẫn:
- Ngay cả cây kỳ nam cổ mộc tuổi cả nghìn năm mà Huynh vẫn không thấy đẹp hay sao?
- Không.
- Tại sao?
Trí Hải trở nên đăm chiêu trước tiếng hỏi "tại sao"vừa chân thật, vừa xót xa của Tâm An. Trí Hải nhìn về phía một chân trời quá khứ, hỏi lại mà chẳng hỏi ai. Hỏi như hỏi bâng quơ một mầu trăng ký ức:
- Vì sao? Vì hơn ba mươi năm trước, cùng trên chỗ đất nầy, những chậu kiểng đẹp nhất một thời cũng đã được đặt lên thành núi thành đồi như hôm nay. Tâm An à, ngày đó, tôi còn trẻ lắm. Với uy quyền đang lên của một ông Hoàng phò hoàng tử Cảnh, vị hoàng đế tương lai vừa ở Pháp mới về, tôi nghĩ là thế giới chung quanh cũng phải phủ phục dưới chân mình. Thay vì đi tìm tạo vật thì tôi lại bắt tạo vật tới tìm mình. Thay vì mình phải sống cho đời thì tôi muốn đời phải sống cho mình...
Không nghe lời nói tiếp, Tâm An giục:
- Bằng cách nào?
- Bằng mọi cách. Thuở ấy, tôi muốn đuổi thời gian ra khỏi đời mình bằng cách truyền lệnh cho tất cả gia nhân và hộ binh trong nội phủ không được để cho một lá vàng rơi xuống đất; phải che khuất bình minh và hoàng hôn sau rừng cây hay sau những bức tường cao ngút mắt. Tôi không cho phép đêm tối và ngày qua tự do đi về bằng ánh đèn hay bóng mát. Tôi đã vây màn đọc sách suốt mười năm để tìm những tư tưởng cao xa của người đời hợp với khẩu vị riêng mình và giải thích cho những vấn nạn do mình đề ra. Tôi đã xây dựng mình thành nhân vật trung tâm và muốn tất cả đều phải quay theo bánh xe đặt định của mình. Nhưng thực tế khách quan đã bỏ tôi lại đằng sau để quay ngược lại. Những núi sách tôi đã đọc, những tư tưởng Đông Tây có con đường riêng của nó. Khi nhận ra điều nầy thì đời đã muộn. Cả ức triệu trang sách không giúp tôi hiểu được mình bằng tiếng gáy của con gà trong đêm khuya. Tiếng lao xao nghìn năm của bách gia chư tử không làm tôi sáng hơn bằng vài ba câu nói đơn sơ và nụ cười cùng sự im lặng của sư Trúc Lâm.
Tâm An nôn nóng:
- Tại vì sao?
- Lại vì sao! Vì không có ai ngoài chính mình phải tự bước đi trên đôi chân của chính mình để tìm ý nghĩa của đời sống và tìm lại chính mình cả huynh đệ ạ.
- Sư Trúc Lâm đã thắng yên cương cho hoàng thân lên ngựa, ra roi đi tìm nghĩa sống chăng?
- Không, sư chẳng làm gì cả ngoài đôi lời giải thích lối đi.
- Đơn giản đến thế sao?
- Đơn giản như một cơn sấm sét xảy ra trong nháy mắt đập vỡ tan tành những lâu đài thành quách tưởng như sừng sững kiên cố muôn năm.
- Lâu đài thành quách... ý đại huynh muốn nói là...
- Là những ý niệm cũ kỹ ẩn tàng trong những khái niệm lâu đời.
Tâm An cố nói lớn hơn một chút:
- Huynh ơi, mình đi xa quá, lạc rồi.
Trí Hải nhắc:
- Không, chúng ta đang trên đường mà.
- Thế mà huynh vẫn chưa trả lời là tại sao huynh không thấy cây kỳ nam cổ mộc và vườn cây kiểng nầy là đẹp.
- Vì tôi nhìn từ bên trong nên muốn đem nhà lên núi hay tự mình rời nhà lên núi chứ không muốn mang núi về nhà.  Khi rời nhà lên núi, tôi chỉ là tôi đơn độc và nhỏ bé đang đối diện với vô cùng nên tôi rung động vì tìm được cái đẹp thật. Ngược lại, khi tôi dời núi về nhà là đang dùng trí tưởng tượng để đánh lừa chính mình một cách có ý thức. Tạo dựng những hòn núi giả và những cây kiểng uốn éo, cắt tỉa đủ hình thù làm cổ mộc nuôi trong chậu kiểng là dùng tưởng tượng để đánh lừa. Lừa người nhìn hòn núi thật qua hòn núi giả.  Cho nên, cái đẹp chân thật nhìn từ bên trong đã mất đi và chỉ còn lại cái đẹp dáng vẻ bên ngoài.
Tâm An đứng vụt dậy, ngữa mặt lên trời cười khan, cười vuốt mắt, cười sằng sặc trước sự ngỡ ngàng của mọi người. Giọng lạc đi trong tiếng nấc, Tâm An nói như gào lên:
- Chấp, chấp!  Phá chấp, phá chấp!  Chấp từ trong ra ngoài; chấp từ dưới lên trên; chấp nhất, chấp nhị, chấp tam... chấp ức triệu hằng hà sa số! Thế mà cứ mở miệng ra là "tâm không, phá chấp"! Có thể nào con người lại tự đánh lừa mình tài giỏi đến thế sao. Thưa thầy, thưa chư đại huynh, tôi biết tin ai, biết bám víu vào ai cho phần đời còn lại của mình đây? Thầy dạy phá chấp, sao thầy không coi cái nhà vườn nhỏ bé nầy cũng chỉ là một hạt cát dưới chân thầy. Thầy sợ cái đẹp của nó mê hoặc lòng người. Cái hình tướng bọt bèo của thế gian nầy vẫn còn quan trọng đối với thầy đến thế sao? A! Lại nữa... thưa Hoàng thân tôn huynh, huynh đã mất công vô ích để chẻ cái đẹp bên trong, bên ngoài rạch ròi như chẻ sợi tóc làm tư. Huynh đã nghe được tiếng gáy của con gà trong đêm vắng; huynh đã bừng tỉnh ngộ trong ánh phong quang của nhà sư Trúc Lâm. Huynh tự đánh lừa mình. Sao huynh không đem núi vào tâm huynh, đem hồn huynh lên núi mà phải sợ hãi cái giả, cái chân đã chất lớp thành định kiến trong tâm hồn huynh. Huynh vẫn ngày lại ngày ngồi trên chiếc chiếu của pháp quan để chắt lọc những vẻ đẹp thiên thần hay quỷ sứ mà tự nó không có. Có cái đẹp nào lại chẳng về không, có cái hình hài nào mà không giả hợp? Sao huynh không coi cái thế giới quanh huynh chỉ là đám mây chó (vân cẩu) của duyên hợp, duyên tan?! Cuối cùng, người ta gào nhau tấn công cái "phá chấp" mơ hồ, để đào móng xây dựng cái thành lũy "phá chấp" có tường có khóa.
Trước khi Tâm An kịp kéo sợi dây buộc những khung thủy tinh lại với nhau kết thành ngôi nhà để phá hủy một công trình đầy mồ hôi và thao tác của chính mình, Phạm Xảo đã dang tay níu lại. Tâm An ôm mặt chạy xuống đồi, Phạm Xảo chạy theo sau. Tiếng chân dẫm lá làm xao động cả ánh trăng rằm vằng vặc...
Sáng hôm sau, không hẹn mà cả bốn người lại có mặt thật sớm nơi khu nhà vườn thủy tinh. Nắng chưa lên mà ráng trời phương Đông đã chuyển từ tím sang hồng. 
Tâm An, trong bộ áo quần nâu bạc màu, tay cắp chiếc nón lá rộng vành và cái tay nải mầu lam trên vai đến cúi mình thi lễ trước thầy Tiều, Phạm Xảo và Trí Hải. Với giọng nói nhỏ nhẹ đầy xúc động, Tâm An nói lời cảm tạ và xin phép ra đi:
- Thưa thầy và hai huynh, lần nầy là lần thứ hai và chắc cũng là lần cuối của đời mình, tôi biết mình không có duyên tu học nên đành phải ra khỏi cổng chùa. Cho dù ngôi chùa có thầy và có hai huynh không có cổng, không có nhà nhưng đối với tôi đấy vẫn là ngôi chùa thâm nghiêm nhất. Ngôi chùa không xây bằng sắt đồng, vôi gạch mà xây bằng chất keo của những tấm lòng. Tấm lòng của những chính nhân trong một xã hội đầy dẫy những “ngụy chính nhân” giả làm chân quân tử! Lý do tôi rời thầy và chư huynh thật là đơn giản: Tôi không thấy được đốm sáng nào ở cuối con đường tu học để tìm phương giải thoát. Ngày lại ngày, chúng ta phải đổ mồ hôi để đổi lấy miếng ăn. Thầy thì tạm trú trong một ngôi nhà lâu ngày bỏ hoang.  Hai huynh thì sống qua ngày trong một lâu đài cũ kỹ lâu năm đang đến hồi đổ nát...
Phạm Xảo ngắt lời:
- Như vậy là Tâm An ra đi vì không chịu nổi cái nghèo?
Tâm An lắc đầu hỏi lại:
- Cái nghèo nào?
- ?!
- Tôi chưa rõ ý huynh muốn nói đến cái nghèo vật chất hay tinh thần?
Phạm Xảo trả lời:
- Hình như Tâm An đã nói rõ là cái nghèo vật chất.
- Không huynh ạ. Chính tôi đã tình nguyện tìm đến cái nghèo vật chất. Tôi đã giao lại một sự nghiệp giàu sang không vào hàng bậc nhất thì cũng bậc nhì của xã hội nầy cho vợ con tôi để đến đây cuốc đất trồng khoai lo miếng ăn với quý vị. Cũng như ngay phút nầy nếu cần, đem bán đi cây kỳ nam cổ mộc không thôi chúng ta cũng đủ để thành hàng đại phú.
- Thế sao Tâm An vừa nói trong cảnh nghèo nàn của thầy Tiều ở chùa rách; cảnh hoàng thân ở trong dinh cơ đổ nát làm cho Tâm An không thấy được đốm sáng cuối đường?
Tâm An xua tay:
- Nếu nghĩ vậy là chư huynh đã hiểu lầm ý tôi rồi. Thời còn trẻ tuổi,  lý do tôi đã bỏ chùa ra đi sau mấy năm ở chùa vì chùa quá giàu và quý thầy trong chùa có quá nhiều tiếng tăm và quyền thế. Ngôi chùa Từ Tâm nơi tôi tu học dạo đó được giới quan viên triều đình và hàng tín đồ giàu có thường xuyên lui tới. Tiền bạc, vật chất dâng cúng tại chùa ngày lại ngày rần rần, rộ rộ ra vào không ngớt. Vị thầy trụ trì dường như không có cả thì giờ riêng tư cho mình. Khách thập phương bên trong chưa kịp cáo lui, khách ngoài đã tới. Thầy tôi vốn là một vị danh tăng, một nhà Phật học uyên bác của đất Thần Kinh.  Nhưng quyền lực và tiền bạc đã làm  thầy thay đổi. Giới quan chức triều đình đã đặt thế quyền lên vai thầy. Giới kinh tế giàu có đã đặt tiền bạc vào tay thầy. Thầy trở thành một trung tâm quyền lực. Một tiếng nói, một lời gởi gắm của thầy với Quan thượng  thư, với ngài tổng đốc có thể làm mất chức hay tạo địa vị cho bao nhiêu quan quân lớn nhỏ đến nhờ vả cầu xin thầy. Sẵn tiền bạc, ngoài việc phong tăng, thay chùa, lập đền, xây miếu vô tội vạ, thầy còn tài trợ cho cả những họat động dân gian chẳng liên quan gì đến đạo pháp.  Tôi là đệ tử hầu cận của thầy. Tôi có mặt thường xuyên bên thầy để thấy rõ rằng, địa vị thế quyền của thầy càng tăng thì đức độ, đạo hạnh của thầy càng xuống. Ánh mắt từ ái của thầy càng ngày càng đanh lại. Âm hưởng tiếng cầu kinh thanh thoát của thầy mỗi ngày một luyến láy ngân nga hơn, nhưng lại máy móc và vô hồn hơn. Lời thuyết pháp của thầy ngày một hùng hồn dõng dạc, được quần chúng tham dự ngày một đông với bao lời ca ngợi nhiệt thành, nhưng linh hồn đạo vị trong lời nói pháp của thầy ngày một nhạt.  Khối người quyền thế càng tôn xưng thầy là thánh tăng, thì những đệ tử thầm lặng trân quý thầy như tôi lại càng thấy tính chất phàm tăng của thầy dần dần hiện rõ... Cho đến một đêm khi thầy đang ngủ, tôi quỳ khóc dưới chân thầy suốt nửa đêm về sáng, rồi đảnh lễ thầy và lẳng lặng bỏ chùa Từ Tâm ra đi. Có lẽ đối với thầy ngày đó, sự vắng mặt của tôi bên cạnh thầy cũng không đáng quan tâm hơn một con dơi nương náu trong chùa rời tổ bỏ đi...
Nhìn nét buồn hiếm hoi trên khuôn mặt thường khi hoan hỷ của Tâm An, Phạm Xảo hỏi một cách ái ngại:
- Vậy thì lý do chính trong quyết định bỏ thầy và anh em mà đi lần nầy là gì?
Giọng Tâm An trả lời như một ngọn sóng trào, như một lời oán trách:
- Vì ích kỷ.
Phạm Xảo ngạc nhiên hỏi dồn:
- Ai ích kỷ? Tâm An có thể nói rõ hơn được không?
- Tất cả. Tất cả đều ích kỷ nhưng lại dấu sự ích kỷ của mình bằng đủ hình tướng mà cách đơn giản nhất là dấu sau mặt nạ vị tha. 
- Vẫn chưa rõ ràng gì cả.
- Mọi cái tâm còn chấp sự tốt xấu, hay dở, hơn thua, cao thấp... là còn phân biệt ta với người. Trong đó, cái ta bao giờ cũng hay hơn, có lý hơn, cao thượng hơn, đạo đức hơn, nhân nghĩa hơn... Cái ta lớn đến thế thì làm sao mà xả bỏ cho được. Người ta nói đến tâm không, nói đến vô ngã, nói đến đừng dính mắc. Nhưng cái đầu buông, cái miệng buông, cái tay buông, cái chân buông còn cái tâm thì vẫn khư khư dính chặt bằng cách nầy hay cách khác.
Thầy Tiều và Trí Hải vẫn im lặng ngồi nghe, chẳng có dấu hiệu đồng tình hay phản đối. Chỉ có Phạm Xảo là vẫn lên tiếng với Tâm An:
- Như thế có nghĩa là Tâm An bỏ đi vì thầy Tiều và anh em ở đây còn vị kỷ, không biết đánh giá đầy đủ ngôi nhà thủy tinh và khu vườn kiểng mà Tâm An đã bỏ công sức xây dựng phải không?
- Như thế nhưng lại không hẳn thế vì tôi coi nhà kiếng, vườn cổ mộc và những gì có trong tay cũng chỉ là một phần sinh hoạt nhỏ trong đời sống. Tôi bỏ lại sự nghiệp giàu sang không một chút lưu luyến, nhưng cái tâm tôi vẫn chưa bỏ nên vẫn còn nhắc lại nó với chút tự hào trong những ngày thiếu thốn mọi bề. Tôi đến đây là chỉ mong được giũ sạch những lớp bụi đó đi. Tôi đã nguyện rằng, tôi không tu để thành tiên thành Phật mà để thành người. Một người bình thường tìm hạnh phúc trong cuộc đời thường. Tôi quyết đi cho đến lúc nào tôi coi những bữa cơm rau muối là bữa ăn tự nhiên của mình. Tôi và bát cơm là một. Tôi ngon với cơm và cơm ngon với tôi. Cho đến khi nào bưng bát cơm trên tay, cơm đưa vào miệng, cơm chạy vào bụng tôi để nuôi sống thân thể tôi và tôi được sống nhờ cơm để cảm thụ được hết cái ngon của cơm. Không liên tưởng đến một bữa ăn nào khác, không so sánh bất cứ bữa ăn đâu với bữa ăn này. Những ngày qua tôi cứ ngỡ là đã quên được rồi.  Khi cần miếng ăn, tôi cuốc đất tự nhiên như thở, như cười.  Khi cần tiền xây nhà thiền, tôi mua bán cây kiểng để lấy tiền. Khi đủ tiền rồi tôi chấm dứt không một chút ham muốn hay dây dưa thêm bớt. Đến đây, có thầy, có nhị vị tôn huynh, tôi nghĩ tâm mình đã tìm được con đường an định.
Tâm An ngừng lại như cố nuốt hết những xót xa đang trào lên, dâng lên. Phạm Xảo mở thêm ý:
- Nhưng rồi sự an định đó bay mất vì thầy Tiều và hoàng thân Trí Hải không phải là những nhân vật mà Tâm An kỳ vọng phải không?
- Vâng, tôi rất buồn khổ và thất vọng để nói lên điều này. Thầy Tiều chẳng phải một cao tăng như tin đồn mà trước mắt tôi, thầy cũng chỉ là một người thường, cũng cảm nhận và chấp trước như bao nhiêu người khác. Và hoàng thân Trí Hải cũng chỉ là một nhân vật bình thường như mọi người chứ không phải là bậc tài cao học rộng như tôi từng nghe danh và ngưỡng mộ.
Phạm Xảo lắc đầu:
- Khó thật! Làm sao tìm được tiên thánh giữa đời trần. Tôi có cảm tưởng như Tâm An mãi mê đi tìm một tin đồn hơn là muốn tìm một nhân vật bằng xương bằng thịt.
- Huynh à, thường có lửa mới có khói. Có người, có chuyện thật mới có tin đồn. Như ngày trước cây kỳ nam cổ mộc cũng chỉ là một tin đồn có vẻ như huyền thoại, nhưng thực tế là hôm nay tôi đã tìm ra được nó.
 - Con người vốn sinh ra đã không giống nhau. Cái hiểu, cái cảm của mỗi người lại khác xa nhau nhiều hơn. Như cây kỳ nam cổ mộc đối với Tâm An và giới chuyên môn săn tìm cây cảnh quả là quý hiếm thật, nhưng dưới mắt tôi và đối với nhiều người khác, nó cũng chỉ là một cây bạch tùng già nua, còm cõi, thương tật, sống sót lây lất đâu đó qua bao ngày tháng trên núi đá vôi hoang dã, chẳng có giá trị gì hơn một cây tràm, cây chổi.
Tâm An thất vọng ngồi phệt xuống đất, tròn xoe mắt hỏi lại:
- Có thể như thế sao huynh? Có thể con người thui chột đến độ không nhìn thấy báu vật thiêng liêng như cây kỳ nam cổ mộc đang hiển hiện ở trước mắt người ta sao?
- Con đom đóm nó sáng về đêm, con bướm vàng nó sáng ban ngày; mèo là bạn của người nhưng là hung thần của chuột. Chẳng ai dại dột để bận lòng hỏi vì sao như thế...
Nắng lên tràn nội cỏ. Dứt lời đã lâu mà vẫn chưa nghe thầy Tiều hay Trí Hải lên tiếng, Tâm An quay về phía thầy Tiều, ngõ ý:
- Xin bái biệt thầy. Xin thầy cho tôi một lời khuyên trước lúc chúng ta chia tay.
Thầy Tiều cười, nụ cười dễ dãi và bình dị. Với phong thái thân ái và khoan hòa, thầy đặt tay lên vai Tâm An và nói:
- Thời gian không giới hạn nên chấm dứt cũng có nghĩa là bắt đầu và đưa cũng là đón. Nếu quý hữu đến tìm một người thường đi tu thì có tôi ở đây. Nhưng nếu quý hữu đi tìm một thiền sư hay một cao tăng nào đó qua lời đồn đãi thì chẳng có ai đây cả. Quý hữu vừa ngõ ý cần một lời khuyên thì tôi xin chia lời tôi khuyên chính bản thân mình: Dù trong hoàn cảnh nào, hay trên cương vị nào cũng phải làm một người ngay thẳng.
Tâm An quay về phía Trí Hải, nhưng chỉ thấy bóng vị hoàng thân và Phạm Xảo đang lững thững xuống đồi. Bóng họ trãi dài dưới ánh nắng mai đang lên như hai bàn tay vẫy chào mà không bao giờ nắm được. 
CHƯƠNG MƯỜI BỐN
Cầm Chầu 
Thời kỳ quốc tang và hiếu tang vua Gia Long đã mãn. Kinh đô vương triều bắt đầu trở lại nếp phồn hoa cũ. Phẩm phục đại triều lóng lánh phản chiếu làm nổi bật màu đỏ màu vàng chói lọi đang được phục hồi và trưng bày trở lại trong khắp Đại Nội. Áo kép, áo đơn của quan, quân, cung tần, mỹ nữ… lượt là thêu thùa hoa gấm; những bộ quần áo kiểu cách tân thời và đồ trang sức quý giá tung hô khoe sắc bắt đầu xuất hiện trở lại như để bù cho những tháng ngày cuộn mình nằm im trong rương, trong tủ.
Không khí ca xướng rộn ràng. Ca hò, hát dạo, tuồng cổ hồi sinh và phát triển như những cơn nắng mới reo ca sau mùa mưa âm u. Thể lọai sân khấu trình diễn phổ biến và được ưa chuộng nhất là hát bội. Sự lôi cuốn và hấp dẫn của hát bội mạnh đến độ làm cho người ta lo sợ:
Trồng trầu trồng lộn dây tiêu,
Con theo hát bội mẹ liều con hư!
Quanh mỗi gánh hát trình diễn thường mọc thêm phiên chợ đêm. Các gánh hàng quà vặt như bún, cháo, chè, bánh trái... tranh nhau mua bán bên ngoài trong khi đoàn hát chuẩn bị và trình diễn bên trong. Tiếng trống dạo, trống chầu giục giã đánh thức nếp sống trầm lặng thường ngày. Mùi nem nướng, thức ăn bốc lên mời gọi. Già trẻ, lớn bé mê hát quên ăn, quên ngủ.
Những gánh hát bội đến từ nhiều miền khác nhau. Nhưng nổi bật nhất vẫn là các đoàn hát bội Bình Định và hát bội Huế. Các gánh hát bội Bình Định thường rất xuất sắc trong những tuồng cổ như Tam Quốc Chí, Hán Sở Tranh Hùng, Đông Châu Liệt Quốc. Các gánh hát Huế lại nổi tiếng với những tuồng xưa được các ông hoàng bà chúa sọan lại một cách ướt át và hợp thời hợp cảnh hơn như Tuyết Hồng Lệ Sử, Kim Bình Mai, Lầu Trai Hương Phấn...
Khán giả thuộc tuồng không thua gì nghệ sĩ. Họ nhớ nằm lòng từng câu nói, từng cử chỉ, từng sự cố trong cuộc đời của Tiết Đinh San, Hoàng Phủ Thiếu Hoa, Tạ Ôn Đình, Thoại Ba Công Chúa...
Đặc biệt là những màn phụ diễn nhạc võ Tây Sơn của các đoàn hát Bình Định với những dàn trống mang tên 12 con giáp. Những nghệ sĩ nhạc võ Tây Sơn không bao giờ dám động đến hai tiếng "Tây Sơn" trong kinh đô nhà Nguyễn mà gọi là "Nhạc Võ Hùng Vương".  Những diễn viên đạt đến bậc thượng thặng, siêu thặng thì khi biểu diễn đến độ xuất thần, đánh trống không cần roi trống mà chỉ dùng hai tay. Với ngón tay, bàn tay, nắm tay, cùi chỏ... khi lướt, khi phi, nhảy múa trên 12 cái trống, nghệ sĩ có thể diễn đạt nỗi lòng và tình huống qua âm vang của tiếng trống. Đôi tay tài nghệ của diễn viên khi yêu kiều lã lướt nhẹ nhàng, khi dồn dập gấp rút, khi hùng tráng đĩnh đạc... có thể "nói" lên được dòng đời qua tiếng trống. Những nghệ sĩ thượng thừa Bình Định  đã tạo ra một loại nhạc pháp "Cổ bề thanh động Tràng Thành nguyệt" - Trống Tràng Thành lung lay bóng nguyệt - vượt khỏi tầm kinh điển gọi là "Song Thủ Đả Thập Nhị Cổ" (hai tay đánh mười hai cái trống). Có những nghệ sĩ thượng thừa còn đặt thêm 5 cái trống khác ở phía sau: Một cái ngang đầu để ngã ngửa húc vào; hai cái bên hông để thúc cùi chỏ vào và hai cái đặt vừa tầm gót chân để đá hậu vào. Với dàn "nhạc cổ" (mà cũng là cổ nhạc) 17 cái trống này, những màn nhạc võ Tây Sơn kết hợp với các màn trình diễn tuồng tích hát bội đã đưa hát bội Bình Định lên đỉnh cao nghệ thuật trình diễn sân khấu đương thời tại kinh đô. Các vùng thôn ấp xa kinh đô cũng thi nhau rước những đoàn hát dạo về trình diễn. Rộn ràng nhất là thời điểm lễ hội đầu năm và sau vụ gặt Đông Xuân.
Chiều chiều, từ trên đỉnh đồi khuôn viên dinh ông Hoàng, Trí Hải có thể nghe tiếng trống dạo dập dồn của các gánh hát theo gió Nồm bay đến. Một quá khứ ngỡ như đã khép lại hiện về.
Một thời, Trí Hải và Ấm Thuyên cùng các vương tôn công tử của kinh thành đã từng rước các bầu gánh hát chân truyền về tập luyện nhạc võ Tây Sơn. Vốn là một tâm hồn tài tử nhạy cảm và đam mê nghệ thuật, Trí Hải đến với hát bội Bình Định vừa như là một nhà soạn tuồng tài hoa nức tiếng, vừa là một vị Mạnh Thường Quân hào phóng không ai bì kịp. Với kiến thức uyên bác về tuồng tích và tài đánh trống uốn lượn như múa kiếm của phái nhạc võ Tây Sơn, Trí Hải được diễn viên cũng như khán giả ca ngợi, ngưỡng mộ phong là Ông Hoàng Cầm Chầu Hát Bội. Tiếng trống chầu của Trí Hải không chỉ đơn giản là hiệu lịnh âm thanh thưởng phạt mà còn là phương Nghệ thuật dân gian Việt Nam đặt nặng cái trí và cái cảm ngang nhau. Khán giả thưởng thức nghệ thuật có phong cách để khen chê không phải là khối quần chúng đến xem mà phải là người vừa có tâm hồn nhạy cảm với nghệ thuật. Đấy là người cầm chầu, một nhân vật vừa có tri thức hiểu rõ nghệ thuật và vừa có vị thế xứng đáng để tỏ lời khen chê đúng mức công minh và đúng điệu nghệ thuật. 
Người cầm chầu hát bội là kẻ đại diện cho khán giả để nói lên sự thưởng phạt các diễn viên trên sân khấu qua tiếng trống chầu.  Trống chầu là một thứ trống lớn được đặt trên giá ba chân. Đối với những gánh hát nhỏ, diễn viên đơn sơ, trình diễn nơi những vùng quê xa xôi thì thường chỉ có một trống chầu và một người cầm chầu. Gánh hát qui mô hơn và diễn những tuồng lớn tại các tụ điểm quan trọng thì có hai trống chầu đặt phía trước, hai bên tả hữu sân khấu và có hai vị cầm chầu. Gặp những màn trình diễn đại sân khấu trong một khung cảnh hoành tráng với sự tham dự của các nhân vật quan trọng thì có thêm một trống chầu đặt ở giữa, ngay trước sân khấu gọi là "chầu bổ". Chầu bổ thường chỉ dành cho các vị có chức phận danh tiếng.  Nhân vật cầm chầu bổ không điểm trống sôi nổi và dồn dập như như hai trống chầu tả hữu mà chỉ vung tay điểm trống khi thấy cần phải nhấn mạnh những điểm nổi bật trong một câu hát tuyệt hay, một sự diễn đạt tài tình, điệu nghệ của diễn viên. Hoặc là điểm trống để bổ khuyết cho hai trống chầu tả hữu chưa thưởng phạt đúng mức.
Tiếng trống chầu của Trí Hải nức tiếng kinh thành với ngón chầu điểm xuyết thích đáng, tài hoa, bay bướm và phảng phất nét phóng khoáng, lãng tử.
Trí Hải điểm chầu theo quy cách thông thường là nếu sau một hơi hát hay thì được thưởng một tiếng "thùng", đánh ngay giữa vòng trăng tròn của mặt trống. Nếu hay hơn nữa thì được thưởng hai tiếng gọi là "chầu đôi", nếu tuyệt vời xuất sắc thì được thưởng ba tiếng trống gọi là "chầu ba". Nếu gặp khúc hát hay tuyệt luân trong không khí tưng bừng và hào hứng thì điểm nhiều tiếng liền tay.  Cũng là chầu một, chầu đôi, chầu ba, chầu liên, nhưng tiếng trống điểm của Trí Hải nặng nhẹ gần như hòa điệu với hơi thở của diễn viên và vực sân khấu dậy bằng muôn trùng cảm xúc. Họa hoằn lắm người ta mới nghe một tiếng "tan" đánh lên bìa mặt trống để cảnh cáo một câu hát diễn sai quy cách như hát dọc, hát gãy, hát đâm hơi... hay diễn một điệu bộ lạc dòng, không đúng làn hơi, thanh sắc.  Nghiêm khắc hơn là tiếng "cắc" gõ vào thành trống để cảnh cáo diễn viên về một sai lầm lớn hơn trong diễn xuất.
Một tiếng trống chầu của Trí Hải là một cung nhạc cao thấp, yếu mạnh, nhanh chậm... diễn đạt hết tinh hoa và thần khí của nghệ sĩ trình diễn. Trí Hải nổi tiếng là cẩn trọng và tiết kiệm tiếng trống.  Nhưng khi tiếng trống đã diểm ra rồi thì vang lên với một độ bền và độ sâu đầy ấn tượng cuốn hút vào cõi mênh mông vô biên.
Sự nghiêm khắc trong vai trò cầm chầu và kỹ thuật điểm trống điêu luyện của Trí Hải thường góp phần nâng cao nghệ thuật trình diễn của diễn viên và làm nức lòng khán giả. Với tay chầu tuyệt hảo đến độ xuất thần, tiếng trống chầu của Trí Hải thường gắn bó hài hòa với nghệ sĩ trình diễn. Tiếng trống vang lên sau câu hát vừa tròn trịa, vừa vững chãi làm giá đỡ cho làn hơi và câu hát của đào kép một cách nhịp nhàng và chí thiết.
Ngày sân khấu kinh thành tưng bừng khai mở lại, cũng là lúc Trí Hải muốn yên thân để sống đời lặng lẽ. Bên cạnh thầy Tiều, Phạm Xảo và Tâm An, Trí Hải vừa có cảm giác bình an như đã thật sự được sống mai danh ẩn tích. Nhưng vẫn có những đêm ra đứng ngắm trời, cái cảm giác cô độc vì bị đời bỏ quên lại lấm tấm trong suy tư.  Trí Hải tự cảm nhận rằng, mình không có duyên tu đạo nhưng có thiện ý tu đời. Tu đời là tu bụi. Ngày ngày rủ bớt những lớp bụi ham muốn, bỏ bớt những tham vọng cao xa, quét bớt những phiền muộn quanh mình. Trong vùng an lạc trước mắt, Trí Hải vẫn không tìm ra một điểm dừng làm điểm tưa cho đời mình. Trí Hải linh cảm một điều gì đó khó hiểu như số phận vẫn không buông tha mình, vẫn chực chờ đâu đó...  
Có tiếng xe ngựa dừng chân và tiếng người lao xao ngoài cổng dinh ông Hoàng. Phái đoàn tổ chức và trình diễn hát bội nổi tiếng nhất tại kinh thành xin vào yết kiến Hoàng thân Trí Hải. Phạm Xảo ra mở cổng rồi cùng đi vào với Sáu người. Đi đầu là ông bầu Nam Sơn, một soạn giả hát bội cựu trào rất được nể trọng và cũng là một cựu diễn viên sân khấu hát bội được nhiều người hâm mộ vì vẻ uy dũng và giọng hát tuyệt vời trong những vai khó như Quan Vân Trường, Tạ Ôn Đình, Tần Thủy Hoàng... Theo sau là nhân vật đại diện Tôn Nhân phủ. Sau cùng là bốn đào kép lẫy lừng trên sân khấu. Phía nữ chỉ có đào Nguyệt Nga, một ngôi sao đang lên trong ngành hát bội.  Phường hát bội có bao nhiêu kiểu mặt, đào Nguyệt Nga đều dồi trát hóa trang thành thạo, vai nào mặt nấy, đầy quyến rũ hớp hồn khán giả. Cùng đi chung, có ba "kép độc". Kép nổi tiếng đương thời có kép Nam Xuyên, con trai của bầu Nam Sơn; kép Minh Hùng, kép Sáu Út. Tuy tài năng phát tiết mỗi người một vẻ nhưng quy tụ lại trên sân khấu thì họ đều là những ngôi sao sáng chói đã làm cho hàng vạn khán giả khắp mọi miền đất nước mê say, mong đợi.
Sáu người khách cung kính thi lễ với Trí Hải. Ông bầu Nam Sơn bày mấy món lễ vật tượng trưng trên chiếc khay gỗ chạm khảm xà cừ do đào Nguyệt Nga nhẹ nhàng nâng trên hai tay. Bầu Nam Sơn lên tiếng:
- Khải bẩm Hoàng thân đại nhân, chẳng hay quý thể vẫn khinh an; tinh thần vẫn hằng thường tự tại chứ ạ?
Trí Hải bật cười trước câu vấn an na ná như ngôn ngữ diễn tuồng, đáp lời:
- Chào nghệ sĩ Nam Sơn và quý khách. Chúng ta đều là chỗ quen biết cũ, lâu ngày được gặp lại, thấy quý vị đều khỏe tôi rất mừng. Nếu tôi đoán không sai thì quý vị đến đây cũng vì chuyện cầm chầu, có phải không ạ?
Mọi người cười vui vẻ. Bầu Nam Sơn trở lại với ngôn ngữ đời thường:
- Dạ, quả thật là hoàng thân đoán không sai. Sắp có vụ diễn lớn trên sân khấu cung đình cho triều thần thưởng lãm và có thể có cả hoàng thượng hạ cố ghé xem nữa đấy. Bởi vậy, chúng tôi rất hãnh diện nhưng cũng rất lo lắng. Chỉ một chút sơ hở nhỏ cũng không chừng vong mạng. Nhân vật cầm chầu trong một tuồng hát quy mô và quan trọng như thế không ai có đủ bản lĩnh cao cường hơn là Hoàng thân.
Bầu Nam Sơn đưa mắt tìm sự tiếp trợ của nhân vật đại diện Tôn nhân phủ. Tôn nhân phủ là hội đồng Hoàng tộc dòng họ Nguyễn Phúc của nhà vua. Lời của vị đại diện Tôn nhân phủ tuy mang ý nghĩa nghi lễ tượng trưng, nhưng thường được coi trọng như một tiếng nói đầy danh dự và quyền lực. Vị đại diện Tôn nhân phủ lên tiếng ngắn gọn:
- Kính thưa Hoàng đại huynh, mục đích đã rõ, vậy xin rước tôn huynh cầm chầu cho tuần hát mở đầu để tưởng thưởng bá quan văn võ và đại chúng triều đình đã có công phục vụ và phò trợ nghiêm cẩn nghi lễ đại tang của tiên đế trong thời gian qua.
Trí Hải nghiêm giọng trả lời:
- Nghệ thuật là nghệ thuật, triều nghi là triều nghi xin chư vị chớ lẫn lộn. Bình sinh tôi chỉ quen cầm chầu vì nghệ thuật. Tiếng trống chầu của tôi gắn liền với tài nghệ của diễn viên trên sân khấu, bất chấp khán giả là ai và không quan tâm việc họ có thích hay không. Trong trường hợp diễn tuồng trên sân khấu triều đình như một hình thức lễ nghi tưởng thưởng các quan, tôi rất tiếc là không cầm chầu được.
Mọi người đều ngạc nhiên khi đào Nguyệt Nga e dè lên tiếng:
- Dạ thưa Hoàng thân và các quan chức, lời của Hoàng thân thật chí lý. Nghệ sĩ mà phải diễn tuồng vì run sợ trên quở phạt, dưới răn đe thì cái giỏi, cái hay chỉ còn một nửa.
Bầu Nam Sơn tỏ vẻ thất vọng, băn khoăn:
- Thưa, thế thì trong hoàn cảnh này, đoàn hát chúng tôi phải làm sao đây?
Trí Hải trả lời không do dự:
- Đem sân khấu ra khỏi triều đình!
Bầu Nam Sơn hoảng hốt:
- Ồ chết! Dạ không được đâu. Các quan đầu triều đã quyết định và xuống chỉ thị cho đoàn hát chúng tôi phải diễn tại sân khấu triều đình.
Trí Hải nói rạch ròi như đọc trình văn:
- Ra khỏi cái sân khấu triều đình trong đầu nghệ sĩ, trong trí diễn viên chứ đâu cần phải ra khỏi cái sân khấu chạm trỗ, sơn son thếp vàng trong Đại nội...
Những người có mặt dường như chưa hiểu hết ý của Trí Hải, bỡ ngỡ nhìn nhau rồi chăm chú nhìn Trí Hải chờ đợi. Vẻ mặt không thay đổi, trí Hải tiếp lời:
- Con chim núi Ngự hát hay vì chỉ biết hát tiếng hát tự do. Con sông Hương quanh co ngoài kia đẹp vì không uốn mình cho ai cả. Cũng thế, diễn viên và nghệ sĩ phải sống tự do, sống hồn nhiên, sống tận tình với thiên chức nghệ sĩ của mình. Nếu có sợ chăng thì chỉ sợ mình bất tài không đủ sức thủ diễn, lột tả hết tinh thần của nhân vật mà mình đang đóng mà thôi.  
Những nghệ sĩ tài danh có mặt gật gù tâm đắc. Riêng người đại diện Tôn nhân phủ hỏi lại, giọng pha một chút kiêu kỳ:
- Triều đình là chốn cửu trùng mà không biết kính sợ thì còn đâu là giềng mối quốc gia, thưa đại huynh?
- Nếu giềng mối quốc gia bắt đầu từ sự kính sợ triều đình mà không bắt đầu từ sự kính sợ thiên chức của mình thì nên học Tứ Thư Ngũ Kinh để thi đỗ ra làm quan, chứ đừng học làm nghệ sĩ.
- Ô hay! Đại huynh nói vậy thì nghệ sĩ cao hơn cả nhà quan nữa sao?
- Tôn huynh đệ à, chúng ta đang bàn về chốn nghệ thuật. Nhà quan không có mặt ở nơi này.
Sau câu đối đáp của người Tôn nhân phủ và Trí Hải, bầu không khí rơi vào im lặng. Im lặng vì mọi người đều đồng ý với Trí Hải về vai trò người nghệ sĩ, nhưng tìm đâu cho ra một thế giới nghệ thuật đích thực trên mặt đất này. Một mặt đất ngự trị bởi giống người. Con người thưởng thức và rung động với nghệ thuật nhưng lại cố quay mặt đi và ném vào mặt nghệ sĩ lời bình phẩm bất công và thô bạo: "Xướng ca vô loại!" Chính sự im lặng kéo dài với sự hiện diện của những người "quan trọng" đã chinh phục được Trí Hải. Chỉ có sự im lặng mới là ngôn ngữ chung của những tâm hồn bão nổi. Sự im lặng bên nhau là một thái độ cảm thông và an hòa mang nhiều ý nghĩa tích cực nhất. 
Trí Hải nâng chén trà, ngỏ lời:
- Mời chư vị nhấm trà. Thưa nghệ sĩ Nam San và chư vị, tôi nhận lời cầm chầu. Nhưng tôi chưa rõ là sẽ ở vai nào, chầu tả, chầu hữu hay chầu bổ?
Bầu Nam San giải thích:
- Chắc chắn là tình huống cũng như những năm xưa, Hoàng đại nhân sẽ cầm chầu bổ. Nhưng hai chầu tả hữu sẽ xin gác chầu để cung thỉnh Hoàng đại nhân vào vai đệ nhứt chánh chầu. 
- Tuồng đầu sẽ là tuồng gì vậy?
- Thưa, tuồng Đào Viên Tụ Nghĩa.
- Sao laị không giữ nguyên bản Đào Viên Kết Nghĩa của quý huynh mà lại đổi thành Đào Viên Tụ Nghĩa vậy kìa?
- Vâng, đã bao năm diễn tuồng, hiệu đính và thay đổi tôi mới luận ra rằng kết nghĩa không hay bằng tụ nghĩa. Kết rồi chia, hợp rồi tan, nhưng cần phải tụ lại mới làm nên việc lớn. Quả thật là ba anh em Lưu, Quan, Trương kết nghĩa ở Vườn Đào. Nhưng đấy chỉ mới là giai đọan đầu gặp gỡ để mưu cầu sự tụ nghĩa của thiên hạ mới làm nên việc lớn được.
Đào Nguyệt Nga duyên dáng chen vào:
- Vậy hôm nay chúng ta may mắn gặp nhau ở dinh Hoàng thân là kết nghĩa hay tụ nghĩa đây?
- Bẩm Hoàng thân và thưa chư quan viên, có lẽ cả hai ạ. Kết nghĩa để diễn tuồng và tụ nghĩa để làm vui cho thiên hạ.
Mọi người cười xoà và vui vẻ chia tay sau câu nói của kép độc Nam Xuyên.
Tiễn khách về, Trí Hải cảm nhận một niềm lo lắng vô hình vừa ập đến. Tuy chưa định hình được mối lo là gì và từ đâu đến, nhưng lần nầy, nhận lời cầm chầu xong Trí Hải cảm thấy như sắp thiếu một cái gì rất gần gũi và thân quen. Điểm lại những đêm cầm chầu hát bội trong những màn hát huy hoàng ngày trước, Trí Hải gợi lại trong trí từng khuôn mặt thân cận. Phạm Xảo chăm chút lo khăn là áo lượt cho chủ nhân từ ba ngày trước. Cô hầu thiếp Ngọc Tú chuẩn bị tráp trầu thuốc. Trưởng Thái Ấp chuẩn bị đèn lọng. Đông Hoàng phi đánh bóng khay bạch trắc khảm ngọc để đựng đầy các thẻ tiền thưởng... Nghĩ đến đây, Trí Hải giật mình đứng phắt dậy với tiếng kêu vang động không lọt ra khỏi miệng thành lời: "Tiền! Phải rồi, tiền!" Tiền thưởng mà tiếng nhà nghề gọi là "Thướng". Tiền đâu để ba ngày nữa cầm chầu mà thưởng bây giờ.
Trí Hải đã trải qua một chặng đời chẳng chút bận tâm về tiền bạc, vật chất. Tất cả nhu cầu vật chất tiêu dùng hàng ngày đều có người lo. Thời trẻ tuổi theo phò hoàng Tử Cảnh thì mọi việc đều đã có hai chính phủ Pháp Việt lo. Khi trưởng thành, làm chủ Thái Ấp với mấy trăm mẫu đất nhất đẳng điền, tiền bạc kho lẫm lúc nào cũng đầy ắp và có cả đoàn gia nhân lo xếp đặt mọi việc liên quan đến cơm áo gạo tiền, vui chơi, đìng đám.
Trí Hải không tài nào ngủ được khi tiếng trống chầu từ quá khứ cứ liên tục dội về. Theo tiếng trống thúc chầu đơn, chầu đôi, chầu ba, chầu liên là những thẻ thưởng tiền từ chiếc khay chạm ngọc được người hầu cận ném bay lên sân khấu.Thẻ bạc, thẻ vàng và thẻ hồng bảo bay lóng láng dưới ánh đèn như tín hiệu khẳng định giá trị của nghệ thuật. Sau buổi trình diễn, đoàn hát sẽ mang thẻ thướng để ban tổ chức đổi thành tiền. Thẻ bạc năm quan, thẻ vàng mười quan, thẻ hồng bảo một lạng bạc. Năm lạng bạc đổi được một lạng vàng.  Trí Hải nhớ như in sức mạnh và linh hồn của tiền thưởng đối với các diễn viên và ngay đối với khán giả. Tiền thưởng như một thước đo tiêu biểu đối với tài năng và nghệ thuật của diễn viên sân khấu đương thời. Tiếng trống chầu đôi hay chầu ba chỉ là môt kiểu cách thể hiện âm thanh suông nếu không có các thẻ tiền thưởng đi kèm làm biểu chứng. Trí Hải lạnh mình khi nhớ lại những màn diễn hài của những tên hề mạt hạng dành cho những tay cầm chầu kiết cú, không thưởng tiền thích đáng.
Trí Hải không biết phải xử trí bằng cách nào. Không lẽ rút lui cầm chầu vì thiếu tiền? Chẳng lẽ tiến tới cầm chầu mà không tiền? Tất cả những câu danh ngôn về tiền đều hay, nhưng toàn là những câu nói đến việc cần phải tiêu tiền như thế nào cho thích đáng. Chẳng có câu nào chịu khó nói đến việc làm sao để kiếm ra tiền dễ dàng hơn.
Nỗi ưu tư của Trí Hải lan dần qua Phạm Xảo. Bao nhiêu năm hầu cận, gần gũi với Trí Hải, Phạm Xảo chẳng bao giờ hỏi chủ một đồng lương. Tất cả đều tự nguyện. Xuất thân là một vị tướng, Phạm Xảo mang những thành bại trên chiến trường làm đơn vị đổi chác.  Tướng khai quốc công thần đem mạng sống của chính mình làm tài sản cho đất nước. Tướng quốc phá gia vong đem đất nước làm tài sản cho mình. Cũng như Trí Hải bên cạnh hoàng tử Cảnh, một đời xuôi ngược bên cạnh Nguyễn Ánh, Phạm Xảo không biết đến tiền.  Giờ đây hai ông "tiên không dính đến tiền" bỗng đối diện với thực tế. Một thực tế mà trong đó đồng tiền là bảng thang giá trị, là huyết mạch cho đời sống giao lưu trao đổi đầy sinh động.
Càng gần đến ngày diễn tuồng, Trí Hải càng cảm thấy xuống tinh thần và quay quắt như sắp ngồi trên lửa đỏ. Một ông Hoàng tiếng tăm lừng lẫy sắp tự thú một cách gần như công khai trước mọi người, trước quan chức triều đình rằng, mình là kẻ khánh tận, mình là người trắng tay, mình nghèo khổ đến độ không có chút tiền thưởng cho con hát lúc cầm chầu.
Gặp thầy Tiều trên vườn rau, Trí Hải không muốn chào hỏi gần gũi như trước mà chỉ muốn tách vào bụi rậm ngồi suy nghĩ một mình. Vẻ mặt lúc nào cũng hồn nhiên tươi cười của thầy Tiều như trên thế gian này đã hết mọi nỗi phiền muộn và khổ đau làm cho Trí Hải tăng thêm sự bực mình trong lúc này.
Đang muốn yên thân, tiếng cười khúc khích của thầy Tiều lại đến gần, lên tiếng:
- Hì! Hì! Này hoàng thân, quý hữu đang lo lắm phải không?
Biết là sẽ không có điều gì có thể dấu diếm hay qua mặt vị sư nầy, Trí Hải trả lời cộc lốc:
- Đời là bể khổ mà thầy, ai lại chả có chuyện lúc nầy hay lúc khác phải lo.
Thầy Tiều lại cười, vui vẻ đáp lại:
- Bể khổ cũng như bầy dán, càng xua đuổi trên bề mặt chúng lại càng sinh sôi nẩy nở. Ý nghĩ càng rối rắm lộn tùng phèo như căn nhà đầy rác, bầy dán lại có đất tốt để thành bầy, thành lũ nhanh hơn. Quét nhà cho sạch dán sẽ không sinh. Lọc trí mình cho sáng, bể khổ sẽ cạn dần. 
- Thầy à, ý thầy nói là người ta có thể diệt được nổi khổ một cách dễ dàng và chủ động như thể quét bầy dán phải không?
- Chỉ dễ dàng khi biết được đâu là cái gốc để đốn từ gốc.
- Vậy thì một người đang cần tiền chẳng hạn thì đâu là cái gốc để kiếm ra tiền đây?
- Tiền không phải là cái gốc mà cái gốc là tại sao phải cần tiền và tiền để mua gì?
- Chẳng mua gì cả, nhưng phải cần tiền để thưởng cho con hát lúc cầm chầu.
Thầy Tiều lại cười hề hề vào vẻ ưu tư của Trí Hải:
- Hì, hì! Quý hữu coi bộ sắp tìm ra cái gốc của tiền rồi đó. Cần tiền để cầm chầu cho đẹp; cầm chầu cho đẹp để mua danh; mua danh cho cho nhiều để trội hơn thiên hạ. Nếu giữ Trí Hải vẫn là Trí Hải. Đừng hơn mà cũng chẳng thua ai cả. Không tránh mà cũng chẳng gây. Có tiền cho con hát thì cầm chầu cho vui, mà không có tiền thì đừng cầm chầu. Có sao đâu.
- Nhận lời cầm chầu cho gánh hát bội Nam Sơn lần nầy tôi chẳng mua danh hay bán danh gì cả. Đây chỉ là một việc làm cần thiết mà tôi phải làm thôi.
- Con người ta sinh ra, lớn lên, làm việc kiếm ăn, già nua, rồi chết là một chuỗi sự việc biến hiện lập đi lập lại hoài trên dòng sống bất tận. Trước ngày ta sinh ra và sau ngày ta chết đi thì dòng đời vẫn trôi xuôi không đổi khác. Có gì là cần thiết đâu.
Trí Hải không bắt gặp một nét gì thắc mắc hay băn khoăn trên khuôn mặt thầy Tiều, hỏi lại:
- Nếu thầy không thấy bất cứ một việc gì là cần thiết, sao thầy lại phải đi tu. Như thế, việc đi tu của thầy có cần thiết không?
Lắc lư đầu ra chiều thích thú, thầy Tiều nói giọng khề khà như kể chuyện:
- Đi tu có cần thiết không? Có ai trả lời hộ cho ai được điều nầy. Thử nói chuyện một ông chài sinh ra trong một chiếc thuyền đánh cá nghèo khổ trên sông Hương. Có lẽ đây là một câu chuyện đời đơn giản nhất mà ai cũng đã từng gặp. Lớn lên, anh chài theo nghề cha mẹ bắt cá trên sông để sống. Có một ngày mưa to gió lớn gây cuồng lũ. Thuyền chìm. Ông chài không bơi nổi. Chết chìm. Chết vì tình cờ hay số mệnh? Ông chài kia đâu có chọn lựa sinh ra trên thuyền chài nghèo khổ. Ông ta cũng không chọn lựa chết chìm. Cuộc đời đơn giản và thầm lặng của ông chài cũng đầy những biến cố chằng chịt theo một cách riêng của ông ta. Việc gì cũng có vẻ cần thiết mà thực ra cũng chẳng có gì là cần thiết. Vì tất cả mọi việc lớn nhỏ đều là những phản ứng qua lại. Người ta càng lăn xả vào đời sống thì chuỗi phản ứng càng nhanh và càng rắc rối dính chùm với nhau. Nhu cầu càng tăng, người ta càng tốc lực chạy theo tìm phương tiện để thỏa mãn nhu cầu. Quý hữu, cầm chầu vì cho rằng việc đó rất cần thiết. Cũng có người cho đấy là một việc làm không cần thiết nên khuyên quý hữu khỏi cần bận tâm. Không ai trả lời thay cho quý hữu được cả.  Và dù có trả lời thì chắc gì đã đúng.
Chưa hiểu rõ thầy Tiều muốn dẫn câu chuyện về đâu, Trí Hải hỏi lại:
- Vậy theo thầy thì việc cầm chầu hát bội là không cần thiết và tôi nên từ chối việc đó?
- Quý hữu đặt câu trả lời trước câu hỏi rồi.
- Thứ tự xuất hiện trước hay sau có phải là nhân quả của nhau không, thưa thầy?
- Tất cả đều cần và tất cả đều không cần. Khi đã gieo giống thì cần hay không cần cũng phải gặt quả. Tiếng hát là quả của diễn viên, nhưng là nhân của người cầm chầu. Tiếng trống, tiền thưởng là quả của người cầm chầu, nhưng là nhân của người diễn viên. Cứ thế, mọi việc tác động lên nhau và biến hiện không ngừng.
Trí Hải vẫn không rời được ý nghĩ về cuộc cầm chầu sắp đến, hỏi thầy Tiều:
- Tại sao tôi lại phải loay hoay về những điều tầm thường mà trước đây tôi không màng nghĩ đến, như ý nghĩ về tiền bạc chẳng hạn.
- Tất cả đều nằm sẵn sờ sờ ra đó. Không gọi thì không thưa, không nghĩ thì không hay, không tìm thì không thấy. Chẳng có gì tầm thường mà cũng chẳng có gì cao quý.
Giọng buồn buồn, Trí Hải nói như luyến tiếc:
- Tiếng trống chầu tưởng đã vắng, nào ngờ nó đến như một tảng đá ném xuống dòng sông yên tĩnh của lòng tôi.
Thầy Tiều giọng xác quyết hơn:
- Đá chẻ dòng sông nổi sóng, nhưng khi đá chìm rồi thì dòng sông sẽ lặng.
- Phải chờ đến bao lâu mới lặng?
- Sông không dính đá, đá chẳng dính sông, nên chỉ khoảnh khắc nước chảy, đá chìm thì sông lặng.
- Giữa đời làm sao không dính? Chỉ một cái tâm mà phải chịu cả hai thái cực, an bình và náo loạn thì làm sao mà phân định rạch ròi?
- Quý hữu muốn đi tìm sự an lạc hay đi tìm sự náo loạn của tâm thần? Cũng chính nơi nầy, Tâm An đã không chịu nổi sự nhiễu loạn tinh thần, phải bỏ đi vì khả năng kinh doanh cây cảnh có quá nhiều tiền nên chí tu học không bền vì chỉ lo loay hoay kiếm phương tiện để xây chùa to, viện lớn. Và ở đây, phút nầy, quý hữu cũng đang bị nhiễu loạn tâm thần vì không có tiền cho cuộc chầu sắp đến. Nhiều tiền và không tiền là hai đối cực sinh ra giao động. Chỉ mấy ngày trước đây thôi thì quý hữu cũng như tôi bây giờ. Chẳng có gì nắm trong tay. Chẳng có gì cần sở hữu. Đời sống như một con thoi trở về ngưng lại điểm giữa của khung cửi cuộc đời; không bị đưa qua phải, không bị đưa về bên trái nên lặng yên nơi điểm giữa. Điểm giữa là điểm dừng. Điểm dừng là trung đạo, là gốc của suối nguồn an lạc.
- Vậy tôi phải làm sao?
- Quên phứt nó đi.
- Nghĩa là...?
- Dùi trống cầm trên tay thì đánh. Hát hay thì khen. Hát dở thì chê.  Có tiền thì cho. Không có tiền thì không cho. Đừng sợ ai cười mà cũng chẳng cầu ai khen. Rán tìm cái tĩnh trong cái động. Đừng dính mắc thì thân tâm an lạc. Đã làm điều gì thì phải làm rốt ráo, làm tới nơi tới chốn. Đừng bán lộ đào hồi, nửa đường bỏ chạy.
Trí Hải cười xòa:
- Lại "đừng dính mắc"! Thầy làm tôi nhớ ván cờ quyết đấu với Hàn Kỳ Vương trên sông Hương.
Thầy Tiều cùng cười:
- Trên sông chẳng còn in bóng, nhưng ván cờ dĩ vãng vẫn còn tiếp diễn trong lòng quý hữu sao? Ví thử hôm đó cả quý hữu cùng Hàn Kỳ Vương cùng bị sóng nước cuốn trôi giữa dòng cuồng lũ, hoàn toàn mất dạng thì cũng chẳng có gì thay đổi. Người đời sẽ nhắc đến đôi khi và quên đi vĩnh viễn.
- Nghĩa là mọi việc đến rồi đi, còn và mất chẳng có gì quan trọng cả?
Thầy Tiều lại quay xuống với vườn rau, vừa bước vừa ngoái lại, nhắn với:
- Có chứ! Có một điều quan trọng là chả có gì quan trọng cả!
Tiếng cười của hai người dòn giã, vang vọng một góc vườn.
Tháng 5/2006
Trần Kiêm Đoàn
Theo http://www.trankiemdoan.net/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Cô bé trên mái nhà sàn

Cô bé trên mái nhà sàn Cô bé Lò Thị Chăng đã sống ở chỗ cao nhất trên mái nhà sàn của một gia đình Thái đen gồm 5 người suốt ba ngày đêm. ...