Vũ Trọng Phụng (1912 - 1939)
Vũ Trọng Phụng là một nhà văn, nhà
báo nổi tiếng của Việt Nam vào đầu thế kỷ 20. Tuy thời gian cầm bút rất
ngắn ngủi, với tác phẩm đầu tiên là truyện ngắn Chống nạng lên đường đăng
trên Ngọ báo vào năm 1930, ông đã để lại một kho tác phẩm đáng kinh
ngạc: hơn 30 truyện ngắn, 9 tập tiểu thuyết, 9 tập phóng sự, 7 vở kịch, cùng 1
bản dịch vở kịch từ tiếng Pháp, một số bài viết phê bình, tranh luận văn học và
hàng trăm bài báo viết về các vấn đề chính trị, xã hội, văn hóa. Một số trích
đoạn tác phẩm của ông trong các tác phẩm Số đỏ và Giông Tố đã
được đưa vào sách giáo khoa môn Ngữ văn của Việt Nam. (Theo Wikipedia)
Chương 1:
Mặt trăng rất to và rất tròn, chiếu vằng vặc... cánh đồng lúa
chín như một tấm thảm vàng. Con đường quan lộ rải nhựa, như một con rắn bóng nhễ
nhại, nằm uốn khúc trên tấm thảm ấy. Những làng mạc xa xa hiện ra những nét vẽ
thẳng đen sì.
Đó là vào tháng mười, năm 1932.
Giữa lúc đêm khuya tịch mịch ấy, trên con đường quan lộ, mà
thỉnh thoảng mới có một vài cây xoan không lá khẳng khiu và tiều tụy như thứ
cây trong những bức họa về “cảnh chết”, một chiếc xe hòm phăng phăng chạy hết tốc
lực, thân xe chỉ là một cái chấm đen bóng, còn hai ngọn đèn sáng quắc chiếu dài
hàng nửa cây số thì như hai cái tên vun vút bay dưới ánh trăng.
Xe đương phăng phăng chạy thì đến gần một chỗ ngoặt mà bên đường
có một lớp quán gạch và một cây đa cổ thụ, bỗng dần dần chậm lại, rồi đứng hẳn.
Khi xe đã đứng dừng lại lâu rồi, người ta còn thấy sự cố sức
của người tài xế mở máy sình sịch mấy lần nữa mà xe vẫn không nhúc nhích được một
ly. Rồi thì từ xe bước xuống, hai người tài xế hấp tấp ra mũi xe, lật miếng sắt
che máy ra, loay hoay kiểm điểm bộ máy. Trong khi hai người chưa tìm được cỗ xe
chết vì lẽ gì, thì từ trong hòm kính thấy đưa ra một câu hỏi gắt rất ngắn,
nhưng cũng đủ làm cho cả hai run lập cập.
- Thế nào?
Vài phút im lặng, rồi người tài xế chính ấp úng đáp:
- Bẩm quan, con đã thấy rồi. Cái ống cao su dẫn ét xăng có một
đoạn nát nhủn, đến nỗi xăng chảy cả ra ngoài nhưng mà xuống không thoát.
-...! Sao không liệu mà thay vào cái chuyến chữa hôm nọ
đi?...
Dứt lời “chửi”, “quan” bước xuống xe và sập cửa xe rất mạnh để
tỏ ý giận dữ. Đó là một người gần 50 thân thể vạm vỡ, hơi lùn, trước mặt có một
cặp kính trắng gọng vàng, trên môi có một ít râu lún phún kiểu tây, cái mũ dạ
đen hình quả dưa, cái áo đen bóng một khuy, cái quần đen, rọc trắng, đôi giày
láng mũi nhọn và bóng lộn, làm cho lão có cái vẻ sang trọng mà quê kệch, cái vẻ
rất khó tả của những anh trọc phú học làm người văn minh...
Tài xế chính và phụ, cả hai đều sợ hãi lắm, cứ việc châu đầu
vào cái hòm máy, lúc đánh diêm soi, lúc sờ soạng như
xẩm tìm gậy, chứ không dám quay lại nhìn đến ông chủ, lúc ấy
đứng dạng háng giữa đường, hai tay khoanh trước ngực, đầu hơi cúi xuống phía
trước mặt, cặp mắt gườm gườm hứa một sự trừng trị đáng sợ. Bị chủ mắng tài xế
chính khẽ quát người phụ:
- Cầm lấy cái mùi xoa này, buộc nối vào hai đầu dây cao su!
Mau lên! Mà quấn rõ chặt cho nó thật kín chứ!
Rồi người tài xế chính lại lên ngồi mở máy thử. Cái xe kêu
sình sịch một lúc lâu rồi lại thôi. Mấy bận đều thế cả, hai người càng hấp tấp
bao nhiêu, càng gia công vất vả bao nhiêu thì cái xe càng bướng bỉnh, càng ỳ ra
bấy nhiêu. Lão chủ cười nhạt mà rằng:
- Tội chúng mày đáng chết cả đó, các con ạ!
Hai anh làm công đưa mắt nhìn nhau lo sợ, chứ không dám nói
gì. Lão chủ lại tiếp:
- Chúng mày để ông ngủ đường thì khốn cả đó!
- Lạy quan, chẳng may như thế này, quan thương cho.
Tài xế chính van lơn như vậy rồi lại ra hiệu ngầm cho người
phụ mình cứ việc vờ vịt loay hoay chữa một cách vô hiệu cái bộ máy hầu như
không thể chữa được ấy.
Lão chủ hỏi:
- Thế còn bao nhiêu cây nữa đến Hà Nội?
Anh phụ lái nhanh nhảu thưa:
- Bẩm chỉ còn độ bốn mươi cây.
- Hừ!
Lão chủ hừ một cái đi đi lại lại trên đường bực tức cực điểm.
Nguyên lão ta là một ông đồn điền giàu có đã khét tiếng miền
trung thổ, bữa nay đương đêm khuya về thủ đô, là vì muốn để sáng sớm hôm sau có
đủ thời giờ đến một cửa hiệu kim hoàn, mua một thứ hàng quý giá, để mừng một
ông tổng đốc được đệ nhị đẳng Bắc đầu bội tinh. Cho nên khi thấy xe bị liệt máy
như thế ở giữa đường, đương đêm khuya, không còn biết cầu cứu vào đâu nữa thì
lão băn khoăn và bực tức, băn khoăn về nỗi sợ đến mừng chậm hơn những người
khác thì mất vẻ long trọng, và bực tức về nỗi từ khi lão ta giàu có đến phú gia
địch quốc, từ một anh cai phu mỏ lên đến bậc nhân dân đại biểu, thì chưa hề có
một sự gì trái ý lão mà lão lại phải chịu. Lần này là lần đầu, lão phải chịu
thua cái máy xe hơi.
Lão đi đi lại lại như cuồng chân, như con hổ trong cũi sắt,
nghĩ đến những cái má hồng mơn mởn, những cánh tay trắng như ngà ngọc của mấy
cô đào ở Hà Nội... nếu tài xế của lão đã biết lo liệu từ trước cho cái xe lúc
nào cũng lành lặn hoàn toàn. Vậy mà bây giờ lão phải thơ thẩn giữa nơi đồng
không mông quạnh ngắm trăng suông, nhìn sương tỏa, nghe giun kêu dế khóc, bên cạnh
những
tiếng búa gõ vào sắt cành cạch, những tiếng sình sịch của một
cái xe hơi khó tính cứ muốn chạy lại thôi...
- Tao cho chúng mày nửa giờ sau nữa đấy!
Nói rồi, lão nhằm phía cây đa mà đi thẳng trên một con đường
nhỏ, qua cánh đồng, đi dạo chơi cho tiêu diệt thì giờ, cũng không có mục đích
gì khác...
Mặt trăng lúc này thì mảng mây to lướt qua che đi thành thử
trời đất tối sầm hẳn lại. Sương xuống dầy quá, làm ướt cả áo của lão. Giữa cánh
đồng thấy tản mạn những cục lửa xanh, lửa đỏ trên mặt đất lúc cháy lúc tắt, như
ma trơi. Tiếng côn trùng tỉ tê, ri rỉ, làm cho lão ta bắt đầu cảm thấy sự im lặng,
hiểu rõ được ý nghĩa sự vắng tanh và thôi cũng không nện mạnh gót giầy xuống đường
lộp cộp nữa. Hai tay đút túi quần, lão cúi đầu xuống mà đi, có vẻ ngẫm nghĩ như
một nhà triết học... Chợt thấy về phía trước mặt có tiếng cười khúc khích...
Lão ngẩng lên, thấy bốn năm đống rạ lù lù tiến đến. Thì ra một bọn thợ cấy đi
gánh rạ đêm. Ngần ấy người cười nói chuyện trò vui vẻ lắm.
Lão đứng tránh ra một bên.
Những đống rạ cũng lù lù tiến đến.
Đám mây to đã buông tha mặt trăng ra rồi. Trời đất lại sáng
quang vì cái ánh trăng lạnh lẽo.
Bọn thợ cấy thấy có một người ăn mặc tây đứng đấy thì thôi
không chuyện trò gì với nhau nữa, chỉ len lén rón rén đi qua. Bà lão già đi đầu
khẽ thưa.
- Quan lớn làm ơn nánh cho chúng con đi một thị.
Lão bèn làm ra cái bộ thương người mà hỏi cả lũ:
- Các người đi làm đồng khuya nhỉ? Mùa màng có khá không?
Một người trong bọn đáp một câu oán hận:
- Bẩm quan, lúa bị sâu cắn ráo cả, không đủ tiền thuê ạ.
Bà lão già đi đầu qua rồi thì đến một mụ trông bẩn thỉu. Mụ
thứ ba trông cũng xấu xí. Người gánh cái gánh rạ thứ tư là một ông lão râu đã bạc,
cái đầu trọc quấn trong miếng vải nâu trông như một cái mõ nhà chùa, gánh thứ
năm thì do một cô ả mà quần áo trông gọn ghẽ hơn hết thảy.
Lão trố mắt nhìn... Cô ả gánh rạ hơi cúi nghiêng mặt để đưa mắt
nhìn trộm. Ánh sáng trăng tuy leo lét, song cũng đủ khiến cho hai con mắt rất
tinh tường của nhà điền chủ nom thấy rõ hai cái má phúng phính, một cặp môi nhỏ
và dầy, cái cằm tròn trĩnh và hơi lẹm trong cái vành khăn mỏ quạ bằng láng
thâm. Khi cô ả gánh rạ đi qua, nghĩa là cái mặt đã khuất sau đống rạ tròn, nhà
điền chủ lại trông theo cái váy nâu cũn cỡn, do một đường lạt khíu giữa, cho nó
chẽn đến nửa đùi, một bộ đùi phốp pháp
trắng nõn, trông rất đáng yêu, mặc lòng từ bụng đến bàn chân
đều có một lớp bùn trắng, mỏng, khô, đông lại, đã nứt ra thành từng miếng nhỏ,
sắp rơi xuống...
Nhà tư bản đứng trông cái bộ đùi thôn nữ ấy một cách tần ngần
trong đến vài phút, đoạn như định thần lại, thoăn thoắt bước theo mà nói bằng một
giọng rất ân cần:
- Này chị gánh cái gánh lại chỗ xe ô tô kia, tôi mua một ít
cho.
Thấy lời nói lạ tai ấy, chị nhà quê đứng lại, nửa tin, nửa ngờ.
Lão này nhanh nhảu dùng đến cái giọng hách dịch:
- Xe nổ lốp, người ta phải mua rạ để nhồi vào bánh, mà có sẵn
rạ lại không bán hay sao? Alê mau lên gánh lại, quan lớn trả cho tiền một nửa
gánh! Còn các bà già kia có muốn chờ thì cứ đi đủng đỉnh lại một tí, chị ấy đem
lại chỗ xe đây kia thôi.
Nói xong, lão khôn ngoan bước nhanh về chỗ cái xe. Bọn thợ gặt
cũng đủng đỉnh lên đến đường cái quan thì đặt gánh, ngồi phệt xuống đất, cẳng
xoạc ra và hai tay bó làm một. Còn chị nhà quê ngây thơ thì thoăn thoắt gánh
gánh rạ thẳng tiến đến cái xe hơi, trong đó quan đã chễm chệ lên ngồi và bật
đèn sáng quắc lên rồi.
Hai anh tài xế quay lại, ngừng tay, nhìn ông chủ như có ý đợi
lệnh gì thì lão chủ quát:
- Chúng mày ngẩn người ra làm gì thế? Chúng mày định để ông
ngủ đêm trên xe này phải không?
Thế là cả hai lại quay đầu vào bộ máy. Một anh vẫn còn có gan
khẽ nói:
- Bẩm quan, con đã cắt được một đoạn dây ở chỗ khác để thay
vào đây rồi. Chậm lắm thì cũng chỉ nửa giờ nữa là xe chạy được.
Lời ông chủ:
- Ông cho chúng mày một giờ nữa!
Nói xong, lão chủ quay lại sau lưng nhìn qua miếng kính hậu ở
hòm xe thì thấy bọn thợ gặt đặt gánh ngồi chờ ở chỗ cách xa ô tô những ba mươi
thước còn cô bán rạ thì đã đến đứng bên cửa xe.
- Thưa quan, quan dùng hết cả gánh, hay độ bao nhiêu con
tháo...
- À, con bán cho quan lớn một bên nhé! Tháo đi rồi quan cho
tiền.
Trong lúc cô ả lúi húi tháo một bên quang thì nhà điền chủ ló
đầu ra, đôi mắt phong tình ngắm nghía không chớp...
- Bẩm con gạt rạ ở bên đường đó ạ.
- Ừ, để rồi quan cho tiền.
Vờ tìm ví da trong túi áo, nhà điền chủ mắt vẫn lẳng lơ nhìn
chị nhà quê cho mãi đến khi cầm trong tay cái ví rồi mà vẫn không lấy tiền ra vội,
lại hỏi:
- Con tính bao nhiêu?
- Bẩm quan chả mấy tí, quan cho mấy xu cũng được ạ.
- Được lắm! Con ngoan ngoãn lắm, để ta thưởng cho nhiều tiền!
Con hãy lên xe này để quan đóng cửa không rét quan... Ta đang đến tiềm đây.
Chị nhà quê nhìn đến những đệm dạ đẹp đẽ, những chỗ kền mạ
bóng nhoáng, con búp bê Nhật hay hay, treo ở bên miếng kính, ngọn đèn nhỏ sáng
chói lọi trên nóc xe, thấy nó sạch sẽ quá, sang trọng quá, không dám bước lên.
Nhưng mà quan đã với ra định đóng cửa xe, chị đành liều mà bước lên vậy. Quan
đóng cửa đánh sập một cái rồi lại hỏi:
- Thế con làm vất vả như thế thì mỗi ngày được bao nhiêu?
- Bẩm chỉ được mỗi ngày sáu xu và hai bát gạo.
- Khổ nhỉ! Thế để quan cho năm đồng con may áo mặc tết nhé!
Đây này, năm cái giấy bạc một đồng đấy, con đem về mà mua nhiêu, mua xã cho chồng.
- Con xin quan lớn, cảm ơn quan lớn.
- A, nhưng mà con đã có chồng rồi hay là chưa?
Chị nhà quê cúi mặt không đáp, buộc tiền vào thắt lưng xong đứng
lên.
- Thôi lạy quan, quan cho con xuống kẻo họ đợi.
- Ấy khoan đã! Mặt con tái đi thế kia, khéo không thì trúng
phong rồi đó, để quan lấy cho một tị dầu trong này mà bôi rồi về thì về.
Nhà điền chủ nói xong lấy ở áo ra một lọ gì nhỏ, để đầu ngón
tay vào miệng lọ lắc một cái, rồi quờ tay vào trán chị nhà quê. Chị này cứ để
yên và co ro khép đôi đùi lại, kéo cái váy xuống...
- Giời ơi! Con lạy ông, ông buông con ra!
Giọng quan vẫn ngọt ngào:
- Con im, không được cưỡng... - Giời ơi, lạy ông! Ông đừng
làm hại một đời tôi!
- Im ngay! Quan sẽ cho nhiều tiền... - Bỏ ra! Ái.
- Im cho ngoan nào... - Ối giời đất ơi! Ối làng nước...
Hai anh tài xế khôn ngoan và trung thành muốn át những tiếng ấy,
cứ việc gõ búa thình thình vào một bộ phận nào đó trong động cơ...
Mãi đến lúc ông điền chủ ngồi lên bật đèn, chị nhà quê vẫn nằm
đờ trong xe, hai tay bưng mặt, ngất đi. Lão này cúi xuống, hôn một cái hôn cuối
cùng, lôi cái váy xuống, nhấc chị nhà quê ngồi dậy, mở cửa xe mà đẩy người ta
xuống...
- Thôi, con về với họ mau lên không họ chờ.
Chị nhà quê bị đùn ra thì ngồi phịch xuống đất, vẫn rũ người
ra khóc: “Ối cha mẹ ơi! Ôi cha mẹ...”. Lão này thản nhiên đóng sập cửa lại.
Rồi quát hỏi:
- Xong chưa?
Hai anh tài xế cuống quít gõ một hồi nữa rồi anh phụ trèo lên
mở cửa thử máy. Chợt có tiếng nổ ghê gớm của một lũ người cùng kêu một lượt:
- Ối làng nước ơi! Ối làng nước ơi! Người ta giết người!!!
Nhà điền chủ quay lại nhìn thì đó là mấy người đàn bà đứng
cách xa xe, nhưng mà chỉ kêu choáng lên thôi chứ không dám bén mảng đến. Còn chị
nhà quê vừa mất tân tiết thì vẫn ngồi sệt dưới đất, bên cạnh đống rạ, mà kêu,
mà rên...
Động cơ xe hơi nổ sình sình.
Đằng xa thấy một hồi tù và rúc lên.
Cánh cửa sập một cái, anh ét lên nốt xe...
Ở sau có tiếng lào xào: - “Ta hay Tây? Ta hay Tây?” Nhà điền
chủ quay lại lần nữa thì đó là một bọn người có tay thước, áo tơi, quần xắn gọn,
ý chừng là bọn tuần.
Xe bắt đầu từ từ chạy...
Trước hai vệt ánh sáng của đèn pha thấy hiện ra một người áo
tây cộc, mũ khách bịt kín tai, giày trắng đế cao su, đứng giữa đường giơ hai
tay ra chắn xe, ra hiệu bắt dừng lại.
Anh tài xế ngừng đà xe, quay nhìn chủ.
Lão này điềm nhiên phán:
- Cứ mở hết máy, tội vạ đâu tao chịu!
Thế là chiếc xe hơi cứ nhằm cái bóng người đứng dang tay mà
đâm thẳng, theo cái tốc lực sáu mươi cây số một giờ.
Chương 2:
Trong cái nhà gianh ba gian của ông đồ Uẩn, hôm ấy có đông
nghịt những khách khứa. Ngoài số thân bằng cố hữu đến hỏi thăm cô Mịch bị nạn
đêm trước, lại có cả bọn lý dịch trong làng đến thúc giục ông đồ thảo đơn kiện
lên trình quan trên. Bà đồ phải nghỉ việc đồng áng để ở nhà bếp nước thết
khách. Mấy bà già, mấy cô gái ở hàng xóm cũng sang làm giúp, y như nhà có giỗ tổ
vậy. Còn cô Mịch thì nằm ốm liệt giường, song bọn con giai trong làng cứ há mồm
ra mà cười, sau khi đồn đại nhau rằng ấy là cô bé ấy làm ra thế cho đỡ ngượng
đó mà thôi. Bà Uẩn đặt lên chiếu một mâm đầy những thịt cá rồi thì ông đồ xoa
tay nói: “Bẩm các cụ thương tôi lại hỏi thăm cháu và lo việc cho thế này, thật
cảm kích quá, vậy xin mời các cụ dùng cơm ngay đây cho tiện để còn lên quan kẻo
cụ nào cũng lại phải về nhà thì lích kích quá”. Chứ “các cụ” đây chỉ ông chánh
hội, ông phó hội, ông lý trưởng, ông phó lý, nghĩa là mấy ông tuổi mới độ 40 cả
mà thôi chứ không ai già nua tuổi tác gì, song ông đồ Uẩn dùng lối xưng hô ấy là
bởi cái tập quán ở chốn hương thôn. Bốn ông này đã ngồi chễm chệ bốn góc giường,
nhưng chưa muốn cầm đũa vội, còn ra ý đợi ông trương tuần, một người anh em đồng
tông với... khổ chủ, lúc ấy lên huyện trình quan. Ông đồ nài:
- Mời bốn cụ chánh phó cứ việc cho, rồi chú cháu thì về ăn với
tôi cũng được.
Bốn ông kia còn dùng dằng, may sao đã thấy một giọng oang oác
từ ngoài cổng tre:
- Thôi cứ việc kiện đi là được!
Đó là ông trương tuần đã về. Mọi người xúm lại hỏi han, ồn ào
đến nỗi không còn ai nghe hiểu ai muốn nói gì nữa.
Ông Trương tuần lên họp cỗ, rồi sau một hồi mời mọc nhau lào
xào, mới kịp nói rành rọt cho cả nhà nghe:
- Tôi vào hầu cụ lại, kể hết đầu đuôi thì cụ vội thưa lên
quan, và quan bảo bây giờ bác đồ tôi có thể đệ đơn kiện kẻ vô danh, mà riêng
tôi thì thay mặt cho cả làng mà rất có thể kiện cái ông chủ nào đó, ở chỗ chiếc
ô tô ấy, sao thấy hiệu lại không dừng. Quan bảo cứ làm đơn cho rành mạch thì có
thể vịn vào cớ suýt nữa xe đè phải người mà buộc chủ xe vào tội mưu sát được.
Quan huyện là người tân học, xem ra ý sốt sắng về việc này lắm, chắc thế nào
quan cũng xét xử rất công minh.
Ông chánh hội vỗ đùi rất mạnh, múa tay nói:
- Cái kiện này thế nào cũng phải được! Vì rằng điều can hệ là
biển số xe thì nom thấy rồi, có phải không, ông Trương?
Ông Trương ngần ngừ mà rằng: - Nhớ thoang thoáng thôi ạ. Lúc ấy
tôi cũng hốt hoảng lắm, không biết là số xe thì: hai vạn bốn nghìn tám trăm bẩy
mươi nhăm, hay là hai vạn bốn nghìn tám trăm mười lăm.
Ông lý trưởng trầm tĩnh làm ra mình hiểu pháp luật:
- Mình có nhớ đích xác thì hãy khai số xe. Bằng mơ hồ thì thà
kiện kẻ vô danh còn hơn, kẻo không nhỡ trùng số xe của một người nào khác thì rồi
khốn cả đấy.
Nhưng ông phó hội tức khắc nổi giận mà rằng:
- Việc gì mà khốn cả? Ông bảo việc gì mà khốn cả? Tôi thì tôi
tưởng nếu ông Trương đã nhìn thấy như thế thì cứ việc khai trong đơn cả hai số
xe, mà không rõ đích xác là số nào! Có phải thế không, hở các cụ? Ta chỉ nhầm
mà không rõ là con 7 hay con số 1 mà thôi! Ta cứ việc khai như thế, để nhà chức
trách tiện điều tra chứ việc gì mà sợ!
Ông phó lý ngăn lại:
- Thôi đi, ngộ nhỡ quan trên khiển trách ông Trương, làm sao
đi tuần mà gặp việc như thế, có một hàng số xe cũng không nhớ, thì có phải khổ
cả không? Cái điều ấy ta phải suy nghĩ lắm mới được.
Nói rồi thì ông này từ tốn rót đầy năm cốc rượu. Năm ông mời
nhau, ngửa cổ nốc một hơi cạn đoạn ông chánh hội xắn tay áo, giơ một quả đấm
lên trần nhà hăng hái nói:
- Thôi các ông không phải bàn ra tán vào! Nói lắm chỉ nát
chuyện! Ông Trương lúc ấy mà không nhanh chân chạy né sang một bên đường thì tất
mất mạng rồi, tất nhiên đến quan thống sứ đi nữa cũng không nỡ nào bắt ông ta
phải nhớ kỹ số xe... Vậy thì ta cứ kiện! Mà thằng chánh này xin thề với cả làng
này, nếu thằng chánh này không kiện nổi cái thằng cha dâm ác nào đó, thì thằng
chánh này đem mẹ nó triện đồng mà lên trả lại quan trên.
Mấy chục người quây quần nhau trong gian nhà, ai cũng tái mặt
đi vì kính phục, không ai dám nói gì nữa. Ông chánh đứng lên, cao lênh khênh giữa
đường, lại múa tay mà rằng:
- Không thì nhục lắm, xấu hổ lắm! Mà nhục cho cả làng! Nhục
cho cả cái làng này, các cụ đã biết chưa?
Cử chỉ ấy làm cho ông đồ Uẩn cũng đâm ra sợ xanh mắt. Ông đồ ngăn
một cách vô nghĩa lý thế này:
- Thôi, cụ chánh! Xin cụ đừng nóng nảy quá thế. Việc đã xảy
ra rồi, ta cứ bình tĩnh mà nghĩ đến việc thảo đơn kiện rồi sửa soạn vào quan.
Một người hỏi:
- À, thế nhưng mà quan truyền thế nào? Quan có bảo gì ông
Trương đấy không?
Ông Trương hớn hở đáp một cách sung sướng:
- Có lắm chứ! Quan bảo tôi rằng: muốn kiện hay không thì tùy,
nhưng mà cứ bảo thằng chánh hội với thằng lý trưởng lên đây tao bảo. Quan lại bảo
thêm phải giữ cẩn thận 5 cái giấy bạc một đồng mà lão chủ xe ấy đưa cho con Mịch
thì mới có tang chứng được. A, bác đồ, thế cái số tiền ấy đâu? Đừng có tiêu đi
mất đấy nhé!
- Không, tuy nhà tôi lúc nào cũng túng thật nhưng mà ai lại
tiêu như thế?
Giữa lúc ấy, bà đồ Uẩn mở phòng con gái ra, sưng mặt lên mà cự
ông trương tuần:
- Này, tôi xin ông! Ông khinh bỉ nhà tôi vừa vừa chứ! Tôi
nghèo thực đấy, nhưng không khi nào lại khốn nạn đến như thế đâu! Tôi chưa đến
lúc phải cho con gái tôi đi làm đĩ! Dù sao đi nữa thì con giai tôi cũng vẫn gửi
cho tôi mỗi tháng một số tiền.
Ông đồ nhảy lên mặt đất, như giẫm phải đống kiến lửa, tru
tréo:
- Thôi đi, tôi xin con gái già! Con gái già đừng có thêm điều
đẻ chuyện, không có mà tôi điên tiết lên bây giờ đấy.
Từ buồng bên cạnh cũng thấy giọng của cô Mịch:
- Khổ lắm u ơi! Con sung sướng gì mà u còn phải lắm nhời, lắm
điều như thế nữa!
Ấy thế là ồn ào lên một hồi. Mỗi người vào một lời, thành thử
nhà như là có cuộc loạn đả. Sau nửa giờ vỡ chợ, kẻ khuyên can lại to tiếng hơn
kẻ gây sự, hàng chục cái mồm đàn ông đàn bà, già và trẻ, phân bè kéo đảng nhau
mà nói kháy nhau, chọc tức nhau. Ông chánh hội phải vớ lấy một cái gậy mà rằng:
- Thôi cả đấy nhé! Cấm không ai được nói nửa nhời đấy, kẻo
không có mà thằng này phang cả cho một lượt chứ chẳng từ ai đâu! Lại không biết
người ta bận? Lại không biết người ta chỉ chốc nữa là phải lên quan à? Cút cả
đi cho các cụ làm việc!
Sau câu hát cai quyền ấy, lại nghe thấy tiếng “lên quan”, thì
không một ai dám nói gì nữa. Quá nửa người làng rủ nhau len lét ra về. Bà đồ
vào phòng con gái, lặng im. Sáu người kia dọn giường dọn bàn rồi ông đồ nằm bò
ra thảo đơn kiện.
Ông lý trưởng nói:
- Cái kiện này to lắm! Tôi không được mục kích nên không dám
chắc nhưng mà cứ theo như lời bác Trương nói thì dễ thường chủ xe là lão Nghị
Hách ở tỉnh miền trên ấy chứ chẳng phải xa lạ đâu!
- Thằng cha có hai chục con vợ lẽ trong đồn điền ấy à?
- Cái thằng cha bỏ bã rượu vào ruộng lương dân rồi báo nhà
đoan và chỉ bởi một thủ đoạn ấy đã tậu được ba trăm mẫu ruộng rất rẻ tiền ấy à?
- Chính thế.
- Cái thằng cha độc ác đánh chết người làm rồi vứt xác người
ta xuống giếng, mà khai người ta tự tử ấy à?
- Nó đấy?
- Thế nào? Thế thì phải kiện cho nó bỏ mẹ nó đi chứ?
Ông Lý bình tĩnh đáp ông Chánh:
- Nào biết là rồi nó bỏ mẹ hay chúng mình bỏ mẹ!
Ông đồ vứt bút xuống chiếu, ngồi lên mà rằng.
- Ông nói đến chó cũng không nghe được.
Ông Lý vẫn bình tĩnh một cách khả ố:
- Chó không nghe được nhưng mà tôi nghe được! Đây nhé: lão
nghị ấy có năm trăm mẫu đồn điền trên tỉnh này, một cái mỏ than ở Quảng Yên
này, ba chục nóc nhà tây ở Hà Nội, bốn chục nóc nhà nữa ở Hải Phòng này, bạc
nhà nó cứ gọi gà ăn không hết, vậy ông có đủ tiền chọi nhau với nó không? Vô
phúc thời đáo tụng đình ông ạ.
Ông phó hội cự ông lý:
- Chả nhẽ nó hiếp con gái làng mà không kiện à? Sao ông cứ
bàn ngang thế?
- Tôi không bàn ngang mà cũng không ngăn trở gì ai hết. Ai có
tiền có sức cứ việc theo kiện. Nhưng tôi mong rằng cứ để ông đồ kiện về con gái
ông ấy bị hiếp mà thôi.
Ông chánh ngồi lên ngay ngắn mà rằng:
- À, thế mà lúc nãy ông cứ tự do ngồi vào đánh chén! Ông tưởng
cụ đồ làm bữa rượu ấy để cho ông ăn không đấy à? Ông phải biết nghĩa lý cái mâm
rượu ấy mới được chứ!
- Thôi, ông say rồi, tôi không dám nói nữa.
- Ông bảo ai say? Ông bảo ai say?
- Kìa, chết chửa kìa! Sao lại thế, hai ông?
- Tôi chỉ muốn bảo một mình ông đồ kiện thôi cũng đủ, chứ
không việc gì mà phải có cả lá đơn của làng cũng đứng kiện. Trương tuần không
chết chẹt thì không việc gì đến làng, mà cả làng phải đứng kiện. Tự nhiên trêu
người ta để rồi người ta thù cho cả lũ ấy à?
- Thế ông có biết quan truyền ra sao không?
- Mặc! Ông quyết không ký vào đơn.
- Ông mặc thì kệ ông? Đây có bốn người ký rồi. Chánh hội, phó
hội, phó lý, trương tuần, ký cả rồi. Còn ông là lý trưởng mà không ký thì cũng
không ai cần. Ông là đồ hèn nhát! Ông không muốn lên quan thì ông về đi.
Tuy thế, ông lý trưởng cũng không về. Ông cứ ngồi nguyên chỗ,
chờ cho đến nửa giờ sau khi hai lá đơn kiện
thảo xong rồi thì ông cũng ký. Mọi người đều được bằng lòng
thì lại đến lượt bà đồ Uẩn ra ngăn:
- Thôi, các cụ ạ! Nào biết rồi có ăn thua gì không mà kiện với
tụng, rồi nay quan gọi, mai quan gọi, chỉ tổ mất cả công việc làm ăn. Phương
ngôn đã có câu: Vô phúc đáo tụng đình.
Ông đồ phải làm ầm ĩ lên một hồi nữa rồi người ta mới quyết định
kéo nhau lên quan.
Làng Quỳnh Thôn cách xa huyện lỵ chừng mười cây số. Bà đồ Uẩn
phải mở cái hòm khóa chuông lấy nốt ba đồng bạc chinh ra trao ông đồ. Đó là cả
vốn liếng của một cái gia đình của một thầy đồ có dưới cái roi mây của mình,
đúng sáu đứa trẻ thuộc hạng nửa người, nửa ngợm, và nửa đười ươi. Tiền xe pháo
mà thừa thì chẳng kể, chứ nếu lại ăn hết vào chỗ ấy thì rồi người ta không biết
trông vào đâu mà ăn cho đến tết nguyên đán.
Thị Mịch đã phải gắng gượng ngồi dậy...
Đến lúc thấy mẹ thúc giục, cô bé phải mặc đến cái áo bông,
cái quần thâm là những cái để dành riêng cho ngày đình đám. Cô Mịch tuy nghe thấy
bảo lên để quan khám, nhưng chưa hiểu khám là thế nào. Cho nên cô cứ việc theo
mẹ ra đi.
Cả bọn lôi thôi, lốc thốc, kéo nhau ra khỏi làng. Trước những
cặp mắt toét mà còn tò mò của bọn giai làng, trước những cái mồm cười rất khả ố,
cô Mịch cúi gầm mặt xuống
đất, vịn vào tay mẹ mà đi. Còn bà đồ thì coi bộ đăm đăm,
chiêu chiêu của một tín đồ đạo Gia tô, đi vào cái hàng sẽ dẫn lên cây thập tự,
hoặc sẽ bị chết chém ở thời vua Minh Mệnh vậy.
Qua một cánh đồng ngót hai cây số mới thấy đường cái quan.
Lên chỗ một cái quán mái gianh rồi, ông chánh hội mời cả bọn nghỉ chân để cho một
anh phu xe đi gọi thêm mấy cái xe khác nữa đến cho đủ.
Tám người còn ngồi chờ thì thấy từ xa tiến đến một thiếu niên
áo sa tanh, giầy ban, khăn lượt, áo dạ khoác ngoài, trông sang trọng lắm. Thiếu
niên tiến đến chỗ tám người, nghiêng đầu chào cả lũ mà rằng:
- Tôi hỏi thăm các ông có phải làng có ông đồ Uẩn dạy học thì
chính là cái rặng tre đây kia rồi, có phải không ạ?
- Phải đấy. Nhưng mà ngài tìm ai trong làng?
Lời ông đồ hỏi.
- Tôi muốn tìm chính ông đồ.
- Để có việc gì thế ạ?
- Nguyên tôi là phóng viên một nhà báo...
- Bẩm thế sao nữa ạ?
- Tôi thấy đồn đêm qua, hình như có một việc chẳng may xẩy ra
cho con gái ông đồ.
- Thế ngài ở báo nào vậy?
- Tôi giúp việc cho một tờ báo tên là Lưỡng kỳ, nghĩa là một
tờ báo hàng ngày to nhất Đông Dương.
Ông chánh hội sốt ruột nói phăng ngay:
- Các ông nhà báo hỏi chuyện để lấy tin chứ còn làm gì nữa!
Ông nhận quách đi cho có được không! Chính ông đồ Uẩn đấy ngài ạ. Chúng tôi là
lý dịch trong làng cùng ông ấy đi lên quan đây.
Thiếu niên nghiêm giọng:
- Nếu việc là đích xác thì chúng tôi xin hết sức công kích kẻ
làm bậy, mà bênh vực người yếu thế, mặc lòng kẻ làm bậy, là người quyền thế như
thế nào.
Giữa lúc ấy, anh phu xe đã đi gọi thêm được hai chiếc xe.
Ông đồ Uẩn hỏi thiếu niên:
- Thế ngài là người ở Hà Nội về hay là người vùng này?
- Tôi là con ông chủ ty rượu ở ngay huyện.
- Ồ thế thì hay lắm, mời ngài lên xe về huyện, chúng ta chúng
ta chuyện trò ở dọc đường.
Tất cả có ba cái xe mà những chín người. Anh phu kêu chỉ gọi
về được có thế thôi cả bọn đành phải ngồi ba người một xe. Cái xe cuối cùng kéo
ông đồ, bà đồ và cô Mịch.
Cái đám rước ngoạn mục ấy bắt đầu khởi hành. Ba anh phu xe cắm
cổ kéo... Cùng đường, người ta thấy ông chánh hội và nhà viết báo là hai người
có những giọng hùng hồn,
hết lòng vì nước vì dân. Sau một giờ đồng hồ thì đến huyện.
Huyện Cúc Lâm ở vào chốn ấy quang cảnh cũng như trăm nghìn
huyện khác. Ở một phố kéo dài hai bên đường quan lộ, huyện có nhà bưu điện, nhà
thương, nhà đoan và một nhà lô cốt. Phố xá lơ thơ một ít nhà gạch hai tầng giữa
những cái nhà gianh.
Đến cửa huyện, bốn tay lý dịch trong làng nói gì với bác lính
khố xanh, để cho bác này chạy vào một lúc rồi chạy ra bảo:
- Quan cho vào cả!
Quan huyện còn trẻ lắm, trông chỉ mới ngoài hai mươi tuổi
thôi, đương ngồi cặm cụi viết.
Bốn ông lý dịch vừa phủ phục dưới đất, quan đã giơ tay ngăn:
- Thôi, ta tha cho!
Viên đề lại rón rén để hai lá đơn trên bàn. Quan cúi xuống đọc
đơn. Sự im lặng trong huyện đường khiến cho quan càng oai vệ lắm. Bỗng quan ngừng
lại, hất hàm bảo một lính lệ:
- Dắt hai người đàn bà kia sang nhà thương để quan đốc khám
nghiệm!
Tên lính lệ ra hiệu cho bà đồ và cô Mịch lại quay ra để theo
gót mình.
Quan xem đơn một lúc rồi ngẩng đầu lên hỏi:
- Thế các thầy lý dịch phải gọi ba bà già với ông cụ gánh rạ ấy
lên đây ký vào đơn làm chứng nhé? Chiều ngày mai thì lên cả đây, hiểu chưa?
Bọn lý dịch giậm dạ vang huyện đường. Vừa lúc này thấy viên
cai lệ từ ngoài nhanh nhẹn lẻn đi vào để lên bàn giấy quan một tấm danh thiếp:
Quan trầm ngâm một lát, hỏi:
- Trong bọn này ai là trương tuần Quỳnh Thôn?
Bác trương xích ra, kêu:
- Bẩm con,
Quan khẽ bảo:
- Thử vờ ra xem có phải chính cái ô tô ấy không rồi lại vào
đây.
Bác trương ra cửa huyện đường một lát rồi quay vào, kêu lên:
- Bẩm quan lớn, chính đấy ạ.
Quan phán:
- Lệ đâu! Dắt bọn này ra cửa sau huyện mà cho về. Lý dịch thì
rồi chiều mai phải viện đủ chứng tá đến. Còn anh cai thì ra bảo rằng quan tôi
cho vào.
Ba phút sau, khi bọn ông đồ Uẩn đã thảo ra rồi thì quan huyện
chỉ thấy một người đàn bà, một mỹ nhân nữa, quần áo tân thời, sang trọng bệ vệ,
bước vào, cười nói rất tự nhiên mà rằng:
- Lạy quan lớn ạ! Chúng tôi phải dùng thiếp của ông nghị tôi
thì chắc quan mới cho vào ngay. Vậy xin lỗi quan lớn nhé! Tôi thay mặt ông nghị
Hách tôi, đến thưa với quan lớn một chuyện riêng... Thế ngài có bằng lòng tiếp
tôi không nào?
Chương 3:
Cái ấp của nhà triệu phú Tạ Đình Hách thật là đồ sộ nhất tỉnh,
đến dinh quan Công sứ cũng không to tát bằng. Ấp ở cách tỉnh lỵ năm cây số, làm
trên một ngọn đồi cao một trăm thước, diện tích ước độ mười mẫu ta. Chung quanh
ấp, nghĩa là sườn đồi, thì giồng toàn một giống cà phê, khiến cho khách bộ hành
từ đằng xa đã thấy một quả núi nhỏ xanh đen mà trên ngọn là ba tòa nhà tây, tòa
giữa thì ba tầng, hai tòa bên thì hai tầng, trông kiên cố và oai nghiêm như một
trại binh vậy. Điểm lơ thơ bên cạnh những tòa nhà ấy, là những cây gạo, cây muỗm
cổ thụ, những cây ngô đồng và những cây thông. Chung quanh ba tòa nhà có vườn
hoa thì là một vòng tròn rào găng cao tới hai đầu người và dày độ hai thước. Cồng
chính của ấp, xây bằng xi măng cốt sắt, là một cái thể môn kiểu Nhật Bản trên
có đề bốn chữ nó tỏ rõ cái linh hồn ông chủ: Tiểu vạn trường thành. Từ cổng ấp,
nghĩa là từ lưng chừng đồi mà xuống đến đường quan lộ, thì có một con đường
nhỏ cũng rải đá và đổ nhựa kỹ càng cũng như đường thuộc địa.
Trong ấp cái gì cũng ngăn nắp lắm. Trước cái tòa nhà ba tầng
mà người ta phải leo lên bằng mười sáu bực thềm đá là cái sân rộng rải cuội, có
những luống hoa hoặc cỏ tóc tiên, có một cái bể tròn xây nền xi măng sâu ba thước,
mà chung quanh là một đường lan can gỗ chạm và sơn son thiếp vàng. Trong bể thả
sen, vì bể lúc nào cũng nhiều nước. Ba đường máng kẽm bắt chung quanh mái ba
tòa nhà rồi ăn ngầm dưới lớp cuộc ở sân dẫn nước mưa vào bể. Chung quanh bể là
một lượt liễu yểu điệu như những thiếu nữ đứng xõa tóc châu đầu nhìn xuống mặt
nước. Cách ba gốc liễu một, lại có một cái ghế đá như ở những công viên. Cách
năm góc một, lại có một chuồng chim, đầy những con vành khuyên, ri ca, bay ở
trên để cho một đôi trĩ, lông đuôi dài lê thê từ tốn đi lại ở dưới. Những luống
hoa đều đắp theo những hình vẽ kỷ hà học: tròn, bán nguyệt, lục lăng. Những cây
hoa tây, ta, và tàu, trong những luống hoa, đều giống thành những hình chữ hỉ,
chữ thọ, hoặc những chữ T.Đ.H là những chữ đầu về tên họ nhà đại phú. Những cái
đôn sứ hình trống, hình voi phục, bày rải rác trong cái sân trước, cũng đã vào
số hai trăm.
Sau tòa nhà ba tầng là sân cỏ có loáng thoáng những cây cau
và thông. Giữa sân là một cái nhà giống như nhà kèn các tỉnh, mái bằng đá đen
trên tám cột hình bát giác,
trên nóc có ba chữ hán: Nghinh phong đình... Trong Nghinh
phong đình sẵn có bàn ghế để chủ nhân giải khát với khách khứa, vào những ngày
hè nóng nực.
Từ cái sân này đi mãi vào năm trăm thước nữa đến một khu bốn
gian nhà gạch một tầng, xây bên cạnh một cái sân tròn, rào bằng lưới thép, bên
trong inh ỏi những tiếng gà Nhật Bản, gà tây... Bốn gian nhà ấy là chỗ nuôi lợn,
bò, dê, thỏ và là chỗ ở của những anh bếp, thợ vườn. Từ khu này lại đi hai trăm
thước nữa thì đến một nơi cây cối um tùm phảng phất như lăng. Giữa đám lá xanh
rậm rạp ấy, nhoi lên một cái sinh phần bằng cẩm thạch, lối bài trí và kiến trúc
theo kiểu Xiêm La, để mai sau chủ nhân gửi nắm xương tàn.
Xem lối ăn ở như vậy thì thật là đế vương. Là vì riêng cái
tòa nhà ba tầng ở giữa ấp thì tầng dưới là phòng khách, tầng gác nhì là phòng
ăn, mà gác ba mới là chỗ làm việc và phòng nghỉ của nhà tư bản. Còn hai tòa nhà
hai tầng ở hai bên thì một là để cho gia đình họ mạc, hoặc các bạn thân đến ăn ở,
và một nữa là nhà tờ, những phòng ngủ đồ đạc rất sang trọng nhưng mà chỉ đề
phòng xa. Thành thử bọn gia nhân gồm có quản gia, tài xế, thư ký ấp, đều được mặc
sức tung hoành như những người nhà của ông chủ.
Tóm lại một câu thì ấp Tiểu vạn trương thanh là một tòa lâu
đài hẳn hoi, vì cách ăn ở của chủ nhân khiến ta phải tưởng tượng đến cách
ăn ở của những vị công hầu, khanh tướng, trong những tiểu thuyết Tàu vậy.
Buổi sáng hôm ấy, mười một cô nàng hầu của nhà triệu phú,
không phải đi coi đồn điền. Bốn hôm trước, Tạ Đình Hách, trước khi ra đi, vào
lúc đêm khuya, có nói với mấy người rằng sẽ không có mặt ở ấp độ một tuần lễ,
vì sau khi về Hà Nội mừng ông bạn tổng đốc thì sẽ xuống Hải Phòng có việc với
bà cả, rồi tiện đường đi thăm mỏ ở Quảng Yên. Vậy mà mới sáng hôm nay lại có một
bức điện tín đánh về rằng nội chiều nay thì “quan” về, nên chỉ mười một cô ả
kia lại được ở nhà sửa soạn hầu hạ một ông chồng mà họ khiếp sợ như một vị bạo
chúa. Vì chung mỗi người đều có một cái tiểu sử về nhân duyên kỳ lạ và đặc biệt
cả, nên ai cũng hiểu rõ cái địa vị của mình, thật chả khác địa vị của một cung
phi, mặc lòng họ không là cung phi. Thôi thì ai cũng hết sức tự tô lục chuốt hồng,
chiều chuộng nịnh hót đức lang quân, ngõ hầu được với luôn thì đã đủ là hân hạnh.
Ngày thì họ là những tay quản gia đồn điền của ông chủ. Đêm đến họ là vợ... Mà
những ngày chẳng may mà bà cả ở Cảng về thăm thì họ chỉ là những người đi hái
chè, đi giồng cà phê, lương mỗi ngày mỗi người được 15 xu. Cách cư xử và ăn ở của
họ trong ấp, thật giống với cái đời của những cô ả đào.
Trong số mười một cô ấy, có tám cô gái quê một trăm phần
trăm, và ba cô là gái giang hồ lượm lặt, sau mấy
cuộc dạ yến ở Hà Nội, Nam Định, hoặc Hải Phòng của nhà tư bản,
có mười cô được ông chủ đặt tên cho là: Phú, Quý, Thọ, Khang, Ninh, Nhân,
Nghĩa, Lễ, Trí, Tín. Còn một mụ, trạc độ 40 tuổi, giám đốc bọn ấy và giữ chìa
khóa két trong nhà, chi lương cho thợ gặt và gia nhân, nghĩa là người được ông
điền chủ tin cậy nhất, thì vẫn giữ nguyên tên cũ là cô Kiểm, nguyên xưa cô này
đã lấy một ông tây kiểm lâm một đêm, ông Nghị Hách xuống Cảng, trong một lúc rỗi
việc, đã đến một khách sạn nọ thuê buồng. Thằng hồi săm gọi đến Kiểm lâm phu
nhân. Thế rồi thì... Ít lâu về sau, cô Kiểm về làm cô nàng hầu cả của quan nghị.
- Gớm chửa kìa! Các bà lớn còn ườn xác ra mãi thế! Dậy đi
thôi chứ! Quan cũng sắp về rồi đấy!
Tay cầm một chùm chìa khóa, tóc vấn trần, chân dép dừa quai
nhung, co ro trong một cái áo len rất đẹp, cô Kiểm nói dõng như vậy, rồi đứng sừng
sững trước cửa phòng, một cái phòng rộng rãi có kê tám cái giường tây gỗ, chân
màn đủ cả như trong một cái phòng hộ sinh. Lúc ấy cũng chỉ còn có vài ba cô nằm
ngủ li bì thôi, song cái tính nói chùm nói lớp là thói quen của cô Kiểm. Tức
thì cô Tín vùng dậy, sang cái giường bên cạnh đập vào những đống chăn bông bồm
bộp mà rằng:
- Các chị ơi, quá ngọ rồi mà quan cũng sắp về rồi dậy đi, mau
lên!
Lúc ấy cô Quí, cô Ninh, cô Nhân đã ngồi trước bàn kẻ chải đầu,
kẻ đánh phấn. Còn cô Phú, cô Thọ, cô Trí thì vẫn uể oải trong chăn với mấy tờ
báo, mấy cuốn truyện ngôn tình. Riêng có cô Lễ, một cô mặt trông ngây thơ có
cái vẻ đẹp nâu sồng thì ngồi riêng biệt một cái bàn và đương học: e o eo, êu
êu, iu ui...
Thấy có người gọi, cô Khang và cô Nghĩa tung chăn ngồi lên
ngáp dài mà rằng: “Hôm nay có phải làm lụng gì đâu mà phải dậy sớm?”
Cô Kiểm lạnh lùng:
- Thưa hai bà lớn, cũng không sớm là mấy nữa đâu ạ.
Nghe thấy vậy, hai cô ngồi nhỏm lên. Mười lăm phút sau, cảnh
tượng trong phòng đổi hẳn. Đó là những cái quần trắng, áo di lê, áo len, khăn
nhung, thắt lưng hoa đào, và những dép quai nhung hoạt động trong phòng trước
những cái tủ áo, bàn rửa mặt, - không khí một nhà ả đào, lúc đã đến giờ trang
điểm, đợi khách làng chơi. Nếu chủ nhân mà ở nhà thì dù sao cũng phải sẵn có
đàn bà để chủ nhân ông sai bảo việc vặt, hoặc ngứa mồm thì hôn một cái, ngứa
tay thì sờ soạng một cái cấu véo một cái...
Cô Kiểm lại đứng bên cạnh cô Lễ, khẽ hỏi:
- Thế nào, mấy hôm nay em có được sạch sẽ không?
Cô Lễ len lét thưa
- Dạ sạch sẽ lắm ạ.
- Thế có nhớ đến hộp táo tàu đấy hay là không?...
Chợt có tiếng động cơ xe hơi, trước còn văng vẳng, sau thấy mỗi
phút một rõ dần. Một hồi còi điện như tiếng lợn hét, rúc vang lên. Cả phòng
nhao nhao.
- Quan về! Xe quan đã về thật.
Một số đông các cô, những cô quần trùng áo dài rồi xô nhau chạy
ra hành lang, nhìn xuống sân. Một cô kêu:
- Không phải xe ông. À, à! Xe cậu cả! Cậu tú lên chơi, chúng
mày ạ.
Một cô khác reo:
- Cậu lên chơi đấy à? Thế có ông ở trong xe không? Ồ! Cậu tú
lên chơi! Chúng ta ra đón đi, các chị ơi!
Nói rồi thì, trừ cô Lễ là chưa hiểu phong tục trong nhà nên
ngồi lại, cả lũ kéo nhau xuống. Cô Kiểm, trong tay vẫn có chùm chìa khóa, đi đầu.
Cô đến ngay bên xe, và trước khi người thiếu niên xuống xe, đã kính cẩn vái dài
một cái.
- Lạy cậu ạ! Cậu mới lên chơi.
- Không dám, chào các cô. Ông hiện ở nhà nào bây giờ?
- Bẩm cậu, quan ông chưa về. Nhưng mà cũng sắp về rồi đấy ạ.
Đã có tê-lê-gam báo là trưa hôm nay thì quan ông về.
Thiếu niên bước xuống xe. Đó là một người nhỏ nhắn, trắng trẻo,
rất đẹp giai nhưng chỉ tiếc lỗi lại hơi có vẻ đàn bà. Quần áo tây lịch sự. Nét
mặt như đương có sự gì không vui.
Cô Kiểm đon đả:
- Xin mời cậu Tú sang bên tòa nhà trái này kia ạ.
Thiếu niên lừ lừ theo. Đến phòng khách quay lại nói với cô Kiểm:
- Cô để tôi ngồi một mình. Không ai phải tiếp tôi cả.
- Bẩm để liệu mời cậu xơi cơm trưa với quan ông chứ? Thế...
Một câu đáp gắt gỏng cắt lời đon đả ấy:
- Vâng!
Cô Kiểm và cả bọn bẽn lẽn kéo nhau vào một phòng còn thiếu
niên vào ngồi ở phòng khách, lấy ở túi áo một tờ báo Lưỡng kỳ ra, cắm mặt xuống
xem, không biết lượt này đã là lượt thứ mấy.
THỜI SỰ CÁC TỈNH
Phải chăng là một vụ cưỡng dâm?
báo thì Thị M. con gái ông đồ, đêm ấy đi gặt rạ cùng với mấy
người làng, đã bị nhà tai to mặt lớn (?) kia gọi đến chỗ xe hơi hòm của ông, rồi
Thị bị cưỡng dâm. Sau cuộc cẩu hợp, con dê già kia vứt cho cô bé đáng thương,
năm cái giấy bạc một đồng ý chừng đền bù cho cả một cuộc đời bị làm hại. Cô bé
lúc ấy vì ngộ phải gió độc nên đã ốm trầm trọng. Tuần tráng nghe thấy tiếng kêu
rên, chạy ra toan bắt, song con dê già phóng xe đi thẳng! Thật là một việc rất
dã man. Nghe đâu con dê già kia sẽ chẳng bao lâu bị truy tố trước pháp luật, vì
tuần tráng có trông thấy số xe. Bản báo chờ cuộc điều tra của nhà chức trách sẽ
nêu lên đây cái tên tuổi đáng lưu truyền sử xanh của con dê già ấy. Hiện gờ cô
bé bị hiếp đã được điều dưỡng tại nhà thương. Và được tin gì bản báo sẽ đăng tiếp.
Đọc xong, thiếu niên lấy khăn tay ra lau mấy giọt mồ hôi trên
trán. Vừa lúc ấy, lại thấy tiếng còi xe hơi vang động lên. Thiếu niên vội cất tờ
báo vào túi áo, đứng lên chắp tay sau lưng lão Tạ Đình Hách xuống xe bước vào
nhà...
- Ồ, Anh đấy à? Anh ơi, thầy mong nhớ mày quá! Mày lên đây chơi
thì ở cho lâu nhé! Thế nào, cái trường tư của mày có đông học trò không? Độ này
mày có nhận được thư của đẻ mày không? Mày có xuống Hải Phòng đấy không? Giời
ơi, tao sướng quá! Tao vừa đi Hà Nội, và có lại tìm
mày mấy lượt đều không gặp. Thế mày ở đây nghỉ vài hôm nhé!
- Không! Thưa ông, tôi không phải lên đây để chơi...
Cha thấy con lãnh đạm như vậy thì đứng tưng hửng. Mãi một lúc
mới hỏi:
- Thế mày lên có việc gì?
Con rút tờ báo, lạnh lùng giơ cho cha:
- Xin ông hãy đọc xem người ta nói gì ông đây!
Lão Hách chỉ đọc ba phút đã vứt tờ báo xuống đất, ra ý giận dữ:
- Những thằng làm báo là những thằng nói láo! Mày mà cũng đi
tin...
Nhưng người con lão giơ tay ngăn và bình tĩnh nói một cách
đáng sợ:
- Không, thưa ông! Người ta đã nói thật! Là vì ngoài cuộc điều
tra của nhà báo, còn có cuộc điều tra của tôi, thằng con ông! Sau cái việc bậy
bạ ấy, ông còn phái con đào Lan về, toan hối lộ lão huyện, nhưng mà ông đã thất
bại. Ông có biết rằng nhiều người thù oán ông lắm rồi không? Ông muốn từ tôi
thì xin cứ từ, nhưng mà để cho tôi nói vài lời đã! Tôi đã đến lúc không nín được
rồi.
- Không! Tao chẳng hiếp ai, cưỡng ai. Lúc xe ăng ban (1)
tao buồn, gọi nó lại... Tao đã trả nó 5 đồng.
-... Thưa ông nó đã được giấy nhận thực bị ông làm mất tân.
- Thật quả tao không ngờ nó lại là con gái tân...
- Thưa ông, ông là cha tôi, điều đó lúc nào tôi cũng nhớ lắm.
Tôi chịu ơn ông đã nhiều lắm, nhưng mà ông đã làm nhiều điều bỉ ổi lắm. Ông đẻ
ra tôi thì ông có quyền cho tôi sống hoặc bắt tôi chết... Thưa ông, xin ông cho
tôi chết. Ông giết tôi đi.
Nhà đại phú cúi đầu hổ thẹn hồi lâu... Sau cùng ngẩng lên,
cái mặt vẫn trân trân..
- Ô hay! Sao mày dở hơi thế? Thì tao mua con bé ấy làm hầu là
cùng chứ gì?
Chương 4:
Người bồi chạy lên gác một lúc, rồi xuống bảo với ông nghị
Hách: “Cụ lớn cho phép quan cứ lên”. Khi lão này vào thì quan công sứ đương ngồi
làm việc ở bàn giấy, bên cạnh một cái lò sưởi đầy những củi và đỏ rực những lửa.
Quan là một người đã cao tuổi, ở thuộc địa đã trên ba mươi
năm, đã được lòng dân không phải vì một chính sách giả dối, không phải vì những
bài diễn văn kêu vang và rỗng tuếch, không phải vì đã đem những giọt nước mắt
cá sấu ra huyễn hoặc, lừa dối dân ngu nhưng chính bởi quan là một bậc hiền nhân
quân tử rất ít có ở đời. Ngoài những giờ bận việc cai trị, quan thường đọc
sách, viết văn. Vì rất giỏi chữ Hán, quan đã xuất bản được một quyển sách khảo
cứu về cách dùng binh của Trần Hưng Đạo. Do lẽ đó, quan công sứ nói tiếng An
Nam cũng thạo và cũng dễ nghe.
Cái lòng nhân từ của quân thì hầu như thành một câu cách ngôn
đã truyền tụng. Những người trí thức, cả những nhà viết báo rất hoài nghi, cũng
phải nhận ngài là người hiếm có, sống ở thuộc địa đã nửa đời người, mà vẫn
giữ được những quan niệm về sự tự do cá nhân rất rộng rãi, vẫn biểu lộ được cái
tinh thần đáng trọng của hạng trí thức nước Pháp, chứ không nhiễm phải tính nết
của phái thực dân bằng dùi khui.
Một buổi kia, có việc ra nhà giây thép, quan cứ cuốc bộ mà lử
khử đi như những người tây thường. Qua một phố nọ, có một trường tư thục, một
lũ trẻ em đùa nghịch đá bóng, làm cho quả bóng trúng đánh bốp một cái vào ngực
quan. Một vệt bùn to tướng in ngay vào ve áo, chỗ có cái cuống mề đay Bắc đẩu,
Quan vào trường. Viên đốc học trường tư sợ tái mặt như mọi người phải lo sợ vào
một trường hợp như thế. Nhưng mà quan công sứ cứ khoan thai cầm khăn mặt bông
phủi áo, rửa tay vào chậu nước rồi ôn tồn bảo viên đốc: “Ông phải bảo học trò của
ông, ra cái bãi cỏ ở cạnh chợ mà đá bóng, chứ thể thao ở giữa phố như thế thì rồi
có những tai nạn xe cộ xảy ra”. Thế rồi quan lại ra đi, nét mặt vẫn hiền hậu,
như không có việc gì xảy ra cả.
Một lần khác, xe hơi của quan vừa ở thủ đô về, người tài xế
đương lái vòng để vào sân tòa sứ, thì có một mụ nhà quê tay cầm một lá đơn đến
quỳ ngay trước xe. Mấy anh lính khố xanh toan giơ cao cái roi mây thì quan công
sứ ra hiệu ngăn lại hỏi... “Đơn kêu của bà có rõ ràng không?” người đàn bà kêu
lải nhải một hồi thì quan
truyền: “Thôi, cứ về rồi quan sẽ xét xử”. Nguyên do đó là một
mụ đi mò cua bắt ốc, bị làng bắt vạ vì chưa hết tang chồng mà đã có mang. Theo
như trong đơn, thì mụ đã bị một bọn bô lão trong làng, lôi những hủ tục ra để
hành hạ mụ, chứ thật ra, mụ đã hết tang từ vài tháng trước khi có mang. Ấy thế
là quan viết thư trả lời cái mụ mò cua ấy rằng: “Thưa bà, bản chức đã xét đơn của
bà rồi. Nếu bà còn có tang ông ấy thì theo luật Gia Long, có chửa như vậy là có
lỗi. Còn nếu bà đã đoạn tang rồi thì không ai được phép bắt vạ bà, nếu bà viện
được đủ chứng cớ là đã hết tang thì cứ lên tòa mà trình bày, bản chức sẽ trị tội
những kẻ nhũng lạm”. Một bức thư của một vị quan đầu tỉnh mà lại có cái luận điệu
lễ phép với một mụ mò cua đến bực ấy, đã làm cho các quan tổng đốc, bố chánh,
tri phủ phải nhăn mặt lại. Rồi bọn bô lão trong làng sợ hãi đến hết vía mà đền
lại cái vạ. Hai chuyện này đủ là chứng cớ rằng quan công sứ tỉnh có nghị Hách hồi
ấy, là người dễ dàng biết bao nhiêu.
Đêm nay, ngồi làm việc, hai chân quan đi giầy da đen, cổ quan
quấn một cái khăn quan dầy sụ, lông chiên tua tủa bịt đến cả cằm. Bộ râu bạc ba
chòm và cái trán hói đến bóng lộn của quan, khiến ngài có vẻ đường bệ oai
nghiêm lắm.
Nghị Hách, mặc lòng mặc bộ áo trào vào ngày dạ tiệc, cũng chấp
tay vái dài lưng cúi thật khom, mà rằng:
- Bẩm lạy cụ lớn ạ.
Quan công sứ đặt bút xuống bàn, giơ tay đón:
- Chào ông Nghị. Ông đến thăm tôi hay có việc gì can hệ? Ông
nghị ngồi đây... Tôi đương viết một bài triết lý về Đông phương cho một tờ báo ở
Ba lê đây... Ông Nghị có rét không? Tôi bây giờ yếu lắm, không có sức chống rét
nữa. Ông Nghị uống nước chè hay uống rượu mạnh nhé?
- Bẩm vâng, con xin phép hầu cụ lớn một cốc. Cảm ơn cụ lớn lắm.
- À, thế ông Nghị có việc gì cần tôi giúp đấy chứ?
- Bẩm cụ lớn, không ạ. Bẩm chúng con thấy cụ lớn cũng dễ
dàng, lại hay tiếp người bản xứ, cho nên con sang thăm và hầu chuyện, và xem cụ
lớn có điều gì chỉ bảo không, thế thôi ạ.
Quan công sứ bấm cái chuông điện. người bồi ló vào.
- Đem cho tôi khay rượu Anis(1) lên nhé. Bà lớn đi nghỉ chưa?
Này bồi, hôm nay mày để con Toby cắn chết mất một con gà sống thiến, như thế là
tôi không bằng lòng đâu. Nó là chó săn thì lúc nào cũng phải xích nó lại. Nếu
mày cứ quên lời tôi nào thì rồi tôi sẽ nói với bà lớn không thưởng cho mày nhiều
tiền tiêu tết nữa!
Người bồi chịu quở rồi lẳng lặng quay ra. Năm phút sau đem một
cái khay có một chai, hai cốc lặng lẽ để ở bàn. Chờ khi người bồi xuống rồi,
nghị Hách mới nói:
- Bẩm cụ lớn, thế cụ lớn bà độ này vẫn mạnh khỏe chứ ạ?
Quan công sứ gật gù mà rằng:
- Ồ ồ! Vợ tôi yếu lắm, ông nghị ạ. Vợ tôi cứ muốn đòi về nghỉ
ở Nice (1). Có lẽ ít lâu nữa thì tôi phải để vợ tôi về nghỉ một mình, sáu tháng,
rồi lại sang.
- Bẩm cụ lớn, như vậy thì tốn kém nhiều tiền lắm,
- Chính thế đấy, ông nghị ạ. Bây giờ ai cũng nên tiết kiệm.
Phủ toàn quyền đã có tờ thông tư cho các quan phải dè dặt chi tiêu, theo chính
sách tiết kiệm. Vì rằng cái nạn khủng hoảng kinh tế mỗi ngày một nặng thêm...
- Bẩm do đó mà mới có những việc như ở Hà Tĩnh, Nghệ An vừa rồi,
chắc cụ lớn có để ý.
Quan công sứ uống một hớp rượu rồi nói rằng.
- Phải, giữa lúc kinh tế này, cái nghề cai trị dân thật là
khó khăn...
- Bẩm... như cụ lớn đã cai trị tỉnh nào thì quyết không bao
giờ dân lại như thế. Cụ lớn thương dân lắm.
- Dân họ cũng hiểu cho tôi đấy chứ?
- Bẩm vâng. Lòng thương dân của cụ lớn thì không ai là không
cảm phục. Nhưng mà còn những tay phiến loạn chúng xúi giục.
- Vừa rồi, sen đầm ở đây phải bắt bớ mấy vụ, là vì có mấy tay
ở nơi khác lại, trốn tránh ở đây mà thôi, chứ tôi tin rằng dưới quyền cai trị của
tôi, không một ai làm loạn cả.
- Bẩm cụ lớn, cái ấy thì đã đành. Nhưng mà có nhiều cái người
ta không thể ngờ trước được.
Quan công sứ gật gù hồi lâu mà rằng:
- Chính phủ bảo hộ lo thế nào cho dân khỏi đói thì không sợ
gì nữa.
- Bẩm cụ lớn, chính thế đấy ạ. Nhưng bọn nghiệp chủ chúng con
dạo này, thật lấy làm khổ sở vì cái phong trào cộng sản. Trong cái mỏ ở Quảng
Yên của con, vừa rồi suýt nữa thì có nạn phu đình công. Mà ngay ở đồn điền của
con trên tỉnh này thì nông dân, ít lâu nay con thấy họ bắt đầu trở nên bướng bỉnh
lắm.
- Tôi vẫn biết thế. Nhưng cái đó không hề gì. Nếu ông nghị
cũng biết đãi nông dân và tá điền cho phải chăng, thì không bao giờ phải lo ngại
gì nữa. Tôi quyết rằng dân dưới quyền tôi, họ không đói khổ thì không khi nào họ
lại làm xằng.
- Bẩm cụ lớn, vậy mà con thì con thấy rằng phong trào ấy đã bắt
đầu lan đến tỉnh ta.
Quan công sứ giật nẩy mình lên, trợn mắt hỏi:
- Đã lan đến tỉnh ta, ông bảo!
- Bẩm cụ lớn, hình như thế. - Có cái gì là chứng cớ không?
- Bẩm, toàn dân tỉnh này đã bắt đầu nói xấu và vu oan cho
con. Bẩm cụ lớn, chắc là họ chỉ nhắm mắt nghe theo bọn phiến loạn chúng mớm nhời
mà thôi. Họ vu cho con là giết người, là hiếp tróc đàn bà con gái, là bóp hầu,
bóp cổ bọn dân nghèo, thôi thì đủ những tội ác. Họ hết sức gieo cái mầm thù
ghét người giàu có, cho lan rộng trong đám công dân. Kể ngay bọn tá điền làm việc
trong đồn điền của con thì chúng cũng đã bắt đầu đòi tăng lương, ấy là lương
con phát cho chúng cũng đã cao lắm. Bẩm cụ lớn, con thấy rằng cái phong trào ấy
sắp sửa lan đến tỉnh ta. Vậy con xin lấy tư cách một người dân biểu mà trình
báo để cụ lớn tiện đường cai trị cho tỉnh yên ổn.
- Ông nghị đã làm phải lắm, ông nghị nhận đây những lời khen
của tôi nhé! Để tôi phải thông báo cho ông giám binh. Ông nghị cứ yên tâm,
chính phủ bảo hộ bao giờ cũng có trách nhiệm giữ cuộc trị an, bảo toàn tính mệnh
và tài sản cho dân, trừng trị kẻ phiến loạn.
- Bẩm lạy cụ lớn, con ngồi cũng đã lâu, vậy xin phép cáo từ để
cụ lớn làm việc.
- Phải, chào ông nghị! Chúc ông nghị ngủ ngon.
- Bẩm lạy cụ lớn.
Giữa lúc ấy, đồng hồ đánh chín tiếng boong boong nghị Hách bước
xuống thang, còn nghe thấy quan công sứ mắng người bồi: “Sao mày không chất củi
vào? Tôi còn làm việc khuya, mày lười như thế tôi không bằng lòng chút nào cả”.
Người phu bồi tiễn nghị Hách ra cửa dinh một cách sợ hãi. Khi bước lên xe hơi,
ông nghị lại được bác lính khố xanh nghiêm nghị bồng súng lên đánh thích một
cái để chào!
Xe hơi sình sịch chạy đi, nhà tư bản bảo người tài xế “Đến
dinh ông tổng đốc”. Năm phút sau, xe đã đỗ trước một cái tam quan. Lại một người
lính bồng súng lên chào, cho xe hơi tiến thẳng qua sân vào tới bực đá Nghị Hách
chưa kịp nói gì thì một bác lính đã chạy tọt vào, rồi chạy ra: “Bẩm mời quan lớn
vào cụ lớn còn thức đấy ạ”.
Lúc nghị Hách vào đến phòng khách thì vừa thấy cụ lớn bà vội
ngồi dậy, tay cầm một cái tráp mà chạy tọt vào nhà trong. Còn cụ lớn ông thì
đương ngồi ở sập.
- Bẩm lạy cụ lớn ạ.
- Không dám, lạy quan lớn, quan lớn có việc gì cần mà đến
chơi khuya thế?
- Bẩm cụ lớn, chúng tôi sang xem cụ lớn có thiếu chân tổ tôm
nào...
- Quan lớn ngồi chơi. Độ này chẳng ai đánh chác gì cả. Quan bố
thì khó ở, bà lục lộ thì thích đồng bóng, gọi họp
rõ khó quá. Độ này quan lớn mạnh khỏe đấy chứ? Lính đâu! Pha
trà đi mày!
Phòng bên cạnh có tiếng dạ giậm vang lên. Nghị Hách ngồi lên
sập, kéo mình về cái điếu ông rồi nói nhỏ:
- Thế nào? Cụ lớn vừa rồi có gặp quan tuần Hà tôi lại nhà cụ
Thượng đấy không? Cụ lớn có đả động gì việc ấy giúp tôi không?
- Có, có! Chú nó lấy làm vui lòng lắm.
- Chết chưa, làm gì mà không thành? Quan lớn thông gia với
chú tuần nó thì thì môn đăng hộ đối lắm rồi, mà cậu tú Anh với con cháu Nga nó
kết bạn với nhau thì còn đôi nào đẹp bằng nữa?
- Bẩm thế trăm điều xin trông cậy cả vào cụ lớn.
Cụ tổng đốc cười khà khà mà rằng:
- Chỗ tôi với quan lớn thì còn ngại gì? “Trăm điều hãy cứ
trông vào một ta”!
- Ha ha ha! Vâng! Đa tạ cụ lớn vạn bội! Mà tôi muốn việc
chóng xong.
- Được rồi. Muốn chóng xong thì sẽ chóng xong.
Từ đây trở đi, mặt nghị Hách lộ một vẻ buồn khó tả. Đến một
khắc, cứ trầm ngâm nghĩ ngợi, quên cả đáp lời ông tổng đốc.
- Kìa, sao quan lớn như có điều gì buồn bực thế? Cái tin mừng
như thế không đủ làm cho quan lớn vui lên một chút nhỉ?
Nghị Hách hoảng hốt cười chữa mà rằng:
- Xin lỗi cụ lớn, tôi đang nghĩ đến việc quan huyện Cúc Lâm
muốn kiếm chuyện với tôi đấy ạ. Ông ta vẫn có hiềm khích gì với tôi không biết,
mà mới đây đã xui dân đi kiện tôi. Xem ra quan huyện là người tân học cho nên
chính sách cai trị nhầm lắm.
- Ồ lạ! Thằng huyện Cúc Lâm gây sự với quan lớn? Để tôi bảo
nó, được!
- Ông ta cậy mình đỗ luật khoa tiến sĩ, nên hợm hĩnh đến nỗi
làm hỏng cả mọi trật tự của quan trường.
Cụ lớn tổng đốc nghe đến đó rồi lại nghĩ đến cái bước làm
quan tắt của mình thì sa sầm nét mặt xuống...
- Cái thằng ấy láo thế à? Để rồi tôi trị cho nó một trận. Nó
lại không biết là quan lớn sẽ thông gia với em ruột tôi hay sao?
- Vâng tôi chỉ mong ông huyện Cúc Lâm biết cho như thế.
- Được ạ!
- Thôi đã khuya...
- Ấy ngồi chơi đã!
- Bẩm để cụ lớn đi nghỉ... Bẩm lạy cụ lớn.
- Không dám, lạy quan lớn ạ.
Một hồi gót giầy, rồi tiếng nổ của động cơ xe hơi. Chiếc xe
giật lùi vòng một vòng rồi từ dinh quan tổng đốc chạy phăng ra, lại qua một cái
bồng súng của bác lính khố xanh đứng gác.
Mười phút sau, cái xe ấy lên cái dốc cổng Tiểu vạn trường
thành.
Trong ấp, gia nhân đã ngủ gần hết, trừ trên một tầng gác tòa
nhà trái là còn tưng bừng ánh đèn măng sông. Nghị Hách cho tài xế đánh xe hơi
vào nhà chứa xe, đoạn một mình cuốc bộ xuống khu nhà cạnh cái sân gà vịt. Đêm
đã khuya, những cây đèn trong ấp đã cạn bấc, lụi dần, nên hiện ra như những cục
lửa đỏ ối, ở hai bên lối đi. Mặt trăng mới chênh chếch bắt đầu lên, nên trời đất
còn tối mù mịt.
Gần đến gian nhà nhỏ thì ông chủ nện khẽ gót giầy... Một bóng
người ló ra cửa thì ông chủ hỏi:
- Xong chưa?
Một giọng ồ ồ đáp lại:
- Bẩm xong đã lâu, rước quan vào xem.
- Chúng nó ngủ cả chưa?
- Bẩm không còn đứa nào biết trời đất là gì nữa. Con chờ quan
mãi.
Ông chủ vào nhà. Cánh cửa bị đóng lại. Ngọn đèn dầu được vặn
to lên. Ánh lửa bên trong thông phong được khêu to thì chiếu thẳng vào một cái
mặt đáng sợ: đôi lông mày đậm mà chạy tuột xuống đuôi mắt, cái cằm to tướng dưới
má nổi bành bạnh và một bên má có một cái sẹo dài chạy ngang qua. Người có cái
mặt hung ác ấy cầm đèn từ bàn ra soi vào giường.
- Khô chư?
- Khô đã u.
- Độ 2 giờ đêm hãy ra đi, mà nhớ những lời ta dặn đó...
- Bẩm vâng. Nhưng mà hiện thì con run lắm, sợ lắm.
- Có thế thôi mà run cái gì? Cố đi, ta sẽ có thưởng.
- Bẩm vâng.
- Một ít ở sau huyện, một ít ở phòng hội đồn làng Quỳnh Thôn.
- Bẩm vâng.
- Ông chủ lẳng lặng ra khỏi gian nhà đi qua cái vườn tối tăm,
rồi về cái phòng gác có một mâm cỗ linh đình và mười một người đàn bà ngồi đợi.
Chương 5:
Vì xây trên một ngọn đồi, ở vào cái địa thế bất lợi, nên những
ô cửa sổ của nhà thương mở ra một vùng phong cảnh rất ngoạn mục. Người bệnh cứ
trông những nóc nhà mái ngói, mái gianh, chen chúc nhau, ở hai lề đường bên những
vòm cây chi chít, hoặc là chỗ thì chợ, chỗ thì trường học, chỗ thì cửa huyện có
một cái chòi cổ lỗ lúc nào cũng đội một lá cờ ba sắc bay phấp phới: đây, một
dãy lương khoai: kia, năm bảy ngọn xoan; lại thêm túm năm, tụm ba, những người
gồng gánh họp chợ chỉ to bằng cái đầu tăm, nên chi họ cũng có lúc có những phút
cao hứng quên khuấy bệnh trạng của mình, để hưởng một sự họ mới khám phá ra được:
ngắm cảnh thiên nhiên. Mấy phòng nhà thương cao ráo sáng sủa đến nỗi những lúc
trên trời có mây trắng thì nhà thương hiện ra trong cái tưng bừng mà những khi
mây trời ảm đạm mịt mù thì cũng không đến nỗi thiếu ánh sáng. Nằm ngồi trên những
chiếc giường sắt sơn xanh, có nệm màn trắng xóa, mà nhìn qua khung cửa kính, lại
thêm ngoài hiên lác đác bay là vài chiếc lá vàng, kẻ có bệnh cũng cảm thấy
sự di dưỡng của tinh thần quên những vết thương trong thân thể, có thể để hết
khối óc vào mọi sự mơ màng, suy nghĩ, triết lý nữa, nghĩa là vào những thời khắc
vốn chỉ để dành cho hạng thợ văn chương. Bệnh nhân hồi ấy đa số là vợ các ngài
viên chức đến đẻ, đến chữa một cái răng sâu một cái hạch, một cái mụn nhỏ trên
đầu chẳng hạn, nên trong nhà thương, người ta chỉ thấy những bà quần áo sạch
như cái đũa Nhật Bản, lẹp kẹp đôi guốc nũng nịu vì những đôi bít tất bông tùm hụp
trong những cái khăn vuông, hoặc ra cửa sổ ngắm cảnh chợ búa, làng mạc dưới đồi,
hoặc nằm trong chăn để đọc một tờ báo, một cuốn tiểu thuyết. Những lúc ấy là những
lúc quý hóa, để họ lục tìm trong ký ức, những kỷ niệm hoặc vui vẻ, hoặc đau đớn,
rồi kiếm lấy những phương châm xử thế, là những lúc họ kiểm soát cuộc đời.
Cô Mịch cũng nằm dưỡng bệnh như họ, cũng suy nghĩ như họ.
Mười tám tuổi đầu, cô cũng vẫn ngây thơ, khờ dại như gái mười
lăm. Cô không biết đời là gì cả. Cô thấy đời là sự nghèo khổ và sự nhẫn nhục của
cha mẹ, là sự siêng năng làm ăn của cô mà thôi. Nhưng dẫu nghèo khổ thì cha mẹ
cô cũng là một ông đồ. Mà trong một làng, mà cả người làng, chưa ai trông thấy
một lọ nước hoa, chưa ai nghe thấy một cái máy hát thì ông đồ cũng là một cái
danh giá.
Ông đồ có sáu đứa học trò từ 8 đến 12 tuổi đứa nào cũng để chỏm,
vẫn hàng ngày đến nằm bò nhoài trên phản để nhai chữ, thường đem đến khoe thầy
và cho mực tàu, giấy bản, nhiều dử mắt hơn là nhiều sự thông minh. Còn bà đồ
thì lúc nào cũng phải gắt với ông đồ, mặc lòng bà thức khuya dậy sớm, khâu
thuê, cấy mướn để giữ gìn gia đình cũng như hầu hết các bà đức phu nhà quê.
Anh cô, một thiếu niên có một ít chữ tây, thì làm nghề vẽ
truyền thần ở... những tỉnh Hà Nội! Cho nên cái số mỗi đứa học trò hai thùng gạo
hoặc đỗ, với số tiền là 5 đồng bạc của con giai cả, mỗi tháng gửi về, khiến ông
đồ thấy quần áo chóng rách, thấy tóc trên đầu chóng bạc, mà cuộc đời thì chỉ là
một chuỗi ngày liên tiếp rất nặng nề, sờ vào túi thì ngày nào cũng túng tiền, sờ
lên cằm, lên mép, thì thấy rất phong lưu những râu và ria.
Còn người chồng sắp cưới của cô Mịch?
Người này thì may được cái đối với cô, vốn không phải xa lạ.
Đó là một người anh họ rất xa, về bên ngoại. Hai mươi nhăm tuổi, mặt mũi cũng
nhẹ nhõm, cử chỉ ngôn ngữ cũng dễ thương. Anh ấy đã sang chơi ông chú họ vài ba
lần. Những lần sang, cô Mịch đã phải nghỉ việc đồng áng để vặt lông gà, mổ cá
chép, thái ngọn măng. Cô không ngờ anh họ lại yêu cô, nên khi thấy bố mẹ nói
chuyện cho nghe, cô cũng lấy làm lạ. Cô lạ một lúc rồi cô gật đầu nhận lời. Vì
rằng cô đã so sánh mình với người cùng mình muốn kết bạn trăm năm. Anh ấy, sánh
với người làng, là người có học, lại được ở nhà gọi là anh ký. Hình như anh ấy
cũng đọc nhiều sách nữa, vì làm thầy ký cho một trường tư thục ở kinh đô. Anh ấy
không làm dáng không khinh người, nói ít, lại hay đỏ mặt như đàn bà nữa. Số
lương anh ấy tuy ít ỏi, song cũng đủ nuôi vợ con. Thế là Mịch bằng lòng. Rồi Mịch
cũng đem lòng yêu nữa. Việc dạm hỏi do anh ruột Mịch nói hộ lên bề trên. Bà đồ
Uẩn nói rõ to một câu: Ừ! Ông đồ cũng gật đầu. Thế là một cuộc tình duyên được
công nhận, một đôi trai gái được mãn nguyện.
Mịch nghĩ đến mình thì cũng thấy xứng lứa vừa đôi. Tuy nghèo,
nhưng Mịch lại đẹp. Hai má lúc nào cũng đỏ ửng như say trầu, hàm răng đen lay
láy hạt huyên hẳn hoi. Những khi soi bóng trong gương, Mịch thấy mặt mũi mình
cũng nhẹ nhõm, mà đôi mắt mình thì là mắt con nhà lương thiện. Cái cặp mắt ấy
người ngoài trông thấy thì ai cũng phải khen là ngây thơ, hay là dễ hư, hay là
dễ bụng nghe, là lạc quan, là dễ tin đời. Mà quả thật như vậy. Vì rằng không
bao giờ Mịch lại tưởng tượng rằng lại có thể có một người bằng tuổi bố mình, lại
giàu có sang trọng nữa, mà lại lừa mình để làm một việc xấu hổ trong một cái xe
tu bin. Lúc có người ở đằng trước, và người ở đằng sau xe nữa!
Mịch nghĩ đến lúc ấy thì mặt lại đỏ bừng lên, tự mình cũng đủ
thẹn với mình. Cô nghĩ đến những câu chế nhạo của bọn giai làng vô giáo dục. Từ
khi ấy, cô sợ nhất cái xe ô tô. Mỗi lần trông thấy một cái xe ô tô là lại giật
mình đánh thót một cái. Rồi cô Mịch đau khổ, đau khổ lắm. Vì cô rất yêu chồng.
Người chồng sắp cưới ấy, theo lời mẹ kể lại, sẽ lên tận nơi thăm cô! Cái tinh
thần nhà nho của ông đồ đã khiến ông đồ báo cái tai họa ấy ngay cho chàng rể một
cách quả quyết. Trời hại ông và con ông, chứ không phải ông hay là con gái ông
gây ra. Ông sẽ cho hai đứa được trò chuyện với nhau, mặc lòng ông đã hiểu trước
rằng cho con rể như thế thì con gái sẽ thẹn. Mà nếu anh chàng rể chưa thực thụ ấy
có vin vào cớ tân tiết để bỏ Mịch thì, thôi, ông cùng đành ở với Trời. Bao giờ
ông cũng chỉ ở với Trời, mặc lòng Trời chẳng bao giờ tử tế gì với ông. Xa ra!
Những cái dư luận khốn nạn của hạng người nông nổi. Việc ấy không là việc giấu
giếm được. Có bổn phận thông báo, ông cứ việc làm...
Thị Mịch rùng mình nghĩ đến cái phút mà người chồng sắp cưới
sẽ đến. Anh ấy sẽ đến! Mà chỉ nội trong hôm nay thôi!
Mịch bàng hoàng, run sợ, kéo cái chăn trắng trùm kín đầu. Cô
nghĩ đến đêm ấy, lúc cô ngây thơ, dại dột mà bước vào để cho kẻ khốn nạn được
thể khép gọn ngay cửa xe. Cô nghĩ đến lúc cô tham tiền, thấy nói đến số tiền
năm đồng, nên cứ để cho kẻ khốn nạn dùng lọ dầu làm cớ để sờ vào trán cô, cổ
cô, ngực cô. Rồi Mịch lại nghĩ đến lúc bị quan đốc tờ bắt... lên nằm dài tô hô
trên cái bàn đá. Sự tò mò của khoa học đã vào hùa với sự dâm dục của loài người
mà đập tan nát mất cả cái ý nhị thẹn thùng kín đáo của một cô gái quê ngây thơ.
Để đến nỗi như thế, vì lẽ gì? Vì tham tiền, vì dại dột bước chân lên ô tô. Vì
ngây thơ để cho con dê già bôi dầu vào trán, vào cổ.
“Trời đất ơi, thì ra vì mình dại dột và tham lam!” Mịch nói một
mình trong chăn, qua hai hàng lệ ràn rụa. Mịch sụt sùi, Mịch khóc nức nở, Mịch
hối hận lắm không còn mặt mũi nào nữa mà trông thấy người yêu. Nếu anh ấy hiểu
cho thương cho, thì chẳng nói làm gì. Nhưng anh ấy do thế mà giảm lòng yêu, hoặc
lại nỡ rẻ rúng mình thì còn gì nữa? Mà nếu bị coi rẻ thì đó chẳng phải lỗi tại
mình, cái lỗi thấy tiền híp mắt lại mà ra đó ư? Trời ơi nhục!".
Thị Mịch thổn thức bằng giờ. Chung quanh, những bệnh nhân
toàn là bà ký, bà thông, chẳng ai thèm hỏi đến Mịch. Có u thì u đã phải về, vì ở
làng mình như lại vừa có chuyện gì xảy ra.
Nghĩ đến cái nghèo của bố mẹ, cái ý muốn bán gánh rạ để mẹ đỡ
đầu tắt, mặt tối, nó gây ra việc bị hiếp, Mịch tủi thân giận đời, chỉ muốn chết.
Cô tưởng rằng ở đời, cứ việc ăn ở cho hiếu thuận, làm ăn cho chăm chỉ, thấy ai
túng thiếu thì không dè dặt, cởi ngay hầu bao đưa vài đồng bạc
đã để dành trong mười ngày, và không ngồi lê bắt chấy, kháo
chuyện nhà người, thế là đủ lắm. Bị hiếp! Chưa bao giờ Mịch ngờ lại có khi...
Trong cơn đau khổ, cô thấy mình hồng nhan bạc mệnh, thấy đời là độc ác vô cùng,
thấy chị em bạn gái trong làng là tồi tệ, thấy bố mẹ không đủ sức chống chọi,
thấy Trời và Phật là những đồ thong manh.
Mịch không còn hy vọng gì nữa, không còn tín ngưỡng gì nữa.
Thế là Mịch ngồi nhỏm dậy, dụi mãi cặp mắt đỏ hoe và bàng
hoàng nhìn quanh... Thiên hạ kẻ nằm người ngồi, mỗi người đều là một thế giới
riêng khiến cho Mịch thấy mình lại càng cô độc, lại càng lẻ loi, lại càng trơ
vơ, lại càng một thân một mình trong cái đông người ấy.
Lúc ấy đã quá trưa. Giờ yên nghỉ của kẻ bệnh. Giờ mà các cô,
hoặc các thầy khán hộ được ngủ tạm một giấc tại nhà mình. Giờ mà quan đốc không
có mặt ở nhà thương vắng ngắt.
Mịch lẳng lặng xuống đất, giẫm chân không ra hiên. Cô đưa mắt
khắp vườn, tìm một cây nào có thể có một cành cao hơn đầu người được. Rõ khổ!
Có cây ổi đấy nhưng mà hàng rào râm bụt thưa thớt quá, người ngoài có thể nom
vào được. Mịch đứng thừ người. Rồi Mịch lại đi, đi thẳng vào gian nhà con là chỗ
chuồng tiêu. Mịch mở cửa nhìn lên trần, thấy một góc tường có một ống máng bằng
kẽm to như ống tre bương và chắc chắn lắm, Mịch lại quay về
phòng, len lét nhìn quanh, rồi nhắc theo một cái ghế đẩu nhỏ,
đem vào chuồng tiểu...
Cánh cửa bị khóa bên trong.
Hai con mối trên tường nom thấy người đàn bà trèo lên ghế đẩu,
cởi cái thắt lưng dũi ra, thòng lọng hai đầu, quấn quanh cái ống kẽm...
- Lạy thày, lạy đẻ, con sống cũng không làm gì, thầy đẻ tha
thứ cho. Con đành cam tội bất hiếu.
Giữa lúc ấy, trong phòng vẫn là sự im lặng, sự uể oải của những
bệnh nhân. Thốt nhiên có một hồi guốc lẹp kẹp vang lên, thầy khán hộ đi trước để
cho một thiếu niên y phục nhũn nhặn, vừa ngơ ngác theo sau, vừa nhận một tràng
những câu làu nhàu gắt gỏng: “Cậu phải biết thế này là rộng rãi cho cậu lắm. Lẽ
ra phải đợi chốc nữa, xin phép quan đốc mới được vào. Người ta đã cho vào lại
không biết điều, cứ giục ồn lên như bố người ta vậy!”.
Thiếu niên dịu dàng chỗi cãi:
- Bẩm, vì chúng tôi ở tại Hà Nội lên, chỉ được có ít thì giờ,
phiền ông làm phúc hộ.
Người khán hộ đến bên giường cô Mịch, hỏi trống không một
câu:
- Ồ hay! Cái cô nằm giường này đâu mất rồi?
Tuy lời nói là trống không, buông sõng, song cũng năm bảy cái
mồm đàn bà nhanh nhảu nói đón:
- Ấy, cô ta vừa đây mà! Hay là ra đằng sau chăng?
Một người khác cũng vu vơ thêm:
- Cô ta đi đâu dễ đến nửa giờ rồi... Ra đằng sau lại lâu thế?
Người khán hộ ra cửa sổ trông ra vườn, rồi lại quay trở lại
hành lang nhìn trước nhìn sau. Quanh quẩn không thấy gì, lại quay vào bảo người
thiếu niên:
- Cứ ngồi đấy mà đợi.
Nhưng một bà phán nói:
- Lúc nãy hình như cô ả có đem một cái ghế đẩu đi theo. Nhưng
vậy chắc là ra ngồi chơi mát ngoài vườn.
Người khán hộ rít lên:
- Ra vườn? Ra vườn rồi à? Ồ lạ! Ai cho cái con nỡm ấy ra vườn?
Cái con nỡm ấy lại không nhớ lời dặn của quan đốc là phải kiêng gió máy hay
sao?
Nói xong, người khán hộ tất tả chạy đi, làm một vòng quanh cả
cái khu nhà thương rộng rãi. Thiếu niên ngồi xuống giường ra ý mệt mỏi, chống
tay lên trán, thừ người ra. Hai tai thiếu niên phải nghe đầy những câu của bọn
bệnh nhân bình phẩm người yêu của mình, những là: nhà quê, đù đờ, ngẩn ngơ, dại
dột, quê kệch, thôi thì đủ trăm thứ. Những người bình phẩm một cách vô tình ấy
không ngờ rằng người lại thăm cô Mịch chính là chồng sắp cưới của cô Mịch, nên
họ đã vô tình mà thành ra những người xấu bụng có tính gièm pha.
Chợt thấy người khán hộ tái mặt chạy vào rầm rộ kêu lên một
câu: “Bỏ mẹ! lại có chuyện chẳng lành rồi”, và vớ lấy một chiếc ghế đẩu, cắm đầu
chạy ra. Hết thảy những người trong nhà thương hoảng cả lên, tung chăn ra, nhảy
xuống đất. Có một bà thông, vì không thấy dép, cứ nguyên đôi bít tất lụa, giẫm
phăng xuống đất, chạy theo người khán hộ. Rồi thì là những tiếng ghế đẩu phạng
vào cửa chuồng tiêu thình thình...
Cửa bật tung ra, hơn chục người đứng xem cùng một tiếng rú
kinh khủng. Người khán hộ bắc cái ghế đẩu đã đổ lăn cạnh chỗ thị Mịch thắt cổ,
trèo lên đỡ người khốn nạn, một tay tháo chiếc thắt lưng... Rồi ẵm phăng cô Mịch
vào phòng nhà thương, vừa đi vừa nói rõ to: “Cái nhà xí ấy có ma đấy mà! Năm
ngoái cũng đã có một người thắt cổ chết, bà nào làm ơn réo ngay hộ tôi một cô
khán hộ đi!”. Giữa những câu nói đi, nói lại xôn xao, người khán hộ cứ thản
nhiên cởi khuy áo, cởi cả giải yếm cổ, cởi cả giải rút quần cô Mịch. Vừa lúc ấy,
cô khán hộ đã bưng một chậu nước lạnh có một cái khăn bông vào. Người ta đập
cái khăn bông ướt vào mặt cô bé, lúc ấy, không biết sống hay chết.
Người ta lại để một ít bông trên mũi cô. Rồi cô khán hộ trèo
lên giường, quỳ phía dưới chân cô gái quê, đẩy hai
chân cô cho ruỗi thẳng ra, rồi lại co lại... Thầy khán hộ thì
lên ngồi cạnh đầu, lôi hai tay bệnh nhân cho thẳng lên trời, lại đặt xuống giường,
lại lôi lên y như bắt tập thể thao.
Giữa cái lúc bi thương, cũng có vài người đàn bà cho cái trò ấy
là lạ mắt, là ngộ nghĩnh, há hốc mồm ra cười.
Khi thấy dúm bông trên hai lỗ mũi cô Mịch như có bị lay động
một chút, cả hai người khán hộ mới nhảy xuống đất cùng reo một câu: “May quá!”
Người ta bôi một ít thuốc đỏ sẫm vào cô bé nhà quê, cái cổ đã có một ngấn thắt
lưng. Dần dần Mịch mở mắt ra, ngơ ngác nhìn một người. Hai con mắt dại như mắt
trẻ mới đẻ vậy.
Thiếu niên từ nãy cứ ngồi dưới chân giường, bưng trán, bây giờ
mới đứng dậy, dõng dạc nói với cả lũ ấy:
- Thưa các bà, cô bé này là vợ sắp cưới của tôi. Nó đã bị nạn
ra sao, chắc các bà đã rõ. Tôi ở Hà Nội vừa lên thì thấy cơ sự dường này. Thật
là những sự sét đánh ngang tai tôi. May mà nó sống sót. Vậy xin các bà làm ơn
lui gót, cho vợ chồng chúng tôi có thể được cùng nhau trò chuyện riêng vài
phút, và tôi xin rất cảm tạ sự săn sóc của các bà.
Thấy người chồng sắp cưới của cô gái quê ngu đần, dại dột, ngờ
nghệch ấy, mà lại có giọng ăn nói cứng cỏi đến như thế, ai cũng lấy làm ngạc
nhiên. Người ta bèn gật gù, rủ nhau sang phòng thầy khán hộ, hỏi về cái chết của
người đàn bà thắt cổ chết trước kia ra làm sao, cái nhà xí ấy có ma ra làm sao,
để sợ hãi với nhau cho đỡ buồn.
Khi gian phòng chỉ còn có hai người, Mịch hổn hển khẽ nói:
- Anh Long ơi, tôi xin lỗi anh...
Long cúi xuống, ứa nước mắt hỏi:
- Mịch ơi, sao lại đến nông nỗi thế? Mịch không nghĩ đến công
cha nghĩa mẹ nữa a? Mịch không nghĩ đến người chồng của Mịch rất yêu thương Mịch,
có thể chết được, nếu Mịch chết à?
- Lạy anh, anh tha cho, tôi xấu hổ quá.
- Sao lại nghĩ lẩn thẩn thế?
- Thưa anh, tôi không dám nhìn mặt anh nữa.
- Thôi đi, đừng nói dở như vậy mà anh lại càng thêm buồn.
- Tôi chỉ sợ vì những sự bất hạnh của tôi mà anh đem lòng rẻ
rúng tôi. Cho nên tôi tủi thân, tôi giận đời, tôi chỉ muốn chết quách đi cho
xong.
- Có phải lỗi tại Mịch đâu mà anh rẻ rúng Mịch được?
- Xin anh cam đoan là sẽ thương hại tôi mãi mãi đi! Anh Long
ơi, nếu bao giờ anh mất lòng thương tôi thì tôi sẽ lại phải chết mất, anh ạ.
Tôi khổ sở lắm, chán đời lắm, anh ạ.
- Anh cam đoan vẫn yêu quý Mịch như trước, yêu quý mãi, yêu
quý suốt đời. Anh lại cam đoan là sẽ rửa thù cho Mịch nữa, vì rằng cái nhục của
Mịch tức là một vết nhọ trên trán anh. Rồi thì anh cũng phải làm thế nào rửa
cho sạch vết nhọ ấy thì mới có thể trông thấy mọi người được. Thôi đi, đừng
khóc nữa.
- Chúng tôi nghèo hèn lắm, làm gì được?
- Nó dùng tiền bạc và thế lực, thì ta sẽ dùng mưu sâu, Anh đã
nói Mịch sẽ được trả thù thì rồi thế nào Mịch cũng rửa được thù. Anh làm công
cho con giai lão nghị ấy, chuyện gì anh cũng có thể biết được. Mà con lão chỉ
biết là chủ anh chớ không biết rằng người con gái mà thằng bố nó đã hiếp, lại
là vợ chưa cưới của anh. Như vậy thì cũng không khó, Mịch ạ. Thế hôm nào thì hết
hạn nhà thương, mà về được nhà?
- Hình như còn có ngày mai nữa thôi.
- Mịch nên xin về ngày hôm nay thì hơn.
- Vâng, để rồi tôi xin.
Hai người cầm tay nhau, nhìn nhau một cách rất đỗi yêu
thương. Sự căm hờn chung làm cho cả hai đã lẳng lặng và sự lẳng lặng thề thốt với
nhau, lại ý nhị hơn cả bằng lời nói nữa. Dẫu sao, họ cũng thấy một vẻ sung sướng
riêng trong những cơn tai họa tầy đình.
Nhưng chẳng may bà đồ Uẩn phá tan ngay mất cái phút hiếm có ấy.
Bà bước vào nói rầm lên rằng:
- Quái lạ thật! Một ít giấy in chữ tím với hai mảnh vải tây đỏ
thì làm cái gì mà quan cũng về bắt khám xét cả làng là nghĩa làm sao? Sao lại gọi
là đồ quốc cấm?
Long đứng lên kêu:
- Thôi chết rồi!
Mịch hỏi:
- Làm sao hở u?
Làm sao hở anh Long? Bà đồ đáp tiếp:
- Mấy trăm tờ giấy với hai miếng vải tây đỏ không biết đứa
nào vất vào làng mà quan huyện cũng về khám lung tung cả lên.
- Có bắt ai đi không?
- Quan với ông đồn bảo ông chánh hội với ông lý trưởng lên xe
tu bin về huyện.
Đáp xong, bà đồ ngẩn người ra nhìn con rể, miệng tròn như một
chữ o.
Buổi chiều hôm ấy, nhân dân huyện Cúc Lâm nhôn nhao đồn đại
nhau rằng có một vị quan to nào đã về thăm huyện. Người nói đó là quan công sứ
về hiểu dụ. Kẻ kêu đó là quan thống sứ về kinh lý. Lại có kẻ cam đoan đó chỉ là
quan nghị người Nam. Người ta chỉ thoáng trông một chiếc xe hơi hòm, nghênh
ngang tiến đến cửa huyện, rồi một người to nhớn, quần áo tây màu đen bước xuống,
chạy tọt vào huyện. Lúc xuống xe, ông chủ xe đã được người tài xế, quần áo dạ
tím, mũ lưỡi trai, xuống từ trước để mở cửa xe. Người ta chỉ trông thấy cái
hình thức uy nghi ấy mà thôi, chứ không rõ mặt mũi ông chủ xe như thế nào. Cho
nên có những lời đồn đại huyên thuyên kể trên.
Chính thật ra, đó là nghị Hách, vì ông tri huyện Cúc Lâm có
giấy gọi. Công cuộc điều tra của một ông huyện sở tại hình như đã kết liễu.
Nhưng mà giấy gọi chỉ dùng một giọng dè dặt, gọi kẻ bị nghi là can phạm lên huyện
nói chuyện chứ không phải là trát bắt lên.
Chẳng thèm đợi lệnh, cũng không báo cho lính nữa, nghị Hách cứ
xồng xộc chạy thẳng vào huyện đường. Lúc ấy, trước bàn giấy quan huyện, có hai
người nhà quê, y phục ra lối tổng lý. Ông huyện phán:
- Các thày cứ về. Phải bảo tuần tráng canh phòng cho cẩn mật
để chờ có trát nữa thì tức khắc phải lên ngay.
Hai người nhà quê dạ lui ra. Ông huyện truyền lính kéo ghê mời
nghị Hách ngồi.
- Bẩm, quan lớn có giấy gọi chúng tôi về việc gì thế ạ?
- À, nguyên vừa rồi có hai lá đơn kiện ông chủ một chiếc xe
hơi, có làm một việc nài hoa ép liễu. Tôi là quan sở tại, tôi có phận sự mở cuộc
điều tra. Cho nên có giấy gọi ngài.
- Bẩm, chúng tôi xin chờ lệnh của quan lớn.
Quan huyện quay tìm một tập bìa vàng trong đống giấy má lấy
ra để trước mắt, giở từng tờ một và hỏi nghị Hách:
- Hôm 16 ta vừa rồi, vào lúc đã khuya, hình như ngài có đáp
xe hơi lên về Hà thành?
Nghị Hách để tay lên trán, làm ra vẻ nghĩ ngợi hồi lâu rồi
đáp:
- Bẩm vâng.
- Xe hơi của ngài số hai vạn bốn nghìn tám trăm bảy mươi
nhăm, có phải không?
- Bẩm không phải. Mười lăm chứ không phải bảy mươi lăm.
- Được ạ. Tôi đã cho hỏi người gác ba đen cầu ở Đọ, thì đêm
hôm 16, có chiếc xe hơi hòm số hai vạn bốn nghìn tám trăm mười lăm chạy qua.
- Bẩm thế nào nữa ạ?
- Không có gì nữa ạ. Cảm ơn ngài, ngài có thể về được rồi.
- Quan lớn cho chúng tôi về? - Vâng.
- Thưa ngài, thế bên nguyên kiện tôi ra làm sao?
- Ấy, họ đại khái như ngài... đã biết.
Lạnh lùng, viên tri huyện đứng lên.
Nghị Hách cũng cười nhạt đứng lên cầm cái mũ quả dưa, mặt bẽn
lẽn...
- Bẩm quan lớn, ngài muốn trị tôi thẳng tay đó hay sao? Ông
huyện cười, cái cười xã giao, mà rằng:
- Trị ngài à? Tại sao thế nhỉ? Tôi tưởng tôi với ngài, chúng
ta không có điều gì thù hằn thì phải.
- Bẩm, vậy mà cái thái độ của quan lớn lạnh lùng đến nỗi
chúng tôi phải có cái ý nghĩ ấy.
- Đó là ngài nhầm?
- Thưa quan lớn, đến quan tổng đốc và quan công sứ tỉnh nhà
cũng không nỡ xử với tôi như thế.
Ông huyện trẻ tuổi giơ tay ngăn mà rằng:
- Bản chức đã biết! Ngài là một người giàu có, nhiều thế lực.
Chỉ vì thế mà bản chức phải lãnh đạm.
- Bẩm quan lớn, hay ngài xử hòa cho chúng tôi?
- Việc này tôi cũng nghĩ thế đấy. Nhưng mà về sau, tôi lại
nghĩ rằng để quan tỉnh xử hòa thì hơn. Là vì cái quyền hạn của chúng tôi hẹp
hòi lắm. Có việc gì xảy ra, chúng tôi chỉ được mở cuộc điều tra, rồi bẩm lên
quan trên mà thôi. Mà một vụ kiện hiếp dâm lại thuộc về luật hình.
Nghị Hách đỏ mặt ấp úng.
- Thưa ngài, thế trong đơn họ kiện tôi là hiếp dâm?
- Tôi có làm biên bản đâu? Đấy ngài xem, nếu có biên bản, tôi
đã mời ngài phải ký một chữ chứ?
Hai người nói đến đấy thì đứng cúi đầu trước cái bàn giấy, mỗi
người bận về một ý nghĩ, Nghị Hách thì chưa biết nên nói ra sao cho khéo léo,
còn ông huyện thì cũng đứng im, muốn tống khứ Nghị Hách đi đi, vì ngài còn bận
lên tỉnh. Hồi lâu, Nghị Hách nói:
- Thưa ngài, sự thực thì không như trong đơn kiện. Bên nguyên
đơn đã vu cáo.
- Làm sao ạ?
- Bảo hiếp dâm thì thật là vu oan. Thưa ngài, lúc ấy xe hơi của
chúng tôi liệt máy, phải chữa trong hai ba tiếng đồng hồ. Giữa lúc tôi buồn,
thình lình con bé ấy dẫn xác
đến. Ngài cũng thừa biết cho là dẫu người tai to mặt nhớn đến
thế nào đi nữa, thì cũng phải có lúc giăng gió một chút, cái ấy là trời sinh
ra. Tôi hỏi con bé, nó đã bằng lòng... nó cũng như là một đứa giang hồ, mà cái
việc xằng bậy của tôi thì cũng chỉ là của một người không hoàn toàn đứng đắn mà
đi chơi bậy đêm mà thôi.
Ông huyện lại quay về sau bàn giấy, giơ cái bìa vàng ra mà rằng:
- Đây là giấy nhận thực của viên Y sĩ, giấy nhận thực cho thị
Mịch... là...
Nghị Hách cúi xuống xem rồi nói:
- Giấy này cũng không đủ buộc tội đâu. Quan lớn xem lại mà
xem!... Nhận thấy rằng con bé ấy đã mất tân constate que ta dite filleaperdusa
virginité... dòng chữ ấy vô nghĩa. Lúc khám thì viên y sĩ thấy rằng đã mất tân!
Câu vu vơ ấy đủ cho thầy kiện của chúng tôi cãi rằng có thể người con gái đã mất
tân từ trước khi gặp tôi kia rồi. Bẩm quan lớn, nếu việc xảy ra to thì tôi sẽ
chống án lên thượng thẩm, mà bên nguyên đơn thì không thể có tiền chạy thày kiện
như tôi. Bẩm quan lớn, nén bạc đâm toạc tờ giấy, ngài nên bảo nguyên đơn giải
hòa.
- Người ta chưa nói gì đến việc xin bồi thường, chỉ nói là
xin trị kẻ có tội, để rửa nhục cho người con gái mà thôi.
- Bẩm quan lớn, chúng tôi xin nói thật rằng chúng tôi không
thua cái kiện này đâu. Nghĩa là việc lên đến quan
sứ, thì chúng tôi chỉ hơi phiền lòng mà thôi, chứ thua thì
không có thể. Vậy mong quan lớn gọi nguyên đơn lên bảo là nên giải hòa.
- Bản chức cứ biết bẩm tỉnh đã.
Nghị Hách đứng thừ người ra hồi lâu rồi nói rằng:
- Thưa quan lớn, cách đây ít lâu, tôi có sai người nhà lên điều
đình một việc với quan lớn...
- Cái đó tôi có biết. Người đàn bà ấy cũng đã khôn khéo lắm lắm,
song tôi không thể làm vui lòng ngài được.
Rồi ông huyện lảng chuyện bằng cách phán cho tên lính lệ:
- Bảo xà ích đánh cái xe ngựa ra để tao lên tỉnh đi mày! Tên
lính dạ một cái rồi thụt vào cửa sau. Nghị Hách lại nói:
- Quan lớn tiết kiệm quá nhỉ? Sao ngài lại chưa tậu ô tô?
- Tôi không có nhiều tiền như những ông quan khác.
- Bẩm quan lớn, ngài thử trông cái xe của tôi đấy kia xem.
Ông huyện quay nhìn ra chỗ cái xe hòm, hỏi lại:
- Làm sao?
- Nếu chính quan lớn mua giúp cho thì tôi xin để lại bằng một
giá rất rẻ.
-...
- Nếu quan lớn dùng đến thì tôi hỉ xin lấy ngài hai trăm
thôi. Lúc mới mua giá nó là ba nghìn tám đấy ạ. Một chiếc xe hiệu Avion
Voisin...
-...
- Nhưng mà trong giấy tờ thì cứ biên là quan lớn mua lại những
hai nghìn.
-...
- Bẩm quan lớn, hay là ngài đi thử một chốc? Để chúng tôi cầm
hầu ngài lên tỉnh rồi xong việc quan, lại cầm hầu ngài về huyện? Nếu quan lớn
muốn đi thử thì để tôi bảo xà ích thôi đừng gióng ngựa nữa.
Ông huyện đứng nghĩ một lát rồi mỉm cười nói:
- Vì việc tôi cần lên tỉnh sớm, nên tôi bằng lòng đi xe hơi của
ông, thế thôi. Còn tậu lại thì không dù là ông chỉ để lại cho tôi bằng một đồng
bạc. Nếu tôi định bụng kiếm chác gì ông, thì từ hôm nọ, tôi đã nhận lời với người
đàn bà mà ông phái lên điều đình rồi còn gì!
Thế là ông huyện để cho nghị Hách bẽn lẽn mà dẫn mình ra xe.
Cùng lên theo xe của nghị Hách với ông huyện còn có cả một bác lính cơ tay ôm cặp
công văn dày một tấc nữa.
Xe chạy độ mười phút thì đã tới tỉnh lỵ.
Ông huyện vào phòng giấy quan tổng đốc, còn nghị Hách thì đi
đi lại lại ngoài sân tòa án. Lúc nào, vừa kịp khép cửa, ông huyện đã thấy quan
tổng đốc hỏi:
- A, thầy huyện! Thế việc truyền đơn, cờ đỏ ở làng Quỳnh Thôn
ra làm sao?
Ông huyện khoan thai thưa lên:
- Bẩm cụ lớn, trong biên bản tôi đã có trình rõ ràng lắm.
- Thế vụ thuế tháng mười này thế nào?
- Bẩm, thu được đủ cả.
- Thầy huyện chỉ bẩm lên có thế?
- Bẩm, còn việc một thầy đồ với lý dịch làng Quỳnh Thôn kiện
một người về tội hiếp dâm.
- Hiếp dâm? Đầu đuôi như thế nào?
- Bẩm cụ lớn, biên bản tuy vắn tắt nhưng đủ rõ ràng lắm.
Quan tổng đốc cúi xuống tập bìa vàng. Nét mặt quan luôn luôn
thay đổi. Màu da lúc tái đi, lúc lại đỏ bừng lên. Sau nửa tiếng đồng hồ, quan
ngẩng lên nhìn viên tri huyện, tiếng đồng sang sảng:
- Này, thầy huyện! Thày ở Ba Lê đã đỗ luật khoa tiến sĩ?...
Biết là có chuyện, ông huyện ngẫm nghĩ một phút rồi cứng cỏi
đáp:
- Bẩm vâng, quả có thế thật!
- Ở bên tây, thầy đã diễn thuyết và biểu tình với ông văn sĩ
Romain Rolland (1) về việc chính trị phạm Đông Dương?
- Bẩm vâng!
- Cho nên thầy không biết mở cuộc điều tra cho nên thầy không
đủ tư cách làm một viên tri huyện!
Quan tổng đốc nói đến đấy thì đứng lên, tay khoanh trước ngực.
Ông huyện đỏ mặt lên. Nhưng vẫn khoan thai mà thưa rằng:
- Bẩm chúng tôi có lỗi gì ạ?
Quan tổng đốc chân tay run lên bần bật, hai bên má như bị hai
cái gân tai ác giật lấy giật để, làm một hồi dài:
- Cứ riêng về truyền đơn ở làng Quỳnh Thôn cũng đủ tỏ ra thày
làm quan mà không biết luật. Dù là chưa tìm thấy kẻ làm việc ấy, thì thày cũng
phải biết giam bọn lý dịch cái làng ấy lại chứ? Thày không nhớ trong hình luật
có khoản buộc lý dịch mỗi làng phải chịu trách nhiệm về mỗi việc rối cuộc trị
an xảy ra trong làng hay sao? Thày lấy cớ gì mà để yên cho chúng? Sao thày làm
bậy bạ thế?
- Bẩm cụ lớn, chúng tôi đã xét kỹ rằng dân huyện tôi còn ngu
dốt lắm, không thể làm những việc ấy được, mà làng Quỳnh Thôn thì lại là một
làng còn ngu dốt hơn hết.
Đó chỉ là kẻ nào ở xa đến làm việc ấy mà thôi. Đã biết mà còn
bắt, sợ oan cho dân sự.
- Thày đừng nói là biết! Cái lão đồ làng Quỳnh Thôn dám dạy 6
đứa trẻ mà không xin phép mở trường như vậy là sai nghị định nhà nước, là phải
bắt tống giam, vậy mà thày không hiểu một tí gì cả! Ông đồn về khám, khi qua
nhà lão đồ, đếm được 6 đứa học trò, đã có phàn nàn việc ấy lên quan sứ rồi. Như
vậy là thày sao nhãng!
- Bẩm lúc khám cả làng thì công việc ồ ạt, nếu vậy thì tôi
trót sơ ý.
- Thày sơ ý như thế thì để dân nó nổi loạn à? Đã làm tri huyện
thì nói trong huyện, nhà nào có mấy con gà là thày cũng phải biết mới được!
- Bẩm cụ lớn, tôi xin cam chịu lỗi.
- Lại còn cái việc bẩn thỉu, cái việc hiếp dâm này nữa. Thày
phải biết rằng ngoài cái số thám tử của thày, lại còn có thám tử của tòa sứ nữa,
dưới quyền của tôi, cũng mở cuộc điều tra! Cái dân dưới quyền thày vì nhiễm phải
tư tưởng phản nghịch vì cái nhu nhược của thầy có lẽ vì cả những tư tưởng của
thầy có ở Ba Lê, mà thày đem theo về đây nữa, đã vào hùa nhau căm hờn những người
giàu có, bảo người ta là tư bản thì xấu xa lắm, rồi vu oan giá họa cho người
ta! Thày làm quan như thế là ngu! Đây này, thị Mịch kèm theo cái số tiền 5 đồng
trong đơn kiện là nghĩa lý gì? Lý luận thày để đâu mà thày cai trị dân như thế?
Thày phải bắt giam con bé ấy lại mà gửi về nhà lục xì Hà Nội chứ? Thày làm quan
như vậy là làm loạn! Để tôi trình lên quan trên đổi thày đi Sơn La để cho thày
biết thân mới được. Quan sứ cũng không bằng lòng thày.
Ông huyện cúi đầu 15 phút rồi ngẩng lên cười nhạt nói:
- Bẩm cụ lớn, tôi tưởng tôi ra làm quan được thì tôi làm được
một việc ích quốc lợi dân! Bây giờ như thế này, tôi mới biết là tôi đã nhầm...
- À, thày huyện! Thày dám kháng cự người bề trên như thế à?
- Cụ lớn cho tôi nói nốt. Vâng, quả là tôi có nhiều tư tưởng
không hợp với chế độ cũ. Bẩm cụ lớn, nhưng mà không phải tự tôi đi chạy chọt
cái tri huyện.
- Thày như vậy là hại dân, hại nước! Thày không chịu hòa giải
một việc nhỏ mọn như thế, vậy thày thấy người ta có máu mặt nên thầy xoay à?
- Bẩm cụ lớn, nhà nước không cần phải đổi tôi tôi đi xa! Dù
tôi không đi làm thì tôi cũng không chết đói ạ. Bẩm cụ lớn, chẳng phải nói khoe
gì, quan thày của tôi trong đảng xã hội, nay mai mà có sang nhận chức toàn quyền,
thì lúc ấy tôi lại sẽ làm quan cũng không muộn ạ. Mà nếu có phải làm quan, tôi
sẽ cũng không làm quan huyện nữa... tôi xin cam đoan với cụ lớn trước như thế.
Thế thì xin cụ lớn biết cho là ngay bây giờ, phải ngay bây giờ, tôi xin có lời
trả lại cái tri huyện cho Nhà nước! Ngày mai thì sẽ có đơn từ chức của tôi hẳn
hoi.
Quan tổng đốc ngẩn người ra hồi lâu rồi dịu giọng:
- Thầy nói thật đấy à?
- Bẩm cụ lớn, chúng tôi lại dám nói đùa thế à?
- Ở đời này, không nên ương ngạnh quá thế, tôi bảo thật...
- Bẩm, nào có phải ương ngạnh! Chúng tôi hiểu rồi, vì đã làm
tri huyện một năm rồi. Như cái việc hiếp dâm này là do tài xế của ông nghị ấy về
Hà thành, vào một tiệm thuốc phiện kháo chuyện, không may lại vớ phải một thằng
con riêng của ông nghị ấy. Thằng con ấy, một đứa vô lại muốn xoay tiền bố, đã đến
nói với nhà báo để cho một tờ báo nọ cứ gào choáng mãi lên, kêu đòi thần công
lý của quan sở tại, là tôi... Cho nên bây giờ, sau khi bị cụ lớn khiển trách thế
này, thì tôi lấy làm xấu hổ cho cái thần công lý của tôi lắm.
- Nếu thế ra biên bản của thày là đúng?
- Thôi được, cụ lớn đã bảo là sai thì nó là sai. Tôi cũng
không cần cãi bừa, vì tôi đã xin từ chức rồi. Để tôi mở một phòng luật sư và một
cơ quan ngôn luận bằng chữ tây, lúc ấy rồi tôi xin đáp lại cụ lớn và cái chế độ
quan trường hiện nay. Thưa cụ lớn, khi người ta không phải là kẻ vô học thì người
ta muốn làm gì cũng được.
Quan tổng đốc, ý chừng nghĩ đến cái bước làm quan tắt của
mình, nên tái mặt đi, tức không nói được nữa.
Lúc ông huyện ra tới sân thì thấy nghị Hách đương nói với một
thày phán: “Nó kình địch với tôi thì tôi sẽ làm cho nó mất cái tri huyện!”.
Ông huyện tuy vậy cũng làm như không nghe tiếng và cứ gọi rõ
to:
- Kìa quan lớn nghị! Ngài không đánh xe trả tôi về huyện à?
Chương 7:
Đến trước bàn giấy ông giám đốc Đại Việt học hiệu là Tú Anh,
ông chủ rất trẻ tuổi của mình, Long mở quyển sổ lớn, cầm bút chì dò vào cột chữ
số, vừa đọc, vừa nói:
- Thưa ông, tính đến mồng 10 này thì số tiền học phí thu được
cũng đã khá lắm. Năm thứ tư, học sinh trả hết cả. Năm thứ ba, năm thứ hai và
năm thứ nhất thì độ mươi học sinh tất cả, khất đến cuối tháng. Còn lớp nhất thì
25 học sinh thiếu tiền, lớp nhì 7 người, lớp ba 16 người. Còn lớp dự bị và lớp
đồng ấu thì vì ông chưa ra lệnh giảm 10 hay 30 phần trăm, nên chưa thu.
- Mai thì thầy thu một lượt đi. Hạ cho các cô các cậu ấy 30
phần trăm học phí. Còn cái bản thống kê của thư viện thì ra sao?
Long lại giở một tập giấy đánh máy, nhìn vào rồi đáp:
- Tháng này có hai trăm học sinh mượn sách của thư viện,
trong số đó thì sáu phần mười đọc tiểu thuyết tình, bốn phần đọc truyện trinh
thám, mà chỉ có hai phần mượn sách học mà thôi.
- Thế số tiền học phí thu được bao nhiêu?
- Bẩm tổng cộng năm trăm sáu mươi tư đồng?
Ông giám đốc thở dài một cái rồi bảo:
- Thôi được, thày lên ăn cơm.
Long cúi chào rồi quay ra được mươi bước, thì ông chủ trẻ lại
gọi lại:
- À này! Hay thày hộ tôi một việc đã nhé?
- Vâng.
- Thày đừng ăn cơm nữa, lấy ở két một đồng bạc mà đi ăn hiệu.
Nhưng mà trước khi đi ăn thì hãy lại cái tiệm thuốc phiện chú Sếch ở hàng Buồm
hộ tôi một việc này đã.
- Bẩm vâng.
- Đây này thôi thì chắc thày cũng chẳng lạ gì cái việc bậy bạ
của ông cụ nhà tôi mà vừa rồi tờ báo Lưỡng kỳ nó đăng tin đã loạn cả lên...
Long làm bộ ngớ ngẩn mà rằng:
- Bẩm việc gì thế ạ? Thưa ông, quả độ này tôi không đọc báo.
Ông chủ ấp úng:
- Nguyên ông cụ nhà tôi... ông cụ nhà tôi... vừa rồi có làm một
việc nài hoa ép liễu, kể cũng bậy bạ lắm. Thế rồi cái thằng con riêng của ông cụ,
một thằng con mất dạy,
mà ông cụ không nhận nữa, không biết làm thế nào, lại rõ việc
ấy. Chẳng biết nó là đứa trống mồm trống miệng, hay là vì nó thù ông cụ mà nó cứ
rêu rao lên cho mọi người biết cái chuyện xấu hổ ấy. Hôm qua tôi có đến tiệm
tìm nó thì lại không gặp, vậy bây giờ thày lại tìm nó giúp tôi. Tên nó là thằng
Vạn, nhưng mà thiên hạ cứ quen gọi nó là thằng Vạn tóc mai. Thày tìm được nó rồi
thì khẽ bảo với nó đại khái rằng: tôi, Tú Anh, con giai trưởng cụ nghị Hách,
nghĩa là anh em cùng cha khác mẹ với nó, muốn mời nó lại chơi để bảo nó rằng:
nó đừng rêu rao ông cụ nữa thì chính tôi, tôi sẽ xin với ông cụ cho nó được hẳn
một cái nhà. Thày nói thế rồi kéo ngay nó về đây cho tôi.
- Vâng.
- Thày nên khôn khéo một chút nhé, thằng ấy nó vô nghĩa lắm.
- Vâng, thế thì tôi chợt nhớ ra chuyện ấy rồi. Chuyện xảy ra,
hình như cũng đã quá nửa tháng. Mà nghe đâu như cụ nghị nhà ta bỏ ra những năm
trăm đền cho bố mẹ cô gái quê vừa rồi cơ mà?
- Cái gì? Ai bảo thày thế?
- Thiên hạ đồn nhau thế thì phải.
Ông giám đốc thở dài một cái, mình tự nhủ mình: “Không còn một
ai là không biết nữa”. Rồi nói với người thư ký:
- Không, đấy là họ đồn nhảm. Ông nghị nhà tôi sẽ cưới cô bé ấy
làm vợ lẽ thì mới là đền bù được cho cả một đời bị hại của người ta.
Long tái xanh mặt, vội quay nhìn ra phía khác, rồi cúi xuống
đất nhặt một cái đanh ghim để giấu sự xúc động rất mạnh đã hiện ra cả thần
thái. Hồi lâu, chàng hỏi chủ:
- Bẩm lấy làm vợ thì phải có phép cưới hẳn hoi?
- Phải.
- Mà lại có cả cụ nghị bà ưng thuận?
- Cái đó dã hẳn. Lễ cưới sẽ rất trọng thể, rất linh đình.
- Bẩm, chính cụ nghị ông muốn lấy người gái quê ngu đần ấy về
làm thứ phòng mà ông không phản đối?
- Sao tôi lại phản đối? Ấy là chính tôi, tôi bắt ép ông cụ
nhà tôi phải xử sự như thế, cho bõ với cái lúc càn bậy, chứ có phải ông cụ tôi
muốn thế đâu!
Long gượng cười mà rằng:
- Thưa ông, tôi tưởng chẳng cần phải thế. Cứ đền cho họ vài
trăm bạc, họ muốn lấy ai thì lấy có được không!
Ông chủ trẻ tuổi xo vai, nghiêm khắc mà rằng:
- Thày đừng nói càn! Cái tân tiết của một người con gái, dù
là gái quê ngu đần, thì cũng là đáng quí lắm. Ông cụ ấy đã phá tân người ta,
thì ông cụ ấy phải lấy hẳn người ta. Mà lấy làm bà hai hẳn hoi chứ không phải
là mua về làm hầu như những người khác.
Long xoa tay, lễ phép hỏi lại:
- Bẩm xin ông tha lỗi cho, thế ngộ người ta không bằng lòng
thì sao?
- À, cái ấy có thể xảy ra được lắm, vì bố người ta cũng là một
nhà nho hẳn hoi, mà một nhà nho thì vẫn khí khái lắm. Nhưng mà tôi tưởng việc ấy
rồi thành được. Là vì cái kiện theo đuổi con dở dang thì chẳng may cho ông đồ lại
bị quan đồn truy tố về tội không xin phép mà lại mở trường tư. Ông ta dạy sáu đứa
trẻ con, nghĩa là sai nghị định. Hiện giờ thì ông đồ vẫn được tại ngoại hậu cứu,
nhưng nay mai tòa án xét xử thì thế nào rồi cũng phải tù. Nếu phải tù thì tất
cái gia đình ấy cần tiền, mà tôi bảo ông cụ nhà tôi đem nghìn bạc đến thì còn
gì mà chả cưới được! Vừa lấy một người đã trót ngủ với mình làm chồng, lại vừa
có tiền chạy chọt cho bố, thì có phải là một việc nhất cử, lượng tiện không?
- Bẩm thế đã bị bắt chưa ạ?
- Chỉ thấy nói bị truy tố, chứ bị bắt chưa, thì không hiểu.
Nghe đến đó, Long cúi đầu xuống, lo sợ không thể giấu được
nét mặt nữa. Chân tay chàng đều run bần bật lên. May sao ông chủ của Long ngắt
chuyện mà giục chàng:
- Ô hay thầy đi ngay đi chứ?
May quá, Long làm ra bộ hấp tấp bước ra ngoài Đại Việt học hiệu.
Chàng gọi xe, bước lên, bảo phu kéo đến phố Hàng Buồm. Câu chuyện Tú Anh vừa hở
cơ kể lại, khiến chàng như cái đồng hồ đứt mấy dây tóc. Nhưng chàng cứ phải cố
giữ nét mặt điềm tĩnh cho khỏi hớ trong công cuộc dò la.
Xe đỗ trước một hiệu phở nhỏ. Một ngọn đèn đất leo lét chiếu
vào một con gà, một miếng thịt bò, vài dây ớt đỏ, với mấy cây rau cải làn, rau
cần tây. Hiệu vắng vẻ như bãi sa mạc. Chủ hiệu, một chú khách ngồi ngủ gật, hút
một cái điếu thuốc lá bào, Long nói:
- Xin phép chú, tôi lên trên chú Sềnh.
Long thoăn thoắt bước qua bốn cái bàn, một cái bếp, thì đến một
chỗ tối om. Trong tối hiện ra, tỏ tỏ mờ mờ, một dẫy mười cái buồng, mỗi buồng
có cái phản mỗi phản có một cái màn xếp che, mỗi màn xếp có treo một xâu cá mắm
mực. Buồng nào cũng cách nhau bằng một lần cót, buồng nào cũng có một cái hỏa
lò bốc khói xanh mù. Tiếng trẻ con khóc, tiếng mỡ nổ lanh tanh trong sanh đồng,
tiếng chó con bú mẹ un ủn, cắt nghĩa rằng trong chỗ tối tăm ấy có mười gia đình
hẳn hoi. Một thứ mùi tanh tanh rất khó tả, bảo rằng mười gia đình ấy là mười
gia đình khách trú.
Long cứ giẫm bừa lên lớp bùn quánh giữa lối đi, không sợ bẩn
đến gấu quần. Đến một cái thang gỗ nhỏ, chàng đứng lại, nhìn lên. Trên gác lụp
sụp chỉ có một thứ ánh sáng héo hắt, thấy vang lên những tiếng ro ro, do những
cái cổ họng anh hùng kéo thật khỏe.
Long, vì là lần đầu, nên rón rén lên thang. Vừa lên đến bậc
nhất, đầu chàng đập phải cái giầm đánh bốp một cái. Cùng giữa lúc ấy có ngay một
chuỗi cười vang lên. Tiếng cười lẫn lộn của cả ta, tây đen, khách, tây trắng.
Long dừng lại, đỏ bừng mặt, nhưng không phải họ cười cái đụng đầu chàng. Vì rằng
sau chuỗi cười kỳ lạ và hỗn độn ấy, tức khắc có một giọng khàn khàn nói rất to:
- Ồ, thật đấy mà! Cái thằng cha ấy nó đẻ ra moa, chính là vì
một phút điên rồ của xác thịt đấy!
- Ha ha ha! Hà hà hà!... Hi hi hi!!!!...
- Cũng vì thế mà luý bỏ ma me, để ma me nghèo, chết, rồi bây
giờ lúy lại chực từ nốt cả moa! Các đằng ấy bảo vì lẽ gì tớ lại không rửa thù?
Luý đẻ ra moa mà luý chẳng bao giờ thèm nghĩ đến moa cả!...
Cái tiếng dâm của nghị Hách thì đã lừng lẫy cả mấy tỉnh!
Long nhìn vào thì người vừa nói những câu ấy là một thiếu
niên mặt mũi võ vàng, hai bên tai có bộ tóc mai rất to, mặc áo gấm lam, ngoài
phủ một cái áo dạ vai vuông, cái đầu tóc hung hung đỏ và quăn quăn kê lên trên
mông một thiếu phụ mặt bự những phấn mà môi lại tái nhợt, tóc búi, cổ có đeo kiềng,
quần áo lối mới, cổ áo bành bẻ, cũng có ba đờ suy đờ vin hẳn hoi. Trước mặt cặp
ấy là hai thiếu niên áo quần cực kỳ sang trọng. Các phản khác đầy những nhân
viên làng bẹp. Năm người Việt Nam, tám người khác trong số đó có hai ả sẩm, một
lính tây trắng và ba linh tây đen, và mụ đầm gần già...
Nói xong thiếu niên hôn vào đùi thiếu nữ đánh chút một cái, vỗ
về người yêu một hồi mà rằng:
- Bây giờ ở trên đời này, moa chỉ có ma Quỳ này là thân yêu!
Ô hay! Trô (1) đi chứ các ngài? Tự tử bằng thuốc phiện là nhất, nhất nhất!
Long đến bên cạnh, lễ phép hỏi.
- Xin lỗi, ngài là ông Vạn có phải không? Vạn tóc mai méo xệch
cái mồm, cả cười mà rằng: - Sao biết?
Rồi lại điềm nhiên bảo nhân tình:
- Mình cứ việc trô đi cho thật đủ, cho thỏa thích. Chốc nữa
ta sẽ đi nhờn ở hiệu nem.
Hai người quần áo lịch sự cùng nằm quanh cái tĩnh ấy đã ngồi
lên dẹp chỗ cho Long. Vạn tóc mai bấy giờ mới lại hỏi:
- Ú, sao đằng ấy lại biết tên tớ? Đằng ấy muốn hỏi gì? Long
ngồi xuống giường đáp:
- Tôi là người làm của trường Đại Việt, nghĩa là của ông Anh.
Ông ta sai tôi đến đây tìm ông, mời ông lại chơi có việc cần.
Cô ả nằm dưới đầu Vạn tóc mai đánh một câu:
- Làm chó gì có việc cần! Cái thằng cha ấy hưởng gần hết gia
tài của chúng tôi, bây giờ gọi đến, chắc lại chỉ có chuyện không tốt.
Biểu đồng tình với nhân ngãi ở chỗ ấy, Vạn tóc mai cũng tiếp:
- Có lẽ lắm. Nhất là mẹ nó xử với chúng mình thì càng tệ.
Nghe đâu bà lớn với mấy cô Chiêu ở Hải Phòng, cũng đem cái của chiếm được của
chúng mình, ra đồng bóng hết mà thôi.
Rồi Vạn tóc mai giới thiệu cho Long biết hai người quần áo lịch
sự:
- Đây, tôi giới thiệu ông biết, hai ông này là hai tay nhà
báo, một ông thì trợ bút cho báo Lưỡng kỳ, một ông thì là chủ bút của tờ báo
Cùng dân. Hai ông thật là những người anh hùng nghĩa hiệp, hết sức bài bác những
việc vô nhân đạo, hết sức công kích những kẻ cậy thế lực kim tiền mà xử đểu với
người không có xu. Các ông ấy đều đã công kích kịch liệt cái việc hiếp dâm vừa
rồi của monpère(1)! nhưng mà, đằng ấy ạ, đằng ấy ạ... đằng ấy chỉ là kẻ làm
công cho Tú Anh thôi nên đằng ấy không biết, chứ tớ thì tớ biết
nhiều điều đểu giả của monpère lắm. Tớ sẽ nói hết tất cả những cái tội ác của
lúy (1) ở ngoài mỏ, ở trong xưởng máy, ở đồn điền...
Ông chủ bút tờ Cung dân đưa đón:
- Cứ kể như ông cụ nghị ấy thì cũng quá thật. Có con mà lại
không nhận con thì thật là phạm một tội đại ác. Mà khi ông cụ ấy sợ phải nuôi
con như thế thì sao lại còn cứ dâm đãng quá sức... Tôi chắc ông cụ ấy rắc con
trong thiên hạ cũng đã khá nhiều...
Vạn tóc mai ngồi nhổm dậy, sốt sắng mà rằng:
- A, cái đó thì đã hẳn! Cái số con cái luý rắc trong thiên hạ
thì chắc là phải nhiều! Vì rằng lúc nào luý cũng chỉ chăm chỉ cái việc bồi dưỡng
thân thể bằng sâm, nhung, thuốc bổ, rượu sâm banh...
Nói đến đấy, Vạn tóc mai lại méo xệch cái mồm ra mà cười. Những
người nằm quanh những khay đèn, ở những giường cạnh đấy, cũng khúc khích cười
thầm với nhau.
Chú Sếch, ông chủ tiệm, tuy là người Tàu nhưng nói tiếng ta
chẳng ngọng tí nào cả, cũng từ xa nói với lại:
- Cứ kể những chuyện cậu Vạn nói mà đúng thì ra ông cụ ấy
đáng sợ lắm, mà ác bằng Tần Thủy Hoàng rồi đấy.
Vạn tóc mai lại hùng hồn tiếp:
- Còn phải bàn!...
Cả gian gác lại vang động lên một chỗi cười dài. Ả Quỳ cau mặt,
cầm dọc tẩu chọc vào má Vạn tóc mai một cái mà rằng:
- Thôi cút đi đã! Khỉ lắm, chỉ có một cái chuyện khỉ gió ấy
mà cứ lúc nào cũng giở ra nói mãi được. Hút đi rồi thử lại với ông ấy xem có
chuyện gì không.
Long cũng nói ngay:
- Vâng. Ông chủ tôi bảo tôi đến tìm ông Vạn để nói chuyện về
gia tài gì đó.
Kéo xong điếu thuốc, Vạn tóc mai hấp tấp hãm một chén nước
nóng, rồi bảo nhân ngãi.
- Thế thì toa cứ ở đây nhé, Quỳ nhé? Để moa đi ngay xem ra
sao. Nếu anh Anh mà lại nói hộ cho chúng mình cứ mỗi tháng được hưởng một số tiền
nhà thì hả lắm, thì cuộc đời chúng ta chũng không ba đào nữa. Nếu thật thì từ
nay trở đi chúng ta tẩy chay mẹ nó cái thứ xái “nạm thân” này đi!
- Ừ, thôi được, hãy cứ đi đi đã!
Hai tay làm báo cũng đưa mắt cho nhau đứng lên. A Quỳ nói:
- Hai ông cứ ngồi chơi, nhà tôi chỉ đi có chốc rồi về thôi
mà. Nếu các ngài có muốn điều tra về đàn bà ăn cơm đen
thì cứ nằm đây, tôi nói hết tâm sự của tôi sau khi trụy lạc
cho mà nghe.
Vạn tóc mai cũng hưởng ứng.
- Phải đấy, các ngài cứ ở chơi! Chỉ chốc nữa là tôi về. Đêm
nay chúng ta sẽ ở đây đến 2 giờ khuya. Rồi tôi sẽ kể hết sự tổ chức của đảng
Càn Long cho hai người nghe. Moa đã lật tẩy thì phải biết!
Hai tay làm báo lại nằm xuống giường, Vạn tóc mai cùng với
Long xuống thang...
Khi về tới Đại Việt học hiệu, Long vào trước báo cho chủ. Tú
Anh vội bật đèn điện cho phòng khách sáng trưng, rồi ra tận bậc cửa đứng đón rất
trọng thể, không ngờ chưa chi đã phải nhăn mặt lại, vì ông em dùng áo gấm và
ba-đờ-suy để đứng vén quần... tiểu tiện ngay ở gốc cây trước cửa trường.
Vào trong phòng khách, ai nấy an vị đâu đấy rồi Tú Anh nói
trước:
- Tôi nhờ ông Long đây lại mời chú, về một việc cần lắm. Xưa
nay chú cứ nghe những lời đồn ở ngoài, nghi tôi xui bậy ông cụ từ chú để chiếm
hết gia tài, cái đó là chú nhầm, chứ không phải cái bụng dạ tôi khốn nạn đến thế
đâu. Chứng tỏ hiển nhiên là tôi đã có nói với ông cụ để lại ngay cho chú một
cái nhà ở phố Mới, để chú có vốn mà sinh cơ lập nghiệp. Ông cụ đã hứa nay mai về
thì sang tên cho chú.
Vạn tóc mai tươi cười đáp:
- Thưa bác, thế thì cám ơn bác lắm. Còn nghi bác xúc xiểm ông
cụ thì quả là không bao giờ em nghi, bác đừng nhầm và oan em.
- Thôi được, nếu chú đã nghi tôi thì từ rày trở đi đừng có
nghi nữa, còn nếu không nghi thì thôi. Mà chú cũng nên cải tà qui chính đi thì
vừa, đừng nên ăn chơi lêu lổng mãi như thế nữa, đừng nên đi hết tiệm này đến tiệm
khác nữa.
- Thưa bác, vì ba bốn tháng nay chúng tôi bị cắt lương phải
bán đồ đạc đi, bán quần áo đi mà ăn, rồi phải ngủ nhờ mọi chỗ, chứ có phải muốn
lăn lóc thế làm gì?
- Chú với thím ấy, nếu có phải duyên kiếp với nhau, thì nên
ăn ở với nhau cho nó ra vợ, ra chồng, đừng có tạm bợ như trước nữa. Nếu chưa có
chỗ tạm trú thì để tôi xếp cho một cái buồng trong trường này rồi thì về đây mà
ở, và cho thuê bớt đi, lấy tiền mà ăn. Nhưng mà chú phải cam đoan với tôi là đừng
có trống mồm, trống miệng như trước nữa, đừng có bạ cái gì cũng
nói... Nhiều người nói đến tai tôi là chú cứ nói xấu ông cụ với những
tay làm báo, như vậy là dại dột lắm.
Vạn tóc mai ngơ ngác cãi:
- Oan! Oan tôi quá! Nào tôi có nói xấu ông cụ bao giờ?
- Ở những tiệm mà chú vào hút, chú đều nói toang ra cả.
Vạn tóc mai nháy Long một cái mà rằng:
- Đây là ông Long làm chứng nhé: vừa rồi ông có thấy tôi đả động
gì đến ông cụ nhà tôi không? Họ chỉ nói láo!
Ra vẻ sốt ruột, Tú Anh nhăn mặt khó chịu, gạt đi mà rằng:
- Thôi, nếu chú không nói gì thì thôi! Nhưng mà chú lại đến
tiệm hút cho đủ đi, rồi ngay đêm nay hai vợ chồng phải đưa nhau về nhà này. Hoặc
là chú bị ông cụ từ, hoặc là chú sẽ có một cái nhà và vâng lời tôi!
- Thưa bác, bác là anh tôi, lại thương tôi, tất nhiên là tôi
phải vâng lời bác.
- Thôi, thế chú có thể quay về chỗ cũ để sửa soạn...
- Vâng, lạy bác, em đi rồi chốc nữa em xin về đây.
Vạn tóc mai sung sướng ra đường, ném mình đánh phịch một cái
lên một chiếc cao su, nằm thẳng cẳng ra... xe chạy.
Tú Anh bảo người thư ký:
- Ông Long, tôi lại nhờ ông một vài việc nữa. Trưa mai thì
ông đã phải giao hết công việc cho người thư ký mới để rồi ông đi. Có lẽ ông
lên tỉnh trên với cụ Nghị nhà tôi. Có lẽ ông sẽ đi điều đình với người nhà cô Mịch
cho tôi nữa mà có lẽ rồi ông lại phải xuống Hải Phòng, điều đình với bà cụ tôi,
để ông tôi được cưới người ta làm lẽ nữa. Nếu xem ý ông cụ tôi không có lòng muốn
lấy người ta làm vợ thì ông sẽ nói là tôi cũng không bằng lòng lấy cô con quan
tổng đốc nào đó mà ông cụ đã hỏi cho tôi đâu. Ông cụ đã trót hỏi thì mặc kệ ông
cụ
- Ông Long hãy ra đây. Mấy cái thư của tôi đây này...
Long cúi xuống đọc mấy cái thư.
- Thế ông có tận tâm giúp được tôi trong công cuộc này không?
Ông nên biết tôi tin cậy ở ông lắm, và tôi hiểu cái lòng lương thiện của ông lắm.
Long đứng ngay ngắn lên mà rằng:
- Thưa ông, tôi cũng lấy làm vinh dự mà được làm công cho một
người như ông. Tôi xin cố hết sức.
Chương 8:
Từ khi xảy ra cái việc không may cho cô gái quê làng Quỳnh
Thôn, tính đến hôm nay đã được 20 hôm. Trong khoảng hơn nửa tháng trôi, cả
làng, từ trẻ đến già, từ nhớn đến bé, đã sống qua những ngày giờ nặng trình trịch,
rất hỗn loạn.
Ngoài gia đình ông đồ Uẩn, còn liên can tới vụ kiện đó mất
năm lý dịch, với một ông cụ già, và hai người đàn bà đã cùng cô Mịch đi gánh rạ
đêm.
Hai lá đơn kiện đệ lên huyện đường, thế là trong cái làng chỉ
có độ hai trăm người thì hơn 10 người, cứ nay bị trát quan gọi, mai bị trát
quan gọi. Những việc như thế đã đủ làm cho cả làng nhộn nhạo lên. Người bàn ra,
kẻ tán vào, người hăng hái, kẻ nhút nhát, mỗi người có một ý kiến mà những dư
luận ấy tất nhiên là phải trái ngược nhau, nên chỉ người nọ vặc người kia, rồi
sự đời cứ thêm điều, đẻ chuyện mãi ra, làm cho cả một làng, không còn một ai giữ
được hòa khí với một ai nữa.
Người ta đã nhãng bỏ những việc tơ, tằm, đồng áng, để mà kháo
chuyện nhau, chén chế nhau, khích bác nhau, chửi bới nhau. Nửa tháng sau khi có
cái tấn kịch cưỡng dâm kia, người ta đã đếm được trong làng có ba mươi nhăm vụ
xung đột, trong số đó có một đám ăn vạ, hai đám có kẻ bươu trán, vỡ đầu. Sự im
lặng, sự hòa bình, sự trật tự trong làng bị phá hoại, bị đảo lộn ngược cả. Bọn
giai làng thì ùa nhau cũng học ăn học nói, cũng bắt chước cái giọng phệnh phạo
của bọn đàn anh; bọn đàn anh thì lý sự cùn giở ra chọi nhau bắt chước các cụ
già bét nhè và lẩm cẩm; và các cụ già thì đâm ra vô nghĩa lý y như bọn trẻ con
trẻ đổi làm già, già hóa ra trẻ ngần ấy khối óc ngu dại, ngần ấy cái miệng
hương ẩm đều chỉ cùng một ý nghĩ, cùng một câu nói: “Vô phúc thì đáo tụng
đình”. Những người về phe ông đồ cho cái kiện ấy là phải lẽ, cũng nói đi nói lại
một cách vô nghĩa lý đại khái rằng, “Phen này thì có lẽ cả làng cứ tù đến mọt
gông!”.
Người ta đếm ra thì trung bình mỗi ngày có hai đám cãi nhau
hoặc chửi nhau vậy.
Đến hôm quan huyện và quan đồn về khám xét cả làng thì sự khủng
bố lại càng hoàn toàn, lại càng đầy đủ. Bầu không khí hầu như không thở được nữa.
Trẻ già lớn bé đều đã tái xanh mặt mũi khi thấy ông chánh hội, ông phó hội, ông
phó lý trưởng, ông lý, người nào cũng run như cầy sấy ở trong phòng hội đồng của
làng, trước một bộ râu vênh vểnh quắc ở miệng súng của bốn bác lính khố xanh
ông đồn giơ miếng vải đỏ và những mẩu giấy trắng chữ tím ra, để mắng bọn lý dịch
như tát nước vào mặt họ. Trẻ con người lớn đứng xem đen ngòm. Một người lính
quát một tiếng, thế là cả cái dòng người tò mò ấy tan tác ra như một đàn ruồi ở
sau mông con bò, lúc bị cái đuôi bò đập một cái vậy. Tối mặt tối mũi lại, một đứa
trẻ hoảng hốt cắm cổ chạy, thế nào ngã đánh bõm một cái xuống ngay ao. Tuy vậy
mà bọn người lớn, sợ sệt quá, cũng không dám vớt. Khi quan huyện phải quát xuống
vớt, mới có một anh chàng lực điền chắp tay vái mấy cái rồi cởi áo ra, nhảy xuống
ao mò đứa bé con...
Rồi bọn lý dịch phải theo ông đồn và ông huyện ra xe hơi lên
tỉnh. Hôm sau, họ được về thì lại đến lượt ông đồ phải gọi lên tỉnh có việc
quan. Rồi ông đồ cũng về. Thế là cả bọn đều là những cái trứng để đầu đẳng.
Ngoài cái kiện đua hơi với ông Nghị giàu có, hách dịch nhất,
chưa biết thua được thế nào, mấy người còn lo sốt vó về tội canh phòng bất cẩn,
dung túng kẻ phản nghịch trong làng, hoặc ở ngoài đến tuyên truyền ở làng, và dạy
học trò mà không có phép mở trường tư. Cả làng đều nằm mê thấy toàn những ngục
tù, những hình phạt.
Lại đến hôm thấy cái tin ông huyện cũ phải đi, để cho ông
khác về thay, thì cả làng ai cũng tin chắc chắn, y như được ông thành hoàng báo
mộng cho vậy, là ông đồ và bọn lý dịch đã ký vào đơn kiện thế nào rồi cũng vì một
việc cô Mịch bị hiếp mà mất chức, mà ngồi tù!..
Là vì dân làng không hiểu rõ là chính ông huyện tự ý từ chức,
nhưng nghe phong phanh rằng vì kình địch với bên bị mà phải đổi đi, hoặc bị bắt
buộc phải từ chức. Người ta lại đồn rằng ông huyện già này ác lắm, chứ không được
phụ mẫu như ông quan trẻ tuổi kia. Chỉ bởi một mối lo sợ ấy thôi, mà sự hoạt động
của cả một làng ngừng trệ hẳn lại. Ông nhà giàu không bỏ tiền ra làm màu nữa.
Bác thợ cày không ra đồng nữa. Cô gái chăn tằm cũng nghĩ vài buổi hái dâu.
Buổi chiều hôm ấy, các cụ họp việc ở làng. Người ta lo đối
phó với cái kiện hiếp dâm. Người ta lo vì có một ít truyền đơn không biết kẻ
nào bậy bạ và táo tợn rắc ra để cho dân làng phải lo sẽ bị triệt hạ. Vả lại những
sự cố đó cũng đã đủ khiến cho một số đông người hèn nhát không bao giờ dám
đương đầu với một việc gì nhưng gặp lúc tai biến thì lại là những người can trường
nhất, bướng bỉnh nhất trong cái sự sợ hãi, và cái sự chửi bới những người đứng
chung quanh!
Như ba tội nhân đứng trước máy chém, ông lão già và hai người
đàn bà bậm bực khóc mà rằng:
- Thưa các cụ, thưa các quan, ngày mai thì xin các cụ các
quan ai đi thì đi, chứ chúng con không lên huyện.
Ông chánh hội đỏ mặt đập bàn, quát:
- Ông cụ Đồ với hai bà này đã đi gánh rạ đêm vụ cô Mịch, đã
trông thấy rõ cái tấn kịch ấy, mà đã có khai ở huyện rồi mà lại bảo không đi là
nghĩa lý thế nào?
Ông cụ già vẫn hậm hực: - Thôi, lạy ông, tôi già cả, ngộ quan
bỏ tù tôi thì tôi chết mất. Tôi không hề kiện ai cả, mà bây giờ ông khai thì mặc
ông với quan.
Ông lý trưởng người xưa kia đã đâm ngang vào việc, lúc ấy lại
được thể đâm ngang vào một lần nữa bằng một câu:
- Ấy đấy! Tôi đã bảo mà! Việc kiện cáo là lôi thôi lắm. Rồi
thì còn là tai họa nữa ấy.
Ông phó hội lườm dài ông lý trưởng rồi đưa đón. - Thôi đi, ông
im ngay! ông càng nói bao nhiêu thì lại càng hỏng việc bây nhiêu. Cứ biết hôm
nay lên huyện thì ông cụ Đô, bà cụ Nháy với bà đám Nhen đều đã khai chứng cớ và
điểm chỉ vào lá đơn kiện của làng rồi. Ngày mai, nếu ông cụ Đô với hai bà này
không theo như trát quan gọi mà cứ ở nhà thì rồi sẽ phải tù, cái khoản ấy đã kê
rành rành trong trát. Tùy các người đấy việc quan đòi hỏi không phải chuyện
chơi!
Ông phó lý cũng khề khà thêm:
- Phải! Đã trót thì ắt phải trét! Đã đâm lao thì phải theo
lao! Mà dù có thua thì cũng phải theo kiện đến chỗ các quan lớn ba tòa! Dù có
thua cũng chẳng đời nào tù mà sợ.
Ông chánh hội nói:
- Cần nhất là những người làm chứng đã khai thế nào thì mai cứ
thế mà nói! Tiền hậu bất nhất thì tù! Chẳng phải chuyện thường đâu!
Nghe đến đấy, ông lão và hai người đàn bà đứng ngẩn người ra
như những người ngủ mê mà chợt tỉnh giấc. Cả ba người thẫn thờ ra ngồi ở vệ hè,
vẻ thất vọng lộ ra đến nỗi hầu như không còn ai có xương sống nữa, cái đầu gục
vào chỗ giữa hai đầu gối cứ trĩu hẳn xuống như bị có kẻ nào giúi xuống để ngồi
lên trên.
Một ông cụ già trong bọn sáu ông, đầu râu tóc bạc, cũng ngồi ở
“bàn trên”, khoan thai nói:
- Phải, đã trót thì phải trét, ông phó hội nói có lý lắm.
Tóm lấy câu tán thành ấy, ông chánh hội lại hùng hồn:
- Có phải thế không các cụ? Người ta đã làm nhục mất một người
trong làng kia mà! Những khi có những giai làng khác đến bờm xơm con gái làng
thì tuần làng đã phải trói chúng nó vào cột đình... Bây giờ có kẻ cậy thế giàu
có hiếp con gái làng, không nhẽ mình lại làm ngơ đi được! Ngơ đi thì không còn
thể thống gì nữa, rồi thiên hạ nó cũng chửi cho cả làng! Chúng tôi đứng lên kiện
với ông đồ, như thế là phải lắm, chứ còn trách móc cái gì nữa?
Một ông cụ họa theo:
- Như thế là phải.
Ông chánh hội, mặt lầm lầm, nhìn một người ngồi ở chiếc chiếu
gần đấy rồi đứng dậy, đập vào ngực thình thịch một cách đáng sợ, lại nói:
- Thằng này đã đem công tâm ra để giữ thể diện cho làng, thằng
này đã mất ăn mất ngủ vì nay quan đòi, mai quan hỏi, mà lại còn không biết cho,
thế thì có thằng nào muốn bắt bẻ, muốn chê bai, muốn đâm ba, chẻ bảy vào thì
nói ngay đi! Nào có thằng nào muốn gây sự với thằng này thì cứ nói ngay đi! Nói
ngay ở đây, ông xem cái gan của nó có to không nào!
Sau câu nói ấy, cả phòng hội đồng làng im phăng phắc, dễ thường
có con muỗi bay người ta cũng thấy tiếng vo vo. Trong một lúc lâu, bầu không
khí hóa ra nặng nề. Các ông đàn anh đưa mắt nhìn ông chánh hội rồi đưa mắt nhìn
một người bị ám chỉ. Người thì lộ ra vẻ sung sướng, người thì lộ ra vẻ cay đắng
xót xa. Một ông đứng dậy đón đỡ:
- Vâng quan bác ra gánh vác việc công mà như thế là can trường
lắm rồi, nào có ai dám nói ra, nói vào gì mà quan bác phải nổi cơn thịnh nộ thế!
Nào chúng tôi ai là người phàn nàn việc của quan bác đâu?
- Vả lại tôi có vì bên bị quyền thế quá mà đến mất chánh hội
thì cũng không hại gì đến đứa nào kia nào!
Một cụ cười mà rằng:
- Chính thế! Vả lại giai khôn đòn quan, gái ngoan đòn chồng.
Người ta có gan chịu đòn quan cho cả làng rồi, không được ai nói gì vào đấy nữa!
Rồi, quay lại nhìn ông đồ, ông cụ hỏi: - Thế bây giờ ông đồ
nghĩ sao nữa đây?
Ông đồ Uẩn, từ nãy đến giờ vẫn ngồi co ro vào một xó, như muốn
cho thiên hạ quên khuấy mình đi, lúc ấy đành phải đứng lên ra chỗ bục:
- Thưa các cụ và thưa các quan thôi thì tôi cũng chỉ còn
trông mong vào sự săn sóc của các ông gánh vào việc công của làng. Nếu may ra
mà làng được người ta, thì chắc tôi cũng phải được người ta. Còn nếu quan trên
xét ra bên bị là vô can, thì rồi mình có sao sẽ liệu vậy.
Lúc ấy có một ông ra vẻ thạo đời, từ chỗ ngồi nghển cổ nói
lên:
- Dám chắc thế nào cũng xử hòa là cùng.
Tức thì cái bè đảng ông chánh hội nhao nhao lên hỏi vặn cái
người táo tợn ấy. Trước những câu hỏi vặn, người kia điềm nhiên cãi.
- Thì các cụ phải cho tôi nói mới được chứ! Ai cũng hỏi, cũng
bắt trả lời một lúc, thì tôi còn biết trả lời ai và không trả lời ai? Tôi tin
trước vụ kiện này, chỉ đến hòa là cùng, là vì tôi đã được biết ông huyện, từ
khi tôi còn bán kẹo ở huyện Lô. Một phần vì lẽ các làng này vừa rồi bị cái họa
truyền đơn cờ đỏ, nên lý dịch của làng đã có lỗi to với nhà nước. Hai nữa là vì
quan mới đến nhậm huyện Lô mới có sáu tháng mà trong huyện có đến tám chín nhà
giàu bị cướp vu cho là tòng đảng, rồi thì quan tậu ngay xe ô tô.
Câu nói ấy khiến cho ngần ấy người nhao nhao lên. Vì chưng dân
quê có cái chứng nói chuyện mà như cãi nhau, nên người ta tưởng đến vỡ mất
phòng hội đồng làng.
Trong lúc ấy, ông đồ Uẩn đã quay về góc chiếu mình ngồi, tay
bưng lấy trán.
Ông đồ phân vân lo nghĩ, không phải vì sợ thua kiện, nhưng là
vì trông thấy cuộc đời không còn có tương lai.
Sau hôm có giấy gọi của quan sứ, bố mẹ mấy đứa học trò của
ông, được tin ông báo cho, đã lập tức bắt con cháu phải thôi học. Có người kỹ
lưỡng quá lại đem đốt ngay sách vở của một đứa bé đi, y như người ta đốt những
quyển sách cấm trong lúc đó những vụ bắt bớ về chính trị. Người ta không muốn
trong nhà còn có chứng cớ gì khả dĩ buộc tội là đứa bé đã học ông đồ. Người ta
sợ cho con cháu đi học dăm ba chữ như thế cũng đủ phải tù!
Hốt nhiên, cả một gia đình đã mất sinh kế. Bấm đốt ngón tay,
tính lại cuộc đời mình, ông đồ chỉ thấy có: ba lần lều chõng cùng trượt cả, một
ông con giai làm thợ vẽ truyền thần kiếm mỗi tháng được hơn chục bạc, thì phải
thua tổ tôm hết một nửa lương, một cô giáo ngoan sắp gả chồng thì bị hiếp...
sáu đứa học trò thì lại bị một đạo nghị định cay nghiệt bắt thôi học, một vụ kiện
chưa biết thua được, một việc trái phép chưa biết mấy tháng tù.
Ông đồ nhớ lại cái thái độ khoan hồng đại độ của quan công sứ...
Mặc lòng cái cơn thịnh nộ của quan tổng đốc bữa ấy cũng đã đáng sợ lắm, quan
công sứ cũng vẫn ôn tồn nói bằng thứ tiếng của dân bảo hộ, đại khái:
- Tôi rất thương các ông có chữ Hán như ông. Nhưng tôi phàn
nàn rằng đã là người có học thức như ông mà lại cũng không hiểu những pháp luật
hiện hành trong xứ. Vẫn biết không được vào quan trường như ông thì cũng chỉ
còn nghề dạy học mà thôi. Nhưng sao các ông lại dạy một số học trò quá với số
nhà nước đã cho phép? Nếu ông chỉ dạy có năm đứa bé thôi, thì việc gì bị đòi hỏi
như thế này?
Lúc ấy, ông đồ dã phải khúm núm thưa lên.
- Bẩm cụ lớn, thật quả chúng tôi không biết luật, nên mới
trái phép như thế, dám mong cụ lớn soi xét khoan dung mà ban ơn cho chúng tôi.
Quan công sứ đã gật gù ra vẻ hài lòng:
- Tôi biết! Tôi biết... Đáng lẽ ra thì phải bắt giam ông
ngay. Nhưng mà nhà nước cũng sẵn lòng tha thứ cho những người biết nhận lỗi và
biết hối hận. Vậy thì nay tôi cứ ký giấy tạm tha cho ông. Ngay từ hôm nay, ông
phải đuổi một đứa học trò thừa số đi, rồi liệu nay mai lên hầu tòa. Như thế
cũng đủ là một cái đặc ân rồi đó. Nếu tôi là chính phủ thì tôi không truy tố
ông. Nhưng mà tôi cũng chỉ là một người thừa hành pháp luật, chứ không thể tự ý
làm trái với cả một chế độ được.
Rồi quan sứ cho về. Khi về làng, cái lòng khí khái thẳng thắn
của ông đồ đã buộc ông đồ đem hết sự thực nói chuyện cho cả làng nghe. Ông cam
đoan rằng ông vẫn có thể theo đuổi được nghề cũ, miễn là ông phải thôi không nhận
dạy một đứa trẻ trong bọn sáu đứa trẻ ấy.
Nhưng khốn thay, cái lo về truyền đơn, cờ đỏ, cái lo cả làng
sẽ bị triệt hạ nữa, đã khiến cho cha mẹ cả sáu đứa trẻ kia phải nhất loạt bắt
con em thôi học, mà không cần báo cho thầy đồ.
Giận dỗi, giận cả mình, lại giận cả thằng con giai vô hạnh ngồi
cạnh đấy, ông đồ gắt với nó.
- Mày thật là đứa bất hiếu! Gia đình gặp cơn tai biến như thế
mà năm tin, mười tin, mày mới dẫn xác về, mà mày về rồi thì mày cũng cứ bằng
chân như vại mà coi việc nhà như việc người khác ấy thôi! Mày chỉ được cái bộ
ngồi ỳ mặt ra, chứ không còn trông cậy được việc gì cả!
Cải Phái - tên thằng con ấy - lúc ấy đương ngồi phịu mặt ra
mà tiếc cái thì giờ đáng lẽ được dùng để đánh tổ tôm, tức khắc cũng phát cáu mà
cự lại bố rằng:
- Thì tôi biết làm thế nào bây giờ? Đến thày cũng vậy, đến cả
làng cũng chả biết làm gì cả thì một tôi, tôi làm cái gì mới được chứ?
Ông đồ Uẩn lườm con rồi chán đời, ông tức đến nỗi không nói
được một câu nào nữa.
Lúc ấy các cụ trong làng chỉ ngồi cắt lượt nhau hút thuốc lào
cho hại thuốc, hại đóm, cho phòng hội đồng bẩn vì những đống đờm rãi, và cho khổ
thằng mõ phải chạy nhanh.
Bọn lý dịch và bọn đàn anh thì bàn tán huyên thuyên, chỉ còn
rặt những chuyện không nên nói một tý nào cả.
Sốt ruột như điên như cuồng mà không biết làm sao được, ông đồ
lại nghiến con: “Mày là con tao mà mày như thế thì mày không sợ thằng em rể mày
nó sẽ nhổ vào mặt mày à?”
Ngay lúc đó có một thằng bé len lét bước vào, đến bên ông đồ,
nói thầm vào tai ông:
- Cụ xin phép về ngay cho, có người của bên bị về chơi, nói
gì về vụ kiện.
- Thật không? Khuya khoắt thế này mà họ còn về à?
- Vậy, cả cậu Long cũng về. Chính cậu Long bảo con ra đây nói
nhỏ với cụ như thế. Sáng mai phải lên hầu quan rồi, thì bây giờ cụ phải về ngay
cho.
Chương 9:
Ông huyện đã gọi tên một lượt.
Ngần ấy người đều lo sợ vì cái lòng thiên lệch của quan đã lộ
ra nét mặt, lời nói và cả ở chỗ không thấy gọi bên bị lên công đường.
Cả bọn đương đứng nghe tim đập mạnh trong ngực mình, trông
cái dáng trầm ngâm hiểm độc của quan... Quan vẫn cứ mải tìm cách uốn lưỡi trong
tập biên bản... Bên ngoài công đường có tiếng xì xào làm cho ông huyện chợt ngửng
đầu lên. Rồi cau mặt, quát lính:
- Chúng bay! Bảo cái người ngoài ấy vào đây xem họ muốn nói
gì.
Một anh lính gọi người kia nào.
- Mày muốn gì?
Thiếu niên đứng tưng hửng ra một lúc, rồi căm hờn đáp:
- Thưa quan lớn, xin lỗi quan lớn, ngài làm quan như vậy là
không biết làm quan. Thưa ngài, ngài có nhớ phủ toàn quyền vừa rồi có một tờ
thông tư cho quan lại rằng không được dùng đến những chữ mày tao với dân sự
chăng.
Ông huyện, thâm gan tím ruột, cũng giật mình nữa, cười nhạt
mà rằng:
- Thế anh muốn gì?
Thiếu niên cũng đổi giọng, khoan thai đáp:
- Bẩm quan, chúng tôi là phóng viên một tờ nhật báo, vào đây
lấy tin.
- Báo nào vậy? Có giấy nhận thực không?
Thiếu niên đưa lên cái “các” nhà báo. Ông huyện trầm ngâm một
lúc rồi cự:
- Anh có muốn vào đấy lấy tin thì anh cũng phải xin phép quan
sở tại đã chứ? Sao anh giám tự tiện vào làm huyên náo cả công đường?
- Bẩm, ngài thử hỏi những người này xem? Chúng tôi phải thì
thầm với nhau ở ngoài hiên thì có gì là huyên náo?
Ông huyện ngừng bắt bẻ một lúc, rồi lại cất cao giọng:
- Anh phải biết rằng dù là anh làm báo thì cũng phải do tôi
có cho phép anh thì anh mới vào đây được.
- Bẩm chính thế.
- Phải. Mà vì lẽ báo chí quốc ngữ, nhất là tờ báo Lưỡng kỳ của
anh, chỉ là những thứ giẻ lau, giẻ rách, nên tôi khinh bỉ bọn làm báo các anh lắm!
- Bẩm quan lớn, đó là một ý kiến của ngài về báo chí quốc ngữ
đó. Nếu câu ấy lên mặt báo, tôi xin ngài đừng có chối nhé? Được lắm, ngài không
cho tôi lấy tin, nhưng mà tôi cũng đã phỏng vấn ngài về báo chí nước nhà rồi.
Xin quan lớn nhớ kỹ cho như thế, và tôi rất cảm ơn!
Phóng viên nói xong thì nghiêng đầu cúi chào một cái rất ranh
mãnh, rồi quay gót định cáo lui. Ông huyện đập cái thước kẻ lên bàn giấy đánh
chát một cái, làm cho thiếu niên lại quay lại. Ông huyện đỏ mặt nói:
- Anh muốn gây sự với quan trường đấy phỏng?
- Thưa không, ấy là ngài muốn gây sự với báo giới.
Ông huyện đứng lên, hầm hầm nét mặt, quát:
- Lính đâu?
Hai ba lính chạy vài. Quan phán:
- Đem giam thằng vô lễ này vào lô-cốt lập tức!
Thiếu niên đứng ngẩn người ra một phút rồi cứng cỏi nói:
- À! À! Vâng! Quan lớn cứ việc bắt giam tôi đi, tôi cam đoan
ngài sẽ phải trả đắt cái cuộc chơi ngông này lắm đấy. Thật đấy, ngài cứ việc bắt
giam tôi đi mà xem!
Mấy anh lính lúc đó chưa dám bắt ngay, là vì họ nghĩ đến những
lúc khi xưa còn quan huyện cũ, lần nào ông nhà báo đến cũng được quan huyện bắt
tay rất ân cần. Vì họ lấy làm lạ, nên trước lệnh của quan họ còn phải ngơ
ngác... Ông huyện lại quát:
- Lôi cổ nó đi!
Lúc ấy, bọn người làng Quỳnh Thôn đã sợ sẵn, lại càng kinh hoảng
hơn. Ông nhà báo đi theo hai người lính ra khỏi huyện đường rồi, quan gọi đến
thị Mịch.
- Mày có nhận của người ta năm cái giấy bạc một đồng có phải
không?
- Bẩm quan lớn vâng.
- Thế lúc mày bị hiếp... thì đầu đuôi câu chuyện ra thế nào?
Cô Mịch thẹn đỏ mặt, cúi nhìn xuống đất, lôi cái vạt áo lên
miệng nhai...
Ông đồ Uẩn giục:
- Con cứ sự thực mà khai với quan lớn.
Ông huyện đập bàn một cái, giận dữ nói:
- Thế nào quan đùa với mày đấy à?
Cô Mịch run sợ, ấp úng kể:
- Bẩm lạy quan lớn... rồi người ấy bảo con đem rạ đến bán cho
người ấy ở chỗ ô tô... rồi người ấy mua rạ thật, rồi người ấy bảo con lên xe, rồi
người ấy...
- Xong rồi người ấy lấy 5 đồng cho mày, có phải không?
- Vâng... à bẩm không.
Lời quát của quan to và gọn như một tiếng sét:
- Thế nào?
- Bẩm... bẩm...
- Trước hay sau? Nói ngay!
- Bẩm trước... vì đó là tiền mua rạ.
- Mày nói láo! Người ta đi xe ô tô đến đấy thì người ta mua rạ
của mày làm gì?
- Bẩm người ta bảo mua rạ để chữa xe.
Quan huyện ngồi dựa vào ghế, ngửa cổ ra cười một hồi dài mà rằng:
- Mua rạ để chữa xe ô tô!... Mày nói có đến trẻ con nó cũng
không tin được! Họ chữa xe bằng rạ của mày thế nào?
- Bẩm con không biết ạ.
- Mày không biết? Mày không biết? Mày không biết!!!
Ông đồ Uẩn thưa lên:
- Bẩm quan lớn, hình như ông ta kêu mua rạ nhồi vào lốp xe.
Quan dồn:
- Lúc ấy ông có đấy không? Ông có mặt chỗ xảy ra vụ... ấy
không?
- Thế nào ông biết tường tận thế?
- Bẩm khi về nhà, con bé cháu nó nói chuyện lại.
- Thôi đi! Nếu nó nói chuyện thế với ông được thì nó đã đáp lời
cho tòa rành mạch được. Lời khai của ông là khai man.
- Bẩm quan lớn, chúng tôi không dám khai man đâu ạ.
- Thôi được người làm chứng thứ nhất Nguyễn Văn Đô!
Ông cụ già 60 tuổi dạ một tiếng rồi ra trước bàn, thì thụp lạy
như trước bàn thờ ông vải. Ông huyện gắt:
- Thôi! Cho đứng lên! Đứng lên khai chứ ai bảo lạy?
Ông cụ già đứng lên rồi kêu:
- Bẩm quan lớn đèn giời soi xét.
- Im! Câm cái mồm nghe tòa hỏi đã!
- Dạ...
- Hôm ấy ông trông thấy những gì?
- Bẩm quan lớn, con ngồi đằng xa cách xe độ 20 thước, thấy cô
Mịch này bước lên xe rồi trong xe tắt đèn... rồi thì...
- Người ta đưa tiền trước hay sau?
- Bẩm con không biết.
- Thế người ta chữa xe thế nào?
- Bẩm con chỉ thấy tài xế đập búa thình thình vào máy.
- Họ có chữa đến bánh xe không?
- Con không biết.
- Hôm ấy có sáng giăng... sao ông lại không biết?
- Bẩm hình như không phải chữa bánh xe.
Ông huyện nhìn ông đồ mà phân bua ngay:
- Ấy đấy, người ta không chữa bánh xe, nghĩa là không có dùng
gì đến nửa gánh rạ của con gái ông đấy nhé! Đến hai người đàn bà.
- Dạ! Dạ!
- Hai mụ thấy những gì? Con mụ nữa đâu?
- Bẩm có bà Lý nữa, nhưng chết hôm nọ rồi ạ.
- Thấy những gì! Nói ngay!
- Bẩm chúng con đã khai với quan huyện cũ.
- Khai lần nữa!
- Bẩm chúng con cũng quên rồi, vì đã lâu rồi. Lạy quan lớn
đèn giời soi sét.
Ông huyện nghĩ một lúc rồi điềm nhiên:
- Chứng cớ không đủ. Thôi được, đến trương tuần Quỳnh Thôn!
Bác Trương tuần dạ một cái thật to y như trên sân khấu phường
chèo, rồi ngoan ngoãn ra đứng trước bàn mặt mày hí hửng lắm.
- Anh thấy gì?
- Bẩm quan lớn, lúc chúng con đi tuần ra đến gần đường quan lộ
thì thấy có tiếng người kêu rên... Rồi ở trong xe có người bị đẩy ra ngã ngồi
phệt dưới đất là thị Mịch này... Thị này kêu khóc rất thảm thiết vào lúc xe bắt
đầu chạy... Biết là có chuyện không hay nên con ra đứng giữa đường giơ hai tay
ra bắt xe đứng lại, sau khi rúc tù và lên. Bẩm không ngờ xe ô tô lại phăng
phăng đâm thẳng vào mặt con... may mà con nhanh chân nhảy một cái sang bên đường
chứ không thì chắc đã mất mạng...
- Sao nữa?
- Xe chạy mất rồi, con nhìn theo số xe rồi quay lại hỏi con
bé này. Con phải khiêng nó về làng, đến nhà nó mới kể chuyện lại và cởi ruột tượng
lấy 5 cái giấy bạc 1 đồng ấy ra trình lý dịch.
- Thế nghĩa là nó đã nhận tiền trước khi bị hiếp?
- Bẩm quan lớn, chắc là thế.
- Thị Mịch!
- Dạ!
Ông trương tuần lại về chỗ đứng cũ, mặt mũi tươi cười như đã
đóng xong một vai tuồng quan hệ mà được khán giả vỗ tay. Thị Mịch ra trước bàn
giấy.
- Sao mày lại lấy tiền? Thế mày có bằng lòng ngủ với người ta
không?
- Bẩm quan lớn, đó là tiền bán rạ.
- Tiền rạ? Tiền rạ? Lý trưởng Quỳnh Thôn đâu!
- Dạ!
- Chánh hội đâu?
- Dạ!
- Ruộng làng chúng mày mỗi năm cấy mấy mùa?
- Bẩm chỉ có một mùa chiêm.
- Mỗi sào được bao nhiêu tiền thóc một mùa?
- Bẩm nhất đẳng điền cũng chỉ được độ 5 đồng một sào thóc.
- Chúng mày khai man!
- Bẩm quan lớn, quả thật như thế.
Quan huyện lại ngồi dựa đầu vào ghế, cười nức nở một hồi rồi
mới nói:
- Thế mà nó bán 5 đồng nửa gánh rạ!
Quan cười một hồi dài nữa làm cho lũ người ấy ngao ngán, chỉ
còn biết đưa mắt nhìn nhau... Thị Mịch run lẩy bẩy, cố lấy can đảm ra cãi:
- Bẩm quan lớn, lúc đưa tiền thì người ấy bảo là thương hại
con...
- Người ấy nói những thế nào?
- Bẩm, người ấy bảo là dân quê bị sâu cắn lúa thế thì nghèo
khổ lắm, mà con như thế là đáng thương lắm, nên mua có nửa gánh rạ mà cũng cứ
trả tiền cho cả 5 đồng.
- Mày có biết người ta thương là thế nào không.
- Dạ!
- Lúc ấy chắc mày bằng lòng người ta thương mày. Hẳn phải thế
thì mày mới nhận tiền chứ?
Bẩm vâng.
- Mày là đứa hư nhé! Một người lại là đàn ông, đã không là
ông mày, không là bố mày, không là chú, bác, anh, em họ hàng, thân thuộc nhà
mày mà đi thương mày, thì chỉ là muốn ngủ với mày mà thôi. Thế mà mày đã nhận
tiền! Mày như thế là hư lắm.
Thị Mịch ứa nước mắt. Ông đồ cũng ứa nước mắt. Rồi thị Mịch
khóc nức nở lên y như ở nhà. Hồi lâu thị nói:
- Bẩm quan lớn, con không ngờ như thế.
- Mày là đứa con gái thì mày phải giữ. Mày dại thì mày chết.
Tình mày ngay, nhưng lý mày gian! Tao làm quan tao cũng muốn cho ngọn đèn công
lý soi thấu những nỗi thống khổ của cùng dân, nhưng mà cái lý của mày lúng túng
như thế, các người làm chứng mơ hồ như thế, thì tao làm thế nào được!
Bên nguyên đơn đứng im phăng phắc.
Quan huyện giở tập giấy mà mất năm phút, xem lại mất năm phút
nữa là mười. Rồi quan hỏi:
- Các người có muốn theo kiện đến kỳ cùng không?
Ông chánh hội nhanh nhẩu thưa:
- Bẩm quan lớn, chúng con chờ lệnh quan lớn.
Ông huyện đáp:
- Bên bị người ta đã có đơn lên quan sứ rồi. Người ta kêu
không hiếp... ai cả, chỉ ngủ với con Mịch, thì chính nó, nó đã bằng lòng, vì nó
đã lấy 5 đồng bạc của người ta. Quan sứ đã có xét việc này rồi. Ngài đã tự về
đây, bảo tao khuyên chúng mày thôi đi là hơn. Nếu chúng mày cứ kiện thì quan sứ
sẽ hòa giải. Nếu chúng mày chống án lên Hà Nội thì càng khó lòng mà được kiện,
vì người ta là người giàu có lắm chúng mày không bán nghiệp đi mà theo kiện được.
Mà rồi còn lôi thôi nữa...
Ông đồ uất ức thưa lên:
- Bẩm quan lớn, xin quan lớn soi xét cho, sự thực mà như thế
thì ức cho gia đình con lắm.
Ông chánh hội cũng thưa:
- Bẩm nếu thế thì cả làng chúng con nhục với hàng tổng.
Quan huyện xung thiên chi nộ, đập bàn mà rằng:
- Con Mịch kia! Trước pháp luật việc mày như thế là một việc
làm đĩ không môn bài, vậy mày có muốn làm nhà thổ suốt đời không? Bọn lý dịch!
Chúng mày đi kiện láo như thế tức là phạm tội vu cáo, vậy chúng mày có muốn ngồi
tù không? Chúng mày để trong làng có truyền đơn, cờ đỏ, tao đây chưa cách cổ
chúng mày đó mà! À ra cái dân này bướng bỉnh nhỉ? Chúng mày muốn rút đơn ra hay
chúng mày muốn ngồi tù nào? Ông đã thương hại, ông bảo thật cho lại còn cứng cổ!
Nào, thế lão đồ kia muốn xin bồi thường mấy trăm bạc thì để ông phê vào đây rồi
ông đệ mẹ nó lên tỉnh cho chúng mày khốn khổ cả đi nào. Vô phúc thì đáo tụng
đình đấy, các con ạ!
Hai ba người nhao nhao lên: - Bẩm quan lớn, chúng con xin rút
đơn kiện vậy. Quan huyện lườm cả lũ.
- Thôi, bước! Bước ngay cả lũ!
Cả bọn đồn quay ra thì quan lại gọi giật lại mà rằng:
- Còn cái thằng làm báo lúc nãy nữa! Nó có tên trong sổ đen đấy.
Nó bị tòa sứ nghi là cách mệnh đấy. Chúng mày cứ chuyện trò giao thiệp với nó
đi, ông bảo chúng mày liệu cái thần hồn.
Rồi quan xếp dọn giấy má và khẽ dặn một anh lính:
- Lát nữa tao về đình đâu đấy rồi thì thả thằng làm báo ra,
nó có muốn sinh sự gì thì cứ đẩy cổ nó đi, không cho nó được lai vãng đến cửa
huyện.
Chương 10:
Long đã đi qua những cảnh nguy nga choáng lộn trong ấp Tiểu Vạn
trường thành. Chàng cũng có hồi hộp lo sợ về cái thế lực ghê gớm của kim tiền ấy,
nó khiến cho chàng như thấy hiện ra trước mắt một bọn người nhỏ bằng cái đầu
tăm là gia đình vợ chồng chàng, mà lại đương muốn khiêu khích với một ngọn núi
hùng vĩ cao cả là nghị Hách vậy. Trong cái trận kỳ lạ, mà sức của hai bên chênh
lệch nhau đến vậy. Long thấy trong lòng băn khoăn... Cái sợ sệt, cái nhút nhát.
Với cái nản chí, đã hợp lực nhau đến lũng đoạn sự căm hờn, cái thú bất cộng đái
thiên trong lòng chàng.
Long đã đi qua những dãy hành lang dài như không bao giờ hết,
trèo những cái thang và cũng như trong một tòa khách sạn lớn ở bên Tây phương.
Một tên người nhà đã bảo Long ngồi chờ ở một căn phòng để báo
trước cho ông chủ biết đã.
Giữa lúc ấy, nghị Hách đương ngồi làm việc trong phòng giấy
riêng. Một căn phòng rộng rãi thênh thang có những đồ đạc tối tân, một tủ sách
to tát, y như phòng của một ông tổng trưởng.
Nghị Hách ngồi trên ghế tròn xoay, chân đi giầy da, mặc áo
khoác dài, trên cổ có một cái khăn quàng lông chiên tua tủa. Thị Tín một cô
nàng hầu trẻ nhất và đẹp nhất của lão, thì nằm... trong lòng lão, hai cánh tay
mềm mại vòng vào cổ lão, đôi chân ruỗi thẳng cẳng trên bàn.
Chợt một hồi chuông điện kêu ran lên... Nghị Hách cứ để
nguyên như vậy, khoan thai cầm lấy ống điện thoại.
- Allo! Allo! Phải! Chính ông chủ đây... À, thế nào nữa?...
Được... Sao nữa?... Sở than hòn Gay hạ giá than xuống dưới năm đồng? Được! Thế
than nắm, nó bán bao nhiêu? Allo, được rồi! Phù goòng phải cho làm đêm, được.
Thế cai thầu với hãng tàu biển Năm Sao ra làm sao?... Thế à! Thế thì ông phải cố
mà tranh lấy bốn đồng rưỡi một tấn thôi vậy... phải, cứ hạ hẳn giá xuống. Nếu sợ
lỗ thì hạ lương kíp phu ngày xuống hào hai... Không sợ! Allôallô Thằng nào phản
đối thì đổi nó vào kíp đêm... Không thì loại vợ con chúng nó ra... Ừ! Trên một
nghìn nghỉ việc, được... Được đấy, thằng nào kỳ kèo thì đuổi hẳn... Sao nữa? Ừ,
được rồi!... Bảo là đầu tháng sau ông chủ xuống. Thôi!
Nghị Hách bỏ ống điện thoại xuống, quay về...
mỹ nhận....
Hai mắt lão đỏ ngầu lên, vì lúc ấy con người đã trái mặt đi,
để cho con quỉ dâm dục xuất hiện.
Chợt có ba tiếng gõ nhẹ vào cửa...
Nghị Hách bực mình ngửng lên hỏi:
- Cái gì?
Bên ngoài cánh cửa có tiếng nói vào:
- Bẩm quan lớn, ông Tú Anh có người lên hầu chuyện quan lớn đấy
ạ.
- Đàn ông hay đàn bà?
- Bẩm một cậu con giai.
- Bảo ngồi ở phòng tĩnh tâm mà đợi...
Giữa lúc ấy, tên người nhà đưa Long vào một căn phòng rồi
khép cửa lại. Trên tường, không biết bao nhiêu hoành phi, câu đối, màu son, màu
vàng chói lọi. Những cái đĩa cổ rất quý giá, to, nhỏ, đủ thứ, làm cho bốn phía
tường có cái vẻ chi chít những mắt kính như đầu một con sư tử Tàu của những dịp
tết Trung thu. Sừng hươu và sừng bò rừng, điểm vào những dẫy đĩa ấy làm chỗ để
mũ, mắc áo.
Trên cái tủ chè có một dãy ngà voi. Trên sập gụ có một khay
đèn. Hai bên khay đèn là hai cái da hổ mà đầu hổ là gối. Rồi thì... những tủ,
ghế, kỷ con, kỷ lớn, yên gụ.v.v... nghĩa là một trăm thứ đồ đạc kỳ lạ và sang
trọng vô cùng.
Long ngồi chờ độ nửa giờ thì cánh cửa bị đẩy... Nghị Hách bước
vào, có Thị Tín vừa đi vừa xếp lại vành tóc rối loạn trên đầu, theo sau...
- Lạy cụ ạ, chào cụ ạ.
Nghị Hách không đáp lời chào chỉ hỏi:
- Anh là người làm công trường Đại Việt?
- Vâng.
- Anh lên có việc gì?
- Bẩm có nhiều việc, bẩm cụ xem thư đây.
Nghị Hách cầm lá thư, lại hỏi:
- Anh có biết tiêm thuốc phiện đấy chứ?
- Bẩm vâng.
- Thế anh cởi giày ra, lên sập.
Nghị Hách nói xong nhìn Thị Tín một cái mà lắc đầu. Cô ả này
ra khỏi gian phòng khép cửa lại. Mãi lúc ấy nghị Hách mới nhìn xuống phong thư.
Hai người nằm đối diện nhau. Long thì tiêm thuốc mà nghị Hách
thì xem thư... Xem xong một lá, nghị Hách vội hỏi:
- Tại sao thằng Vạn nó lại biết rõ chuyện như thế được?
- Chúng tôi cũng không rõ.
Đến đấy, nghị Hách cau mày nghĩ ngợi, vỗ trán mấy cái rồi
nói:
- À phải! Đây là tại thằng tài Nhì vào tiệm hút kháo chuyện
đây!
Rồi lão lại bóc nốt mấy lá thư sau. Xem xong, lão kéo điếu
thuốc do Long mồi, rồi lại trầm ngâm nghĩ ngợi, Long hỏi:
- Bẩm thế bây giờ cụ định thế nào ạ?
Nghị Hách cười nhạt mà rằng:
- Tao thì tao chẳng bận tâm gì về việc ấy cả. Nghĩa là chủ
mày cứ bắt tao phải lấy con bé ấy, chứ tao có thiết gì đâu!
Long rất lấy làm ức về cách xưng hô ấy, song chỉ tươi cười:
- Chúng tôi tưởng thế nào cũng là tùy ý cụ chứ... Nghị Hách
nói:
- Mày không biết rõ chủ mày. Ông ấy là một người đứng đắn lắm,
tao có thể trông cậy vào ông ấy được nhiều điều lắm. Nếu trái ý ông ấy thì sẽ hại
to nhiều việc về sau. Mà theo ông ấy thì khó lắm, vì bà nghị dưới cảng ghen lắm.
Như mày bảo tao nên làm thế nào?
- Chúng tôi tưởng cụ cứ việc đền tiền cho người ta!
- Nhưng mà chúng nó thua kiện rồi.
- Đã đành vậy. Nhưng mà đó là ông Anh muốn, chứ có phải tòa xử
cho cụ thua kiện mà phải lấy người ta làm vợ đâu!
- Ừ nhỉ! Thế mà tao không nghĩ đến đấy. Kìa mày tiêm to nữa
vào... Mấy điếu thuốc vừa rồi bé quá, không ăn thua gì cả. Thế mày bảo đền thì
đền độ bao nhiêu?
- Cụ cứ cho người ta vài ba trăm bạc.
Nghị Hách ngồi nhổm lên mà rằng:
- Chết! Vài trăm bạc! Mày điên! Mày có biết những nàng hầu của
tao ở đây, đáng giá bao nhiêu mỗi thị không? Cái đứa đẹp nhất, tao cũng chỉ mua
của bố mẹ nó có bảy chục. Còn phần nhiều không mất xu nào. Có bảy chục bạc còn
phải về hầu hạ người ta suốt đời, huống chi... chỉ có một lần mà những vài trăm
bạc!
- Cụ nên biết cho là cô gái quê ấy sắp lấy chồng. Cụ làm cho
người ta mất tiết trước khi lấy chồng thì số tiền tưởng cũng chẳng là bao.
Nghị Hách cười ha hả một hồi, cứ vỗ mãi vào vai Long, cười
như cười một điều gì thú vị lắm. Sau cùng lão mới vừa nấc nấc, vừa nói.
- Mày còn ngu lắm! Mày có biết ở những nơi phồn hoa độ hội
như Hà Nội, Hải Phòng, người ta bán chữ trinh của người ta bao nhiêu không? Đến
đây, lão xòe bàn tay ếch ra. Năm đồng! Vợ một ông trạng, vợ một phán thường
thua bạc, phải kiếm xu thì đi ngủ săm với tao mà cũng chỉ lấy một đồng là cao
nhất rồi.
- Xin lỗi cụ, ông chủ con cho cái việc chơi ngông của cụ là
đáng phải trả đắt lắm. Đấy cụ xem ông chủ con chả cứ buộc mãi cụ lấy người ta
làm vợ đó là gì!
- Ông ấy hủ lậu thì ông ấy mới có những cái cẩn thận vô ích
thế.
Làm như không nghe thấy câu ấy, Long cứ nói tiếp: - Đằng này
cụ đã hưởng cả cái chữ trinh của người ta như thế, thì hai trăm bạc với một lá
thư cũng chẳng là bao. Còn hơn lấy về làm vợ lẽ, một là điều đình với người ta
và với người mà mình là sự rất khó, hai là ngộ sau này có con thì nào con vợ cả,
con vợ lẽ, sẽ có mối đáng lo về phần gia tài. Cụ cứ viết một lá thư cắt nghĩa
rõ như thế rồi tôi xin quay về nói khó với ông chủ tôi.
- Ừ! Mày nói nghe được! Thế hợp ý tao lắm. Hai trăm bạc...
- Lá thư như thế nào?
Long ngẫm nghĩ một lúc rồi nói:
- Nguyên ông chủ tôi lại để ý đến chỗ cô gái quê ấy sắp lấy
chồng... Nếu viết cho họ một lá thư nói về việc nài hoa ép liễu, để cho người
ta có chứng cớ với chồng người ta là không phải lỗi người ta hư, thì người ta
không lo bị chồng ghen và hành hạ. Được vậy, vì chị vợ có hai trăm bạc đền thì
anh chồng sẽ vì thấy của tối mắt mà không còn bực mình về chỗ vợ đã mất tân. Mà
có lẽ còn sung sướng nữa.
- Ừ, mày nói nghe được đấy.
Nghị Hách đỡ dọc tẩu kéo điếu thuốc xong, nhắm nghiền mắt lại
khoan khoái. Nhưng bỗng lại mở choàng mắt ra mà rằng:
- Ồ! Không được! Viết thư thế ngộ nó kiện cho thì bỏ mẹ!
- Đời nào bọn ấy còn dám đi kiện.
- Phải, nhưng mà cái gì cũng đề phòng thì hơn.
- Nếu thế thì cụ chỉ còn cách lấy người ta thôi.
- Lấy thì nhiễu lắm, tao không muốn.
- Mà không lấy, không được?
- Ừ. Không lấy thì ông chủ nhà mày lại không bằng lòng!
- Phiền thật!
- Chó lắm!
Long nghe xong ngẫm nghĩ một lúc. Chàng chỉ nằm tiêm thuốc mà
không bàn tính gì thêm. Rồi chàng lôi ở túi áo ra hai số báo Lưỡng kỳ.
- Đây này, việc của cụ làm cho dư luận Bắc Kỳ rất xôn xao. Cụ
đừng tưởng là không hệ trọng và không ai bình phẩm về việc ấy đâu.
Nghị Hách vồ lấy hai tờ nhật trình. Khi xem xong cả hai số
báo rồi, lão ta tái mặt, trên trán thấy toát mồ hôi ra như giữa lúc mùa nực vậy.
lão bấm cái chuông ở đầu giường.
Một lát, cô Kiểm mở cửa bước vào.
- Quan lớn đòi gì?
- Gọi thằng tài Nhì và thằng Xuân lên đây ngay.
Năm phút sau, tài Nhì và Xuân cùng kéo nhau vào Nghị Hách ngồi
lên, bảo:
- Thằng Xuân, mày lấy cái roi cá đuối lên đây.
Tài Nhì bỗng tái xanh cả mặt mũi. Anh ta run run hỏi:
- Bẩm quan lớn, thế con có tội gì ạ?
Nghị Hách lạnh lùng:
- Mày cứ chờ đây thì biết.
Đến lúc thằng Xuân xách cái roi cá đuối lên rồi và đã đứng
khoanh tay chờ lệnh rồi Nghị Hách mới hỏi.
- Tài! Mày có biết rằng khi tao cho mày về làm với tao thì
mày đã thề rằng mày sẽ không nói một chuyện gì của tao, mày không được tiết lộ
một điều bí mật gì ở nhà này cho một người nào nghe, có thế không?
Tài Nhì run rẩy:
- Bẩm đã.
Nghị Hách hỏi Long:
- Thày có biết khi một ông quan để bại lộ việc nước thì nhà
vua phải trị tội ông quan thế nào không?
Long muốn đáp... Nhưng Nghị Hách lại hỏi thằng Xuân ngay:
- Xuân! Mày có còn nhớ là khi xưa, mày đi theo rạp xiếc thì
mày vẫn được quật roi điện vào sống lưng những loài hổ báo, và mày đã vì ăn cắp
mà phải đuổi không? Mày có nhớ là nếu tao không thương mày thì mày phải tù rồi
không?
Thằng Xuân cau đôi lông mày chổi sể, nhăn cái má có sẹo, làm
một câu:
- Có ạ!
Tức thì Nghị Hách đứng lên, cầm lấy cái roi.
- Thằng Tài! Mày đã trót nhỡ nói chuyện tao cho thằng Vạn ở
Hà Nội hôm xưa thì hôm nay mày chịu cái vạ miệng ấy. Muốn khỏi chết thì tức khắc
ra đứng quay mặt vào tường!
Tài Nhì vâng lời ra đứng quay mặt vào tường rồi thì Nghị Hách
giơ cao roi vụt thằng xuân một cái vào ngang lưng. Tiếng roi đập xuống đánh đét
một cái, nghe đến rùng mình. Thằng Xuân co quắp cả người, nhăn mặt chịu đau.
Nghị Hách từ tốn đưa cho nó cái roi cá đuối rồi lên ngồi sập.
Lúc ấy, thằng Xuân cầm roi rồi. Nó mím môi lại, giơ cao tay.
Từ đây trở đi, người ta chỉ thấy tiếng đen đét luôn hồi của cái roi. Người ta
tưởng đương xem một đám đua ngựa.
Tài Nhì, đương cái cơn mưa roi vọt ấy, oằn mình đi như một sợi
tóc bị hơ trên ngọn lửa. Long không dám nhìn phải nhắm mắt lại. Vậy mà những tiếng
đen đét vẫn không thôi giáng xuống lưng Tài Nhì như mưa...
Oai nghiêm trên sập, nghị Hách vẫn chưa có lệnh cho ngừng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét