Hồi 36:
Bến Tầm Dương canh khuya mắc nạn;
Nơi Giang Phủ đất khách rời chân.
Bấy giờ đại hán kia mắng Tống Giang, rồi giơ tay toan đánh, Tống
Giang liền đáp lại rằng:
- Tôi có tiền thì tôi cho người ta, việc gì đến anh mà...
Đại hán kia nghe nói tức giận, vội nắm lấy tay Tống Giang mà
quát lên rằng:
- Thằng ăn cướp bị tù này còn dám đối lại với ta a?
Tống Giang ung dung đáp rằng:
- Can chi mà không dám nói lại?
Đại hán kia hăng máu, liền giơ quyền đánh vào mặt Tống Giang.
Tống Giang né mình tránh về một bên. Đại hán kia lại xông vào, Tống Giang thấy
vậy lại toan dùng sức để chống cự, chợt đâu thấy anh chàng bán thuốc cao đã đẩy
rẽ đám người đứng đông mà sấn vào đằng sau, một tay nắm lấy khăn đại hán kia,
và một tay nắm giữa thắt lưng, đẩy một cái thực mạnh đại hán ta ngã quay lơ xuống
đất. Đại hán bị ngã, cố lóp ngóp bò dậy, lại bị anh chàng bán thuốc cao đá luôn
cho cái nữa, lại ngã lăn xuống đó. Hai tên công sai thấy vậy thì túm lại giữ
can anh chàng kia không cho đánh quá. Khi đó đại hán kia trở dậy được, bèn quay
nhìn Tống Giang và anh chàng bán thuốc cao mà nói rằng:
- Được lắm! Giỏi lắm! Rồi chúng bay sẽ biết tay ta...
Nói xong cúi cổ chạy thẳng về phía Nam...Bấy giờ Tống Giang hỏi
người bán thuốc cao rằng:
- Chẳng hay quý tánh cao danh là gì, ngài quý quân ở đâu?
Người kia đáp:
- Tôi người ở huyện Lạc Dương, tỉnh Hà Nam. Tên là Tiết Vĩnh,
ông tôi ngày trước làm thuộc viên cho quan Kinh Lược Trung, sau vì ác cảm với một
số đông liêu nên không được thăng dụng nữa. Đến đời tôi chỉ nhờ nghề đánh gậy
bán thuốc cao để kiếm ăn, đám giang hồ thường gọi tên là Bệnh Đại Trung (con cọp
ốm) Tiết Vĩnh. Vậy chẳng hay quý tinh danh là gì?
- Tôi đây họ Tống tên Giang, người ở huyện Vận Thành...
Tiết Vĩnh hỏi luôn rằng:
- Có phải ngài lá Sơn Đông Cập Thời Vũ Tống Công Minh không?
- Vâng, chính là tôi đó.
Tiết Vĩnh nghe dứt lời, thì cúi ngay xuống mà chào Tống
Giang.
Tống Giang vội đỡ dậy mà bảo rằng:
- Ta tìm chỗ nào uống vài chén rượu nói chuyện cho vui, ngài
nghĩ sao?
Tiết Vĩnh đáp:
- Xin vâng. Chúng tôi đương muốn được gặp tôn nhan, thực là
trời xui khiến vậy.
Nói đoạn lập tức thu thậïp các đồ hàng hóa rồi cùng Tống
Giang đi vào hàng rượu ở gần đó. Khi vào tới nơi chủ hàng bảo hai người rằng:
- Nhà tôi có rượu có thịt, song không bán cho các ông được.
Tống Giang hỏi:
- Làm sao lại không bán cho chúng tôi?
Chủ hàng đáp:
- Vừa rồi các bác đánh nhau với một ông đại hán là một ông
trùm ở đất Yết Dương đấy, ông ta đã dặn nếu bán hàng cho bọn bác là ông ta phá
hàng ngay...thế thì còn ai dám bán nữa.
Tống Giang nói:
- Nếu vậy thì ta đi ngay cho rảnh, nếu không thì hắn tất đến
đây lôi thôi lại thêm khó chịu.
Tiết Vĩnh nói:
- Tôi xin về tính trả tiền trọ rồi một vài hôm cũng đến Giang
Châu, vậy xin bác cứ đi trước cho.
Tống Giang liền lấy mười lạng bạc đưa cho Tiết Vĩnh rồi từ
giã ra đi.
Khi Tiết Vĩnh đi rồi Tống Giang cùng hại tên công sai lại tìm
đến mấy hàng rượu khác, đều bị chủ hàng từ chối như trước, không hề bán cho
chút gì để ăn uống cả. Ba người tức giận đi mãi đến một tiệm hàng con con ở chỗ
chợ, định vào đây để trọ, bất đồ cũng bị chủ hàng từ chối mà không nhận chứa.
Tống Giang biết thế không ăn thua, đành phải bảo nhau kéo đi
cho rảnh. Vừa đi ra được một lúc thì bóng khuất non tây trời đã gần tối. Tống
Giang cùng hai tên công sai trông trước trông sau không có hàng nước nào ở gần
đó, trong bụng lấy làm lo ngại cùng bàn với nhau không biết vào đâu mà trọ được.
Chợt đâu trông thấy ở quãng rừng xa xa có bóng đèn lấp ló. Tống
Giang liền bảo với hai tên công sai rằng:
- Chỗ kia có ánh đèn sáng tất là có người ở đó, vậy ta đến đấy
nói khó với người ta ở trọ một đêm rồi sáng mai sẽ cùng đi sớm.
Hai tên công sai đáp rằng:
- Chỗ đèn sáng hình như không thẳng đường cái đi đến thì làm
thế nào cho tiện?
Tống Giang nói:
- Bây giờ lỡ bước phải chịu khó một tí, sáng mai đi rồi ra
vài dặm đường cũng được chứ sao?
Nói đoạn ba người cùng rẽ xuống con đường nhỏ đi được hai ba
dặm đường thì đến nơi một trang viện lớn ở đằng sau một đám rừng cây.
Tống Giang cùng hai tên công sai lần vào cổng trang, gõ cửa mấy
tiếng thì có người chạy ra mở cửa mà hỏi rằng:
- Các bác là người ở đau mà đêm hôm đến gọi cửa làm vậy?
Tống Giang cung kính đáp rằng:
- Chúng tôi là người phạm tội, đẩy sang ở Giang Châu, qua đây
lỡ mất độ đường, xin vào quý trang trọ nhờ một tối rồi sáng mai nộp trả tiền
phòng.
Người kia đáp rằng:
- Các ông hãy đợi đây để tôi vào hỏi chủ nhân đã...
Nói đoạn quay trở vào một lát, rồi lại trở ra bảo với ba người
rằng:
- Thái Công mời các ông cứ vào.
Tống Giang cùng hai tên công sai đi vào đến trước thảo đường,
vái chào trang chủ và nói chuyện lỡ đường xin nghỉ trọ một đêm. Thái Công nghe
nói, liền gọi trang khách dọn phòng cho ba người nghỉ và lấy cơm nước cho ba
người ăn uống. Trang khách vâng lời, dẫn ba người xuống một gian phòng, đốt cây
đèn lên cho ba người ngồi nghỉ rồi dọn cơm nước lên mời ăn uống. Khi ba người
ăn uống xong, trang khách lại thu dọn tất cả đem đi.
Bấy giờ hai tên công sai bảo với Tống Giang rằng:
- Bây giờ đêm hôm vắng vẻ, tôi hãy tháo gông cho Áp Ty dể ngủ,
để sáng mai cho kịp dậy sớm.
Nói đoạn liền tháo gông cho Tống Giang, rồi cùng nhau ra ngoài
phòng đi rửa, khi ra tới ngoài, ngửa trông lên thấy trời im sao sáng, cảnh vật
như tờ, lại trông ra đằng mạn sau nhà, trong chỉ còn một ngõ hẹp con con, đi
ngang qua đó. Ba người cùng đi rửa xong, rồi trở vào đóng cửa phòng đi ngủ. Tống
Giang nói với hai tên công sai rằng:
- Quý hóa quá! Nay nếu không có cụ trang chủ tử tế, mà cho
chúng mình trọ ở đây, thì thực là nguy hiểm không chơi...
Đương khi nói chuyện, thì bỗng thấy phía ngoài có tiếng người
qua lại, rồi thấy đóm đuốc sáng rực cả lên.
Tống Giang dòm ra khe cửa nom thấy Thái Công dẫn hai người
trang khách cầm đuốc đi soi khắp nơi. Liền quay vào bảo với hai tên công sai rằng:
- Trang chủ ở đây; cũng không khác gì phụ thân tôi, bao nhiêu
công việc, đều phải tự mình soi xét lấy, chiều tối ban sáng, không hề bỏ chút
việc nào thực là quý hóa.
Vừa nói đến đó thì lại thấy tiếng người gọi cửa ồn ào, có một
tên trang khách ra mở cổng, rồi thấy một bọn năm bảy người đi vào. Trong đó có
một người cầm thanh đao lớn đi trước, còn mấy người vác gậy đi theo.
Tống Giang nom kỹ, té ra anh chàng cầm đao, chính là người định
đánh nhau với mình ở trấn Yết Dương lúc sớm.
Bấy giờ nghe thấy Thái Công hỏi người kia rằng:
- Tiểu Lang đi đâu về đấy? Đánh nhau với ai mà bây giờ còn
vác dao váv gậy như thế?
Anh chàng kia đáp rằng:
- Việc này Gia Gia không biết, Ca Ca tôi có nhà không?
Trang chủ đáp rằng:
- Ca Ca uống rượu say, nằm ở hiên sau kia.
Anh chàng lại nói:
- Vậy tôi phải gọi Ca Ca dậy, để bắt đám này mới được!
Thái Công hỏi:
- Ngươi lại cãi nhau với ai mà gọi Ca Ca dậy. Nó dậy thì lôi
thôi sinh sự chứ không chơi. Người hãy nói cho ta biết vì duyên cớ gì đã.
- Dám thưa Gia Gia: Ngày hôm nay có một anh bán thuốc cao, đến
ở trấn Yết Dương, mà không vào chào anh em tôi, nên thế chúng tôi ngăn bảo các
người trên trấn không ai được cho nó một đồng tiền nào. Dè đâu có một thằng tù
tội ở phương nào mới đến, làm bộ ra mặt hảo hán, đưa cho anh kia năm lạng bạc,
làm mất cả giá trị đất Yết Dương. Tôi tức mình toan đánh, lại bị anh hàng cao
đá luôn mấy cái, đến giờ vẫn còn đau, căm tức không biết đâu mà kể. Tôi đã cho
các người đi dặn các hàng rượu không được cho chúng nó ăn ngủ hôm nay, và đã
cho người đi lùng bắt được anh bán thuốc, đánh cho một trận nên thân, hiện còn
để tạm ở nhà Đô Đầu, rồi sáng mai sẽ trói nó lại mà lăn xuống sông cho nó mất
tích. Còn hai thằng công sai với một thằng tù kia, không biết rằng nó đâu, tôi
đương gọi Ca Ca lại để tìm bắt nó... Thái Công gạt đi mà rằng:
- Con ơi! Chớ nên làm những việc tội ác như thế? Người ta có
tiền thì người ta cho, việc gì đến mình mà lôi thôi sinh sự? Vả chăng nó đánh
mình cũng chửa đau nào... ? Con đừng nên nói với Ca Ca, rồi nó biết con bị
đánh, nó lại lôi thôi giết hại người ta chứ không chơi. Con nghe lời ta đi vào
buồng ngủ, đừng nên tìm Ca Ca nữa. Con cũng nên để lại một chút âm công mới được.
Anh chàng kia nghe nói mặc kệ, cứ phăm phăm vác đao đi vào
hiên sau. Đoạn rồi Thái Công kia theo vào. Tống Giang nghe rõ ràng như vậy, bèn
bàn với tên công sai rằng: - Nguy lắm rồi làm thế nào được đây? Ta vào đây
chính là nhà nó rồi, phải tháo chạy cho mau, không thì chêùt cả bây giờ. Dẫu
cho ông lão ấy không nói ra, song đám người nhà đứa nào dám giấu...
Hai anh công sai cũng hoảng hốt mà rằng:
- Nếu vậy ta phải mau đi mới được.
Tống Giang nói:
- Ta không nên đi lối cửa trước, phải khoét một lối vách mà
đi lối sau mới xong.
Nói đoạn hai tên công sai đều vác hành lý, Tống Giang cầm lấy
gông, rồi khóet một quãng vách mà ra lối sau.
Ba người dắt nhau, liền theo dưới bóng sáng mà đi vào con đường
nhỏ trong đám rừng cây, không còn biết đến đất trời đâu hết thảy?
Đi đến một trống canh, đã đến bến sông Tầm Dương hai bên toàn
là lau lách đìu hiu, ở giữa một giải trường giang trắng xóa, đằng sau lại nghe
tiếng người kêu đuổi đến nơi, đèn đóm đi theo chẳng khác gì bọn người đi đánh
cướp: Tống Giang thấy vậy, thì trong bụng nửa cảm thương lo sợ, kêu xin trời phật
cứu cho rồi cùng nhau nấp vào lau lách. Được một lát thấy đóm đuốc đi theo đã gần
tới đằng sau, bước người càng lấy làm hãi hùng kinh sợ, trông ra nước cuốn sông
ngăn, đất hết trời cùng không còn lối nào mà chạy thoát được.
- Nếu biết cơ hội này, thà rằng ở Lương Sơn cho rảnh chuyện.
Ai ngờ tính mạng mà chôn lấp ở chốn này, thực là uổng quá...
Ngậm ngùi thay bến Tầm Dương,
Đìu hiu gió lạnh, mênh mang sóng cồn.
Ai về nhắn bạn Lương Sơn,
Tầm Dương nào phải đất chôn anh hùng.
Đương khi nguy cấp kinh hoàng, thì bỗng đâu trong đám
ngàn lau bụi lách, có tiếng kẽo kẹt quai chèo rồi có một con thuyền ở đâu chở đến.
Tống Giang thấy vậy, vội gọi người lái đò, mà nói lên rằng:
- Bác lái ơi! Bác làm phúc đức cứu ba chúng tôi, tôi sẽ trả
bác nhiều tiền.
Người lái đứng trên thuyền nói rằng:
- Ba các bác là ai đi đâu bây giờ?
Tống Giang nói:
- Đằng sau có giặc đuổi, chúng tôi lạc bước đến đây, bác làm
phúc cứu giúp, chúng tôi xin trả nhiều tiền lên.
Lái đò nghe nói, liền ghé thuyền vào, cho ba người bước lên,
một anh công sai khăn gói bỏ vào trong khoang, còn một anh lấy gậy mà đẩy thuyền
ra. Tên lái đò vừa bắt chèo lên để chèo, vừa lắng nghe thấy đồ hành lý để trong
khoang thuyền có tiếng xủng xoẳng, thì trong bụng hớn hở mừng thầm, mà hết sức
cho thuyền ra giữa dòng sông.
Bấy giờ bọn người đuổi theo đã đi gần tới bên cạnh bến sòng,
có hai đại hán tay cầm thanh đao đi trước, và hơn mươi người cầm gậy giáo theo
sau, đốt mười mấy bó đuốc Sở rực góc trời, kéo ùa đến đó. Khi bọn ấy đi tới bờ
sông, liền gọi lái đò bảo cho thuyền vào bến.
Tống Giang cùng hai người công sai nấp vào một xó ở trong
khoang, bảo với bác lái đò rằng:
- Bác đừng chở vào bến, rồi chúng tôi xin đãi tiền bác.
Anh lái đò gật đầu, rồi lẳng lặng mà kẽo kẹt chèo thuyền đi
thẳng; mặc cho bọn trên bờ kêu gọi luôn mồm.
Đám ở trên bờ thấy vậy quát lên rằng:
- Bớ lái đò kia không chở thuyền vào đây, ông cho là chết cả
bây giờ.
Anh lái đò cười nhạt mấy tiếng, rồi cứ im lặng không trả lời
sao cả.
Trên bờ lại quát lên rằng:
- Bớ lái đò! Anh là người ở đâu, dám to gan không chở vào
đây... ?
Lái đò cười nhạt đáp rằng:
- Lão gia là anh lái đò họ Trương đây, anh đừng lòe lão gia nữa.
Bấy giờ một đại hán ở trên bờ nói luôn lên rằng:
- Có phải Trương Đại Ca đấy à? Anh có trông thấy anh em tôi
đây không?
Lái đò đáp:
- Ta có mù chột gì mà không nom thấy.
Đại hán lại nói:
- Nếu vậy anh hãy chở thuyền vào đây, tôi nói câu này đã.
- Có chuyện gì anh hãy để mai, thuyền bây giờ còn phải đi có
việc vội.
- Anh em tôi chỉ muốn bắt ba người ở trong thuyền đó thôi.
- Ba người trong thuyền đều là cha mẹ nuôi nấng thân quyến
nhà tôi, tôi mời đi xơi miếng dao phay đây.
- Anh hãy cứ chở vào đây chúng tôi nói câu này đã.
- Chịu thôi, cơm áo của tôi, bây giờ lại đem cho bác sung sướng
hay sao?
Đại hán kia nghe vậy, thì nóng nảy mà rằng:
- Trương Đại Ca ơi! Chúng tôi không cần gì chuyện ấy đâu, bác
cứ chở vào đây, cho tôi bắt mấy thằng tù kia thôi...
Lái đò cứ mần thinh, vừa chèo thuyền đi, vừa nói rằng:
- Ngày hôm nay mới tiếp được một việc, chả lẽ mang vào đấy
cho anh phỗng mất hay sao? Thôi, hai anh tha lỗi cho, để hôm sau sẽ nói chuyện...
Tống Giang nghe thấy lái đò đối đáp như vậy, cũng không hiểu
thâm ý sao, chỉ tắc lưỡi bàn với hai tên công sai mà khen rằng:
- Bác lái đò phúc đức quá, thực hết lòng cứu giúp chúng
ta...Chúng ta không nên quên ơn những người như thế...Thực là trời đưa chiếc
thuyền để cứu ta đó...
Bấy giờ thuyền đi đã xa, bọn trên bờ kia vẫn chịu phép cầm đuốc
đứng vơ vẫn trên đám bờ lau, mà không làm gì được. Tống Giang thấy vậy liền lẩm
bẩm bảo hai người kia rằng:
- Hú vía! Phen này thực là xa kẻ ác, gặp được người hay, không
còn sợ hoạn nạn chi nữa!
Chàng đương nói chuyện, thì thấy anh lái ngoài kia vừa kẽo kẹt
tay chèo, vừa cất tiếng véo von hát lên rằng:
"Lão đây sinh trưởng ở ven sông,
Chẳng thích giao du chỉ thích đồng.
Có phải đêm qua trời báo mộng,
Hôm nay được của rõ như không".
Tống Giang cùng hai tên công sai nghe thấy câu hát như vậy,
thì kinh ngạc không hiểu ra sao? Tống Giang suy tưởng trong bụng:
- Chẳng hay họ hát chơi như vậy? Cũng không lấy gì làm quan hệ!
Ba người đương nửa sợ nửa mừng, chưa hiểu ra sao, thì ngoài
kia chú lái đò đã gác chèo lên mà nói rằng:
- Thằng tù với hai thằng công sai kia binh nhật mày quen làm
hại những kẻ ăn sương, ngày nay gặp tay lão gia đây, chúng bây thích ăn miếng
đao phay, hay là muốn ăn bánh hỗn độn chăng.
Tống Giang nghe nói đáp lên rằng:
- Quan bác đừng nói bông làm gì thế. Thế nào là miếng dao
phay, thế nào là bánh hỗn độn?
Anh lái đò trợn mắt ghê gớm lên mà nói rằng:
- Lão gia đùa gì với bây! Bây muốn ăn miếng dao phay, thì lão
gia có một con dao sắc như nước, ở dưới gầm thuyền kia, không cần phải bốn nhát
năm nhát gì cả, chỉ mỗi người một nhát rồi vứt xuống nước là xong. Bằng thích
đánh hỗn độn, thì cởi mau quần áo trần truồng, mà nhảy xuống sông mà tự tử.
Tống Giang nghe nói níu lấy hai người công sai mà kêu rằng:
- Khổ lắm trời ơi! Thực là phúc bất trùng lai, họa cô đơn
chí!
Lái đò lại quát lên rằng:
- Ba đứa bàn định mau mau, thế nào nói đi.
Tống Giang nói rằng:
- Bác lái ơi! Xin bác xét cho. Chúng tôi có gì đâu. Chúng tôi
là kẻ phạm tội, đày sang đất Giang Châu, bình sinh khổ sở, xin bác thương mà
tha thứ cho.
Lái đò gắt lên rằng:
- Bây nói gì thế? Tha cho ba chúng bây à? Ta, gọi là nửa đứa
cũng không tha, ông đây tên là Câu Kiển Trương Gia Gia (ông cụ Trương mặt chó)
đây, bố cũng không cần, mẹ cũng không cần, bây câm mồm đi, nhảy xuống nước đi
thôi.
Tống Giang vật nài kêu rằng:
- Chúng tôi xin đưa hết các đồ kim ngân cùng áo xống trong
gói để dâng ông, xin ông làm phúc tha mạng cho chúng tôi.
Lái đò lặng ngắt, đi vào dưới khoang thuyền, lấy con dao sáng
nhoáng lên, rồi quát bảo với ba người rằng:
- Ba chúng bây muốn làm thế nào?
Tống Giang thấy vậy, thì ngửa mặt lên trời thở dài và bảo hai
tên công sai rằng:
- Chỉ vì tôi không kính trời đất, bất hiếu với cha mạ, làm
nên tội ác thế này, để liên lụy đến hai bác, thực là đau xót quá chừng!
Hai tên công sai cũng níu lấy gươm mà nói rằng:
- Áp Ty ơi! Thôi còn nói làm chi nữa! Ba chúng tôi cùng chết
với nhau một chỗ này thôi!
Anh lái đò sốt ruột quát lên rằng:
- Ba anh cởi áo mau mau nhảy xuống sông, nếu không thì lão
gia cho mỗi anh một nhát.
Tống Giang cùng hai tên công sai, nghe nói thì ôm nhau mà
quay ra trông xuống dòng sông để nhảy. Chợt đâu trên sông có tiếng kẽo ca kẽo kẹt,
rồi có một chiếc thuyền vun vút đi đến. Trên thuyền có ba người một đại hán cầm
cây gậy móc, đứng ở mũi thuyền, và hai người lái chèo ở đằng sau. Khi thuyền gần
đến nơi, thì đại hán cầm gậy móc kia mà quát lên rằng:
- Thuyền nào dám hành sự ở đây? Hàng hóa trong thuyền đã có
chủ, sao các ngươi được làm liều như thế?
Anh lái đò nghe nói, liền ngẩng lên mà nói rằng:
- Tưởng là ai, té ra Lý Đại Ca đó. Đại Ca đi buôn bán gì, mà
không cho chúng tôi đi với?
- Bác Trương ơi! Bác vùng vẫy ở đây một mình... Trong thuyền
có hàng hóa gì đấy? Khá không?
- Tôi nói chuyện cho bác buồn cười nhé: Tôi mấy ngày hôm nay
nhẵn nhụi, không sờ vào đâu được, rồi lại đánh bạc thua không còn một đồng một
chữ nào; Đương ngồi buồn ở trên thuyền, bỗng có một đám người đuổi ba món hàng
hóa xuống, té ra là hai anh lính, với một thằng tù đen đen lùn thấp, không biết
rằng ở đâu đến? Tôi thấy nó nói là đi đày sang đất Giang Châu, nhưng mà không
thấy đeo gông xích gì cả. Còn bọn đuổi ở trên bờ, thì chính là hai anh em họ Mục,
họ định đòi bắt đám này, nhưng tôi không chịu trả lại...
Đại hán kia nghe đến đó, thì ra đáng kinh ngạc mà rằng:
- Chết rồi! Chẳng hay là Tống Công Minh Ca Ca của ta đó?
Tống Giang ngồi bên nầy nghe tiếng người kia hơi quen quen liền
kêu lên rằng:
- Hảo hán nào bên ấy? Nhờ cứu cho Tống Giang tôi với.
- Đại hán nào bên ấy? Nhờ cứu cho Tống Giang tôi với.
Đại hán kia cả kinh nói rằng:
- Té ra Tống Ca Ca của ta thực đó à?
Tống Giang nghe nói vội nhẩy ra ngoài khoang, nhờ ánh sao soi
sáng. Trông sang bên kia, thấy người đứng mũi thuyền chính là Hồn Giang Long Lý
Tuấn và hai người chèo ở đằng sau chính là Đông Uy, Đồng Mãnh.
Bấy giờ Lý Tuấn nhẩy sang bên thuyền này kêu lên rằng: - Khổ
hại cho Ca Ca tôi, nếu tiểu đệ chậm đến đây thì còn gì là tính mạng! Hôm nay
cũng là trời kia xui khiến, tiểu đệ ngồi nhà sốt ruột không yên, nên mới chèo
thuyền qua đây để kiếm mồi buôn bán, dè đâu lại gặp Ca Ca bị nạn kinh nguy như
thế.
Anh lái đò nghe vậy thì ngây người lạnh ngắt, hồi lâu mới cất
tiếng hỏi lên rằng:
- Lý Đại Ca ơi! Té ra người lùn đen đó, chính là Sơn Đông Cập
Thời Vũ Tống Công Minh phải chăng?
Lý Tuấn nói rằng:
- Chính phải rồi, bây gờ anh mới biết khổ chưa? Chàng lái đò
nghe nói vội cúi rạp xuống để lạy mà nói rằng:
- Chết nỗi! Làm sao nhân huynh không nói tên ngay từ trước, để
tôi khỏi làm càn làm bậy như thế?
Tống Giang hỏi Lý Tuấn rằng:
- Hảo hán này là ai, xin bác cho tường tên họ?
Lý Tuấn đáp rằng:
- Dám thưa Ca Ca, người này nguyên anh em kết nghĩa với tôi,
họ Trương tên Hoành, người Tiểu Cổ Sơn, biệt hiệu là Thuyền Hỏa Nhi, vẫn chuyên
nghề lẩn lút ở bến Tầm Dương xưa nay đó.
Nói đoạn liền bơi thuyền vào đến bến rồi buộc thuyền vào bến,
mà mời Tống Giang cùng hai tên công sai lên bờ.
- Xưa nay tôi thường nói chuyện với anh: Nghĩa sĩ trong thiên
hạ bây giờ, chỉ có một mình Sơn Đông Cập Thời Vũ Tống Áp Ty ở huyện Vận Thành
ngày nay anh đã biết chưa?
Trương Hoành bèn lấy đá lửa bật lên soi mặt Tống Giang một lượt,
rồi thụp xuống bến lạy lấy lạy để mà nói rằng:
- Xin Ca Ca tha tội cho chúng tôi...Dám hỏi Ca Ca cớ gì mà đi
đày sang Giang Châu như vậy?
Lý Tuấn liền đỡ lời cho Tống Giang mà kể chuyện cho Trương
Hoành nghe. Trương Hoành nghe nói có vẻ vui mừng mà rằng:
- Xin nói để Ca Ca biết: Tôi có hai anh em ruột, tôi đây là lớn,
còn thằng em nữa, người trắng như ngà, mà nghề chơi cũng thạo, nó có thể bơi lặn
dưới nước được. Nó vừa trắng vừa giỏi, nên người ta thường gọi cho một tên lạ,
là Lăng Lý Bạch Điều Trương Thuận.Trước đây hai anh em tôi thường ở Dương Tử
Giang kiếm ăn với nhau, thực là lắm chuyện buồn cười...
Tống Giang nói:
- Thế nào cho tôi nghe nốt?
Trương Hoành tiếp luôn rằng:
- Hồi đó hễ khi nào anh em tôi thua bạc, thì tôi lại đánh một
con thuyền ra một quãng nào xa vắng để chở khách sang ngang. Chờ khi khách bộ
hành xuống đã đông, rồi em tôi ăn mặc giả làm khách đáp mà xuống ngồi ở dưới
thuyền. Tôi chèo thuyền ra đến giữa sông, rồi gác chèo lên, bỏ neo xuống, tay cầm
một con dao bầu đi hỏi tiền đò. Cứ lý ra mỗi người phải trả có năm trăm đồng,
song tôi nhất định cứ mỗi người phải trả ba quan mới được. Trước hết tôi hãy hỏi
em tôi là Trương Thuận, Trương Thuận giả vờ làm mặt không có tiền, tôi liền một
tay nắm đầu, một tay xách khố mà quăng xuống sông, rồi quay ra đòi tiền hành
khách. Hành khách trông vậy, thì anh nào anh ấy khiếp vía kính sợ bảo nhau góp
tiền trả đủ ba quan không dám thiếu nửa đồng nào. Khi thu đủ tiền, tôi liền cho
bọn kia vào bờ, rồi bấy giờ em tôi ở dưới đáy sông bò lên, chia tiền mà đi đánh
bạc với nhau. Ấy, cách sinh nhai như thế, nhân huynh tưởng có nhiêu khê không?
Nói đoạn lại tiếp luôn rằng:
- Hiện nay thì đã cải nghiệp cả rồi, tôi thì ở lại bến Tầm
Dương này để kiếm chác quanh co, còn em tôi là Trương Thuận thì bây giờ lại
sang đánh cá ở đất Giang Châu, nay mai Ca Ca sang đó, tôi xin gửi bức gia thư
nhân thể. Nhưng mà tôi không biết chữ, thì viết thế nào được?
Lý Tuấn nói:
- Chúng ta đi vào trong xóm, nhờ thầy đồ biết chữ viết cho.
Nói xong liền để Đồng Uy, Đồng Mãnh lại coi thuyền rồi Trương
Hoành cùng Lý Tuấn, cầm đèn dẫn Tống Giang cùng hai người công sai đi vào trong
thôn.
Đi được nửa dặm đường, thì thấy phía trước mặt có bọn người
đim và có đèn đuốc sáng trưng.
Trương Hoành liền hỏi to lên rằng:
- Anh em bác chưa về hay sao?
Lý Tuấn thấy vậy hỏi Trương Hoành rằng:
- Anh em nhà nào thế?
Trương Hoành đáp:
- Đó là hai anh em nhà họ Mục đấy.
Tống Giang vội gạt đi mà rằng:
- Không được! Không được! Hai anh em ấy họ đương định bắt tôi
đấy.
Lý Tuấn nói:
- Không ngại chi, họ cũng như chúng tôi, chỉ vì họ chưa biết
Ca Ca đấy thôi.
Nói đoạn giơ tay lên vẫy, và thổi một tiếng còi để gọi bọn
kia. Hai anh em nhà kia nghe tiếng còi gọi, bèn dẫn người nhà đi tới nơi, thấy
Lý Tuấn và Trương Hoành đương cung kính chuyện trò với anh tù, mà chính mình
đương đi lùng bắt, thì lấy làm ngạc nhiên mà hỏi rằng:
- Sao hai Đại Ca lại quen mấy người này?
Lý Tuấn cả cười mà hỏi lại rằng:
- Các bác bảo người này là ai?
Hai anh em nhà kia đáp rằng:
- Nào chúng tôi có biết là ai. Sáng hôm nay ông ta đem tiền
cho thằng bán thuốc cao, làm mất cả danh giá đất Yết Dương, tôi đương tìm bắt
đây.
Lý Tuấn cười rằng:
- Đây chính là Sơn Đông Cập Thời Vũ Tống Công Minh làm Áp Ty ở
Vận Thành, chúng ta vẫn nói chuyện đến luôn đấy. Các anh lạy chào đi thôi.
Hai anh em nhà kia vội vàng vất đao ra, rồi cúi lạy Tống
Giang mà nói rằng:
- Chúng tôi nghe tiếng đã lâu, mà không được thừa tiếp bao giờ?
Nay chẳng may xúc phạm tôn nhan, xin Ca Ca tha tội cho.
Tống Giang đỡ hai người dậy mà hỏi rằng:
- Xin hai ngài biết quý tính danh là gì?
Lý Tuấn đáp rằng:
- Hai người này đều là con nhà hộ, anh là một Già Lạn, Mục Hoằng,
em là Tiểu Già Lạn, Mục Xuân, là một tay bá ở đất Yết Dương tôi đấy: Nguyên đất
Yết Dương tôi có ba tay làm Bá miền núi Yết Dương: Hai là hai anh em nhà bác
này làm Bá ở trấn Tầm Dương; Còn thứ ba là anh em Trương Hoành ở bến Tầm Dương,
thế gọi là Tam Bá.
Tống Giang nói rằng:
- Nếu vậy thì các Bá tụ tập ở đây, thực là hạnh phúc cho Tống
Giang lắm, vậy xin các Bá nghĩ tình phận anh em mà tha Tiết Vĩnh ra cho.
Mục Hoằng cười rằng:
- Có phải anh hàng thuốc cao đấy không? Nhân huynh cứ phóng
tâm, tôi bảo Mục Xuân đem về nộp trả Ca Ca. Bây giờ hãy xin đón Ca Ca về tệ
trang nghỉ chân một lúc đã.
Lý khen phải, liền bảo tên người nhà ra coi thuyền cho Đồng
Uy, Đồng Mãnh, và nhất diện sai người về trang báo trước ở nhà để giết dê lợn
làm cơm thiết đãi, rồi cùng nhau kéo thẳng về trang. Vừa đến canh năm, đi tới
gia trang, Mục Thái Công ra đón vào thảo đường, mời Tống Giang cùng ngồi đối tọa,
còn các người kia theo thứ tự mà ngồi.
Khi tới gần sáng, đã thấy Mục Xuân dẫn Đại Bệnh Trùng Tiết
Vĩnh về đó, Mục Hoằng liền giục đem tửu tịch lên đãi Tống Giang cùng các người
rồi lưu lại một đêm ở đấy.
Sáng hôm sau, Tống Giang định sắp sửa ra đi, Mục Hoằng nhất định
không nghe, cố lưu lại mà đưa Tống Giang đi xem xét khắp trong thị trấn Yết
Dương. Tống Giang ở luôn ba ngày, sau sợ trễ quá kỳ hẹn, bèn quyết ý từ tạ xin
đi. Anh em Mục Hoằng cố lưu không được bèn bày tiệc tiễn hành để sáng hôm sau
tiễn chân Tống Giang. Sáng hôm sau Tống Giang từ tạ Mục Thái Công cùng các tay
hảo hán mà dặn Tiết Vĩnh hãy ở lại đó ít lâu, rồi sau sẽ tương hội ở đất Giang
Châu.
Mục Hoằng cũng ân cần lưu giữ Tiết Vĩnh ở đó, rồi đưa một ít
kim ngân để tiễn Tống Giang. Bấy giờ Trương Hoành đã nhờ người viết được phong
thư nhờ gửi Tống Giang đưa đến Giang Châu trao cho Trương Hoành. Tống Giang gói
vào hành lý cẩn thận, rồi tất cả mọi người đưa chân ra bến Tầm Dương.
Mục Hoằng sai một chiếc thuyền, xếp các đồ hành lý xuống trước,
rồi đem rượu xuống thuyền để tiễn hành. Khi rượu tiễn đã tan, bọn Lý Tuấn,
Trương Hoành, Mục Hoằng, Mục Xuân, Đồng Uy, cùng Đồng Mãnh đều sụt sùi bái biệt
trở về. Còn Tống Giang cùng hai tên công sai, thì giong thuyền thẳng nẻo Giang
Châu.
Con buồm gió thổi phất phơ,
Tầm Dương trước lại bây giờ Tầm Dương.
Cùng trong một ngọn trường giang,
Mà nay nước cuộn sóng cuồng đi đâu!
Khi tới bến Giang Châu, hai tên công sai lại đeo gông vào cho
Tống Giang, rồi thu lấy các đồ lý, và đem công văn giải vào trong phủ.
Quan Phủ Giang Châu họ Xài tên Đắc Chương, con thứ chín của
Thái Sư Xài Kinh ở đương triều, nhân thế những người ở Giang Châu thường gọi là
Xài Cưu Tư Phủ. Người này vốn tính tham lam kiêu sa, vả chăng Giang Châu là nơi
đất rộng tiền nhiều, nên Xài Thái Sư cho ra Tri Phủ ở đó,, để tiện đường phung
phí ăn chơi.
Bấy giờ hai tên công sai giải Tống Giang vào trước nha. Tri
Phủ trông thấy Tống Giang có vẻ lỗi lạc phi thường, liền hỏi ngay rằng:
- Làm sao trên đầu gông lại không có dấu niêm phong của châu
phủ như thế?
Hai tên công sai kêu rằng:
- Chúng con đi đường bị mưa xuân thấm ướt, nát mất lúc nào
không hay.
Tri Phủ nghe nói, liền truyền hai tên lính giải sang nhà lao.
Khi ra khỏi cổng phủ, Tống Giang liền mời tất cả mọi người
vào một tửu điếm để thiết rượu, và lấy ra năm lạng bạc đưa cho hai tên lính ở
Giang Châu. Khi ăn uống xong tên lính Giang Châu đưa Tống Giang đến lao phòng,
ra đến nơi nói lót với quản doanh, Sai Bát, rồi giao Tống Giang vào đó, mà trở
về trong phủ đường. Đoạn rồi hai tên công sai trước, cũng giao các đồ hành lý
cho Tống Giang và hết lòng cảm tạ mà trở vào trong phủ lĩnh giấy tờ để trở về Tế
Châu.
Khi đó Tống Giang nhờ người mời Sai Bát đến, đưa tặng mười lạng
bạc, và nhờ đưa lên Quản Doanh mười lạng, còn các người theo hầu trong doanh và
lính tráng, đều có tặng tiền trà nước hẳn hoi. Nhân thế mọi người đều có lòng
vì nể Tống Giang.
Hồi lâu, chúng dẫn Tống Giang lên phong điểm danh, rồi tháo bỏ
gông trói vào chào Quản Doanh. Quản Doanh vè đã được tiền đút lót nên khi thấy
Tống Giang lên, liền hỏi ngay rằng:
- Tên tù phạm mới đến là Tống Giang kia, ngươi đã biết theo
như luật lệ của đức Thái Tổ Võ Đức Hoàng Đế tiên triều, phàm các người mới phạm
tội, phải chịu một trăm roi ra oai, vậy tả hữu đâu kéo tên phạm ra đây.
Tống Giang kêu rằng:
- Chúng tôi đi đường chẳng may bị cảm chưa khỏi, vậy xin ngài
cho khất ít lâu.
Quản Doanh đáp rằng:
- Ta trông mặt anh này có lẽ còn ốm thực; Nếu vậy hãy cho gửi
đó ít lâu. Anh này trước đã làm Huyện lại xuất thân, thì tất là thạo việc, nay
ta cho xuống bàn giấy ở bản doanh để sao viết giấy má.
Nói rồi liền thảo giấy cho Tống Giang xuống làm ở phòng giấy.
Tống Giang tạ ơn, rồi xuống lao phòng, thu xếp hành lý để sang bên phòng giấy.
Các bọn tù đồ thấy Tống Giang được biệt đãi như vậy, thì bảo nhau mua rượu thịt
đến mừng.
Ngày hôm sau Tống Giang lại làm rượu thiết lại bọn tù đồ, và
thỉnh thoảng lại mời Sai Bát đến uống rượu, còn về chỗ Quản Doanh thì đưa đồ biếu
tặng luôn luôn.
Tống Giang nhờ được sẵn tiền trong túi, hết lòng cố kết bạn với
bọn Giang Châu, nên mới đến đó được nửa tháng trời, mà khắp trong dinh trại
không ai là không vui thích yêu chiều.
Nhân tâm theo với hơi đồng
Thói đời nóng lạnh thôi không lạ gì?
Một hôm, Tống Giang đương ngồi uống rượu với Sai Bát ở trong
phòng giấy. Sai Bát bảo với Tống Giang rằng:
- Hôm trước tôi đã nói chuyện với nhân huynh, nên đưa chút lễ
vạt gì cho Tiếp Cấp coi ngục ở đây, đên nay ngó nửa tháng trời, sao hiền huynh
chưa đưa cho ông ta. Nay mai ông ta đến đây, tất là lôi thôi khó chịu.
Tống Giang đáp rằng:
- Cái đó không cần...Sai Bát có tiêu tiền, thì cứ hỏi Tống
Giang này mà lấy, còn như Tiết Cấp thì một chữ cũng không cho. Để xuống đây khắc
tôi có cách nói.
Sai Bát lại nói rằng:
- Chết nỗi! Áp Ty ơi! Tiết Cấp này không phải là vừa đâu, ông
ta ngón gì cũng giỏi, nếu lỡ có điều gì xúc phạm thì nguy chứ không chơi, Áp Ty
phải liệu mới được.
- Được, xin huynh trưởng cứ phóng tâm, mặc kệ ông ta muốn thế
nào, tôi cũng có cách. Dễ thường ông ta còn có việc cần đến tôi cũng chưa biết
chừng...
Vừa nói xong, thì thấy có một tên bài đầu đến báo rằng:
- Tiết Cấp đã đến, hiện đương quát lác ở trên sảnh, kêu rằng
tên tù mới, sao không thấy đưa tiền lệ tiền ngạch gì cả...
Sai Bát liền bảo Tống Giang rằng:
- Đấy, tôi nói có sai đâu, bây giờ ông ta đến đây, không khéo
lại liên lụy cả đến chúng tôi cũng nên.
Tống Giang đứng dậy cười mà rằng:
- Xin Sai Bát tha lỗi cho. Để hôm khác tôi xin hầu rượu, bây
giờ đệ nói với ông ta xem sao đã.
Sai Bát cũng đứng dậy nói rằng:
- Xin hiền huynh đi một mình vậy, chúng tôi đến đấy không tiện.
Nói xong từ biệt mà đi.
Đoạn rồi một mình Tống Giang đi đến phòng điểm danh để chào
Tiết Cấp.
Hay là:
Giang Châu chiếc nhạn ly quần
Cái khuôn con Tạo xoay vần từ đây
Mấy phen hồ hải tỉnh say
Con thuyền chìm nổi đến nay chưa cùng
Gió dồn giấc mộng Thanh Phong
Lương Sơn xa cách vẫy vùng riêng ai
Hãy liều nhắm mắt thử chơi
Xem rằng thế cục xoay đến đâu?
Lời bàn của Thánh Thán:
Sách này tả 108 người, đều có tâm địa ngang tắt, thế nhưng
chưa từng có ai Tống Giang con người giả dối không định đó vậy. Đối với hảo hán
thiên hạ mà kết giao, mới đầu không để lồng lộng như thanh thiên, trong trắng
như hao nguyệt, êm ái tựa mưa xuân, nóng thẳng như sấm hè...Chỉ có một điều
tung tiền ra mà thôi. Xét ra lấy đồng tiền là gốc mua chuộc, thế mà tự nói rằng
hiếu với cha mẹ, thế mà vẫn bảo rằng hiếu với cha mẹ, chẳng sợ thiên hạ không
tin là hiếu với cha mẹ; Lại tự bảo rằng kính với trời đất, chẳng sợ thiên hạ
không tin là kính trời đất; lại tự bảo rằng tôn triều đình, chẳng sợ thiên hạ
không cho tin tôn triều đình; Lại tự bảo rằng mến bạn bè, không tin thiên hạ
chăng cho là mến bạn bè...Hỡi ôi! Con người thiên hạ chỉ biết đồng tiền làm
quý, mà chẳng biết tới căn để sự tung tiền, đều làm cho Tống Giang dòm biết, vì
đó tính chuyện, đều làm cho Tống Giang thao túng đổi ngầm thay rõ mọi sự, đó vốn
là sự xấu xa của người trong thiên hạ. Cho nên Tống Giang vốn là anh lại sảo,
chỉ đem đồng tiền mua chuộc thiên hạ, mà vẫn tự xưng là Hiếu Nghĩa Hắc Tam, để
tính ngầm ngôi của Tiều Cái về sau, đấy là việc xấu, sao nỡ như thế vậy vay!
Tác giả vốn ghét thế gian có những con người như thế, mới mượn một Tống Giang,
để lập chuyện ra, mà từng chỗ chép ra sự phóng tài hóa thu tâm, đều là lấy ngòi
bút công giết chết lòng tà gian vậy.
Thiên hạ bấy giờ, không ai chả thân với Tống Giang, thế mà rất
thân như Hoa Vinh kia thấy rõ lắm. Hoa Vinh đón mời, Tống Giang không khi nào
chẳng tới; Hoa Vinh lưu giữ, Tống Giang không khi nào chả ở; Hoa Vinh cần tháo
gông, Tống Giang không khi nào chẳng tháo...Đương lúc trên vin cớ triều đình,
dưới nghe lời cha dạy, dù có một trăm Hoa Vinh chẳng từng khuyên nổi Tống Giang
tạm mở gông ra làm cho đám người sơn bạc tưởng thực rằng cái gông của Tống
Giang phải đến lao thành Giang Châu, thì mới dám cởi, tác giả ghét lăm, mới tả ở
chỗ núi Yết Dương rằng hãy tạm mở gông, đến sau từ biệt ly, lại chép rằng; Hãy
đeo gông lại. Ở trong phòng Mục Thái Công chép rằng: Trong này không ai người
ngoài, hãy tạm tháo gông, mà chép rằng: Tống Giang nói rất phải hãy tạm tháo
gông đến khi chạy trốn, lại chép rằng Tống Giang cầm lấy gông. Khi trong miệng
Trương Hoành nói chép rằng: Bấy giờ chẳng đeo gông; Với lúc Mục Hoằng thuyền
quay lại, cũng chép rằng; Mọi người ở giang biên sửa soạn đeo gông. Đến khi lên
bờ Giang Châu, chép rằng: Tống Giang liền đeo gông vào; Khi tới Quan Phủ hỏi:
Sao trên gông không có chữ của châu quận đi qua...Tất cả những chỗ tả đến đeo
gông như thế, để so với đoạn văn trên, Hoa Vinh cần bảo bỏ gông, mà còn không
được. Hỡi ôi! Than như Hoa Vinh, mà còn chả tỏ chân tâm, thì con người như
gươm, còn ở với ai bền mãi!.
Hồi này từng tiết ly kỳ, từng lần nguy hiểm, kỳ không dứt
không thôi hiểm còn vương còn diễn, khiến độc giả hồi này, lửa lòng muốn tắt
ánh mắt đâm mờ, chỉ lo đến chết, không mong còn sống, như vào trọ tửu điếm đã
chả được, đó một lần; Tìm trú thôn trang, lại vào ngay trong nhà oan gia, đó
hai lần; Khoét vách trốn đi, gặp sông ngăn nước trở, đó ba lần; Tìm được thuyền,
giặc còn theo sá, đó bốn lần; Trong thuyền lại gặp Sảo Công định giết, đó năm lần;
Sảo Công bức bách cầm đao đe dọa, đó sáu lần...Một hồi thấy thoát một miệng
hùm, lại sa ngã một miệng hùm, khiến người một đầu đọc một đầu khiếp, chẳng những
đọc không xiết mà khiếp cũng không xiết được.
Hồi nầy tả Tống Giang vốn tuân lời cha, chẳng chịu theo ở đám
Lương Sơn, chợt đâu nảy ra tả một câu bất mãn với lời cha, một câu hối hận là
chẳng ở lại Lương Sơn Bạc, đều do tác giả dùng bút ghê gớm, ngụ ý rất nghiêm
cho lộ bản tướng con người giả dối.
Hồi 37:
Tống Giang cười nói gợi tức Đới Tung
Lý Quỳ hung hăng đánh với Trương Thuận.
Bấy giờ Tiết Cấp đương ngồi vắt vẻo trên sảnh, thấy Tống
Giang đi đến, liền quát hỏi rằng:
- Đứa nào là thằng tù mới vào ở đây?
Tụi bài đầu trỏ vào Tống Giang mà đáp rằng:
- Bẩm chính là người nầy đây.
Tiết Cấp lại quát luôn rằng:
- Thằng lùn đen kia, mầy cậy thế ai, mà đến đây không đưa nộp
tiên lệ cho ta?
Tống Giang điềm nhiên mà đáp rằng:
- Phàm sự nhân tình là đó người ta tình nguyện, có lẽ nào lại
bức bách người ta được. Gớm nhà bác giỏi thực.
Những người đứng xem hai bên, nhìn thấy vậy, thì toát mồ hôi
mà sợ thay cho Tống Giang.
Tiết Cấp lại quát lên rằng:
- À! Thằng giặc tù nầy vô lễ thực, dám gọi ta là nhà bác nầy...
Chúng bay đâu lôi cổ đánh đủ trăm roi cho ta xem. Chúng nghe nói, đều có lòng
thương nể Tống Giang, liền lẳng lặng mà trốn đi, bỏ một mình Tiết Cấp và Tống
Giang ở đó, Tiết Cấp liền lấy làm giận, liền vác roi đến toan đánh TốngGiang.
Tống Giang ung dung hỏi rằng:
- Tiết Cấp ơi! Ông định đánh tôi, vậy tôi có tội gì?
Tiết Cấp thét to lên rằng:
- Thằng giặc tù nầy, mầy tức là hàng hóa ở trong tay tao, ho
một tiếng cũng là tội rồi.
Tống Giang nói:
- Phải ông muốn nói thế nào thì nói, nhưng tôi tội cũng không
đến nỗi chết nào?
- Tội mầy không đến nỗi chết, nhưng ta định đánh chết mầy,
thì cũng như đánh chết con ruồi vậy.
Tống Giang nghe nói, cười nhạt mà rằng:
- Tôi đây chỉ vì không đưa tiền đút lót, mà đến nỗi đánh chết,
vậy thì những kẻ giao thông với Ngô Học Cứu ở Lương Sơn Bạc sẽ xử ra sao?
Tiết Cấp nghe nói đến câu ấy thì vội vất roi xuống đất mà hỏi
luôn rằng:
- Nhà ngươi nói gì thế?
- Tôi nói cái người giao thông với Quân Sư Ngô Học Cứu, việc
gì mà hỏi tôi?
Tiết Cấp cuống người lên, nắm lấy Tống Giang mà hỏi luôn rằng:
- Bác là ai? Sao lại nói câu ấy?
Tống Giang nói rằng:
- Thưa ngài, tôi là Tống Giang ở Vận Thành đây.
Người kia cả kinh, vội vàng lạy rạp xuống mà rằng:
- Té ra huynh trưởng chính là Cập Thời Vũ Tống Công Minh, tôi
không được biết.
Nói đoạn liền bảo Tống Giang rằng:
- Ở đây không tiện nói chuyện, xin mời huynh trưởng vào trong
thành, ta sẽ đàm đạo với nhau.
Tống Giang đáp rằng:
- Vâng, xin Tiết Cấp hãy đợi cho một lát, để Tống Giang về xếp
dẹp bên phòng rồi sẽ đi theo.
Nói đoạn, vội vàng về phòng lấy bức thư của Ngô Dụng thu vào
trong bọc, rồi lấy một ít tiền, rồi đóng cửa giao cho bài đầu coi giữ, mà quay
ra theo Tiết Cấp vào trong thành Giang Châu. Khi vào trong thành, tìm vào ngồi ở
một tửu lâu rất kín, rồi Tiết Cấp hỏi Tống Giang rằêng:
- Huynh trưởng gặp Ngô Học Cứu ở đâu?
Tống Giang lấy bức thư trong bọc đưa ra cho Tiết Cấp. Tiết Cấp
bóc xem hết lượt, rồi cất thư vào túi, mà cúi xuống lạy Tống Giang.
Tống Giang vội đáp lễ lại mà rằng:
- Vừa rồi chúng tôi nói năng có điều không phải, xin ngài tha
lỗi cho.
Tiết Cấp nói:
- Mấy hôm trước tiểu đệ chỉ nghe nói, có một người họ Tống đến
đây, mọi khi thì vẫn thường lệ mỗi người tù đi đến, phải nộp tiền năm lạng, mà
ngày nay đến ngót nửa tháng trời, vẫn chưa thấy nộp nên đệ muốn đến hỏi xem
sao? Ai ngờ lại chính là nhân huynh ở đó. Dám xin nhân huynh tha tội ấy cho...
- Sai Bát cũng thường nói đến đại danh luôn luôn, Tống Giang
này vẫn định đến chào, song không biết túc hạ trọ ở đâu, và cũng không có việc
gì dám đi vào trong thành, nên đành phải đợi khi túc hạ ra đây, rồi sẽ bái kiến.
Không phải là năm lạng bạc không thể đưa đi được, song cũng chắc rằng, thể nào
nhân huynh cũng có phen qua đến ở đây, cho nên mới chậm trễ như vậy. Nay được gặp
ngài ở đây, thực là thỏa lòng vô hạn.
Tiết Cấp này tức là Viện Trưởng Đới Tung, làm Tiết Cấp coi ngục
ở hai viện Giang Châu, mà Ngô Dụng đã nói với Tống Giang khi ở Lương Sơn vậy.
Nguyên thuộc về đời nhà Tống, các người làm Tiết Cấp ở mạn Kim Lăng đều gọi là
Gia Trưởng, còn mạn Hồ Nam đều gọi là Viện Trưởng. Vì thế người ta gọi Đới Tung
là Viện Trưởng Giang Châu. Đới Tung có thuật rất kỳ lạ, mỗi khi có văn thư cần
cấp, thì buộc hai cái giáp mã vào trái chân làm phép thân hành, thì có thể đi một
ngày được năm trăm dặm, nếu buộc bốn cái vào hai chân, thì có thể đi một ngày tới
tám trăm dặm, nhân thế người ta gọi là Thần hành Thái Bảo Đới Tung.
Bấy giờ Đới Tung cùng Tống Giang chuyện trò với nhau, hai người
đều lấy làm thỏa tình thích ý, rồi gọi các thứ rượu nhắm lên cùng uống rượu làm
vui.
Trong khi uống rượu Tống Giang kể hết mọi chuyện đi đường cho
Đới Tung nghe, Đới Tung cũng kể chuyện nhân tình, cùng Ngô Học Cứu cho Tống
Giang nghe, rất là mật thiết.
Khi uống được vài tuần rượu, chợt nghe dưới gác có tiếng người
huyên náo ầm ầm, rồi thấy tên tửu bảo lật đật lên nói với Đới Tung rằng:
- Người này chỉ có Viện Trưởng ngăn bảo thì mới được, vậy xin
nhờ Viện Trưởng xuống bảo giúp cho.
Đới Tung hỏi:
- Ai ở dưới ấy?
- Bẩm ngài chính là Thiết Ngưu (con trâu sắt) Lý Đại Ca vẫn
theo Viện Trưởng mọi khi, hiện đương tìm chủ hàng để vay tiền ở dưới ấy.
Đới Tung cười rằng:
- Lại thằng cha ấy lăng nhăng ở đây rồi, ta tưởng là ai...?
Xin huynh trưởng ngồi đây, để tôi xuống bảo anh này mấy câu, rồi sẽ đi lên
ngay.
Nói xong đứng dậy đi xuống gác một lúc, rồi dẫn một anh chàng
to lớn đen chũi cùng đi lên gác.
Tống Giang thấy vậy lấy làm kinh ngạc, hỏi Đới Tung rằng:
- Dám thưa Viện Trưởng Đại Ca này là ai?
Đới Tung đáp:
- Người này là một người coi ngục ở trong lao tiểu đệ; họ Lý
tên Quỳ, người huyện Nghị Thủy đất Nghi Châu, thuộc Bách Thượng. Anh ta có một
tên lạ là Hắc Toàn Phong (Gió lốc đen) Lý Quỳ, và người làng anh ta thường gọi
là Thiết Ngưu Lý Quỳ, sau có tội đánh chết người, phải trốn đi nơi khác; Nay dẫu
được ân xá, song vẫn lưu lạc giang hồ, mà vẫn chưa về được cố hương. Anh ta
tính hay chè rượu, thường dùng hai cái búa để đánh nhau, các ngón côn quyền
cũng giỏi, hiện đương theo việc ở đây.
Bấy giờ Lý Quỳ trông thấy Tống Giang bèn hỏi Đới Tung rằng:
- Ca Ca ơi! Anh chàng đen sì đó là ai?
Đới Tung nghe hỏi thì cười bảo Tống Giang rằng:
- Áp Ty coi đấy, hắn lỗ mãng đến thế thì thôi, không còn biết
một tý gì gọi là lễ phép.
Lý Quỳ lại hỏi Đới Tung rằng:
- Tôi hãy hỏi Ca Ca thế nào là lỗ mãng?
- Chính phép ra có hỏi đến ai, phải nói rằng: Vị quan nhân
này là ai? Thì mới phải, nay ngươi đường đột hỏi ngay rằng: "Anh chàng đen
sì đó là ai?" Như thế có phải là lỗ mãng không? Ta bảo cho mà biết: Vị
nhân huynh chính là người nghĩa sĩ, mà mọi khi ngươi vẫn ước ao định đến bái kiến
đó.
- Có phải là Sơn Đông Cập Thời Vũ Hắc Tống Giang không?
Đới Tung quát lên rằng:
- Đồ quái này, không biết gì cả, sao dám gọi sỗ sàng thế?
Không cúi xuống mà lạy đi, còn đợi đến bao giờ?
Lý Quỳ nói:
- Có quả là Tống Công Minh, thì tôi sẽ lạy, còn người khác thị
làm gì? Tiết Cấp đừng đánh lừa tôi, cho tôi lạy xằng lạy bậy rồi lại cười tôi.
Tống Giang liền đáp lên rằng:
- Tôi chính là Sơn Đông Hắc Tống Giang đây.
Lý Quỳ nghe nói vỗ tay kêu rằng:
- Trời ơi! Bố tôi sao không nói trước cho Thiết Ngưu mừng?
Nói đoạn liền phủ phục xuống để lạy Tống Giang. Tống Giang vội
vàng đáp lễ mà nói rằng:
- Xin mời tráng sĩ ngồi đây một thể.
Đới Tung cũng bảo Lý Quỳ rằng:
- Anh đến ngồi bên cạnh tôi đây mà hầu rằng:
Lý Quỳ ngồi xuống bên cạnh Đới Tung, rồi nói rằng:
- Uống rượu bằng chén nhỏ phiền lắm, không chịu được, xin lấy
chén lớn ra đây.
Tống Giang hỏi Lý Quỳ rằng:
- Vừa rồi làm sao mà Đại Ca giận dữ ở dưới nhà như thế?
Lý Quỳ đáp rằng:
- Tôi có một đĩnh bạc lớn đem đổi lấy mười đĩnh bạc con, tiền
hết mất cả rồi, nay định đến mượn chủ hàng mười lạng bạc con để chuộc bạc lớn về
cho hắn, và chỉ dùng một ít, ai ngờ anh ta lại nhất định không cho mượn! Tôi tức
mình đương định đánh cho một mẻ tan nát cửa nhà mới thôi... Cũng may lại bị Ca
Ca tôi gọi lên đây, chứ không thì...
- Đại Ca chỉ cần mười lạng bạc, hay là phải tiền lãi nữa?
- Tiền lãi tôi đã có rồi, bây giờ chỉ cần mười lạng bạc để đi
chuộc ngay thôi.
Tống Giang nghe nói, liền móc túi lấy ra mười lạng bạc đưa
cho Lý Quỳ, mà nói rằng:
- Đại ca cầm tiền mà đi chuộc về.
Đới Tung thấy vậy, toan ngăn lại thì Tống Giang đã trao tay
cho Lý Quỳ mất rồi.Lý Quỳ tiếp được món tiền, liền đứng dậy nói rằng:
- Tốt lắm, hai vị Ca Ca hãy đợi tôi một lát, tôi chuộc bạc
đem về trả ngay, rồi xin theo Tống Ca Ca ra ngoài thành đánh chén.
Tống Giang nói:
- Hãy ngồi một lát rồi sẽ đi.
Lý Quỳ nói:
- Tôi chỉ đi một lúc rồi lại đến đây ngay.
Nói xong đẩy rèm đi thẳng xuống lầu.
Bấy giờ Đới Tung bảo với Tống Giang rằng:
- Huynh trưởng đưa tiền cho hắn làm gì? Vừa rồi tôi toan giữ,
thì huynh trưởng đã đưa ra mất rồi.
Tống Giang nói:
- Tại sao lại thế?
- Hắn ta dẫu là người trung trực nhưng tính ham uống rượu,
thích đánh bạc, còn có bao giờ có được một đĩnh bạc mà đổi ra, cái đó hắn nói dối
đấy. Bây giờ đi vội đi vàng thế, tức là đi đánh bạc.. Nếu được ra tất đem tiền
đến trả, huynh trưởng, mà nhược bằng bị thua mất, thì còn đào đâu ra mười lạng
bạc mà trả lại, thế có phải thêm bất tiện cho Đới Tung này lắm không?
Tống Giang cười rằng:
- Huynh trưởng hà tất nghĩ như thế, mấy lạng bạc ấy có làm
gì, để mặc cho anh ta đánh bạc, thua hết thì thôi. Tôi xem người ấy là một người
trung trực lắm...
- Hắn ta võ nghệ cũng khá, chỉ có một điều là tính thô mật lớn,
không cần gì ai, ở đất Giang Châu này, mỗi đám tù tội, thì lại đánh đập tất cả
đám coi ngục, làm cho tôi nhiều phen cũng liên lụy đến hắn... Giữa đường thấy sự
bất bình là thế nào cũng đánh cho những bọn cường ngạnh, vì thế khắp trong
thành Giang Châu ai ai cũng sợ. Nói đoạn Tống Giang bảo với Đới Tung rằng:
- Chúng ta uống mấy chén rượu nữa, rồi đi chơi ngoài thành một
lúc cho vui.
Đới Tung nói:
- Tiểu đệ quên đi mất, để rồi xin dẫn nhân huynh đi xem Giang
Cảnh mới được.
- Tôi đến đây cũng muốn đi xem phong cảnh bên sông một lượt,
nhưng chưa có dịp nao được đi, vậy xin uống rồi ta đi một thể. Nói đoạn hai người
cùng ngồi nói chuyện với nhau.
Khi đó Lý Quỳ vớ được món tiền của Tống Giang ra đi, nghỉ khẩm
lẩm trong bụng rằng:
- Tống Giang Ca Ca thực là quý hóa, xưa nay chưa từng chơi
thân với mình, mà bỗng dưng cho mượn ngay mười lạng bạc, thế mới biết trọng
nghĩa khinh tài, tiếng đồn đáng lắm. Chỉ hiềm vì mình mấy hôm nay đánh bạc thua
mãi, không có một đồng nào để làm hảo hán mà mời ông ta đi đánh chén được! Bây
giờ ta có mười lạng bạc này, nếu đánh được bạc, thì sẽ để mấy quan tiền mời ông
ta đi chén vậy.
Chàng nghĩ vậy, liền vội vội vàng vàng đi ra ngoài thành, vào
nhà Tiểu Trương Ất để đánh bạc. Khi vào đến sòng bạc, chàng ta vất mười lạng bạc
xuống đất mà gọi lên rằng:
- Chờ tôi với.
Tiểu Trương Ất can:
- Đại Ca hãy khoan, để tiếng sau sẽ đánh.
Lý Quỳ nói:
- Không, tôi cần đánh tiếng bạc này mới được.
- Đại Ca hãy đứng ngoài, mà nghe nước bạc xem sao?
- Tôi không cần nghe ngóng gì cả, đánh là đánh luôn, này năm
lạng bạc một tiếng này đây.
Nói xong cướp giựt lấy tiền mọi ở tay người khác, rồi hỏi lên
rằng:
- Tôi cóp với ai đây?
Tiểu Trương Ất nói rằng?
- Đại Ca đánh năm lạng, thì cóp với tôi.
Lý Quỳ vỗ tay reo:
- Được lắm... được lắm...
Vừa reo dứt lời, thì nhà cái mở bạc.
Lý Quỳ bị thua, Tiểu Trương Ất liền vớ lấy bạc của Lý Quỳ. Lý
Quỳ vội kêu rằng:
- Chỗ ấy của tôi mười lạng bạc đấy.
Tiểu Trương Ất đáp rằng:
- Nếu vậy còn năm lạng đánh tiếng nữa, được thì tôi trả lại cả.
Lý Quỳ lại kéo lấy tiền mọi, rồi reo lên rằng:
- Được... Vừa reo xong thì lại thua tiếng nữa.
Tiểu Trương Ất cười rằng:
- Tôi đã bảo rằng: Cướp tiền mọi làm gì, hãy nghỉ thì không.
Không nghe tôi, thành ra thua luôn hai tiếng rồi.
Lý Quỳ bảo với Tiểu Trương Ất rằng:
- Tiền ấy của người khác đấy.
Tiểu Trương Ất nói rằng:
- Của ai thì mặc, đã đánh thua rồi, còn nói gì nữa?
- Thôi anh hãy cho tôi mượn, rồi sáng mai trả vậy.
- Nói bông làm gì thế? Trong đám bạc đến cha con cũng mặc kệ,
nữa là... Bác đánh thua rồi, còn...
Lý Quỳ nghe đến đó, xắn áo lên rồi quát hỏi rằng:
- Có trả hay là không?
Tiểu Trương Ất thấy vậy bảo Lý Quỳ rằng:
- Lý Đại Ca mọi khi đánh bạc sòng phẳng lắm, sao hôm nay lại
giở giọng như thế? Lý Quỳ lặng ngắt xông vào vồ lấy đĩnh bạc của mình, rồi lại
cướp thêm mươi lạng bạc nữa của kẻ khác, mà đùm vào vạt áo, trợn mắt bảo chúng
rằng:
- Lão gia mọi khi rất sòng phẳng, nhưng hôm nay hãy tạm không
sòng phẳng một hôm...
Tiểu Trương Ất vừa toan chạy đến cướp lại, thì bị Lý Quỳ đá hất
ra ngoài. Bọn mười ba mười bốn con bạc khác lại túm đến toan để cướp, cũng bị
Lý Quỳ đá bên tả đánh bên hữu, làm cho các cậu phải trốn dạt cả, mà không dám
thò ra nữa. Lý Quỳ đi ra ngoài cửa, người coi cửa hỏi rằng:
Lý Quỳ lặng ngắt không trả lời, giơ cẳng đạp anh kia một cái
rồi tung cửa đi ra. Bọn kia kéo ra theo lẽo đẽo ở đằng sau mà kêu lên rằng:
- Lý Đại Ca vô lý quá, lại cướp cả tiền của chúng tôi như thế?
Lý Quỳ cứ lẳng lặng rảo cẳng đi mau, không một anh nào dám đi
gần đến gót. Đương khi lật đật vội vàng, thì thấy người ở đằng sau Lý Quỳ, nắm
cánh tay mà quát lên rằng:
- Sao ngươi được cướp tiền của người ta?
Lý Quỳ miệng đáp lên rằng:
- Việc gì đến anh mà rối?
Vừa nói vừa quay cổ nom lại, thì thấy Đới Tung cùng Tống
Giang ở đó, Lý Quỳ vội vàng sợ hãi ra mặt mà nói lên rằng:
- Xin Ca Ca tha lỗi cho, mọi khi Thiết Ngưu này vẫn sòng phẳng
lắm, nhưng hôm nay lỡ đánh bạc thua mất tiền của Ca Ca, lại không có tiền mời
Ca Ca đi đánh chén, nên phải liều mà giở ngón không sòng phẳng một hôm nay vậy.
Tống Giang nghe nói cả cười mà rằng:
- Hiền đệ có cần tiền, cứ hỏi tôi mà lấy. Bây giờ đánh thua,
phải trả người ta mới được.
Lý Quỳ bất đắc dĩ lại phải bỏ vạt áo lấy tiền ra hết, đưa cho
Tống Giang. Tống Giang cầm lấy tiền, gọi Tiểu Trương Ất lại để giao trả.
Trương Ất chạy lại nhận tiền mà nói rằng:
- Thưa hai ngài, chúng tôi chỉ xin số tiền của chúng tôi, còn
mười lạng bạc của Lý Ca đánh thua, thì tôi xin tình nguyện trả lại cho đỡ lôi
thôi.
Tống Giang nói:
- Người cứ cầm lấy không hề chi.
Trương Ất nhất định không dám nhận, Tống Giang liền hỏi rằng:
- Các người có ai bị đánh đau không?
- Bẩm có anh làm hồ lỳ, anh ra tiền mọi, và hai anh canh cửa,
bị đánh ngã nằm ở trong kia.
- Nếu vậy thì cầm tiền này chia đều cho họ, còn Lý Ca thì khắc
ta ngăn giữ, hắn không đến nữa đâu...
Trương Ất nhận tiền rồi lạy tạ ra về. Tống Giang quay ra bảo
với Đới Tung rằng:
- Chúng ta đi uống rượu với Lý Ca một lúc đã.
Đới Tung vâng lời mà rằng:
- Ở bên bờ sông phía trước mặt kia, có Tỳ Bà Đình tửu điếm,
là một nơi cổ tích của Bạch Lạc Thiên về đời Đường ngày trước, chúng ta đến đây
uống rượu xem phong cảnh cho vui.
Tống Giang nói:
- Ta nên mua các thức nhắm ở trong thành đem ra đó.
Đới Tung nói:
- Hiện bây giờ có người bọn hàng rượu rồi, cần gì phải mua nữa.
Nói đoạn ba người cùng dắt nhau ra Tỳ Bà Đinh. Khi tới nơi thấy
khu đình ở cạnh bến Tầm Dương, một bên là nhà của chủ nhân, trên Đình Tỳ Bà có
tới mười bàn ăn, rất là rộng rãi. Đới Tung vào chọn một bàn sạch sẽ, nhường Tống
Giang ngồi cánh trên, tự mình mình ngồi giữa, để Lý Quỳ ngồi dưới, rồi gọi tửu
bảo sai dọn rượu lên.
Tên tửu bảo mang lên mở hai chai Ngọc Hồ Xuân Tửu, là một thứ
rượu có tiếng nhất ở đất Giang Châu.
Lý Quỳ bảo với tửu bảo rằng:
- Lấy chén lớn rót lên đây, uống chén con lách tách khó chịu.
Đới Tung thấy vậy bảo Lý Quỳ rằng:
- Anh nhà quê lắm, thôi, lặng im mà uống rượu đi thôi.
Tống Giang lại bảo tửu bảo rằng:
- Hai chúng ta đây để chén con cũng được, còn Đại Ca kia thì
phải lấy chén lớn ra.
Tửu bảo vâng lời, lấy chén lớn ra để lên trước mặt Lý Quỳ, rồi
rót rượu mà đem các thức nhắm lên.
Lý Quỳ cười mà nói rằng:
- Thực là Tống Giang Ca Ca quý hóa quá? Người ta nói không
sai một chút nào... Chưa chi đã biết ngay tính của tiểu đệ... Kết bái được một
vị Ca Ca như thế, thực cũng đáng đời.
Tống Giang nhân có Lý Quỳ trong bụng vui thích, uống luôn mấy
chén rượu, rồi hỏi Đới Tung rằng:
- Ở đây có cá tươi hay không?
Đới Tung đáp:
- Huynh trưởng không trông đầy sông toàn là thuyền đánh cá đó
sao? ở đây chính là một nơi cá gạo sẵn sàng, làm chi không có.
- Giá được một thứ thang cá nấu cay, mà ăn cho giã rượu thì
hay lắm.
Đới Tung liền gọi tửu bảo sai làm ba bát thang cả đem lên; Để
một lát tên tửu bảo bưng ba bát thang lên. Tống Giang nom thấy bát đĩa sang trọng
khác hắn hàng quán mọi nơi, thì trong lòng lấy làm dễ chịu, liền cầm đũa mời Đới
Tung và Lý Quỳ cùng ăn.
Lý Quỳ không dùng đến đũa, thò ngay tay vào bát, vớ lấy khúc
cá giơ lên mồm mà cắn nhai rau ráu, Tống Giang nhịn cười không được, gắp vài ba
miếng cá, và húp vài ba húp thang, rồi đặt xuống mà không ăn nữa.
Đới Tung thấy vậy, liền hỏi Tống Giang rằng:
- Thứ cá này chắc hẳn hơi có mùi, nhân huynh không xơi được hẳn?
- Vâng, tôi uống rượu chỉ ưa thích thứ cá rất tươi, thứ cá
này không được tốt.
- Có lẽ thế, tiều đệ ăn cũng không được.
Lý Quỳ ăn hết bát thang của mình, rồi nói với hai người rằng:
- Hai vị Ca Ca không ăn, để tôi xin ăn hộ.
Nói đoạn giơ tay vớ lấy bát thang của Tống Giang, vớt cá ăn một
lúc rồi lại vớ lấy bát thang của Đới Tung mà vớt cá ăn hết, nước nhỏ tòng tõng
xuống bàn.
Tống Giang thấy Lý Quỳ ăn luôn ba bát cá như vậy, liền gọi tửu
bảo đến mà rằng:
- Đại Ca đây đương đói, ngươi thái hai cân thịt lên để đây, rồi
lát nữa ta trả tiền luôn một thể.
Tửu bảo đáp rằng:
- Hàng tôi chỉ có thịt dê, không có thịt bò, ngài muốn xơi thịt
dê, thì tôi mang lên.
Lý Quỳ nghe nói liền cầm bát thang ném vài mặt tên tửu bảo ướt
be bét cả người.
Đới Tung thấy vậy quát lên rằng:
- Ngươi lại làm gì thế?
Lý Quỳ đáp rằng:
- Thằng nầy vô lễ quá, nó cho là ta chỉ biết ăn thịt bò, mà
không bán thịt dê cho ta.
Tửu bảo nói:
- Chúng tôi chỉ hỏi một câu như vậy, nào có dám nói gì đâu.
Tống Giang bảo tửu bảo rằng:
- Ngươi cứ đi thái thịt đem đây, rồi ta trả tiền.
Tên tửu bảo bấm lòng chịu nhịn, quay ra thái ba cân thịt rồi
đem bầy lên bàn. Lý Quỳ thấy thái thịt lên, không kịp chào mời đến ai. Vội giơ
năm ngón tay bốc ăn luôn một lúc hết cả ba cân thịt.
Tống Giang thấy vậy khen rằng:
- Tốt thực, thực là hảo hán đó.
Lý Quỳ nói rằng:
- Tống Ca Ca biết ý của tiểu đệ chăng? Đệ ăn thịt không thích
bằng ăn cá.
Đới Tung gọi tửu bảo đến mà bảo rằng:
- Vừa rồi mấy bát thang hơi xấu mùi, không ăn được, có thứ
nào tươi tốt, làm bát khác lên đây, để quan nhàn này xơi cho giã rượu?
Tửu bảo cười rằng:
- Không giấu gì Viện Trưởng, cá này thực là để từ tối hôm
qua, còn công cá tươi hôm nay, thì vẫn còn sống ở trong thuyền: Chưa thấy chủ
hàng cá đến bán, cho nên chưa mua được cá tốt.
Lý Quỳ đứng phắt lên nói rằng:
- Để tôi ra tảo vài con về cho Ca Ca đánh chén.
Đới Tung nói:
- Thôi đừng đi nữa, để cho tửu bảo đi mua lại vài con cũng được.
Lý Quỳ nói:
- Những anh đánh cá trên thuyền lẽ nào không cho mình được? Để
tôi xin đi lấy về đây.
Nói xong ngoắt đi thẳng, không ai ngăn cản được. Đới Tung nói
với Tống Giang rằng:
- Xin huynh trưởng tha lỗi cho, tiểu đệ dẫn những con người ấy
đến đây, không còn biết chút gì... Thực là xấu hổ quá.
Tống Giang nói:
- Tính anh ta như thế, bắt đổi làm sao được! Tôi thấy những
người thế, trong bụng lại càng kính trọng lắm.
Nói đoạn hai người cùng ngồi trò chuyện vui cười với nhau.
Bên kia Lý Quỳ chạy ra bờ sông, thấy một dẫy thuyền có tới bảy
tám mươi chiếc, đều buộc túm ở dưới gốc cây liễu, còn các người trên thuyền, kẻ
thì nằm gối đầu bên mạn thuyền để ngủ, kẻ thì ngồi trên mũi thuyền và lưới, kẻ
thì lội tắm bì bõm ở dưới nước với nhau. Bấy giờ đương giữa tháng năm, mặt trời
đã gần xế về tây, mà không thấy chủ nhân về để bán cá.
Lý Quỳ đi đến nơi quát lên rằng:
- Thuyền chúng bây có cá tươi không, bắt cho ta vài con. Tụi
phường chài đáp rằng:
- Chúng tôi đợi mãi, mà chưa thấy chủ nhân về đấy, không dám
mở khoang thuyền ra bây giờ. Ông coi, bao nhiêu phường buôn vẫn ngồi đợi trên bờ
đó.
Lý Quỳ nói:
- Đợi chủ nhân cốc nào, hãy bắt lên đây cho ta hai con.
Đám phường chài lại đáp rằng:
- Chúng tôi chưa đốt vàng chưa dám mở khoang thuyền, bắt thế
nào được cá đưa cho ông?
Lý Quỳ thấy vậy, vội nhảy xuống thuyền, đám chài không ai dám
ngăn giữ lại, chàng không hiểu đầu đuôi ra sao, hăm hở cúi xuống khoang thuyền,
cầm cái phên trúc toan nhắc lên để bắt. Tụi phường chài vội kêu lên. Lý Quỳ
cũng không thôi. Chàng ta nhắc phên lên, rồi thò tay xuống bắt, không thấy hơi
một con cá nào, chàng tức mình rồi nhảy sang thuyền khác rồi cứ làm như thế.
Nguyên bọn chài lưới dưới sông lớn, đều để lỗ trống to ở sau
thuyền cho nước sông ra vào được sống cá, rồi lấy cái phên trúc chắn ngang cho
cá khỏi ra, Lý Quỳ không biết đầu đuôi ra thế nào, cứ phăm phăm rút cái phên
trúc kia lên; làm cho cá ở trong đề thoát ra cả sông, mà không còn một con nào
nữa. Khi đó Lý Quỳ nhảy sang thuyền khác, lại toan rút phên trúc lên, thì bọn
tám chín mươi đứa phường chài, đều đổ xô vào xuống thuyền, vớ lấy sào để đánh
Lý Quỳ.
Lý Quỳ thấy vậy, nóng tiết lên, liền cởi phăng áo ngoài,
trong buộc độc cái khăn tay nòng nọc, rồi giơ hai tay khoa bắt từng năm sáu cái
sào một, mà bẻ gãy răng rắc cả ra. Bọn phường chài thấy thế cả kinh, vội cởi
dây thuyền mà đẩy ra cả một lượt. Lý Quỳ không biết làm thế nào được liền vớ
năm sào gậy, nhảy tót lên bờ, nhè đám lái buôn mà đánh rối tít cả lên.
Đương khi đánh đuổi ầm ầm, thì bỗng có một người ở một con đường
nhỏ đằng kia đi đến. Chúng trông thấy kêu lên rằng:
Người kia lật đật hỏi rằng:
- Anh đen lớn nào mà vô lễ thế?
Chúng trỏ vào Lý Quỳ mà nói rằng:
- Kìa, hắn đương đuổi đánh ầm ầm ở trên bờ kia.
Người kia chạy đến chỗ Lý Quỳ mà quát lên rằng:
- Thằng cha nào gan hùm mật báo hay sao, dám thiện tiện đến
quấy rối nghề nghiệp của lão gia đó.
Lý Quỳ nghe nói, quay cổ lại nhìn, thấy anh chàng mình cao
hơn sáu thước tuổi ngoại ba mươi, ba chòm râu đen quanh miệng, đầu đội khăn sa
xanh, lóng lánh miếng xuyên tâm đỏ, mặc áo trắng, thắt lá đáp, chân đi đôi giày
gai, tay cầm cái cân đưa cho mọi người phường buôn, rồi sấn vào quát hỏi Lý Quỳ
rằng:
- Thằng nầy mầy đánh ai?
Lý Quỳ chẳng nói chẳng rằng, múa luôn sào trúc, rồi quay sang
đánh nghiến anh kia. Anh kia sấn vào cướp lấy sào trúc. Lý Quỳ liền túm lấy tóc
anh kia. Anh kia cúi rạp xuống dưới, toan làm ngã Lý Quỳ song không thể nào làm
núng được cái sức khỏe như trâu ấy, liền giơ quyền mà đánh luôn mấy cái, nhưng
Lý Quỳ cũng không coi vào đâu.
Người kia lại giơ chân lên đá, bị Lý Quỳ dìm đầu xuống, rồi
giơ những quả thủ cứng như sắt mà đánh vào lưng huỳnh huỵch, anh chàng kia
không sao cựa dậy được.
Lý Quỳ đương đánh đấm hăng hái, thì bỗng có người đến ôm giữ
sau lưng, và một người giằng tay ra rồi bảo rằng: - Không làm thế được...
Lý Quỳ ngẩng trông lên, chính là Tống Giang cùng Đới Tung đến
đó, chàng bèn chịu phép buông ra, mà không dám đánh nữa. Người kia được thoát
thân, vội vàng chạy thẳng, không kịp trông lại làm chi.
Bây giờ Đới Tung trách mắng Lý Quỳ rằng:
- Ta đã bảo đừng đi lấy cá, quả nhiên lại đánh nhau ở đây rồi.
Ngộ nhỡ ra đánh chết người ta, thì có phải ở tù đền mạng không?
Lý Quỳ đáp rằng:
- Bác sợ tôi làm liên lụy đến bác chăng? Dẫu tôi có đánh chết
một đứa, thì tôi nhận tội cả chứ sao?
Tống Giang gạt đi mà rằng:
- Thôi anh em đừng cãi nhau nữa, lấy áo vải, rồi đi uống rượu
với nhau thôi.
Lý Qùy chạy ra gốc liễu, nhặt lấy cái áo vải, rồi thắt lưng
vào quay ra theo Tống Giang, Đới Tung.
Vừa đi được vài bước, chợt nghe sau lưng có tiếng gọi:
- Thằng cha đen chũi kia, phen này ta quyết được thua với
mày?
Lý Quỳ nghe nói quay lại xem, thấy người kia cởi trần trùng
trục thắt một cái khố nhà chài, mình trắng phau phau như tuyết, đầu không đội
khăn, bỏ lộ miếng yểm đỏ ra ngoài, mà quát lên rằng:
- Đồ béo đen chết vằm chết mổ kia, lão gia có sợ mày, thì
không phải là hảo hán, mà thằng nào chạy, cũng không phải là tay hảo hán.
Lý Quỳ nghe vậy cả giận, thét lên một tiếng rất to, quăng
ngay áo xuống đất, rồi chạy thốc trở lại bờ phía sông. Anh chàng kia chở thuyền
gần tới bờ, tay cầm sào giữ lấy thuyền, rồi miệng thì quát mắng ầm ĩ cả lên, Lý
Qùy cũng quát lên rằng:
- Có phải hảo hán, thì lên bờ đây.
Anh chàng đứng dưới thuyền kia, vác sào trúc nhè vào chân Lý
Quỳ mà đánh. Lý Quỳ nóng tiết, liền nhảy thốc sang thuyền cự lại. Anh chàng kia
thấy Lý Quỳnhảy xuống thuyền, liền chống gậy lên bờ đẩy mạnh một cái, thuyền
trôi vèo ra ngoài giữa sông.
Lý Quy tuy có biết lội, song không lấy gì làm thạo cho lắm,
liền luống cuống chân tay, không biết làm sao cho được. Bấy giờ anh chàng kia
không chưởi mắng chi nữa, liền quay lại bảo Lý Quỳ rằng:
- Ta không cần đánh làm chi, hãy cho uống nước một dạo đã,
phen này quyết được thua với mày xem sao?
Đoạn rồi xông vào nắm lấy thắt lưng Lý Quy ømà mắng rằng:
- Ta không cần đánh làm chi, hãy cho uống một dạo nước đã.
Nói xong núng nính hai chân đánh trành thuyền cho lộn nhào
đi, rồi hai người cùng lăn cả xuống nước.
Tống Giang cùng Đới Tung vội vàng chạy theo bờ sông thì đã thấy
chiếc thuyền đánh ụp ở giữa giòng sông, hai người đứng trên bờ kêu khổ, mà không
biết làm sao cứu được.
Bấy giờ có tới ba bốn trăm người kéo đến, đều đứng vây dưới gốc
cây liễu ở bờ sông để xem. Anh chàng kia vật lộn Lý Quỳ ở dưới nước, lúc thì
xách Lý Quỳ lên mặt nước, lúc lại dìu nghỉm Lý Quỳ xuống dòng sông một anh trắng
phau như tuyết, một anh đen thui thủi như than, cùng nhau chìm nổi xuống lên,
sôi hẳn khúc sông lên ở đó.
Bọn trên bờ thấy vậy, liền vỗ tay reo hò mà bảo nhau rằng:
- Anh chàng đen đen chui chũi, hôm nay có sống sót được, thì
cũng đầy bụng nước, chứ chẳng chơi.
Tống Giang cùng Đới Tung thấy thế lực Lý Quỳ đã núng, đã bị
anh kia xách lên dìm xuống tái nhợt cả mặt, thì đều lấy làm ái ngại, liền toan
nhờ người để cứu hộ.
Đới Tung hỏi đám người đứng đó rằng:
- Người đàn ông trắng trẻo đó là ai?
Trong đám ấy có người đáp rằng:
- Vị hảo hán ấy là Trương Thuận, làm chủ phường cá ở sông
này.
Tống Giang nghe nói chợt nhớ ra mà hỏi lại rằng:
- Có phải anh ta biệt hiệu là Lãng Lý Bạch Điều đó không?
Chúng đáp rằng:
- Chính phải đấy.
Tống Giang liền bảo với Đới Tung rằng:
- Nếu quả thị là hắn ta, thì tôi có bức thư của anh hắn ta,
là Trương Hoành gửi đến đây.
Đới Tung nghe nói, vội đứng trên bờ kêu lên rằng:
- Trương Nhị Ca hãy khoan tay, có gia thư của bác Trương
Hoành gửi đến đây. Người đen lớn ấy là anh em tôi đó, tha cho hắn ta, rồi lên bờ
tôi sẽ nói chuyện.
Đương khi ấy Trương Thuận nghe tiếng Đới Tung gọi, thì trong
bụng nhận hiểu liền, buông tha Lý Quỳ ra, rồi lội thẳng lên bờ chào Đới Tung mà
rằng:
- Xin Viện Trưởng tha lỗi cho tiện nhân đây.
Đới Tung nói:
- Túc hạ hãy nể tôi, cứu cho người kia lên bờ, rồi sẽ dẫn cho
gặp người khác nữa.
Trương Thuận vâng lời, rồi nhảy tòm xuống sông lội ra để cứu.
Bấy giờ Lý Quỳ ngoi ngóc cổ cố nhoài để lên. Trương Thuận liền rẽ nước lội ra nắm
lấy một tay Lý Quỳ kéo thẳng vào bờ, chẳng khác gì đi trên mặt đất vậy. Các người
đứng bên sông thấy vậy, đều khen réo ầm ĩ cả lên, Lý Quỳ cũng chỉ ngây người đứng
nhìn, mà không nói được câu gì cả.
Trương Thuận xách Lý Quỳ lên bờ, Lý Quỳ chỉ dúm người lại miệng
thở hồng hộc mà nôn nước ra ầm ầm.
Đới Tung bảo rằng:
- Bây giờ hãy đến tất cả Tỳ Bà Đinh rồi sẽ nói chuyện.
Trương Thuận, Lý Quỳ nghe nói, liền tìm áo mặc vào, rồi cùng
Tống Giang, Đới Tung đi lên Tỳ Bà Đinh.
Khi tới nơi, Đới Tung bảo Trương Thuận rằng:
- Nhị Ca có biết tôi chăng?
Trương Thuận đáp:
- Tiện nhân có được biết Viện Trưởng, song không được bái kiến
bao giờ.
Đới Tung lại trỏ Lý Quỳ mà hỏi Trương Thuận rằng:
- Mọi ngày túc hạ có biết người này không? Hôm nay sao lại
xung đột như thế vậy?
Trương Thuận đáp:
- Chúng tôi lạ gì mà không biết Lý Đại Ca, có điều chưa đối
thủ với nhau lần nào cả.
Lý Quỳ nói:
- Hôm nay anh dìm tôi giỏi thực...
Trương Thuận nói:
- Thế thì bác đánh tôi chẳng kém gì.
Đới Tung cười rằng:
- Vậy từ nay hai người phải kết làm anh em mới được. Người ta
thường nói: Không đánh hau, sao bỗng biết nhau, là thế đó.
Lý Quỳ bảo Trương Thuận rằng:
- Anh đừng gặp tôi ở trên bộ thôi.
Trương Thuận nói:
- Tôi chỉ đợi bác ở dưới nước là được rồi.
Đới Tung trỏ vào Tống Giang mà bảo Trương Thuận rằng:
- Tôi không biết là ai, mà không thấy ở đây bao giờ.
Lý Quỳ vội nhảy lên mà rằng:
- Ca Ca đây là Hắc Tống Giang đó.
Trương Thuận nói:
- Có phải Sơn Đông Cập Thời Vũ, Vận Thành Tống Áp Ty không?
Đới Tung nói:
- Chính phải là Công Minh Ca Ca đó.
Trương Thuận nghe vậy, liền cúi đầu xuống lạy mà nói rằng:
- Chúng tôi được nghe danh đã lâu... Bọn giang hồ ai cũng
xưng tụng đức tính của nhân huynh, ngài là một người sơ tài trọng nghĩa xưa
nay.
Tống Giang khiêm tốn đáp rằng:
- Túc hạ hay quá lời, tôi đây có đức tính gì mà đáng nói? Bữa
trước tôi qua núi Yết Dương, ở nhà Hỗn Long Giang Lý Tuấn mấy ngày, sau qua bến
Tầm Dương, tương hội với anh em Mục Hoằng lại được gặp lệnh huynh là Trương
Hoành ở đó. Lệnh huynh có viết bức gia thư gửi sang túc hạ, song tôi còn để ở
trong dinh, không mang đến đây, hôm nay nhân cùng Đới Viện Trưởng cùng Lý Đại
Ca ra đây uống rượu ngắm cảnh bên sông, tôi uống mấy chén rượu, chợt nghĩ ăn cá
tươi, Lý Ca hăm hở đi lấy, không ai ngăn cản được. Dè đâu Lý Ca lại sinh sự lôi
thôi, khiến cho tôi lại gặp được túc hạ ở đây, thực là một sự không ngờ, như vậy.
Hôm nay trời cho tôi được gặp ba vị hào kiệt, không biết rằng hạnh phúc đến
đâu, vậy xin cùng nhau uống mấy chén rượu cho vui một thể.
Nói xong lại gọi tửu bảo dọn thứ khác lên.
Trương Thuận nói rằng:
- Ca Ca thích xơi cá tươi, để tôi xin đi lấy vài con về đây.
Lý Quỳ nói:
- Để tôi cùng đi với bác.
Đới Tung quát lên rằng:
- Ngươi lại thế rồi, uống nước chưa thích hay sao?
Trương Thuận dắt tay Lý Quỳ, rồi cười mà bảo rằng:
- Tôi với bác cùng ra lấy cá phen này, xem họ nói ra sao? Nói
đoạn, hai người cùng ra bến sông, Trương Thuận huýt một tiếng còi thì bao nhiêu
thuyền chài ở trên sông, đều chở vào bờ cả. Trương Thuận hỏi rằng:
- Thuyền nào có cá chép tốt không đấy?
Lũ thuyền chài nhao nhao lên trả lời rằng có, rồi cùng nhau bắt
đến mươi con đem lên cho Trương Thuận.
Trương Thuận chọn lấy bốn con sâu vào cành liễu, đưa cho Lý
Quỳ đem về trước, rồi tự mình kiểm điểm bạn buôn, và cho hàng chài cân cá lên
bán, rồi đi vào sau.
Khi vào tới Tỳ Bà Đinh, Tống Giang tạ ơn, mà rằng:
- Túc hạ cho nhiều quá: Chỉ dùng một con cũng đủ.
- Có làm gì những cái vặt; Huynh trưởng xơi không hết, thì
đem về làm cơm xơi cũng được chứ sao?
Nói đoạn hai người chia thứ tự cùng ngồi, Lý Quỳ nhận hơn tuổi
ngồi thứ ba, để Trương Thuận ngồi thứ tư, đoạn gọi tửu bảo mở hai chai Ngọc Hồ
Xuân Tửu nữa, và đem các thứ hoa quả sơn hào hải vị lên. Trương Thuận sai tửu bảo
đem một con cá chép để nấu thang, và lấy con cá để hấp với rượu, rồi bốn người
ngồi uống rượu để cùng nói chuyện với nhau.
Đương khi chuyện trò vui vẻ, thì có một người con gái, vào
vòng đôi tám thanh xuân, mình mặc áo sa mỏng, đi vào trước bàn ăn, chào bốn người
cất tiếng lên hát.
Bấy giờ Lý Quỳ đương thích khoe khoang những ngón hào kiệt của
mình, bỗng bị con hát cất tiếng hát lên, lam cho ba người kia bỏ câu chuyện mà
lắng tai nghe vào đó, thì lấy làm tức bực vô cùng liền đứng phắt dậy giơ hai
ngón tay mà tát vào mặt người con gái. Người con gái kêu lên một tiếng, rồi ngã
lăn xuống đất.
Mọi người vội vàng chạy túm đến, thì thấy người con gái đã
xám hẳn mặt lại, mà nằm lặng ra đó, như người sắp chết, chủ nhân thấy vật, liền
ngăn giữ bốn người lại, rồi định đi trình quan.
Mới hay:
Ai không nhiệt huyết ở đời,
Xưa nay đã dễ mấy người có tâm?
Muốn tìm cho gặp tri âm,
Dẫu rằng thủy tích sơn thâm cũng liều.
Cạnh tranh đời đã xoay chiều,
Phải đem tâm huyết mà liều mới ngoan.
Nặng nề thay gánh giang san,
Ở đời nhu nhược phổng toàn được chăng?
Lời bàn của Thánh Thán:
Tả Tống Giang lấy đồng tiền ra để giao du, bỗng đâu tiếp tả
ra một Thiết Ngưu Đại Ca, khéo thay dùng bút! Đã khiến cho Tống Giang thẹn với
trước ngọc vàng châu báu, tệ hơn là mắng, đau hơn là đánh, nguy hơn là chết vậy.
Thấy kẻ kia cần tiền đánh bạc, thì cho tiền đến sòng; thấy kẻ kia ăn cá, cũng
thích nói ra, khiến cố đi tìm... Nếu hết thảy vật trong thiên hạ, thả cho thiên
hạ chung nhau và dùng, thì sao khỏi những kẻ biển lận ở đời, vì sao lại không
tin nổi đời có những tay khẳng khái không thèm!!! Nào phải không cho tiền mà chịu
oán, hãy cho tiền thì mới mang ơn, như thế thì quyền thuật của Tống Giang, gặp
con người ấy chẳng còn giá trị?
Tống Giang chỉ tung tiền, kẻ kia cũng cho là chỉ mua chuộc
phường võ phu ăn tục làm liều, lưới chài sòng bạc... Chả hơn gì họ; Nếu họ gặp
thời, chẳng vì tiền nong cá thịt, những kẻ kia cũng chẳng qua là bọn khiến người
ta cảm vậy, Tống Giang không tung tiền ra, cũng sợ người ta oán vậy. Nay kẻ kia
cũng không ơn với oán gì, không gặp Tống Giang như vậy, thì có hàng rượu hay
không hàng rượu cũng thế, có sòng bạc hay không sòng bạc cũng vậy, con người của
trong ngoài thành Giang Châu cũng vậy mà thôi, há phải đợi Tống Giang mua chuộc
hảo hán, thì Lý Quỳ mới được tiền sử dụng, thế thì trước khi Tống Giang chưa đến
Giang Châu, kẻ kia chẳng được uống rượu, chẳng được ăn thịt vậy ư? Sòng bạc của
Trương Tiểu Ất cũng không mở nổi ra ư? Suốt thiên này tả ra con người Lý Quỳ
như thế để nảy rõ ra một Tống Giang, thực là tuyệt thế diệu bút.
Từng chỗ tả Đới Tung khác hẳn Tống Giang, làm cho Tống Giang
càng khẳng khái, và càng giả dối, đều do ngọn bút Thợ Lòng.
Tả Lý Quỳ thô mãng, không khó bằng tả từng chỗ nói liều của
con người thô mãng, vì những kẻ nói liều của thiên hạ, hay giả cách thô mãng,
như con người Tống Giang đối với sự đó, chẳng thẹn mình đến chết vậy thay!
Hồi 38:
Gác Tầm Dương đề thơ tâm huyết;
Chốn Lương Sơn nghe nỗi kinh hoàng
Bấy giờ Tống Giang cùng Đới Tung thấy chủ hàng toan đi trình
quan thì lấy lời xếp dẹp im đi, rồi nhất diện dùng các phép để cứu người con
gái tỉnh dậy.
Sau bố mẹ người con gái đến đó, nghe nói đến tên Hắc Toàn
Phong thì lặng người kinh sợ, mà không dám phàn nàn nói một câu gì.
Tống Giang hỏi mụ già rằng:
- Nhà mụ tên họ chi? Người ở đâu?
Mụ già đáp rằng:
- Chúng tôi là người họ Tống, quê ở Kinh Sư, hai vợ chồng
già; chỉ có một người con gái này, phải cho đi hát xướng kiếm ăn. Nhân vì tính
nó cấp bách, không hiểu các ngài đương nói chuyện, nên mới đường đột vô lễ, để
đến Ca Ca đánh đập như vậy, thực đau đớn cho mẹ con tôi quá nỗi!
Tống Giang nghe nói liền bảo rằng:
- Ngươi cho người theo đến nhà ta, ta sẽ cho hai mươi lạng bạc
để làm vốn kiếm ăn, rồi kiếm người tử tế, gả bán cho nó nương tựa, khỏi phải đi
hát xướng khó nhọc như thế nữa.
Hai vợ chồng mụ già cảm tạ mà nói rằng:
- Chúng tôi đâu dám xin ngài nhiều thế.
Tống Giang nói:
- Được, ta đã hứa, là ta cho đủ, không ngại điều chi. Bảo con
ngươi cứ theo ta mà lấy.
Hai người vâng lời cảm tạ vô cùng, Đới Tung trách giận Lý Quỳ
mà rằng:
- Hắn đi đến đâu, chỉ chực sinh sự đánh nhau, để Ca Ca phí tổn
biết bao nhiêu tiền bạc... !
Lý Quỳ nói rằng:
- Tôi chỉ sẽ để tay vào một tí, mà nó đã ngã ngay, xưa nay
chưa thấy đứa nào yếu đuối thế bao giờ? Bây giờ cho bác đánh tôi trăm cái tát
vào mặt tôi, xem tôi có cần gì không?
Tống Giang cùng mọi người nghe nói, đều cười ồ cả lên, Trương
Thuận gọi tửu bảo lên bắt tính tiền hàng để nhận trả.
Tống Giang nhất định không nghe mà rằng:
- Tôi mời bác đến đây uống rượu, có lẽ nào lại để bác trả tiền
cho tiện.
Trương Thuận cũng nhất quyết trả tiền, mà rằng:
- Mấy khi tôi gặp được Ca Ca...khi ngài còn ở Sơn Đông, hai
anh em tôi đã bao phen toan may trời xui nhân huynh đến đây, cho chúng tôi được
gặp, xin nhân huynh cứ cho thế mới được.
Đới Tung cũng khuyên Tống Giang rằng:
- Trương Nhị Ca đã có lòng kính đãi như thế, xin nhân huynh
cũng nể lòng mà nhận lời cho là hơn.
Tống Giang vâng lời mà đáp rằng:
- Nếu vậy thì lần sau tôi xin đáp lễ lại.
Trương Thuận cả mừng, liền xâu hai con cá, rồi cùng Đới Tung,
Lý Quỳ, và lão già họ Tống kia, mà cùng đưa chân Tống Giang về dinh. Khi về đến
phòng giấy trong dinh, Tống Giang lấy ra hai mươi lạng bạc, đưa cho lão già họ
Tống về trước, rồi cùng ngồi nói chuyện với nhau.
Một lát trời gần tối, Tống Giang liền lấy bức thư của Trương
Hoành, đưa cho Trương Thuận, rồi Trương Thuận để hai con cá lại cho Tống Giang,
và từ biệt ra về. Tống Giang lại lấy một đĩnh năm mươi lạng bạc đưa cho Lý Quỳ
mà bảo rằng:
- Anh em hãy cầm lấy để mà tiêu dùng.
Lý Quỳ nhận lấy, rồi cùng Đới Tung từ biệt Tống Giang mà trở
về trong thành. Bấy giờ Tống Giang đem một con cá đưa biếu Quản Doanh, còn một
con để nấu canh ăn. Tống Giang ăn cá tươi ngon miệng, ham ăn cá nhiều đến nỗi
canh tư đêm ấy sinh ra chứng đau bụng đi rửa. Từ đấy đến sáng, chàng đi tả có tới
hai mươi lần, mê mệt nằm ở trong phòng không sao dậy được. Các người trong
doanh vẫn yêu thích Tống Giang là người tử tế xưa nay, liền đem cơm cháo mà chữa
chạy đỡ vực Tống Giang.
Ngày hôm sau, Trương Thuận thấy lính Tống Giang thích ăn cá
tươi, lại xách vào hai con nữa để biếu, và tạ ơn bức thư Trương Hoành một thể.
Khi vào tới nơi, thấy Tống Giang đương bị bệnh nằm ở bên giường, các tù đồ hầu
hạ trông nom ở trong phòng, liền nói với Tống Giang để mời thầy về chữa.
Tống Giang bảo Trương Thuận rằng:
- Tôi chỉ vì ăn nhiều cá, sinh ra thương thực mà đau bụng, vậy
bất tất phải uống thuốc, chỉ uống một thang hòa hợp, cũng có thể khỏi được
ngay.
Nói đoạn, bảo Trương Thuận đem hai con cá, một con đưa cho
Vương Quản Doanh, một con đưa cho Triệu Sai Bát, Trương Thuận vâng lời đem biếu
hai người: Rồi quay ra cân một thang thuốc hào hợp đem đến, bảo tù đồ sắc thuốc
cho Tống Giang rồi mới trở về.
Ngày hôm sau, Đới Tung mua sắm rượu chè, dắt Lý Quỳ đem đến
phòng giấy, định để thiết đãi cảm vừa khỏi, nên không dám thiết, bèn cùng nhau
ngồi ở ngoài phòng để ăn uống, đến chiều ai nấy về nhà.
Tống Giang tĩnh dưỡng được dăm bảy ngày, thấy trong mình đã
hơi khoe khỏe, thì có ý mong Đới Tung đến chơi, mà không thấy đến, Ngày hôm sau
Tống Giang lại đi vào thành để tìm Đới Tung. Khi tới trong thành hỏi thăm nhà Đới
Viện Trưởng, thì phố sá đều nói rằng:
- Ông ta không có vợ con nhà cửa, chỉ trú tạm ở am Quan Âm
bên cạnh vách miếu Thành Hoành gần đó.
Tống Giang vội vàng tìm tới nơi, thì đã thấy khóa cửa đi vắng.
Chàng liền quay ra tìm hỏi nhà Hắc Toàn Phong, thì thấy nói rằng anh ta không
có nhà cửa, cũng không trọ ở đâu, vẫn cứ quanh quẩn ở trong nhà lao, khi rồi
thì lại ở chỗ này vài hôm, ở chỗ khác vài hôm, không biết đâu mà tìm được.
Tống Giang nghe nói, thì lại hỏi thăm nhà Trương Thuận, thì
có người nói, hắn vẫn ở làng xóm ngoài thành, chỉ trừ khi có thu nhặt tiền nong
mới vào thành mà thôi. Tống Giang lại vội vàng quay ra nẻo bờ sông để tìm
Trương Thuận.
Chàng đương một mình vơ vẩn, xem ngắm cảnh vật bên sông, chợt
thấy một tòa tửu lâu ở trước mặt, bên cửa treo một lá cờ viết mấy chữ "Hiệu
Chính sông Tầm Dương" giữa lúc hiên chạm treo một biển để ba chữ "Lầu
Tầm Dương" chữ của ông Tô Đông Pha viết rất lớn.
Nghĩ đoạn liền bước tới nơi, thấy hai bên cửa đỏ bên lầu đều
có biển trắng, mỗi bên viết năm chữ: "Lầu lớn trong thiên hạ: Rượu ngon nhất
thế gian!"
Tống Giang lên trên gác, chọn một chỗ ngồi, gần phía ngoài
sông, rồi tựa hàng lan can, nom ra phong cảnh khen ngợi vô cùng. Một lát tên tửu
bảo chạy lên bảo rằng:
- Quan nhân định đợi ai, hay tiêu khiển một mình?
Tống Giang nói:
- Ta còn đương đợi hai ông khách nữa, mà chưa thấy đến. Ngươi
hãy lấy một be rượu và một ít thức nhắm lên đây, đừng lấy cá mới được.
Tửu bảo vâng lời đi xuống gác; một lát mang lên một be rượu
Lam Kiều Phong Nguyệt, và lấy các thức rau quả, thịt gà dê bày lên bàn. Tống
Giang nom thấy bàn đỏ đũa đỏ thức ăn sạch sẽ ngon lành, thì trong bụng vui mừng
mà rằng: "Thế này mới thực là phong cảnh Giang Châu! Ta tuy bị tội đến
đây, song ngắm những sơn thủy thế này, dẫu đến danh sơn cổ tích xứ mình, cũng
không sao mà ví được? "
Chàng nghĩ vậy liền rót rượu vui uống một mình, mà bất giác
say sưa quá độ. Bấy giờ trong bụng nghĩ rằng: Ta sinh ở đất Sơn Đông lớn lên ở
đất Vận Thành, làm Lại xuất thân, kết thúc kể biết bao giang hồ hảo hán. Trong
bấy nhiêu lâu tuy chưa lưu được một cười hư danh, song hiện nay công nghiệp
cũng chẳng ăn thua, lại còn bị tội đày ải đến đây, khiến cho ta bao giờ về được
cố hương mà trông thấy phụ huynh tôn tộc!
Nghĩ đến đó thì lấn lòng cố quân tha hương, xúc cảnh hứng
hoài, bất giác trông ngắm giang hồ mà tầm tã đôi hàng lụy nhỏ. Chàng liền nghĩ
một bài tức cảnh "Tây giang nguyệt" rồi gọi tửu bảo mượn bút nghiên để
viết.
Chợt đâu đứng lên nom hai bên vách phấn, thấy có nhiều văn
thơ của người xưa đề vịnh, chàng liền nghĩ thầm trong bụng rằng: "Tiện đây
bất nhược ta viết ngay lên vách phấn, để làm di tích ở đất Giang Châu, sau này
dù có hiển vinh qua đến đất này, trông thấy mấy câu ở trên vách phấn kia, cũng
đủ nhắc lại cho ta biết cái cảnh huống ấy bây giờ, thế này thực là cùng cực."
Chàng nghĩ đoạn, liền nhân lúc tửu hứng, mài mực đặc, lấy bút
đẵm, rồi viết lên vách phấn mấy câu:
Thủa nhỏ theo đòi kinh sử,
Lớn lên thông thạo quyền mưu,
Khác nào hổ mạnh nấp hang sâu,
Kín nanh dấu vuốt ai biết đâu?
Chẳng may thời vận cơ cầu.
Bỗng dưng chạm mặt đầy Giang Châu,
Một mai may báo được oan cừu,
Máu nhuộm Tầm Dương sẽ biết nhau.
Tống Giang viết xong, xem ngắm một mình lấy làm vui mừng thích
chí, lại ngồi uống luôn mấy chén rượu nữa, rồi múa chân múa tay cười nói một
mình, xuống dưới bài Tây giang tử.
Tâm ở Giang Đông thân ở Ngô,
Mấy phen than thở mấy giang hồ,
Ngày sau như thỏa lòng non nước,
Mới biết Hoàng Sào cũng trượng phu.
Viết cạn lại thêm mấy chữ "Vận Thành Tống Giang đề"
ở dưới, rồi vất bút xuống bàn, một mình ngồi ngâm đọc hồi lâu. Lại uống thêm mấy
chén rượu đầy, nghe chừng rượu đã quá say liền gọi tửu bảo lên tính trả tiền
hàng, còn thừa lại thưởng thêm cho tửu bảo, rồi đứng dậy giũ áo mà đi xuống lầu.
Bấy giờ chang tử vội vội vàng vàng đi về phong giấy, mở cửa vào phòng nằm vật
xuống ngủ thẳng một giấc đến canh năm mới tỉnh dậy, không còn nhớ chi đến sự đề
thơ ở gác Tầm Dương.
Năm canh say tỉnh mơ màng,
Sơn Đông chí ấy, Tầm Dương thân rày.
Giang hồ trải mấy đắng cay,
Biết rằng non nước vơi đầy ra sao?
Đối ngạn với đất Giang Châu có một thành nhỏ, là thành Vô Vị
Quân, có ông Thông Phán tại gia là Hoàng Văn Bính ở đó. Hoàng Văn Bính tuy có học
hành kinh sử, song tính người siểm nịnh, tâm địa hẹp hòi, xưa nay thường hay
ghen ghét tài năng; hại kẻ hơn mình, mà xoay kẻ kém mình, chỉ quanh năm quấy
nhiễu chốn hương thôn, không ai là không khinh ghét. Nhân chàng ta biết Xài Cứu
Phủ là con quan Xái Thái Sư đương triều nên thường thường đi lại mà tán hót phỉnh
phờ, để kiếm đường kiếm lối ra làm quan.
Một hôm, Hoàng Văn Bình đương ngồi buồn bã ở nhà, không có
cách gì tiêu khiển, chàng liền dẫn hai đứa đầy tớ theo hầu đi mua một lễ vật để
qua sông vào hầu Tri Phủ. Bất đồ hôm đó, trong phủ có mở tiệc công yến, chàng
ta sợ tai tiếng, không dám đem vào, liền thầy trò cùng quay ra thuyền để trở về.
Khi đến trước lầu Tầm Dương, Hoàng Văn Bính thấy khí trời hơi
có phần nóng bức, bèn lững thững quay vào trong lầu chơi ngắm, mà chưa quyết ra
về. Chàng ta lên gác dạo mát hồi lâu, chợt nom lên vạch phấn ở gần phía lan
can, thấy có nhiều thơ đề vịnh, xem ra cũng có bài nghe được, cũng có bài lôi
thôi lốn thốn, đọc chẳng thành câu. Chàng vừa cười nhạt vừa xem đọc một mình,
chợt xem đến bài "Tây giang từ" và bốn câu thơ của Tống Giang, thì bỗng
cả kinh mà nói một mình rằng:
- Quái lạ! Có lẽ là thơ phản trắc? Ai viết ở đây như thế?
Chàng nói xong liền xem xuống dưới có năm chữ " Vận
Thành Tống Giang đề" thì lại ngâm một lượt mà rằng: " Thủa nhỏ theo
dõi kinh sư. Lớn lên thông thạo quyền mưu " Đọc đến đó, chàng bèn cười nhạt
mà rằng:
- Anh nầy cũng tự phụ lắm đây...
Lại đọc tiếp rằng: "Khác nào hổ mạnh nấp rừng sâu. Kín
nanh, dấu vuốt ai biết đâu?". Đọc đến đó, thì ngảnh cổ lên mà rằng:
- Anh nầy ra dáng không theo bổn phận của mình...
Lại đọc tiếp luôn: "Chẳng may thời vận cơ cầu. Bỗng dưng
chạm mặt đầy Giang Châu".
Chàng lại cười mà rằng:
- Tưởng cao thượng quái gì? Té ra thằng tù xung quân ở đây.
Lại đọc: (Một mai may báo được oan cừu. Máu nhuộm Tầm Dương sẽ
biết nhau...)
Chàng lắc đầu nói rằng:
- Thằng này định bào thù ai mà lại chực sinh sự ở đây? Ôi
cha! Một thằng tù xung quân, thì phỏng làm gì được?
Nói đoạn lại đọc bốn câu thơ: (Tâm ở Sơn Đông, thân ở Ngô. Mấy
phen than thở với giang hồ.)
- Phải, hai câu này có thể tha thứ được.
Lại đọc luôn rằng: "Ngày sau như thỏa lòng non nước. Mới
biết Hoàng Sào cũng trượng phu."
Đọc đến đó thì lắc đầu lè lưỡi mà rằng:
- Thằng cha nầy xấc thực, nó định làm hơn họ Hoàng Sào, chắc
là định mưu phản nghịch chứ không sai.
Nói xong lại đọc đến năm chữ "Vận Thành Tống Giang đề"
thì lại nghĩ thầm trong bụng: Tên anh nầy nghe cũng quen quen...chừng như có chỉ
là một anh tiêu lại thì phải... ?
Nghĩ đoạn lại gọi tên tửu bảo lên mà hỏi rằng:
- Hai bài thơ này ai đề vào đây ngươi có biết đích xác không?
Tửu bảo đáp rằng:
- Hôm qua có người khách vào uống rượu một mình rồi viết lên
đó.
- Người như thế nào?
- Người ấy béo đen thâm thấp, trên mặt có thích kim ấn, có lẽ
ở trong lao thành đi ra thì phải.
Hoàng Văn Bính nghe nói, gật đầu đắc ý, nhờ tửu bảo cho mượn
bút nghiên, chép mấy câu thơ bỏ vào túi áo, rồi dặn tửu bảo phải giữ gìn cẩn thận
mà không được xóa đi. Đoạn rồi xuống lầu trở về thuyền nghỉ.
Sáng hôm sau, thầy trò lại dậy sớm, khệ nệ mang lễ vật vào biếu
Tri Phủ. Bấy giờ Tri Phủ đương ngồi ở nhà trong, nghe nói là có Hoàng Văn Bính
đến, liền cho lính mời vào tiếp chuyện. Hoàng Văn Bính đưa tặng lễ vật, rồi hai
người cùng ngồi nói chuyện rất là mật thiết.
Hoàng Văn Bính nói với Tri Phủ rằng:
- Hôm qua chúng tôi đã định vào chầu Tướng Công, song nghe
nói trong phủ đương có yến tịch, nên lại phải hoãn đến ngày hôm nay mới dám vào
hầu...
Xài Tri Phủ nói:
- Thông Phán với tôi là chỗ tâm phúc với nhau, ngài cứ vào
chơi có gì mà ngại. Từ nay xin ngài chớ nệ làm chi, phải lấy tình thân mới được.
Hoàng Văn Bính vâng lời rồi lại hỏi rằng:
- Dám thưa Tướng Công, lâu nay trên Thái Sư Ân Tướng có sai
người qua đây chăng?
- Hôm trước mới có thư đến đây.
Tri Phủ nói xong, thì tả hữu pha trà lên, hai người cùng uống,
Hoàng Văn Bính lại hỏi luôn rằng:
- Chẳng hay lâu nay trong kinh sư có tin tức gì lạ không? Tri
Phủ nói rằng:
- Tôi vừa mới nhận được thư của tôn gia nói rằng:
Mới đây Tôn Thái Tử Viện Tư Thiên Giám có tâu rằng: Nhân thế
Gia Tôn tôi có dặn phái giữ gìn trong hạt, cho khỏi sự mang tiếng mang tai...
Hoàng Văn Bính nghe đến đó, thì nghĩ thầm một lúc, rồi cười
mà nói với Tri Phủ rằng:
- Dám thưa Âm Tướng, nếu vậy thì việc này cũng không phải ngẫu
nhiên mà thôi...
Nói đoạn liền móc túi lấy mảnh thơ biên lúc nãy, đưa trình
Tri Phủ mà rằng:
- Không ngờ việc đó lại chính ở đây rồi...
Xài Cửu xem thơ xong liền nói rằng:
- Cái này là thơ mưu phản đây mà...Thông Phán bắt được ở đâu
thế?
Hoàng Văn Bính liền đem chuyện đến chơi lầu Tầm Dương, bắt được
hai thơ trên vách, nói cho Tri Phủ nghe. Xài Cửu Tri lại hỏi rằng:
- Vậy thì người nào viết bài nầy?
- Bẩm Tướng Công, họ đã viết rõ ràng là Vận Thành Tống Giang
đề ở đó.
- Vậy Tống Giang là người nào?
- Bẩm trong thơ nói là: "Bỗng dưng chạm mặt đầy Giang
Châu"? Thì có lẽ hiện là tù tội trong đám lao thành thì phải?
Tri phủ gạt đi mà rằng:
- Một thằng tù thì làm được gì mà sợ!
Hoàng Văn Bính so vai rụt cổ kêu rằng:
- Chết nỗi! Tướng Công đừng coi là thường mới được! Vừa rồi
Tướng Công nghe đọc bốn câu ca dao, của trẻ con, chính là ứng vào hắn đó.
- Thế nào mà bảo rằng ứng vào hắn được?
- Bẩm Âm Tướng: Hao nước vì Gia Mộc, là nói tốn tiền của nước
nhà vì chữ Gia bên trên chữ Mộc, tức là chữ Tống đó. Câu thứ hai Binh đao bởi
Thủy Công, là nói người này gây việc binh đao, tức là người chữ Thủy bên chữ
Công, chính là chữ Giang vậy. Nay người này họ Tống tên Giang, mà lại làm thơ
mưu phản như thế, thì quả nhiên lạc vào thiên số chứ chẳng sai...
Tri Phủ nghe nói đến đó, thì lại hỏi luôn rằng:
- Vậy còn hai cầu Ngang dọc ba mươi sáu. Khắp loạn đất Sơn
Đông, là nghĩa làm sao!
- Cái đó hoặc là đến năm sáu sáu, hay là số vận sáu sáu cũng
nên. Còn câu Khắp loạn đất Sơn Đông, thì Vận Thành chính thuộc về Sơn Đông đó.
Bốn câu ấy quả nhiên ứng vào người ấy chứ không sai.
- Nhưng không chắc ở đây có người ấy hay không?
- Chiều hôm qua tôi đã hỏi tên tửu bảo, nói rằng hắn mới viết
hôm kia xong.. Cái đó xin ân tướng sai đem sổ lao thành lên tra một lượt, xem
có hay không là biết ngay lập tức...
Tri Phủ khen là phải, liền gọi người nhà vào kho lấy sổ lao
thành, đem ra để tra. Tra mãi đến cuối sổ qủa nhiên thấy tên Tống Giang ở huyện
Vận Thành, mới đến đây ở Giang Châu vào độ tháng năm vừa rồi.
- Người này đích xác là ứng vào câu ca dao ấy, không phải
chuyện chơi, xin Tướng Công hãy cho người bắt giam riết, rồi sau sẽ liệu, nếu để
chậm trễ lỡ ra lộ chuyện mất chăng?
Tri Phủ cho lời nói của Hoàng Văn Bính là phải, liền ra sảnh
đường cho đòi Tướng Công hai viện là Đới Tung lên, mà truyền lệnh rằng:
- Người lập tức phải đem lính xuống lao thành, bắt tên đề thơ
phản loạn trên lầu Tầm Dương, là Tống Giang ở huyện Vận Thành đến đây cho ta...
Đới Tung vâng lời quay ra, thì trong bụng lấy làm sợ hãi kinh
ngạc, vội vàng điểm lấy mấy người coi lao dặn về lấy binh khí và nhất tề đến miếu
Thành Hoành, để đi làm việc. Khi chúng vâng lời đi rồi, Đới Tung bèn làm phép
thân hành, đi thẳng ra lao thành, đến chỗ phòng giấy để thăm Tống Giang. Bấy giờ
Tống Giang đang nằm một mình ở trong phòng, chợt thấy Đới Tung đến, liền vội
vàng đón vào mà hỏi rằng:
- Hôm trước tôi vào trong thành tìm mãi không gặp Viện Trưởng,
sau nhân buồn quá, một mình lững thững trên lầu Tầm Dương uống mấy chén rượu,
thành ra mệt nhọc say sưa mãi đến ngày nay vẫn còn chưa tỉnh.
Đới Tung hỏi:
- Hôm ấy Ca Ca viết những câu gì trên gác thế?
- Bấy giờ say rượu viết liền, tôi có nhớ được đâu?
- Vừa rồi Tri Phủ bắt tôi phải sai đem lính đến bắt tên phản
tặc đề thơ ở lấu Tầm Dương, là Tống Giang, tôi lấy làm kinh ngạc quá chừng,
không biết vì lẽ gì mà đến thế? Hiện tôi đã bảo lính đón đợi ở miếu Thanh
Hoàng, rồi tôi cất lẻn đến đây báo cho Ca Ca biết...Làm cách nào mà giải thoát
được đây?
Tống Giang nghe nói, gãi đầu gãi tai mà kêu lên rằng:
- Nếu vậy thì phen này ta nguy với họ mất.
Đới Tung nói rằng:
- Tôi có một kế nay, thì may ra mới thoát được. Bây giờ thể
nào tôi cũng phải dẫn người đến bắt, không sao mà trốn được, vậy huynh trưởng
nên bỏ xõa tóc rồi phóng uế vung vãi ra phòng, để giả làm người điên, hễ tôi đến
thì cứ nói càn nói dở, nói láo nói lếu, cho họ yên chí là chứng điên, thì bấy
giờ nói với Tri Phủ may ra mới có thể thoát được.
Nói xong thì Đới Tung từ biệt, rồi vội vàng trở về miếu Thanh
Hoàng để đem lính đến bắt.
Khi đem lính vào đến lao thành, Đới Tung làm bộ quát to lên rằng:
- Tên nào là Tống Giang mới đến ở đất này?
Tụi bài đầu thấy đới Trung hỏi vậy, liền dẫn vào phòng giấy của
Tống Giang. Bấy giờ thấy Tống Giang rũ rợi đầu tóc, phóng uế khắp cả nhà nằm ngồi
be bét cả lên.
Khi Tống Giang trông thấy Đới Tung cùng bọn lính Đới Tung lại
giả vờ quát lên rằng:
- Lũ chúng bay là người nào?
Đới Tung lại giả vờ quát lên rằng:
- Bắt lấy thằng này cho ta.
Tống Giang trợn mắt lên, đánh khắp cả mọi người, rồi lảm nhảm
nói rằng:
- Ta đây là con rể Ngọc Hoàng Thượng Đế, bố vợ ta sai đem mười
vạn thiên binh, đến giết hết mọi người ở Giang Châu, hiện có Diêm La Đại Vương
làm tiên phong, Ngũ Đạo Tướng Quân làm hợp trận, cho ta một tay kim ấn nặng tám
trăm cân, giết hết chúng bay đây.
Tụi lính nghe thấy vậy bảo với Đới Tung rằng:
- Anh này điên mà, chúng tôi bắt làm gì?
Đới Tung làm ra bộ nghĩ ngợi, rồi bảo với chúng rằng:
- Nếu vậy, ta về bẩm với Tri Phủ xem sao? Nếu ngài có định bắt
thì ta lại đến đây cũng được.
Nói đoạn dẫn lính về trong thành báo với Tri Phủ rằng:
- Tên Tống Giang hiện bị chứng điên, nói càn nói bậy mình mẩy
nhơ bẩn thối tha, chúng tôi không dám bắt lên để nộp.
Tri Phủ nghe nói, chưa kịp hỏi rõ ra sao, thì đã thấy Hoàng
Văn Bính đứng nấp ở đằng sau binh phong chạy ra mà nói rằng:
- Tướng Công chớ nên tin thơ như thế, chữ như thế, không phải
là một thằng điên viết rồi. Cái này tất nhiên là có giả dối chi đây, xin ngài cứ
hạ lệnh cho bắt, nếu không đi được, thì khiêng hắn về đây.
Xài Tri Phủ lấy làm phải, truyền lệnh cho Đới Tung:
- Bắt vấn như thế nào, phải bắt về cho kỳ được.
Đới Tung vâng lệnh lui ra, trong bụng lấy làm băn khoăn đau đớn,
liền đem lính đến lao thành mà bảo với Tống Giang rằng:
- Công việc nguy lắm rồi, huynh trưởng cứ đến đấy xem sao.
Nói đoạn sai lấy cái bồ lớn, bỏ Tống Giang vào đấy, rồi
khiêng giải vào phủ. Khi vào tới phủ, Tống Giang đứng ở dưới thềm, trợn mắt
nhìn Xài Tri Phủ mà quát hỏi rằng:
- Bây là người nào, dám bắt hỏi ta? Ta là rể Ngọc Hoàng Thượng
Đế, cho ta đem năm vạn thiên binh, đến giết thành Giang Châu, có Diêm La Đại
Vương làm tiên phong, Ngũ Đạo Tường Quân làm hợp hậu, sắc cho ta một tay kim ấn,
nặng tám trăm cân để giết các ngươi. Ta truyền cho ngươi chỉ một lát nữa gọi là
chết hết.
Xài Cửu nghe vậy, không biết xử trí làm sao?
Hoàng Văn Bính lại tán với Tri Phủ rằng:
- Xin tướng công cho đòi Sai Bát và Bài Đầu ở bản doanh đến,
để hỏi xem tên này mới có chứng điên, hay là từ khi mới đến đây đã thế? Nếu vẫn
có chứng điên từ khi mới đến đây thì sẽ tha cho, bằng không thì tất là giả dối...
Tri Phủ nghe nói lấy làm phải, liền cho đòi Quản Doanh, Sai
Bát đến mà hỏi. Hai anh em kia không dám man trá Tri Phủ, liền bẩm rằng:
- Tên ấy nguyên trước đến đây, không có chứng điên, chứng đó
chứng mới phát ra mấy hôm nay.
Tri Phủ thấy nói vậy, bèn đùng đùng nổi giận, thét lính đem Tống
Giang ra tra đánh. Đới Tung thấy thế, chỉ cắn răng kêu khổ, mà không biết làm
cách gì để cứu ra cho được. Tống Giang trước còn hàm hồ nói bậy nói xằng, sau bị
đánh tấn dữ dội, bắn máu xé thịt, không sao mà giấu cho nổi, đành phải thú thực
là say rượu viết càn, thực không có chủ ý mưu mô chi cả. Tri Phủ liền lấy lời
cung, rồi sai đóng gông tử tù nặng hai mươi nhăm cân, mà cho giam xuống đại
lao. Bấy giờ Tống Giang đau đớn ê chề, không sao mà nhắc chân đi được, Đới Tung
liền hết sức trông coi, dặn bảo các lính canh ngục, đều phải trông nom tử tế,
và hằng ngày sắp sẵn cơm nước để cung đãi Tống Giang.
Dây đâu ai buộc vào thân,
Anh hùng là kiếp nợ nần với ai?
Bắc thang lên hỏi ông trời?
Văn chương là giống hại người đó ru?
Khi đó Xài Tri Phủ lưu Hoàng Văn Bính ở chơi, mà tạ ơn rằng:
- Nếu không có Thông Phán là người cao kiền viễn thức, thì có
lẽ hạ quan cũng mắc lừa dối của họ chứ không chơi.
Hoàng Văn Bính hót luôn rằng:
- Việc này không thể chậm được! Ngài nên lập tức sai người về
kinh sẻ báo cho Ân Tướng, để tỏ ra rằng ngài đây là người mẫn cán, đã làm được
những việc to ích nước lợi nhà như vậy, và nên bẩm xem ý kiến Ân Tướng, muốn bắt
sống tên phản tặc thì ta đóng cũi mang đi, bằng không thì sẽ xử quyết ngay đây,
để khỏi điều rắc rối về sau mới được.
Xài Tri Phủ lại gật gù khen phải mà bảo Hoàng Văn Bính rằng:
- Tôi xin viết một phong thư gửi về, kể rõ công lao của Thông
Phán, để gia nghiêm tâu với Thánh Thượng, phong cho ngài làm nơi phủ huyện nào
đó, để hưởng sự vinh hoa.
Hoàng Văn Bính khúm núm tạ ơn mà rằng:
- Chúng tôi là môn hạ ở đây, thế nào cũng xin kết cỏ ngậm
vành để báo đáp.
Nói xong liền giục Tri Phủ viết gia thư, đóng ấn tín vào, rồi
lại hỏi rằng:
Tướng Công định sai ai là người tâm phúc để cho đi mới được?
Tri Phủ nói:
- Ở đây có một người Lưỡng Viện Tiếp Cấp tên là Đới Tung, anh
ta có phép thần hành, một ngày có thể đi tới tám trăm dặm đường, nếu sai anh ta
chỉ trong mười hôm, là có thể trở về ngay được.
- Nếu được người đi nhanh như thế, thì còn gì hơn nữa.
Đoạn rồi Hoàng Văn Bính ở đó, đến ngày hôm sau mới từ giã Tri
Phủ mà trở về Vô Vị Quân. Khi Hoàng Văn Bính trở về, Xài Tri Phủ liền sắp lấy
hai hòm kim ngân châu báu, niêm phong cẩn thận, rồi sáng sớm hôm sau gọi Đới
Tung lên mà bảo rằng:
- Ta có một phong gia thư và một ít lễ vật, để đưa mừng sinh
nhật phụ thân ta ở kinh sư, ngày rằm tháng sáu, song nay ngày tháng đã gần bách
tới nơi, vậy chỉ có ngươi là người nhanh nhẹn, ngươi nên hết sức giúp ta, rồi
ta trọng thưởng cho. Ta chắc rằng ngươi có phép thần hành như vậy, thì cũng chẳng
bao lâu mà được tới nơi, vậy ngươi chớ nên trì trệ mà lỡ công việc của ta mới
được.
Đới Tung nghe nói, bất đắc dĩ phải vâng lời, liền nhận thư
tín và hòm đồ trở về chỗ trọ. Đoạn rồi chàng lẻn đến nhà lao bảo với Tống Giang
rằng:
- Việc này huynh trưởng cứ phòng tâm, hiện nay Tri Phủ sai
tôi vào kinh sư, chỉ mươi hôm là về đây, vậy khi đến cứu Ca Ca, may ra có phần
thoát được. Ở nhà Ca Ca nên giữ gìn cẩn thận, còn cơm nước ăn uống, thì tôi đã
giao cho Lý Quỳ trông coi khuya sớm, không có điều gì là trở ngại, Ca Ca cứ vững
tâm đợi mấy hôm tiểu đệ về sẽ biết. Nói đoạn gọi Lý Quỳ đến mà dặn rằng:
- Tống Ca Ca vì viết câu thơ phản nghịch, bị phải Quan Tư
giam cầm, còn trước đây lại bị sai phái vào kinh, vậy ngươi phải ở nhà sớm
khuya cơm nước hầu hạ Ca Ca, chớ nên trễ nãi nghe chưa?
Lý Quỳ gật gù mà rằng:
- Viết mấy câu thơ đã làm gì nên tội? Những thằng đại giạ, đại
ác, đại phản, vô vạn, đây kia cũng làm quan to tướng thì sao? Việc nầy bác cứ
đi vào Đông Kinh, để mặc tôi trông nom cho Ca Ca, không cần nghĩ đến làm gì? Tử
tế thì cùng tử tế, bằng không thì hai cái búa lớn kia, chém cho nó chết hết là
xong.
Đới Tung lại dặn rằng:
- Anh em phải rất cẩn thận, chớ nên uống rượu lắm mà để lỡ mất
việc làm ăn của Tống Ca Ca.
Lý Quỳ đáp rằng:
- Ca Ca cứ phóng tâm mà đi, bất tất phải nghi ngại dặn dò cho
lắm, từ nay trở đi, tôi xin nhịn rượu, để sớm khuya hầu hạ Tống Ca Ca, rồi khi
nào Ca Ca về đây, sẽ uống rượu cũng được chứ sao?
Đới Tung cả mừng mà rằng:
- Nếu quả nhiên anh em giữ được như vậy, thì tôi còn lo ngại
điều chi?
Nói xong từ biệt ra đi, rồi từ đó Lý Quỳ chừa rượu, mà sớm
khuya hầu hạ Tống Giang, không hề lúc nào sao nhãng.
Nước non trói nặng lời nguyền,
Lẽ nào nguy hiểm mà quên tâm thần?
Ai về nhắn bảo thế nhân,
Bấy giờ Đới Tung từ biệt Tống Giang cùng Lý Quỳ, một mình kíp
vội ra về, thay giầy gai, quấn lá đáp, mặc áo vàng. Đổi khăn mới, giắt tuyên
bài vào lưng, bỏ thư vào túi, rồi quảy hai cái hòm đi ra ngoài thành. Khi ra đến
ngoài thành, chàng liền lấy bốn mảnh giáp mã, buộc vào hai bên chân mỗi bên hai
miếng, rồi trong miệng lẩm nhẩm đọc mấy câu thần chú mà vùn vụt đi khỏi Giang
Châu.
Chiều hôm ấy, Đới Tung vào nghỉ trong hàng, rồi cởi giáp mã
ra, mà lấy giấy tiền, đốt khấn cẩn thận, sáng hôm sau cơm nước vừa xong, chàng
lại buộc giáp mã quảy hòm ra đi thực sớm. Trong khi đi chỉ nghe tiếng gió thổi
vù vù bên tai, sức chạy thực nhanh, không hề dính chân xuống đất.
Đi luôn hai ngày trời, đến ngày thứ ba, khí trời càng nóng bức
khó chịu, chàng vừa đi vừa khát nước. Chừng tới ba bốn trăm dặm đường, mà không
có hàng quán nào để nghỉ ngơi ăn uống. Chàng đi mãi đến gần trưa, trong bụng
đương đói khát lạ chừng, chợt trông thấy có một hàng rượu ở bên hồ rộng, gần
khoảng rừng trước mặt, chàng vội đi vào đó để nghỉ.
Khi tới nơi, thấy một ngôi hàng rộng rãi sạch sẽ, trong có mươi
bộ bàn ghế sơn dầu, kê theo một dãy cửa sổ chạy dài; chàng bèn quảy hòm vào chọn
một chỗ mát mẻ, rồi cởi áo và thắt lưng mà treo lên trên chấn song cửa sổ.
Đoạn rồi có tên tửu bảo chạy đến mà hỏi rằng:
- Ngài lấy bao nhiêu rượu, ngài xơi thịt dê, thịt bò, hay thịt
lợn?
Đới Tung nói rằng:
- Rượu đây không uống mấy, có cơm nước gì thì đem lên đây.
- Bẩm, hàng tôi có rượu có cơm, có cả bánh bao, bánh bún,
ngài muốn xơi gì?
- Ta không ăn các thức cá thịt được, vậy có thứ canh gì để ăn
không?
- Bẩm canh đậu có được không?
- Tốt lắm, lấy ra đây.
Tửu bảo vâng lời, quay vào nhà trong một lúc, rồi đem một bát
canh đậu phụ, lau đôi đũa và rót lên ba chén rượu lớn. Đới Tung đương khi đói
khát, vớ được rượu, canh liền ăn uống một lúc, rồi toan gọi lấy cơm để ăn một
thể. Dè đâu vừa húp xong bát canh, thì thấy trời xoay đất chuyển, đầu choáng
váng, rồi ngã lăn ra một bên ghế.
Giữa lúc ấy có một người là Hãn Địa Hốt Luật Chu Quý chạy ra,
quát bảo chúng rằng:
- Hãy đem hai cái hòm vào trong kia, rồi sờ xem nó có gì thì
lột lấy.
Nói đoạn thì có hai tên người nhà chạy đến móc túi lấy ra một
gói giấy bọc một phong thư, đưa cho Chu Quý. Chu Quý cất lấy xem thấy có một bức
gia thư, ngoài đề mấy chữ: "Bình an gia tín...Con là Xài Đức Chương, trăm
lạy kính dâng phụ thân soi xét". Chu Quý xem xong lại bóc thư ra đọc,
trong thư nói đến chuyện Tống Giang đề thơ phản loạn ứng với lời ca dao, hiện
đã bắt giam trong ngục, để đợi lệnh thi hành, liền lấy làm ngạc nhiên kinh sợ,
mà chạy vào trong phòng để xem.
Bấy giờ hai tên người nhà, đã vác Đới Tung vào nhà mổ, đặt nằm
vật lên trên bàn mổ, rồi tháo cởi xống áo ra để mổ. Cởi đến xuống lưng, thì thấy
có một cái tuyên bài dắt ở đó. Chu Quý cầm lấy xem, thấy mặt trên sơn son
thiếp bạc, khắc mấy chữ: Giang Châu Lưỡng Viện Tiếp Cấp Đới Tung.
Chàng thấy vậy bụng hơi ngờ ngợ, bèn bảo với chúng rằng,
"Hãy khoan tay, không nên hạ thủ vội.. Ta nghe quân sư thường nói, ở đất
Giang Châu có một người tên là Thần Hành Thái Bảo Đới Tung, là một người bạn rất
thân của quân sư xưa nay, vậy chẳng hay là người này chăng? Nếu vậy thì sao lại
đưa thư để mưu hại Tống Giang... ? Việc này may vào tay ta, ta hãy hỏi rõ xem
sao? " Nói đoạn sai chúng lấy thuốc giải độc, đổ cho Đới Tung uống, mà cứu
tỉnh dậy.
Được một lúc Đới Tung bừng mắt tỉnh dậy, trông thấy Chu Quý
đương cầm bức thư của Xài Tri Phủ ở trong tay, thì quát lên rằng:
- Anh nầy là anh nào? Sao dám to gan đánh thuốc mê cho ta, rồi
lại bóc thư tín của phủ Thái Sư như thế? Phổng đáng tội gì?
Chu Quý cười mà rằng:
- Bức thư khốn nạn này đã thấm vào đâu? Chúng tôi đây chính
muốn đối đầu với Đại Tống Hoàng Đế, chứ xé một bức thư của Thái Sư thì có cần
gì?
Đới Tung nghe nói cả kinh, liền hỏi rằng:
- Hảo hán đại danh là gì? Xin ngài cho tôi được biết?
- Tôi là Hãn Địa Hốt Luật Chu Quý, là tụi hảo hán Lương Sơn Bạc
đây.
- Nếu có phải ngài ở Lương Sơn Bạc, thì tất nhiên có biết Ngô
Học Cứu tiên sinh...
- Ngô Học Cứu là quân sư coi giữ binh quyền trong đại trại
tôi, sao túc hạ lại không biết ông ấy?
- Ông ấy với tôi là một người quen biết đã lâu.
- Nêú vậy huynh trưởng có phải là Thần Hành Thái Bảo Đới Viện
Trưởng ở Giang Châu, mà quân sư tôi thường nói chuyện đó chăng?
- Vâng, chính là tôi đây.
Chu Quý lại hỏi:
- Hồi trước Tống Công Minh đi đày sang đất Giang Châu, quân
sư có gửi giấy sang nói chuyện cùng túc hạ, vậy ngày nay chẳng hay vì cớ gì mà
toan hại túc mệnh Tống Công Minh đi như thế?
Đới Tung nói rằng:
- Tống Giang với tôi là chỗ anh en rất thân, vì ông ta viết mấy
câu thơ phản nghịch, tôi hết sức cứu gỡ chưa được, cho nên nay phải vào kinh để
lo liệu cho ông ta, có khi nào lại nỡ làm hại?
- Vậy ông thử nom trong thư của Sài Tri Phủ xem sao?
Đới Tung cầm thư xem, thì giật mình kinh sợ, liền đem đầu
đuôi câu chuyện, kể từ khi gặp Tống Giang, đến khi xẩy ra việc đề thơ ở lầu Tầm
Dương thuật cho Chu Quý nghe.
Chu Quý bảo với Đới Tung rằng:
- Nếu vậy xin Viện Trưởng hãy lên chơi sơn trại, để bàn với
các đơn vị Đầu Lĩnh xem sao? Nói đoạn liền sai dọn tiệc rượu tiếp phong, rồi
vào Thủy Đình bắn mũi tên ra hiệu. Được một lát, có tên tiểu lâu la chở thuyền
ra đón Chu Quý bèn mời Đới Tung mang các hòm kim ngân xuống thuyền, rồi cùng
nhau vào bến Kim Sa.
Khi Ngô Dụng được tin báo, vội vàng đi xuống cửa quan để
nghinh tiếp Đới Tung, đôi bên hớn hở vui mừng, rồi dẫn vào đại trại để chào các
vị Đầu Lĩnh, Chu Quý đem các chuyện của Đới Tung đã nói, mà thuật lại cho mọi vị
Đầu Lĩnh nghe.
Tiều Cái nghe nói lấy làm kinh hoàng tức bực, mời Đới Tung ngồi
vào khách vị mà hỏi thăm các việc Chu Quý, Đới Tung lại thuật một lượt kỹ càng
cho Tiều Cái nghe.
Tiều Cái cả kinh, bàn với các vị Đầu Lĩnh, định lấy quân đi
đánh lấy Giang Châu, để cứu Tống Giang ngay lập tức. Quân sư Ngô Dụng can rằng:
- Ca Ca không nên tháo thức làm chi, đây đến Giang Châu đường
xa dặm thẳng, nếu nay cả giấy binh mã thì e khi rút dây lại động đến rừng, mà lỡ
ra thêm hại cho Tống Công Minh. Vậy việc này chỉ nên dùng kế, không nên dùng bằng
sức mạnh, thì mới có thể được. Tôi đây dẫu bất tài, song xin hiến một kế này,
chỉ trông vào Đới Viện Trưởng là có thể cứu Tống Ca ra được.
Tiều Cái nói:
- Quân sư có kế sách gì?
Ngô Dụng nói:
- Hiện nay Sài Tri Phủ giao cho Đới Viện Trưởng đem thư vào
kinh, để chờ tin Thái Sư phúc đáp. Vậy nhân bức thư này ta phải đem kế trả kế,
mà viết một phong thư khác cho Viện Trưởng mang về; Trong thư bảo Sài Tri Phủ
phải bắt sống Tống Giang đem giải cẩn thận, cho tới kinh sư để tra hỏi đầu đuôi
sẽ xử rồi quyết. Đoạn rồi đợi khi chúng giải qua đây, ta sẽ cho người xuống cướp,
như thế có lẽ tiện hơn.
Tiều Cái nói:
- Nếu không giải qua lối này, thì có lỡ mất việc không?
Công Tôn Thắng ứng lên rằng:
- Cái đó khó chi, ta cứ cho người đi thám thính trước, họ đi
lối nào, ta đón cướp lối ấy cũng được, chỉ sợ họ không giải đi mà thôi.
Tiều Cái nói:
- Như thế thì hay lắm, song lấy ai là người viết được giống
Sài Thái Sư bây giờ?
Ngô Dụng nói:
- Việc ấy tôi đã nghĩ rồi. Hiện nay thiên hạ đương thích viết
chữ Tứ thể, là bốn lối chữ của bốn nhà, Tô Đông Pha, Hoàng Lỗ Trực Mễ Nguyên
Chương, và Sài Kính ở đương triều, cho nên thường gọi là Tô, Hoàng, Mễ, Xài, là
tứ tuyệt ở Tống Triều. Khi còn nhỏ tôi có quen một người học trò ở thành Tế
Châu là Tiêu Nhượng, viết lối các chữ rất giỏi người ta thường gọi là Thánh Thủ
Thư Sinh (học trò tay thánh). Anh ta võ nghệ cũng khá, mà viết chữ lối của Sài
Kính lại càng hệt lắm, vậy muốn phiền Viện Trưởng qua đó, nói dối anh ta, để mời
sang viết văn bia, ở nhạc miếu Thái An Châu, rồi đưa trước năm mươi lạng bạc, rủ
cho anh ta đi ra rồi sau sẽ bắt cả vợ con đến đây, mà rủ cùng nhập đảng, như thể
phổng có gọn không?
Tiều Cái nói:
- Người viết chữ đã đành có, nhưng còn ấn tín thì sao?
- Phải lắm, cái đó đệ cũng nghĩ cả rồi. Tiểu đệ có quen một
người Kim tên là Đại Kiện, hiện nay mở hàng làm ấn tín ở phủ Tế Châu khắc ngọc
chạm đá rất khéo, mà võ nghệ cũng không kém ai, người ta thường gọi là Ngọc Tỷ
Tượng (thợ thay ngọc) xưa nay. Vậy ta nên lừa cả anh ấy lên đây, rồi lưu luôn ở
sơn trại, sau này tất nhiên cũng có dụng cho mình...
Tiều Cái khen rằng:
- Nếu thế thì diệu lắm, ta phải làm mau mau mới được.
Nói xong liền sai dọn rượu thiết đãi Đới Tung, và lưu lại nghỉ
ở sơn trại một đêm. Sáng hôm sau Ngô Dụng nhờ Đới Tung ăn mặc ra dáng Thái Bảo,
dắt lấy hơn trăm lạng bạc để tìm hai người. Đới Tung vâng lời, rồi buộc giáp mã
vào chân, rồi xuống núi mà đi mau sang đất Tế Châu. Phút chốc Đới Tung tới
thành Tế Châu, hỏi thăm vào nhà Thánh Thủ Thư Sinh Tiêu Nhượng, ở trước cửa văn
miếu về bên đông phủ Tế Châu. Khi đi đến cửa, Đới Tung gặng lên một tiếng rồi hỏi
rằng:
- Tiêu Tiên sinh có nhà không?
Bấy giờ thấy một thầy đồ trong nhà chạy ra, nhìn Đới Tung bằng
một cách ngạc nhiên mà hỏi rằng:
- Thái Bảo ở đâu tới, việc gì cần đến chúng tôi?
Đới Tung nghe nói liền vái chào rồi nói rằng:
- Chúng tôi là nhà sãi ở nhạc miếu Thái An châu, nhân miếu
chúng tôi sửa lại nhà lầu Ngũ Nhạc, các cụ chúng tôi định khắc tấm bia công đức,
vậy cho chúng tôi đưa năm mươi lạng bạc, để đến nói với tiên sinh, lập tức đến
miếu giúp việc cho, nhật kỳ chúng tôi đã chọn, sợ chậm trễ thì lỡ việc.
Tiêu Nhượng nói rằng:
- Chúng tôi đây chỉ biết viết, còn sự khắc chạm thì tất phải
tìm người thợ tốt mới được.
- Tôi có đem năm mươi lạng bạc để mời Ngọc Tú Tượng Kim Đại
Kiện đây, nhật kỳ hiện nay đã ngặt lắm, xin ngài làm ơn chỉ dẫn giúp tôi.
Tiêu Nhượng nhận lấy năm mươi lạng bạc, liền dẫn Đới Tung đi
tìm nhà Kim Đại Kiện. Vừa ra khỏi cửa Văn Miếu, thì thấy Tiêu Nhượng trỏ tay bảo
Đới Tung rằng:
- Ngọc Tú Tượng Kim Đại Kiện đương đi kia.Nói đoạn liền gọi Đại
Kiện đến chào Đới Tung nói chuyện cho nghe.
Kim Đại Kiện nói có năm mươi lạng bạc đưa đó, thì vui mừng hớn
hở liền bảo với Tiêu Nhượng cùng với Đới Tung đến tửu điếm đãi rượu.
Bấy giờ Đới Tung đưa năm mươi lạng bạc cho Kim Đại Kiện rồi
nói rằng:
- Hiện nay đã chọn ngày tháng, không thể chậm trễ được, vậy
xin hai ngài đi giúp ngay cho.
Tiêu Nhượng nói:
- Hôm nay khí trời nóng bức có đi cũng không đến nơi ngay được,
không may lỡ độ đường, thì không tiện vậy xin để đến mai sẽ đi sớm thì hơn.
Kim Đại Kiện cũng lấy làm phải, mà bàn với Đới Tung hoãn để đến
mai đi sớm. Tối hôm ấy Tiêu Nhượng lưu Đới Tung nghỉ ở nhà một đêm, sáng hôm
sau Kim Đại Kiện sắm sửa đồ đạc đến sớm để cùng đi.
Khi ra ngoài thành được mươi dặm đường. Đới Tung bảo với hai
người kia rằng:
- Các ông cứ lững thững đi thong thả, để tôi đi trước nói với
các cụ tôi cho người đến đón mới được. Nói xong liền rảo cẳng đi trước mà bỏ mặc
hai người đi sau.
Hai người kia lững thững đi tới giờ Mùi, ước được bảy tám
mươi dặm đường, bỗng thấy phía trước mặt có tiếng còi thổi, rồi có một bọn hảo
hán chừng bốn năm mươi người, ở trong sườn núi xông ra.
Bọn hảo hán đó là Vương Nụy Hổ đứng đầu, chạy ra quát lên rằng:
- Hai anh nầy đi đâu qua đây! Các con! Bắt nó đem về moi ruột
cho ta uống rượu...
Tiêu Nhượng đáp rằng:
- Hai anh em tôi đi lên Thái An Châu để làm bia, không có tiền
nong chi cả, hiện đây chỉ có mấy cái quần áo mà thôi.
Vương Nụy Hổ thét lên rằng:
- Ta đây không cần gì tiền của xống áo, chỉ cần được hai bộ
gan ruột thông minh của các ngươi đều nhắm rượu thôi?
Tiêu Nhượng cùng Kim Đại Kiện cả giận, liền dỡ tài võ nghệ,
vác gậy lên mà xông đánh Vương Nụy Hổ, Vương Nụy Hổ cũng giơ đao lên đỡ, đánh
nhau tới năm bảy mươi hiệp, rồi vác đao chạy thẳng qua núi.
Tiêu Nhượng, Kim Đại Kiện vừa toan vác gậy đuổi theo thì bỗng
thấy trống chiêng ầm ĩ, rồi có hai bọn người ở hai sườn núi đổ ra. Hai bọn này
bên tả có Vạn Lý Kim Cương Tống Vạn, bên hữu có Mô Trước Thiên Đỗ Thiên, dẫn Bạch
Diện Lang Quân Trịnh Thiên Thọ, mỗi ngươi đem tới ba mươi tên lâu la đổ ùa ra,
bắt hai người kia mà đem vào rừng.
Khi vào tới trong rừng, bốn vị hảo hán bảo với hai người kia
rằng:
- Chúng tôi đây là phụng tướng lệnh của Tiều Thiên Vương, mời
các ông lên núi nhập đảng, không có việc chi mà các ông sợ.
Tiểu Nhượng nghe nói thì cười mà hỏi rằng:
- Chúng tôi sức không trói nổi con gà, chỉ biết ăn nói ngủ kỹ
còn biết việc gì, mà sơn trại dùng đến chúng tôi?
Đỗ Thiên nói:
- Cái đó quân sư Ngô Dụng vốn quen biết các ông, và biết tài
võ nghệ của các ông, cho nên mới sai Đới Tung đi đón về đây.Tiêu Nhượng, Kim Đại
Kiện nghe nói đến đó, thì ngơ ngác nhìn nhau, mà không biết nói sao cho được.
Khi đi tới hàng rượu của Hãn Địa Hốt Luật Chu Quý, Chu Quý liền
đãi rượu tiếp phong, rồi bắn tên gọi thuyền ra, để đưa vào đại trại. Bấy giờ Tiều
Cái, Ngô Dụng, cùng các vị Đầu Lĩnh đều vui mừng đón tiếp, đặt tiệc khỏan đãi,
và đêm chuyện muốn viết thư giả mạo để nói cho hai người nghe.
Hai người nghe nói, vội túm vào trách Ngô Dụng rằng:
- Chúng tôi ở đây với các ngài, cũng không ngại gì, song còn
cách xử trí...Nói đoạn, cùng nhau chè chén đến đêm mới nghỉ.
Sáng hôm sau, thấy tụi lâu la báo...Ngô Dụng liền bảo Tiêu
Nhượng và Kim Đại Kiện rằng:
- Xin hai vị hiền đệ ra tiếp lấy bảo quyên vào đây. Hai người
nghe nói bụng còn bán tín vàn nghi, mà cùng nhau ra đón xem sao? Khi đến lưng
chừng núi, quả nhiên thấy có mấy cỗ kiệu đưa vợ con đến đó. Hai người lấy làm
ngạc nhiên, liền hỏi xem đầu đuôi thế nào?
Vợ con đều đáp rằng:
- Khi hai người đi rồi, thì thấy có người đem kiệu đến mà nói
rằng: "Gia Trưởng đi đường bị trúng thử mà chết, phải báo vợ con đến để cứu".
Rồi khi ra đến ngoài thành, thì kiệu phu cứ vùn vụt đến đây, không sao mà bắt
trở lại được.
Tiêu Nhượng cùng Kim Đại Kiện nghe nói đến tắc lưỡi ngây người,
đành phải bấm bụng dẫn vợ con vào ở trong sơn trại.
Bấy giờ Ngô Dụng mời hai người ra đi để bàn việc viết thư khắc
ấn, giả làm thư tín của phủ Thái Sư gửi trả lời cho Sài Cửu Tri Phủ, để Tống
Công Minh, Tiêu Nhượng cùng Kim Đại Kiện đều vâng lời, rồi một người đem ra viết,
và một người khắc con dấu tên húy của Sài Kính để đóng.
Khi các việc đã xong, liền đặt tiệc tiễn tặng Đới Tung và dặn
dò cặn kẽ để đem về trình Sài Tri Phủ. Đới Tung vâng lĩnh các lễ, nhận lấy
phong thư rồi từ biệt các vị Đầu Lĩnh xuống thuyền mà ra tửu điếm.
Khi ra tới nơi, Đới Tung liền buộc mỗi bên hai miếng giáp mã,
mà đi gấp đường trở về Giang Châu.
Bấy giờ Ngô Dụng cùng các vị Đầu Lĩnh đưa chân Đới Tung ra đến
bến rồi trở vào cùng ngồi uống rượu với nhau. Đương khi uống rượu, bỗng dưng
Ngô Dụng kêu lên rằng:
- Nguy mất rồi...Nguy mất rồi...
Các vị Đầu Lĩnh đều lấy làm ngạc nhiên mà hỏi rằng:
- Việc chi mà quân sư kêu như vậy?
Ngô Dụng đáp rằng:
- Cái phong thư vừa rồi, tất là nguy đến tính mệnh cho Đới
Tung mất... !
Chúng cả kinh hỏi luôn rằng:
- Có điều gì lầm lỗi hay sao?
- Tôi vội qúa không kịp nghĩ trước trông sau, trong thư có một
chỗ hớ to, chắc là nguy mất... !
Tiêu Nhượng nói:
- Tôi viết chữ rất hệt chữ Thái Sư, vả chăng lời lẽ cũng
không sai điều gì, vậy có chi là hớ, xin quân sư chỉ giáo cho.
Kim Đại Kiện cũng nói rằng:
- Tôi cũng khắc dấu hệt lắm, không nào sai một tí bao giờ!
Ngô Dụng có ý nghĩ ngợi mà rằng:
- Có một chỗ hớ to, rất là nguy hiểm, các ông không biết tới,
để tôi xin nói cho các ông nghe.
Mới hay:
Việc đời lầm lỡ một ly;
Cái cơ nguy hiểm có khi muôn vàn,
Phải điều vụng chẳng hay toan,
Để cho thịt nát xương tàn nữa sao?
Phải làm cho biết mưu cao,
Thử xem trời giết anh hào được chăng!
Lời bàn của Thánh Thán:
Hỡi này chỉ do một đoạn văn tả Hoàng Văn Bính đọc đến phản
thư, rồi tán ra ý nghĩa, để đưa đến Tống Giang phạm tội, rất là thác lạc phù
sơ, còn ngoài ra chỉ tự sự theo, thấy cũng rõ ràng nhanh ứng vậy.
Sau khi uống rượu ở lầu Tầm Dương, chợt tả ra Tống Giang đi tả,
đấy dụng bút của tác giả làm ra thảm đạm, để về sau nửa uống rượu một mình lầu
bến Tầm Dương thổ lộ can trường (đáy lòng)! Cho nên lần sau tả Tống Giang đi
tìm ba người để đi uống rượu mà không được gặp, kể cũng tả nhiều lời, nhưng phải
làm cho rõ cái buồn của Tống Giang, để xảy ra đề thơ cảm khái.
Tả ra Tống Giang hồi từng chỗ trọ của ba người, thấy rõ bọn hảo
hán bốn bể không nhà, rất khéo thay ngọn bút, để rồi vào lầu bến nước, uống rượu
ngâm thơ; như kiểu Tào Tháo phú yến Trường Giang, khiến độc giả xem đến càng
thêm khẳng khái.
Đến hồi tả chuyện con hát, chỉ làm cho rõ con người Lý Quỳ và
Tống Giang xử sự mà thôi, không có gì chiếu ứng về sau nữa.
Hồi 39:
Cướp nghĩa đảng
Anh hùng mến anh hùng.
Bấy giờ, Tiều Cái cùng các vị Đầu Lĩnh đều ngơ ngác vội vàng,
cùng túm nhau để hỏi xem lầm lỡ vì đâu? Quân sư Ngô Dụng liền bảo mọi người rằng:
- Trong bức thư lúc nãy, vì chúng tôi vội vàng không kịp nghĩ
cho đóng dấu khắc có bốn chữ "Hàn Lâm Sài Kính" như thế, quả nhiên Đới
Tung bị nguy với Quan Tư, chứ không khi nào tránh khỏi.
Đại Kiện nói rằng:
- Cái đó chính là lối con dấu của Sài Thái Sư, vẫn dùng để
đóng vào các văn trát xưa nay, không lẽ nào mà hỏng được.
Ngô Học Cứu nói:
- Cái đó các ông không biết. Xưa nay cha viết thư cho con
không khi nào phải đóng dấu tên huý của mình, bởi vậy tôi chắc khi Đới Tung tới
nơi, tất bị họ tra hỏi mà vỡ chuyện ra mất.
Tiểu cái lo sợ mà rằng:
- Nếu vậy ta nên cho hai người theo gọi về đây, để viết lại mới
được.
Ngô Dụng cười rằng:
- Bây giờ theo thế nào được? Ông ta làm phép thần hành đi từ
bấy đến, giờ có tới năm sáu trăm dặm rồi, còn ai theo kịp. Việc này tất phải kiếm
cách cứu mau, không có thì nguy cả đến nơi.
Tiều Cái hỏi:
- Vậy quân sư định có cách gì để cứu?
Ngô Dụng ghé vào tai Tiều Cái mà hỏi rằng:
- Bây giờ phải thế nầy...thế nầy...chủ tướng nên ám truyền hiệu
lệnh cho các tướng đi mau mới được.
Tiều Cái nghe nói cả mừng, liền truyền lệnh cho các tướng, lập
tức sắm sửa chu tất rồi cùng nhau xuống thuyền mà kéo sang Giang Châu.
Bên kia Đới Tung đi ước chừng đúng hạn thì về đến đất Giang
Châu liền đem thư vào trình với Sài Cửu Tri Phủ.
Tri Phủ thấy Đới Tung về, trong bụng lấy làm vui mừng hớn hở,
bèn thưởng cho ba cốc rượu rồi nói rằng:
- Ngươi vào đó có gặp Thái Sư không?
Đới Tung bẩm rằng:
- Chúng tôi vào đó có một tối, rồi vội về ngay, nên không kịp
gặp Ân Tướng.
Tri Phủ nghe nói liền bóc thư ra xem, thấy trên nói đã thu nhận
đủ các đồ lễ vật, rồi đoạn nữa nói chuyện Tống Giang, phải sai người lập tức
đóng xe tù về kinh sư, giải về cho cẩn thận, còn đoạn cuối cùng nói đến Hoàng
Văn Bính, nay mai sẽ tâu Thiên Tử, tất nhiên cũng có hồng ân. Tri Phủ xem xong
cả mừng, lấy ra một đĩnh hai mươi nhăm lạng bạc thưởng cho Đới Tung rồi nhất diện
sai đóng xe tù và bàn định chọn người để áp giải Tống Giang.
Đới Tung từ tạ Tri Phủ rồi trở ra mau mua các thức rượu thịt
đem vào ngục thiết đãi Tống Giang, và nói hết mọi chuyện cho Tống Giang biết.
Cách hai hôm sau, Sài Tri Phủ đã thôi thúc đóng xe tù, vừa toan sai người khởi
trình áp giải Tống Giang, thì bỗng thấy nói có quan Thông Phán Hoàng Văn Bính
vào hầu. Tri Phủ nghe nói, liền cho mời vào trong để nói chuyện.
Hoàng Văn Bính đưa tặng các đồ lễ vật, nịnh hót mấy câu, đoạn
rồi cùng ngồi nói chuyện.
Tri Phủ bảo với Hoàng Văn Bính rằng:
- Tôi mừng cho ngài, nay mai, tất có việc vinh thăng tới nơi.
Hoàng Văn Bính hớn hở hỏi rằng:
- Sao Tướng Công lại biết trước?
- Hôm qua có người đem thư về, nói rằng tên Tống Giang thì
cho giải vào kinh sư, còn Thông Phán thì thế nào cũng có thăng thưởng đến nơi,
hiện có gia thư đó, Thông Phán xem qua thì biết đoan đích.
- Nếu thế, thì toàn là ân đức của Tướng Công, chúng tôi biết
lấy gì mà báo đền cho được. Nhưng nếu phải là gia thư, thì khi nào tôi dám mạn
phép mà xem như vậy?
- Được, Thông Phán với tôi là chỗ tâm phúc. Thông Phán cứ xem
cho biết rõ...có hề chi?
Nói đoạn liền lấy thư đưa cho Hoàng Văn Bính xem. Hoàng Văn
Bính cầm lấy thư xem hết đầu chí đuôi, rồi xem đến ngoài phong bì thấy có dấu
đóng ở đó vẫn còn mới mẻ sáng sủa, thì lắc đầu mà bảo Thông Phán rằng:
- Phong thư này có lẽ không được đích thực...
Tri Phủ nói:
- Mọi khi không có đóng dấu bao giờ, nhưng hôm nay có lẽ là
tiện có con dấu cho nên đóng vào đó hẳn?
Hoàng Văn Bính lại tán rằng:
- Tôi nói câu này, xin Tướng Công bỏ ngoài tai cho. Bức thư nầy
tức là người man trá Tướng Công đây. Hiện nay thiên hạ thịnh hành bốn lối chữ,
Tô, Hoàng, Mễ, Sài, vậy thì lối chữ của ân tướng Thái Sư, ai mà không viết giống.
Còn như con dấu Hàn lâm này, là khi còn làm chức Hàn Lâm, hay dùng để đóng vào
giấy má, cho nên thiên hạ ai mà không biết. Đến như hiện nay ngài làm chức Thái
Sư Thừa Tướng, thì có khi nào lại còn dùng con dấu ấy nữa. Huống chi Tướng Công
là chỗ con cháu trong nhà thì có cần chi phải cần đến con dấu có tên huý của
ngài vào đây. Thái Sư là thực cao kiến viễn thức nhất trong thiên hạ, không lẽ
ngài lại lầm đến thế? Xin Tướng Công cho đòi người đưa thư đến đây, mà hỏi kỹ
càng xem có gặp người nào ở trong Phủ Thái Sư không? Bằng lúng túng không trả lời
được, thì quả nhiên là giả mạo không sai...Cái đó Tướng Công nên cẩn thận...
Sài Tri Phủ nghe nói liền đáp rằng:
- Nếu vậy cũng không khó gì, anh ta từ nhỏ đến nay, chưa qua
Đông Kinh một lượt nào, để ta hỏi qua mấy câu là biết được ngay.
Nói đoạn liền lưu Hoàng Văn Bính ngồi chơi ở đằng sau bình
phong, rồi cho gọi Đới Tung lên đến công đường. Sài Tri Phủ liền hỏi ngay rằng:
- Hôm nọ ngươi đi khó nhọc ta chưa kịp hỏi hết đầu đuôi trong
phủ Thái Sư, vậy khi tới đó ngươi đi vào cửa nào?
Đới Tung bẩm rằng:
- Khi chúng tôi vào tới nơi, thì trời đã nhá nhem tối, cũng
không trông rõ đó là cửa gì?
- Ở trong phủ có ai ra tiếp?
- Rồi sau nghỉ ở đâu?
- Bẩm, hôm đó chúng tôi đến trước phủ, tìm một người canh gác
đưa thư vào, sau người canh gác trở ra nhận các lễ vật rồi bảo chúng tôi đi
hàng trọ để nghỉ. Sáng hôm sau đầu trống canh năm, chúng tôi lại vào chực ở cửa
phủ, thì thấy tên người nhà đưa bức hồi thư ấy ra, chúng tôi sợ lỡ kỳ hẹn lập tức
về ngay, không kịp hỏi han chi cả.
- Tên người nhà canh gác đó thế nào? Trắng hay đen, gầy hay
béo, to lớn hay thấp lùn, có râu hay không?
- Bẩm, bấy giờ đường mờ tối, chúng tôi trông không được rõ lắm...Chỉ
trông thoáng thấy anh ta tầm thước không lớn không bé, đã hơi có tuổi, loáng
nhoáng vài cái râu...
Tri Phủ nghe đến đó quát lên rằng:
- Lính đâu! Trói cổ thằng này lại cho ta.
Vừa nói dứt lời thì lính tráng dạ vâng, đổ ra trói Đới Tung lại.
Đới Tung lấy làm ngạc nhiên mà kêu lên rằng:
- Chúng tôi có tội gì?
Tri Phủ quát lên rằng:
- Tội mầy đáng chết...nhà tao có lão họ Vương, thì đã chết rồi,
hiện nay có tên tiểu vương canh gác hãy còn trẻ tuổi, sao ngươi lại nói là đã
nhiều tuổi và có râu. Vả chăng tên tiểu vương cũng không khi nào được vào phủ
bao giờ, xưa nay phàm có thư tín ở các nơi đưa đến, thì tất do qua tay Trương
Cán Biện, đến tay Lý Đô Quản, rồi mới vào đến trong phủ, vậy có nhanh ra cũng
phải ba ngày mới lấy được hồi thư mang về. Huống chi ta đưa mấy hòm lễ vật như
vậy, lẽ đâu lại không có ai là người ở trong nhà, ra hỏi cặn kẽ đầu đuôi, mà lại
nhận liều lĩnh thế được? Cái đó tất là ngươi man trá chi đây, muốn sống phải
nói thực cho ta biết.
Đới Tung kêu lên rằng:
- Chúng tôi vì vội vàng, mong cho chóng việc, nên không kịp
xét hỏi đầu đuôi, chứ thực có điều chi dám man trá.
Tri Phủ thét tả hữu mà rằng:
- Quân nầy gan tướng cướp đây, không tra tấn sao có chịu
thú...Chúng đâu đem tra đánh xem sao?
Lính tráng nghe nói, biết chừng không thể nào nể được Đới
Tung, liền vâng lời đem ra tra tấn. Đới Tung bị đòn vọt đau đớn, từ chối không
xong, bất đắc dĩ phải tiêu xưng ra bức thư giả mạo.
Tri Phủ quát hỏi rằng:
- Bức thư ấy ở đâu mà đến đây được?
Đới Tung nói rằng:
- Khi chúng tôi đi qua đất Lương Sơn, bị bọ cướp bắt lên núi,
sau chúng lần được bức thư, liền cướp lấy cả hai hòm châu báu, rồi tha cho về.
Chúng tôi biết thế trở về không được, đã toan liều tử tử ngay, song họ nhất định
giữ gìn cẩn thận, rồi viết phong thư ấy, mà bắt phải đem về...Nhân chúng tôi
cũng sợ quở phạt đến thân, cho nên phải mạn phép Ân Tướng mà nói liều như vậy,
xin Ân Tướng xét cho.
Tri Phủ nói:
- Việc đó chắc là man trá không sai, vậy tất nhiên còn có
tính gì khác, ngươi phải nói cho rõ. Ta quyết rằng ngươi thông đồng với bọn
Lương Sơn để cướp hai hòm châu báu của ta, muốn sống phải thú mau mới được.
Chúng đâu đánh nữa cho ta xem.
Đới Tung bị tra khảo lần nữa, song chàng nhất định đau, mà
không dám đem chân tình ra thổ lộ. Tri Phủ tra hỏi hồi lâu, thấy lời lẽ trước
sau như một, liền bất đắc dĩ sai đóng gông Đới Tung, mà cho giam xuống ngục.
Khi tra hỏi xong rồi. Tri Phủ liền vào nhà trong cảm tạ Hoàng
Văn Bính mà rằng:
- Việc nầy nếu không có Thông Phán chỉ giáo cho, thì tất là
nguy hiểm chứ không chơi.
Hoàng Văn Bính lại nói với Tri Phủ rằng:
- Người ấy chắc là thông đồng với bọn Lương Sơn Bạc để mưu việc
phản nghịch, vậy nếu không sớm liệu trừ đi, thì tất là sinh sự về sau...
Tri Phủ nói:
- Bây giờ chỉ đem hai thằng ấy kết án mà xử tử ngay đi, rồi sẽ
biểu tấu triều đình mới được.
- Tướng Công nghĩ thế thực phải lắm, làm như vậy một là triều
đình cũng biết được tài mẫn cán của Tướng Công, hai là bọn Lương Sơn khỏi đến
đây để cướp ngục, thì tất nhiên khỏi sinh nhiễu loạn về sau.
- Vâng, việc đó tôi phải biểu tấu triều đình, rồi xin để bảo
cử cho Thông Phán một thể.
Hoàng Văn Bính nghe nói cả mừng, so vai rụt cổ nịnh hót một hồi
lâu mới đứng lên từ tạ ra về.
Gớm quân khốn nạn đê hèn,
Tài thua sức kém còn ghen ghét người.
Rồi đây lay đất chuyển trời.
Tiền nhân phổng thoát với đời được chăng?
Mấy hôm sau, Tri Phủ gọi người Khổng Mục là người làm văn án
lên, truyền lập án Tống Giang cùng Đới Tung, để đến ngày sau nữa đem ra chém.
Người Khổng Mục này là một người họ Hoàng, vốn thân mật với Đới
Tung xưa nay, song cũng không có cách gì cứu gỡ cho được, liền bẩm với Tri Phủ
rằng:
- Ngày mai là ngày kỵ nhật của quốc gia, ngày kia là ngày tết
Trung Nguyên rằm tháng Bảy, đều không nên hành hình cả, đến ngày thứ ba cũng là
ngày cảnh mệnh của nhà nước, vậy thì để năm hôm nữa thì mới có thể thi hành được.
Tri Phủ nghe nói cũng cho là phải, liền theo lời Khổng Mục mà để đến sáu hôm
sau.
Sáng sớm hôm thứ sáu, Tri Phủ sai quét dọn pháp trường, ở sau
con đường chữ thập, rồi kiểm điểm bộ binh cùng các tay đao trượng, ước hơn năm
trăm người, đều tề tựu ở trước nơi nhà ngục.
Vào khoảng giờ Tỵ hôm ấy, ngục quan vào bẩm với Tri Phủ để ra
giám trảm. Hoàng Khổng Mục đem bản án lên trình quan Phủ, rồi viết hai chữ
"Trảm" rất to, mà niêm yết ra ngoài pháp trường. Bấy giờ các Tiết Gấp
và cùng Lao Tử ở đất Giang Châu, ai cũng lấy làm phàn nàn thương tiếc cho Đới
Tung, mà không còn kế chi cứu được. Khi các công việc sửa soạn xong, lệnh quan
trên bắt Tống Giang, Đới Tung đem búi ngược tóc lên, cắm bông hoa giấy đỏ lên đầu,
dắt đến trước mặt thân án, cho mỗi người ngồi ăn bát cơm từ giã với đời, rồi
sáu bảy mươi tên ngục tốt cùng dong ra ngoài pháp trường.
Bấy giờ nhân dân ở đất Giang Châu, kéo đàn kéo lũ đi xem,
không biết mấy ngàn người mà kể. Chúng dong phạm nhân ra đến pháp trường, rồi đặt
Tống Giang ngồi quay mặt sang Nam, Đới Tung ngồi quay mặt sang Bắc, để đợi đến
giờ Ngọ là quan giám trảm.
Bọn nhân dân kéo đi xem, ngửa trông thấy trên bản án viết có
mấy câu rằng:
- "Phủ Giang Châu xử hai tên phạm; Một tên là Tống Giang
ngâm thơ phản nghịch, kết bọn Lương sơn để gây một đường rối loạn, tội nên xử
trảm. Một tên là Đới Tung, thông với Tống Giang, đưa thư cho bọn Lương Sơn Bạc
để mưu phản lại triều đình, tội nên xử tử. Giám trảm quan là Sài mỗ, Tri Phủ
Giang Châu".
Được một lát Tri Phủ cỡi ngựa ra đứng ở pháp trường, để đợi
báo đúng giờ là truyền cho hạ thủ. Chợt đâu thấy bên đông pháp trường có bọn ăn
mày chen vào xem chém, tụi thổ binh ngăn cản không xong, đôi bên liền ầm ĩ cả
lên.
Đương khi ấy, thì phía bên tây lại có bọn bán thuốc cao len
vào. Bọn thổ binh thấy vậy quát lên rằng:
- Chúng bây người ở đâu? Có biết gì không? Ai cho phép len
vào đây để xem?
Lũ đánh gậy bán thuốc cao đáp lên rằng:
- Chúng tôi đây đến phủ huyện nào, mà không vào xem được. Dẫu
cho Thiên Tử chém người, cũng còn cho người dân vào xem, huống chi một chỗ đất
cỏn con này, mà lại không vào xem được hay sao?
- Đuổi chúng nó ra, không cho chen vào đấy.
Chưa dứt lời, thì đã thấy phía bên Nam pháp trường có một tụi
phu gánh cũng sấn sỉ mà cùng nhau chen vào.
Lũ thổ binh quát hỏi rằng:
- Chúng bây người ở đâu? Mà dám chen vào đây?
Bọn phu gánh đáp rằng:
- Chúng tôi gánh các đồ vật, để đưa cho Tri Phủ Tướng Công
đây.
Bọn thổ binh ngăn lại mà rằng:
- Có phải là người nhà quan Phủ, thì bây giờ cũng không đi
qua đây được.
Bọn phu gánh thấy vậy, liền hạ gánh xuống, rồi đứng len lỏi
vào trong đám đông người để xem. Chợt đâu thấy phía Bắc, có một đám buôn, kéo
hai xe gỗ đến, đẩy xô mọi người mà toan vào pháp trường. Tụi thổ binh thét mắng
đuổi ra mà rằng:
- Các anh đi đâu thế nầy.
Lũ lái buôn đáp rằng:
- Chúng tôi phải đi có việc cần, xin các ông cho phép chúng
tôi đi qua đây...
Lũ thổ binh lại quát mắng rằng:
- Các anh nói lạ, ai cho các anh đi lối nầy? Có vội kiếm lối
khác mà đi.
Bọn lái buôn cười rằng:
- Các bác nói dễ nghe chưa? Chúng tôi ở Kinh Sư đến đây, còn
biết lối cóc nào nữa? Chỉ có một con đường lớn nầy phải cho đi mới được.
Nói xong toan chen lấn đi vào, song bọn thổ binh nhất định
không nghe, mà cố dồn để đuổi ra. Đám lái buôn bất đắc dĩ phải dừng xe lại, rồi
trèo lên xe để xem. Được một lát, trong pháp trường có người báo lên rằng:
- Bây giờ đúng giờ Ngọ ba khắc rồi.
Giám Trảm Quan nghe báo, liền truyền lệnh rằng:
- Cho phép chém.
Bọn lính coi tù vâng lệnh tháo gông cho tội nhân, rồi hai người
hành hình cầm đao ra để chém.
Bấy giờ bọn lái buôn đứng trên xe kia, nghe thấy ba tiếng
"Cho phép chém",một người thì lấy thanh la ở trong bọc ra mà đánh lên
mấy tiếng rất to, rồi bỗng dưng tứ phía đều nhao nhao lên như vỡ chợ vậy. Đoạn
rồi ở trên gác hàng nước, bên cạnh con đường Thập Tự, có một anh chàng cởi trần
trùng trục, mình đen chùi chũi, tay cầm hai cây búa, thét lên một tiếng như sấm
động vang trời, mà nhảy ngay xuống pháp trường, vung cái búa lên chém luôn hai
người hành hình, rồi quay ra đuổi chém Giám Trảm Quan. Bọn thổ binh thấy vậy, vội
vàng xô nhau để ngăn cản, song không sao mà chống cự cho nổi, chúng liền hớt hơ
hớt hãi túm đến cứu Giám Trảm Quản, là Sài Tri Phủ để chạy trốn cho mau.
Khi đó lũ ăn mày ở phía Đông, đều tuốt dao nhọn ở trong mình
ra, để đánh giết thổ binh. Phía bên Tây, tụi đánh gậy bán thuốc cao, đám
phu gánh bên Nam cũng múa đòn gánh lên, gặp ai thì phang cho người ấy, làm cho
bọn lính ngục, và thổ binh ngã chết không biết bao nhiêu mà kể. Còn bọn lái
buôn ở phía Bắc, thì nhảy xuống xe, quay xe ngăn lấy lối đi, rồi hai anh xông
vào cướp lấy Tống Giang cùng Đới Tung, còn bọn người thì hoặc bắn cung, hoặc
ném đá, hoặc đánh gươm giáo, mà giết hại thổ binh chết như canh hẹ.
Nguyên bọn lái buôn này là Tiều Cái, Hoa Vinh, Hoàng Tín, Lã
Qương, Quách Thịnh. Bọn phu đánh gậy bán thuốc cao là Yên Thuận, Lưu Đường,
Đỗ Thiên, Tống Vạn. Bọn phu gánh là Chu Quý, Vương Nụy Hổ, Trịnh Thiên Thọ,
Thạch Dũng. Và bọn ăn mày kia là Nguyễn Tiểu Nhị, Nguyễn Tiểu Ngũ, Nguyễn
Tiểu Thất cùng Bạch Thắng, cộng tất cả là mười bảy vị Lương Sơn Bạc, hơn một
trăm lâu la giả dạng làm các hạng người, mà đánh cướp pháp trường ở đó.
Khi ấy Tiều Cái trông thấy anh chàng đen lớn; vác hai cây búa
xông pha tả hữu, đánh giết ầm ầm, thì trong bụng lấy làm ngờ ngợ, không biết là
ai. Sau lại nhớ ra khi trước Đới Tung thường nhắc đến tên anh Hắc Toàn Phong Lý
Quỳ, đi lại với Tống Giang rất là thân ái, liền hỏi to lên rằng:
- Hảo hán kia có phải là Hắc Toàn Phong đó chăng?
Anh chàng kia không trả lời, cứ lẳng lặng vác hai cây búa mà
chém giết loang loáng như sét đánh ngang trời. Tiều Cái biểu hai người cõng Tống
Giang cùng Đới Tung phải theo sau anh chàng to lớn ấy mà chạy.
Đương lúc bấy giờ, trên con đường chữ Thập kia, vô luận là
quân dân lính tráng, hoặc người bị thương, hoặc người bị giết, nằm vật ngổn
ngang không biết tới đâu mà kể. Còn bọn đàn anh và tụi lâu la kia, đều theo anh
chàng đen lớn mà chạy ra ngoài thành, và để cho bọn Hoa Vinh, Hoàng Tín, Quách
Thịnh, bốn người cầm bốn tay cung đi sau, mà bắn chặn lấy đường; khiến cho quân
dân ở đất Giang Châu không có ai dám gan theo đuổi.
Khi đó chàng đen lớn kia, vừa đi vừa chém, máu me đầm đìa khắp
cả chân tay, mà vẫn còn hăng hái chém giết.
Tiều Cái liền cầm đao thét lên rằng:
- Đại Hán kia, không can thiệp gì đến nhân dân, không được
chém người ta nữa.
Anh chàng kia im lặng không thèm nghe đến, cứ phăm phăm múa
đôi đại phủ mà chém rẽ người ta để đi. Ước chừng đi được bảy tám dặm đường, thì
có một giải trường giang chắn ngang trước mặt, Tiều Cái lấy làm lo sợ, không
còn biết lối nào mà chạy trốn cho thoát.
Bấy giờ anh chàng đen lớn kia nói lên rằng:
- Không ngại gì hãy đem Ca Ca vào trong miểu kia đã. Chúng
nghe nói, liền kéo nhau để xem, thấy bên sông có một tòa cổ miếu, hai bên cửa vẫn
đóng chặt. Chàng đen lớn kia vác đôi phủ, đến chém phá tung cửa ra cho mọi người
vào.
Khi vào tới nơi, thấy thông xanh liễu tốt cây cỏ um tùm, trước
cửa có cái biển thiếp vàng bốn chữ "Bạch Long Thần Miếu" rất to, bọn
tiểu lâu la cõng Tống Giang cùng Đới Tung đặt nghỉ ở đó.
Lúc ấy Tống Giang mới mở mắt ra, trông thấy Tiều Cái cùng mọi
người thì gạt hai hàng lệ mà nói rằng:
- Chẳng hay là gặp nhau trong giấc chiêm bao?
Tiều Cái an ủi Tống Giang mà rằng:
- Đó chẳng qua nhân huynh không chịu ở sơn trại, cho nên mới
xảy ra như vậy...Song không biết rằng anh chàng đen lớn ra sức cứu giúp kia là
ai?
Tống Giang đáp rằng:
- Ấy chính là Hắc Toàn Phong Lý Quỳ đấy, anh ta đã mấy lần
xui tôi vượt ngục mà ra, song tôi sợ không sao mà chạy thoát được, nên không
dám nghe lời.
Tiều Cái kính phục mà khen rằng:
- Được một người cố công ra sức, không ngại búa rìu can đảm
như thế, thực là hiếm có.
Hoa Vinh liền bảo chúng lấy quần áo đưa cho Tống Giang và Đới
Tung mặc, rồi cùng ngồi bàn định với nhau.
Đương khi ấy trông thấy Lý Quỳ tay cầm đôi phủ, ở dưới hành
lang chạy lên, Tống Giang liền gọi mà hỏi rằng:
- Anh em đi đâu thế?
Lý Quỳ đáp rằng:
- Tôi đi tìm thằng coi miếu để giết nó đi một thể, nó làm cái
gì mà ban ngày ban mặt cũng cứ đóng cửa, không biết rằng nó trốn đi đâu mà tìm
mãi không thấy... ?
Tống Giang gạt đi mà rằng:
- Ngươi hãy đến đây để chào các Ca Ca Đầu Lĩnh đã.
Lý Quỳ nghe nói, liền vứt đôi phủ xuống mà quay mặt vào Tiều
Cái rồi quỳ vội mà rằng:
- Xin Ca Ca chớ cười Thiết Ngưu này lỗ mãng.
Nói đoạn lại quay ra chào hỏi mọi người, và nhận được Chu Quý
là người đồng hương, thì đôi bên lấy làm hoan hỷ vô cùng.
Bấy giờ Hoa Vinh nói với mọi người rằng:
- Vừa rồi Ca Ca truyền lệnh cho anh em cứ theo Lý Ca mà chạy,
vậy bây giờ đến đây trước mặt có con sông ngăn trở, mà thuyền bè không có, thì
đi làm sao được?
Lý Quỳ ứng lên rằng:
- Cái đó không cần, tôi với các bác, ta hãy kéo cả vào thành,
tìm thằng Sài Tri Phủ, mà giết phăng nó đi rồi sẽ liệu.
Đới Tung vội ngăn rằng:
- Làm như thế không được, trong thành có tới bảy tám trăm
quân, nếu mình sấn vào, thì lỡ ra nguy mất.
Nguyễn Tiểu Ngũ nói lên rằng:
- Ở bến sông xa kia có mấy chiếc thuyền để anh em tôi lội
sang cướp đem về đây, mà chở người vào thành, thì có lẽ tiện hơn.
Tiều Cái khen phải mà rằng:
- Nếu thế thì còn gì hơn nữa. Nói đoạn thì ba anh em họ Nguyễn
cởi trần cầm đao, nhảy xuống sông mà bơi cướp lấy thuyền.
Ba người lội dưới sông, thì thấy mấy chiếc thuyền kia thổi
còi lên hiệu mà kẽo kẹt chèo thuyền, thấy mỗi thuyền, mỗi người cầm một thứ
binh khí trong tay hết thẩy.
Chúng thấy thế, đều kinh ngạc mà nhao nhao cả lên. Tống Giang
nghe thấy chúng kinh hãi, thì cũng than thân gặp bước cùng đường, bèn chạy ra
trước cửa miếu bên sông, nom thấy một đại hán đứng ở trên thuyền, tay cầm binh
khí mặc giáp có kính đỏ, yểm tâm, coi rất hùng dũng, thổi sáo mà tới.
Tống Giang nom xem nhận ra là Trương Thuận, bèn vẫy tay gọi.
- Anh em đến cứu tôi với!
Trương Thuận biết là Tống Giang gọi đến, liền chèo thuyền
nhanh tới bờ. Ba anh em họ Nguyễn lui bước lại, rồi lũ Trương Thuận lên tới miếu.
Tống Giang đón tiếp. Trương Thuận dẫn đến mươi người khỏe mạnh ở dưới thuyền
lên. Lại thấy cả Trương Hoành, dẫn Mục Hoằng, Mục Xuân, và Tiết Vĩnh, và một số
trang khách ở dưới thuyền lên. Đến chiếc thuyền thứ ba, thấy Lý Tuấn, dẫn Lý Lập,
Đồng Uy, Đồng Mãnh, và mươi người trang khách khỏe mạnh, đều cầm thương gậy lên
bờ.
Trương Thuận gặp được Tống Giang lấy làm mừng rỡ, khóc mà sụp
lạy nói rằng:
- Từ khi nghe tin Ca Ca bị bắt, khiến tôi ngồi đứng không
yên, mà không còn cách nào cứu được. Lại nghe cả Đới Viện Trưởng cũng bị giam
giữ, mà tôi tìm Lý Đại Ca cũng chả thấy đâu. Sau chúng tôi đến nhà Mục Thái
Công, rủ những anh em quen biết, đem số trang khách, để phá ngục Giang Châu cứu
lấy Ca Ca và Đới Viện Trưởng.
- Nào ngờ nhân huynh đã được các vị hào kiệt cứu ra, còn họp ở
chốn này, vậy dám hỏi các vị hảo hán đây có phải là những nghĩa sĩ của Tiểu
Thiên Vương ở Lương Sơn Bạc chăng?
Tống Giang bèn trỏ vào Tiều Cái mà giới thiệu rằng:
- Đây là Tiều Thiên Vương Ca Ca, cùng các vị nghĩa sĩ, vậy
xin các anh em hãy vào trong miếu, để cùng nhau gặp mặt.
Bấy giờ lũ Trương Thuận chín người, lũ Tiều Cái mười bảy người,
và Tống Giang, Đới Tung, cùng Lý Quỳ, cộng tất cả hai mươi chín người, đều hội
họp ở Bạch Long miếu. Sau khi hai mươi chín vị làm lễ ra mắt nhau; thì tiểu lâu
la vào miếu báo rằng:
- Nay thành Giang Châu, khua chiêng dóng trống, cờ xí rợp trời,
sửa soạn binh mã đuổi theo để đánh, gần tới miếu Bạch Long, việc nguy cấp lắm.
Lý Quỳ nghe nói, thét lên một tiếng, cầm hai đại phủ mà đi,
ra khỏi cửa.
- Nếu muốn rửa hận giết đám tham tàn, thì Tiều Cái xin cùng
các vị hảo hán, cùng nhau ra sức giết lũ quan quân, mới trở về Lương Sơn Bạc.
Chúng anh hùng đều nói lên:
- Theo lệnh.
Lúc ấy một trăm năm mươi người đón đánh quan quân thành Giang
Châu, khiến cho máu chảy đầy sông, xương phơi khắp chốn.
Thực là:
Anh hùng mới thực anh hùng,
Đất bằng nổi sóng đùng đùng bởi đâu?
Quyền môn muốn những đè đầu,
Ngán lời cẩu trệ vuốt râu báo hùm!
Lời bàn của Thánh Thán:
Theo phép nhà văn tả việc gấp, không thể dài lời nhiều bút,
vì dùng nhiều bút, thì việc thấy hoãn đi không còn gấp nữa. Thế mà sách này
không thế, tả việc gấp, vẫn dùng nhiều bút mực với nhiều lời, vì rằng dùng ít
bút mực, thì việc gấp giải đi. Đây tả việc gấp vẫn nhiều lời, toàn là những lời
của việc gấp, như con người mưu nghịch Tống Giang, Đới Tung quyết không đợi
mãi, dẫu được Hoàng Khổng mục kéo dài ra năm ngày, cho đến ngày cuối cùng, đã
thành mây cùng nước tận, bấy giờ chỉ đợi đến giờ Ngọ ba khắc, thì phải khai
đao, thì phải kết thúc.
Thế mà đoạn văn ấy tả ra, nào là buổi sáng ăn cơm sớm, rồi sửa
soạn pháp trường, nào là thổ binh mang khí giới chỉnh tề, đến giờ Tỵ ngục quan
bẩm trình quan Giám Trảm, Khổng Mục cũng trình mọi công việc tới kỵ Nào là tả Tống
Giang, Đới Tung xõa tóc cắm bông koa giấy, trước khi xử trảm cho uống rượu, ăn
cơm bữa cuối cùng từ giã cõi đời. Nào là số sáu bảy mươi kẻ ngục tốt, đều
đổ cả ra. Rồi lại tả trên đường Thập Tự giáo mác chung quanh, một kẻ quay
mặt về Nam, một kẻ quay mặt về Bắc, để đợi Giám Trảm Quan đi tới. Nào tả số
người ra vào chen xem, chưa thấy quan Giám Trảm tới. Trước khi đó tuyên án
xử trảm hai người, tên mỗ vì phạm tội nầy, theo luật phải xử trảm... Tên mỗ vì
phạm tội nầy, theo luật phải xử trảm... Một lát sau Quan Phủ tới, dừng ngựa lại
đợi đến giờ Ngọ ba khắc thì xử trảm. Quan Giám Trảm đã tới, chỉ đợi đến giờ,
khiến độc giả xem tới ba chữ "Ngày thứ sáu" phải đến khiếp lên, đọc một
câu thấy khiếp một câu, đọc một chữ mà kinh một chữ... Đoạn văn có tả kỹ càng
như thế, làm sống lại cảnh kinh người, mới thấy đoạn văn sau biến ra kỳ tuyệt.
Hồi này rất khéo, ở chỗ tới ngày mai xử quyết như sấm nhanh không kịp bịt tai.
Thế mà bây giờ đã có người báo cho Sơn Bạc, há phải tới nơi không phép Rút Đường. Nào
ai biết hai người có tình phận với Lương Sơn Bạc, nay ở hồi trước Ngô Dụng đã dự
đoán việc sai lầm, vội vàng trao kế cho đám hảo hán hạ sơn, khi đi đường vài
ngày, thì vừa gặp Khổng mục xin hoãn được năm ngày, khiến mấy đám tới nơi, đến
thời vừa việc, đã nên khéo léo! Lại tả sau khi việc Đới Tung lộ ra, không nói đến
hai tay Lý Quỳ, Trương Thuận, chả những không thấy, còn chép thêm mọi người
(đám ngục tù và người quen thuộc) thương xót, cho thấy khác đi, khiến độc giả
cũng thêm buồn, tới khi đọc đến chàng đại hán đen chũi to lớn, chẳng ngờ khiếp
vía sởn gai. Và sau Trương Thuận chèo thuyền đi đến, laị làm cho người ta
không mơ tưởng tới, mới thấy rõ kỳ văn.
Hồi 40:
Tống Giang mưu đánh Quân Vô Vị;
Tống Giang mưu đánh Quân Vô Vị;
Trương Thuận bắt sống Hoàng Văn Bính
Bấy giờ quân mã thành Giang Châu bị bọn hảo hán Lương Sơn Bạc
đánh riết, phải rút lui về thành, bọn Lương Sơn theo đuổi đến thì cửa thành đã
đóng giữ kiên cố, ném đá bắn tên ra, bọn hảo hán vây hãm vài ngày, xét đánh
thành không tiện, mới rút lui về miếu Bạch Long để xuống thuyền, Tiều Cái kiểm
điểm số quân đầy đủ, rồi xuống thuyền lại gặp gió xuôi, nên đi nhanh chóng. Ba
chiếc thuyền chở đầy người ngựa, thẳng tới Mục Gia Trang, mới dẫn chúng lên bờ.
Mục Hoằng mời các vị hảo hán vào trang yên nghỉ. Mục Thái Công ra đón mời bọn Tống
Giang vào.
Mục Thái Công nói:
- Các vị Đầu Lĩnh mấy hôm nay khó nhọc, hãy vào ở trang đây tạm
nghỉ và sửa sang quần áo, khí giới, nhất diện sai người giết bò, lợn, gà, vịt,
cùng bầy các trức trân hào dị vị để thiết đãi.
Trong khi chè chén chuyện trò. Tiều Cái nói anh em họ Mục rằng:
- Nếu không được hai vị Ca Ca đem không xuống cứu, thì chúng
tôi tất bị bắt chứ không chơi.
Mục Công hỏi rằng:
- Vì cớ sao, các ông lại đi đường ấy?
Lý Quỳ đáp luôn rằng:
- Chúng tôi chỉ chọn chỗ nào đông người, là chém giết để đi,
rồi sau họ đến đuổi chúng tôi, có ai lại gọi nó đến bao giờ?
Chúng nghe nói đều vỗ tay cả cười. Tống Giang đứng dậy nói với
mọi người rằng:
- Tống Giang tôi nếu không được các ngài cứu giúp, thì tất là
cùng với Đới Viện Trưởng chịu chết trong cơn phí mạnh, vậy ân đức ngày nay như
trời như bể, biết bao giờ báo đáp cho xong? Chỉ giận tên Hoàng Văn Bính đã mấy
phen độc hại chúng tôi, nếu không làm cho chúng nó biết tay, thì tấm lòng phẫn
hận bao giờ nguôi được. Vậy xin các vị hảo hán hãy rộng ơn đến đánh Vô Vi Quân,
để bắt giết tên Hoàng Văn Bính, thì lòng này mới được nguôi ngoai một chút, các
ngài nghĩ sao?
Tiều Cái đáp rằng:
- Chúng ta đi thế này, chỉ khả dĩ làm một lần thì được, nếu
làm đến hai lần thì tất là nguy hiểm, vì hiện nay họ phải phòng bị sẵn sàng,
khó lòng mà đánh được. Vậy bắt buộc hãy cùng về sơn trại, rồi cùng với Ngô Học
Cứu, Công Tôn Thắng và bọn Lâm Xung, Tân Minh đến cứu, như thế thì tiện hơn.
Tống Giang nói:
- Nếu đã trở về sơn trại, thì không còn thể nào mà lại đây được.
Vì một sự đường sá xa xôi, hai là đất Giang Châu tất nhiên tư giấy má đi các nơi
mà canh phòng cẩn mật, thì bấy giờ còn làm gì được nữa? Vậy nay có muốn hạ thủ,
thì nhân lúc họ chưa kịp phòng bị là hơn.
Hoa Vinh nói:
- Ca Ca nghĩ thế tất là phải lắm, nhưng còn ngại vì nỗi không
ai thuộc đường sang đó, thì làm sao cho tiện? Việc này tất phải có người đến dò
tin tức trong thành và xem xét đường đi lối lại thế nào, cùng là nhà cửa Hoàng
Văn Bính ở đâu, rồi mới có thể thi hành được.
Tiết Vĩnh đứng lên nói rằng:
- Chúng tôi xưa nay từng đi lại đất Vô Vị Quân, đường lối rất
là quen thuộc, vậy chúng tôi xin đi thám thính một phen, chẳng hay các ngài có
thuận thế cho không
Tống Giang mừng rỡ mà rằng:
- Nếu được hiền đệ đi giúp hộ cho, thì còn gì bằng nữa!
Tiết Vĩnh vâng lời, liền ăn uống xong rồi từ biệt mọi người,
một mình đi dò thăm tin tức. Bấy giờ bọn Tống Giang và các vị Đầu Lĩnh ở lại Mục
Gia Trang, sắm sửa các đồ khí giới cung tên, cùng thuyền bè, để đợi ngày đi
đánh Vô Vị Quân.
Cách hai hôm sau thấy Tiết Vĩnh dắt một người về đến gia
trang, mà vào lạy chào Tống Giang, Tống Giang vội đáp lễ mà hỏi Tiết Vĩnh rằng:
- Vị tráng sĩ này là ai?
Tiết Vĩnh đáp rằng:
- Người này họ Hầu tên Kiện, quê ở Hồng Đô, vốn làm nghề thợ
may, mà võ nghệ cũng giỏi. Trước đây có theo học Tiết Vĩnh này, người ta thấy
tính khí nhanh nhẹn mà người lại đen, nên thường gọi một tên là Thông Tý Viên
(Vượn nhanh tay hiện nay làm thợ may cho Hoàng Văn Bính ở Vô Vị Quân. Nhân vậy
tiểu đệ mời vào đây để hỏi chuyện cho rõ...
Tống Giang nghe nói cả mừng liền mời cùng ngồi để bàn định
các việc. Người nầy nguyên là một vị sao Địa Sát, nên tình nghĩa rất am hợp với
nhau, mà không chút gì trái ý.
Khi đó Tống Giang hỏi đến tin tức ở thành Giang Châu, cùng đường
lối đến Vô Vị Quân.
Tiết Vĩnh đáp rằng:
- Hiện nay Xài Tri Phủ kiểm điểm các quan quân cùng dân
chúng, bị chết mất hơn năm trăm người, còn bị đạn và trúng thương, không biết đến
đâu mà kể? Nay đương hai người dâng biểu cáo cấp với triều đình, và đóng kín cổng
thành tra hỏi rất là cẩn thận. Tôi xét ra việc Ca Ca bị hại, không can thiệp gì
đến Xài Tri Phủ, nguyên chỉ tại tên Hoàng Văn Bính, tam tứ phen thúc bách Tri
Phủ để thi hành thủ đoạn, nên mới xảy ra đến thế. Nay chẳng may bị ta đánh cướp
pháp trường, thì trong thành đều nhao nhao sợ hãi mà canh giữ, không còn trễ
nãi chút nào. Còn về tình thế Vô Vị Quân, thì may được Hầu Kiện đây, nên mới biết
rõ tất cả đầu đuôi.
Tống Giang quay sang hỏi Hầu Kiện rằng:
- Sao quan bác lại biết rõ đầu đuôi ở đấy?
Hầu Kiện đáp:
- Tôi thủa nhỏ thích nghề gươm giáo, sau nhờ được Tiết sư phụ
dạy bảo nên trong lòng không dám quên ơn. Mới đây Hoàng Thông Phán có thuê tôi
về may vá ở trong nhà, nhân lại được gặp sư phụ tôi, nói đến đại danh của ngài,
và kể câu chuyện vừa mới xảy ra, nên tôi lại càng sốt lòng muốn bái kiến tôn
nhan, mà vội đến đây để báo các tin tức. Nguyên Hoàng Văn Bính có một người anh
ruột là Hoàng Văn Hoa, cùng một cha mẹ sinh ra. Song Hoàng Văn Hoa là người
phúc đức hiền lành, bình sinh chỉ hay sửa cầu làm quán, tô tượng đúc chuông,, cứu
kẻ bị nguy khốn, giúp người khổ sở, cả trong thành Vô Vị ai cũng gọi ông ta là
Hoàng Diện Phật (Phật mặt vàng). Còn Hoàng Văn Bính thì dẫu là một anh Thông
Phán tại gia, song trong bụng rất thâm độc, xưa nay chỉ quen hãm hại người ta,
bởi vậy khắp trong thành ai ai cũng gọi ông ta là Hoàng Phong Thích (Nọc ong
vàng). Hai anh em ông ta ở làm hai dinh, cách nhau có một cái ngõ. Về phía bắc ở
gần thành là nhà Hoàng Văn Bính, còn nhà Hoàng Văn Hoa ở gần đường cái. Chúng
tôi ở đấy thường thấy Hoàng Thông Phán nói chuyện, là việc đó Xài Tri Phủ bị
người ta man trá, sau ông ta chỉ dẫn cho ra, và bảo Tri Phủ hãy chém những người
ấy đi rồi sau sẽ biểu tâu triều đình. Bấy giờ Hoàng Văn Hoa biết chuyện, vẫn
thường mắng nhiếc ông ta là đồ vô phúc, độc ác, không can thiệp đến mình, cũng
làm hại người ta, lỡ ra lẽ trời báo ứng, thì tội ấy ai mang? Đến hai ngày nay
nghe nói bị cướp pháp trường, thì Hoàng Văn Bính sợ hãi cuống cuồng hiện còn
vào dò tin tức, để bàn định với Xài Tri Phủ ở đất Giang Châu, đến nay cũng chưa
thấy về.
Tống Giang hỏi:
- Nhà Hoàng Văn Bính với nhà anh hắn ta cách nhau xa hay gần?
- Nguyên là một nhà ngăn ra làm đôi, khoảng giữa chỉ cách một
cái vườn mà thôi.
- Nhà anh ta có bao nhiêu người? Tất cả có mấy gian phòng?
- Nhà ấy tất cả trai gái có tới bốn năm mươi người, Tống
Giang nghe đến đó, có vẻ vui mừng mà rằng:
- Thực là trời cho ta được báo thù, nên mới đưa người dẫn lối
đến đây, song việc này tất phải nhờ anh em hết sức ra tay mới được...
Mọi người đều vỗ tay mà rằng:
- Chúng tôi xin liều chết xông pha, để khu trừ gian nhũng, mà
báo thù rửa hận cho Ca Ca...
- Việc này là chỉ tại Hoàng Văn Bính, chứ không can thiệp gì
đến thành Vô Vi; Vả chăng anh hắn là người nhân đức thì ta cũng không nên hại đến,
để thiên hạ chê cười. Anh em đi đó, chớ làm một điều chi tàn hại đến dân mới được...Nay
tôi có một kế này, mong anh em hết sức giúp tôi cho xong việc...
Các vị Đầu Lĩnh đều đồng thanh mà rằng:
- Chúng tôi xin vâng lệnh Ca Ca chỉ giáo.
Tống Giang lại nói rằng:
- Việc này tất phải phiền đến Thái Công, sắp cho tám chín
mươi túi cát, hơn trăm bó cỏ không, và trăm chiếc thuyền lớn, hai chiếc thuyền
nhỏ, để nhờ Trương Thuận, Lý Tuấn cưỡi hai chiếc thuyền con, còn trăm chiếc
thuyền lớn thì xin để Trương Hoành, ba anh em họ Nguyễn, Đồng Mãnh, cùng mọi
người bạo nghề thủy thủ coi giữ giúp cho như thế mới có thể thi hành được.
Mục Hoằng đáp rằng:
- Hiện ở nhà tôi có đủ các thức túi vải cỏ khô, cùng những
người quen nghề thủy thủ, xin Ca Ca cứ sai dùng cho được việc.
Tống Giang lại bảo với mọi người rằng:
- Nay phiền Hầu huynh dẫn Tiết Vĩnh, Bạch Thắng vào thành Vô
Vi Quân trước, đợi đến canh ba tối ngày mai, hễ nghe thấy tiếng chim đeo nhạc
bay lên, thì Bạch Thắng lên thành cắm một lá cờ lụa trắng ở gần nhà Hoàng Văn Bính,
để ra hiệu cho biết lối lên thành...Thạch Dũng, Đỗ Thiên thì giả làm ăn mày nấp
ở bên tả gần thành, cứ nom lửa làm hiệu mà xông ra giết bọn canh cửa...Còn Lý
Tuấn với Trương Thuận thì đi lại coi sóc trên sông, để đợi khi tiếp ứng...
Tống Giang cắt đặt xong rồi, Tiết Vĩnh, Bạch Thắng vâng lời
đi trước Thạch Dũng, Đỗ Thiên giả dạng ăn mày đi sau, đều thắt khí giới trong
mình cả. Đoạn rồi đem các đồ cỏ khô túi cát xếp đặt lên thuyền và sửa soạn các
đồ khí giới cùng các vị hảo hán, chia nhau xuống phục dưới thuyền. Tiều Cái, Tống
Giang cùng Hoa Vinh, xuống thuyền Đồng Uy; Yến Thuận, Vương Nụy Hổ, Trịnh Thiên
Thọ xuống thuyền Trương Hoành; Đới Tung, Lưu Đường, Hoàng Tín, xuống thuyền
Nguyễn Tiểu Nhị; Lã Phương, Quách Thịnh, Lý Lập xuống thuyền Nguyễn Tiểu Ngũ; Mục
Hoằng, Mục Xuân, Lý Quỳ, xuống thuyền Nguyễn Tiểu Thất. Còn Chu Quý, Tống Vạn ở
nhà Mục Thái Công để dò xem tin tức Giang Châu. Lại sai Đồng Mãnh chở chiếc
thuyền con đi trước, để dò thăm đường đất. Còn bao nhiêu bọn lâu la cho nấp ở
trong thuyền, rồi đêm hôm đó sai thủy thủ cùng trang khách, nhổ sào mà kéo thẳng
đến Vô Vi Quân.
Bấy giờ cuối tháng bảy, đêm hiu gió lạnh, trăng sáng bên
sông, bóng nước non xanh, trên dưới một mầu xanh biếc. Vào khoảng cuối trống
canh một, các thuyền đã đến bến sông Vô Vị, chọn một nơi ngàn lau rậm rạp mà đậu
vào ở đó.
Được một lát thấy Đồng Mãnh chèo thuyền tới nơi báo rằng:
- Trong thành hiện vẫn còn im phăng phắc, không có điều chi
là trở ngại cả. Tống Giang nghe báo, liền gọi thủ hạ cho khiêng túi cát cùng cỏ
khô, để lên bộ mà lên tới thành.
Khi nghe tiếng trống đã điểm canh hai, Tống Giang cho đem cả
cỏ khô túi cát xếp ở bên thành, để Trương Thuận, ba anh em họ Nguyễn cùng Đồng
Uy, Đồng Mãnh ở lại coi thuyền và tiếp ứng, còn bao nhiêu các vị hảo hán đều sửa
soạn quân khí mà đi lên thành. Khi đến cửa Bắc, còn cách độ nửa dặm đường, Tống
Giang sai thả chim đeo nhạc bay lên. Đoạn thấy có một ngọn trúc buộc lụa trắng,
phất phơ dựng ở trước ngọn gió trên thành, Tống Giang lại sai quân sĩ chất túi
cát vào bên thành, rồi cho vác cỏ khô đem cả lên thành.
Bấy giờ thấy Bạch Thắng ở trong chạy ra tiếp ứng, trỏ bọn hảo
hán mà rằng:
- Nhà Hoàng Văn Bính ở ngay ngõ kia.
Tống Giang hỏi ngay Bạch Thắng rằng:
- Tiết Vĩnh, Hầu Kiện ở đâu bây giờ?
Bạch Thắng đáp rằng:
- Hiện bây giờ cả hai đã vào nhà Hoàng Văn Bính chỉ đợi Ca Ca
đến đó thôi.
Tống Giang lại hỏi:
- Thạch Dũng, Đỗ Thiên ở đâu?
Bạch Thắng đáp rằng:
- Hai người ấy hiện ở bên tả thành để đợi.
Tống Giang nghe nói liền dẫn bọn hảo hán vào thành, thẳng lẻn
vào nhà Hoàng Văn Bính. Khi tới nơi, thấy Hầu Kiện đương nấp ở hiên phòng, Tống
Giang khẽ gọi ghé tai mà bảo thầm rằng:
- Anh ra cửa sau mở cửa cho quân sĩ mang cỏ khô chất vào
trong và bảo Tiết Vĩnh đem lửa đốt lên, rồi đến cửa nhà Hoàng Văn Bính kêu lên
rằng:
- "Nhà quan nhân bên kia bị cháy, cho đem các đồ vật
sang gửi" Để họ mở cửa ra, rồi ta có cách.
Tống Giang lại bảo các vị hảo hán chia làm hai đầu để coi giữ.
Bấy giờ Hầu Kiện đến mở cửa vườn sau, cho quân sĩ đem cỏ vất
vào, tìm lửa đưa cho Tiết Vĩnh đốt. Đoạn rồi Hầu Kiện chạy lẻn ra đập cửa sau
nhà Hoàng Văn Bính mà nói lên rằng:
- Nhà quan nhân bên kia bị cháy, có ít đồ đạc, cho đem sang để
nhờ, xin mở cửa ra cho mau...
Trong nhà nghe thấy tiếng gọi, vội vàng trở dậy, liền trông
sang bên cạnh vách thấy lửa sáng rực trời, liền hất hải mở cửa đi vào. Bọn Tiều
Cái, Tống Giang thừa thế kéo ùa vào, rồi ai nấy ra tay chém giết, thấy người
nào vào là trừ ngay người ấy, bốn năm mươi người lớn nhỏ trong nhà Hoàng Văn
Bính, không còn sống sót một ai, chỉ còn sống sót Hoàng Văn Bính tìm không thấy.
Các vị hảo hán liền thu thập các đồ hòm siểng gia tài cùng các đồ kim ngân bảo
vật, là của khoét hại dân gian khi trước, mà kêu báo hiệu nhau lên thành.
Đương khi ngọn lửa mới nổi, thì bọn Thạch Dũng, Đỗ Thiên rút
dao ra giết chết người lính canh cửa, rồi thấy dân sự nhao nhao bảo nhau đi ra
lấy khao lấy thanh để đến chữa cháy. Thạch Dũng, Đỗ Thiên bèn quát lên bảo rằng:
- Chúng bay đi về ngay nhà không có việc chi mà lại chạy ra
đó.
Tụi dân chúng thấy vậy, có kẻ còn đương nghi ngờ, thì bỗng thấy
Hắc Toàn Phong Lý Quỳ đương múa đôi đại phủ mà hăng hái xông vào; Bấy giờ ai nấy
kinh sợ bảo nhau vác khí giới mà chạy trốn hết cả. Mặt thành đằng sau, cũng có
mấy tên lính vác câu liêm, mỏ mác ra để cứu lửa, song bị Hoa Vinh bắn chết một
người đi đầu, còn thì bị Lý Quỳ thét đuổi, rồi kéo nhau chạy trốn cả.
Khi đó Tiết Vĩnh lại đem lửa đến châm trước đốt sau, đốt hết
cả nhà Hoàng Văn Bính, lửa cháy dần dật sáng một góc trời, như ban ngày vậy. Lý
Quỳ đuổi hết lính rồi, quay ra giơ đại phủ chém đứt then sắt, phá tung cửa
thành cho một nửa bọn người đi ra, còn một nửa thì trèo thành mà ra. Khi ra tới
ngoài, đã thấy ba anh em họ Nguyễn và Trương Hoành, Đồng Uy, Đồng Mãnh, đều tới
nơi tiếp ứng, để đem các đồ vật mà xếp xuống thuyền.
Bấy giờ mọi người ở Vô Vi Quân, đều biết tiếng bọn hảo hán ở
Lương Sơn Bạc đã đánh cướp pháp trường và giết quan quân ở đất Giang Châu không
biết đâu mà kể, bởi vậy anh nào cũng xanh mặt chùn gan, nấp vào một xó mà không
dám theo đuổi lôi thôi. Còn bọn Tống Giang tuy đã đốt hại được nhà Hoàng Văn
Bính, song hiện chưa bắt được chính kẻ oan cừu là Hoàng Văn Bính thì trong lòng
còn căm tức chưa yên, mà đành phải xuống thuyền kéo về gia trang họ Mục.
Nói về quan lính thành Giang Châu, trông thấy bên thành Vô Vi
bị cháy, thì vội vàng vào báo cho Tri Phủ biết. Bấy giờ Hoàng Văn Bính còn
đương ngồi bàn việc cùng Tri Phủ ở trong nhà, bỗng nghe tin báo như vậy thì
hoang mang bẩm với Tri Phủ rằng:
- Nếu làng tôi bị cháy, thì tôi phải xin phép về ngay mới được.
Tri Phủ nghe nói, cũng vội vội vàng vàng sai mở cổng thành, rồi
sai bắt một chiếc thuyền quan để đưa tiễn về. Hoàng Văn Bính bái tạ Tri Phủ, hất
hải đem người xuống thuyền, giục ra sức chèo mau, để về Vô Vi Quân.
Đi được một quãng, thấy lửa càng ngày càng lớn sáng cả góc trời,
bọn lái đò bảo nhau rằng:
- Ngọn lửa kia ở vào bên bắc thành Vô Vi đó.
Hoàng Văn Bính nghe nói trong lòng càng nóng nẩy sổi nổi,
thúc giục đi mau về xem. Khi đến giữa sông có một chiếc thuyền nhỏ, kẽo kẹt
chèo qua trên mặt nước, rồi một lát lại thấy chiếc thuyền con nữa chèo đến.
Bất đồ khi chiếc thuyền gần tới nơi, thì đâm chạm vào chiếc
thuyền quan, bọn lái đò bèn quát lên rằng:
- Thuyền bè ở đâu, sao lại chèo chở cập quạng thế?
Vừa nói dứt lời thì có anh chàng to lớn, tay cầm gậy móc đứng
bên thuyền kia, mà đáp lên rằng:
- Cháy ở đâu thế?
Đại hán kia nói rằng:
- Nhà Hoàng Văn Bính ở cửa Bắc, bị bọn hảo hán Lương Sơn Bạc,
giết hết người nhà, cướp hết của cải, rồi đốt cả nhà ở đó.
Hoàng Văn Bính nghe vậy, kinh hoảng cả người, vội buột mồm
kêu lên rằng:
- Khổ chưa!
Đại hán kia nghe tiếng kêu, liền vất móc ra níu thuyền quan,
rồi nhảy tót sang thuyền, Hoàng Văn Bính nhân trí khôn, vội vàng quay chạy lại
sau thuyền, mà nhảy tòm xuống nước. Chợt đâu thấy ai ở dưới nước nhô lên, nắm
chặt lấy lưng Hoàng Văn Bính mà kéo bỏ lên thuyền. Đại hán ở trên thuyền thấy vậy
liền quay lại tiếp bắt, rồi đem Hoàng Văn Bính trói ghi hắn lại.
Nguyên người lặn xuống dưới nước đó là Lãng Lý Bạch Điều
Trương Thuận, còn người cầm gậy móc trên thuyền ấy là Hỗn Giang Long Lý Tuấn.
Khi đó bọn lái đò trong thuyền quan, thấy hai người hùng dũng như vậy, thì kinh
hoàng sợ hãi, chỉ cúi đầu xuống mà kêu lạy xin tha.
Lý Tuấn liền bảo rằng:
- Ta không giết các ngươi làm chi. Đây ta chỉ bắt Hoàng Văn
Bính mà thôi, các ngươi mau đi về, bảo với thằng đầu lừa là thằng Xài Tri Phủ ở
Giang Châu rằng: Chúng ta là hảo hán Lương Sơn Bạc, hãy gởi cái đầu lừa ấy đấy,
rồi nay mai ta đến lấy nghe chưa?
Bọn lái đò run lên cầm cập vâng lời răm rắp. Lý Tuấn, Trương
Thuận bắt Hoàng Văn Bính lôi sang thuyền mình cho thuyền quan chèo đi rồi cũng
cùng chèo mà đưa nhau về Mục Gia Trang.
Khi về tới bến, đã thấy các vị Đầu Lĩnh đứng đợi trên bờ, mà
mang cả hòm tiền nong lên đó. Bọn hảo hán thấy nói là bắt được Hoàng Văn Bính,
thì ai nấy đều hớn hở vui mà nói lên rằng:
- Ta đương muốn giáp mặt người ấy, để hỏi mấy câu đây.
Lý Tuấn, Trương Thuận giải Hoàng Văn Bính lên bờ, cho mọi người
xem mặt, rồi cùng nhau kéo vào Mục Gia Trang. Bấy giờ Chu Quý, Tống Vạn tiếp mọi
người vào trong thảo sảnh, rồi Tống Giang sai đem Hoàng Văn Bính lên, lột hết cả
quần áo ướt, trói ra ngoài gốc cây dương liễu, đoạn rồi các vị Đầu Lĩnh theo thứ
tự mà ngồi.
Tống Giang lấy rượu ra uống mừng, trên Tiều Cái dưới đến Bạch
Thắng, tất cả hơm ba mươi vị hảo hán, đều cất chén cui mừng suốt lượt.
- Đồ khốn nạn, ta với người xưa nay có điều gì thù oán, mà
ngươi nỡ tâm tàn hại, đôi ba phen xui giục Xài Tri Phủ, để giết hại chúng ta là
nghĩa lý gì? Ngươi đã đọc sách thánh hiền, sao còn chứa lòng hung ác, làm những
sự tàn nhẫn đê bèn như thế? Ta có giết cha mẹ nhà ngươi đâu mà ngươi nỡ giết
ta? Anh ngươi là Hoàng Văn Hoa với người cùng một mẹ sinh ra, sao ông ta từ thiện
như thế kia, khiến được khắp thành ai cũng xưng là Hoàng Diện Phật, đêm nay ta
cũng không hề dám động đến nhà ông ta. Đến như ngươi thì toàn thị ỷ quyền ỷ thế,
hãm hại lương dân, mà làm cho đám tham quan, nên người quen đó ai cũng gọi như
là Nọc ong vàng. Vậy ngày nay ta bắt được đây, thì ta hãy nhổ hộ cái nọc ấy đi
xem sao?
Hoàng Văn Bính nói rằng:
- Tôi đây biết tội đã nhiều, chỉ xin một chết là xong.
Tiều Cái nói rằng:
- Nếu mầy biết tội, thì mày không dám làm như thế.
Tống Giang liền hỏi rằng:
- Trong anh em ai ra hạ thủ cho ta?
Nói vừa dứt lời, thì Lý Quỳ nhảy lên đáp rằng:
- Tôi xin hạ thủ, để tôi xem thịt nó có béo, thì đem nướng mà
đánh chén.
Tiều Cái khen phải mà rằng:
- Dao nhọn và lò lửa đây cắt ra từng miếng thịt mà nhắm rượu,
cho hả lòng hiền đệ ta.
Đoạn rồi Lý Quỳ vác con dao nhọn, đến trước mặt Hoàng Văn
Bính, cười mà nói rằng:
- Thằng này mọi khi hay nấp ở xó nhà Xài Tri Phủ, hay nói
chuyện thay đen đổi trắng. Chàng cắt mãi hết thịt đùi rồi, mới mổ bụng moi gan,
để lên các vị Đầu Lĩnh làm thang tỉnh rượu.
Khi các vị giết xong Hoàng Văn Bính, liền cùng nhau vào thảo
đường để mừng rỡ Tống Giang. Bấy giờ Tống Giang quỳ xuống đất trước các vị Đầu
Lĩnh cũng vội vàng quỳ xuống, mà đồng thanh hỏi rằng:
- Ca Ca có việc gì, xin cứ nói cho chúng tôi nghe?
Tống Giang nói rằng:
- Tống Giang tôi là kẻ bất tài, thủa nhỏ học nghề làm lại bước
ra đời đã chăm chăm kết giao với các vị hảo hán anh tài, song chỉ vì chí hèn sức
kém, mà không sao cho được thỏa dạ bình sinh. Mới đây bị đầy sang đất Giang
Châu, Tiều Đầu Lĩnh và các vị hào kiệt đã hết lòng giữ lại, duy Tống Giang nhân
vì kính giữ lời cha, nên không dám dấn thân vào nơi phi pháp. Song cũng may, vì
đó mà qua bến Tầm Dương lại gặp được biết bao nhiêu hào kiệt, trong lòng thực
vui vẻ khôn cùng. Ngờ đâu sau lại vì con say rượu nói càn, để suýt lụy đến tính
mạng Đới Viện Trưởng ở đây, tội ấy tưởng không bao giờ thoát được. Nay may có
các vị anh em không vì cơn nguy hiểm, xông pha vào nơi miệng rắn hang hùm, mà cố
sức cứu toàn tính mệnh, và báo được oan cừu, ân đức thực không kém chi trời bể,
song ngày nay đã làm nên tội ác, giết hại hai chốn châu thành, việc ấy tất
nhiên thân tấu triều đình, mà lôi thôi lắm chuyện. Vậy ngày nay Tống Giang dẫu
không muốn nương tựa các vị Ca Ca ở trên núi Lương Sơn Bạc, cũng không còn trốn
tránh đi cho được, song không biết ý kiến các vị mới đây nghĩ sao? Nếu có đồng
ý như vậy, thì lập tức thu thập để đi, bằng không cũng xin tùy ý, kẻo nấn ná ở
đây, sợ khi lỡ sự ra thì...Vừa nói đến đó, thì thấy Lý Quỳ nhảy lên mà kêu rằng:
- Đi tất cả...Đi tất cả...Ai không đi theo, thì xin tặng một
nhát búa của ta là xong.
Tống Giang nói:
- Lý Quỳ thô mãng quá, việc này phải hỏi ý kiến tất cả anh
em, có bằng lòng mới được.
Chúng nghe nói, liền bàn với nhau rằng:
- Bây giờ đã giết hại bao nhiêu quan quân nhân mã, quấy rồi cả
hai chốn kinh thành, tất nhiên họ phải tâu với triều đình mà đem quân truy nã,
nếu vậy không theo huynh trưởng mà đồng sinh đồng tử với nhau, thì cũng không
còn trốn đâu cho được.
Tống Giang nghe vậy cả mừng mà bái tạ mọi người. Đoạn rồi cho
Chu Quý, Tống Vạn trở về báo cho sơn trại biết trước, rồi các vị hảo hán chia
làm năm đội mà kéo đi sau: Đội thứ nhất: Tiều Cái, Tống Giang, Hoa Vinh, Lý Quỳ,
Đới Tung, đội thứ nhì: Lưu Đường, Đỗ Thiên, Thạch Dũng, Tiết Vĩnh, Hầu Kiện; đội
thứ ba: Lý Tuấn, Đồng Mãnh; đội thứ tư: Hoàng Tín, Trương Thuận, Trương Hoành,
cùng ba anh em họ Nguyễn. Đội thứ năm: Mục Hoằng, Mục Xuân, Yến Thuận, Vương Nụy
Hổ, Trịnh Thiên Thọ, Bạch Thắng. Tất cả năm đội hai mươi tám vị Đầu Lĩnh, đem
hơn một nghìn người, cùng các tài vật lấy ở nhà Hoàng Văn Bính mà xếp vào xe
mang đi.
Mục Hoằng dẫn Mục Thái Công, cùng các người nhà xếp hết tài vật
châu báu lên xe; người nào không muốn theo, thì cho tiền đi tìm chủ khác, còn
người nào muốn theo, đều cho nhập vào một bọn, bốn đội trước thứ tự đi trước, rồi
Mục Hoằng thu thập xong đâu vào đấy, cho mồi lửa đốt hết trang viện, bỏ hết ruộng
đất, mà kéo nhau lên núi Lương Sơn.
Bấy giờ năm đội lục tục tiến đi, mỗi đội cách nhau ước chừng
hai mươi dặm đất. Đội thứ nhất, Tiều Cái, Tống Giang, Hoa Vinh, Đới Tung, Lý Quỳ,
cưỡi năm con ngựa, dẫn xe cộ cùng người đi theo.
Đi được ba ngày đường, đến một nơi gọi là Hoàng Môn Sơn, Tống
Giang ngồi trên mình ngựa bảo với Tiều Cái rằng:
- Tòa núi này nom hình thế cổ quái lắm, tất là có bọn giặc cướp
ở đây, vậy ta nên cho người đi thúc nhân mã bốn đội sau lên đây, rồi sẽ cùng đi
một thể.
Vừa nói dứt lời, thì thấy trên góc núi trước mặt, có tiếng
thanh la ấm ỹ cả lên, Tống Giang lại nói rằng:
- Đó! Có sai đâu, ta hãy thong thả đợi bọn sau lên, rồi sẽ
đánh cho nó một mẻ.
Nói đoạn Hoa Vinh cầm cung ra tay, Đới Tung cầm đao lớn, Lý
Quỳ cầm đôi đại phủ, vây quanh Tống Giang để cùng xốc ngựa đi lên. Đi được mấy
bước, thấy bên góc núi có bốn vị hảo hán, dẫn bốn năm trăm tiểu lâu la, cầm các
đồ binh khí xông ra mà quát lên rằng:
- Lũ ngươi quấy rối đất Giang Châu đánh Vô Vi Quân, giết hại
biết bao nhiêu quan quân dân chúng, lại toan về núi Lương Sơn. Bốn anh em ta đợi
đã lâu, có biết phép ra cứ để Tống Giang lại đó; thì ta tha tất cả cho mà đi.
Tống Giang nghe nói, liền xông ra nhảy xuống ngựa, quỳ xuống
đất mà nói rằng:
- Tôi là Tống Giang bị người ta vu oan hãm hại, không biết
kêu nói vào đâu, may được hào kiệt bốn phương có lòng thương, mà cứu cho toàn
tính mệnh, nay qua đây không biết là nơi nào, lỡ xúc phạm đến bốn vị anh hùng,
vậy xin bốn ngài đón tay làm phúc, tha cho một chút thân tàn, thực là vạn phúc.
Bốn vị hảo hán kia nghe Tống Giang nói, liền nhảy xuống ngựa,
vất bỏ quân khí ra, rồi chạy lại quỳ xuống đất mà rằng:
- Bốn anh em chúng tôi, chỉ được nghe tiếng Sơn Đông Cập Thời
Vũ Tống Công Minh, mà không sao cho được gặp mặt? Nay nói Ca Ca ở đất Giang
Châu bị hãm hại, anh em chúng tôi đã bàn nhau toan kéo đến phá nhục để cứu Ca
Ca, song không biết có đích thực hay không, nên chưa dám động. Mới đây sai tiểu
lâu la đi đến Giang Châu thám thính, mới biết đã có các vị hảo hán đánh cướp
pháp trường, làm cho náo động đất Giang Châu, mà cứu Ca Ca về trấn Yết Dương,
và đốt giết nhà Hoàng Thông Phán ở Vô Vi Quân, rồi sắp sửa kéo về đại trại.
Nhân vậy chúng tôi đoán chắc thế nào Ca Ca cũng qua đến lối này, nên phải hỏi kỹ
càng cho đích xác, rồi mới dám nói ra như thế, dám xincc thứ lỗi cho. Nay may
được Ca Ca qua tới chốn này xin mời Ca Ca vào chơi tiểu trại, gọi là dâng chén
rượu tiếp phong, và xin đón các vị hảo hán cùng quá chân vào đó, rồi sẽ khởi
trình...
Tống Giang cả mừng, rồi đứng dậy đỡ bốn vị hảo hán lên; mà hỏi
họ tên. Người thứ nhất họ Âu tên Bằng, tự là Vân Kim Xí; quê ở Hoàng Châu, vốn
coi quân bộ ở Đại giàn khi trước, sau nhân trái ý với quan trên, mà phải bỏ trốn
vào nơi rừng núi; Người thứ hai họ Tưởng tên Kính, vốn người Hồ Nam, ở đất Đàm
Châu, nguyên là tay cử tử xuất thân, sau vì thi cử không đỗ, liền bỏ văn sang
võ, theo họ lược thao, tinh giỏi tính toán võ nghệ không kém ai, binh pháp cũng
hơi thạo, nhân thế người ta thường gọi là Thần Toán Tư (tính toán như Thần):
Còn người thứ ba họ Mã tên Lân, quê ở Kim Lăng, Kiến Khang, là một tay nhàn
lãng xuất thân, thổi thiết địch hay, múa đại đao giỏi, mấy trăm người cũng
không ai dám đến gần, nhân thế người ta đặt là Thiết Địch Tiên; Người thứ tư họ
Đào tên Tôn Vượng, quê ở Quảng Châu, vốn xưa là người điền hộ, khiến cây thiết
tiêu rất khỏe, múa lân đao cũng giỏi, người ta thường gọi là Cửu Vĩ Quy (rùa
chín đuôi).
Bấy giờ bốn vị hảo hán đón tiếp Tống Giang, hai tiểu lâu la
đem một bầu rượu, hai mâm thịt và một khay qủa ra, để nâng chén tiếp phong. Trước
hết mời Tiều Cái, Tống Giang, sau mời Hoa Vinh, Đới Tung, sau đến Lý Quỳ, và
cùng thi lễ chào nhau.
Được một lát đội quân mã thứ hai kéo đến, bốn vị hảo hán lại
mời uống rượu, rồi đón cả lên núi. Đoạn rồi sai mổ trâu giết ngựa làm tiệc, và
cho đón các vị hảo hán ở ba đội đi sau, cùng lên núi dự tiệc.
Trưa hôm ấy các vị đã tề tựu, cùng nhau ngồi uống rượu ở trên
Tụ Nghĩa Sảnh núi Hoàng Môn. Sau Tống Giang nói với mọi người rằng:
- Phen này Tống Giang lên Lương Sơn Bạc nương nhờ Tiều Thiên
Vương Ca Ca, vậy chả hay bốn vị hảo hán có thể bỏ đất này mà cùng đi đến đó được
không?
Bốn tay hảo hán đồng thanh đáp rằng:
- Nếu hai vị nghĩa sĩ có lòng yêu đến cho theo, thì chúng tôi
tình nguyện đi hầu dưới trướng.
Tống Giang, Tiều Cái cả mừng nói rằng:
- Bốn ngài đã nghĩ đến đại nghĩa mà bằng lòng như vậy, thì
xin mau mau thu thập đi ngay mới được.
Nói đoạn lại cùng nhau rượu chè vui vẻ mà ở đó một đêm.
Sáng hôm sau, bọn Tống Giang Tiều Cái lại chia làm năm đội lục
tục ra đi, còn bốn vị hảo hán ở Hoàng Môn Sơn cũng thu thập tài bạch kim ngân,
kiểm điểm bốn năm trăm lâu la, rồi đốt bỏ sơn trại mà đi vào đội thứ sáu.
Tống Giang thấy được bốn tay hảo hán quy phục thì trong lòng
lấy làm mừng rỡ, vừa đi vừa nói chuyện với Tiều Cái rằng:
- Tiểu đệ từ khi ngang dọc giang hồ, dẫu bị bao phen kinh sợ,
song cũng may mà kết giao được bao nhiêu hảo hán ở trên đời, như thế thực là thỏa
lòng quá đỗi. Phen này cùng lên sơn trại với Ca Ca, tất phải đồng tâm hiệp lực,
mà sống chết có nhau, thì sau này mới khỏi phụ cái công giang hồ chìm nổi mà khỏi
thẹn với đời...
Tiều Cái nghe nói, cũng lấy làm vui mừng, rồi hai người chuyện
trò với nhau, mà gần tới sơn trại lúc nào cũng không biết.
Các vị Đầu Lĩnh coi trại ở Lương Sơn Bạc là Ngô Dụng, Công
Tôn Thắng, Lâm Xung, Tần Minh, cùng hai người Đầu Lĩnh mới là Tiêu Nhượng, Kim
Đại Kiện, khi thấy Chu Quý, Tống Vạn về báo tin, thì hàng ngày lại sai tiểu Đầu
Mục chở thuyền ra hàng rượu của Chu Quý để đón tiếp.
Ngày hôm ấy các đội đi đến nơi, liền xuống thuyền vào bến Kim
Sa, rồi lên ngựa, đi về đại trại. Khi tới Đại Quan đã thấy bọn sáu người Ngô Học
Cứu đem rượu ra tiếp phong, rồi cùng đi vào Tụ Nghĩa Sảnh.
Vào tới nơi, đã thấy bàn ghế chỉnh tề, khói hương nghi ngút tại
Tụ Nghĩa Sảnh, Tiều Cái liền mời Tống Giang làm chủ sơn trại, để ngồi vào ghế
giữa.
Tống Giang khiêm tốn không nhận mà rằng:
- Tống Giang tôi đã nhờ các vị có lòng thương, mà cứu cho
thoát nạn, vậy chức Chủ trại đây, nguyên là Ca Ca phải giữ, có lẽ nào lại nhượng
cho tôi? Nếu Ca Ca không ưng thuận mà cố nhường cho thì đệ xin chết trước cho
xong, không bao giờ lại dám mang tâm như thế!
Tiều Cái không nghe mà nói rằng:
- Hiền đệ bất tất như thế? Hồi trước nếu không có hiền đệ ra
tay gánh vác mà cứu cho bảy anh em chúng tôi, thì còn đâu có được ngày nay, vậy
ngôi Chủ trại ở đây hiền đệ không có thể nhường lại cho ai được nữa...
Tống Giang lại nói rằng:
- Nói về niên sỉ, thì nhân huynh hơn Tống Giang đây mươi tuổi,
vậy Tống Giang ngồi đó, chẳng hóa ra hổ thẹn lắm sao.
Nói xong liền cố nhường Tiều Cái ngồi vào ghế thứ nhất, tự
mình ngồi ghế thứ hai, và để Ngô Học Cưú ngồi ghế thứ ba, Công Tôn Thắng ngồi
ghế thứ tư. Đoạn rồi Tống Giang nói với mọi người rằng:
Bây giờ chưa phân công lai trên dưới, vậy các Đầu Lĩnh ở
Lương Sơn Bạc ngày trước, xin cứ ngồi bên hữu, còn các vị Đầu Lĩnh mới đến sau,
xin ngồi về phía bên tả, đến khi có công cán thế nào; sẽ phân định thứ tự về
sau.
Chúng nghe nói đều vâng lời ngồi chia ra hai bên. Dãy bên tả
có Lâm Xung, Lưu Đường, Nguyễn Tiểu Nhị, Nguyễn Tiểu Ngũ, Nguyễn Tiểu Thất, Đỗ
Thiên, Tống Vạn; Chu Quý. Dãy bên hữu thì các vị Đầu Lĩnh tính tuổi cao thấp, rồi
suy nhượng với nhau mà ngồi. Thoạt đầu Hoa Vinh ngồi trên, rồi đến Tần Minh,
Hoàng Tín, Đới Tung, Lý Quỳ, Lý Tuấn, Mục Hoằng, Trương Hoành, Trương Thuận, Yến
Thuận, Lã Phương, Quách Thịnh, Tiêu Nhượng, Vương Nụy Hổ, Tiết Vĩnh, Kim Đại Kiện,
Mục Xuân, Lý Lập, Âu Bằng, Tưởng Kính, Đồng Uy, Đồng Mãnh, Mã Lân, Thạch Dũng,
Hầu Kiện, Trịnh Thiên Thọ, Đào Tôn Vượng cùng ngồi một hàng. Hai bên cộng tất cả
hai mươi bốn vị hảo hán, đều hớn hở, vui mừng, mở cờ dóng trống, cùng ngồi uống
rượu với nhau.
Bấy giờ Tống Giang lại đem chuyện mình kể cho các vị Đầu Lĩnh
nghe mà nói rằng;
- Việc tôi chẳng qua vì tên Hoàng Văn Bính, vẽ hươu vẽ vượn,
tán nghĩa mấy câu ca dao,mà bảo với tên Xài Tri Phủ là hai câu dưới, ứng vào độ
số tôi là loạn ở đất Sơn Đông, rồi xui Tri Phủ tiền trảm hậu tấu, nên mới như
thế. Nếu không có anh em nhiệt tâm mau cứu cho thì còn khi nào được trông thấy
Lương Sơn Bạc mà bàn định công việc sau nầy nữa.
Lý Quỳ nghe nói, vội nhảy lên mà nói rằng:
- Phải đấy, Ca Ca chính là hợp ý trời đấy. Nay dẫu bị chút
khó nhọc, song thằng giặc già Hoàng Văn Bính tôi đã giết, thực là khoái lắm!
Túng sử cho chúng tôi có ít quân mã, chúng tôi làm phản chơi cũng được, đã sao?
Khi đó Tiều Cái Ca Ca làm Đại Tống Hoàng Đế, Tống Giang Ca Ca làm Tiểu Tống
Hoàng Đế, Ngô Dụng Tiên Sinh làm thừa Tướng, Công Tôn Đạo Nhân làm Quốc sư, còn
chúng tôi đều làm Tướng Quân; kéo binh mã thẳng vào kinh sư mà cướp lấy đế vị,
chẳng thú lắm hay sao? Như thế há không hơn ở vũng nước này?
Đới Tung nghe nói quát lên rằng:
- Thiết Ngưu làm chi mà nói thoắng lên thế? Nay ngươi đến
đây, không thể còn giữ tính nết như ở Giang Châu được, phải nghe hiệu lệnh của
các vị Đầu Lĩnh Ca Ca, không được nói càn nói dỡ...Nếu còn nói luôn, là hãy cắt
đầu làm lệnh, để răn người sau đó.
Lý Quỳ tắc lưỡi mà rằng:
- Chết nỗi! Nếu cắt đầu tôi, thì bao giờ lại mọc được cái đầu
lớn như thế nữa? Đã vậy tôi chỉ uống rượu thì thôi, chứ làm gì?
Các vị hảo hán đều vỗ tay cười ầm cả lên.
Tống Giang lại tiếp luôn đến chuyện cự địch quan quân mà rằng:
- Khi trước tôi mới nghe nói, đã hơi kinh sợ, ai ngờ ngày nay
quả nhiên lại đến lần tôi ở đây...
Ngô Dụng nói:
- Nếu trước huynh trưởng nghe lời anh em mà ở lại sơn trại
đây, thì có phải lã đỡ được bao nhiêu sự rắc rối; Cái đó cũng là số trời đã định,
không thế hẳn cũng không xong.
Tống Giang lại hỏi:
- Hoàng An bây giờ ở đâu?
Tiều Cái nói:
- Ông ta đến đây được vài ba tháng thì bị bệnh chết ngay.
Tống Giang nghe nói, lấy làm thương tiếc vô cùng. Ngày hôm ấy
các vị Đầu Lĩnh uống rượu với nhau, đến khi tận hưởng mới thôi.
Tiều Cái lại xếp đặt cho Mục Thái Công và gia quyến họ Mục ở
vào một nơi, rồi đem cả tài vật lấy ở nhà Hoàng Văn Bính, mà thưởng cho các bọn
lâu la. Đoạn rồi đem hòm châu báu của Xài Tri Phủ ngày trước trao trả cho Đới
Viện Trưởng.
Đới Tung nhất định không chịu nhận, bèn cho chứa vào kho, để
trữ làm công của sơn trại. Tiều Cái lại bắt tiểu lâu la lên bái kiến bọn Đầu
Lĩnh mới, rồi nhất diện giết trâu dê, ăn mừng luôn trong mấy hôm trời, và nhất
diện sửa sang phòng ốc trước sau, để các vị Đầu Lĩnh ở, cùng là sức cho lâu la
chỉnh bị thành quách rất là cẩn thận.
Cách ba hôm sau, một bữa Tống Giang đương ngồi dự tiệc bỗng
dưng ra nét mặt lo nghĩ, rồi đứng dậy nói với các vị Đầu Lĩnh rằng:
- Tống Giang tôi còn có việc này, muốn xin phép anh em đi
trong mấy hôm, không biết rằng các vị có ưng thuận cho không?
Các Đầu Lĩnh nghe nói đều ngạc nhiên, không hiểu việc chi, àm
cùng xúm nhau vào để hỏi...
Mới hay:
Xương tan máu đẫm Giang Thành,
Đoái trông ngọn sóng bất bình còn đâu?
Trăm năm trong cuộc bể dâu,
Tử sinh vinh nhục cùng nhau mấy người,
Tiếng thơm ai để trên đời,
Có chăng riêng bạn anh tài biết cho...
Rồi đây ngang dọc giang hồ,
Anh hùng gây dựng cơ đồ khó chi!
Lời bàn của Thánh Thán:
Hồi trên tả Ngô Dụng cướp pháp trường Giang Châu, đều gọi mọi
người trao cho một kế, đến khi cướp pháp trường, mới đột nhiên nảy ra bốn hạng
người; Hồi này tả Tống Giang đánh thành Vô Vi Quân, lại đem bí quyết nói ra,
không giấu nửa lời hay một chút, đều là đặc biệt khác nhau, các nhà văn đều có
phép, đã tỉnh càng làm cho tỉnh, đã tăng lại phải cho tăng, đã tả Tống Giang định
kế rõ ràng, lại tả từng người y kế, nếu không tả ra, chỉ nói một câu, khi đã tả
ra lại nói mấy lần, đó là đặc biệt khác với tục bút. Không thể không biết cho
ra.
Một việc đánh thành Vô Vi Quân, đã ở trong định kế rõ rệt, rồi
sau mới chép rõ ra, chỉ nói ra nhiều chữ "Thấy" đếm cho đủ số người
mà thôi; Ví như khéo đánh cờ, thế trận bầy ra đấy, rồi chỉ thấy dùng một con
hai con, đánh cướp từng chỗ, khiến cho toàn cục phải biến động theo, văn chương
như thế, mới là diệu bút.
Tả Tống Giang bấy lâu từng nói ra mồm, theo lời cha dặn: Thà
chết không làm nghề lạc thảo, thế mà trước kia, đã thu thập lũ tám người, Hoa
Vinh, Tần Minh, Hoàng Hồ, Lã Phương, Quách Trịnh, Yến Thuận, Vương Nụy Hổ, Trịnh
Thiên Thọ, Thạch Dũng, nhặt lại đem về sơn trại, đến lúc này lại thu thâoh mười
sáu người, Đới Tung, Lý Quỳ, Trương Hoành, Trương Thuận, Lý Tuấn, Lý Lập, Mục
Hoằng, Mục Xuân, Đồng Uy, Đồng Mãnh, Tiết Vĩnh, Hầu Kiện, Âu Bằng, Tưởng Kính,
Mã Lân, Đào Tôn Vượng, nhặt lại đem về sơn trại. Hai bên đều chép lớn ra cho rõ
trung gian kế sảo. Đó là pháp của Sử Gia án mà không quyết đoán vậy. Tả Tống
Giang dùng những quyền trá, lại tiếp tả ngay Lý Quỳ nói thẳng lời thô, độc giả
thấy Lý Quỳ thô trực, cho rõ Tống Giang quyền trá ngõ hầu nhận thấy ra.
Tả Tống Giang khi tới Lương Sơn, đã vội đổi thay phép cũ,
theo ý của mình làm mới, đã áp ngầm mọi người, lấn rõ Tiều Cái, lộ chân tướng
con người, không ngờ trong việc bút mực, có sức làm ra như thế.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét