Ba hồi kinh dị
Một truyện ghê gớm
Phải, thực là truyện ghê gớm, truyện dị thường mà ghê gớm nhất
là vì có thật, không huyền hồ như những truyện cổ tích yêu quái lạ thường nghe
kể lại hay thường đọc thấy trong những tập truyền kỳ.
Ông cụ ngồi tiếp truyện mấy ông khách người làng, ngừng lại để
rót thêm nước. Trên khuôn mặt rắn rỏi, đăm đăm một vẻ trang trọng ưu tư. Hút
tàn mồi thuốc lào, uống cạn một bát chè tươi, ông hắng giọng rồi lại nói:
- Tôi bình sinh biết đã nhiều truyện kỳ dị mà không hề có thấy
kinh lạ sợ hãi, vì mình đã biết trước là những điều hoang đường không đáng tin.
Nhưng đến câu truyện này thì lại khác. Chính tôi phải một phen hút chết ở câu
truyện này đây. Các ông ạ, mỗi lần một bóng một mình trong lúc đêm khuya mưa gió
sùi sụt, mà nghe thấy tiếng ễnh ương nó ỳ oặc, tiếng ếch nhái nó nghiến răng bốn
bề, tôi lại nhớ ngay đến truyện trước. Bên tai như vang những tiếng người chết
nó cười, nó kéo từng đoàn từng lũ đến đầu giường tôi nằm mà tranh nhau nguyền rủa
tôi. Cố tình quên cũng không thể được. Tôi đã trải một bước nguy hiểm quá, phải
một phen khiếp sợ thái quá, hầu như lạc mất hồn vía, còn sống lại chỉ như để mà
nhớ mãi, tâm trí như cái kho tích chứa bao nhiêu điều quái gở đã qua.
Năm Minh Mệnh thứ sáu, tôi hỏng kỳ thi hội lần thứ ba. Bấy giờ
tuy mới hăm hai tuổi, nhưng khí khái càng mạnh thì thất vọng càng sâu, uất cho
phận mình lại càng khinh những tài học non nớt mà gặp vận. Ba kỳ thi lạc đệ,
nhà lại nghèo thêm, sinh ra chán ghét đường công danh, lấy cớ không đủ lực theo
đuổi khóa sau mà coi rẻ việc đèn sách. Nhân vẫn tập tành mấy món võ nghệ, sở đắc
về đường quyền kiếm cũng không đến nỗi thiếu kém, nên cái lòng ưa mạo hiểm bốn
phương được thể ngày một thêm hào hùng. Tôi bèn quyết chí bỏ làng, viết một bài
ca từ gửi cho mấy người trong chỗ thân bằng gọi là đáp lại những lời khuên can,
mà cũng là để từ biệt hẳn cái đời văn chương kinh sử.
Rồi "bán kiên hành lý nhất thân khinh", cuộc đời
giang hồ kể lắm bước gian truân nhưng cũng đem lại cho mình nhiều cái thú đột
ngột.
Hồi đó, mấy khúc trường hành của tôi làm từ ngày còn ham mê
đường khoa hoạn, vẫn được cái may là gợi hào hứng những bạn tri kỷ không quen
biết ở nhiều nơi. Vì thế mà có được những cuộc gặp gỡ thực bất ngờ, nhân mới nhận
ra rằng mỗi bước đường đi lại khiến mình sợ hãi thay cho cái lúc do dự toan ở lại
với nơi quê quán. Mỗi bước đường đi, lòng được quyến luyến thêm một cảnh lạ người
mới, trí được phong phú thêm những tư tưởng đằm thắm, những kinh nghiệm không
thường.
Nay đó mai đây, khi lưu luyến hằng năm ở một miền sơn thôn
bình tịch, khi thì ngày ngày lận đận qua những miền thâm u thưa vắng bóng người.
Bất cứ ở đâu, dù xa xôi hiểm trở đến đâu cũng mặс, hễ nghe có tiếng bậc ẩn sĩ
hay có tay võ nghệ cao siêu, thì thế nào tôi cũng phải tìm gặp. Đó là hữu ý mà
đến, những cũng có những phen tình cờ. Một lần, người ta chỉ lầm đường, tôi lạc
vào sào huyệt của một bọn cường khấu. Ngót nửa năm trời, mình phải làm một hảo
hán bất đắc dĩ, qua được những tai nguy là nhờ có phần quyền thuật đã thêm vững
chãi, mà trốn được thoát cuộc đời hung bạo ấy, lại là nhờ ở phần mưu trí nhà
nho. Kể cái hồi gian hiểm sống chung với bọn cướp rừng này cũng lắm trặng ly kỳ.
Nhưng so với câu truyện dưới đây thì cái tính mệnh của tôi lần trước chỉ như mới
vướng phải bụi gai, còn lần sau thực như sa vào cạm ác thú.
Cũng vì cái tai tiếng là đã đi với kẻ cướp mà tôi không ở yên
được một chỗ. Người đời đã hay nghi kỵ, lại nhân cái tính tình phóng lãng của
mình không hợp với thói lệ thường ngày, ác cảm dễ sinh, rồi do thế, một lời đắc
ý ngang tàng hóa thành những lời võng ngạo. Tôi đang ngồi dạy lũ trẻ ở nhà một
người riêng có bụng mến mình thì được tin có trát nã gấp. Một ông bạn tâm phúc
đến bảo mình rằng những bài ca từ của tôi súc tích những ý phạm thượng, mà cái
hình trạng ban nghịch đã lộ rõ ở thái độ của tôi, ở cuộc đời của tôi, nhất là ở
hồi gần đây tôi "đã từng giao thông với quan giặc cướp". Tôi biết trước,
một án cữu như thế chỉ có mọt hình pháp, mà những người đã kết án, tôi lại biết
là một vài người đồng học với tôi trước kia... Tìm cách minh oan tức là làm việc
tối vô ích. Tôi chỉ còn một kế là lại đi. Bước giang hồ chỉ như mở rộng thêm,
xa thêm. Chỉ khác là cuộc đời lữ thứ của tôi từ đó lại canh cánh một nghĩa nữa
là đời phóng trục. Mình tự phóng trục mình, mà đi là không hẹn ngàv về.
Tôi theo đường tắt qua Lạng Giang. Ở Yên Thế ít ngày, rồi đi
ngược sâu mãi vào trong cảnh sơn lâm, đổi họ đổi tên, nhưng tính danh dù để
nguyên cũng vô hại. Bọn Nùng, Thổ man dã ở các nơi tôi đến trú ngụ là những người
chất phác, tôi có đem hết nỗi bất hạnh của mình nói thực ra, họ cũng vẫn quý
mình như lúc họ mới biết.
Sống chung với người sơn dã, quen phong tục, thuộc ngôn ngữ,
tôi dần dần cũng thấy tâm tư đơn giản như họ, rồi thành yêu chung trọng lẫn,
tôi nhiều lúc coi mình là người đường rừng mà vẫn lấy làm vui. Trước còn ở miền
dưới cũng thừa thấy yên thân. Nhưng lâu ngày quên cả truyện trước, tính thích
xông pha lại đến giục giã, tôi cứ lần hồi đi ngược mãi lên. Mỗi bước như một
kích thích thêm lòng hiếu kỳ. Trong cái phong thổ rừng thiêng nước độc, còn chứa
chất không biết bao nhiêu sự dị thường lẩn quất ở bóng tối vòm cây, ở giải nước
sâu váng xanh, ở những trận gió ồn ào như có rất nhiều thanh âm gở lạ. Tiếng
chim kêu cũng phảng phất thành những lời nói. Những tên đất, tên làng là những
tên, những tiếng khác tai. Mỗi cảnh vật đều có một sự tích oan khiên, hay khủng
khiếp. Tôi từng nghe tiếng ngọn suối ban đêm như than khóc, người thổ nói là tiếng
kêu khóc của đôi trai gái bị hại ở lưng bờ. Hang núi, mạch rừng, thác, đèo... mỗi
nơi có một tên phát tích ở một truyện thảm khốc hay rùng rợn. Bóng oan khuất
như gây ra các sự kinh hoàng, người ta dù cứng bóng vía đến đâu cũng không thể
không thấy một thứ ghê rợn lạnh lùng rất khó nói. Đâu đâu cũng toàn là những
truyện kinh người hết. Nào truyện ma gà, truyện hùm tinh, truyện lợn biết hát,
truyện thần rắn, truyện Mán làm mắm trẻ son... Họ thuật lại cho tôi nghe như những
việc hiển nhiên, sự khủng khiếp lộ ra trên nét mặt kính cẩn đạng đột.
Chỗ tôi ở lâu nhất là một làng ở phía bắc trấn Lạng Sơn, tên
gọi là Bản Khau, hay là Khau Gié. Tiếng là một làng, song chỉ lác đác mươi nóc
nhà tranh, hoặc dựng cao trên sàn hoặc lèn đất làm tường. Dân cư, phần lớn là
người Nùng, sinh nhai bằng nghề trồng hồi với nghề săn bắn. Người Nùng ở đấy
săn rất giỏi, cung nỏ bách phát bách trúng, lại riêng có tài dùng hỏa mai học
được chẳng biết ở một người Tàu nào họ truyền dạy cho đã lâu đời. Những cuộc đi
săn của họ, họ coi quan trọng lắm: rất nhiều nguy hiểm mà cũng cực kỳ vui. Tôi ở
với họ liền ba bốn năm, rất lấy làm vừa lòng, không muốn đi nơi khác nữа. Khi
nào săn ở rừng xa, rừng dữ, thì gần hết cả làng cùng đi.
Lần ấy định sẵn ở tận Lũng Sa, Mùng Sáy, gần miền cương giới.
Sáng hôm đi, bạn săn dậy thực sớm. Hơn hai chục đàn ông, tay lao tay nỏ, gậy guộc
khí giới đủ mọi thứ, cơm nước xong, mọi người đeo theo một nải gạo hoặc lương
khô đủ dùng trong mười mấy ngày. Đàn bà con trẻ với những ông cụ già tuổi quá
thì sắm sửa giúp những vật dụng lặt vặt. Đầu canh tư thì lên đường. Bọn ở lại
ra tận đầu làng tiễn chân. Gặp những dịp này, tôi là người hăm hở bận rộn hơn hết,
vì mỗi năm họ mới đi như thế có một lần, vào hồi cuối thu.
Từ canh tư hôm trước, đi không nghỉ. Đường càng gần tối càng
gập ghềnh. Phải qua những nguồn suối dềnh lên một mặt bất ngờ, có khi phải chịu
ngừng lại lâu, ngồi đợi cho nước rút xuống. Qua canh năm đêm hôm sau thì đã
trông thấy Lũng Sa. Sương còn đặc. Giải rừng lớn, hinh bóng còn chập chờn. Tuy
mô núi không cao, xem ra chỉ ấp thoai thoải giữa những đồi trụi mống trọc ký
khu hơn nhiều, nhưng cứ nhìn cái dáng lù đen của những vòm già lá kết, cũng đủ
đoán biết cái tính ác dữ không phải là ngoa truyền. Lũng Sa có tiếng là hoang
hiểm. Thực là một cảnh săn tốt đối với con nhà đi săn.
Chúng tôi không ai tưởng đến nghỉ ngơi, thẳng bước vào tìm chỗ
làm chòi. Trú ngụ ở đâu khác, cũng làm cho dân làng quanh quất đó kinh nghi. Đi
toán đông thì chỉ ăn ngủ ngay trong rừng là tiện.
Tìm được một khoảng vừa ý, từ cửa rừng đi vào không xa lắm,
chúng tôi đang chia nhau người đẳn cây, người kéo lá, thì một anh trong bọn bỗng
reo lên, gọi tất cả chạy đến một đám cây thắp bùm tum. Phát cành rứt rợ vào
хеm, thì ra đấy là một tòa cổ miếu. Chung quanh miếu có tường quây, nhưng tường
phần lớn sập đổ gần tới móng. Mái cũng vậy, bẹp chĩu dưới những đợt lá nặng, chỉ
ở một góc bên trong còn lại dấu vết mấy chiếc rầm mục với vài ba miếng ngói đen
sì. Ánh sáng qua những tán cây soi xuống tha hồ. Trước miếu có một khoảng sân
khá rộng, gạch đã nứt vỡ hay bật chồi lên vì rễ cây to, mà hầu hết bị cỏ lá với
đất rêu phủ kín khắp mặt. Không còn cảnh nào có vẻ hoang phế hơn nữa. Cả cái bệ
chính giữa cũng lở nứt, có chỗ như bị xô, bị húc nhiều lần. Hương khói lạnh lẽo
hẳn đã lâu lắm rồi, sự linh thiêng có lẽ không bằng một cái chòi lá đơn sơ dựng
ở một quãng nách đèo hay hốc suối. Nhưng tôi vẫn lấy làm nghĩ ngợi mãi, trong
lúc bọn người Nùng sạo sục mà chẳng thấy gì thêm. Miếu tuy bỏ vắng, nhưng cũng
đã phụng sự một uy quyền nào ở đây, không thì cũng đã yên ủi một vong hồn bị
oan khuất. Cái nơi nguy hiểm ghê gớm là cảnh rừng này, một thuở xa xăm nào đó,
cùng đã từng có vết chân người. Mấy chữ đá thảo còn sót lại ở những chỗ trước
kia là cột viết câu đối. Tôi không thể nào đọc rõ: hằn chữ với màu mực đã mòn lẵn
mất hết. Một mảnh đại tự mập mờ không đủ cho mình đoán được là chữ "Hải"
hay là chữ "Mai".
Có người bàn nên dùng chỗ này, đắp đất chất gạch cho cao tường
thêm, để thay cho cái chỗ ở bằng chòi định làm khi trước. Ý kiến ấy được mọi
người khen hay. Chúng tôi liền đem chỗ cây, lá, mây, nứa, đá kiếm được, chất cả
lại trước khu miếu. Rồi lèn vách, trồng cột, lợp gồi, đan liếp... không mấy chốc
dựng thành cái nhà một gian rộng rãi, có tường dầy, có cửa phên chắc chắn, vừa
làm nơi ăn chốn ngủ, vừa có chỗ chứa sấy vật săn được, tiện lợi không đâu bằng.
Làm xong nhà thì ống cơm nếp lùi cũng vừa chín, chúng tôi ngả lưng ra ăn uống
no nê rồi vun thêm lá khô bên ngoài giải lèn đất mà nghỉ ngơi.
Đi đường xa, lại vừa lợp lát tuy có mệt nhưng tôi cũng không
muốn ngủ. Mình là người hay thẩn thơ gặp cảnh lạ, cảnh mới bao giờ cũng thấy
lòng bồi hồi náo nức. Tôi ra cửa ngồi đó một mình. Cái khoảng phát quang chạy
ngang trước mắt như một con đường, mà bên kia đường chằng chịt, uốn éo chúm rủ
cả một phần rừng xanh lúc đó như sấn lại trước mặt. Tôi vui mắt mải xem bầy khỉ
đu nhẩy trên những dâv võng cành lá gần đó. Một vài con mễn xuống bám ở những
chạc thấp nhất, nhòm nhòm nghé nghé vào gian nhà mới của chúng tôi ra vẻ hết sức
ngạc nhiên.
Bỗng có tiếng lạ tai. Tôi giật mình. Cùng một lúc với tiếng sột
sạt, lùm cây rậm trước cửa rung động một vẻ khác thường. Hình như có một con vật
đang rẽ lá lách cành mà tiến đến. Tôi sửng sốt, đứng phắt dậy, quay vào trong lều.
Các bạn săn ngủ ngon giấc quá. Tôi không đánh thức ai vội, vớ lấy một cái nỏ,
chĩa vào lùm cây, một hai chỉ đợi bắn. Thì lùm cây lại thấy yên, không còn rung
rẩy nữa. Nhưng có tiếng chân rẽ về phía khác. Bước chân mau nhẹ, dẫm lên một lối
chừng quang phẳng nhất, mà nghe mỗi lúc một xa dần. Tôi đoán có lẽ không phải
là thú dữ, vì nếu phải, tất nó đánh hơi thấy, đã xông ra hại mình rồi. Nghĩ thế
nên vững tâm hơn, tôi liền rẽ ngang, chạy theo một lối nhỏ, cây thưa, cứ tiếng
chân dẫm lá của con vật làm chừng mà đuổi nó. Tôi hết sức đuổi, сố tình tìm bắn
cho bằng được. Được chừng quá trăm bộ đến một chỗ ngoặt, cây chen mau, nhưng lối
không dốc, tôi sấn bước nhảy cho chóng tới gần con vật. Thoáng một cái, trong một
vùng quang có ánh nắng ló xuống tận cỏ, tôi thấy bóng một người. Không thể
trông rõ mặt được: tuy cách nhau chỉ vài chục bước nhưng hắn lẩn nhanh lắm, như
biến vào đám cây lá, mà từ lúc ấy, không để lại một tăm hơi nào. Chỉ kịp nhận
ra là người ấy to béo, quần áo màu chàm bạc, đầu lại có đuôi sam. Chắc hắn là một
người Tàu. Nhưng người Tàu ấy là hạng người nào, ở đâu đến đây, mà đến cái chốn
nguy hiểm này làm gì? Bảo là đi săn chăng? Người Tàu họ không săn ở đây. Mà có
chăng nữa tất phải đi thàn đoàn, thành bọn; mấy ai dám xông pha vào một mình.
Điều kỳ dị hơn nữa là sao hắn lại có vẻ lẩn lút, thấy tôi lại trốn chạy như một
kẻ gian đồ? Hay có lẽ hắn quả là một tên cường bạo? Một tội nhân vượt ngục hay
một kẻ vong mệnh bị truy tầm tróc nã gì đây chăng?
Tôi vừa quay trở về vừa nghĩ bụng thế, thỉnh thoảng vẫn rờn rợn
ngoái lại đằng san. Về nhà, ngồi vẩn vơ mãi cũng không đoán rа người khách ban
nãy là người thế nào. Bọn người Nùng ngủ dậy, thấv tôi vẫn tư lự. Tôi đem việc
vừa rồi kể lại rành mạch cho họ nghe. Không ai tin. Họ bảo tôi rằng không có gì
đâu, không đời nào có người dám táo tợm một mình vào trong nơi ghê sợ này như
thế cả. Tôi nói là chính mắt tôi trông thấy người khách, tôi lại cầm chính cái
nỏ kia đuổi theo hắn. Họ vẫn một mực không chịu tin. Mà như thế không phải để
chọc tức tôi. Họ quả quyết bảo không thể có người nào dám cả gan vào rừng này
được. Người nhiều tuổi nhất trong bọn phân giải câu chuyện tôi như thế này: cái
người mà tôi trông thấy, không phải là người. Hẳn trước đây có anh khách nào
đó, vì không biết mà đi qua rừng một mình rồi bỏ mạng; vong hồn không tiêu tan
được, vẫn lẳn quất ở đây, rồi bây giờ làm ma rừng, hiện lên để trèu tôi đó. Rồi
mọi người thành thực tin, khăng khăng tin là thế. "Phải, phải, ma khách đấy.
Ở trong rừng thì nhiều ma lắm, nhưng đừng sợ nó thì nó sợ mình". Trí nghĩ
họ thực đơn giản quá. Tất nhiên tôi không thể cũng tin như họ được, nhưng cũng
không сố biện bạch làm gì, dẹp chuyện đó lại cũng như họ thản nhiên gạt hẳn ra
ngoài tâm trí. Đến lúc sửa soạn khí giới, bàn tính cuộc săn đêm, thì tôi cũng
không còn chút băn khoăn nào nữa.
Chúng tôi ở đó được ba hôm, ngàv thì ngủ, đêm lại đóng cửa
kéo nhau khua động vây đón rộn cả mấy khu rừng. Săn có hai đêm mà được cả một cặp
hổ, con đực to lớn lạ thường, hai con hoãng, ba con nai, một con hươu nhung. Hổ
thì chỉ lột da, dóc cốt. Những con khác mới giữ lấy cả thịt, phần lớn phơi, sấy
hoặc ướp; còn thì nướng ăn tại trận cùng với lương thực đem theo từ nhà. Vụ săn
xem chừng còn may mắn nhiều; cuộc xông pha càng nguy hiểm càng thấy có hứng
thú. Mọi người đều lấy làm vui vẻ sốt sắng, thường cười nói bảo nhau: "Trời
giáng thiên tai cho rừng nàv nên sai toán thiên tướng chúng ta xuống sát phạt một
mẻ".
Chiều ngày thứ ba, tôi thức dậy trước nhất. Tôi mở cửa vừa bước
chân ra khỏi miếu, vụt đã thấy bóng người khách kỳ dị hôm đầu. Lần này thì tôi
trông thấy mặt cùng với nửa người phía trên của hắn. Khuôn mặt to phính, nhô rа
giữa cụm lá, lặng lẽ mà nham hiểm, lại như vừa ngạc nhièn vừa căm tức. Trong có
giây lát mà hình ảnh ấy như in mãi trong tâm trí tôi. Nhất là hai con mắt xếch
của hắn tuy nhỏ mà sáng lạ, sắc lạ, long lanh một vẻ độc ác ghê người. Thấv
tôi, chừng sững sờ, hắn chưa kịp lủi. Rồi tức khắc, hắn thụt vào mau như kiến.
Thoáng cái đã mất hút y như là không có bao giờ! Tự nhiên cơn giận bừng bừng nổi,
tôi trở vào, vớ lấy cái cung sắt lớn, miết đuổi theo. Tôi không cần gọi bọn người
Nùng, rắp tâm hễ trông thấy thì dù là người khách hay là ma khách tôi cũng bắn
chết.
Tôi sấn chạy vào lối hắn lủi, nhẩy những bước rất táo tợn qua
những đám gai góc. Đuổi một chặp hết sức khẩn bách, tôi đã trông thấy hắn chỉ
còn cách tôi độ năm chục bộ. Sợ hắn sớm lách vào đám rậm mất, tôi không đợi gần
đích, vừa chạy vìra giương cung. Khoan bước để hất một cành lá đâm ngang, thì
thằng khách đang khom người. Nó tìm cách lẩn đấy! Tôi liền phóng ngay phát tên
ra. Rắc, rắc! mấy tiếng cành gẫy cùng với tiếng lá xô. Mười phần chắc bắn trúng
cả mười, nhưng trông lên thằng khách đã đâu mất. Rồi, ngay lúс ấy, từ cái phía
sột soạt ấy, một vật loáng dài như một thân cây, quẫy cựa trong khoảng vòm tối
tranh sáng. Tôi nhận ngay ra là con trăn! Một thứ trăn lớn nhất, khoẻ nhất. Nó
lẳng lặng mà tiến thẳng lại trước mặt tôi chậm chạp lừ lừ, lại có vẻ thản
nhiên, nhưng quả thực là ghê gớm! Tôi biết cái nguу hại cấp thiết đến bực nào rồi.
Phát tên vừa buông đã thành hư vô. Rút bắn phát nữa tôi lại thấy trật đích mà
trật một quãng xa như người bắn vụng! Trong lúc đó, con trăn vươn lên một chặng
đáng sợ. Tôi vội vã quay đầu chạy. Con trăn lặng lẽ trườn theo. Gần về đến khu
miếu, tôi hét rất lớn để kêu gọi bạn săn. Họ đã ngủ dậy cả. Nghe tiếng tôi, một
vài người nhanh chân xông ra trước. Con trăn coi như không thấv ai, nó cứ đuổi
tôi mãi. Sau, tất cả bọn giáo mác gậy guộc ồ cả ra, kẻ sỉa, người nện, nó mới
quẫy ra chạy. Con trăn khoẻ mà lại dai đòn một cách quái lạ. Suýt nữa nó quấn
được mấy người lúc nó vượt qua cửa miếu. Tuy bị thương nhiều vết nặng mà nó còn
bắt chúng tôi phải đuổi xa đến mấy trăm bộ nữa mới chịu nằm im. Con trăn chết rồi,
hai mắt vẫn mở như sống.
Bọn người Nùng hỏi tôi sao đi ra sớm thế, mà đi xa trong rừng
sao không gọi ai cùng đi? Tòi thuật chuyện đuổi thằng khách cho họ nghe. Họ cười
ồ cả lên. Tôi ngạc nhiên, họ lại càng cười to. Rồi ôn tồn phân giải cho tôi biết
rằng: "Nó là ma đấy, thằng khách là ma rừng đấy, sao lại đuổi bắn nó? Bây
giờ thì nó đây rồi, con ma ấy đây rồi!".
Vừa nói họ vừa trỏ vào con trăn, vỗ tav lên vai tôi để yên ủi
tôi: "Con ma ấy nó nhập vào con này. Bây giờ con này nó chết, con ma nó cũng
chết".
Câu nói của họ rất thành thực, có một giọng quả quyết rất chắc
chắn. Tôi cũng thấy sờn lòng, thế gian quả có những sự biến ảo hiển nhiên đến
thế được sao? Thằng khách kia chỉ là một hình ma! Mà con ma lại hóa ra con trăn
bị giết chết? Thực là kỳ quái hơn cả mọi điều kỳ quái! Tôi nhìn xuống. Hai mắt
con vật mở, như vẫn nhìn tôi trừng trừng! Tôi rợn người lên một lượt, sợ hãi
trà lạnh khắp thịt da. "Có lẽ là ma quái thực cũng nên... Lúc trước rõ
ràng phát tên của mình nhắm trúng thằng khách. Thoát được tất phải do một sự
may mắn kỳ diệu lắm lắm, không thì tất do một sức huyền bí nào! Vậy mà nó thoát
khỏi, nó biến mất, rồi tức thì thấy tiến ra cái quái vật này". Tôi vốn
không tin ma quỷ mà lúc đó cũng phải nhận rằng yêu dị chưa hẳn là chuyện hoang
đường.
Nhưng dù sao tôi cũng đã qua được lúc nguy rồi. Người khách
kia, dù là người hay là giống hung thần nào tôi cũng không cần quan tâm nữa.
Người Nùng nói có lý lắm. Đuổi bắt nó làm gì. Tự dưng chúng nó có làm hại được
mình bao giờ đâu?
Phải đến ba bốn người mới lôi xác con trăn được dễ dàng. Ai nấy
gật gù bảo nó lắm mỡ, lóc ra thắp đèn thì tốt không gì hơn; da nó là thứ bịt
chuôi dao rừng vừa bền vừa quý.
Tôi đi đầu đoàn. Đến quãng rẽ trông thấy được cửa miếu, tôi hốt
nhiên kêu lớn tiếng kinh ngạc. Tôi thoáng thấy thằng khách! Nó vừa lẻn vào
trong lều.
Tôì hét ầm lên bảo cho các bạn săn biết.
Bọn người Nùng vẫn chưa nghe ra, đủng đỉnh hỏi:
- Lại cái gì đấy?
- Thằng khách!
- Thằng khách nào?
- Thằng khách, chứ còn thằng khách nào!
- Nhưng thằng khách làm sao?
- Nó vừa vào trong miếu.
Tôi bảo họ bỏ con trăn đấy, cùng xông về với tôi. Nhưng không
một ai vội vàng. Họ lại còn ra ý không tin.
- Không có gì đâu mà, không có gì đâu, anh trông lầm đấv.
Tôi phải nhắc đi nhắc lại:
- Chính nó, tôi trông thấy chính nó! Không thể sai được!
Rồi săm săm tôi chạy về! Chợt chột dạ. Tôi đứng lại giục, họ
vẫn chùng chình vừa lắc đầu vừa gàn:
- Đã bảo không có gì mà, sợ gì mới được chứ!
Tôi bực dọc quá phát gắt lên:
- Thì cứ về với tôi хеm nào! Chẳng lẽ tôi lại mờ quáng đến thế?
Mãi lúc ấy họ mới miễn cưỡng mà theo tôi.
Tuy để chậm mất một quãng khá lâu, nhưng trong lúс đó tôi vẫn
không rời mắt khỏi cửa miếu. Chiều đã mái bóng, nhưng đến một con chuột ra vào
bấy giờ tôi cũng thấy được rõ. Thằng khách chắc chắn vẫn còn trong lều.
Tôi vung thanh đao dựt ở tay một người để xông lên trước, quvết
bắt, mà thế nào cũng bắt được thằng khách cho bọn người Nùng hết nói là ma.
Tôi bước vào. Bọn người Nùng cũng đã ồ tới chật cả cửa. Trong
lều im phăng phắc. Tôi quay mắt nhìn đến cùng kẽ mọi xó tối. Kỳ dị thật. Không
thấy qua bóng vết thằng khách đâu.
Đánh đuốc lên xem nào!
Lửa sáng, soi cũng chẳng thấy gì khác. Cũng không có gì thay
đổi, đồ vật mọi chỗ vẫn у nguyên. Trong lều còn một vài chỗ dấp lá khô, nhưng đống
thấp, bới tìm chỉ thêm việc. Tường vách làm để phòng ngữ thú rừng, một con mèo
không lọt được, mà lúc đó vẫn kín, không một dấu dao khoét nào qua. Vậy thì thằng
khách trốn đàng nào? Chỉ có lối сửa thì tôi đã để ý chăm chú lắm rồi, không thể
nào nó ra khỏi mà tôi không trông thấy được!
Tôi kinh ngạc hết sức. Nhớ lại thì cái bóng thằng khách lúc lẻn
vào vẫn rõ rệt, cái mình áo chàm, cái đuôi sam đen, cả đôi ống quần nịt quấn của
nó, nhất nhất tôi thấy rành rẽ. Cả cái vẻ lén lút của nó nữa. Thế mà rồi thành
hư ảo, mà sự biến ảo chỉ có tôi trông thấy, hình như chỉ ngạo nạt riêng một
mình tôi. Các bạn săn thì không ai ngẫm nghĩ lâu. Họ cứ tin theo ý họ vẫn tin,
một mực bảo tôi rằng: "Chỉ là mа đấy thôi, đừng sợ nó. Ma không bao giờ
làm chết những người ngay thẳng hiền lành". Tôi không hiểu nên cho thế nào
là phải, tâm trí như rối loạn, vừa hoảng sợ ngấm ngầm, vừa tức giận, bó gối ngồi
bực dọc một xó; mặc những người kia hì hục lột da con trăn.
Họ thấy tôi chưa từng băn khoăn quá như thế bao giờ. Thấy một
người gan dạ vui vẻ như tôi mà bỗng có thái độ đổi khác đến thế, họ cũng phải
sinh ngờ vực, cũng phải hiểu rằng những điều tôi trông thấy tất hẳn là những điều
phi thường. Sau cùng, người trưởng đoàn đồ là tôi gặp bóng thần rừng, hay chính
thần miếu. Vị thần khu cổ miếu nay bị bọn tôi đến quấy rối sự yên tĩnh, hiển hiện
lên để tỏ ý giận dữ; đã thế thì chỉ có việc cúng bái là yên ngay. Họ vừa sửng sốt
vừa trầm trồ như mới vỡ ra một lẽ tất nhiên không thể nào khác được. Trong bọn
có người thường nhật làm thầy "mo" cho cái ý vừa rồi phải đem làm
ngay. Hắn liền đốt lửa giữa lều, gõ thanh la, niệm thần chú để tạ ông "thẻng"
ông "thần" ở đấy: "Xin ông "thẻng" ông "thần"
ở đây cho phép bọn người đi săn ngụ trong miếu này, săn trong rừng này", để
người đi săn giết nhiều hổ, nó vẫn làm hại cho con cho cháu người dân người
làng, nó vẫn ăn trộm con lợn, con bò của người dân người làng... xin ông đừng
giận người đi săn làm chi nữa".
Cầu cúng xong, thế là yên chuyện. Bọn họ lại nói đến cuộc
săn, không ai nhắc đến người khách hay ông thèng thần nữa. Gặp phải sự cản trở
cho công việc họ, thì họ giết phắt kẻ làm trở ngại kia đi. Nếu lại là thần
thánh hay tà ma xui nên thì họ cầu đảo, phù chú. "Đói khát thì ăn thì uống,
đau ốm thì thuốc, thì bùa". Sự cầu cúng họ tin có hiệu lực vững vàng như kết
quả của mọi sự thiết thực. Phần tôi, tôi không thể dễ dãi yên lòng được như thế.
Tuy không lộ vẻ lo ngại nhiều, vì không muốn họ cho mình quá nhút nhát, song
tôi thành ra ít nói, lúc nào cũng trầm ngâm cố giải những điều kỳ quặc nọ. Cả
những lúc săn bắn trong rừng, tôi cũng không thể quên đi được, mỗi chốc lại tưởng
chừng sắp thấy một sự lạ nào xảy ra...
Chiều tối hôm sau, nhân phấn khởi về số vật săn khá nhiều
trong đêm vừa qua, lại hăm hở sửa soạn săn vây lớn đêm sắp tới, mọi ngườt ăn uống
một bữa ồn ào vui vẻ khác thường. Họ rót cho tôi một gáo rượu đầy, bông đùa mấy
câu về những chuyện ma rừng, lại ép tôi uống thực nhiều để thêm vững trí. Tôi
không hay rượu, nhưng bữa này lấy vui, rượu cần thơm ngon một hứng vị riêng,
tôi cũng sẵn lòng cười nói như thường, tâm trí nhẹ hẳn đi; những việc quái dị,
những điều lo ngại không còn gì quan trọng mấy nữa. Mình lại tự nhủ: Ừ, tội gì
mà thắc mắc. Mình là người chính trực, không làm hại ai, không có gì tà khuất
trong lòng, thế thì dù có những loài yêu quỷ hung bạo thật chăng nữa, chúng nó
đã dám làm gì được mình. Chuyện nói bữa đó nhiều câu thực hào hùng, rượu uống
cũng hăng hái, lúc sực nhớ đến cái hại quá chén, biết nghĩ đến sự nên ngừng lại
để khỏi phải bỏ cuộc săn, thì đã say mất rồi. Tôi đứng lên được, nhưng bước đi
cố gắng cũng không giữ nổi thăng bằng, ăn được chút nào thì chỉ chực những nôn
hết. Một người bạn săn phải đỡ lấy tôi. Mấy người khác dọn vội lấy một góc kín
rồi cùng vực tôi đến, đặt nằm yên đấy. Tôi mơ hồ thấy mấy bộ mặt cười cợt, hiền
lành cúi xuống, rồi từng khoảng ánh lửa trong lều đổi chỗ, bước chân của bạn
săn nhẹ nhõm, với những tiếng trò chuyện như thấp xuống, như thì thào!
Tôi ngũ một giấc thẳng, không biết được bao lâu. Lúc thức dậy,
bàng hoàng, nhưng tỉnh ngay tức khắc. Chừng đã khuya lắm. Trong lều, tối như
bưng. Bấy giờ hơi rượu đã tan hết. Sờ quanh mình thì biết là đang đè lên đám lá
khô. Trên bụng đắp một manh chiếu cói. Nằm dốn một lúc nhìn đến nhức mắt cũng
không biết được là đang ở khoảng nào, cũng không rõ cửa ở phía nào. Bạn săn có
lẽ đi đã lâu lắm. Thử cố nghe xem có thấy tiếng tù và hay tiếng thanh la đưa vọng
lại không. Tịnh không. Bầu tối nghịt đen. Tiếng rừng đêm cũng như nhỏ xuống
mãi. Trong lòng tôi tự nhiên thấy ghê sợ quá, mình như bị bỏ vào một chốn ngục
sâu lạnh lẽo kín mít, trong đó đầy những sức âm u quái gở, không mong có ai ngó
ngàng cứu vớt mình. Tôi lại nhớ ngay đến thằng khách, nhớ đến con trăn lớn, nhớ
hết các việc dị kỳ mấy hôm vừa qua... Nghĩ cứ giận bọn người Nùng sao nỡ để tôi
trơ trọi chốn này. Chắc hẳn tôi say quá, họ biết không thể đi săn được, đành để
tôi ngủ yên ở nhà. Nhưng họ có ngờ đâu là tôi không thể yên tâm được, đối với
những điều xảy rа kia, tôi có dửng dưng được như họ đâu?
Có tiếng động khác tai.
Bên ngoài, những bước chân như đang tiến lại. Tôi lắng nghe.
Không thể lầm được. Tiếng chân bước đều, thong thả, mà như quen đi trên đường lối
gần đấy... Nhưng khi gần tới chỗ mà tôi đã nhận ra là phía cửa thì bước đi lại
ra chiều dè giữ rón rén. Loáng thoáng có ánh lửa đuốc. Vì thế tôi mới nhận được
phương hướng cùng với chỗ mình vẫn còn nằm. Bước đi càng thêm nương nhẹ, có vẻ
nghe ngóng, lá khô bên ngoài bị xéo dị xuống mà tiếng nghe vẫn êm. Rồi im hẳn.
Lửa đuốc như sáng to hơn. Một tiếng cọt- kẹt từ từ mở cửa phên. Một bó đuốc đưa
vào cùng một cánh tay áo chàm, rồi cả một người lách vào! Tòi nhận được mặt
ngay.
- Chính là thằng khách!
Tôi tái hẳn người đi. Mép chiếu đã kéo lên tới gần mắt, tôi cố
thu hình lại, mong cho nó không biết trong này có người. Cũng may, bấy giờ tôi
nằm ở một góc miếu phía trong cùng, nơi xếp những lương khô, mình khuất sau mấy
nải gạo mà bọn người Nùng kéo ra có lẽ để dọn cho tôi được chỗ kín gió mà sạch
sẽ cao ráo nhất. Từ góc đó, tôi có thể trông qua những quãng hở để xem cử động
của thằng khách mà nó thì khó thấy được tôi.
Thằng khách giơ bó đuốc nhựa lên nhìn khắp lều một lượt, xem
chiều yên trí rằng bọn đi săn thực không còn một ai ở nhà. Tuy vậy, lúc nào nó cũng
vẫn có vẻ giữ gìn, đề phòng, hai mắt sắc, nhanh như lửa, liếc đây liếc đó; mà
tai thì lúc nào cũng như lóng nghe. Nó bước lên một bước, ngảnh nhìn ra cửa một
cái, cúi xuống cắm bó đuốc ở một kẽ gạch, rồi rút ở lưng ra một con dao rừng lớn,
nhìn thẳng về phía tôi. Trống ngực tôi đánh mạnh rất dữ. Có lẽ nó nghe tiếng mất.
Nó cứ nhìn về phía tôi mãi, nhất định không rời mắt đi đâu. Nó nghĩ ngợi, như
còn lưỡng lự nghi ngờ một lát, rồi thong thả bước lại góc miếu, lôi một nải gạo
áp tường bê lên rồi vứt lên người tôi. Tôi phải hết sức nhịn mới khỏi kêu. Hai
nải gạo nữa lại đè lên tôi, một ở chính giữa bụng, một ở dưới đầu gối. Dễ thường
nó giữ cho tôi không dậy được chắc. Tôi vừa nghĩ thế thì nó đã nhặt con dao lên
ướm, trỏ cái mũi vừa sắc vừa nhọn vào cạnh sườn tôi. Tôi không còn hồn vía nào.
Toan vùng chạy, nhưng chân tay lại bị bó ép trong mảnh chiếu dưới ba nải gạo nặng,
thì con dao đã cắm xuống cách đùi tôi chỉ độ một gang. Thằng khách cúi khom người,
mặt nó sát gần với mình tôi, đang lúi húi vun những lá khô đất vụn mới rấp lại
chỗ ấy. Nó chưa biết có tôi ở đó cũng là một sự lạ. Cái khăn chàm quấn trên đầu
tôi tuy sổ ra nhưng búi tóc buột xuống thò ra ngoài mép chiếu khá nhiều. Hay nó
biết mà làm như không? Tôi thực khổ sở vì điều ngờ vực ấy. Nhưng có lẽ ánh đuốc
xa, nó lại sấp bóng, mà những áo tơi, bao tải thì hỗn độn trong góc miếu, vì thế
mà tôi chưa bị lộ diện cũng nên. Tôi nhíp mắt nhìn xuôi xuống xem nó làm gì thì
cái chuôi dao đang bị hai tay nó ấn xiêu về phía lòng nó: nó đang bẩy một cái
gì ở dưới đất. Tôi không phải chú ý lâu đã thấy chồi lên mội phiến gạch lớn dầy
lắm, vuông mà to gấp hai ba chiếc bàn cờ. Tiếng động chạm lúc thằng khách lôi
nhích phiến gạch, nghe có âm vang khác lạ. Tôi nhận ra đó là nắp đậy của một
cái hầm đào.
Người tôi mỗi lúc một cứng ra như gỗ, hết sức ghìm giữ hơi thở,
vì để nó biết thì chỉ một nhát dao kia là uổng đời. Lúc đó, nó còn mải chưa để
ý, nhưng lát nữa nó đem bó đuốc lại soi xuống hầm, mà tôi thì nằm sờ sờ ra đấy,
dưới ánh sáng rõ, thì thoát sao cho khỏi đôi mắt sáng như hai mũi gươm kia!
Thằng khách tra dao vào vỏ, nâng phiến gạch nặng lớn như thế
mà coi ra vẻ rất nhẹ nhàng. Lúc nó kéo hẳn sang một bên miệng hầm thì bỗng
thình lình cái nải gạo trên bụng tôi lăn ngay xuống. Cổ tôi tắc lại vì sợ. Lần
này thì hẳn nó biết. Nhưng nó vô tình. Nó cho là việc tự nhiên lúc xê dịch phiến
gạch vừa rồi, nên lấy chân ấn hai nải gạo còn lại trên người tôi vào quá phía
trong. Có lẽ lúc ấy cả người tôi cũng chỉ là một bọc lương hay một bó chiếu
gì đó. Nó hắng giọng khạc nhổ một cái rồi vừa lẩm bẩm nói vừa bước ra phía cửa
phên. Cửa vẫn chỉ mở hé. Nó mở rộng thêm chút nửa, đến bên toan nhổ bó đuốc,
nhưng sau ra khỏi lều tay không. Tôi dè chừng nó còn định mang xuống hầm một vật
gì nữa.
Tôi liền hất chiếu vùng dậy. Phải lợi dụng cái khoảnh khắc thằng
khách vắng mặt ở đấy. Chưa kịp có mưu kế gì, tôi nhảy một bước đến bên vách,
hàng nhấc lấy cung tên treo ở tầm tay. Trông trước trông sau, không có một chỗ
nào khả dĩ ẩn được kín đáo, thì tiếng lá khô bên ngoài đã lạo xạo. Túng thế, tôi
thấy chỉ còn cách trốn xuống ngay dưới hầm. Cái tiếng nải gạo rơi xuống đó lúc
trước, nghe gần lắm, hầm tất cũng chẳng sâu bao nhiêu. Tôi bèn lẹ chân nhảy xuống.
Trong trí bấy giờ đã tính sẵn: nếu không tìm được chỗ nào khuất, nếu thằng
khách xuống hầm còn có thể vớ được tôi thì thừa lúc anh chàng bất ngờ, cắm ngay
cho mấy mũi tên sắt này vào gáy là rảnh chnyện.
Chân tôi chạm tới đất thì vừa vặn ngồi lên nải gạo lăn xuống
vừa rồi. Đất dưới chân ẩm, nhưng không mềm nhẽo. Hầm tối như hũ nút. Quờ tay sờ
soạng chỉ thấy quãng không đen ngòm. Trông lên, chếch phía trên đầu là cái
khung vuông, ánh sáng đỏ mờ mờ; đó là cái miệng hầm nắp mở ra gần hết.
Cứ trông qua cái miệng hầm ấy cũng đoán được hành vi thằng
khách trên miếu lúc đó. Bó đuốc chừng nó đã nhổ lên, rồi đi soi mói khắp mọi
xó. Khoảng mái lá tôi trông được bên trên, ánh sáng lúc tỏ, lúc mờ, có lúc tối
hẳn. Có lẽ thằng khách bấy giờ mới sinh nghi, hoặc vẫn chưa đành tâm về hồi хеm
xét sơ qua lúc đầu, nên soi lại để cho thực vững bụng. Xem chừng nó không bỏ
sót một chỗ nào. Tôi nghĩ mà hú vía. Giá nó cẩn thận như thế từ lúc trước, lúc
tôi còn nằm dí ngay trước tầm dao của nó thì muôn phần không có một phần mong vẹn
toàn.
Ánh lửa biến dần, rồi lại sáng lên rất mau. Rồi sau cùng, tôi
trông thấy cả ngọn đuốc. Thằng khách đã cắm bó củi nhựa ngay cạnh miệng hầm. Nhờ
có sáng, tôi nhận ngay được một cái hõm thụt vào vách đất cách tôi không đầy ba
bước, khuất sau một thứ cột cây mà lúc ấy tôi mới thấy hiện ra. Tôi nép ngay
vào cái hõm để ẩn. 'Trên kia, thằng khách đưa xuống một cái thang. Một cái
thang nhỏ, ngắn, làm sơ sài bằng những gióng cây không thẳng. Nhanh nhẹn như nó
mà phải dùng thang mới xuống được đã là một điều bất ngờ. Lúc nó xuống thang,
tôi lại thấy nó phải dò dẫm. Chân nó chậm chạp đặt vào từng bậc, như miễn cưỡng
bị ai bắt xuống. Thì ra nó mang trên vai một vác lớn, một thứ bọc vải dài, xem
chừng khá nặng, lại đèo thêm một gói nhỏ cũng bọc vải, buộc ở một bên. Xuống hết
bực, nó đi ngay vào trong bóng tối, có vẻ quen chân lắm. Tôi đoán chừng chứ
không trông thấv nó đặt cái vác nặng xuống một chỗ. Một lát, tay không, nó trở
ra, leo lên thang lấy bó đuốc xuống, nhân thể đậy lại cái nắp hầm.
Nó đem bó đuốc vào, cắm bên cạnh cái bao đã đặt trước một thứ
bệ đất, trên đó có mấy đồ thờ cũ, kiểu lạ, chỉ thấy ở những đình chùa của người
Tàu. Chỗ ấy cách tôi chừng hai chục bộ. Nó còn trở lên xem lại chỗ miệng hầm một
lần nữa. Biết là nắp hầm đẫ đậy thực kín, nó mới yên tâm xuống, đến bên hai cái
bọc, mở cái nhỏ lấy ra vàng, hương xếp lên mặt bệ. Nó thắp hương cây cắm vào
hai cái lọ vuông, châm thêm điểm hương vòng rất lớn vẫn treo đó từ trước, rồi đốt
bốn ngọn nến sáp cắm sẵn trên bốn cái giá nến bằng đồng hun. Lúc đó, tôi mới đế
ý xem xét.
Hầm này không biết có từ đời nào, hầm đào do hạng người nào,
mà sâu rộng được đến thế! Chu vi có đến ngót ba miếng, gần theo hình chữ nhật,
song không được ngay gọn; bề cao một người trung bình сố nhảy lên mới với được
đến trần. Bề đất trần dầy non một thước, có những dầm lớn bắc ngang giữ lấy những
bắp tre dài đặt dọc. Bảy tám súc cây để nguyên thân, chỉ đẽo có vỏ ngoài, dựng
thành hai hàng cột không thẳng, không đều, xiêu vẹo, cong queo. Từ chỗ bệ thờ,
lửa nến, lửa đuốc, chiếu lòe ra những hình đen ngả lên mặt đất, giải lên trên
trần, to lạ lùng và dài ngoằng ngoẵng, nhích động như linh hoạt, theo những lúc
ánh sáng bập bồng. Bóng tối, lửa đỏ, cảnh tượng chập chờn âm u, tôi khác nào ở
giữa một nơi yêu dị kinh hoàng. Không khí trong hầm lại bức nặng. Hơi mục, hơi ẩm,
hơi dễ ngái, đất lạnh, bọc thấm tận da thịt mình; mà lẫn với mùi hương nến, mùi
khói nhựa ở bó đuốc tàn ngọn, lại thoảng những hơi cá ươn, cóc chết trong đám vẩn
rác ruộng hôi. Một thứ sương mờ loe quanh mấy quầng sáng trên bệ đất.
Phía trước chân bệ, một khoảng đá lớn bằng nửa cái chiếu, phẳng
liền như chỉ độc một phiến. Thằng khách lom khom quỳ trên đó, bên cạnh cái bao
lớn đặt chếch một bên. Vách hầm bên hữu treo hai thanh mác cực lớn, tuy hoen rỉ
nhưng vào hạng cổ khí rất tốt. Sát vách bên tả, một bảng gỗ to, cao gấp rưỡi
cánh phản, dầy đến ngót nữa gang, dựng đứng như một thứ bia.Trước mặt bảng
gỗ lủng lẳng những vòng sắt móc sắt với xích sắt mắc treo tận dầm trần. Dưới
chân bảng gỗ cuộn nằm ngổn ngang những sải dây thừng nhỏ có, lớn có. Thoạt
tiên, tôi cho chốn này là một thứ sào huyệt của một bọn giặc cướp nào, không
thì cũng là một nơi ngục thất bí hiểm đặc biệt, mà những hình cụ đó tất dùng
vào một việc tra tấn hành phạt riêng. Từ lúc thấy thằng khách vẫn quỳ gối trước
bệ, lầm rầm như khấn khứa, nhân lại thấy nó mang cái bao xuống theo,thì tôi
đoán ngay rằng: có lẽ thằng khách đem yểm vàng yểm ngọc chi đó. Cái bao kia tất
không đựng cái gì khác một số của vĩ đại phi thường. Sự tình cờ khiến tôi bắt gặp
cái công việc mà nó hết sức giữ kín đáo. Tôi nghĩ bụng. Hẳn là thế thực. Có
vàng bạc đem chôn giấu tất nhiên phải cẩn mật lắm: những việc rình mò, lẫn trốn
của thằng khách mấy hôm trước kia cũng không có gì lạ lùng quá đáng nữa. Thế
thì mình chỉ việc đợi cho nó cất xong bao của rồi lên khỏi, là mình sẽ có cách
thoát thân. Tôi nghĩ vậy, nên kiên lòng vừa chờ vừa хеm.
Sau khi cầu cúng vị thần mà tôi độ là Tài thần của nó, thẳng
khách dậy lôi cái bao vải chàm ra để nằm chính giữa phiến đá, dụi tàn cho cháy
to chỗ đuốc còn có một đoạn ngắn, rồi dùng lưỡi dao rạch ngược để mở cái bao
ra. Nó rút bỏ một ít mảnh vải lót đi, bên trong còn bọc một lần chăn màu tro.
Khi những mối buộc, thắt ở mấy góc đã cởi đến nút sau cùng, thì, kỳ dị quá, tôi
thấy lại là một người, một người con gái Tàu, quần áo thường ngày nhưng vào hạng
lịch sự khác xa với cách ăn mặc thô dày của thằng khách. Người con gái trạc độ
mười tám hai mươi tuổi. Nước da xanh, lúc đó xám mét vẫn không làm kém vẻ đẹp của
khuôn mặt nhỏ, nét đều mà thanh. Hai mắt nhắm nghiền dưới ánh đuốc sáng gần đó,
cô ta im bặt như chết. Nhìn kỹ mới biết là hơi thở rất nhẹ, như chỉ còn thoi
thóp. Thằng khách không ra vẻ để ý đến vội, thong thả kéo cái bọc nhỏ lại, mở lấy
ra một cái bầu, bình tĩnh đổ vào miệng người con gái, rồi lặng lẽ ngồi chờ. Tôi
thốt nhiên rợn lòng, sực nhớ đến một điều kinh khủng, một công việc ghê gớm
trong những truyện yểm vàng của người Tàu.
Mình thường nghe nói đến nhiều phép người Tàu họ giấu của ở
nước ta, mà cách hiểm độc nhất là bắt một người con gái còn trinh, cho ngậm
nhân sâm, gắn trám đường vào mồm mà táng sống trong một sinh phần riêng hay
trong một hầm huyệt nào để làm thần giữ những của để trong đó. Tôi chắc hẳn một
cảnh tượng giết người độc địa như thế sắp diễn ra trước mắt tôi. Thằng khách
đem người con gái vào nơi rừng sâu biệt tích này làm gì? Chẳng phải cũng là để
khoá miệng một cách thái ác, rồi bắt chết dần ở đây sao? Duy tôi còn ngờ một điểm:
bọn người Tàu thường bắt con gái nước Nam ta để phong thần, chứ chưa từng nghe
thấy họ dùng соn gái nước họ. Tôi nghĩ bụng, hay đây là một sự bất đắc dĩ, một
biến thái cũng nên.
Người con gái dầ dần tỉnh dậy. Cô ta ngồi lên, ngơ ngác giữa
một cảnh lạ như còn trong mộng. Mắt cô ta chớp đến bа bốn lần, rồi lại chớp nữa.
Lúc gặp mắt thằng khách, cô ta trân trân nhìn một lát, bỗng biến hẳn sắc mặt,
miệng há, con ngươi long lanh, người co rúm lại. Tất cả thân hình cô ta thành một
dáng khiếp sợ dữ dội mà im lìm. Cô ta muốn gào thét mà đã như tuyệt hẳn mất
hơi. Rồi mãi sau, mới run run khắp mình, vừa run vừa lê dần, cố lùi xa lại đằng
sau. Thằng khách bất thình lình vồ sấn ngay lấy hai tay cô ta, nhoẻn miệng như
người nhăn, cười lên những tiếng đắc ý, ngạo nghễ mà nghe thực quái lạ. Thoắt một
cái, nó ngừng bặt, hai mắt mở như điên khùng, nó nghiến răng lại vừa rít vừa trỏ
tay lên bệ thờ, gầm ghè nói một thôi một hồi những câu tôi không hiểu gì, chỉ
đoán là những lời nạt nộ tức tối. Người con gái сố vùng được, ríu chân mà chạy.
Thằng khách chỉ nhảy một bước nắm được vai lôi cô ta lại, rồi xô cho ngã lăn
trên phiến đá, rúi vào chân bệ. Những tiếng đe dọa chửi mắng lại tuôn ra không
ngừng. Người con gái giấu mặt khóc, cố nói to trong những tiếng nức nở. Tất
nhiên tôi không hiểu gì hết. Cứ thấy câu nói nhắc đi nhắc lại những tiếng
này: "Ngộ, ngộ... ngộ dẩu... cái gì... chồi cô". Giọng
nói như van vỉ, như phân trần.
Thằng khách thấy thế, tớn môi lên cười, trông đến là khả ố.
Nó quắc hai mắt sáng như hai điểm lửa, rồi chõ cái mặt đầy những hằn học sát
vào tận mặt cô ta. Người con gái quay cổ đi. Nó liền nắm ngay lấy mớ tóc sõa, vặn
cho đầu cô ta ngẩng lên mà khạc nhổ ra một mẻ những lời cục cằn nữa. Người cọn
gái chỉ biết khóc, hai bàn tay nắm lấy nhau, run bật lên. Nó trỏ ngón tay đâm
vào tận trán cô ta, rồỉ sấn sổ đến định lột áo người con gái. Cô ta hết sức chống
cự, úp sấp người xuống để giấu ngực. Thằng khách phải giằng co mãi, sốt ruột,
soắn ngay lấy tóc lôi cô ta đến chân bàn gỗ dầy. Nó xách cô ta kéo dậy như xách
một con mèo, đẩy cho đứng dựa vào bảng gỗ, lấy thừng trói mỗi cổ tay vào vòng
xích lủng lẳng rủ xuống. Hai tay cứ thế giơ mãi lên phía trần hầm. Hai chân cô
ta dẫy đạp vung lên, nó ghì xuống, buộc vào hai cái vòng sắt phía dưới. Trói
xong cả bốn chân tay, nó hục hặc vừa mắng chửi vừa giằng rứt hết mấy lần áo
trên thân người con gái. Vải lụa tơi tả thành trăm mảnh theo hai bàn tay vũ
phu. Cô ta không thể vùng vẫy ngăn cản được, cứ thảm thiết mà gào khóc. Nó mặc
kệ. Lột hết áo, thằng khách lại xé đến quần.
Tôi đứng trong xó tối, bấy giờ vừa lo sợ vừa kinh dị, lại vừa
tức giận, chưa biết thằng khách còn hạ những thủ đoạn đê mạt độc địa tới bực
nào, Chân tay tôi như bị tê liệl đi, thần trí không được yên vững. Tuу sẵn cung
tên đó mà tôi không dám dùng, không những khó lựa chiều vì hàng cột án ngữ, tay
cung của tôi bấy giờ lại không được thực mấy. Tôi sợ rằng bắn ra rất dễ sai,
không khéo nhằm thằng khách mà lại trúng vào cái thân thể lõa lồ kia mất. Tôi lại
tính đến cái nguy khác nữa, thằng khách mà biết tôi ở đó tất không để cho tính
mệnh tôi vẹn toàn. Dưới cái hầm bí hiểm của nó đây, nó khác nào một bạo thần vô
địch. Mỗi lúc xem thái độ nó, nhìn cử chỉ nó, tôi một nhận thêm ra nó có một sức
lợi hại chẳng phải vừa... Trông người con gái thảm hại quá! Vừa khiếp hãi, vừa
thẹn thùng, kêu gào cũng vô ích, van vỉ chỉ chuốc lấy sỉ nhục thêm: cô ta tỏ ra
một vẻ tuyệt vọng bi đát đến cùng cực. Hãm trong cái cảnh ác hại ghê gởm này,
cô ta chắc hẳn không còn một ai biết đến, không thể có một sự tình cờ nào đến cứu
được mình..
Bó đuốc tắt hẳn rồi. Bốn ngọn nến hoe quầng như rung rinh
hoài. Thằng khách ngạo nghễ nhìn từ đầu đến chân người con gái, cười gằn lên mấy
tiếng thô bỉ. Nhân đó, tôi ngờ rằng đây là một chuyện cưỡng dâm, một chuyện hãm
hiếp ô uế cũng không biết chừng. Có lẽ, ở nơi khác, thằng khách đã bị xấu hổ,
đã bị người con gái khinh bỉ, cự tuyệt, nên nó lập mưu bắt cô ta xuống đây để
tha hồ mà lăng nhục... Mấy phen tôi giương cung toan bắn, nhưng sau cùng lại
thôi. Tâm thần tôi không ổn định. Thằng khách lại không ở ngoài cái đường xuyên
nguy hiểm cho người con gái. Phát tên buông ra, rất có thể giết chết người tôi
muốn cứu, vả lại, như tôi đã nói, chỉ sớm gây họa cho chính mình tôi.
Tôi hôi hộp mà cứ phân vân mãi. Cái ý nghĩ cứu người con gái
liền theo với cái ý nghĩ liều chết? Liệu cứu có nổi không? Hay đành cứ đứng yên
mà coi cái hành vi khốn mạt của con vật bỉ ổi đó? Tôi thở thấy bức nặng.
Cái không khí bấy giờ sao mà kỳ ảo lạ, y như ám ảnh mình, làm mê loạn trí minh
mẫn của mình. Thằng khách lại cười. Tiếng cười hề hề, nghe mà thêm lợm tởm cả
mình lên. Nó đã áp đến gần người con gái Tàu. Người con gái đã ríu cả lưỡi vào,
nói, khóc không ra tiếng nữa. Tôi bấc giác nhắm mắt lại, quay mặt đi, như không
nỡ nhìn một cảnh nhễ nhại rác rưởi. Cả tấm lòng bất bình chợt thấy hổ thẹn quá
đỗi, thấy mình vô lý, thấy mình hèn nhát không đáng làm một người con trai! Chẳng
biết mình giận mình hay giận nó hơn, nhưng sự phẫn nộ lúc đó ghê gớm lắm. Tôi
quay lại, quả quyết, chân dọn sẵn bước nhảy ra. Nhưng điều trông thấy trước mắt
lại thực bất ngờ. Tôi kinh lạ, đứng sững đó, không hiểu ra sao hết.
Thằng khách lúc ấy lại đang quỳ gối trước bệ, mình cúi gằm,
hai tay chống đất, gần như phục vị trên phiến đá, không một chút cử động nào
qua. Thế là nghĩa lý gì? Nó cứ im lặng như thế mãi, tưởng không bao giờ ngồi
lên. Mãi sau tôi mới thấy hai vai nó dần dần rung rẩy, mỗi lúc một rõ nhịp với
tiếng sụt sùi, rồi nức nở, trước còn nhỏ sau to thêm, rồi sau cùng bỗng
òa lên những tiếng khóc lớn. Tiếng khóc nghe ra thảm thiết cay đắng, bào gan xé
ruột, vang âm đầy cả cái hầm đất. Thằng khách vừa khóc vừa đen đét vỗ hai tay
lên phiến đá, trước bệ thờ. Từ những ngọn lửa bập bồng cho đến các đồ đạc, hình
ảnh trong chốn này lức đó như có một cảm giác, một tâm hồn như xúc động cùng với
tôi. Tiếng khóc càng lớn, tôi càng thấy kinh dị, tưởng đâu như trời đất điên đảo,
rừng núi chuyển lay, tất cả sập đổ xuống cái hầm này mà lấp dí cả, mà chôn tươi
vùi sống ba sinh mạng, thằng khách, người con gái lẫn tôi.
Trong có chốc lát thì giờ, tôi thấy kế tiếp diễn qua mỗi điều
một thêm kỳ quặc, mà mau chóng quá, đến nỗi trí tôi không kịp hiểu, không kịp
suy lường. Ngờ thằng khách là gian đồ, rồi tức khắc lại tưởng nó là một kẻ có của
mà hiểm ác, đang cho nó là một con dâm quỷ khốn mạt, thì lại thấy cơ sự vừa rồi;
mỗi lúc nó lại hiện ra hình trạng khác hẳn. Có lúc tôi chực không tin rằng mình
còn là người dương gian. Trong cảnh huống kia, gặp những điều biến đổi dị thường
ấy giống như ở giữa một trường ác mộng, ai là người chẳng phải thất thần? Tôi
đi săn trải những phen rất hiểm nghèo, đã từng bị hổ báo nhảy chồm đến tận vai
mấy lần hút chết. Nhưng tôi đều coi thường. Ngay lúc lâm nguy mà trí vẫn tỉnh,
gan vẫn vững. Là vì những nguy nan đó dầu đến thế nào cũng không ra ngoài chừng
mực, người đi săn ai cũng đón đợi những phen như thế, ai cũng trải qua ít ra
cũng vài ba phen. Nhưng mà những cảnh tượng trong cái hầm đất kia, tôi tưởng chả
cần phải gặp thêm một lần nào nữa mới biết thế nào là sợ hãi. Suốt đời tôi, tôi
có qnên được bao giờ đâu?
Thằng khách khóc một hồi lâu lắm. Bỗng nó vùng dậy, khạc nhổ,
rồi lấy ở đâu ra bốn năm cái roi mây dài, vẫn còn màu xanh chắp cả lại mà vút
ngang mình từ mặt đến chân người con gái. Cô la gào lên những tiếng rất đau đớn,
răng rít chặt, mình oằn oại như con rết bị chịt đầu. Trong lúc đánh, thằng
khách quát tháo không ngơi mồm, như muốn nhồi nhét bao nhiêu câu nguyền rủa căm
hờn vào những vết lằn đỏ nổi trên khắp thân thể người con gái. Vụt bằng roi
chán, nó lại cứ mặt cô ta nó vả. Hai bàn tay hộ pháp ấy vả chán lại cầm roi
vút. Người con gái khóc khản cả cổ, tiếng sặc nghẹn vì nước mắt, vì máu mồm
trào ra. Nhưng nó vẫn không nghỉ tay. Mớ tóc dài rũ từng món hỗn độn ở bên mình
cô ta, mỗi lần vướng vào bàn tay hay vào ngọn roi, lại bị nó giật đến nghẹo hẳn
đầu đi trong lúc nó phải gỡ. Sự đau đớn tưởng đến ê chề rồi, đến một độ khiến
xác thịt người ta không biết đau thêm nữa. Thằng khách bật lên cười mấy tiếng
quái ác, lấy trong bọc ra một nắm lá tươi, trông tựa như lá trúc đào, cùng với
một nắm muối. Nó vò hai thứ ấy với nhau rồi đem cái bã xanh nhẽo nhớt kia mà
sát vào những lằn roi rớm máu. Người con gái thét lên một tiếng rùng rợn, mặt sắt
lại, đầu gục xuống ngực, người lịm bặt đi. Trong hầm lặng lẽ một lát ngắn, rồi
lại vang ầm lên vì tiếng thằng khách vừa líu lô kể lể, vừa gào khóc. Nó quỳ gối,
lưng cúi, tay chống lên phiến đá, vẻ khúm núm trước cái bệ thờ.
Khóc chán, nó lại đứng lên xỉa xói người con gái. Cô ta vẫn bất
tỉnh. Hồi lâu, nó đi vốc nước đọng ở một chỗ hõm sâu bên vách hầm toan vã lên mặt
người con gái, thì cô ta đã thở một hơi mạnh. Đôi mắt nhắm chậm chạp mở. Cô ta
cất tiếng rền rĩ, lời nói ngắt những đoạn nức nở, giọng tha thiết như kêu van.
Cái câu ngộ... chồi cô vẫn thấy nhắc đi nhắc lại nhiều lần.
Nhưng thằng khách không thôi xỉa xói, chửi rủa. Không cần phải hiểu nghĩa, cứ
nghe lời tuôn ra từng thôi, từng tràng vội vãi, tôi cũng biết thằng khách nạt nộ
những câu ghê gớm chừng nào. Cô ta vừa lắс đầu vừa năn nỉ luôn miệng. Biết cô
ta đã tỉnh hẳn, thằng khách mới lấy ra một con dao nhọn, sáng như tráng bạc,
giơ lên tận mặt cho cô ta nhìn. Người con gái lặng người đi vì vừa nghe thấy một
câu dọa ghê sợ, Dứt lời, thằng khách mở hẳn cái gói riêng, lấy ra một bó đến
ngót hai chục con dao nhọn cũng sáng cũng sắc như con trước. Nó gằn lên mấy tiếng
cười mà nhảy lùi lại. Người соn gái vừa rú một tiếng thì một con dao đã phập cắm
vào sát bên sườn cô ta. Nó nhặt con dao thứ hai, lùi đúng chỗ cũ, một tiếng cười
một vút tay, ánh sắc loáng, mũi dao bập sát bên vú. Nò ném mấy con sau cũng một
điệu như thế. Dao chỉ bén sát da thịt chớ không hề phạm vào ngirời. Dao đến cắm
bên сổ, dao đến cắm hai bên đùi, con thì mém trên đỉnh đầu, con thì chỉ ly sợi
tóc nữa, cắt mất tai. Thì ra thằng khách dùng một phương pháp khủng bố cực kỳ
nham hiểm. Mỗi nhát dao nó ném ra, khiến người con gái tường là nhát dao tối độc.
Lần nào người con gái cũng tưởng bị dao giết chết. Như thế tức là chết đi rồi sống
lại, sống lại để chịu chết thêm chưa biết đến bao nhiêu lần. Chẳng biết rắp tâm
từ bao giờ mà thằng khách tìm được cách hành hình hiểm độc đến thế. Dao ném đã
gằn hết, còn lại con sau cùng nó sợ người con gái chết khiếp từ trước khi nó giết,
nên còn giữ lại, cầm lủng lẳng ở hai đầu ngón tay. Im lặng một lúc hồi hộp. Người
con gái xem chừng cũng hiểu. Tính mệnh cô ta sắp đến lúc liễu kết; nhát dao ấy
mới thật là nhát hại người. Thằng khách nhìn như để hưởng cái thảm khốc sau
cùng ở tội nhân của nó. Mắt nó nheo lại, long lanh cái ánh quái ác hơn cả mọi
lúc trước. Tiếng cười của nó làm tôi sởn lạnh khắp mình. Nỏ nhảy lui đến cữ trước,
miệng mím răng nghiến nổi gân hàm, nó lừ lừ mắt nhằm một chỗ hiểm trên thân người
con gái. Con rắn độc ngóc cổ lên để rình bổ, vẻ ghê gớm thế nào thì giáng điệu
thằng khách cũng thế. Nó thong thả, nó chậm chạp nữa, đưa cái bàn tay cầm dao lên
cạnh vai, nhè nhẹ sẽ dướn về phía sau, theo điệu tay giơ. Cái cử chỉ khủng khiếp
lạ lùng. Tôi nóng bừng mặt lên. Cái tên lắp sẵn ở cung để giữ mình vút ra cùng
một lúc thằng khách hất tay qua sau gáy. Con dao văng ra một chỗ, thằng khách
chỉ "ấy a!" một tiếng, rồi bóp lấy tay mà nhăn.
Vẻ rõ rệt nhất trên mặt thằng khách không phải là đau nhưng
là kinh sợ. Nó không hiểu một sức thần bí gì vừa hiện ứng, trước hết trông lên
bệ thờ, rồi lấm lét quay nhìn về phía tôi. Tôi biết là cơ sự đã đến lúc kịch liệt.
Tôi không thấy mình sợ hãi thái quá nữa, cũng không hề ân hận gì về sự liều
lĩnh vừa rồi. Tôi lắp sẵn tên để đợi, trí xếp đặt đường lối sẽ đối phó... Ngoài
kia, thằng khách đã rút được mũi tên ra khỏi cánh tay. Vết thương khá nặng mà
không làm nó tê liệt. Nó chẹt lấy chỗ áo thủng cho máu đỡ chảy, lắng tai nghe
ngóng rất cẩn thận, vẻ kinh ngạc trên mặt dần dần thêm vẻ tức giận trông dữ dội
không biết ngần nào. Hai con mắt sắc dị thường của nó nhìn soi vào khoảng bóng
tối như trông được thấy tôi. Nó bước một bước, hai bước, định tiến đến phía tôi
ẩn, nhưng dừng ngay lại, ra chiều e dè, rồi từ từ nó đi giật lùi lại đằng sau,
xiên về phía người con gái, cử chỉ lờ đờ bí hiểm, nhưng tôi đoán trên cái khuôn
mặt mờ tối sấp bóng kia đang hiện những ý nghĩ những mưu mô quỷ quvệt khó lường.
Nó cứ lui hoài. Tôi chưa đoán được nó giở ngón gì thì thoáng một cái, rất
nhanh, nó vung tay giằng một con dao bên cạnh người con gái. Tức khắc một ánh
loáng sắc bay vào người tôi. Tôi né mình tránh được, thì con dao khác đã cắm phập
vào mé dưới cái cột gỗ, ngay cạnh chân tôi. Con thứ ba liệng tới một bên vai,
nhưng không cắm vào vách hầm, rơi xuống. Tôi cúi toan nhặt, vừa may thoát được
một mũi chí nguy: đứng thì thế nào cũng bị trúng giữa ngực. Không thể yên chỗ
được. Tôi liền nhảy bổ ra, bắn cho nó một tên vào giữa bụng. Nhưng nhanh như vượn,
thằng khách gạt được rất dễ dàng. Nó ném con dao nữa ra, lại rút mũi tên đâm cạnh
bảng gỗ mà ném lại tôi. Tôi bắn phát nữa thì nó lánh ngang, bắt ngay đurợc chiếc
tên mà cười. Tôi rợn tóc gáy lên vì thấy cái tài nghệ phi thường ấy. Nó ném tên
lại, tôi may mà tránh được. Hai bên cách nhau chỉ còn hơn chục bước, cùng lấy
những cột cây để lẩn nấp, nhưng xem chừng thằng khách nóng tiến đến tôi mau
hơn. Nó không cần giữ gìn nhiều nữa. Tôi chắp tên bắn ra giữa lúс nó hở mình nhất,
nhưng nó lại tránh được như chơi. Tôi vừa đặt phát nữa thì nó đã xông lại trước
mặt gạt tay tôi, đấm thẳng một cái miếng thượng, Tôi né được, vội nhảy giữ thế.
Nó đánh gấp ra, khiến tôi sợ bí đường phải tiến về phía bệ thờ, sau hàng cột
tay phải. Tôi đã tưởng nó chỉ cốt chẹn lối ra, nhưng sau tôi nhận thấy ngay là
nó còn có ý xem xét: nó sợ ngoài tôi, còn có người nào khác xuống đấy nữa
chăng. Thừa lúc đó, tôi vớ ngay được thanh mác đương treo, liền múa hết vòng rộng
ra. Vừa múa vừa định trí.
Hiệp xung đột vừa rồi, tôi vì may mà không chết. Còn thằng
khách thì quả thực là một tay tuyệt giỏi; to béo thì to béo, nhưng mau lẹ một
cách bất ngờ. Ngón võ của tôi lúc ban đầu, chừng nó không coi ra trò gì cả. Tuy
thế, hết sợ hãi, lại thêm kích thích, chiếm được thanh mác, tôi thấy cũng có thể
bắt chấp được tài thuật của kẻ thù. Trong lúc giao tranh, thắng thế thì dễ lạm,
võ thư thường khẩn thiết răn người ta về cái họa khinh địch. Tôi nhớ điều đó lắm.
Thanh mác lợi hại thực, nhưng không hẳn để cho mình cầm được phần thắng dễ dàng
đâu! Nhưng không nguy hiểm như lúc tay chỉ có cung tên, tôi không luống cuống
chút nào như trưức nữa. Tiến đã vững, lùi đã có ích. Thằng khách chỉ có một mũi
tên sắt sau cùng của tôi để đối lại. Tôi chú ý không cho nó kịp lấy được thứ
khí giới nào khác, nhất là cố ngăn không cho nó giằng thêm dao ném lại tôi. Nó
cúi xuống nhảy lên, tránh được những miếng công phu nhất của tôi: mà chỉ đầu
mũi tên của tôi trong tay nó cũng khiến được tôi luôn luôn phải tỉnh ý thủ ngự.
Nó biết rằng tôi khó lấy được đà chém bổ xuống, vì trần hầm
thấp, mà phạt ngang thì chỉ có lợi ở khoảng giữa hầm. Vì thế gần hàng cột vẫn
là một phương hay nhất để cầm cự với đường mác сủа tôi. Nó cứ giữ một mực thế
mà đợi lúc tôi hở cơ. Tôi quen mưu nó rồi, bèn tính sẵn cách trừ nó. Tôi tính
thế này: hết sức đánh cho nó phải xa hàng cột, lừa khi nó áp gần vách tôi sẽ
dùng hư công. Dử đánh một chiều, làm như để hết tinh thần về một bên, rồi tức
thì, đà lưỡi mác cho một nhát phản diện, thế là xong đời anh chàng.
Song nó chống giữ rất kín, rất vững, không một lúc nào sợ sệt,
lại thường chực lấn đất của tôi. Cái chủ ý rõ rệt nhất của nó có lẽ là mong tôi
chém mạnh, hụt nó, bập lưỡi mác vào cột gỗ. Tôi biết thế vì hai ba lần suýt mắc
phải cái nước đó. Một lần chỉ thiếu một ly nữa là tôi bị nó bắt được tay. Dụng
tử công phu mới khiến được nó đi vào thế của mình. Lưỡi mác của tôi cấp thiết
mà ý tứ lắm lắm. Nó phải chuyển chỗ dần dần lùi về một bên, chỗ ấy là sau hàng
cột phía hữu. Tôi mừng thầm. Lại thấy như nó không ngờ vực gì, tôi càng thêm phấn
khởi. Nó vẫn tỏ ý ngạo mạn; mình né chân lượn, mà miệng vẫn cười một vẻ rất
khinh thường. Tôi nổi giận, đánh càng hăng. Sau cùng, sự tiến thoái của nó đã
có vẻ hỗn loạn. Tôi không để nó kịp điều khiển lại cử chỉ, sấn đến công kích rất
dữ. Rồi, xuất kỳ bất ý, tôi thét lên một tiếng, lưỡi mác hết sức vằng đưa ngang
cổ nó.
Đến loáng một cái, mấy ngọn nến, cả cái bệ, đảo lộn một vòng,
cùng với hình người, chân cột, trần hầm, cùng dốc ngược quanh tôi.
Tôi đã lăn quay dưới đất. Thằng khách nhảy ngay lại. Cả cái
thân xác vạm vỡ của nó ngồi đè lấy ngực tôi.
Thì ra, ngay từ lúc đầu, thằng khách đã biết ý tôi định. Lợi
dụng ngay cái mưu tôi toan đem lừa nó, tương kế tựu kế, nó mờm cho tôi ham
đánh, rồi chờ lúc tôi xuất lực bình sinh ra chém, nó đâm soài người xuống đất,
đưa cả sức mạnh lia tay mà gạt ống cẳng tôi. Tôi thình lình xiêu người đi, gần
như bị hất lung lên, đầu trao xuống theo một đường cánh cung nguy hại.
Lưỡi mác văng ra, tay tôi bị trói nghiến lại. Hai chân chỉ đá
đạp quãng không, cũng bị giữ nốt, kẹp ở trong bàn tay nó thắt lại như gọng kìm.
Không thể nào vùng được lên. Trên người tôi, một quả núi nén dị xuống. Lúc thằng
khách đứng dậy thì hai cổ tay tôi quặt ra sau lưng, cùng chung một dây thừng
trói lẳn vào thịt.
Nó không nói nửa tiếng từ lúc tôi ra mặt. Bấy giờ cũng vẫn lẳng
lặng, nó kéo tôi lại để gần cái phiến gỗ dựng đứng, cạnh chân người con gái
Tàu. Cô ta nhìn tôi chăm chăm, đầu tóc rũ rợi, nét mặt thiểu não, có vẻ tự hỏi,
không hiểu tôi là người thế nào, vào đây có ý gì để cho thằng khách nó tóm đuợc.
Tôi bụng bảo dạ: "Thôi thế là hết. Định cứu người con
gái, mà rồi đến mình cũng khó lòng cứu nổi mình. Cái chết thực mười phần cầm chắc
cả mười. Chỉ còn cách là đành tâm mà chịu. Oán thán nữa, có ích gì đâu? Chỉ hận
rằng mình phải chết mà không biết người con gái đáng thương kia phải đau đớn ô
nhục đến thế vì tội tình gì. Tôi nhìn lên, cô ta vẫn chưa khỏi lấy làm lạ,
nhưng đôi mắt ra chiều cũng ái ngại cho tôi. Cô ta cũng biết rằng đã vào tay giống
lang sói kia thì chỉ có việc đợi nó giết chết. Tôi cũng chẳng còn một chút hy vọng
nào khác, chỉ mong cho nó hạ thủ mình càng mau chóng càng hay. Nhưng ao ước đến
như thế cucng không xong. Thằng khách đâu có chịu cho tôi thoát nợ ngay! Nó cúi
xuống soi mói nhìn khắp người tôi, để lộ một cái vui ác nghiệt, miệng nó nhếch
ra, một vẻ cười hóm hỉnh, ngạo nghễ, như bảo cho tôi biết rằng nó đã nghĩ được
lối ghê gớm để làm tội tôi.
Cái vết thương do mũi tên tôi bắn, chừng đến bấy giờ mới bắt
đầu tấy; hoặc vì mải đối địch với tôi nên lúc nãy nó chưa để tâm. Tôi thêm sởn
gáy vì chợt thấy cái vẻ căm tức im lặng của nó. Đôi mắt kia hẹn cho tôi một
hình phạt xứng đáng. Nó liếc nghiêng nhìn tôi một cái trong lúc quẳng mũi tên
nó vừa nhặt lên хеm. Tôi cứ lấy làm tiếc rằng đó chỉ là thứ tên bịt sắt dùng để
giết thú lớn vì sức mạnh thôi, chứ nếu là tên tre ngâm thuốc độc thì tình thế
có lẽ ổn tiện lắm.
Máu ra cũng khá nhiều đọng quện lại ở ngoài lần vải, nhưng vết
thương không nặng lắm. Nó vén ống tay áo lên, tôi mới biết nó bị toạt đứt thịt ở
khoảng giữa bắp nhỏ; xương cửa tay không việc gì. Lấy một nắm là dấu mà người
đi rừng ai cũng nhớ mang theo, nó nhai dịt vào chỗ đau cùng với một thứ thuốc bột;
xé vải buộc lại, co duỗi mấy cái nhẹ nhàng, rồi cứ giữ cánh tay thực thẳng, chừng
nó dùng một phép nội công mà tôi từng nghe nói đến sự công hiệu, để cho thương
tích khỏi làm liệt gân về sau. Phàm chi thể bị dấu, cần phải giữ yên một chiều,
để thuốc ngấm càng lâu càng có cơ chóng lành, lại cũng phải giữ yên tĩnh cả thần
thái.
Trong thì khắc thằng khách ở yên, có lẽ vừa để nghỉ ngơi, nó
phục vị xuống trước bệ thờ. Tôi nghe thấy tiếng lầm rầm từng hồi. Chừng nó tạ
cái tội bất cẩn để cho người ngoài lẻn được vào đây. Tiếng khấn nhè nhẹ, đều đều,
rồi sau dần im hẳn, chẳng biết nó đắm chìm vào những tư lự trầm ngâm nào... Nó
cứ nằm phục vị như thế hoài. Nến trên bệ còn có vài đốt ngón tay, lửa không gió
nhưng chốc chốc lại khe khẽ tạt ngọn. Tôi nằm hơi nghiêng ra, mình đè lên một
cánh tay bị trói, người chênh chếch với chiều dọc phiến đá, đầu về phía cửa hầm.
Hai vòng sắt mắc vào cái rầm trần ở ngay trên mắt tôi thẳng lên. Gần đấy là hai
tràng xích sắt kéo rút tay người con gái Tàu. Tôi ngảnh nhìn cô ta thì thấy
đang mấp máy môi như muốn nói gì, đầu cử động, mắt long lanh những ý muốn cho
tôi hiểu. Tôi chăm chú một lúc mới nhận thấy cô ta đưa mắt cho tôi để ý đến con
dao rơi ở bên cạnh mình. Tôi càng lấy làm lạ: có lẽ nó xui mình tự tử để tránh
khỏi cái lúc đáng sợ sau cùng hay sao? Nhưng người con gái vẫn ra hiệu, cấp
bách hơn trước. Mắt cô ta vừa cau vừa trợn, đảo đưu nhìn con dao, nhìn thằng
khách, nhìn tôi. Tôi chợt hiểu, liền se sẽ lê mình cho tay thu được con dao, cố
lựa lưỡi dao lách vào những vòng dây thừng trói cổ tay, rồi hết sức cứa. Dao sắc,
chỗ buộc tuy chặt nhưng cũng dễ đứt. Tôi vừa nhìn thằng khách vừa thong thả gấp
chân lại cho gót sát với mông. Tìm mãi không thấy đầu mối, tôi đành phải cắt giữa
khúc quấn. Thằng khách vẫn nằm phục, thấy tôi thở mạnh, ngảnh đầu xuống nhìn.
Tôi đờ người rа. Cổ tắc nghẹn. Nhưng may chân lúc ấy chưa gỡ xong, mà tay vẫn
quặt ra sau lưng giữ nguyên cái vẻ bị trói. Nó không ngờ vực gì, lại cúi trán
sát đất, lại phục vị như cũ. Bấy giờ tôi mới dám thở. Người con gái sợ quá, vẫn
chưa hoàn hồn. Thoát được dây trói chân, không một tiếng động nhỏ, tôi dốn lại
một lát ngắn, rồi lấy hết gân sức nương giữ cho êm nhẹ, tôi đứng đậy, rón rén
bước đến chỗ thằng khách, lăm lẳm con dao, nhằm một chỗ trên lưng nó để đâm.
Trước khi cắm ngon lưỡi dao vào xác thịt to béo kia, làm sao tay tôi như trùn lại,
tâm tôi thấy ngần ngại một cách thực là kỳ dị. Trong giây thoáng mà bao nhiêu ý
vương vít. Tôi phải giận mình là nhu nhược vô lý, phải thúc giục mình bạo dạn để
lấn át cái thứ tâm trạng quái lạ lúc ấy... Không giết nó chết là nó giết chết
mình kia mà!
Thằng khách như sẵn lưng đón cái chết. Tôi lăm lẳm cầm vững
chuôi dao trong nắm tay, giơ cao lấy đủ tầm, mắm môi đâm xuống. Bất đồ thằng
khách vừa đến lúc ngồi thẳng dậy! Con dao trượt sát cánh tay trái nó. Tôi chúi
dụi ngã xiêu theo đà, cố đứng lại thì nó đã vội cướp sấn lấy tay tôi, bóp cho
con dao rơi xuống. Túng thế, tôi xuất lực đấm trái một đấm vào bên má. Hai mắt
nó hốt hoảng, mặt bì ra trong lúc kinh ngạc. Tôi giật được cánh tay phải về. Rồi
"chát" một cái liền theo, tôi cho luôn một tống vào mang tai nữa. Nó
đã bíu được tôi lại, nhưng quả đấm sau rất dữ, lại vào chỗ phạm nên nó gục xuống,
ôm lấy chân tôi. Tôi đạp nó ngã ngửa ra, rồi vội vàng đến bên người con gái
toan gỡ trói hộ. Cô ta thở như bị đè nén, nhất định không chịu, lấy đầu ra hiệu
giục giã, như bảo tôi trốn ra ngay tức khắc. Tôi chưa có chủ định gì rõ rệt, lại
thêm luống cuống vì thấy thằng khách đang cựa mình. Tôi liền chạy lại cửa hầm,
leo lên thang, lấy tay nâng phiến gạch bên trên, nhưng khỏng thấy chuyển. Càng
vội vàng càng thấy sức đuối, hỳ huỵch mãi, cái nắp hầm vẫn không nhích qua chút
nào. Ngảnh xuống хеm thì thằng khắch đã chỗi dậy được. Nó loạng choạng bước tới
chân thang. Tôi lo cuồng lên. Còn bao nhiêu gân sức dồn cả lên đẩy một cái cực
mạnh. Cửa hầm mới thấy hé bật được ra. Chỉ gắng húс một cái mạnh nữa cho phiếu
gạch nhích thêm ít nữa là tôi chui qua được, nhưng thằng khách đã đến nơi rồi.
Tôi liền bám mép gạch, du bổng người lên, đạp rối rít vào đầu, vào ngực, vào
vai thằng khách. Nó điên tiết nắm lấy hai chân tôi lôi tuột xuống, rồi cứ thế
kéo thẳng đến trước bệ thờ. Lần này nó trói tất nhiên là kỹ lưỡng. Dây nghiến
tưởng cắt được ống chân cổ tay mình. Ấy là nó bị thương đấy chứ không thì chưa
biết tôi còn đau đớn tới bậc nào. Tay tôi ngoặt ra sau, bị trói cũng như lần
trước, và cũng như lần trước cùng một sợi dây cổ chân. Rồi từ mắt cá lên đến
vai, một cuộn dây trão quấn thêm mấy vòng nữa. Thực là hết mong lại có cách
thoát thân! Vả lại cũng đừng có hòng thằng khách lại sơ ý đến lần nữa. Nghĩ mà
cứ lấy làm hối hận mãi: mình thực đáng giận vì đã quá ngu ngốc. Thằng khách bị
điếng người lúc nãy, sao tôi không biết thừa cơ lấy dao, lấy mác hay cái gì đó
mà giết phăng ngay nó đi. Thực chẳng dại nàо giống cái dại nào. Mà cái dại dột
này, mới thực là cay đắng, thực là khốc hại! Nhưng lúc bối rối thì cũng không
thể nói mạnh được. Vả lại tôi cũng tưởng có thể thoát được khỏi tay thằng khách
mà không phải giết nó kia! Tôi còn mong có thể đi gọi bọn người Nùng xuống giúp
tôi bắt sống lấy nó. Tôi vốn không bao giờ khinh sát. Người Nùng cũng vẫn cười
tôi về chuyện đó, họ bảo tôi lẩn thẩn, hay nghĩ rắc rối. Nếu ở địa vị tôi, thì
họ không hề do dự, sử gọn được ngay. Ăn năn thì sự đã rồi. Thằng khách trói tôi
xong đang chọn một sợi dây thừng to, ra ý sửa soạn cho tôi một hình phạt mới.
Nó chập cái dây, chung đôi lại, ném quảng gấp khúc cho mắc
lên một chiếc móc sắt trên trần rồi kéo tôi lại, buộc một đầu dây vào chỗ thừng
trói chân tôi, rồi sau cùng cầm nửa phần dây kia mà kéo. Hai chân tôi bị rút
ngược lên gần chạm tới cái rầm ngang, đầu dốc xuống, cách mặt đất độ hơn một sải
tay. Người tôi lủng lẳng như một bó giò treo. Mọi vật trong hầm tôi trông đều đảo
lộn lại một vẻ kỳ quặc. Người con gái ở cách tôi vài ba bước, không hiểu sao lại
nức nở khóc. Thấy vậy, thằng khách quắc mắt, luôn ra một mẻ lời tức giận, cột đầu
dây xuống một vòng sắt dưới đất rồi lấy roi vun vút quất lên mình cô ta. Không
chịu nổi, người con gái lại bật lên khóc. Tiện tay, thằng khách quất luôn cả
tôi.
Bấy giờ máu khắp mình tôi dồn cả xuống mặt. Đầu ù, mắt hoa,
đã mặt nóng như hơ lửa, cổ chân đau như bị tiệnmình mẩy nhức nhối vừa bởi làn
dây thắt, vừa bởi lằn roi. Hình như thằng khách có một thuật riêng về đòn vọt.
Mỗi cái vụt của nó tôi lại phải nghiến răng lại để khỏi kêu. Tôi cố vững lòng
khẳng khái. Nét mặt không đổi, nhất quyết không lộ ra vẻ sợ hãi đau đớn. Mắt
tôi lẳng lặng nhìn thằng khách cho nó thấy tôi khinh bỉ nó không biết ngần nào.
Nó càng thêm tức tối. Nó tưởng tôi phải van vỉ nỏ, có lẽ nó muốn xem tôi khổ sở
kêu khóc cũng nên. Tính mệnh tôi ở trong tay nó, đã đành. Nhưng như thế chưa hẳn
là tôi bị thua nó. Tôi còn một sức để nó phải thấy là phần thắng ở tôi, ấy là sự
nhẫn nhục, sự thản nhiên, cái thái độ khinh sinh của người quân tử. Thành thực
mà nói, tôi đã phải gắng sức kiên cường, phải tưởng nhớ đến các gương oanh liệt,
mới cầm vững được can trường. Nó thấy tôi không thèm coi sự hành hạ của nó vào
đâu, nó giận sôi lên. Nó rít răng lại mà đánh tôi như một thằng điên cuồng. Roi
rát như đốl da thịt tôi, quất gấp trận đồ hồi lên cái thân trơ trơ sắt đá. Mồ
hôi đã thành giọt lăn trên mặt tôi. Tôi hết lòng mong nó tức giận nữa lên, đến
phát khùng lên mà giết ngay tôi tức khắc.
Nó vẫn không quên người con gái. Vì thế ngừng được một lát,
tiếng khóc của cô ta lại từng chặp nổi lên áo não thê thảm bên tai tôi. Có gan
chịu nổi thứ đòn thù dữ dội kia, tôi lại không nén được lòng thương con người tội
nghiệp ấy. Thực đáng thương lắm. Trai trẻ như tôi bấy giờ mà còn phải trẹo hàm
răng đi đề cố nin thinh, huống chi một người con gái уếu ớt, thân thể lại bộc lộ.
Thằng khách lúc đó trông hung bạo hơn cả loài ác thú. Tôi thù ghét nó đã đến cực
độ. Sự phẫn nộ đã đến lúc khó nén được yên. Tôi đem hết khinh bỉ vào trong một
câu rẽ rọt, ghê gớm, như một lời tuyên án, một lời nguyền. Tôi nhìn thẳng
vào mặt nó mà nói: "Đồ phi nhân loại, chúng ta chết đi vong hồn sẽ báo
oán, sẽ theo đuổi mày không biết đến mấy mươi đời". Thằng khách ngừng tay
lại, nhìn tôi sừng sộ một lúc, rồi mặt đang trang nghiêm, nó bỗng nhăn tít lên
mà cười. Nó vừa đưa đẩy gật gù cái đầu vừa cúi xuống gần mặt tôi, sì sồ nói như
bảo cho tôi biết rằng: "Mày cứ đợi đó, ta cho mày biết một lối chết thực
là hay hay!".
Nó đi lấy nến đốt nối vào bốn cây cháy gần hết, rồi nhăn nhở
đi nhổ một con dao trên phiến gỗ, đưa qua mắt cho tôi xem. Nó nói gì tôi không
hiểu nhưng vỡ nghĩa ngay, vì con dao kia, nó đem trồng đẵng chuôi xuống đất,
mũi dao trỏ thẳng lên chính đầu tôi. Tôi đoán lát nữa, dao cắm đã vững chặt, nó
sẽ cắt đứt cái phần dây vẫn giữ tôi lửg lơ dưới trần hầm; tôi sẽ rơi tuột xuống,
đầu tôi sẽ đâm xuống lưỡi dao, hay nói đún hơn, lưỡi dao cắm ngập vào đầu tôi.
Nhưng nào nó đã cho tôi hưởng cái chết nhanh chóng ấy! Như thế
thì chả khác nào thí ngay cho tôi một nhát rảh đời sao? Cái phần dây rút tôi
lên móc sắt trần hầm, vẫn buộc một quãng ở cái vòng sắt đầu phiến đá lớn; thằng
khách quay mình tôi lại để tôi dễ nhìn thấy nó cởi nút buộc ra. Cởi xong, hai
tay nó nắm chắc lại, rồi thả dần ra cho đầu tôi hạ xuống đất. Nghĩa là nó muốn
làm một ác thần cầm giữ cái giờ tận số của tôi. Nó thả xuống, chỉ cho mũi dao
chạm vào da tóc, là lại kéo người tôi lên ngay. Kéo hết mực lại thả xuống, Cứ
thế tái tam tái tứ, lần nào tôi cũng tưởng là lần quyết liệt cuối cùng! Có lúc
buông từ từ để tôi thấy cái ghê buốt xuyên từ óc vào suốt sống lưng; rồi thoắt
lúc lại buông mau. Tay nó điều khiển một cách khôn khéo rất tinh ma, vừa kéo
tôi lên cao, bỗng nó để tuột dây, đầu tôi vừa chấm mũi dao thì nó giữ lại kịp.
Nó cười khoái trá lắm, trong lúc ấy thì tôi toát mồ hôi lạnh. Lối giả vờ quái gở
ấy nhắc lại luôn mấy lần. Ví phỏng tôi giàu có mà nó dùng cách ấy để khảo
của thì có lẽ tôi đến phải xưng. Nhưng đổi lấy một lời năn nỉ bấy giờ thì dù có
phương khủng khiếp hơn cũng vô ích. Tôi không dám nói là mình không sợ chết, nhất
là cái chết theo kiểu độc địa kia. Lòng tôi lúc ấy chua xót vô cùng, tâm trí
cũng dị kỳ lắm. Vẫn mong cho nó giết đấy, lúc tưởng phải chết lại mong nó khoan
tay. Cái lòng muốn rứt cho xong tức thì lại có lòng muốn sống thêm chút nữa đối
ngay lại. Thằng khách có biết tâm sự tôi không mà nó làm khổ tôi đến thế? Tuy vậy,
tôi nhất định không để lộ một vẻ gì khiếp nhược ra bề ngoài. Cả đến sắc mặt tôi
cũng cố không để biến.
Thằng khách thấy tôi trơ trơ, không một tiếng kêu hốt nhiên,
không một hơi thở mạnh, thì căm giận lắm. Cái lối hành hình của nó hóa ra nhàm,
hóa ra nhụt trước sự kiên cường khó chuyển của tôi. Trước nó còn hầm hầm phun
ra những lời tức tối sau nó như lấy làm lạ, nhìn tôi chăm chú, lẩm bẩm nói như
thách thức, như nạt nộ: "Được lắm, được lắm, rồi mày biết tay ta!". Rồi
nó cột dây lại như cũ, ngồi nhìn quanh quẩn, ra vẻ suy nghĩ nhiều lắm. Tôi biết
nó đang nghĩ cách hiểm ác hơn làm tôi đến điều khốn khổ. Nhưng tôi đã nhất quyết
không đẻ nó được vui sướng mà trông thấy cái chết trong lòng tôi lúc bấy giờ.
Người con gái rũ rợi lõa lồ kia vẫn không nhịn được rên khóc.
Tiếng khóc nấc lên từng trội. Tóc cô ta xõa thành nhiều món hỗn độn, bết vào nước
mắt nước mũi, với những vết máu rướm trên mình. Tôi bị treo cách bảng gỗ dựng
không xа, song dần dần mắt tôi hoa lên, lắm lúc chỉ trông thấy một hình thể mờ
trắng, có những ánh lửa lấp lóe trên mấy lưỡi dao sát cạnh cô ta. Thằng khách
chừng không để tâm đến cô ta nữa.
Nó đứng dậy quay đầu nhìn khắp hầm dáng vẻ băn khoăn suy
tính. Mắt nó gặp mắt tôi hai ba lần, hằn học, thâm hiểm. Bỗng nó phát tay lên
đùi một cái, reo lên một trặng cười thích ý, nói lảm nhảm một thôi một hồi. Tôi
chớp mắt, chăm chẳm đợi, thì thấy nó ôm ở đâu ra một tảng đá lớn, rồi nhanh nhảu
đi lôi cát nải gạo ở chân thang vào để một bên. Тrоng hầm đất này, cái hình vóc
to sù kia qua lại, cử động có một vẻ hoạt bát dị kỳ như một bóng ác quỉ trong một
địa ngục lạnh lẽo.
Nó hạ tôi xuống, lựa cho ngực với bụng tôi nằm áp mặt đất,
bên cạnh con dao, nhưng chân vẫn bị treo ngược. Tôi không rằng, không nói,
không có một mảy may chống cự vô ích, cứ lẳng lặng mà xem nó làm. Nó cởi bỏ cái
dây trão quấn bó người tôi ở lần ngoài cùng đi, rồi kéo hai tay trói ké sau
lưng tôi mà buộc làm một với hai chân; gối tôi liền gấp lại. Tôi chẳng khác gì
một con vật sắp bị đem làm thịt. Người tôi lủng lẳng sát đất, ngực ưỡn lên mũi
dao sắc, búi tóc xổ rủ xuống hai bên thái dương.
Thằng khách lại rút tôi lên, rút lên giữa chừng cái khoảng từ
trần hầm với mặt đất. Giữ như thế làm mực nhất định, nó bắt người tôi bị kéo
lên hạ xuống mấy lượt nữa. Chỗ móc sắt dây thừng cọ đi cọ lại từ trước lúc đó
đã nhẵn bóng, tay kéo đã thêm dễ, mà tiếng dây siết đã êm hơn. Chán rồi nó mới
đem buộc kỹ lưỡng đầu nải gạo với tảng đá lúc nãy vào với nhau, lại buộc phần
dây thừng buông kéo tôi vừa rồi vào hai thứ ấy. Buộc xong, nó còn thử xem nải gạọ
với tảng đá có đủ nặng, cho người tôi khỏi lôi bỗng lên được không, Thử đã vừa
ý - sức nặng của tôi với hai vật kia vẫn thăng bằng - thằng khách liền buông
tay ra. Người tôi lúc ấy lửng lơ, không rơi lên được lưỡi dao dưới đất. Thằng
khách bèn lấy con dao khác, chọc một lỗ ở đáy nải cho gạo chảy ra dần. Bấy giờ
tôi mới hiểu cái độc kế của nó.
Nó khoanh tay ngắm cái công trình cơ xảo độc dữ của nó, vẻ đắc
chí hớn hở trên mặt. Tôi lấy làm áo não mà hiểu rằng lần này thế là hết, lần
này thì cái phép tuyệt diệu của nó sẽ đưa thẳng tôi đến cái chết sau cùng. Nó
đang ngồi chăm chú dò xem thần sắc của tôi, sực nhìn lên thấy người con gái
đang nức nở. Nó đùng đùng nổi giận, vớ roi nhẩy lên vừa quát tháo vừa thẳng
cánh vụt. Người con gái lại gào khóc. Nó càng hăng đánh. Tiếng roi bay vút vút
như quật đen đét vào trong những tiếng kêu thảm thê. Tôi nghe chừng người
con gái đã nhược sức lắm. Trận đòn vẫn dữ, mà tiếng khóc như yếu đi, nghe càng
chua xót, càng não lòng thêm, nhất là vì tôi biết cái số mệnh của tôi cũng
không được bao lâu nữa.
Dòng gạo trắng bên cạnh tôi vẫn không ngừng chảy. Cái dây
treo tôi bắt đầu cựa ở chỗ móc sắt, các thớ da thịt thân thể tôi gai sởn cả
lên. Huyết mạch chuyển qua từng dội sóng bàng hoàng. Người tôi chốc chốc lại tưởng
tụt mau xuống một cái.
Nải gạo đã vơi đi đến chừng ba bốn đấu, hạt gạo rơi bắn tản mạn
trên mặt đất đã thấy dần dần thành có chỏm, mà mỗi khắc một cao dần. Thằng
khách chợt để ý. Nó vội lấy chân vun hết gạo hất thực xa. Từ lúc ấy nó vẫn coi
chừng giữ cho cái khoảng đất chung quanh con dao bao giờ cũng quang phẳng.
Lưỡi dao loáng sắc, yên lặng chĩa cái mũi nhọn lên ngực tôi,
như đợi chờ đó đã lâu, như một thứ khí giới yêu ma, chồi mọc lên từ một cõi âm
ty nào. Lưỡi dao đó chỉ lát nữa sẽ ngập vào tim phổi tôi. Tôi sẽ dẫy dụa hấp hối
không biết bao lâu, rồi người sẽ cứng còng, chân tay co quặp trong một dáng thiểu
não!
Gạo cứ chảy. Tôi cảm thấy từng mẩu dây chậm chạp tuột qua
vòng móc. Chẳng mấy chốc nữa đồng cân bên gạo rút đi, mà người tôi sẽ gấp mau sức
nặng thêm hoài!
Tôi thực là trông rõ thấy mình chết.
Mặt tôi nóng như tức máu, những vết trói, dấu đòn không biết
đau nữa, trống ngực đập đến tức thở, hai tai nghe ồ ào muôn nghìn tiếng rất lạ
lùng. Ồ! Cái chết phi thường, cái chết tai quái! Nải gạo kia tức là một thứ đồng
hồ, mà gạo trong nải tức là những giọt nước vô cùng thảm khốc, vô cùng khắc
nghiệt, mà mau chóng làm sao! Gạo tuy cứ đều đều từ từ mà rơi, nhưng thoát ra lẻ
nào vực nào là cái chết nghiêm khẩn, khắt khe lại gần chừng ấy! Cái thời khắc vừa
quá ngắn, lại vừa dài ghê!
Tôi bắt nghĩ đến thân thế tôi, đến quê hương tôi, nghĩ đến tất
cả các bằng hữu thân thích tôi, đến cuộc đời của tôi đáng lẽ còn dài, còn nhiều
bước hạnh ngộ tốt đẹp, còn bao nhiêu hứng vị sẽ được hưởng ở bao nhiêu độ tiến
của tuổi trời... đột nhiên đến bây giờ là đoạn, là tuyệt! Tôi phải chết. Mà chết
bởi một kẻ thâm độc ở đâu chợt đến, chết vì một việc kỳ quái, vô nghĩa lý; chết
thầm kín, chậm chạp giữa lúc khỏe mạnh, tỉnh táo; tronq giờ bi đát, không được
xuôi ruỗi, không ai phủ khăn vuốt mắt; chịu để cho lưỡi dao bình yên giết hại;
chết trong lúc làm trò vui mắt cho một con quái vật nó lấy câu nguyền rủa để
làm lời tiễn tống mình. Bao nhiêu ý nghĩ chua xót thấm thía!
Người tôi hạ xuống một gang, rồi hai gang.
Nhưng tôi biết trước rằng chẳng mấy chốc, khi nải gạo vơi quá
nửa, nhẹ bỗng đi thì tôi sẽ rơi xuống thẳng một mạch, chứ không dần dà được mãi
như lúc này. Ý nghĩ cay đắng ấy làm chói buốt tâm can. Chẳng biết tôi làm thế
nào mà giữ được thần sắc lạnh lùng, chứ thực tôi thấy lòng tôi thảm hại quá,
thiểu não quá. Mắt tôi đến lúc lóa thêm rồi, nhìn cái chân quét gạo của thằng
khách chỉ thấy một hình thù xẫm xanh cử động, nhưng lưỡi dao như sáng thêm, dài
thêm. Cái dây chão kia thực là dây treo tính mệnh tôi, mà thực cũng mảnh hơn sợi
tóc.
Dòng gạo trắng đổ xuống một vệt thẳng mơ hồ. Cái thăng bằng
thiên lệch nhiều. Nải gạo với tảng đá không ở tầm nhìn của tôi nữa. Càng khắc
tôi càng thấy người thêm nặng. Giá tôi quẩy mạnh lên một cái thì xong nợ tức
thì. Nhưng tại sao lại không? Tôi cứ ở yên, cố sức lặng yên... Cứ y như là vẫn
trông mong một sự gì đây: nhưng bấy giờ thì trông mong gì được! Nải gạo nhẹ lắm
rồi. Dây chuyển qua chỗ móc sắt cấp thiết thêm. Tôi nín thở lại mà gạo vẫn cứ
chảy.
Chẳng biết vì cớ gì người con gái gần tôi vẫn khóc; thằng
khách đã nghỉ tay đánh từ lâu. Tôi phảng phất thấy một khuôn mặt tròn nhăn nhở
cười, nhe trắng một miệng răng. Nó áp mặt rất gần để xem tôi hấp hối. Miệng nó
thổ ra những tiếng như gầm ghè, hục hặc. Rồi lại hề hề cười. Vừa cười, vừa hô,
vừa lấy tay đánh nhịp như để thúc giục cho gạo chảy mau hơn nữa, cho tôi thêm
mau rơi xuống, cho mũi dao cắm ngay vào ngực tôi.
Tôi chịu sự khốn khổ đến mực cùng tột mất rồi, phải nhắm mắt
lại để đợi, mà cũng là để thôi nhìn cái mặt ác thú kia. Tỏi buông sức сố gắng
ra, tâm thần hồ thành mê loạn. Chỉ trong khoảng hai hơi thở, hai nhịp trống ngực
mà tôi thoáng nghĩ đến trăm nghìn muôn ức hình ảnh kỳ quặc, thoáng nghe thấy hỗn
hòa những tiếng ồn ào... Mà bên tai vẫn nhận rõ tiếng người con gái vẫn còn
thút thít, với lại tiếng thằng khách hô nhịp không ngơi mồm. Rồi như xôn xao tiếng
người thưa thưa gọi gọi, lại như huỳnh huỵch những tiếng tấp nập сhen chúc ở
đâu đây. Người tôi như ngã từ trên mây, rơi tuột xuống rất nhanh. Nhưng không
qua một chút gì là đau đớn hết. Có tiếng gọi ồn tồn ngay bên cạnh:
- Anh Triệu à, anh còn tỉnh chứ?
Tôi thấy tôi chổng lên, rồi hạ nằm nghiêng dưới đất. Tiếng vừa
rồi cũng như nói trong thế giới nào. Tôi mở mắt, thấy toàn là mặt quen cả;
không biết xuống đây từ bao giờ? Bạn săn của tôi đã lấy dao gỡ hết dây trói,
chân tay tôi đã thoát nhưng vẫn tê dại, họ phải sốc đỡ ngồi lên. Tôi vẫn mơ
màng chưa hiểu ra sao. Bao nhiêu miệng cùng thăm hỏi mà mình vẫn ừ ào chưa nói
lên được. Trông đến người con gái thì mặt xám ngắt như chàm đổ, bấy giờ bất tỉnh,
vẫn bị giăng trói, vẫn trần truồng. Tôi cũng không phân giải được câu nào, chỉ
lấy tay ra hiệu cho họ nhổ dao quanh mình rồi cởi trói cho cô ta. Còn thằng
khách thì đã bị năm sáu người đè xuống, đang lấy dây quấn chịt từ đầu đến chân.
Bấy giờ tôi biết là thoát nạn rồi, nhưng phải nghĩ mới dám
tin là chắc chắn.
Một lúc lâu nữa tôi mới thực hoàn hồn.
Người con gái hơi thở đã mạnh, mặt đã lại sắc dần, họ đã lấy
quần áo của tôi mặc cho, đặt nằm một nơi đợi cô ta hồi tỉnh. Tôi bèn đem việc ở
dưới hầm sơ lược kể cho họ nghe, nhân lại hỏi sao họ biết được tôi bị khốn, ở
đây mà xuống cứu.
Người Nùng đêm ấy bàn nhau nghỉ săn sớm, cuối canh ba đã gọi
nhau trở về, khác hẳn lệ thường cứ đến gần sáng mới nổi hiệu mãn cuộc. Họ định
trưa mai đem da cọp đi trình ông châu Lũng Sa. Vào đến miếu, họ không thấy tôi
đâu, điểm xem thì lại thấy mất một nải gạo. Họ còn chưa hiểu duyên cớ thì bỗng
văng vẵng nghe tiếng rên khóc cùng với tiếng quát tháo. Họ ngạc nhiên lắm, lẳng
lặng tìm sục các nơi xem. Không thấy gì cả, nhưng tiếng khóc tiếng mắng vẫn
còn. Trước họ còn tưởng là chính ông thần miếu này đang nạt nộ, sau mới chợt
tìm ra lối xuống hầm. Thì ra lúc tôi chực trốn lên, tôi đã mở hé được phiến gạch
mà thằng khách vô tình không đậy lại. Tiếng dưới hầm do đấy vẳng lên, người
Nùng mới vì thế biết được lối xuống. Cũng may họ không làm ồn. Còn thằng khách
thì phần đang mãi hò hét, phần không ngờ, nên không nghe thấy gì hết. Họ mở nắp
hầm lên, trước hết trông ngay thấy người con gái trước phiến gỗ, thấy tôi đang
bị treo, rồi thấy thằng khách quay lưng ra, tay đang khoa, miệng hò hét. Họ máy
nhau rón rén xuống cả nấp sau bóng cột, rồi cùng một lượt ồ lại bắt thằng
khách. Hai bên xung đột một lúc thằng khách mới chịu thua. Trong khi đó, hai
người đến cứu tôi. Họ vừa kịp đón lấy tôi chính giữa lúc tuột thẳng xuống. Trước
hết lấy chân xéo đổ con dao dưới đất, một người bế nâng tôi lên cho người
kia cắt dây.
Thực hú vía! Muôn phần tôi không ngờ được một là lại còn được
sống ở đời. Trong bụng vui mừng mà tôi vẫn rờn rợn bàng hoàng, tâm thần như
chưa thực hẳn.
Chúng tôi bàn định ngay hôm ấy sáng rõ thì dẫn người con gái
với thằng khách lên châu Lũng Sa để quan châu tra vấn. Tôi bảo bọn săn hãy vực
người con gái lên trên miếu để khi tỉnh dậy khỏi phải trông thấy quang cảnh khủng
khiếp dưới hầm.
Bỗng từ chỗ thằng khách nằm, mấy trặng cười rống lên. Tiếng
cười nghe thực ghê rợn, không ra tiếng cười ròn, không ra tiếng khúc khích mà
cũng không hẳn là cười nữa. Cứ thấy khê nặc lên từng hồi những tiếng "hô
hô", "hệch hệch", rất lớn, vang âm quái gở, nghe gần tựa như tiếng
ễnh ương hay ếch trâu nó ỳ òa ỳ oặc liên thanh sau những trận mưa rào. Ai nấy
kinh ngạc đứng phỗng ra, lúc đến gần, soi đuốc xem thì thằng khách máu trào ra
như chan, đỏ ngòm hai tay nó, lại vũng cả một khoảng mặt đất. Thì ra tay bị
trói đè trên bụng, nó đã сố lần lách vào lần áo trong móc ruột ra mà tự tử!
Ngăn cản thì đã quá muộn. Thằng khách không dãy dụa, chỉ co giật mấy cái rồi đờ
người, nằm im. Nó chết rồi mà hai mắt vẫn trừng trừng còn mở, nhìn trao tráo
vào mắt tôi. Tôi rùng mình bất giác lại tưởng đến hai mắt tôi bắt chợt hôm nào,
rồi lại nhớ đến hai mắt con trăn... Mắt người đã chết rồi mà sao vẫn có cái sức
yêu ma đến thế! Suốt đời, tôi khó mà quên đi được, mà mỗi khi hốt nhiên nghĩ tới
thì vẻ nhìn quái gở lúc đó vẫn còn xiên qua khắp tâm hồn tôi. Lại còn tiếng cười
kia nữa, tiếng cười kỳ quặc, khủng khiếp! Tôi tưởng như đó là những câu đe dọa
ghê gớm; trước khi nó chết, hình như thằng khách hẹn với tôi rằng nó sẽ không
quên tôi, nó còn tìm được mưu độc hại cho bằng được tôi để báo oán. Trong cuộc
đời tôi sau này, mỗi khi bị hiểm trở, mỗi lần mắc phải tai ương nào, tôi lại
nghi là do vong hồn con ác quỉ kia xui nên. Cả trong yên vui tôi cũng thường chột
dạ. Oan khí như không bao giờ tiêu tán hết, bao nhiêu căm hờn, bao giờ cũng
theo đuổi bước đời của tôi, ám ảnh sự thái bình của tôi; không có cách nào trừ
đi được.
Cả bọn người Nùng đều lắc đầu le lưỡi trước cái chết đột
nhirrn mà phi thường này. Còn tôi thì như đã quen, đã dạn những điều quái đản từ
trước, tôi không lấy sự thằng khách cấu rốn tự tử làm quá đỗi lạ lùng. Chỉ ngấm
ngầm lo sợ không dám nhìn đôi mắt mở của thằng khách. Tôi nín thinh, vừa rờ tay
thăm lại những dấu đòn trên người, vừa đi xem xét khắp hầm vừa ngẫm nghĩ.
Tôi bụng bảo dạ: những việc xảy ra dưới hầm này đêm hôm đó, tất
thằng khách đã rắp từ lâu, mà chừng làm quen tay lắm, cho nên mới sẵn những
hình cụ, như bảng gỗ, những móc xích với những dây thừng. Các thứ ấy đã cũ, đã
rỉ cả. Công việc hắn làm có lẽ không hề ai biết, không từrng có ai cản trở. Bỗng
đến nay, thấíy một bọn người từ đân đâu kéo đến làm cho hắn kinh lạ. Hắn phải để
mắt dò xét cẩn thận; những lúc thốt nhiên thấy cái bóng áo chàm xanh trong rừng,
có lẽ chính là những lúc thằng khách lẩn lút quanh quất đó mà dòm dỏ chúng tôi.
Cả bận hắn lẻn vào trong nhà lều, hẳn cũng là một phen trốn tránh giữa lúc bí
thế; không chừng thằng khách nhân dịp ấy còn muốn gây cho cái thói mê tín của
người Nùng thêm vững, để cho họ đừng chú ý đến các tính cách công việc riêng của
hắn cũng nên. Hay ngoài ra, lẻn vào lều, hắn còn chủ ý gì khác nữa, thì tôi
không đoan ra được. Lúc hắn lẻn vào trong miếu, chỉ có tôi trông thấy hút;
nhưng dù cho cả mọi người trông thấy nữa, hắn cũng biến mất tích như một bóng
ma. Lúc ấy thì nào ai ngờ đâu ngờ đến cái hầm dưới đất? Thằng khách chỉ việc lật
cái phiến gạch, nhảy xuống, đậy lại như cũ, thế là đủ cho bọn người sẵn lòng
tin chuyện biến ảo, yên trí là vừa gặp vía quỉ thần. Trốn ở dưới hầm, giá thằng
khách biết rằng trên miếu người ta đang lửa hương cầu cúng hắn, chắc cũng phải
lấy làm buồn cười. Rình mò nghe ngóng mấy hôm, thằng khách dò biết chắc chắn rằng
chúng tôi là bọn đi săn, mà chỉ ban đêm mới kéo ra khỏi miếu, hắn mới đem tội
nhân của hắn xuống. Hắn không ngờ là trong miếu đêm ấy lại có tôi, sự tình cờ
đã khiến tôi biết được những "chuyện kín" ghê gớm dị thường kia, lại
cũng khiến tôi phải một phen kinh khủng hụt chết.
Song thằng khách là người thế nào? Vì những lý do gì mà lại đến
tận chốn này mà thi hành những việc độc ác như thế? Trong mình nó không có qua
một thứ giấy má nào để người ta có thể biết được tên tuổi, lai lịch của nó.
Thằng khách đã chết thì bao nhiêu ẩn tình về chuyện này họa
chăng chỉ có người con gái Tàu kia là biết được ngành ngọn. Từ hôm đưa cô ta đi
trình Ông châu thì cô ta bị một cơn sốt kịch liệt rồi cứ mê mê mẩn mẩn, khi cười
khi khóc như người hóa điên. Ông quan châu biết chưa thể tra vấn được, nên cắt
người săn sóc thuốc thang đợi cô ta hoàn lại tính người. Trong khi đó, thổ dân ở
những thôn gần đó, không mấy ngày là không nói đến việc xảy ra trong rừng lớn
Lùng Sa. Người thì cho rằng người con gái kia là một vật hy sinh đem đến cho
con yêu trong miếu ăn thịt, người thì lại bảo là thằng khách cưới vợ cho Thần Rừng.
Vì thế có kẻ lo sợ rằng vị thần Lùng Sa sẽ oán bọn người Nùng đi săn, rồi oán
lây cả đấn dân làng, vì bọn đi săn đã làm chết mất thằng khách là người hằng
năm vào trong hầm cúng tế. Nhiều người kể cho tôi nghe rằng, mấy năm trước đây,
họ trông thấy một người khách to béo thường vào trong rừng hoang, khi đi một
mình, khi dắt theo một người con gái; cứ gặp thấy người làng là ù té chạy, rồi
không biết biến đằng nào mất.
Những điều ức đoán với cách giảng nghĩa của họ cũng như của bọn
người Nùng bạn săn với tôi, đều mơ hồ lắm. Lòng tin tưởng của họ ngây ngô, đơn
giản nhưng là vững mạnh. Tôi cũng không muốn biện bạch với họ làm gì. Tuy vậy,
cũng có điều khiến tôi suy nghĩ, là thấy họ nói đã từng gặp thằng khách một vài
lần. Về điều này nhiều người cam đoan là không sai, vì đã có nhiều người trông
thấy. Thế thì có lẽ cái cảnh tượng tôi được "thực mục sở thị" đêm hôm
xưa, quả như điều tôi đã đoán trước, không hẳn chỉ mới diễn ra lần đầu. Mà nếu
thằng khách không bị bại lộ thì chưa biết chừng nó còn ngấm ngầm tác ác đến bao
nhiêu phen nữa.
Ông châu Lũng Sa cùng những người có trách vụ hoặc chú ý đến
chuyện này, trong khi đợi người con gái bình phục, đều băn khoăn như tôi. Thằng
khách là hạng người nào? Cái hầm đất kia với nó có những quan hệ gì? Những việc
nó hành động là do những căn nguyên nào? Khó lòng phân giải được cho xuôi ổn.
Khám xét trong hầm cũng không thấy ngách ngả nào thêm nữa. Hầm
đào chừng lâu lắm, cách chống đỡ rất kiên cố, mà xem ra đào cùng thời dựng tòa
miếu. Không thể nào đoán được miếu ấy thờ ai. Có lẽ miếu dựng lên chỉ để làm
nơi đánh dấu, hoặc để người ra vào hầm đó không bị nghi ngờ gì. Cửa hầm thì ở một
góc miếu phía tay tả (kể lúc mình ngoảnh mặt vào trong), nhưng hầm lại đào ở hẳn
khu ngoài. Tìm kỹ lưỡng, thì thoạt tiên ngoài những cái tôi trông thấy ngay đêm
bị nạn, chỉ thấy thêm được ít lương khô cùng với mấy nén bạc thằng khách đem
theo. Mãi sau vì cái mùi thối nát khác thường, không thể ngờ là do xác chết của
thằng khách xông ra được, người ta mới đào một vài chỗ lên xem thì thấy những
xương người đen sì; thịt chưa rữa hết, có đến hai ba bộ. Những sự kỳ bí chỉ tối
tăm dày đặc thêm lên.
Người con gái Tàu thì ngày càng kiệt lực. Cô ta không mê hoảng
như mấy hôm đầu nữa, song bệnh tình trầm trọng như thế, xem chừng cũng không đậu
được bao lâu. Một hôm tôi ở bản Khau đến thăm cô ta bên châu, cô ta ứa nước mắt
không nói gì cả. Tôi lấy giọng ôn tồn dịu ngọt yên ủi cô ta. Tuy không hiểu tiếng,
nhưng cũng biết là lời ân cần khuyên nhủ mình, cô ta nhè nhẹ mỉm cười, đầu khe
khẽ gật.
Cách đó ít bữa, tôi lại đến châu Lũng Sa thì được tin người
con gái Tàu đã chết. Tôi bùi ngùi lắm, toan trở ra về thì ông châu cho người
lưu lại, mời tôi vào nói chuyện. Ông ta lấy trong tráp, đưa ra cho tôi một
phong thư dày, nói là của người con gái Tàu để lại, dặn gửi riêng cho tôi. Bức
thư dài lắm, nét bút ẻo lả, viết lối hành khải, nhiều dòng chữ líu ríu chi chít
nhưng cũng đủ rõ ràng. Ông châu nói rằng trước hôm cô ta tắt nghỉ, lại thấy
tươi tỉnh, ra hiệu mượn bút giấy, nhờ người đỡ ngồi dậy để viết bức thư này.
Trong thư, người con gái Tàu kể rõ tên tuổi, lai lịch mình, với cái duyên cớ vì
đâu cô ta bị thằng khách hành hạ. Nhờ đó tôi biết được phần lớn câu chuyện. Mãi
mấy năm về sau, được gặp một viên quan Tàu trong sứ bộ Trung Quốc sang giao thiệp
với triều đình ta, ngẫu nhiên tôi nhắc đến việc xưa thì thấy ông phó sứ ấy nói
là đồng quận với thân nhân người con gái Tàu. Hợp với lời trần bạch trong thư của
cô ta, câu chuyện ông quan Tàu thuật lại với tôi đã khiến tôi biết được hết đầu
cuối những điều mà tự mình suy tầm, tưởng khó lòng thấu rõ được.
Cô ta tên Thúy Liễu, con gái họ Lâm, quê ở mạn Phù Nam bên
Tàu, cha mẹ nhà nghèo, chỉ có một mụn con gái làm của báu. Năm cô ta lên chín,
hai ông bà kế nhau tị trần. Trong họ có bà dì nhà cũng khá giả, động lòng vì
cái cảnh thương tâm cùng mực đó, đem Thúy Liễu về nuôi. Thúy Liễu ngoan nết lại
thông minh, bà dì hết lòng chăm nom dạy dỗ, nhan sắc ngày một thêm dịu dàng, được
nhiều người quý mến khen ngợi. Đến năm cô ta mười tám, bà dì từ chối các đám
giàu có, gả Thúy Liễu cho một viên huyện quan họ Mã, tính tình thuần lương.
Mã Sinh là người ở xa đến, mãi đâu từ trên Hàn Khẩu. Nhậm huyện
này kể đã năm sáu năm, mà chưa lần nào về thăm quê nhà. Từ ngày lấy nhau, vợ
cũng không từng về được chào lạy họ mạc bên chồng. Mã Sinh quý vợ lắm, tình
ngày thêm khăng khít mà hai người trọng lẫn kính chung. Nhưng Mã Sinh vốn ít
nói, về chuyện tổ phụ mình, chàng lại kín đáo lạ thường. Thúy Liễu thường bất
chợt thấy chàng băn khoăn lo lắng, có hỏi thì chỉ đáp là bận lòng về việc quan.
Được dịp, giục về thăm quê, chàng bao giờ cũng tìm được cớ thoái thác. Mã Sinh
làm quan hết lòng chăm chỉ, rất mực liêm khiết; thái độ nhũn nhặn; tính hiếu
thiện, hay thương giúp người khốn cùng. Cả huyện ai cũng yêu mến mà nể sợ. Cảnh
gia đình tuy thanh bạch song thực là đằm thắm êm ái. Mã Sinh như thế có thể gọi
là người được sung sướng ít ai bì. Nhưng cái mối u uẩn kia bởi đâu, khiến vẻ mặt
chàng lúc nào cũng có bóng ưu phiền? Thúy Liễu hết cách ý tứ để dò xét cũng
không thể nào biết được. Có những buổi chồng nàng lặng lẽ thái quá, lại có những
khi cười nói hớn hở một cách không được tự nhiên, những lúc đó Thúy Liễu lại lo
hơn, mắt chàng thoáng qua những vẻ hoảng hốt.
Một hôm, thần sắc Mã Sinh biến loạn, một vẻ rất đáng sợ.
Chàng bỗng như cuồng dại, không thể giữ gìn được cử chỉ, cả ngày bứt rứt đứng
ngồi không yên chỗ, mà cứ quanh quẩn ở hậu đường. Đến tối, sai tôi tớ mỗi người
một việc, chàng gọi Thúy Liễu vào phòng, cầm lấy hai tay nàng rồi rưng rức lên
khóc. Thúy Liễu hết lời khuyên van căn vặn mãi, chàng mới đem chuyện kín ra kể
cho vợ nghe.
Ông thân sinh ra cha Mã Sinh là Mã Hồng, trước kia làm quan
cao phẩm, có thế lực lớn. Khi hồi hưu, vẫn giữ thói thị oai thường làm nhiều điều
tà khuất ức bách dân gian. Tuổi tuy già nhưng tính đam mê nữ sắc đẹp không bớt.
Đàn bà con gái, cứ thấy ai lia mắt là sai bắt về cho bằng được, gây ra nhiều
tình cảnh oan khổ mà không ai dám hé răng. Sự buông túng ngày một tệ thêm, vợ
con trong nhà khuyên can thế nào cũng không nổi.
Trong bọn người bị cưỡng đoạt có Trương Thị là người nhan sắc
hơn cả. Trương Thị khảng khái trinh liệt, một mực không chịu để người nhục phạm
được mình. Mã Hồng dụ dỗ chỉ uổng lời, đe dọa cũng không thấy chuyển. Sau cùng
Hồng sai lột hết xiêm áo của Trương Thị, trói chân tay lại mà hành hạ, dùng
cách tàn ngược để bắt phải theo. Trương Thị phần đau đớn, phần hổ thẹn, đến hôm
thứ ba, Mã Hồng mở cửa phòng giam bước vào thì đã thấy người đàn bà cắn lưỡi chết.
Mã Hồng vội sai người đắp điếm rồi ngầm đem vùi một góc vườn ngoài.
Chồng Trương Thị là Lý Chu, cùng với con trai đi buôn ngọc ở
các nơi xa về căm tức đến phẫn uất, Chu biết rằng mình thấp cổ bé miệng, dù có
phá sản để đi kêu đi khiếu cũng vô ích; cái quyền thế của họ Mã vững chắc như
thành liền. Những nhà giầu có chẳng kém gì nhà Lý, vai vế lại không phải tầm
thường mà đối với sự tàn ác của Hồng cũng đành phải nhịn nín. Chu nuốt hận,
nuôi chí báo thù.
Chu để tâm hết sức dò xét, biết được chỗ đất chôn Trương Thị,
nhân một đêm tối, đào lên đem xác về mai táng hẳn hoi. Trông thấy cái thân hình
lõa lồ của vợ, Chu cuồng dại lên vì đau xót, thề nguyền rất độc rằng sẽ ăn gan
uống máu Mã Hồng. Nhưng Mã Hồng đã dự mưu từ trước, dùng luôn việc báo thù của
Lý Chu để hại Lý Chu.
Một đêm Chu lẻn được vào tướng phủ, thấy Mã Hồng ngồi đọc
sách ở đại sảnh một mình Chu nhảy xổ lại đâm thì bị gia đinh của Hồng phục sẵn
đó đổ ra bắt Chu trói lại. Muốn trừ tiệt hậu họa, Hồng bèn nghĩ ra một kế thâm
độc là mua chứng cớ, hãm Lý Chu vào tội thái ác, Mã Hồng vu cho Lý theo nghịch
đảng ước với giặc về mưu sát công thần. Trong nước bấy giờ, vào khoảng năm Đạo
Quang thứ mười, bề ngoài vẫn bình trị, nhưng ngấm ngầm đã có những mối loạn lẩn
nấp lẫn với những bọn cường khấu ở một vài nơi. Đạo sớ của Mã Hồng tâu lên, triều
đình tin ngay, tức khắc truyền chỉ bắt lấy cả nhà Lý Chu và hạ lệnh tru lục, Mã
Hồng tịch thu lấy sản nghiệp của họ Lý, bao nhiêu bạc vàng châu báu riêng lượm
lấy hết, trích ra phần lớn đút lót cho mạnh thêm vây cánh, cho việc mưu tính của
y chóng xong: Việc bức tử Trương Thị, người ta có đoán biết cũng làm ngơ, lấp
liếm dưới của hối lộ và quyền thế.
Con trai lớn của Lý Chu là Lý Thạch đang trên đường lên Bắc
Kinh để chạy chọt cố kêu oan cho cha nghe tin biến, tức khắc quay lại, nhưng
không dám về nhà nữa. Hắn phải ẩn náu trốn tránh đến điều cơ cực. Khi cả nhà bị
đem xử tử thì Lý Thạch đã lẩn lút ở miền Nam. Đến đâu cũng thấy bị truy nã, hắn
phẫn chí, theo bọn cướp lớn Linh Lâm, một đảng có tiếng là xuất quỷ thần.
Cách đó ba năm, Mã Hồng đương ung dung tác uy, tác hại thì bị
một người giữa đêm nhảy vào nội đường giết chết, cắt đầu mang đi. Bên cạnh
thây, một bức thư ký tên Lý Thạch. Trong thư, Lý Thạch thách thức, đe dọa hẹn rằng
sẽ giết ba đời họ Mã để rửa hờn. Việc ám sát Mã Hồng, người nhà hết sức bưng
bít để tránh thêm phần nhơ nhuốc cho gia thanh, vì thế, người đến phúng viếng
có hỏi, Mã phu nhân đều trả lời rằng tướng công vì ngộ cảm mà tạ thế. Mã Hồng bị
giết, tống táng vừà được ba ngày, thì chính thất phu nhân tự dưng không biết đi
đâu mất. Cả nhà chưa hiểu sao, cũng chưa kịp thăm hỏi các chỗ thân thích bỗng một
buổi sáng Mã Hoằng là trưởng nam nhà họ Mã dậy sớm chợt thấy một mũi tên cắm ở
cửa phòng phu nhân. Cuối tên buộc một cuốn giấy. Giở ra đọc thì chỉ có năm chữ:
"Hảo hán báo mẫu cừu". Mã Hoằng nhớ ngay đến bức thư bên cạnh thây
cha, biết rằng mẹ chàng cũng mắc tay Lý Thạch. Hoằng lo sợ lắm. Mấy lời nguyền
cả quyết báo thù kia, Lý Thạch tất không đời nào quên. Vậy thì mình, cùng với
anh em mình, rồi vợ con mình, rồi đây tất sẽ lần lần bị hại. Cơ nguy bao bọc lấy
con cái họ Mã trong cái trùng vây thù oán vô hình. Họ không cho tiếng tăm lọt
ra ngoài, nhưng ngày đêm vẫn tìm hết phương kế phòng ngừa.
Mã Hoằng có độc nhất một con trai là Mã Sinh, bấy giờ tuổi đã
mười bốn. Mã Sinh đang ham chuyên việc khoa cử thì thấy cha bắt sửa soạn gấp rồi
gửi mình cho một người cố hữu ở tận Quảng Tây. Trước khi chia tay, Mã Hoằng ghé
tai dặn dò cẩn thận rằng, việc nhà chớ nên đem thổ lộ với ai, đi xa như thế lấy
tiếng là du học, nhưng chính là để lánh họa. Mã Sinh cứ đi xuống Quảng trước, rồi
độ dăm bữa nửa tháng gì, khi nào thu xếp cửa nhà xong, cha mẹ sẽ liệu xuống sau.
Mã Sinh đến Quảng Tây được hai hôm thì có hai tên đầy tớ cẩn
tín ngày đêm đi từ nhà đến báo luôn mấy tin dữ. Mã Hoằng bị một mũi dao phóng
chết trong phủ rồi ngay đêm sau Mã Thao, em ruột Hoằng cũng bị giết vì một mũi
tên. Tìm hung thủ không những không thấy mà rồi mẹ với cô dì Mã Sinh cũng không
biết bị bắt đi bằng cách nào.
Thế là chỉ trong vòng hai tháng trời, con gái anh em nhà họ
Mã cùng bị hại về tay Lý Thạch. Trong lá thư đầu nó đã nói: Lý Thạch còn báo
thù nữa kỳ lấy được mạng đủ ba đời thù nhân để hả oan hồn của cha mẹ họ hàng. Vậy
thì rồi cũng đến lượt Mã Sinh. Sinh còn sống ngày nào còn phải lo sợ ngày ấy.
Ở nhà vị thân nhân của cha, Sinh hết sức kín tiếng. Quảng Tây
cũng xa nơi hoạn họa hàng trăm nghìn dặm sơn xuyên. Tuy vậy Mã Sinh không mấy lúc
dám ra ngoài. Một tiếng động cũng khiến chàng nghẹn hơi. Chàng e dè những kẻ ra
vào, ngờ vực cả kẻ hầu cận. Thỉnh thoảng phải đi đâu, chàng tránh hết những đường
vắng, nhưng cũng không yên bụng ở những chỗ đông người. Sinh thấy kẻ thù đón
mình ở khắp các nẻo.
Nhưng hết năm nọ sang năm kia, lạ thay, Mã Sinh vẫn vô sự.
Chàng không ứng thí nhưng được hưởng lệ tập ấm ở Quảng được
năm năm thì chàng đặc cách được bổ nhiệm một huyện ở Phù Nam. Kẻ thù chết rồi,
hay bị bắt rồi chăng? Sao chàng không được tin tức gì? Sinh quyết rằng sự yên ổn
đó không phải là do ở sự Lý Thạch lạc mất tăm tích chàng: chàng trốn tránh ở
đâu mà cái chí báo thù kia không tìm thấy được? Có lẽ Mã Sinh vốn là người chuộng
nhân nghĩa, đã hết lòng làm điều thiên, cố ý chuộc lại tội lỗi của ông cha, nên
đã được thần minh giữ gìn chăng? Mã Sinh nghĩ thế nên khi làm quan, cái phẩm hạnh
với đức độ liêm khiết của chàng trong quan liêu không ai sánh kịp. Hai mươi tuổi
thì lấy vợ. Gặp được Thúy Liễu là người vừa đẹp vừa hiền, Mã Sinh thầm tạ ơn trời,
tưởng sẽ được yên tâm mà hưởng thú đình viên. Không ngờ, một buổi sớm ra công
đường lúc chưa có ai, một phát tên cắm trên án với một bức thư của Lý Thạch,
thư rằng:
"Cha mẹ họ hàng ta đang an cư lạc nghiệp, tổ phụ nhà
ngươi dùng thủ đoạn thái ác mà giết hại, khối máu căm giận chưa biết bao giờ mới
tan. Ta may còn lọt sống lại đây, nên quyết đem cái mạng thừa này làm cho ba đời
nhà ngươi cùng chịu với cha mẹ ta một số phận. Bấy lâu ngươi chưa phải chết là
vì ngươi chưa có gia đình để ta đến phá. Bây giờ ngươi đã có vợ, là đã đến giờ
ta ra tay. Thủ cấp ngươi, ta đem tế cha ta, còn tính mạng vợ ngươi ta sẽ đem tế
mẹ ta ngày nay ở dưới cửu tuyền vẫn đợi trông ta báo phục".
Thúy Liễu nghe chồng kể hết căn do câu chuyện kia, lo sợ lắm,
bàn với chồng tìm cách tị lánh hoặc đề phòng. Mã Sinh lắc đầu thở dài, chàng biết
rằng kế nào cũng vô hiệu: vì nếu mình còn có thể trốn chạy, ngăn ngừa để thoát
khỏi tay nó được, tất nó đã không bắn thư đe trước làm gì. Vả lại Mã Sinh vẫn
giấu kín việc nhà, cả đến Thúy Liễu mãi bây giờ sự đã đến nơi, chàng mới đem
tâm sự ra thổ lộ cho hết. Thúy Liễu nghĩ cũng không thấy được mưu nào có thể
tránh được họa nữa, phần thương chồng phần tự thương mình, rồi hai người chỉ biết
ôm nhau mà khóc.
Mã Sinh cùng với vợ ngồi sợ hãi thâu đêm. Tường tuy cao cửa
tuy kín, nhưng thâm nghiêm sao được bằng dinh phủ của cha ông chàng? Mã Hoằng
cũng vẫn biết trước có ngày Lý Thạch đến, đã tìm hết phương đề phòng cẩn mật.
Thế mà tên cướp rừng tự xưng là hảo hán kia cũng lẻn được vào tận nơi mà trả
thù. Huống chi một khu huyện đường bé nhỏ này thì ngăn ngừa sao nổi cái tài nghệ
thần bí của nó. Mã Sinh đành bó tay chịu, phó mặc thân mình cho số mệnh, kẻ thù
đến chỉ cố hết lời kêu xin cho Thúy Liễu khỏi chết oan vì chàng.
Qua mấy trống canh nôn nao trong sự lặng lẽ hãi hùng, bỗng có
tiếng động trên mái ngói. Rồi cửa phòng bật mở, một người to béo, nai buộc gọn
ghẽ, nhảy vào, tay giơ một con dao sáng. Thúy Liễu rú lên một tiếng, ngất lịm
đi. Rồi về sau tâm thần hoang mang, cứ ngơ ngác như ăn phải bùa; Lý Thạch đem
đi đâu cũng theo, bảo gì cũng nghe nhưng không hiểu gì hết.
Mãi cho đến lúc Lý Thạch bỏ vào đẫy vác nàng xuống cái hầm
kia, Thúy Liễu mới tỉnh lại để chịu hành hạ.
Hầm đất này trước kia nguyên là một nơi giấu của Lý Chu tìm
được cùng với một bọn chuyên đi tìm vàng các nơi. Bao nhiêu vàng ngọc của người
Tàu cất ở đó từ xưa, đều về tay bọn Lý Chu hết; của cải không còn gì ở trong nữa,
Lý Thạch bèn dùng cái hầm bỏ không làm nơi mai táng hài cốt song thân, rồi sắm
các hình cụ để làm tội các kẻ hắn đem xuống. Cái hình phạt Thúy Liễu phải chịu
đó, nó nói cho biết là để tế vong hồn cha mẹ nó. Vì thế, trước khi ra tay, nó
nhớ đến cái thảm cảnh nhà nó phải chịu nên động lòng gào khóc trước cái bệ nó
thiết lập lên như một bàn thờ. Trong cơn thịnh nộ, Lý Thạch vừa nguyền rủa vừa
quát tháo, hét vào mặt Thúy Liễu mà bảo rằng: bao nhiêu con trai nhà họ Mã đều
phải chết như phụ thân nó, mà con gái, con dâu nhà họ Mã cùng chịu một khổ hình
cay độc nhơ nhuốc như mẹ nó đã bị hành hạ khi xưa. Khi nó đã giết được đủ ba đời
nhà Mã Hồng, nó sẽ đào lấy những thủ cấp chưa kịp cắt đem xuống chôn cùng với
những thây bị hành hình ở trong hầm này, để cho cha mẹ nó ở dưới âm ty còn được
báo thù một phen nữa.
Duyên do câu chuyện ghê gớm kia, phần lớn thuật lại ở bức thư
của Thúy Liễu viết cho tôi lúc biết mình không sống được nữa. Bức thư tôi vẫn
còn giữ. Lời chân tình có một giọng tha thiết mà cảm động, nhất là đoạn cuối
cùng:
"Tiện thiếp nhờ được tráng sĩ ra tay hào hiệp, nên thoát
khỏi lưỡi dao độc địa của thù nhân. Những tưởng thân được sống để còn mong có
ngày báo đáp cái ơn cứu mệnh. Nào hay bấy nhiêu hình cực khổ, cùng với bấy
nhiêu điều khủng khiếp, đã khiến thiếp mang trọng bệnh mà từ bỏ trần gian.
Những việc trên đây, đáng lẽ thiếp phải biết giữ kín nhưng
nghĩ rằng chiếc thân gửi nơi đất lạ, không đành làm một khối oan hồn kỳ bí, khiến
cho ân nhân không hiểu những tội tình kia thiếp chịu là duyên cớ vì đâu. Vậy tiện
thiếp không quản bại nhược cố tĩnh tâm thần, để lại mấy hàng này, xin ân nhân
soi xét".
Những tiếng nói thầm
GẶP MƯA
Đêm hôm ấy bầu trời mây vẩn, mặt trăng còn khuyết không mấy
khi hiện hẳn được ra. Không khí nóng bức nặng nề, như mang cái lo ngại. Trong bốn
bề toàn đồng ruộng bát ngát, chỉ thấy xa xa mờ mờ, mấy đám cây cối im lặng một
cách say sưa, mơ màng.
Trời bỗng thêm mây đen phủ đặc, gió lốc bắt đầu cuốn bụi.
Khách rảo cẳng mà vẫn không thấy tiến mau. Trên đầu ầm ỳ sấm chuyển; chớp loáng
ở chân trời ngày càng gần lại, ngày càng mau ; mưa to sắp đổ xuống mà làng
xóm lại xa, đi chạm thế này chắc không thể nào tìm được chỗ ẩn. Khách vừa băn
khoăn vừa gấp bước, nhưng bụi với gió cứ ấn mãi vào mặt, phải giữ chặt lấy cái
nón lá cho khỏi lật ra sau gáy, rồi lại phải bỏ ra cầm ở tay. Cũng không xong,
gió mạnh và nhanh lắm, như cố tinh bắt khách lùi. Người đã nhọc quá, xem chừng
không thể tránh khỏi mưa, khách mới chậm chân để thở. Bỗng thấy một đám cây rậm
đang cót két ngả nghiêng ở cạnh một cái đầm con. Nhìn kỹ thì đó như là một cái
miễu lớn, ở trong lại hình như có chùa, hay miếu - hay không có gì chăng nữa
thì cành lá um tùm thế kia cũng che đỡ cho mình được ít nhiều. Khách liền dấn
bước về nẻo miễu.
Trong miễu quả có một ngôi chúa nhỏ; song khách chỉ đứng lại
ngoài hiên. Trong chùa vắng ngắt mà tối lắm. Nhờ có chớp nháy khách dần dần
trông thoáng được một cái bệ gạch ở giữa những cột to sù. Cái bệ phẳng, trên
không có gì qua; mấy tượng bụt thì hình như cụt đầu nằm lăn ở dưới đất. Sau cái
bệ ấy là bóng tối mà ánh chớp làm cho đen thêm - cái tối sâu âm thầm, sâu vô tận,
người ta không biết trong ấy có những điều bí mật gì.
Khách không bước vào trong chùa, đặt nón ngồi ở hiên, ngảnh mặt
trông ra; trong bụng không lo sợ nhưng không được yên lòng hẳn. Hạt mưa đã lác
đác đập lên mái ngói và cành lá, rồi ào ào trút xuống, nước bắn vào gần chỗ
khách ngồi. Khách phải thu hình lại và lấy nón che chân, sau lại phải ngồi quá
vào trong bực cửa.
Bấy giờ cả một phương cảnh vật chuyển động trong đám tối mịt
mù; tiếng gió chạy ầm ầm hòa với tiếng nước đổ rào rào không ngớt. Chớp lóe lên
từng lát buông vội xuống một tấm màn mưa lấp lánh trước hiên và làm thoáng hiện
ra những đám cây ướt đang vạt vã. Bốn phía sấm dồn như vần đá tảng nối vào những
tiếng sét như nổ vỡ một tầng trời. Mưa gió tưởng chừng không bao giờ nguôi.
Khách cứ lẳng lặng ngồi đó, trong bụng ngày môt thấy xôn xao áy náy. Khách tự
nghĩ: "Dễ thường phải ở đây đến sáng cũng nên".
Khách là một người bộ hành từ phương Nam đi lại. Ít lâu nay,
người ta đồn rằng ở Bắc thượng có vị Cao sĩ ngoài trăm năm mươi tuổi, sống từ đời
Lê Mạt cho đến bây giờ là năm 152; cụ biết được nhiều điều rất mầu nhiệm, suy
được những cơ trời huyền bí, nói trước việc tương lai tới hai ba trăm năm trở về
sau. Khách là người mộ học, nghe thấy vậv, không quản xa xôi, đi ngay tới Bắc
thượng để xin Cao nhân chỉ giáo. Ở nhà đi từ sáng tờ mờ đất, định đến chiều tới
Bắc thổn, sẽ tìm vào nhà một ông họ Đàm là bạn học cũ; nghỉ ở đấy một đêm đến
sáng hôm sau sẽ lên Bắc thượng. Khách đi không may lạc đường, lúc biết ra thì
trời đã gần tối. Khách hỏi thăm cặn kẽ rồi cứ đi không muốn trọ đỗ ở đâu, gần đến
Bắc thôn thì gặp mưa, khách phải miễn cưỡng vào ẩn trong miễu.
Ngồi ở cửa chùa đợi tạnh, khách tuy có bồi hồi thực, nhưng đó
chỉ là nổi khó chịu của mọi người gặp phải lúc này thôi. Chứ khách có biết đâu
rằng hiện khách đang ở trong một cái hang chứa những tai nạn ghê gớm.
Ngôi chùa này nguyên có tiếng là thiêng lắm, chùa dựng lên đã
lâu, nghe nói là của một viên quan triều đình cáo lão sai làm để đến tu niệm.
Bây giờ, tuy là nơi bỏ hoang, xa cách hẳn làng xóm, nhưng trước kia quanh năm vẫn
tấp nập nghi ngút, khách thập phưong qua lại cầu khẩn rất nhiều.
Bỗng tự nhiên mấy năm về trước đây, chùa này xảy ra một chuyện
rất kỳ dị. Sáng sớm hôm rằm tháng chín năm ấy, những người đi lễ đến nơi thì thấy
cửa chùa còn đóng. Đợi mãi đến lúc mặt trời đã cao mà chưa thấy nhà sư thỉnh
chuông. Đẩy cửa vào thì cửa không cài then trong, mà mâm quả, bát nhang, với
bình hương, giá nếu đều đổ vỡ. Các tượng bụt thì bị quăng cả xuống đất, dưới đất
có vết máu lênh láng, mà pho tượng nào cũng cụt đầu. Đang kinh ngạc thì người
ta lại lôi ở trong xó tối ra mấy cái thây cũng mất đầu, đó là hai vị sư với hai
chú tiểu.
Người ta đi trình quan; huyện quan đến khám xét và tra vấn
nhưng không ra được manh mối; mà kỳ quá, trong chùa ngoài những thủ cấp của bụt
và sư tiểu, thì không thấy mất mát gì qua. Không biết hung thủ làm gì bằng những
của ấy. Bốn năm tháng dò xét cũng không thể khám phá được những điều bí mật,
đành phải bỏ. Rồi việc ấy dần dần cũng bẵng đi.
Nửa năm sau trong chùa lại có hai nhà sư khác đến ở. Hai nhà
sư chưa kịp thu dọn; mới đến hôm trước, hôm sau một ông trốn đi đâu mất, còn một
ông chết lăn ra sau phương trượng; người ta không biết được tên họ nhà sư ấy,
vì ông ta cũng bị chặt đầu.
Còn đương tầm nã người đi trốn, thì sáng hôm thứ tư có người
thấy ông ta ở trước cửa chùa, nhưng đã chết treo dưới cây đại lớn.
Khắp vùng đó nôn nao lên vì những sự quái gỡ. Ngay từ khi xảy
ra mấy cái án mạng trước, người bàn đi kẻ đoán lại, phần nhiều người tin rằng
chùa này phát hung thần. Nhân đó, mấy người chú ý riêng về việc này đều nói quả
quyết rằng: thường thường những đêm ầm ỳ mưa gió, trong chùa Đầm thấy lập lòe một
ngọn lửa xanh; họ cố rình xem thì thấy hiện lên những hình thù rất lạ lùng, xúm
quanh ngọn đèn mà rì rầm như nói chuyện. Câu chuyện lan ra thực chóng, trước
còn những bọn đàn bà con trẻ hay kể lại, lâu dần cả đến người mạnh bạo nhất
cũng phải tin rằng có những sự phi thường. Chùa Đầm vì thế hóa ra một nơi độc địa
không ai dám bén mảng đến.
Ba bốn năm trời không hương khói, không người coi sóc, không
ai dám đoán biết đến những việc xảy ra ở trong. Miễu thành ra um tùm, chùa
thành ra thêm bí hiểm, chốn này người ta coi như một nơi tụ họp của vong hồn
người chết hay một cái cửa xuống âm phủ, lù lù hiện ra đó để nạt người trần
gian. Người ta lại kể chuyện rằng: một hôm có một bọn người đi buôn ở xa đến
không biết là chùa dữ, nên rủ nhau vào ngủ một đêm. Sáng hôm sau không ai ra nữa:
bọn ấy tất thành ma không đầu. Rồi mỗi năm lại thấy những điều kỳ quái một thêm
ra. Khi thì mấy người táo tợn bị thiệt mạng và mất xác vì dám vào dò xét trong
chùa; khi thì ông lý trưởng làng trên vì nói động đến chùa Đầm nên tự nhiên bỏ
nhà đi đâu mất ; khi thì bọn tuần tráng trong làng gặp thấy trong lức đêm
tối những con yêu tinh da trắng tóc xõa chập chờn quanh miễu. Bao nhiêu bệnh nạn
ở vùng đó người ta đều cho là các hồn người chết trong miễu gây nên.
Những cái nguy hiểm ở chùa Đầm là thế, nhưng người khách lạ
có ngờ biết gì đâu? Có lẽ khách ở xa nên không nghe nói đến các việc trong miễu
này bao giờ; dầu cho có máng nghe thấy khách cũng coi như những chuyện huyền hoặc.
Bấy giờ mưa đã dần dần ngớt; lúc tạnh hẳn thì đêm chừng đã quá canh ba. Một vài
con dế cỏ se sẽ cất tiếng kêu, rồi lại im. Mặt trăng trên đám mây tan cũng nghé
con mắt trông xuống. Khách thấy trời khuya đã toan tìm chỗ ngủ. Bỗng nghe ở phía
sau có tiếng sột soạt rất nhanh. Khách trông vào: trong xó tối mù có hai con mắt
lè lè sáng. Hai con mắt tròn và nhỏ, yên lặng như chăm chú nhìn khách. Cùng lúc
ấy có tiếng gừ gừ đưa ra. Khách "suỵt" một cái thì một соn cáo chạy vụt
ra ngoài đâm bổ vào đám cây muỗm còn đầm đìa những giọt nước. Bỗng con cáo lại
nhẫy lùi lại dựng cả lông mình lên, thì ra một con rắn lớn ở trong cỏ đang bò tới...
Khách vừa đứng phắt dậy thì thấy hai con vật đang gầm gừ phì phè lừa vồ nhau.
Khách nhẩy sổ ra dẫm chân dép lên đầu con rắn. Nó oằn oại rồi chết ngay. Con
cáo đã biến đâu mất. Lắng tai nghe chỉ thấy tí tách rơi xuống một vài hạt nước
đọng trên mái ngói hay lá cây mà thỉnh thoảng một cơn gió thổi qua làm rụng xuống
gần hết. Trời một ngày một thêm quang quẻ, mà chốn này lắm rắn rết như thế xem
chừng không ngủ yên được, nên khách buộc lại dép rồi xách nón đi ra.
Ở NHÀ ÔNG ĐÀM
Ông họ Đàm đặt chén rượu xuống vừa mỉm cười vừa lắc đầu:
- Nguyễn tiên sinh nói lạ! Bao nhiêu chứng cớ hiển nhiên còn
đấy, ai dám bảo là không có, là huyễn hoặc? Chính tôi đây cũng không ngờ vực nỗi
gì.
- Thế thì nhân huynh cho là tôi đặt để ra sao?
Câu chuyện này là câu chuyện ẩn mưa trong chùa Đầm. Khách
nhân thấy ông bạn cứ thuật lại những việc yêu quái trong cái miễu mà ta đã biết,
bèn đem kể rành mạch từ lúc khách bước vào chùa trông thấy những tượng bụt đổ vỡ
cho đến lúc thấy con cáo và con rắn đuổi nhau cho ông họ Đàm nghe. Ông họ Đàm
thì cho là khách nhầm, chứ nhất quyết không tin việc Nguyễn công vào ẩn mưa
trong cái chùa quái gở.
- Một là Nguyễn tiên sinh vào đấv rồi không ra nữa, hai là
Nguyễn tiên sinh không bước chân vào bao giờ...
Ông họ Nguyễn thì lấy làm lạ quá. Bạn ông hẳn cũng biết ông
không đời nào nói dối, mà sao vẫn một mực cho là mình bịa đặt ra câu chuyện ấy
để làm kinh ngạc mọi người.
Lúc ấy vào khoảng giờ thìn (8 giờ sáng) hai ông bạn ngồi đối
diện uống rượu ở trên phản, ông họ Đàm người xương xương, nước da ngâm đen
nhưng không phải vì cháy nắng; búi tóc nhỏ, gò má cao, trán nhỏ, mắt bé sắc xảo.
Cách nhau đã hơn mười năm trời, kể từ ngày còn theo học hòa thượng Linh tự, bây
giờ mới lại gặp mà hai người nhận được nhau ngay. Hai ông vẫn giữ nguyên cái
nét mặt đặc biệt ngày trước. Ông Đàm thấy ông Nguyễn vẫn nước da hồng đỏ, vẫn
đôi mắt sáng và nghiêm trang, vẫn cái miệng rộng, măm mắm trên cái hàm vuông của
người chính trực quả quyết; nay chỉ thêm hoa râm cái bộ râu ba chòm kia dài và
đen, mà bạn học vẫn gọi đùa là bộ râu Trinh Tử.
Hai ông được gặp nhau xem chừng vui vẻ lắm và kể lại những
tích cũ lúc hai người đang ganh nhau luận sử đàm thi. Rồi sau khi hỏi nhau về
cuộc đời mười năm về trước, ông Đàm thở dài mà than trách cái thân thế của
mình. Nay ở thôn Bắc, ông chả thiết làm gì cả; cái công luyện tập đèn sách đã
tính đem ra răn bảo đàn sau, nhưng vì có nhiều điều bất đắc chí nên lại thôi;
việc nhà cửa phó mặc cho "bà nó" săn sóc. Bà là người đảm, thắt lưng
bó que làm lụng một tay chăm nuôi con cái và cung phụng đức ông chồng. Ngày rộng
tháng dài, ông chỉ ngâm vịnh thơ văn cho tiêu tán. Cái công danh sự nghiệp khiến
cho ông bao phen chìm nổi mà không có kết quả gì, thôi thì ông cũng không cần nửa.
Mặc kệ cho đời xoay vần, cho đời nó sóng gió, ông đã chán lắm, ông chỉ ở kín một
chỗ, ông ngâm nga thơ phú, ông châm chọc đời chơi.
Nhưng người chán đời để ẩn trong thú điền viên kia lại quan
tâm đến những việc lạ lùng trong nước. Ông không những không "dũ áo"
mặc kệ những việc ấy, lại còn đem ra thuật lại cho bạn cũ biết, và lấy việc ông
họ Nguyễn ẩn mưa trong miễu là một việc khó tin, ông lại nói rằng:
- Thế gian kể cũng nhiều điều kỳ lạ, song không kỳ lạ bằng những
chuyện này. Mấy năm nay, bên tai tôi không lúc nào ngơi những điều quái đảm
kinh hồn người ta kể lại. Trước tôi vẫn cho là việc bày đặt như bao nhiêu chuyện
ma quỷ khác, đến sau cùng phải tin. Vả "thế gian chẳng ít thì nhiều",
vạ gì bịa ra những điều người ta không trông thấy! Huống chi việc xảy ra ngay gần
đây, các người trong mấv thôn không ai không biết rõ, không ai không lo sợ sẽ gặp
phải những tai nạn không thường... Một người đặt để ra nói còn có lẽ chứ có đâu
mọi người trong châu huyện gần đây ai cũng nói đến những điều không có để nạt
nhau ư?... Ngô huynh ở xa đến đây, nghe thấy những điều kể vừa rồi cho là lạ kỳ
cũng phải. Nhưng lạ kỳ mà có thực... Có nhẽ lại thực hơn cái việc ẩn mưa của
ngô huynh.
Giọng nói với nét cười của ông Đàm nửa ra khôi hài, nửa ra
châm chọc. Ông Nguyễn không muốn cãi lại, ngồi lẳng lặng ngẫm nghĩ hồi lâu. Có
lẽ ông cũng hơi chột dạ; có lẽ ông đang nghĩ cái cớ vì sao ông không phải làm
con ma cụt đầu trong chùa Đầm. Nhưng ông đặt chén rượu xuống, thong thả nói:
- Người ta vẫn bảo rằng ma quái chỉ đến nạt những người yếu
bóng vía, còn tôi thì tôi cho là những người ấy tự nát mình thì phải hơn. Trời
đất sinh ra người có thâm thiểm gì mà tạo ra những vật ấy để hại người ta? Chẳng
qua bụng mình bao giờ cũng chứa sẵn cái sợ, trong trí sẵn tưởng có các vật linh
thiêng, độc ác nó chỉ định ám ảnh mình. Bởi thế, một tiếng động trong đám tối,
một tiếng chim lạ trong lúc đêm khuya đều khiến cho mình tưởng trông thấy những
hình thù quái lạ. Trong một bọn người đi ngoài đồng ban đêm thường có người kêu
rú lên rằng thấy ma, mà những người kia nếu không khiếp sợ thì chỉ lấy làm ngạc
nhiên không thấy ma nào hết. Tôi thường đi tối với những người như thế để хеm
con ma của họ nó thế nào. Nhưng không bao giờ tôi được gặp ma cả. Vậy thì ma ấy
ở đâu? chẳng là ở cái nát đảm của người nhát, ta vẫn gọi là yếu bóng vía,
tưởng tượng ra trước mắt hay sao?
Ông Đàm:
- Trong trời đất có nhiều việc ta lấy ý tưởng mà đoán xét mà
cắt nghĩa được, song cũng có nhiều việc sâu nhiệm ta không thể lấy tri thức nhà
suy lường... Những điều lạ kỳ, những điều vô lý nhất, cũng có thể có được. Việc
oan hồn hiển hiện, việc yêu quái linh thiêng đời nào cũng có, đời nào cũng lắm.
Ngày xưa có những án kỳ lạ nếu không có những việc hiện hồn mách bảo thì ai tra
xét được ra? Mà những chuyện thần miếu, những hung thần tác quái, như trong
chuyện thần Xương cuông ăn thịt người trong cái miếu hãm hại Bất Vi ngày xưa,
có phải là những chuyện truyền khẩu đâu? Các việc đó điều chép cả trong lịch sử.
Không nói đâu xa lạ, nói ngay những điều tôi mắt thấy tai nghe về cái miễu chùa
Đầm đủ chứng rằng các ma quỉ là có thực. Tạo hóa dựng nên, hay cho phép những
linh vật ấy được vơ vẩn trên đất của người trần gian là ý thế nào, bất tất phải
gò tâm nghĩ đến những điều mầu nhiệm ấy vội... Hay là có thể cho rằng các hung
thần hay yêu quái được quyền đến chiếm cứ ở đấy, một là để trừng phạt lũ lăng
ni làm nhiều điều hắc ám trong nơi thanh tịnh mà tội ác chỉ giấu được mắt người
trần; hai là để hãm hại những kẻ gian tà, những người đến sổ chết với những kẻ
vô phúc lạc vào đó. Ví bằng việc sát hại này không do ở lòng trời khiến ra, mà
lại do ở tính quái ác của lũ yêu ma kia, thì chỉ một lưỡi tầm sét đánh xuống là
tan nát hết. - Một lẽ nữa là giống yêu quái đó chắc hẳn là các vong hồn của người
trần, các hồn đơn quỉ đói không ai cơm cúng, phải tự họp ở đấy để tìm tòi các
người tận số, hoặc phải chết vì nước lửa, hoặc chết vì sấm sét, rắn rết hay vì
cách nào, để dun rủi đến đấy mà chết. Những người chết đó, xác thì bị các quỉ
đói chia sẻ, còn hồn thì lại vẩn vơ quanh cái miễu, lâu ngày cũng thành yêu
tinh. Đó là những con tinh tóc xõa, áo trắng lừ lừ đi trong những đêm mưa gió
âm u mà thỉnh thoảng bọn thần đinh trông thấy...
Ông Nguyễn vuốt râu cười nhạt:
- Tiếc thay, những bộ văn Trích quái không có nhưng lý luận
như tiên sinh vừa giải tôi nghe...
- Thế ra ngô huynh vẫn chưa tin lời tôi ư? Thì tôi đã nói rằng
chính tôi đây lúc mới nghe cũng không thể tin lời người ta thuật được. Mãi về
sau, vừa suy nghĩ, vừa xem xét, lúc chính mắt được thấy cái ánh lửa xanh lè
trong chùa với những yêu tinh quanh quất đấy, tôi mới không nghi ngờ gì nữa.
Nguyễn công thấy ông Đàm nói quả quyết lắm, đã bắt đầu kinh dị,
cho là một việc lạ thường. Ông cau mày một lúc rồi nói:
- Quái lạ, thế sao đêm vừa rồi tôi không thấy gì? Hay là vì
tôi không nghi ngờ gì nên không bị cái nát đảm nó mê hoặc...
- Tiên sinh vẫn cứ nói đến mê hoặc mãi...! Nếu tiên sinh có
vô tình vào qua miễu ấy thực mà không việc gì thì đó chẳng qua là thần minh còn
che chở người ngay, nên phúc thần mới hộ vệ tiên sinh mà không cho lũ yêu quái
gần đến... chứ từ xưa đến nay, có ai dám bén mảng đến đấy đâu. Nhưng tôi xin
tiên sinh chớ có tin ở vẻ tầm thường của chùa Đầm theo như ý tiên sinh nghĩ.
- Thế thì lạ thực! Trong trời đất lại có những việc khác thường
đến thế ư? Nếu vậv đêm nay tôi quyết vào đó rình xem...
- Tôi can ngô huynh đấy. Để mặt họ, hơi đâu mà trêu họ cho
mang vạ vào mình.
Nhưng Đàm tiên sinh khuyên bạn thế nào cũng không được, ông
Nguyễn cứ một mực rằng:
- Tôi vì nghi hoặc lắm, không đành tin một điều có vẻ huyền
hoặc như kia. Nếu có xảy ra điều gì bất lợi cho tôi, tôi cũng không oán thán.
Cơm nước xong chuyện vãn một lúc lâu, rồi ông Đàm chỉ lối cho
ông Nguyễn đi lên Bắc thượng. Ông xin lỗi rằng không thể cùng đi với bạn được
và hẹn đến chiều sẽ lại hội diện ở nhà.
Chiều hồm ấy, ông Nguyễn ở Bắc thượng về, ông Đàm liền
hỏi đến chuyện đi tìm Cao sỹ, ông Nguyễn nói:
- Tôi lên núi, đến cửa không tự thì gặp một người tiểu đồng
đón hỏi rồi dẫn tôi vào... Cao sỹ tráng cốt cách như tiên, da hồng tóc tuyết,
cư chỉ tự nhiên lắm, tiếng người nói trong trẻo mà rất khoan thai dõng dạc. Tôi
đem mấy điều dự sẵn để thỉnh giáo, nhân lại hỏi đến việc ma quái ở chùa Đầm.
Nhưng người không nói nhiều, mà lời nói ý nghĩa cao thâm quá. Tôi đoán chắc mới
nhất kiến nên mình chưa xứng đáng được người dạy bảo cho. Tôi cáo từ rồi lui xuống
tìm vào thăm ông huyện Đào Đình Khê là một người tôi vẫn hâm mộ.
- Phải ông ta là người lỗi lạc và thanh liêm lắm, nhưng tôi
không muốn giao tiếp, và nghĩ mình thì thanh bần...
Mâm rượu bưng lên, hai ông bạn lại vừa chén tạc chén thù vừa
nói chuyện. Ông Đàm ngỏ ý lưa bạn ở lại ít bữa nhưng ông Nguyễn xin từ chối và
nhất quyết đi khám phá những việc lạ trong chùa Đầm.
Cản ngăn thế nào cũng vô hiệu, đến khi mặt trời ngả bóng, ông
Đàm ngại ngùng đi tiễn bạn ra khỏi thôn. Lúc chia tay, Đàm tiên sinh lại hết lời
khuyên giải lần nữa. Ông Nguyễn phải bật cười lên mà rằng:
- Sao tiên sinh phải lo sợ quá như thế? Người xưa dẫu phải
bao phen nguy khổ cũng không ngại, miễn là tìm biết được điều hay. Đây chả là một
sự lạ đáng biết ư? Tôi muốn tin lời tiên sinh mà vẫn còn chưa hiểu các việc kỳ
dị, vậy tôi đi xem cho hiểu chứ sao?
- Nếu vậy, xin vĩnh biệt, thân người là trọng mà tiên sinh
không muốn giữ gìn, tôi cũng không dám can ngăn.
Nguyễn công thì mỉm cười lên đường, còn Đàm công đứng trông
theo, cau mày lẩm bẩm mấy câu rồi cũng trở vào.
THẤY YÊU QUÁI
Bấy giờ vào khoảng gần canh ba. Khu miễu trơ trơ ở giữa chốn
đồng không bát ngát kia dốc ngược cái hình lù lù sẫm đen xuống mặt nước đầm bên
cạnh.
Mảnh trăng cao không bị mây ám dải cái ánh sáng rõ ràng lạnh
lẽo xuống trăm nghìn mẫu ruộng trắng xanh. Chốc chốc một làn gió thoáng đưa như
phảng phất qua lại những vong hồn không ai trông thấy.
Trong miễu thì om tối. Lác đác dưới đất mấy vùng ánh sáng mờ
đang cử động theo bóng lá chen xít nhau. Từng trận gió ào ào trên các đầu cây
nghe như những tiếng thở dài lớn. Trong bụi lối dưới chân cỏ các thứ dế đua
nhau trinh trích từng lúc rồi lại im, điểm vào những giọng giun kêu rù rì rất
dài, rất lâu, rộng rãi điều hòa như cái yên lặng.
Lúc ấy trong chùa thấy có một ngọn lửa nhỏ không cử động, Ngọn
lửa nhỏ quá, đến nỗi không đủ soi ra ngoài cái bệ phẳng lỳ. Ngọn lửa ở đó được
gần nửa trống canh. Trước khi hiện ra, cứ thấy nó từ tử ở trong chỗ đen mù đen
mịt tiến gần lại, trước nhỏ, sau to dần. Mà хеm như không có người đem ra, hay
có thì người ấy vô hình hơn đêm tối. Khi nó đứng lại, nhìn rất kỹ thì mới biết
đó là một thứ lửa đèn. Nhưng ngọn bấc lại nhô lên cháy ở giữa đĩa, nên trông
hình như cái đèn ấy không có đế và đứng lửng lơ trên không.
Không có một tiếng động nào qua. Những giọng rì rào ở bên
ngoài như bé dần, như biến đi, làm cho vùng đen tối thêm nặng nề, thêm độc ác.
Bỗng thấy rúc rích như chuột chạy ở chân tường... Ngoài hiên mấy chiếc lá khô
rơi.... một con dế trong xó sẻ rụt rè kêu. Rồi tất cả im thin thít.
Một bàn tav đen sì to tướng thò rа, năm ngón quều quào trên
ngọn đèn, ánh lửa chiếu lên làm cho lòng bàn tay mờ mờ đỏ. Một bàn tay nữa vừa
đến nằm lên trên bàn tay trước, thì bốn năm thằng quỉ hiện lên ngồi vây lấy
chung quanh cái bệ. Chúng che khuất hẳn ngọn lửa và châu đầu vào nói chuyện với
nhau. Chúng nói không ra lời, chỉ thấy lắp bắp phì thào mội lúc.
Ông Nguyễn thấy trống ngực đánh thình thịch, ông nín hơi thở
lại thì quả tim lại đập dữ hơn. Ông ta nấp ở sau một cánh cửa vẫn mở, chỗ ấy
đen tối như mực, giơ tay lên đến mặt cũng không trông thấy gì. Nhưng từ chỗ ấy
ông ta có thể xem xét được hành động của lũ "yêu quái".
Chúng nó vẫn châu đầu nói chuyện với nhau bằng hơi gió. Hai
thằng quỉ quay lưng lại, nên ông ta chỉ thấy hình hai cái đầu yên lặng trên hai
cái lưng to lớn và đen. Ba thằng ngồi ở phía bệ bên kia thì ông ta trông thấy mặt:
mặt xanh như nhuộm phẩm, miệng đỏ và cực rộng, ở dưới những đám lông rậm xơ xác
không rа hình râu. Chúng nó để tóc xõa xuống vai, nhưng có một đứa quay mặt ra
thì bịt trên đầu một thứ khăn xanh thắt ở sau gáy.
Lúc ấy hai cái tay trên ngọn đèn là tay của thằng quỉ bịt
khăn xanh đã kéo về để lên bệ. Ông Nguyễn thấy nó gật gù mấy cái rồi đưa mắt
cho mấy thằng kia trông về chỗ ông ta nấp rồi lại rì rầm nói nhỏ hồi lâu. Đang
hết sức lắng tai nghe thì bỗng thấy chúng "Hà hà!" lên mấy tiếng. Rồi
lại rì rầm bàn nhau nữa. Sau thằng quỉ bịt khăn xanh thì thào lên một thôi một
hồi những tiếng nói lớn hơn trước, nhưng nghe vẫn như tiếng người hết hơi. Lũ
quỉ liền rút năm con dao nhọn và sáng giơ lên rồi cùng đứng cả dậy. Ông Nguyễn
nghe thấy tiếng cười khàn khàn như ở trong những cổ họng bị cắt đứt:
- Hà hà!
- Hà hà! hà hà!
Ông ta hết sức cẩn thận sẽ đứng lên. Rồi vùng một cái, chạy
ra cửa, nhưng liền bị hai tay bóp lấy cổ đun ông ta lại; một thằng quỉ nữa vẫn
đứng rình ở ngoài. Bấy nhiêu đứa liền nắm lấy ông ta khiêng để lên bệ. Ngọn đèn
lúc ấy đẫ khêu lớn, một thằng đang cầm ở tay giơ lên. Ông Nguyễn dẫy dụa thế
nào cũng không ra, ông kêu không thành tiếng nữa. Ông bị những bàn tay như sắt
ghì chân tay ông xuống, người ông nằm ngửa, cứng như xác chết; ông nhắm nghiền
mắt lại sẵn sàng da thịt đợi cho lũ quỉ xé ra tan tành. Bỗng thấy một thằng nói
lên, nói tuy sẽ, nhưng lần này thực là tiếng người:
- Mở... mắt... ra!... Mở... mắt...!
Ông Nguyễn vô tình vâng lời, mở mắt ra thì thằng bịt khăn
xanh cúi xuống gần mặt ông ta mà thở, ông ta ngơ ngác liếc quanh liếc quẩn rồi
lại nhìn rõ vào mặt nó. Nó liền rách mồm ra cười một cách ghê gớm mà nói:
- Ai bảo mày... cả gan... vào đây?
Nguyễn công điên tiết quát lên:
- Chúng bay tụ nhau ở đây chỉ có việc giết người ăn thịt thôi
phải không?
Một đứa rền rĩ trả lời:
- Chính phải, rồi... chính... phải!...
- Thế thì chúng bay ăn thịt tao đi!
- Hãy yên... mày... chưa được chết vội!
Ông Nguyễn hét rất lớn:
- Thì giết ông đi! Giết đi! Giết đi!!!
Thằng quỉ đội khăn xanh trợn mắt nhìn như đâm vào mặt ông ta.
Nó nói:
- Không nói to... Đợi đó!
Rồi ồng bị nó chẹn lấy cổ, chân tay không nhúc nhắc được; người
rủn cả ra. Lũ yêu quái lại thì thào với nhau một hồi. Ông ta biết rằng nó bảo
nhau sắp giết mình, nên lừa lúc bất ngờ, vùng lên cùng với một tiếng thét dữ dội.
Chúng nó ồn ào xúm nhau lại giữ. Ông ta thấy mấy nhát dao đâm hụt vào lưng với
bên gáy, bèn nắm tay đánh tung ra tứ phía. Bỗng ngọn đèn tắt hẳn, rồi thấy ánh
lửa sáng rực hiện lên. Trên bốn mặt tường, những bóng đen cực lớn chạy rất
nhanh giữa những tiếng kêu gọi xôn xao, nhìn ra thì lũ quỷ đã bị mấy người trói
dật cánh khuỷu. Ngoài cửa chùa lại thấy gần một chục người, tay gươm tay đuốc
xông vào.
- Các người là lính của Đào huyện quan sai đến phải không?
Lính thưa:
- Bẩm cả Đào đại nhân cũng đến.
- Thế đâu?
- Bẩm ngài, quan cùng mấy người xông vào trong kia bắt nốt.
Nói dứt lời thì huyện quan và hai tên lính dẫn thằng quỉ đội
khăn xanh ra. Quan huyện Đào cười và nói với Nguyễn công:
- Bây giờ tiểu đệ mới biết rõ mặt các vong hồn!
Nguyễn công sửa lại đầu tóc, quần áo xong, đáp:
- Nếu không có ngài đến cứu thì tiểu đệ cũng bị giống yêu
quái này giết chết, tiểu đệ xin nhớ ơn mãi mãi.
- Ngô huynh dạy quá. Đó là chức trách của tiểu đệ, ngài bất tất
phải nói đến việc hàm ơn.
Huyện quan lại ngảnh trông lũ quỷ:
- Các "vong hồn" oan uổng đói khát quá, nay ta đem
về huyện cho nơi ăn chốn ở hẳn hoi. Quân bay! "rửa mặt" cho chúng!
Tức thì bằng ấy thằng quỉ bị vặt hết râu và chùi sạch phấn nhọ
bôi trên mặt. Nguyễn công trông vào thằng chúa quỉ đội khăn xanh, kêu lên một
câu kinh ngạc:
- Đàm tiên sinh!
Huyện quan gật đầu, cười mà nói:
- Phải. Đàm tiên sinh, hay là Ba Đen (vì trong bọn vẫn gọi bằng
cái tên hiệu ấy). Bọn này Ba Đen đứng đầu, được bộ hạ vâng phục lắm, vì y táo tợn
giảo quyệt biết chừng nào... Chúng nó có mười bốn thằng tất cả, nhưng đây mới
là những tên ghê gớm nhất. Cả bọn thì một nửa là quân cường bạo hợp lại, còn một
nửa là tuần đinh ở roấv làng gần đây. Cái ý kiến giết sư cướp chùa làm sào huyệt,
rồi bầy rа những câu chuyện yêu quái như thế là chính Ba Đen nghĩ ra. Thực y đã
khéo lấy những điều huyền hoặc sợ hãi để che kín những việc hành động của mình.
Sào huyệt của chúng ở đây, nhưng chỗ chúng đến ăn cướp lại ở xa lắm. Bởi thế
sau những án giết người lấy của, dò xét thế nào cũng không ra. Ai có ngờ đâu rằng
bọn cướp kia chính là lũ yêu quái này - lũ yêu quái giả mạo!
Nguyễn công đứng lặng thinh ở giữa đám người cầm đuốc. Việc xảy
ra là một việc kỳ quái hết sức, đến nổi ông ta không biết có nên tin những điều
mắt thấy tai nghe vừa rồi không! Đàm Văn Cương lại là tướng cướp ư? Lại là người
chực giết cả ông ta ư? Lòng người đến như thế thì mắt nào soi suốt được?
Ông huyện quan lại tiếp:
- Đàm tiên sinh (hay là Ba Đen) khôn ngoan đến như thế, song
vẫn có điều sơ xuất: Ba Đen cứ tưởng rằng trong bọn ai cũng kinh sợ hắn, lại
tin rằng thủ hạ hắn đã uống máu ăn thề rồi thì không đứa nào dám làm phản nữa.
Nhưng Đàm tiên sinh lầm. Cái lòng tham lam chỉ muốn vơ của cho đầy, muốn cướp hết
cả phần của thủ hạ mình với cái lòng độc ác chỉ thèm giết cho nhiều mạng kia,
đã khiến cho một con yêu giả trong chùa này рhải căm hờn, phải hối hận. Con yêu
ấy tên là Trần Văn Thình (cả bọn cướp đều sửng sốt). Phải, Trần Văn Thình, tuần
tráng ở làng trên. Chiều hôm nay, chính sau lúс ngô huynh ra khỏi huyện đường
ít lâu, bản chức đang ngồi ngẫm nghĩ về câu chuyện ngô huynh ẩn mưa trong chùa
Đầm thì thấy lính dẫn tên tuần tráng ấy đến. Nó quì xuống thú hết các tội, rồi
tố cáo các việc sát hại của bọn chúng với các việc "hiển hiện" ở chùa
Đầm. Bản chức hỏi cặn kẽ tên Thình, xong lại nói cho nó biết ngô huynh vào khám
phá ở đấy. Nó vội thưa với bản chức rằng nếu ngay đêm nay không bắt được bọn cướp
này thì thế nào ngô huynh cũng bị hại.
Bản chức đem lính đến nơi cho vây kín bốn mặt thì vừa lúc
nghe tiếng ngô huynh thét. Lúc xông vào bắt thì Đàm tiên sinh là người trốn trước
nhất, không muốn cho bản chức được cái hạnh ngộ tiếp kiến ngài... Nhưng lính của
bản chức đã bít hết các lối, mà bản chức lại biết hết các ngách hiểm hóc ở sau
chùa rồi, nên Đàm tiên sinh không thoát đâu được.
Nói đoạn ông truyền cho lính trói cả năm tên cướp lại làm một
bọn và quay lại mời Nguyễn công cùng về huyện đường. Nguyễn công vừa buồn vừa
giận. Ông thở dài mà theo qnan huyện, miệng mỉm cười một cách chua chát mỉa
mai: "Ồ! Có ai ngờ! Có ai ngờ đâu rằng cái khoảng mười năm xa cách đã thay
lòng người cố hữu đến như thế!... Mà cũng là người có học, biết rộng! Có học để
thêm quỷ quyệt, để bày ra mưu sâu chước hiểm, để khéo rào khéo chống; đối với
những việc ghê gớm dị kỳ mà chính mình bày ra, chính mình gây nên, y khéo làm
như người ngoài cuộc, để che mắt trần gian. Cái lòng nham hiểm với cái trí quỉ
quyệt kia nếu không vì một sự tình cờ có người khám được ra thì không biết sẽ
ra biết bao nhiêu tội ác nữa".
Đàm Văn Cương lúc ấy đứng ngoài hiên chùa bị trói dật cánh
khuỷu cùng với bọn đồng đảng, búi tóc buột rũ xuống hai bên vai. Lúc Nguyễn
công bước qua trước mặt y, thì y vẫn ưỡn ngực một cách ngạo nghễ, không tỏ ra vẻ
gì là lo sợ, hối hận. Nhưng khi đôi mắt nghiêm khắc của Nguyễn công trừng lên
nhìn thẳng vào y thì họ Đàm hơi biến sắc, se sẻ cúi đầu xuống và mắt liếc
ngang.
Nguyễn công toan đem bao nhiêu lời căm giận mà mắng cho giống
sài lang kia một hồi. Song ông chỉ mím môi mà đứng lại giây lát trông y một
cách rất khinh bỉ, rồi vừa thở dài vừa bước ra.
Tiếng hú ban đêm
Tiếng hú đưa từ phía rừng Sam Na lại. Đêm nào mưa gió thì nghe
rõ từng hồi một: trước còn thấp, sau bổng cao, kéo dài ra, rồi chìm biến vào
trong bốn bề rừng núi. Trời đất âm thầm lạnh, vì hồi ấy về cuối thu. Tiếng hú
đưa lên ai oán thảm thê, tưởng như giọng ba bốn đứa trẻ xác xơ đang ngồi trên
bãi vắng hay bờ lau mà gào mẹ chết.
Người Mán Khao-la ngủ không yên giấc, đêm đêm nằm trong khiếp
sợ mà lòng mê tín của họ làm tăng mãi lên.
Bởi vì trước đó không lâu, trong làng có nhiều điều quái dị xảy
ra như đi trước đón đường cho tiếng hú bí mật. Rừng Sam Na là một khu rừng
lớn, người Mán thường ngày vào săn bắn những cầm thú nhỏ và khai phá những của
thiên nhiên. Bỗng dưng đã một tháng nay có một con hổ cái hung dữ lạ thường, chẳng
biết từ đâu về rừng đó ở. Con hổ to lớn khỏe mạnh lắm, giữa ban ngày cũng dám
ra bắt súc vật của dân Mán - có khi lại vồ cả người. Đến những thiện xạ xưa nay
vẫn làm tai làm họa cho thú rừng cũng nhiều lần bị khốn vì con hổ cái. Họ tìm đủ
mọi phương kế: nào vây đón, nào bẫy cạm mà không tài nào bắt được - lần nào hổ
cũng thoát rất dễ, lại còn tha được cả mồi đi. Người Mán thường coi hổ háo chỉ
như một con chó dữ mà bây giờ nghe tiếng nó gầm cũng phải run sợ. Cùng một thời
kỳ hiện ra cái nạn rừng ghê gớm này, một người đàn bà với một cô con gái làng
khác đến ở ngụ. Xem chừng là hai mẹ con. Hai người dựng một cái lều tận đàng
xa, bên một cái cụm cây lớn, ở ngay cửa rừng. Như thế hình như nhà này muốn
cách biệt hẳn với thôn xóm ở đây. Cả một làng dăm ba mươi nóc, chen xít nhau
trong đám cây cối dưới sườn một quả núi thấp và quay mặt hướng về Sam Na. Dân
cư vẫn giúp đỡ nhau, thân cận nhau, nay đột nhiên có người ở đâu đến, lại ra ý
tỵ hiềm chia rẽ, thì ai cũng phải cho là những nhân vật lạ lùng.
Không ai hiểu tính tình hai mẹ con nhà ấy. Mà từ khi rừng
thành dữ không mấy người dám đến, nên không biết họ ăn ở ra sao. Chỉ những ngày
phiên chợ mới thấy hai người ra mặt, họ gánh củi từ cửa rừng đem ra chợ đổi lấy
gạo muối về nhà. Người đàn bà trong vòng năm mươi tuổi, váy ào màu chàm đã bạc,
bao giờ cũng dúm núm, хốс xếch, người khô xác, thấp bé, chỉ tinh nhanh ở hai
con mắt sắc rất linh động, nhưng lúc nào cũng gườm gườm. Cô con gái độ mười bảy
mười tám, ăn mặc gọn ghẽ, nét mặt xinh xắn và có vẻ e lệ ngây thơ. Cô ta theo
sau như bám lấy bà mẹ. Các cậu trai tân ơt trong làng ra chợ cậu nào trông thấy
cô ả cũng phải ngây ngất mà nhìn hoài. Họ thích cánh và cười vụng với nhau,
nhưng không cậu nào dám toe toét lả lơi, tỏ ra ý mon men trêu ghẹo cô bé. Vì có
mụ già đấy: mụ sẽ trả lời lại những lối trai lơ kia bằng một cái lườm nguýt khỉnh
bỉ và hằn giận đến rùng mình. Anh nào to gan, không sợ cứ sấn gần đến cô bé, tức
thì mụ rủa cho như khạc lửa vào mặt rồi chẳng đổi chác thì chớ, cầm ngay lấy
tay cô bé, cất gánh củi, một mạch đi về.
Người Mán vốn đang đột thật thà, không có lòng hiểm độc ghen
ghét, nhưng thấy cái thái độ lạnh lùng và kỳ dị của mụ già khô khan kia họ chẳng
khỏi sinh bụng nghi ngờ. Vì thế, sau những buổi chợ, hoặc khi ngồi chuyện vãn với
nhau, người Mán thường chỉ bàn tán đến chuyện hai mẹ con người đàn bà lạ
mặt. Trước thì còn bảo đó là một mụ ké cay nghiệt, hiểm ác sau cho là một mụ dí
cấy thuốc độc ở móng tay. Nhiều người chắc thế nào nhà mụ cũng có thờ ma. Rồi mỗi
ngày đẻ thêm ra những điều quái gở để gán cho mụ. Điều kỳ quặc đến đâu cũng
không ai cho là thái quá, thậm chí có người dựng đứng lên bảo rằng mụ đàn bà ấy
là một con hùm tinh. Mọi người liền tin theo, mà tin như thế một cách vững
vàng, như là chuyện hiển nhiên trước mắt. "Phải, chính nó đấy, chính nó là
con hùm trong rừng, nó bế thành con mụ ké với đứa con gái đẹp để đánh lừa chúng
ta đấy. Тa cứ để yên rình lúc nó vô ý nắm ngay lấy đuôi nó là bắt được, vì con
mẹ này có đuôi!".
Bỗng nhiên mấy phiên chợ sau cùng, người ta không thấy mặt mẹ
con mụ ké nữa. Mà từ ngày mụ ké không ra chợ thì dân cư bắt đầu nghe thấy tiếng
hú ban đêm. Người Mán lại càng tin mụ ké không phải là người thật. Họ chắc mụ
ké biết đã lộ việc kín, nên không dám giao tiếp với người trong làng nữa, từ
nay đành phải giữ nguyên hình. Thế rồi thường thường trong những lúc buổi tối
quây quần, nhà nào nhà ấy đóng cửa cho kín, họ vây quanh ngọn đèn hay bếp lửa kể
cho nhau nghe những chuyện hoang đường truyền khẩu từ đời này qua đời khác, những
chuyện có một tầm quan trọng thần bí trong tâm hồn của dân đồng rừng.
Theo những câu chuyện họ kể thì trước kia ở Sam Na cũng có một
con hùm tinh. Người ta thường gặp nó trên núi, dưới ruộng, trong rừng, nhất là ở
các đường lối có người hay qua lại. Con hùm tinh ấy trèo được lên những cây
cao, nói được tiếng người. Khi thi hát như ru em, khi thì khúc khích như đùa,
khi thì than khóc. Thấy người nào một mình quãng vắng thì nó giả tiếng bà già
hay đứa bé nheo nhéo gọi: "Thầy ơi, u ơi, ông ơi hay cô ơi...". Theo
tiếng gọi, người ta thử nhìn хеm thì hoặc ở sau lưng hoặc ở trên cây chỉ thấy một
con hổ đang cười sằng sặc. Người kia khiếp sợ ríu chân lại: hùm tinh cứ việc nhẩy
tới tha đi. Về sau con hùm tinh ấy như bị sét đánh chết, nên dân cư mới được
yên cho mãi đến bây giờ.
Rồi đến nay, lại có một con nữa đến. Cái tíếng hú kia từ phía
rừng đưa lại chẳng phải là tiếng con hùm tinh đó sao?
Một đêm kia, dân Khao la lấy làm kinh ngạc lắm. Có lẽ con hùm
tinh đã đến lúc bầy mưu chước để giáng thêm tai họa: Tiếng hú không thấy vẳng đưa
nữa, mà đêm hôm ấy lại tạnh ráo, không có tiếng mưa gió nào qua. Khắp làng Mán
lạnh lẽo trơ trơ dưới ánh sáng non của mặt trăng còn khuyết. Cách rừng Sam Na bằng
một bể ruộng, ngút ngát mấy chục nóc nhà xám chen úp trong những đám cây cối sẫm
đen. Cái lo sợ nặng nề nhu bầu sương ẩm ám trong không khí.
Mọi nhà đều đóng cửa thật kín. Hơi có một tiếng động cũng tưởng
là tiếng con hùm tinh đi qua.... Giả thử có ai đứng gọi xin lửa ở ngoài, họ
cũng không dám mở vì biết là tiếng yêu quái hay tiếng người? Một vài nhà đánh bạo
nhìn qua khe cửa phên trông ra. Bên ngoài vắng yên như cảnh chết. Trên những từng
ruộng khô và trắng, chỉ thấy mấy đống rạ lớn ngồi lù lù. Đằng xa dải rừng lặng
ngắt mập mờ vẫn giữ kín những cái bí mật.
Gần hết canh hai, bỗng nhiên từ phía làng xóm có một toán sáu
bảy người lực lưỡng rảo cẳng đi về mạn Sam Na. Đó là bảy người đi săn giỏi và
khỏe nhất trong làng Mán. Họ tiến lên những bước mạnh bạo và yên lặng, mấy người
đi trước cầm dao lớn, ba người đi sau mang một cuốn giấy dài.
Từ lúc trời bắt đầu tối, không thấy tiếng hú đưa ra, họ đã họp
nhau ở nhà ông lang để bàn định. Họ nhờ một thầy pháp bện cho họ mấy sải dây
ngũ sắc và yểm phép vào dây để họ đem đi rình trói con mụ ké hay là con hùm
tinh... Những việc ác hại làm khổ dân làng đã quá lắm rồi, bây giờ không thể để
cho con quái vật kia hoành hành mãi được nữa. Họ quyết lòng trừ cho dân làng một
cái họa lớn. Không thì họ chết chứ không trở về.
Bọn người can đảm ấy tiến lên, không mấy chốc đã đến nhà mụ
ké. Một người ra hiệu cho ai nấy nhẹ bước; dặn khẽ nhau hễ trông thấy con mụ
già thời đem dây phép mà trói nghiền lạị; rồi hễ vớ được đuôi của nó là giết
phăng ngay đi.
Cổng ngoài mở, cưa phên cũng mở, trong nhà đen tối, nhìn kỹ
thì như không có người! Bọn này đã sinh nghi, cùng đi ra lối sau nghe ngóng...
Một người bỗng kéo áo người đi cạnh, trỏ vào một vật lù lù nằm ở sân sau. Mọi
người nhìn xem, thì đều sởn cả gai ốc. Bên cái vò nước, dưới ánh trăng mờ, một
con vật lông vằn nằm không cử động... Không phải chỉ một con, coi lại thì như
ba bốn con nằm đó, mà con nào cũng như ngủ mê mệt không biết gì. Ghê sợ quá, họ
cùng nhau hết sức nín tiếng mà lùi - "Vô phúc nó trở dậy bây giờ thì chết
cả" - Cũng có người sực tỉnh khẽ bàn nên nhân lúc nó còn ngủ đem dây ngũ sắc
trói lại cho mau. Khốn nỗi chưa mấy ai hoàn hồn! Đột nhiên gặp thấy cái cảnh bất
ngờ ấy thì táo tợn đến đâu cũng phải núng. Vả lại, con mụ ké là yêu tinh, nên
nó khôn lắm. Biết đâu đó chẳng là một mưu chước nó bầy ra để lừa người?
Trước họ tiến lên cẩn thận bao nhiêu thì nay họ thoái bước
cũng cẩn thận chừng nấy. Người nọ bám lấy người kia thực chặt. Bỗng thấy gầm
lên một tiếng cực lớn, nghe rất dữ dội. Bọn con trai không còn hồn vía nào. Họ
nhảy choàng lên, cùng kêu thét như bị vứt vào lửa. Tiếng gầm kia lại rống, ngày
một gần, một lớn, một gấp, như vỡ trời đổ núi bên mình. Anh nào anh nấy cũng
mong thành cánh ở chân, tranh nhau cắm cổ chạy về làng, lăn cả xuống rãnh, chui
cả vào câv, đâm vào cả bụi rậm.
Về đến làng xóm thì vừa hết cả sức, họ gào lên những tiếng
khàn, líu lưỡi lại mà gọi, đập cửa như phá rồi vào nằm vật cả xuống đất, thở
không ra hơi. Bên ngoài, không có gì đuổi theo, nhưng tiếng gầm vẫn hét vang cả
một phía rừng. Sam Na như chuyển động, như có bao nhiêu hổ báo cùng vật lộn xâu
xé nhau. Cho mãi đến quá nửa đêm, tiếng gầm rống thưa dần và yếu dần, rồi tắt hẳn.
Bốn bề dân làng trong sự im lặng kinh hoàng vẫn tưởng như tiếng hú mọi đèm còn
vẩn vơ trong hơi gió.
Kể từ hôm ấy, người Mán Khao la lại càng thêm lo sợ. Họ biết
thế nào cũng sẽ có những tai họa phi thường. Nhưng lạ thay! Hết ngày ấy sang
đêm khác, dân làng cứ mất mật mà sẵn chờ những điều ghê gớm không xảy đền bao
giờ.
Tiếng hú trong rừng thấy mất. Người Mán và trâu lợn của họ vẫn
bình yên. Con hùm lớn cũng không thấy để lại một bóng vết nào qua. Hơn một
tháng rưỡi trời, mụ ké hay con hùm tinh biến đâu? Chết rồi chăng? Hay đi nơi
khác. Mà hùm tinh chết hay đi nơi khác, dân làng đã hẳn được mừng chưa?
Cái ngờ vực áy náy vẫn như tiếng vang còn lại của bao nhiêu
điều khiếp sợ. Cách đó hơn hai tháng cũng chưa ai dám đánh liều vào rừng xem. Đến
nhà mụ ké cũng không ai bén mảng tới. Mụ ké với người con gái đẹp cũng không thấy
ra nữa. Người Mán thản nhiên kết luận rằng:
"Phải rồi, con mụ ké ấy chính là con hùm tinh, con hùm
tinh ấy nó bỏ Sam Na nó đi vì dân Khao la có thầy pháp, có quan tang, dân Khao
la khôn hơn con hùm tinh ấy".
Đó là việc có thực xảy ra ở làng Khao la ngày trước, đến nay
dân Mán vùng đó ai cũng biết, ai cũng nói lại, từ người già cả cho đến bọn trẻ
con. Nhưng chuyện thực sao lại có lắm vẻ hoang đường quá như thế?
Người Mán không cần biết; họ chỉ vững tin những điều họ tưởng,
những điền mà lòng mê tín của họ cắt nghĩa ra thôi.
Bởi vậy duyên do câu chuyện này không mấy ai cho là thực.
Người đàn bà Mán mà họ ngờ cho là hùm tinh ấy nguyên là người
ở một làng xa, cách đó những gần hai ngày đường. Bà ta góa chồng từ năm ba mươi
tuổi. Nói là góa, nhưng thực ra thì bà ta bị chồng lừa: lấy nhau chừng một năm,
đến khi bà ta có mang thì người đàn ông bỏ nhà đi mất.
Bà căm tức lắm, nguyền rằng hễ sinh con trai thì giết chết
ngay.
Nhưng đứa trẻ ra đời lại là con gái. Bà ta mới đổi oán làm mừng,
nưng niu chăm chút con thơ và ra sức làm lụng để nuôi cho nó khôn lớn. Người
con gái ấy là cái hạnh phúc của bà mẹ: nó làm cho sự sống của bà ta có nghĩa và
thay cho cái ái tình đã chết đi. Mẹ đặt tên cho con là Mi Nàng, bỏ tên chồng nhận
lấy tên ấy để tỏ ra hai mẹ con như một.
Nhan sắc trong trẻo của Mi Nàng cùng tăng lên với ngày tháng.
Năm Mi Nàng mười tám tuổi thì trong làng có người đem rất nhiều của cải đến xin
kết hôn. Bà Mi Nàng không nghe. Cô ấy tuy bằng lòng nhưng cũng từ chối. Mi Nàng
ngây thơ lắm. Bên con trai tìm cách dỗ dành không ngớt. Rồi trong vòng bảy tám
phiên chợ làng, những tiếng hát ái ân của họ đã làm cho người thiếu nữ phải say
mê. Mi Nàng một khi sa ngã, rất hổ thẹn ăn năn, bèn đem sự lòng thú thực cả với
mẹ. Bà mẹ tức khắc sang điều đình với bên kia nói là thuận gả con gái. Nhưng
anh con trai giở mặt, muốn bà ta đem Mi Nàng biếu không cho minh. Bà mẹ tím mặt
lại vì giận, nhớ đến người chồng mà bà ta coi như đã chết rồi, nhớ đến con người
đã lừa dối tình phụ. Bà ta trở về, không nói năng gì cả. Đến đêm lăm lẳm thanh
đao rừng ở tay, bà ta đứng rình ở một chỗ khuất rồi xông ra chém một nhát vào
sau gáy thằng con trai kia. Giết nó xong, không hối hận, không sợ hãi, người
đàn bà Mán sốc ngay cái xác còn đeo lủng lẳng cái đầu ma, đem về vất ra sân vườn,
rồi vào gọi con gái vác nải gạo, với bọc quần áo đi trốn.
Hai mẹ con trông thẳng mạn Sam Na đi suốt đêm, đến chiều tối
hôm sau thì tìm chỗ tạm nghỉ. Bấy giờ bà mẹ mới cầm hai má cô con gái mà nhìn.
Bỗng nước mắt tràn ra, rồi ôm chặt lấy con khóc rưng rức:
- Mi Nàng! Mi Nàng! Nong khon nó muốn đánh lừa mẹ, đánh lừa
con, mẹ đã chém Nong khon cho nó chết.
Rồi bà ta lại khóc như muốn lấy tiếng nức nở để nói nốt bao
nhiêu lời. Mi Nàng cũng khóc, có lẽ nửa thương tình nhân bỏ mạng, nửa thương bà
mẹ phạm tội ác vì yêu dấu cô ta.
- Mi Nàng ơi! Mẹ với con đi xa, đi trốn; ở đây làm gì với những
người nó chỉ chực cướp sống con gái của mẹ. Con nghe chưa?
- Con nghe rồi. Con cũng... muốn thế...
- Ừ! Thế thì hay lắm, mẹ với con đi rõ thực xa! Xa lắm. Rồi
làm nhà riêng một nơi, mẹ đi làm, con đi làm, mẹ con nuôi nhau, con yên vui mà
mẹ cũng vẫn được yêu dấu con. Mẹ sung sướng.
Đêm hôm ấy hai người đến dưới bóng một cây to, trải áo trên
đám cỏ cao và sờ sạc. Mi Nàng mỏi quá ngủ ngay, nhưng bà mẹ vẫn thức, vừa thở
dài vừa xua muỗi hay kéo lại khăn áo cho con nằm yên.
Sáng hôm sau, hai mẹ con lại lên đường. Cô con gái thì đi trước
xách bọc vải lớn; bà mẹ đi sau, khòm lưng địu một nải gạo nặng nề. Mi Nàng hai
mắt đỏ hoe, chốc chốc lại ngảnh đầu trông lại, trông trời cao mây vẩn; trông rừng
lá vây quanh, trông cái phía đường xa núi chắn, nó ngăn cách người con gái với
chốn quê hương. Nhiều lúc cô ta gặp mắt bà mẹ. Bà mỉm cười cho con gái quay đi,
rồi đăm đăm nhìn thẳng trước mặt, như tìm xét xem nơi nào mới chắc chắn, nơi
nào mới kín đáo để mẹ con ẩn náu mà nuôi nhau. Đối với lúc phải bỏ nơi sinh trưởng
của mình, ai là người không buồn cảm? Nhưng bà mẹ Mi Nàng lúc ấy vui mừng lắm,
vai mừng vì vẫn giữ được con gái là sự vui sống của bà ta. Từ ngày bị người chồng
bỏ đi, bà ta chỉ biết lấy cái bông hoa quí này để làm cho đẹp cái cảnh đời thẳm
đạm. Bao nhiêu căm giận người đơn bạc, nay vứt đổ đi hết mà để lại trong lòng
cái tình rất đằm thắm là tình yêu con. Người đàn bà ấy yêu Mi Nàng một lòng say
đắm dữ dội, một cách ghen tuông ích kỷ, như không muốn ai được dòm dỏ, không muốn
cho ai được tấm tắc khen cô ta. Cái quả báu kia, cái nhan sắc kia là của bà ta,
của riêng của bà ta mà thôi, bà mẹ lấy làm đắt chí mà chiếm giữ lấy một mình
cái thú được yêu, được ngắm.
Đi chừng ngót một ngày đường nữa thì đến cánh rừng Sam Na. Thấy
gần đấy có nhà cửa dân cư, nên mẹ con quyết định lấy làm chỗ nương náu. Ở lẫn với
người trong làng thì lại sợ cho con, nên bà mẹ Mi Nàng mới dựng một túp nhà nhỏ
ở xa cho cách biệt.
Từ đó bắt đầu cuộc đời vất vả nhưng rất sung sướng cho bà mẹ.
Sáng đi xới vườn, kiếm củi, tối về rau cháo bên ngọn mồi con. Sự ái ân với lòng
thương xót ở đời có lẽ thấy cái hình ảnh cảm động nhất ở trong gian nhà tranh
húp túp ấy.
Một tháng bốn ngày phiên chợ, bà mẹ lại dắt con gánh củi ra đối
lấy gạo muối và những thứ cần dùng. Đến nơi, đổi chác cho mau rồi về, bà ta rất
gờm những trai làng nó chỉ giở thói nhăn nhở để câu mất con gái.
Mẹ con ở với nhau được hơn một tháng, mẹ kiên nhẫn, con chịu
khó, cặm cụi suốt ngày quên cả nhọc nhằn. Thực là yên vui. Bà mẹ vẫn nhắc đi nhắc
lại một mình rằng: "Suốt đời người, bấy giờ mới thực biết cái sung sướng".
Tuy thế, trong lòng bà ta vẫn phấp phỏng sợ, cho rằng mình không thể được sung
sướng mãi. Cái phúc của bà cũng như giọt sương mai tuy đẹp đẽ, nhưng đến lúc rực
rỡ thì tan mất - mà chỉ đậu trong khoảng một buổi sớm thôi! Người thiếu nữ là
con gái bà ta kia trông yêu kiều nhan sắc quá! Bà ta nhiều khi chợt thấy như chỉ
được làm mẹ nó để rồi thương khóc nó, chứ không được âu yếm nó trọn đời. Mi
Nàng vẫn hết lòng tươi cười vui vẻ. Nhưng con mắt nồng nàn tình cảm của người mẹ
ấy nó sắc sảo lạ thường. Trên khuôn mặt cô Mi Nàng bà vẫn thấy cái bóng mây buồn
nó vương vít, cái nét đau khổ nó ẩn núp, nó cứ chực len vào đôi con mắt ươn ướt
với cái miệng cười như сố gượng сủa cô ta. Có khi đang cùng ngồi nhìn nhau, bà
ta để cô ngồi một mình trong nhà, lặng yên ra núp một nơi, rón rén bước lại khe
hở vách nghé mắt dòm qua mà xem mặt con gái. Những lức đó, mặt Mi Nàng chưa đổi
sắc, vẫn còn giữ nguyên cái vui tươi vừa rồi. Bà mẹ thấy thế nhẹ bay lên vì mừng
rỡ, chạy ngay vào bế lấy cô con gái mà nưng niu hú hí trong lòng.
- Con yêu mẹ nhé, con thương mẹ nhé. Con khỏe đi, con lớn đi,
con vui vẻ đi để cho mẹ sung sướng với con.
Rồi bà ta ôm chập lấy Mi Nàng, giấu đầu vào ngực cô ta mà
không biết là cười hay là khóc. Mi Nàng cảm động lắm, càng ngày càng cố làm cho
mẹ vui mừng hơn lên. Sau mấy lần rình xem như thế, bà mẹ mới hơi yên lòng, rồi
lâu dần cũng quên hẳn được những điều lo ngại.
Mẹ con đã bàn nghĩ với nhau đến những kế sinh nhai khác cho
cuộc đời thêm có thú và thêm dễ dàng. Xới thêm đất trồng các giống rau, đánh những
cây có quả về chung quanh nhà, lại tìm lấy mấy cái tổ ong gây lấy mật Rồi ra, nếu
trời thương, hai mẹ con sẽ kiếm lấy mấy con lợn, con bò về nuôi, đợi cho sinh nở
ra nhiễu thì cũng dễ đổi chác với người làng lấy thóc gạo. Mi Nàng lại nghĩ
thêm được mấy cách nữa, nào chăn tằm, kéo sợi, rồi tìm cách đóng lấy một cái
khung cửi nhỏ dệt lụa, dệt vải hay thêu thùa vá may trong những buổi không đi
kiếm trên rừng.
Cô con gái tính cách nào mẹ cũng khen hay, nói đến câu nào
cũng rất phải, bà già đã trông thấy trước cái cảnh tượng mới mẻ và sung túc
trong cái chốn lều vườn bé nhỏ của mẹ con mình.
Chiều hôm ấy đang chém củi hái nấm trên rừng, bà mẹ Mi Nàng sực
nhớ tới mấy cái bẫy chim ở nhà nên bảo con đứng đợi, tất tả chạy về lấy đem
lên, Mi Nàng dặn theo: "Mẹ đem cả cái giỏ mới đan lên nữa nhé! Nấm này hãy
còn non xâu vào dây thì rụng hết".
Lần này là lần thứ nhất bà để con một mình trên rừng, vì chỗ ấy
gần nhà, bà ta lại lên ngay được. Tuy thế nhưng trong bụng vẫn thấy bồn chồn
như sắp thấy một điều không hay. Chạy một mạch về rồi lại tức khắc chạy một mạch
lên rừng. Đến nơi, Mi-Nàng đã không thấy đâu nữa. Bà ta chắc con gái đứng sau một
chỗ khuất nào đó nên chưa muốn nghĩ đến cái nguy. Bụng bảo dạ: "Không, con
ta không việc gì đâu, không việc gì hết". Rồi tươi cười giơ mấy cái bẫy và
cái giỏ ra, bà ta nói:
- Lạy ông trời nhé, ông cho mẹ con tôi đến chiều bắt được
nhiều chim... Mi Nàng ơi! Giỏ đây rồi, bẫy đây... Ra đây mắc bẫy với mẹ.
Hai mắt bà mẹ Mi Nàng lộ ra vẻ sợ, mà miệng cứ mỉm cười:
- Con ơi, Mi Nàng ơi! Mi Nàng à!
Bà già bỗng thất sắc. Mặt nhăn như người chực khóc, tiếng gọi
hơi run run:
- Mi Nàng, Mi Nàng đâu con?
Bà già liền đi quá vào chỗ con tìm nấm lúc nãy rồi cất
tiếng gọi lớn. Các bụi cây quanh đó yên lặng không trả lời! Bà già cuốn cuồng
lên, vứt mấy cái bẫy xuống đất, sấn vào trong đám lá rậm, đâm thẳng xuống bờ suối
rồi tức tốc lại trở ngược lên, hai mắt mở trừng trừng, vùa chạy vừa nhìn hết mọi
chỗ, miệng thì mấp máy không ra lời; chốc chốc lại gào lên mấy tiếng gọi:
- Mi Nàng!... Mi Nàng!... Mi Nàng!!!...
Trời đã gần tối, tìm Mi Nàng không thấy được nữa, bà già bỏ cả
củi, cả nấm, cả bẫy, không thiết gì hết, vừa khóc thê khóc thảm, vừa lểu thểu về
nhà. Bây giờ vẫn còn chút hy vọng! Vào trong lều: vắng ngắt. Trông khắp bốn
phía, nhìn cả xuống gầm chõng, lục cả sau đám chăn áo: không thấy đâu! Không thấy
đâu! Con gái bà già hẳn bị hổ bắt mất rồi. Thế là xong, thế là biến mất cái vui
sướng mà bà ta đã tốn biết bao nhiêu công lao mới được hé thấy...
Bà già bỗng thét lên khóc rồi văng mình xuống chân chõng, dứt
tóc, cào đất, vùng đứng dậy rồi lại gieo mình! Khóc đã khản cổ, đã mất cả tiếng;
tâm thần muốn cho say mê để quên khổ, trời đất muốn cho tan nát để mình tiêu diệt
theo... Trong lúc đau đớn, mình khóc gào như vẫn nghe thấy con gái sùi sụt, như
trông thấy con gái đứng ở tận những quả núi nào đang cứ vùn vụt lùi xa... Bỗng
lại vùng đứng lên, bà già đâm bổ vào trong rừng, đầu thì lắс, mồm thì há, tay
thì múa, chân thì lảo đảo, rồi ngồi xuống bên một bụm cây âm tối nói cho nó
nghe những lời kỳ quái như không phải tiếng người. Rồi lại đứng vươn thẳng mình
trong giữa cái cảnh thầm thì bí mật ấy, bà ta quắc mắt nhìn đây nhìn đó, quần
áo sốc sếch, đầu tóc bù rối, ghê gớm, độc ác như hình tượng của sự căm hờn. Đứng
như thế một lúc lâu, không nói năng gì, rồi chân nam đá chân chiêu, bà già lảo
đảo về nhà nằm vật lên trên mặt chõng.
Sáng hôm sau, bà mẹ Mi-Nàng chợt tỉnh cái giấc mê mệt mà bao
nhiêu đau đớn đã làm cho ngất đi từ đêm qua. Bà ta ngồi dậy khóc lóc một hồi.
Thoắt nín bặt, mắm môi lại, bà ta đai lưng vấn tóc, cầm lấy con dao rừng lăm lẳm,
rồi bước ra. Trên mặt không còn ngấn nước mắt chảy, chỉ thấy hiện ra một vẻ dữ
tợn lạ thường. Bà ta xông thẳng vào rừng, từ cái chỗ vứt những bẫy chim hôm trước
đi trở lên, rồi cứ đi sâu vào mãi, theo một đường cây lá rẽ ra chỉ để vừa lọt
được một người. Đến một chỗ ánh sáng soi xuống nhiều nhất, người đàn bà đứng lại,
chăm chú nhìn như mới trông thấy vật gì quái gở lắm. Cúi xuống nhặt, thì ra đó
là những mảnh áo chàm thẫm máu, những mảnh áo của Mi Nàng! Bà già mặt tái đi
như người chết, răng nghiến lại, rít lên một tiếng tưởng đứt ruột, rồi vừa nguyền
rủa vừa cắm đầu bước lên.
Suốt một ngày hôm ấy bà mẹ Mi Nàng không lúc nào ngơi chân,
chúi vào các bụi cây, len qua mọi chỗ rậm rạp, liôn tay chém những dây dợ chằng
chịt nó soắn súyt dưới chân và những cành lá đâm ngang trước mặt; luôn mồm vừa
chửi vừa nói:
"À phải, à phải, bà không có sợ mày, bà giết chết mày!
Giết chết mày bằng được, bà mới nghe".
Cái giọng nói với cử chỉ của bà Mi Nàng quả quyết và đáng sợ
đến nổi giá con hổ lớn ở Sam Na có nghe thấy chắc cũng phải rùng mình. Vì chính
nó đã vồ mất người con gái.
Từ ngày hai mẹ con nhà này đến ở đây, con hổ ấy vẫn có ý dòm
dỏ nhiều lần. Nhưng bà ta đã phòng bị sẵn. Ban đêm thì trong túp lều vẫn có đống
lửa cháy sáng làm cho nó phải xa lánh. Ban ngày thì nó lại sợ tiếng cái ống nứa
ngộ mà lúc nào bà ta cũng đem theo. Vả lại cái vẻ mạnh bạo của người đàn bà Mán
hình như đã có một oai lực làm nhụt hẳn cái dữ tợn của con quái vật. Hai con mắt
bà ta lúc nào cũng như lửa, hình như vẫn coi chừng cái nguy hiểm, mà nếu gặp phải
thì bà ta sẽ một tay ôm giữ lấy con, một tay múa con dao rừng ra tứ phía như
vung ra bao nhiêu cái đảm lực thiêng liêng của tình mẩu tử. Chết thì bà ta liều
chết, chứ chạm vào con gái bà ta là không xong.
Không ngờ cái lúc bà mẹ Mi Nàng để con gái một mình lại là
lúc con hổ vẫn chờ đợi. Bà ta chua xót hối hận. Hết chửi rủa con hổ lại lấy đủ
các tiếng tệ hại để tự rủa lại mình. Nhiều lúc đang bước xăm xăm, bà ta bỗng đứng
lại lấy tay cử vả mãi vào mặt, rồi hai chân dậm đất, bà ta ngửa cổ hắt ra bao
nhiêu tuyệt vọng cay đắng trong một tiếng hét dài.
Rồi từ đó, người đàn bà Mán quên ăn, bỏ ngủ, quyết chí tìm
cho được con hổ để báo thù cho con.
Ban ngày thì không có bụi cây hõm núi nào bà ta không sục đến,
đầu tóc thì chằng quấn dây rợ, váy áo thì bươm rách vì cành gai, mặt mũi chân
tay bị lá sắc nó cứa váo như bị chém; máu có chảy nhiều quá thì bà ta chỉ
lấy cánh tay chùi ngang một quệt, như không biết gì là đau. Ban đêm thì lại ngồi
ở cửa rừng mà đợi.
Những lúc vắng khuya một mình giữa nơi hoang dại, tưởng chửng
như hồn con gái bây giờ đương vơ vẩn bên mình, nỗi thương đau của người đàn bà
như dội lên đến cực điểm. Nhưng không khóc hay là không khóc ra lời, bà ta chỉ
đem baо nhiêu nổi phẫn giận cực khổ trong lòng gửi vào một tiếng hú. Đó là cái
tiếng hú hồn lạnh lùng thê thảm đã làm cho dân Khao la sợ hãi luôn mấy đêm trời.
Bà ta ngồi đó, сố ý đợi cho con hổ đến. Nhưng hình như con vật
cũng biết, chỉ tìm lối khác ra kiếm ăn. Còn ban ngày thì nó vẫn lẩn lút một nơi
không để cho người đàn bà bắt gặp. Nhiều lần nó có dịp để hại người đàn bà Mán,
nhưng có lẽnó còn ghê còn gớm một sức gì khó hiểu ở một người dữ tợn nhất trong
giống người tinh khôn kia.
Đến mãi ngày thứ bảy bà ta mới tìm đượс sào huyệt con hổ cái.
Sau bảy đêm ngày cơ cực. Giá không có ngọn lửa hăng hái mà tấm lòng quả quyết
báo thù nó vẫn đốt lên trong lòng người mẹ kia, thì chắc hẳn bà ta không còn
gan sức nào chống được với nỗi khổ sở mệt nhọc. Chiều hôm ấy, bà ta đi tới một
chỗ có nhiều bụi cây râm và lớn thì chợt thấy mấy con hổ còn nhỏ đang lăn lộn ở
trước một cái hõm tối cành lá chùm phủ như che tàn. Bà ta đứng nấp một nơi rình
xem thì biết con hổ mẹ đi vắng. Bà Mi Nàng liền rón rén lại gần rồi xô ra đâm
chết được ba соn. Hai con kia hồng học chạy trốn mất. Sức lực đã gần đến lúc kiệt,
bâv giờ lại thấy trở về đầy đủ, bà ta vác ngay ba con hổ chết đem về quẳng ở
sau nhà. Biết trước con hổ cái thế nào cũng về hang, bà ta liền sắm dây rợ rồi
nai nịt gọn ghẽ cầm lăm lâm con dao đi vào rừng. Đến bên hang nằm đợi cho tới
khuya mà vẫn không thấy con hổ mẹ về: có lẽ nó đi tìm những con hổ con đã bị bà
ta giết.
Đêm ấy là một đêm về giữa tháng chín, bóng trăng sáng tỏ ló
qua những từng lá cây thưa. Vào khoảng quá nửa canh hai, bà ta thấy trong hang
thơ thẩn đi ra hai con hổ chạy thoát lúc nãy. Bà Mi Nàng nghĩ ra được một ý, lập
tức chạy ra giết phăng đi rồi vừa trói chặt hai chân sau hai con hổ lại vừa
nguyền rủa:
"Mày giết con tao! Mày không trả con tao. Tao cũng giết
con mày. Tao lại giết mày nốt". Nhưng chỉ giết con hổ cái cũng chưa hả giận,
bà ta muốn cho trước khi bị giết, hổ mẹ phải trông thấy hổ con chết, mà chết vì
tay mình.
Bà ta vừa trói xong hai con hổ con thì chợt nghe thấy những
tiếng chen lá dẫm cành đi gần lại. Biết rằng con hổ lớn đã đến, bà ta bèn cầm lấy
một đầu dây rồi trèo lên một cái cây ở gần.
Trong nẻo đường tối từ chân rừng đi lên, bà ta thấy hai con mắt
xanh lè ở giữa những mảnh sáng trăng mập mờ và lay động. Một lát thì trông thấv
cả cái mình vừa dài vừa lớn của con vật. Nó đứng lại một lát dưới những tàn lá
thấp, đuôi hơi ve vẩy, hai mắt từ từ chớp như úp mở hai ngọn đèn to. Rồi nó lại
thong thả bước lên; đi chưa được xa nghe tiếng động đằng sau nó toan quay trở lại.
Nhưng xem chừng đã ngửi thấy hơi lạ nên nó đủng đỉnh bước thẳng về hang.
Trên kia người đàn bà Mán đã buộc hẳn mình vào mội cành cây
to và đã thắt cái dây dài trói hổ vào trạc bên cạnh. Con hổ vào hang hình như
kinh ngạc lắm. Nó ngoắt ra, trông ngay thấy hai con mình treo lủng lẳng gần đó
thì nhe nanh mà gừ. Chợt lại thấy có bóng người trên cây, con hổ nghe chừng đã
hiểu, nên lồng lên và gầm một tiếng cực dữ.
Bà mẹ Mi Nàng lấy làm đắc chí lắm. Bởi vì bà ta biết rằng hổ
cũng có con, hổ cũng làm mẹ. Con hổ bị giết, mẹ hổ chắc cũng xót thương. Vậy
thì cái đau khổ kia bây giờ bà ta gây nên và được trông thấy. Bà ta lại cầm dây
giật mãi khiến cho hai con hổ cứ lay lắc dưới đầu dây. Một tiếng gầm nữa, hai
chân trước con hổ đã quét gần đến tay bà Mi Nàng. Bà ta chém xuống một cái thực
nhanh, con hổ tụt xuống rồi lại nhẩy lên tức khắc. Một chân trước nó bám được một
cành nhỏ, thiếu chút nữa chân kia tát được vào mặt người đàn bà, con dao đã gần
văng đi mất; nhưng rắc một cái, cành cây gẫy, con hổ ngã lăn kềnh dưới gốc cây.
Bà Mi Nàng đã bắt đầu lo: không ngờ con hổ nhẩy giỏi được đến thế. Bà ta tưởng
rằng nó thấy mình trên cây thì chỉ biết tức tối mà không làm gì được mình. Hay
đâu hổ cũng đã nhe, đã khỏe, lại thêm phần hăng sức vì giận, nếu không leo mau
có lẽ thế nào con hổ cũng đã bám được vào người. Nhưng bà ta đã trót buộc rất
chặt mình vào cành cây từ trước rồi, bây giờ thì không còn tay nào mà cởi ra được
nữa. Con hổ cứ chồm lên mãi, mỗi lúc một nguy bách, mỗi lúc một cao thêm. Mặt
bà Mi Nàng ba lần bị tay hổ lướt qua. Con dao gạt phải những vuốt của nó rít
lên những tiếng như sỏi xiết lên sắt. Một lần bà ta nhắm mắt lại bổ xuống một
nhát rất dữ. Con hổ vừa lúc tung mình tới bị nhát dao bập vào giữa đầu. Hổ bị
choáng hồn, tai cụp lại, gầm lên một tiếng như sét nổ. Nó đứng sững lên hai
chân dưới, hai chân trên quờ quạng quãng không như muốn ôm lấy người đàn bà.
Nhưng bà Mi Nàng vẫn hết sức cẩn thận luôn tay chém xuống. Con hổ tức giận như
cuồng dại, nó vừa rống vừa chạy lồng lộn chung quanh đấy, gậm cây, rứt cỏ, cào
đất để tìm cách vồ lấy bà già...
Lúc ấy cả một khu rừng như nín hơi. Người làng Khao la thì
trên mặt không còn một hột máu. Bảy anh con trai bạo dạn đi dòm dỏ nhà mạ ké
lúc đó tuy đã thoát, nhưng vẫn còn tưởng con hùm tinh sắp đuổi tới nơi. Còn những
tiếng gầm dữ dội đêm ấy cũng như những tiếng hú bí mật mấy đêm trước kia thì
không ai biết đó là những tiếng hờn giận khóc thương của một người và một vật
cùng nặng tình mẫu tử.
Bà già chống nhau với con hổ đến gần nửa trống canh không một
phút nào ngơi. Những lúc con hổ không nhẩy lên, bà ta cũng vẫn luôn tay chém xuống.
Dần dần sức đã kiệt cái lo sợ cũng hiện đến: bà ta chắc rằng mình chết mất, chết
mà chưa báo thù được cho con... Hai mắt đã hoa, trông thấy bốn năm cái đầu hổ
nó còn chồm lên và không biết bao nhiêu nanh vuốt nó chực đâm vào mặt.
Thần trí chập chờn như say, con dao mấy lần muốn rơi ra khỏi
cái nắm tay đã tháy bủn rủn, bà Mi Nàng chợt nghĩ đến cái thân cơ khổ, đến cái
cảnh thảm hại của hai mẹ con mình; bên tai nghe thấy tiếng con gái khóc than,
trong trí thoáng trông thấy lúc thân con gái bị xâu xé, con gái yêu quí bị hổ
cướp sống mất, giữa lúc đang vui tươi khôn lớn, khiến cho bà đau khổ rồi đến nỗi
nước này. Mặt đương tê tái bổng nóng bốc lên, vừa lúc con hổ quờ móng đến. Bà
ta rít lên một tiếng quái gở, giáng con dao xuống; con hổ bị què mất một chân.
Bà già lại lăm lẳm con dao, quắc mắt nhìn con vật ngã trên cỏ, phun xuống những
lời nguyền rủa độc địa tưởng không phải là tiếng người. Dưới đất con hổ đã đứng
lên nhe nanh đáp lại. Bà già cầm lấy cái dây trói hai con hổ giật lấy giật để,
rồi vừa khóc vừa quát tháo, vừa băm vằm mãi xuống quãng không. Con hổ lại há miệng
gầm. Hai mắt ngầu đỏ, hai bên mép vành chởm gai râu, nó thu hình lấy sức nhảy vọt
lên bám lấy ngang lưng bà Mi Nàng. Bà già không biết đau nữa, cứ nhè đầu con ác
thú mà ghè xuống. Con hổ gào vang lên như vỡ núi, song nhất định không chịu
buông. Bà già chém bừa đi, vào cả mặt cả vai, cả miệng con hổ. Nó nhô đầu lên để
chực ngoạm lấy đầu người đàn bà Mán nhưng chỉ cắn được lưỡi dao. Lúc ấy mặt người
với mặt hổ gần nhau, cùng ghê gớm như nhau: bốn mắt lồng lộn con ngươi, nhìn
nhau trao tráo, lộ ra không biết bao nhiêu cay độc, bao nhiêu hằn học căm hờn,
lẫn với chút cảm giác bi ai trước khi phải chết. Mẹ Mi Nàng còn sức chém, con hổ
còn sức bám lấy lưng bà ta. Dần dần bà ta đuối sức không giơ được dao lên nữa
thì con hổ cũng yếu tiếng kêu gào. Đến lúc người đàn bà tắt hơi buông thõng tay
xuống thì con hổ cũng vừa hết sức mà rã rời chân ra.
Dưới đám cỏ sắc lá khô đầm đìa những máu, thấy con hổ rơi nặng
xuống trong một "tay" còn nắm lấy một mảnh áo trên miếng thịt lưng bà
già.
Thế Lữ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét