Thứ Sáu, 6 tháng 8, 2021

Sự đời 1

Sự đời 1

Đôi lời: Đến nay lưng mỏi gối dùn, không còn làm chi được nữa, bần tăng bèn nhậu vô lai rai, động não lai rai và nghĩ lai rai về ba cái sự đời. Ngay từ xưa, ca dao ta đã từng ngẫm cái sự đời như sau:
Sáng trăng em tưởng tối trời
Em ngồi để cái sự đời em ra
Sự đời như cái lá đa
Đen như mõm chó, chém cha sự đời!.

Nghĩ lai rai - Một
1. Trong đời sống, có một cách chữa trị hiệu quả nhứt chứng nhức đầu: sự giễu cợt.
2. Cái thông minh của con người là một loại vũ khí tiêu diệt tập thể tài tình và hiệu quả nhứt.
Chính cái đầu óc (đỉnh cao trí tuệ!) và cái gọi là “thông minh” của con người đã được chỉ huy bởi lòng tham và lòng ác mà nó đẻ ra biết bao loại vũ khí tiêu diệt tập thể khác: bom nhỏ, bom lớn, bom xăng đặc, bom hóa học, bom vi trùng, bom nguyên tử, bom hạch nhân... - và nó sẽ còn chế tạo thêm loại vũ khí khủng khiếp nào khác nữa? Bên cạnh các loại vũ khí, cái “thông minh” của con người còn đẻ ra những hoạt động sinh lời (cho một số người) gây ra ô nhiễm môi sinh, bóp nghẹt trái đất và tàn sát muôn loài.
Trong tình trạng hiện nay, cái thông minh của con ngưòi chỉ mới đạt tới trình độ khôn vặt. Một loại thông minh được chỉ huy bởi lòng ích kỷ và lòng tham, nhằm phục vụ độc nhứt cho mình và bè đảng mình. Hơn nữa, một khi cái thông minh-khôn vặt được chỉ đạo bởi lòng ác, thì nó sẽ trở nên vô cùng tàn độc.
Trộm nghĩ, cái thông minh-thực sự là cái thông minh được hướng dẫn bởi lòng tử tế và lòng tốt, nghĩa là cái ý muốn và hành động thành thật nhằm đem tới hạnh phúc cho kẻ khác. Chính cái hạnh phúc của kẻ khác sẽ đem tới hạnh phúc cho mình. Nếu như nó không mang tới được hạnh phúc, thì ít ra nó cũng không gây khổ đau cho người khác, thiết tưởng như vậy cũng đã là quý lắm rồi!
Cái thông minh-thực sự nó rất gần gũi với hiền triết (wisdom/ sagesse). Bởi vậy, khi nói “thông minh” phải thận trọng. Coi chừng mình đang ngợi ca và đồng loã với cái ác!
3. Thơ Kiều: “Trải qua một cuộc bể dâu/ Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”
Nhái Kiều: “Trải qua một cuộc bể dâu/ Những điều trông thấy mà đau... thấy bà!”
4. Sở dĩ con người biết nói láo là bởi vì con người có ngôn ngữ.
5. Cái guồng máy của loài người được vận chuyển bởi một thứ nhiên liệu gây ô nhiễm nhứt trần gian: lòng tham.
Cái mà lòng tham làm ô nhiễm trước tiên là lòng người. Từ đó, chính cái lòng người–ô nhiễm này tạo ra mọi thứ ô nhiễm khác: ô nhiễm không khí, ô nhiễm đại dương, ô nhiễm sông ngòi, ô nhiễm đất đai, ô nhiễm nguyên tử, ô nhiễm vũ khí, ô nhiễm kinh tế-tài chánh dưới dạng thức bóc lột, đưa tới cách biệt sâu thẳm giữa giàu nghèo tạo ra bạo động triền miên, vân vân... Nói chung, lòng tham của con người làm ô nhiễm môi sinh của chính con người, hủy diệt sự sống trên địa cầu, cướp đoạt hơi thở trái đất. Và cuối cùng, chính cái lòng tham của con người sẽ đưa con người tới sự hủy diệt của chính mình.
6. Ta thà sống trong vinh quang chứ không thèm chết trong vinh quang.
7. Nói chuyện văn nghệ chơi: chuyện làm thơ. Bận nọ trong lớp học, để dạy cho học trò mình làm thơ, cô giáo đương cử ra một thí dụ: “Ao thu lạnh lẽo nước trong veo/ Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo. Chữ veo với chữ teo đều thuộc vần eo. Làm thơ cốt nhứt là phải có vần, các em hiểu chưa?” “Dạ hiểu!" Thực tập. Trò thứ nhứt, cũng cảm đề từ cái ao: “Trong một cái ao cóc/ Em thấy bơi lội một bầy cá lóc”. Cũng được. Trò thứ hai, cũng lại cái ao: “Trong một cái ao ếch/ Em ngó hoài hổng thấy gì hết”. Không hay lắm, nhưng mà có vần, thôi cũng được. Trò thứ ba, cũng vẫn cái ao: “Trong một cái ao nhái/ Em bước xuống nước lên tới...” Tới đây em nhỏ bỗng nhợn, bèn nhỏ bước ngập ngừng: “lên tới..., lên tới...” Cô giáo sốt ruột lên tiếng thúc giục: “Nước lên tới đâu em?” “Dạ... dạ... Trong một cái ao nhái/ Em bước xuống nước lên tới... đầu gối” Cô tức quá đập thước cây xuống bàn: “Bộ em không thể nào rán thêm một chút nữa cho nó có vần hay sao?” “Dạ thưa cô... thưa cô... em cũng rán lắm, nhưng mà ngặt vì ao nước nó cạn quá!”
8. Ở đời có ba trình độ ngu: Ngu mà biết mình ngu là ngu ít (tiểu ngu). Ngu mà không biết mình ngu là ngu vừa (trung ngu). Ngu mà tưởng mình khôn là ngu lớn (đại ngu, nói xuôi chứ không có lái liếc chi cả).
9. Tuyệt đối và vĩnh cửu là hai ý niệm mà không ai có thể kiểm chứng được hết. Bởi lẽ đời người thì có giới hạn, nằm trong vòng tương đối và thuộc lẽ vô thường. “Thì qua nói tuyệt đối và vĩnh cửu chơi cho dui dậy mà em Hai! Sao gài cẳng qua chi dậy?”
10. Ở đời cái gì cũng (có thể) quan trọng. Nhưng nghĩ cho cùng, cũng chẳng có cái gì quan trọng.
Nghĩ lai rai - Hai
1. Quan niệm tự do có nghĩa là “muốn làm gì thì làm”: đó là cách tự sát tốt nhứt. Bởi lẽ, khi đem cái màn “muốn làm gì thì làm” ra biểu diễn (chẳng hạn tát tai đại cái thằng có bản mặt thấy ghét) thì thiên hạ (nhứt là thằng Bruce Lee) nó sẽ đục cho phù mỏ liền tại chỗ! Hoặc trên xa lộ tự nhiên nổi hứng cảm thấy mình có tự do đổi sang lề trái, “muốn làm gì thì làm”. Thì cứ đổi đi, sẽ biết liền.
2. Thuyết dù có hay cách mấy cũng có thằng sẵn sàng bẻ cong để phục vụ cho cái tham vọng và quyền lợi của mình. Bất luận: từ thuyết chính trị, thuyết xã hội, thuyết kinh tế, thuyết tài chánh, vân vân… cho tới thuyết triết lý, thuyết tôn giáo… Bẻ cong lý luận là cái tánh đặc thù của con người. Và đó chính là cái đạo đức giả và cái đểu ác/ cynisme, hai lối hành xử đặc thù của loài người. (Hành xử: hành động và xử trí. Comportement/ behaviour)
3. Vũ trụ còn có bờ có bến, chớ cái xuẩn ngốc của con người thì nó vô bờ vô bến.
4. Khi chứng đúng được hành động của mình thì người ta dám hiên ngang trở thành bạo chúa.
5. Quan niệm “Tự do là tôi có quyền đặt để thân xác tôi”, hoặc nôm na: “Tôi có toàn quyền sử dụng thân xác tôi để làm gì thì làm”. Quan niệm như thế sẽ nhanh chóng dắt mình tới chỗ xâm mình, xỏ mép, cẩn vú, xỏ lưỡi, để chóp, bạo động, nghiện ngập và… làm đĩ.
Hơn nữa, ôm bom cho nổ banh xác giữa đám đông là quyền tự do của mỗi người chăng? Hoặc biết mình bị bịnh sida mà vẫn tiếp tục dùng thân thể mình để truyền bịnh cho người khác cũng là tự do chăng? Vân vân và vân vân.
Đi tìm tự do tuyệt đối là chạy theo một ảo tưởng tuyệt đối. Nó là dạng thức của thứ tự do vô trách nhiệm, một sự ích kỷ trá hình, một trình độ ý thức còn ấu trĩ. Nó chẳng khác gì đứa con nít tự cho mình có tự do tuyệt đối rồi muốn làm gì đó thì làm: muốn ăn thì ăn, muốn ỉa thì ỉa, muốn la thì la, muốn khóc thì khóc, muốn nằm vạ thì nằm vạ. Bởi lẽ đó, nghĩ cho cùng, có thể chỉ có một loại tự do thực tiễn khả dĩ chấp nhận được: Tự do có trách nhiệm. Một dạng thức của tự do đã trưởng thành.
Và trên hết, một điều kiện tiên quyết của tự do: Phải tôn trọng tự do của kẻ khác.
6. Thơ Bà Huyện Thanh Quan: “Tạo hóa gây chi cuộc hí trường / Đến nay thấm thoắt mấy tinh sương”
Nhái thơ Bà Huyện: “Tạo hóa gây chi cuộc hý cầu/ Đến nay thấm thía cái phao câu”
7. Làm chính trị mà không biết nói láo là không làm đúng nghề của mình và thiếu lương tâm nghề nghiệp.
8. Loài sống bằng lý trí cự nự: “Tại sao ta phải sống giản dị khi ta có quyền sống rắc rối? Tại sao ta phải sống hạnh phúc khi ta có quyền sống đau khổ? Tại sao ta phải sống hòa bình khi ta có thể gây chiến tranh?” Chiến tranh bao giờ cũng mang tới phồn thịnh cho những nước bán vũ khí, trong đó có Mỹ, Nga, Tàu, Anh, Pháp, v.v... Nếu không có chiến tranh, sẽ có nhiều nền kinh tế sụp đổ, sẽ có vô số người bị sa thải, thất nghiệp. Và đảng đang cầm quyền sẽ thất cử lần tới. Vì vậy phải duy trì chiến tranh và mở rộng thị trường vũ khí.
9. Quẳng câu hỏi nhớn lên không trung, coi chừng nó rớt xuống trúng u đầu!
10. Đại hội múa nón
Trong bài “Xúc cát trước bàn thờ”, bần tăng có hứa hẹn với bà con ta là sẽ viết về cái tiết mục “Đại hội múa nón”. Sở dĩ có cái tiết mục này là bởi bần tăng có nhận được, qua talawas, một bức “Tâm thư gửi nhà văn Kiệt Tấn: toang hoang ngoàì phố chợ” (3/2007) do Em Bé Quàng Khăn Đỏ (gọi tắt sau đây là Em Nhỏ) âu yếm soạn thảo với tất cả tấm lòng. Mới đầu, ngó thấy cái tên mình le lói, bần tăng cứ tưởng bở là “Tâm thư” đó gởi cho mình. Ai dè càng đọc càng có cảm tưởng là Tâm thư đã gởi nhầm địa chỉ: nhân vật được “Tâm thư” nhắm tới và lột da là ai đó lạ wắc, không ăn nhập gì tới mình hết. Quả thiệt là tai bay vạ gió!
Thoạt đầu, Em Nhỏ nói lên sự cảm mến của mình đối với đại văn (dầu) hào Kiệt Tấn. Rồi tiếp theo đó là sự thất vọng não nề của mình khi đọc bài “Sục cặc trước bàn thờ” (SCTBT) của Kiệt Tấn trên talawas (tháng 3/ 2005). Bần tăng rất lấy làm cảm động và vô cùng (Tổ Quốc) ăn năn. Từ sự thất vọng, “Tâm thư” dần dần chuyển sang hờn dỗi, trách móc, ngắt véo, và cuối cùng là chụp lên cái đầu trọc lóc của bần tăng vô số cái nón bèo nhèo “không khá”. Ngửi cái hơi văn của “Tâm thư”, bần tăng nghi ngờ là có bàn tay của “Mỹ Ngụy ác ôn” giựt dây phía sau Em Nhỏ. Bởi lẽ đó, cái tiết mục “Đại hội múa nón” này được bần tăng viết ra không phải chỉ nhằm trả lời Em Nhỏ mà là để giải độc chung cho “Mỹ Ngụy ác ôn” sau hậu trường. Nhưng nói chung là để trả lời cho tất cả những ai có những cái nón tương tự như vậy và rắp toan chụp lên đầu bần tăng.
Cảo thơm lần giở trước đèn...
Trước khi đi vào thời sự bi giờ, bần tăng giở lại sử sách thời cổ để xem người xưa xử trí ra sao khi gặp phải hoàn cảnh khó xử như bần tăng hiện nay.
Thời xưa, các ông Trời Con của Trung Quốc lúc nào cũng kiếm cớ để đục cho dân Giao Chỉ ta phù mỏ và đè đầu dài dài. Cả ngàn năm. (Mẹ rượt!). Rồi một lần nọ, thêm một lần nữa Xứ Giữa lại kiếm một cái cớ bá láp nào đó để mà kéo quân Chệt sang xéo dày lăng miếu ta - cũng giống như Bush Con thời bi giờ phịa ra cái chuyện “vũ khí tiêu diệt tập thể” để kéo quân và tung máy bay sang vừa uýnh vừa dội bom I-Rắc vậy đó. Quân sư Khổng Không Minh của Xứ Giữa bèn bày ra kế độc như sau: Sai sứ đem con Trâu Cổ vĩ đại giỏi võ Thiếu Lâm và Võ Sừng nhứt nước Tàu sang xứ ta để thách chọi trâu. Nếu ta thắng thì Xứ Giữa bãi binh. Nếu ta thua thì mấy ông Ba Tàu sẽ cất đại quân sang mà đì cái giang sơn gấm vóc của nước Văn Lang ta và bắt dân ta phải triều cống dài dài.
Được thư của sứ Tàu, vua ta sợ toát mồ hôi - có sách chép là “té đái luôn”. Bèn khẩn trương (lên!) cho họp hết bá quan văn võ lại và đồng thời ban chiếu chỉ triệu Trạng Quỳnh cấp tốc đến chầu. Sau khi nghe quan Thừa Tướng làm biefing tình hình nước nhà và tin tức khí tượng, Trạng Quỳnh bèn dập cái đầu có sạn của mình xuống bệ rồng (ui da!) rồi khải tấu: “Muôn tâu Bệ Hạ! Hạ thần đã có kế thắng con Trâu Cổ của Trung Quốc”. Đức vua lấy làm mầng rỡ, truyền bãi trào.
Trạng Quỳnh lui về cơ ngơi nhỏ của mình ở Ô Cầu Giấy, đóng cửa kín mít tử thủ với một con trâu baby nữ chưa có sừng suốt ba ngày ba đêm. Suốt ba ngày đó, Trạng Quỳnh tha hồ xơi phở, còn con baby nghé thì bị Trạng Quỳnh dứt sữa cưỡng bách, chỉ được uống nước phông-ten chớ không được bú sữa mẹ hoặc sữa đặc có đường chi hết ráo. Baby khóc thét lâm ly!
Rồi ngày trọng đại đã đến. Vua, quan, triều thần và bá tánh đến đặc nghẹt vây quanh cái sân tròn lớn để xem chọi trâu. Sứ Tầu truyền thả con Trâu Cổ ra. Sổ lồng, con Trâu Cổ bèn hung hăng chạy một vòng sân banh để biểu diễn cặp sừng Adidas mới tinh khôi của mình. Vừa chạy vừa xổ tiếng Quan Thoại vừa múa võ sừng, vừa thở ra lửa đỏ và khói CO2 mịt mù, tạo ra nạn ô nhiễm trầm trọng tại kinh đô Thăng Long ngàn năm ăn vặt của ta. Bên phía ta, Trạng Quỳnh truyền mở một cái chuồng gỗ nhỏ kín mít thả con baby nghé ra. Bị bỏ đói rã ruột từ ba bữa nay, con nghé ngó thấy con Trâu Cổ bèn mừng rỡ như thấy má đi chợ về. Nghé ta bèn kêu lên “Mamy!” một tiếng lớn vô cùng cảm động rồi lon ton chạy đến chui dưới bụng con Trâu Cổ tìm vú mẹ để xin “bú tí”. Tưởng cần nên nói rõ là theo truyền thống dân tộc của loài có sừng, trâu đực không bao giờ húc trâu nghé không có sừng. Đang trong tư thế sẵn sàng chiến đấu, bỗng nhiên bị “nâng bi” bất ngờ, Trâu Cổ chới với chạy giạt ra góc sân. Nhưng con baby nghé đâu có tha. Baby cứ lon ton chạy theo khóc la dậy trời. Rồi cứ đưa lưỡi mà liếm dưới bụng và giữa hai chân sau của con Trâu Cổ - có cái gì tòn teng như thể là hai cái vú. Nhột quá! Nhột quá! Một bên bỏ chạy, một bên cứ rượt theo. Được ba vòng sân banh, trọng tài thổi còi chấm dứt trận đấu và tuyên bố “Trâu Nghé toàn thắng!”. Thế là nước Văn Lang ta thoát nạn. Vua tôi bèn mở tiệc ăn mầng ba ngày ba đêm, để Nhà Nước ta cùng liên hoan với nhân dân và “nhảy hòa bình” mút mùa lệ thủy.
Sở dĩ bần tăng nhắc lại sự tích “chọi trâu” này là ngụ ý chỉ cho bà con ta thấy bần tăng đang lâm vào cái thế kẹt của con Trâu Cổ Ba Tầu. Em Nhỏ đang (bị xúi giục?) đem bức “Tâm thư” ra sử dụng như đòn “Sư Tử Hí Cầu” để mà chọc nhột bần tăng. Chẳng lẽ Trâu Cổ trả đòn con baby nghé, cho Em Nhỏ khóc thét chạy về nhà mét ba mét má? Hay là bần tăng sẽ bỏ chạy như con Trâu Cổ Ba Tầu? “Không!” Bần tăng sẽ ở lại cầm bút lên mà vạch cho đám quân sư quạt mo Trạng Quờn thấy các ngón đòn chụp mũ bừa bãi của mình quả nhiên đã đi trật đường rầy tuốt luốt.
Nón một: Dâm thư
Tâm thư viết: “Hễ không đủ tài, không đủ “form” là văn sẽ “ô uế” ngay, sẽ thành một loại dâm thư... vọc lồn”.
Nếu viết như trên để ám chỉ tà ý của bần tăng thì Em Nhỏ hãy đọc kỹ bài “SC” lại đi. Trong suốt bài của mình, bần tăng vẫn một mực đính chánh là các nàng không hề viết dâm thư. Vả lại, trong suốt cuộc đời tu hành vớ vẩn của mình, bần tăng đã đọc không ít các loại sách gợi dục/ érotisme và dâm thư/ porno rất là “hết cỡ nói”, rất là “chằn ăn trăn quấn”. Đối với bần tăng thì nhằm nhò gì ba cái “văn chương tình dục” lẻ tẻ trong tạp chí Hợp Lưu số 81/ 2005 (chủ đề: Tình dục và các nhà văn nữ di dân). Bởi lẽ đó mà bần tăng không cấp mề đai dâm thư cho “văn chương tình dục” ta đấy thôi. Viết theo kiểu cái “bà khoái chơi Mễ” thì theo chủ quan của bần tăng, nó chẳng là văn chương mà cũng chẳng phải dâm thư. Chuột chẳng phải chuột mà dơi chẳng phải dơi. Các ngòi bút nữ, có ai đồng ý với quan điểm này? Và ai không đồng ý? Viết dâm thư cho “đúng mức và đạt” cũng cần phải có cái nghệ thuật riêng của nó. Chớ nên lầm tưởng viết dâm thư là chỉ việc tung ra tưới hột sen các tiếng tục tĩu (như lồn cặc, đụ fuck, bú vú, bú cặc, vọc lồn, chảy nước lồn, đụ liền tức khắc...) như một hai ngòi bút nữ đã làm trong HL 81 (cho nhân vật nữ của mình đụ đủ người, chơi đủ kiểu, hoặc cho nàng leo lên giường biểu diễn nhiều màn bạo dâm kỳ quặc) là ăn tiền độc giả. Dễ ợt như vậy à? Nếu có ai gọi đó là dâm thư thì bần tăng sẽ bổ túc: “loại dâm thư tập tễnh, vụng về, ngán ngược. Ớn chè đậu!” Đó là hạng dâm thư ấu trĩ thuộc loại “thủ dâm tâm lý” của chính người viết.
Tuy nhiên, để tránh mang tiếng “dâm thư”, các nàng thường dùng một “tiểu xảo” rất thông dụng: Em sẽ viết một cái chuyện rất là thanh bai, rất là luân lý đạo đức, và em sẽ nói lên những điều rất là “siêu” (hình học không gian)... Nhưng trong khi chờ đợi, xin độc giả cảm phiền nhướng con mắt lên để coi em trình diễn những màn bạo dâm, những cảnh vọc lồn, bú cặc, cái cảnh “và chơi cho sướng, chơi đủ người, đụ đủ kiểu”, hoặc ngoáy cái lỗ tai lên mà nghe em văng tục “lồn cặc, đụ fuck” để hù bà con là em vô cùng “tân kỳ hậu hiện đại”. Kế đến là để cho em xả lòng em tự bấy lâu, không có thì em chết mất! “Rằng hay thì thiệt là hay/ Nghe xong ngậm đắng nuốt cay... thấy bà!” Cái tiểu xảo này trong dâm thư thiếu gì! Những quyển sách dẫy đầy “đụ fuck” có những cái tựa vô cùng hấp dẫn như: “Nhựt ký lầu xanh của Nàng Đĩ Ngựa”, hoặc “Đời sống về khuya của Bà Quả phụ Vú lớn”, hoặc “Dâm tình của Con nhỏ ở và Ông chủ Mắc dịch”, vân vân... Suốt trong truyện cứ cho hành dâm ê hề, cho fuck thả giàn (như cái bà khoái chơi Mễ). Chỉ cần hồi kết cuộc em cho Nàng đĩ ngựa, Bà góa phụ và Con nhỏ ở ăn năn vô cùng thành thực và lâm ly. Rồi em cho cả ba cạo đầu hoặc khoác áo nhà dòng mà đi tu, hay đi hành hương ở cái đất Tây Tạng xa xôi trắc trở. Và cuối cùng, Đấng Tối Cao động lòng đưa tay xuống cứu rỗi và mở cửa Thiên Đàng đón hết cả ba Thánh Nữ vào. “The End”! Vô cùng siêu hình học và sặc mùi đạo hạnh! Em sẽ lấy nước mắt bà con ta dễ ợt. “Kleenex, please!”
Nón hai: Khinh miệt gái đĩ
“Tâm thư” viết: “(Tuyết) không có đủ ngôn ngữ hoặc lý trí để phản kháng lại sự bất lực của hai tên con trai (Lộc và Kiệt) còn mang nặng thành kiến về sự cách biệt giữa “gái nhà lành” và “đĩ” ”
Em Nhỏ nói “bất lực” xem chừng có hơi tối nghĩa, vì thuở mười tám tuổi, thằng bé của bần tăng phục vụ rất là good. Còn “khinh miệt” thì bần tăng đoán có lẽ Em Nhỏ chưa từng nghe tới cái hỗn danh “người binh đĩ” mà giới giang hồ cầm bút đã gán cho bần tăng từ khuya. Thứ nữa, ông tướng Trần Nghi Hoàng (cái đầu có rất nhiều sạn và sỏi đá rong rêu) đã viết về bần tăng trong tạp chí Văn 117 & 118/ 2006 (tr. 40) như sau: “Kiệt Tấn yêu đĩ, yêu nữ sinh, yêu đàn bà, yêu con gái, yêu ca ve, yêu gái quê... đều “bằng như nhau”. KT không... phân biệt giai cấp trong tình yêu lẫn tình dục của ông”. Té ra cái ông tướng Trần Nghi Hoàng đã viết nhảm nhí, đã loan tin thất thiệt. Rất là phản động, rất là phản cách mạng, rất là đắc tội với Nhân Dân. Chẳng những thế, lại còn âm mưu phá hoại Nhà Nước, bôi nhọ Dân Tộc anh dũng kiên cường hoành tráng của ta. Chỉ còn nước xách cổ ra mà bắn bỏ dưới cột “Cờ Đỏ Sao Vàng”.
Tới đây, bần tăng xin tạm ngưng tiết mục trình diễn “Múa nón” và cho đi một trang quảng cáo. Em Nhỏ có ôm mặt khóc thét mà chạy về mét má? Ông Thầy Chùa có bị điểm trúng nhằm yếu huyệt mà ngã xuống chết giấc ngay tại chỗ? Muốn biết diễn tiến của màn “Múa nón” như thế nào, xin bà con đón xem hồi sau sẽ rõ.
Nghĩ lai rai - Ba
1. Thế giới của con người khác với thế giới của con thú ở chỗ thế giới của con người đầy dẫy những hoang tưởng. Và hơn thế nữa, con người lại tự cho đó là “siêu”!
2. Từ chỗ thấp hèn nhứt cho tới chỗ cao cả nhứt, từ chỗ phàm tục nhứt cho tới chỗ thiêng liêng nhứt, con người lúc nào cũng chạy theo những hoang tưởng không dứt.
3. Quan niệm tự do có nghĩa là “muốn làm gì thì làm”: đó là cách mất tự do nhanh chóng nhứt.
Ai đó quan niệm tự do theo kiểu “muốn làm gì thì làm” thì hãy tưởng tượng một thằng mẹ rượt nào đó áp dụng cái kiểu tự do “ta muốn làm gì thì ta làm” (chẳng hạn nó muốn đè ngửa mình ra thì nó đè, nó muốn lật sấp mình xuống thì nó lật, nó muốn đục mình phù mỏ thì nó đục...) Nếu nó biểu diễn tự do của nó theo kiểu đó thì liệu mình có chấp nhận và chịu nổi hay không? Khi đó, thế giới con người sẽ rất tự do để mà bạo động và rối loạn triền miên.
Tự do theo kiểu “muốn làm gì thì làm” bảo đảm sẽ đưa tới tình trạng người này tìm đủ mọi cách để ngăn cản người kia thể hiện tự do của mình. Rốt cuộc sẽ không một ai có thể tự do được hết: Mọi người sẽ mất hết tự do. Thử tưởng tượng trong thành phố không một ai tôn trọng đèn xanh đèn đỏ, mạnh ai nấy chạy tự do theo kiểu của mình. Khi đó, liệu ai có thể tự do để mà chạy được nữa hay không?
Ai đã chẳng từng nếm thử thương đau cái kinh nghiệm kẹt xe ở một cái rond point tám ngã mà mọi người đều giành nhau, lấn nhau để mà... kẹt cứng! Tự do kẹt cứng! Ô-kê?
4. Bần tăng trộm nghĩ: Bạo dâm và khổ dâm (sado-maso / S-M) phát xuất từ một nhu cầu tâm lý, từ cái hoang tưởng (thường là vô thức) cho rằng hành lạc và khoái lạc là một tội lỗi cần phải được trừng trị để cứu rỗi. Cứu rỗi bằng cách hành hạ, đánh đập, hạ nhục thân xác mình và thân xác của người cộng lạc. Cũng như các tín đồ quỳ dưới chưn Đấng Cứu Rỗi vừa lấy roi gai quất lên người mình cho đổ máu, vừa khóc lóc, năn nỉ, tạ tội, xin lỗi để thấy mình xứng đáng được cứu rỗi.
Có hành hạ và trừng trị thân xác mình trước rồi thì sau đó mới được yên tâm để hành lạc và hưởng cái khoái lạc nhục thể mà đầu óc mình chối bỏ, kết tội, lên án (ý thức hoặc vô thức). Tóm lại: một trò “tự biên tự diễn” (với một hay nhiều đồng loã) vô cùng lố bịch, vô cùng buồn bã, vô cùng đau đớn và vô cùng thảm hại.
5. “Tôi suy nghĩ vậy tôi có”. Mẹ rượt! Không suy nghĩ tôi vẫn có như thường. Không tin thử lấy kim nhọn đâm vào đít triết gia đang say ngủ thì biết.
6. Cuộc đời tự nó không có ý nghĩa, cũng không vô nghĩa. Cuộc đời vốn nó như vậy đó. Ý nghĩa là một ý niệm do con người bày đặt ra nhằm thỏa mãn cái đầu óc duy lý của mình. Nói ý nghĩa nhưng chưa chắc ai đã đồng ý với ai về cái ý nghĩa (là phải như thế nào đó) mà mình gán cho một cái gì đó (như đời sống, hành động, cứu cánh, tín ngưỡng...) Cái ý nghĩa vốn nó không tự sẵn có trong Trời Đất. Chẳng hạn như cái chuyện mặt trời chiếu sáng, trái đất quay tròn, âm dương thu hút nhau... vốn nó như vậy đó từ đời kiếp nào, từ khi chưa có con người. Tự nó chẳng có ý nghĩa, nhưng cũng chẳng vô nghĩa. Con người sanh sau đẻ muộn, tự nhiên từ đâu tới bày đặt phê phán là cái này cái nọ có nghĩa/ vô nghĩa, rồi lại còn hiu hiu cái kiểu “đỉnh cao trí tuệ”, cái kiểu “Ta Đây” có quyền (tại sao có quyền?) áp đặt ý nghĩa do ta bày đặt ra lên mọi thứ, mọi chuyện. Nếu không có Ta thì mọi thứ (luôn cả Đất Trời, vũ trụ) sẽ trở thành vô nghĩa! Rất là le lói!
Nhưng con người bày đặt ra cái chuyện “ý nghĩa” để làm chi vậy? Thì bày đặt ra để chứng tỏ và để cảm thấy cuộc đời mình rất có ý nghĩa, rất đáng sống, và rất “siêu”! Hỏi thử nhiều người về cái nghĩa sống, thấy không có cái ý nghĩa nào giống cái ý nghĩa nào. Thành thử cái nào cũng được. “Thì le lói cho zui dậy mà, em Hai!”
7. Hãy làm tình cho thiệt là lu bù và chăm chỉ, đừng có âm mưu chính chị chính em gì nữa hết thì bảo đảm thế giới này sẽ hết giặc. Nói thiệt đó! Vì bởi cho dù có còn giặc đi nữa thì thiên hạ cũng đã lâm vào cảnh lỏng gối sụm bà chè. Mà một khi đã hết còn “quậy” quẹt gì nổi nữa thì ắt sẽ có thanh bình là cái chắc! (CQFD)
8. Đại hội múa nón
Sau khi cho đi một trang quảng cáo, bần tăng xin trở lại cái tiết mục “Múa nón” của Em Nhỏ. Bần tăng đã chỉ cho bà con ta thấy hai cái nón mà Em Nhỏ (và đám Trạng Quờn) mưu toan chụp lên đầu mình, bần tăng xin giở tới cái nón thứ ba cho bà con ta cùng chiêm ngưỡng:
Nón ba: Bất mãn tình dục
“Tâm thư” viết: “Họ (các ngòi bút nữ quyền) cũng không phải là những con người mal baisées như ông đã kết luận”
Em Nhỏ đã hạ bút ngon lành và quả quyết như thế í. Trong khi đó, để né tránh cái nón cùng một kiểu như của Em Nhỏ mà “nhà văn (rất) nhớn” Phan Thị Trọng Tuyến mưu toan chụp lên đầu mình, bần tăng đã đính chánh trong bài “Phỏng vấn” (VĂN 117 & 118/ 2006 - trang 122): “Tôi không có ý chụp mũ là các bà nữ quyền đều bị bất mãn tình dục, nôm na tiếng Tây là mal baisées. Tôi chỉ muốn nói các nàng bất mãn tình dục kinh niên khó thể có cảm tình với bọn đực rựa (vô tích sự!)”
Em Nhỏ hiểu lời phát biểu này của bần tăng “za nàm thao” mà lại nỡ đi chụp cái nón “nói phịa” lên đầu “thần tượng” gãy cánh của mình như thế? Chẳng thương thì chớ, sao đành giết nhau? Hơn nữa, chính Em Nhỏ (và nhiều bà nữ quyền khác nữa) đã “cung oán ngâm khúc” dài dài cái tệ trạng mal baisées (chơi không đã) của người nữ trong “Tâm thư” của mình (phải chăng?). Chớ nào phải bần tăng chụp cái nón mal baisées lên một nàng nào đâu! Và nói rộng ra, cái tệ trạng này đâu phải chỉ dành riêng cho dân Giao Chỉ ta. Mấy thằng đực rựa ngốc nghếch như thế í, nếu có bị vợ cắm sừng thì cũng thiệt là đáng kiếp. Hoan hô cái bà khoái chơi Mễ! Cứ làm tới nữa đi, Em cho thằng chồng Mít da vàng của Em nó biết tay!
Nón bốn: Lạc hậu kinh niên
Sau khi trình diễn dồi dào các nhà văn ngoại quốc và cổ võ phe ta nên noi gương các nhà văn này, “Tâm thư” viết tiếp: “Tôi thất vọng vì sau hơn 30 năm ở nước ngoài, chúng ta vẫn chưa thoát khỏi những lối nhìn hẹp hòi, những biên giới hà khắc đã đày ải và dìm dập chúng ta trong tình cảnh tù đày và lạc hậu kinh niên”
Nghe Em Nhỏ thở than mà bần tăng muốn sa lụy hai hàng! Bần tăng bèn lấy một quyết định sáng suốt (trước khi hành động mù quáng): Cách tân lối sống của mình cho nó bớt lạc hậu, ngõ hầu làm nở mặt dòng giống Rồng Tiên (đã rụng lông tróc vảy) của nước Đại Ngu (cấm nói lái) vốn vô cùng chậm tiến của ta. Người ta quăng net thì bần tăng quăng lưới. Người ta gởi meo thì bần tăng gởi mốc. Người ta điện thoại di động thì bần tăng la làng tại chỗ.
Thứ nữa, từ hồi xưa tới giờ bần tăng chưa hề được đọc một quyển sách ngoại ngữ nào hết (!) Vì vậy, để giảm bớt được phần nào cái tình trạng lạc hậu kinh niên, bần tăng bèn lấy quyết định “đổi mới tư duy”, và đồng thời “cách tân” ngòi bút của mình ngõ hầu theo kịp nhịp đập của con tim văn chương quốc tế. Ông Proust viết Đi tìm thời gian đã mất thì bần tăng viết “Đi kiếm không gian vẫn còn”. Ông Hemingway viết Ngư ông và biển cả thì bần tăng viết “Ngư bà và cái ao rất cạn”. Ông Faulkner viết Âm thanh và cuồng nộ thì bần tăng viết “Im lặng là vàng” (quyển 1) và “Nín khe mà nằm vùng” (quyển 2). Ông Gide viết Khung cửa hẹp thì bần tăng viết “Cửa sổ rộng”. Ông Steinbeck viết Của chuột và người thì bần tăng viết “ Của mèo và khỉ đột”. Người ta viết dâm thư “Funny hill” thì bần tăng viết “Phanh neo heo”. Và còn hứa hẹn nhiều sáng tác tân kỳ, tình dục “táo bạo trâng tráo” khác nữa trong một tương lai gần xịt, ngõ hầu giảm bớt được phần nào cái tệ trạng lạc hậu kinh niên của mình. Xin bà con chuẩn bị cash liền tức khắc (giống cái Em đòi đụ liền tức khắc như đòi ăn mì gói trong HL 81) và đón xem.
À quên! Bần tăng nguyện từ đây khi viết một dòng tiếng Việt thì sẽ trích dẫn kèm theo ba dòng văn chương Tây Mẽo liền tù tì cho thiên hạ lé con mắt chơi! “Chưa chắc thằng nào sợ thằng này!"
Tới đây, thêm một lần nữa bần tăng lại xin tạm ngưng trình diễn tiết mục “Múa nón”. Em Nhỏ sẽ níu áo ông Thầy Chùa mà nằm vạ? Ông Thầy Chùa sẽ để tóc trở lại và lấy vợ (người) khác mà làm ăn lương thiện? Muốn biết chuyện sau thế nào, xin đón xem hồi sau sẽ rõ.
9. Trong khi chờ đợi, xin bà con cho phép cụ Nguyễn Du (vốn lạc hậu kinh niên) bước ra sân khấu và cố gắng “xổ nho” một tí cho nó nhẹ bớt cái gánh nặng chậm tiến:
“Cảo perfumed lần giở trước candle
Phong love cổ green còn truyền blue history”
Đó là cụ Nguyễn Du đang thực hiện một cuộc cách tân thơ cổ-lỗ-sĩ của mình trong truyện Kiều nguyên thủy “Cảo thơm lần giở trước đèn / Phong tình cổ lục còn truyền sử xanh”. Nhưng chưa nhằm nhò gì đâu, ba cái lẻ tẻ. Hẹn lần sau cụ Nguyễn Du sẽ còn trình diễn thêm nhiều màn “xổ tiếng Đức”, “xạc tiếng Tây”, “nhai tiếng Mẽo” vô cùng ly kỳ hấp dẫn. Xin bà con ta hãy ngoáy rộng hai cái lỗ tai cù lần của mình lên để nghe cho rõ, ngõ hầu giác ngộ kách mệnh rồi nhân đó mà tiến lên vù vù vụt vụt. Sẵn trớn lấy luôn năm ba cái bằng Ph.D. hoặc Phó Tiến Sĩ. Có như vậy mới mong theo kịp bước tiến rầm rộ của thiên hạ xung quanh mình. Bà con ta hãy rán mà nghe và thưởng thúc cái thứ văn chương “ba rọi” cho nó quen. Nếu không muốn nghe thì cũng phải rán chịu. Bắt buộc. Nghe đây! Nghe đây!
Nhĩ lai rai - Bốn
1. Một cách nào đó, thiền là một cố gắng đi tìm lại cái cõi hồn nhiên vắng bặt ý niệm thuở nguyên sơ của trẻ con và muông thú
2. Khi chưa hiểu thì người ta còn nói. Một khi đã hiểu rồi thì người ta không còn gì để nói nữa.
3. Ngôn ngữ của con người là loại sương mù dày đặc nhứt thế giới.
4. Đọc tạp chí Hợp Lưu số 81/ 2005 thấy có một nàng (nữ quyền?) vô cùng hung hăng (con bọ xít) và chống đối tới cùng cái âm mưu đen tối Mỹ Ngụy của Nhà Nước-Xã Hội-Thị Trường ta nhằm lăm le bắt các nữ sinh phải bận áo dài trắng và quần trắng để đi học. Quả là tức tối (tức sáng) thiệt tình! Bần tăng bèn động não tư duy Mác Lê mà ngẫm ra thấy nàng hết sức hữu lý, bèn hồ hởi xổ nho y hịt như nàng: «Ai là người sáng chế, nghĩ ra nữ sinh Việt Nam phải bận áo dài trắng quần trắng, bó sát thân thể đang vươn sức sống? (…) Gợi lòng tham dục của đám đực rựa! Fuck cái trò rửa mắt hả hê của đám đực rựa tham dâm!»
Bần tăng lúc đó mới sáng mắt ra như Văn Vỹ sau ngày «giải phóng»! Và nhận thấy nàng đã đi đúng y chang cái phong trào «No Bra Look» bên Mẽo của các bậc đàn chị nữ quyền thập niên 60: «Ai là người đã sáng chế ra cái «bra» nịt vú? Bó sát đôi vú đang vươn sức sống? Tự do «lủng lẳng» phải bị băng bó! Fuck! Bà chửi thề!» Chửi xong nàng bèn tháo cái nịt vú mà liệng bỏ. Liệng xong nàng bèn lượm lên… mà nịt lại. Lý do: đôi vú của nàng nó phản lại phong trào nữ quyền để chạy theo sức hút của quả đất!
5. Gẫm lại cái thái độ chống nữ sinh nước ta mặc áo dài trắng quần trắng để đi học của nàng hết sức hợp lý, bần tăng xin rụt rè kín đáo gợi ý cho nàng hai cái biện pháp vô cùng lợi ích cho xã hội sau đây để nàng đạo đạt lên Nhà Nước-Xã Hội ta ban hành và áp dụng triệt để:
Biện pháp một: Xét vì xứ ta là xứ nóng. Bởi lẽ ấy, mùa nắng, các em nữ sinh bắt buộc phải mặc mini jupe, váy cực ngắn và áo thun mỏng có khoét lỗ tùm lum để mà tới trường… cho nó mát. Và nhứt là để bọn đực rựa tham dâm hết còn mong gì được rửa mắt Văn Vỹ trên chiếc áo dài bó sát của mấy em (nhục chưa?) Bà fuck con mắt Văn Vỹ cho nó mù luôn!
Biện pháp hai: Xét vì xứ ta mưa nắng hai mùa. Bởi lẽ ấy, mùa mưa, các em nữ sinh bắt buộc phải mặc string, quần lót dây và mình thì che sơ miếng vải cao su để đi học, phòng khi mưa đến mấy em khỏi bị ướt áo và đỡ mục cái quần. Kế đến, để cho cái quần trắng khỏi gợi lòng tham dục của bọn đực rựa (nhục chưa?) Và trên hết: Cho «tự do khỏi bị băng bó»! Bà fuck luôn cái băng bó!
Các em có mặc string như thế mới tiết kiệm được bột giặt, vừa đỡ làm ô nhiễm môi sinh, vừa bớt tốn tiền cha mẹ, vừa tiết giảm được ngân sách quốc phòng của Nhà Nước. Nhờ đó các em sẽ tích cực tiếp tay đẩy mạnh chính sách «giảm nghèo xóa đói» của Đảng ta một cách hoành tráng và có cơ sở, đầy đủ tư duy Mác Lê và chất lượng cao cấp. Và cuối cùng, cho Cha Già Dân Tộc vĩ đại của chúng ta được ngậm cười (khúc khích) nơi chín suối (Lồ Ồ). Nếu như thế mà vẫn còn ngoan cố ọ ẹ thì bà sẽ hạ bệ luôn Cha Già Dân Tộc! Đừng có ỷ vào cái văn hóa truyền thống «Chống Mẽo Kíu Nước». Bà fuck cái văn hóa! Và fuck luôn cái truyền thống!
6. Nhìn chung chung, triết học Tây Phương là một trò vọc giỡn ý niệm và quăng bắt chữ nghĩa. Một trò thôi miên và ảo thuật mà rất nhiều người, nhứt là các môn đồ của giáo phái «Đỉnh Cao Trí Tuệ» da vàng của ta vô cùng thán phục và thường đem ra để mà hù thiên hạ.
7. Hỡi những người chống đối tình dục! Nếu không có tình dục thì làm gì có mấy bà và mấy cha nội xúm xít ở đây để mà gân cổ lên chống đối tình dục?
8. Truyện Kiều: «Khúc nhà tay lựa nên chương / Một thiên bạc mạng nghe càng não nhân»
Lẩy Kiều: «Khúc nhà tay lựa nên hôi / Một thiên bạc mạng nghe rồi… bạt tai!»
9. Cái địa ngục bên ngoài ta trốn được. Còn cái địa ngục trong đầu, ta biết trốn nó ở đâu bây giờ?
10. Một mình nó, trí thông minh không giải quyết được gì hết. Nó tạo thêm nhiều vấn đề hơn là giải quyết.
Khi nó giải quyết một vấn đề gì thì trí thông minh lại tạo thêm nhiều vấn đề khác còn lớn hơn thập bội. Rồi lại giải quyết, lại tạo vấn đề… Chung cuộc, trí thông minh đã thực sự giải quyết được vấn đề gì chăng? Thử nhìn lại các vấn đề lớn mà trí thông minh đã từng tìm cách giải quyết từ hơn mấy ngàn năm nay. Giải quyết nghèo đói? Nghèo vẫn còn đó. Đói vẫn còn đó. Giải quyết chiến tranh? Chiến tranh vẫn còn đó, và càng ngày lại càng khốc liệt hơn xưa. Hơn nữa, những hoạt động (kinh tế, kỹ nghệ, chính trị, quân sự…) mà trí thông minh của con người bày đặt ra đã tạo nên nhiều đại nạn ô nhiễm nan giải. Và trái đất đang bị giết chết dần mòn vì cái gọi là «trí thông minh» (mẹ rượt!) của con người.
Trộm nghĩ, trí thông minh cần phải được dìu dắt bởi lòng tốt (thực sự muốn đem tới hạnh phúc cho kẻ khác), bởi hiền triết (sagesse/ wisdom) và bởi lẽ thường (bon sens/ common sense). Như vậy, may ra trí thông minh sẽ đỡ lầm lạc hơn chăng?
Nghĩ lai rai - Năm
1. Cái ngã tạo nên muôn ngàn khổ đau. Để diệt khổ đau, Phật dạy chúng sanh diệt cái ngã (để thành Phật?). «Dễ ợt!» Vậy mà làm cho tới trọc đầu, cho tới ngày nhắm mắt xuống lỗ cũng chưa xong. Thế nhưng, trong cái đầu trọc mê muội của mình, bần tăng vẫn còn «théc méc»: cái ngã diệt rồi thì biết lấy cái gì mà thành Phật đây?
2. Sau khi thuyết pháp hơn bốn mươi năm, Phật kết luận: «Ta không nói một chữ». Nghe xong, chúng sanh bèn xúm lại mà nói mà bàn mút mùa về câu nói đó. Riết rồi không biết đường đâu mà rờ!
3. Giải thích là sa vào mê cung. Rời mê cung này chỉ để dấn mình vào một mê cung khác.
4. Một bữa nọ, bần tăng ngồi mạn đàm với một ông bạn từ phương xa ghé thăm. Ông bạn một chén trà, bần tăng một chén rượu. Bàn chuyện trời trăng mây nước, rượu vào lời ra, bần tăng bèn phát ngôn bừa bãi: «Theo tại hạ nghĩ, thuận lẽ Trời thì sống, nghịch lẽ Trời thì chết».
Tưởng là hù cho thiên hạ sợ chơi vậy thôi. Dè đâu ông bạn bỗng cau mày ném vào mặt và cái đầu trọc của bần tăng một cái nhìn rất là dùi cui (ui da!) và hết sức thông minh, mà rằng: «Thế nào là lẽ Trời và thuận lẽ Trời? Trời nào? Giê Su hay Allah? Thích Ca hay Khổng Tử?» Bị phản kích bất ngờ, bần tăng đành ngậm miệng ú ớ - tuy rằng trong bụng đã tính phang cho bạn hiền ta một câu xanh dờn: “Cha nội này đã bị triết Tây ăn rỗng hết cái sọ đầu và rỗng hết ruột non ruột già nên mới hỏi một câu hết sức ngớ ngẩn như vậy. Bởi lẽ khi nói “Trời” thì bà con ta, từ đức vua cho tới dân ngu khu đen, từ một thằng bị hăngđicáp nặng cho tới một đứa con nít ke, ai ai cũng đều biết hết là cái gì!" Còn lúng túng chưa biết giả nhời xao cho vừa lòng bạn hiền thì bỗng «Ầm!» May quá Trời chợt gầm lên một tiếng lớn, đồng thời xẹt một tia sáng nhỏ chói lọi trúng ngay cái trán thông minh le lói của ông bạn quý khiến cho bạn hiền ta té ngửa xuống đất một cái «bịch»!
Gẫm ra mới biết: «Lẽ Trời tuy không ai thấy mà nó huyền diệu khôn cùng!» Tuy nhiên, bần tăng vẫn không dám bảo đảm là bạn hiền ta đã thấm ý được cái «Lẽ Trời» là gì. Khi tỉnh lại, có thể cha nội sẽ còn hỏi thêm: «Lẽ Trời là lẽ của Khổng Tử? Của Bush Con? Của Bin Laden? Của Cocteau? Của Gide hay của Cha già Dân tộc?» Trời cao có thấu! Cúi xin người ban phước cho đời con!
5. Tuy nhiên, mặc dầu (và luôn cả mặc mỡ) thị hiện rành rành như vậy mà Lẽ Trời vẫn còn nương tay kỳ diệu. Dù có té chổng gọng dưới đất nhưng bạn hiền ta không sao, trán chỉ bị nám một điểm nhỏ bằng đầu ngón tay. Bạn ta bèn lồm cồm bò dậy phủi đít và ngồi trở lại bàn để tán phét với bần tăng. Bàn về vấn đề tình dục, bần tăng lại phát ngôn bừa bãi: «Từ thuở tạo thiên lập địa cho tới ngày hôm nay, muôn loài đều giao hợp với nhau một cách tự nhiên và bình thường»
Tưởng là nói chơi cho vui câu chuyện vậy thôi. Dè đâu bạn ta lại cau mày và ném lên cái đầu trọc của bần tăng một cái nhìn vô cùng sắc bén (ui da! rát! rát!) và vô cùng thông minh, mà rằng: «Giao hợp một cách tự nhiên và bình thường là sao? Bình thường và tự nhiên như chó mắc lẹo ngoài đường?»
Bị phản kích bất ngờ, bần tăng chới với, vội vàng khoát tay lia lịa rồi đâm hoảng (nói Quảng nói Tiều): «Dĩ nhiên… dĩ nhiên… Chó mắc lẹo ngoài đường là không bình thường. Chó bình thường thì phải mắc lẹo trong khách sạn… năm sao!»
Bạn ta thu hồi cái nhìn sắc bén và thông minh lại cất vào túi khỉ rồi cầm chén trà lên nhắp một cái «trót», gật gù mỉm cười khoái trá. Bần tăng cảm thây yên bụng. Tuy nhiên, bần tăng cũng thầm tư duy lén trong cái đầu trọc của mình ngõ hầu chuẩn bị mà đối đáp với bạn ta cho phải đạo.
Nhắp một ngụm trà xanh, bạn ta lại hỏi tiếp: «Giao hợp tự nhiên và bình thường là sao? Như gà đạp mái trong sân?» Bần tăng lật đật đáp liền: «Không ạ! Gà đạp mái trong sân là không bình thường. Gà bình thường thì phải đạp mái trong khách sạn… bốn sao!»
Lại một ngụm trà khoái trá, bạn ta lại hỏi tiếp: «Giao hợp tự nhiên và bình thường là sao? Như hai người đàn ông giao hợp với nhau trong phòng kín?» Bần tăng lật đật đáp liền: «Vâng ạ! Thời ăn lông ở lỗ, hai người đàn ông giao hợp với nhau trong hang động là không bình thường. Nhưng trong thời văn minh hậu-hiện-đại bi giờ thì hai người đàn ông giao hợp với nhau trong phòng kín có gắn máy lạnh thì là rất bình thường. Hơn thế nữa, hai người còn ăn ở với nhau có rất nhiều mặt con, hạnh phúc lâu bền như trong truyện Cô bé Lọ Lem và Hoàng tử đẹp zai. Cũng rất là bình thường thôi ạ!».
Vẫn chưa vừa lòng, bạn ta lại nhắp một ngụm trà thơm và ném lên cái đầu trọc của bần tăng một cái nhìn rất là rong rêu sỏi đá (ui da!) và rất là hằn lên nỗi đau (ui da! đau bỏ mẹ!) rồi chiếu bí: «Giao hợp tự nhiên và bình thường là sao? Như người đàn ông và người đàn bà giao hợp với nhau trong khách sạn quèn… không có sao?» Đã có tư duy từ trước nên bần tăng liền đáp liền tù tì: «Không ạ! Thời ăn lông ở lỗ, đàn bà và đàn ông giao hợp với nhau trong hang động là bình thường. Nhưng thời văn minh hậu-hiện-đại bi giờ, đàn ông và đàn bà giao hợp với nhau ở khách sạn quèn không có gắn máy lạnh và cũng «không có sao» (no stars where!) thì là không bình thường và rất là «có sao». Vì có thể bị lính bắt vì tội… ngoại tình đấy ạ!»
6. Lại lạm bàn qua cái thời sự tsunami ở biển Chà Và cách đây vài năm. Bần tăng là người mộ đạo rất biết sợ và biết thờ phượng Trời Phật ở trên cái đầu trọc của mình, và hơn nữa vốn đại kỵ cái lũ hiu hiu có «Đỉnh (cứt) cao trí tuệ» nên lại thêm một lần nữa, phát ngôn bừa bãi: «Theo một vị lãnh tụ Hồi giáo ở Anh Đô Nê Xi thì trận tsunami vừa qua là hình phạt của Trời Đất để cảnh cáo lũ có cứt trong đầu và hay quậy!»
Một lần nữa, ông bạn quý lại trừng mắt ném lên cái đầu trọc của bần tăng một cái nhìn cay nghiệt có lửa (ui da! nóng! nóng!) và vô cùng thông minh, mà rằng: «Trận tsunami vừa qua không là hình phạt của Trời Đất để cảnh cáo lũ có cứt trong đầu hay quậy, và không để cho những kẻ sống thuận lẽ Trời vỗ tay reo mừng. Trời đất vô tâm. Trời đất khi nổi trận lôi đình chỉ tru diệt một cách mù quáng không phân biệt hư kiểu/ tốt kiểu/ sống thuận lẽ Trời/ giao cấu lộn mèo/ đúng chó gì hết ớ!»
Và cũng như những lần trước, bần tăng lật đật khải tấu: «Huynh phán như vậy là rất đúng ớ! Bởi vô tâm nên Trời đất không thiên vị một ai hết ớ. Tuy nhiên, theo tại hạ nghĩ thì Trời đất không có tâm mà cũng chẳng vô tâm. Thứ nữa, cũng may mà Trời đất không phân biệt hư kiểu/ tốt kiểu, không phân biệt tốt/ xấu theo cái «tiêu chuẩn - lỗ rún» hoặc theo cái «tiêu chuẩn - lỗ ỉa» của loài có cứt trong đầu cũng như cái tiêu chuẩn của một loài nào hết ớ. Vì thử tưởng tượng: Ào một cái! Tsunami cuốn hết mọi người và mọi loài ra biển Chà Và mà tắm biển cưỡng bách. Nhưng đặc biệt, và rất phân biệt, chỉ chừa lại loài rắn độc trên bãi biển. Bảo đảm thiên hạ và muôn loài sẽ kiện Trời đất lên tới… Trời. Khi đó Trời đất sẽ ú ớ, và rồi mới biết phân xử ra làm sao? Tuy nhiên, nghĩ cho cùng thì Trời đất không mắc mớ cái đếch gì tới ngôn ngữ và ý niệm «nổi trận lôi đình, có tâm/ vô tâm, phân biệt/ không phân biệt» trong cái đầu «cứt cao trí tệ» của con người chó gì hết ớ! Trời đất vận hành! Thế thôi! Hiểu chưa? Pigé? Anhđượcxítten? Compờrenđô ớ?» Ớ!
7. Một trong những tài mọn khủng khiếp nhứt của con người: Biến tài sản trái đất thành giấy bạc để cất vô nhà băng.
8. Đại hội múa nón
Như đã hứa ở Sự đời - Bài 1, bần tăng xin trở lại tiết mục Múa nón trong bức Tâm thư của Em Nhỏ gởi nhà zăn Kiệt Tấn. Sau khi trình diễn được bốn điệu múa nón vô cùng ngoạn mục, giờ đây xin cho Em Nhỏ múa tiếp để bà con ta cùng thưởng ngoạn: “Hầy lá! Tả lồ lên coi chơi há!”
Nón năm: Đàn bà xác thịt
Xin chia điệu múa này ra làm hai phần cho bà con ta dễ tiếp thu nghệ thuật múa nón:
Phần một: Tâm thư than thở: “Nhưng cuối cùng thì sự đam mê nào, lúc đầu thì có thể rất đẹp, nhưng cuối cùng chỉ là một cơn sốt tình ái, một lối thoát tạm thời, và đối tượng đàn bà chỉ là một phương tiện, không phải là chân lý cho cuộc sống”. À za thế! Nhờ đèn zời xoi xáng mà bi giờ bần tăng mới sáng mắt ra như sư phụ Văn Vỹ: Từ xưa đến nay, trong vòng tay học trò của mình, đàn bà chỉ là phương tiện chớ không phải là chân lý! Vậy mà tự bấy lâu nay bần tăng cứ tưởng bở là không có cái chân lý hay cái cẳng lý mẹ rượt gì hết trong cái cõi đời ô trọc này. Bần tăng cũng chưa hề dám lấy Thượng Đế làm chân lý. Bỗng nhiên bi giờ phát thinh lấy đàn bà làm “cẳng lý” sợ bà xã nghi ngờ là bần tăng... thay lòng đổi dạ nọ kia. Kẹt lắm!
Thử hỏi Em Nhỏ và các bà nữ quyền, có nàng nào đã từng “lấy đàn ông làm chân lý” bao giờ chưa? Nếu có xin cho biết để bần tăng mở tiệc ăn mừng. Bởi lẽ nếu được như thế í thì trên đất nước ta, hễ bước xuống phố là gặp... chân lý! Và gặp luôn cả “cẳng lý” nữa, dĩ nhiên.
Phần hai: Sau khi khóc than khôn xiết sự tình, Tâm thư viết tiếp: “(...) những đam mê của ông (KT) chỉ là phù du, bọt biển, nó không vượt khuôn khổ xác thịt, xã hội, màu da, hay ngôn ngữ” Úi zào! Nghe như thể là “trùng dương nổi sóng, tùm lum bọt biển, lắc lư con tàu đi”! Quá hay! Đúng là bài học thuộc lòng Quốc văn giáo khoa thư, trong bất cứ trường hợp nào cũng tung ra được – như chỉ cần bấm nút là con búp bê Barbie nó khóc thét! Nếu như Em Nhỏ liệu có thể vượt qua được hết những thứ mà Em Nhỏ vừa lên án thì Em Nhỏ cứ tự nhiên mà bóp kèn qua mặt bần tăng đi! Please! No problem!
Từ xưa đến những nay, bần tăng vẫn đinh ninh khi mình đam mê một người đàn bà nào đó là vì bởi nàng có một nhục thể đình huỳnh. Bần tăng chưa hề dám có ảo tưởng là mình đam mê đàn bà giống như mình thờ phượng Đức Mẹ hay thờ phượng Nữ thần Shiva không có nhục thể. Vả lại, nếu đàn bà không có xác thịt hoặc xác thịt đàn bà không mang tới cho thằng đực rựa một chút khoái cảm nào hết mà chỉ có toàn là mệt bở hơi tai, thì bảo đảm thằng đực rựa sẽ trốn vợ nhà đi nhậu với bạn bè dài dài. Sướng hơn và vui hơn là cái chắc! Thêm nữa, một điều hềt sức quan trọng: khi hành dục, người đàn bà cũng biết rên ào ào và lên tới tột đỉnh (đôi khi rất nhiều đỉnh, lên tận chín từng mây!) chớ có phải nàng nào cũng bất mãn tình dục kinh niên đâu. Sao khi mở miệng ra lại cứ chửi ra rả bọn đực rựa là “lợi dụng” (?) xác thịt đàn bà?
Giả thử bây giờ có một nàng nữ quyền nào đó vụt đổi giống thành thằng đực rựa, chưa chắc gì sẽ hành xử khác hơn là một thằng đàn ông “bình thường”, khoái gần gũi nhục thể người nữ. Tự muôn đời, thân thể đàn bà vẫn luôn luôn là loại “vũ khí” hiệu quả nhứt mà người nữ sử dụng để trị bọn đực rựa tham dâm - nhứt là mấy ông vua háo sắc, sẵn sàng vì mỹ nhân mà làm mất ngai vàng như bỡn! Em Nhỏ và các bà nữ quyền còn phàn nàn nỗi gì nữa? Và giả thử như rủi ro thằng đực rựa của Em Nhỏ nó “chết máy”, liệu Em Nhỏ có mời chàng đi chỗ khác chơi dể cho người ta yên tâm mà làm việc “nghiêm chỉnh” hay không? Nếu không thì cũng sẽ cắm dài dài cho nó một cặp sừng có đủ nhánh cành hoa lá xum xuê. Có dám đánh cá với bần tăng về cái vụ cắm sừng này hay không?
Nhưng biết đâu chừng trên cõi đời ô trọc này vẫn còn có được những người đàn bà “thiên thần”, thích yêu cao thượng và khoái những người đàn ông không có “cái đó”. Hơn nữa, các nàng lại còn yêu rất... rât là cao thượng hơn cái bọn đực rựa tham dâm xa lắc: “Em yêu anh bằng tất cả linh hồn. Còn xác thịt của em thì em... để dành cho thằng Mễ. Và em xin hứa chắc với anh là lần sau em sẽ để dành xác thịt của em cho... thằng Tây đen, vì em không phân biệt màu da (khác hẳn với cái ông Kiệt Tấn còn kỳ thị da màu)”. Như vậy đã vừa lòng Em Nhỏ chưa? Em Nhỏ có muốn bắt chước lối sống tình dục “táo bạo trâng tráo” như một vài bực đàn chị nữ quyền của mình đã làm hay không? Da màu hay da không màu nôcôno gì thì bà đây cũng “mời ngài lên ngựa” tuốt hết ráo!
9. Nón sáu: Tự ti
Sau khi cho bần tăng đội cái nón “tham dâm phàm tục”, Tâm thư bèn rọi thêm “Ánh sáng (Phúc âm) phân tâm học lên bọn nình ông: “Tôi không nghĩ họ (các nàng) làm như vậy với mục đích kiểm điểm “cu dài cu ngắn” để mạt sát nam giới - vì nhận xét như vậy vừa hẹp hòi, vừa đầy mặc cảm tự ti từ phía đàn ông”!
Thôi rồi! Phen này thì quả thiệt “Toang hoang ngoài phố chợ”! Ai biểu dại dột đem cái của mình ra mà so đo với cái của “thằng Mễ”! Bắt buộc phải tự ti “thân phận da vàng nhược tiểu” là cái chắc! Hồi mới khởi đọc Tâm thư mấy dòng đầu, bần tăng cứ ngỡ là Em Nhỏ “zất hãy còn nà thơ ngây chong chắng”. Dè đâu Em Nhỏ cũng đã rành hết sáu câu về cái chuyện “cu dài cu ngắn” của nình ông! Đã có thiệt sự trắc nghiệm cái vụ “ngắn dài” hay chưa? Giỏi quá nhỉ! Quả thiệt là hậu sinh khả úy!
Trở lại cái mặc cảm tự ti. Chỉ mới có so với thằng Mễ thôi mà đã tự ti sát mặt đất rồi. Nói chi tới cái ước mơ hão huyền đem “hén” roa mà “đấu xảo” với mấy ông Tây đen - dẫy đầy mấy trăm triệu cái “của lọa” gồ ghề trên cả một lục địa Phi châu rộng lớn! Khi đó chắc chỉ còn có nước mua vài trăm cây số dây luộc về mà thắt họng dài dài từ năm này qua năm khác cũng chưa chắc đã xóa hết được cái tự ti “nỗi buồn nhược tiểu” (còn nói chi tới cái chuyện “xóa đói giảm nghèo”!) Rồi đây các nàng sẽ đá đít hết cái lũ da vàng nhược tiểu đầy mặc cảm tự ti để mà chạy theo cái “của lọa” king size của mấy ông Mễ và Tây đen hết ráo! Thôi rồi! “Thương nữ bất tri vong quốc hận/ Cách giang do xướng Hậu Đình Hoa”! Buồn năm phút!
Viết tới đây, bần tăng bỗng giựt mình chới với và hết sức lo ngại cho đời huê của dân tộc Á-nàm-dành ta: “Nếu bi giờ toàn thể phe nữ của dân tộc ta chợt có sáng kiến đem cái “lủng lẳng” của mình ra mà thi đua (công tác) với cái “bự tổ chảng” của nàng Ma ri lỹnh Hồ ly vọng?” Bần tăng dám đánh cá là sẽ có rất nhiều nàng nữ quyền tự ý gieo mình xuống Niagara Falls mà thác theo dòng thác. Cũng vẫn cái tự ti “da vàng nhược tiểu” dĩ nhiên. Phen này thì chẳng những chỉ có Toang hoang ngoài phố chợ mà sẽ còn banh luôn cái “xà rông” và đứt luôn cái xú chiêng... là cái chắc! Bảo đảm Phố Chợ sẽ chẳng còn sót lại một món gì hết ráo. Y chang như hai cái Twin Towers sau khi bị khủng bố bởi hai chiếc Boeing 747 vậy đó. Sập tiệm!
10. Nón bảy: Đạo đức giả
Tâm thư vẫn tiếp tục “cung oán ngâm khúc” và phàn nàn: “Trong bước khai phá đầu tiên, những nhà văn phụ nữ này nên được sự cổ võ và khuyến khích tận tường, thay vì bị hứng những lời dè bĩu không bằng chứng, thiếu thẩm mỹ và phẩm cách, hay sự cô lập hóa, đạo đức giả và voyeurism của những nhà văn đàn ông Việt hiện thời”
Nữa! Vẫn lại cái trò «rửa mắt hả hê» của bọn đực rựa tham dâm nữa. Các nàng nữ quyền trách cái thằng đực rựa sao nó “ham ngó”, sao nó tham dâm thì chẳng khác nào trách tại sao đàn bà thích làm đẹp, thích chưng diện, tại sao con chó nó sủa, con gà nó gáy vậy. Tự bản chất của nó vốn là như vậy thì trách cái nỗi gì? Sao mà các nàng làm chi cái chuyện chó cắn ruồi bu lẩm cẩm vậy?
Theo cái đà này, bần tăng e rồi đây có ngày thừa thắng xông lên, các bà nữ quyền Giao chỉ ta (trong đó có Em Nhỏ) nửa đêm kéo tới các hộp đêm strip-tease ném ớt bột vô mắt bọn đực rựa Giao chỉ voyeuristes cho cả lũ theo chân sư phụ Văn Vỹ mà quay về cố quận chạy Hông đa ôm. Xong các bà còn đốt luôn cửa tiệm thoát y của người ta. Chừng đó, nếu các bà nữ quyền và Em Nhỏ có bị mấy em vũ nữ sexy vú lớn “cuổng trời” nó đục cho phù mỏ thì phải rán mà chịu. Bần tăng sẽ không dám đổ thủy quân lục chiến xuống can thiệp vào cuộc nội chiến.
Tuy nhiên, khi nghĩ lại thái độ của các bà nữ quyền và Em Nhỏ sao cứ chửi hoài cái trò rửa mắt hả hê của bọn đực rựa, bần tăng không khỏi lấy làm théc méc! Các nàng mặc áo khoe vú (thấy khát sữa!), mặc váy khoe đùi trắng tươi (thấy mà ham!) nhưng lại cấm bọn đực rựa dòm. Các nàng vọc con chem chép đùng đùng vô cùng bắt mắt, nhưng lại cấm bọn đực rựa ngó. Rất hết sức là hợp lý duy vật biện chứng Mác Lê vậy! Hơn nữa, các nàng thừa biết (từ khuya) là thằng đực rựa nó khoái dòm khoái ngó. Đừng có ở đó mà tiếp tục giả đò ngây thơ (bà cụ) nữa. “Em chả! Em chả! Em khoe mặc em! Việc gì tới các anh!” Bộ không biết mắc cỡ hả, mấy em (giả đò) trinh nữ? Trong tình cảnh như vừa nói, thì giữa “người khoe vọc” và “người dòm ngó”, ai mới thực sự là người đạo đức giả? Tuy nhiên, mặc dầu (mặt mỡ) các nàng cự nự cái chuyện “rửa mắt/ voyeurism” của bọn đực rựa như vậy đó, nhưng rủi thời bọn đực rựa bỗng dưng mắc bệnh “lọa” mà trở thành Văn Vỹ hết ráo, thì chừng đó các nàng có tha hồ mà “cuổng trời” và đánh trống dộng chuông ì xèo cũng sẽ chẳng có con ma nào nó ngó. Lúc đó, có lăn ra mà khóc thét lâm ly hay nằm vạ thúi đất thì cũng đã muộn rồi! Hu hu hu...
Bần tăng mà đạo đức giả ư? Thiệt tình mà nói thì “bần tăng không đạo đức giả mà cũng chẳng đạo đức thiệt. Bần tăng không có đạo đức gì hết ráo. Nhưng chẳng phải vì vậy mà không có đạo đức” Nhưng về phần mình, Em Nhỏ lúc nào cũng vẫn luôn luôn thấy mình rất là “đạo đức thiệt” dĩ nhiên. Có soi gương mỗi ngày cũng không hề biết mắc cỡ một chút nào hết.
Nhân nói về cái chuyện “thiệt / giả”, bần tăng xin kể lại lần nữa cái hoài niệm thương động mà bần tăng đã có dịp nói phớt qua trong bài “Xúc cát trước bàn thờ”: Một đêm nọ, trong bóng tối mờ mờ của tiệm karaôkê, một em nhỏ bia ôm xinh như mộng đã gục đầu lên vai của bần tăng mà trách móc não nùng: “Ối anh ơi là anh ơi! Lúc trước chưa quen nhau và chưa có dịp tới gần anh, em cứ tưởng rằng là anh đểu giả. Giờ quen nhau rồi và có dịp tới gần anh, em mới biết là anh... đểu thiệt!” (Trong hoàn cảnh này thì nên (đểu) thiệt hay nên (đểu) giả?) Bần tăng bèn rút cái khăn kleenex còn mới tinh ra lau lệ cho em nhỏ rồi nhẹ nâng khuôn mặt u sầu chưa ráo lệ lên mà nhìn sâu vào mắt em nhỏ. Bần tăng giựt mình chới với: “Mắt em là bể oan cừu”!
Một lần nữa, bần tăng xin tạm ngưng tiết mục Múa nón ở đây. Em Nhỏ sẽ còn “Bần nữ thán” dài dài nữa chăng? Ông Thầy Chùa sẽ bị điểm huyệt và phế hết võ công hay không? Muốn biết chuyện sau thế nào, xin bà con đón xem hồi kết cuộc của thiên tình sử kiếm hiệp “Cô gái còi lông” sẽ rõ.
Nghĩ lai rai - Sáu
1. Cái đặc biệt trong cách hành xử (hành động và xử trí, comportement/ behaviour) của con người, khiến cho con người khác hẳn với con thú: Cái Ác.
2. Con người cũng có làm điều thiện. Nhưng than ôi! Cái điều thiện đó không bù kịp cái ác mà con người hùng hục tạo ra mỗi ngày. Cái hành thiện của Mẹ TêRêZa làm sao bù kịp quả bom nguyên tử ném xuống Hiroshima ở Nhật Bản? Cái bố thí của Sơ Emmanuelle làm sao bù kịp những cuộc thảm sát hằng chục triệu người do Công giáo gieo rắc hoặc bao che ở Nam Mỹ ngày trước? Một khi thiện ác mất quân bình quá trớn, thế giới con người sẽ sụp đổ.
3. Vũ trụ, muôn vật, muôn loài đâu đợi gì tới con người giải thích và ban cho ý nghĩa mới có đó, mới hiện hữu. Tất cả đều có từ khuya, từ lúc con người chưa có mặt trên trái đất này.
Chớ cho rằng mình giải thích (chắc gì đã đúng?) và khai thác được một số hiện tượng trong Trời Đất mà vỗ ngực thùm thụp «Ta đây»! Rồi hách cái bản mặt lên trời hiu hiu tự đắc, coi Trời bằng vung. Rồi cứ tưởng bở rằng Ta đây đã «rành hết sáu câu vọng cổ» mọi chuyện trong Trời Đất. Rằng Ta đây có cái «Đỉnh (cứt) cao trí tuệ» trong đầu! Coi chừng chết không kịp ngáp đó nghe em Hai. Nên nhớ kỹ điều này: không có con thú nào, không có một vật nào cần đến con người để hiện hữu. Nhưng ngược lại, con người tối cần đến muông thú và mọi vật khác để hiện hữu trên mặt đất này.
4. Để khép thế giới vào đầu óc bẩn chật của mình cho dễ hiểu, con người chia cắt và đặt tên cho sự vật. Và cái thế giới dựa trên nhãn hiệu đó, chính nó là thế giới giả hiệu và hỗn mang tột bực của con người.
5. Mọi người ai ai cũng đều biết phân tích cái khổ ải của con người và chung chung mọi người đều đồng ý phải đi tới giải pháp công bình bác ái. Nhưng than ôi! Không một ai thành thật mong muốn và thực hiện giải pháp ấy vì nó bất lợi cho mình và bè đảng mình. Cái lối hành xử đó của con người, chính nó là đạo đức giả và đểu ác / cynisme.
6. Yêu cao thượng: «Em yêu anh bằng tất cả tâm hồn. Còn cái xác thịt của mình thì em để dành cho… người khác».
7. Ca dao cổ truyền: «Của phi nghĩa có giàu đâu / Ở cho ngay thật giàu sau mới bền»
Ca dao cách tân: «Của phi nghĩa có giàu đâu / Ở cho ngay thật… nghèo lâu thấy bà»!
8. Đại hội múa nón
Thiên tình sử kiếm hiệp “Cô gái còi lông” sắp đến hồi kết thúc. Sân khấu về khuya càng lúc càng gay cấn, những màn Múa nón kết thúc chương trình càng lúc càng huyền ảo ly kỳ và lâm ly ngoạn mục.
Nón tám: Phản động
Thấy mình đã đội cho ác tăng không biết bao nhiêu là cái nón mà ông Thầy Chùa vẫn cứ trơ trơ, vô cùng Mỹ Ngụy ác ôn, ngoan cố và phản động, Em Nhỏ bèn trổ tuyệt chiêu: Làm Kách Mệnh!
Phải, Em Nhỏ phất cờ cách mạng mà khởi nghĩa. Không phải cách mạng đỏ (vô sản), không phải cách mạng xanh lục (môi sinh), mà là cách mạng... Xanh Dờn. “True Blue”! Ý nghĩa của cách mạng “xanh dờn” là thế nào, bần tăng cũng bù trất. Tuy nhiên, nhìn thấy lá cờ xanh dờn phất phới trong gió lộng, hơn nữa dưới bóng cờ xanh lại có thêm hai Bà (Trưng) Phạm Thị Hoài và Dương Thu Hương cỡi voi, khí thế vô cùng hùng dũng và rất ư là “Chống Mẽo Kíu Nước”, bần tăng hoảng quá nên cũng lật đật mở kho báu lôi cây cờ từ lâu bỏ quên của mình ra mà phất loạn xị: Cờ Cách Mạng Không Màu. Nô cô-no! Phát âm đúng giọng Mẽo là “No colors”!
Cờ “Cách Mạng Không Màu” vô cùng đặc biệt. Người phàm mắt tục không bao giờ nhìn thấy được. Có đeo kiếng mát Ray Ban (registered) loại cao cấp vô rồi ngước lên mà “nhắm mắt ngó (cũng) chỉ thấy một chân trời tím ngắt”, kỳ dư không thể trông thấy được cờ: Quả thiệt là Cách Mạng “True no colors” chính cống! Bèn gỡ kiếng Ray Ban ra lau chùi cẩn thận rồi “nhắm mắt... nhắm mắt (bỗng) rờ trúng một cái gì cứng ngắt!” nàng thoắt nhiên rụng rời, tim đập trật nhịp mà... thở dài sườn sượt.
9. Nón chín: Chậm tiến
Rồi cuối cùng, việc gì phải đến! Tâm thư hạ lệnh: “Đã đến lúc chúng ta phải ra khỏi hang tối của huyền thoại Plato!” Khẩn trương lên! Khẩn trương lên! Sao bỗng nhiên Em Nhỏ đem cái hang tối Plato của ông Hy Lạp (xưởng) ra mà hù bà con ta làm chi vậy? Bởi lẽ bà con ta chỉ biết tới cái Hang Thánh Hoá của bà Hồ Xuân Hương là cùng: “Lườn đá cỏ leo sờ rậm rạp/ Lách khe nước rỉ mó lam nham”. Thấy mà ham!
Nghe Em Nhỏ hét lớn, bần tăng bỗng giựt mình! Phải ra khỏi hang? Vậy hả? Mà hang nào mới được? Bấy lâu nay, bần tăng những tưởng là mình đã ra khỏi cái hang tối từ khuya, và đang ở trong một cái hang khác... còn tối hơn nữa. Những tưởng cuộc đời mình đã “lên hang” (ông nội ta tên Hương nên kỵ húy), dè đâu mình vẫn còn kẹt ở trong hang, cho nên cuộc đời mình vẫn chưa thể... lên hang nghi ngút được. Chừng giác ngộ mới biết mình hãy còn chậm tiến hơn Bush Con mấy mươi thế kỷ. Nhưng hãy đề phòng cẩn thận đó Em Nhỏ ! Nhiều lúc loài người cứ tưởng bở rằng một khi mình đã ra khỏi cái hang động tiền sử thô sơ để chui vào cái hang động văn minh có gắn máy lạnh thì chắc chắn là cuộc đời mình đã “lên hang” (thấy rõ)! Nhưng hãy nhìn kỹ lại mà coi: cái hang nào dã man hơn cái hang nào? Cái hang trong đó người ta đánh nhau bằng chày đá hay cái hang trong đó người ta đánh nhau bằng vũ khí nguyên tử?
Tuy nhiên, bần tăng cũng xin lưu ý bà con ở một điểm vô cùng quan trọng: Em Nhỏ nói cái hang tối ở đây là cái hang của Plato, chớ không phải cái hang của Pluto, con ông Oảnh Đít Nây. Bởi lẽ nếu hiểu lầm như thế í thì chỉ còn ước mong sao cho mình ra khỏi được cái chuồng “Cờ Tây” của mấy ông Bắc kỳ răng đen mã tấu, tưởng cũng đã nà quý nắm zồi! Nhưng nói gì thì nói, dân Giao chỉ đực rựa ta vẫn khoái ở lại tử thủ trong cái hang Thánh Hóa của Bà Hồ Xuân Hương hơn hết: “Đến mới biết rằng hang Thánh Hóa/ Chồn chân mỏi gối vẫn còn ham!” Là cái chắc!
10. Nón mười: Điếc không sợ súng!
Nhưng một khi đã đến mức ăn thua rồi thì Tâm thư cũng đành phải dứt điểm: “Họ (nình ông) phải đi theo ánh sáng và tiếng thét vỡ không gian của người đàn bà để gặp tương lai đang chờ đón bên ngoài”! Ghê chưa! Có đi theo “Bà” hay không thì bảo?
Bớ các chiến hữu nình ông! Những Nguyễn Xuân Hoàng, Nguyễn Đình Toàn, những Nguyễn Văn Lục, Trần Nghi Hoàng, những Nguyễn Hưng Quốc, Cổ Ngư! Có nghe chăng “tiếng thét vỡ không gian” của người nình bà để mà chuẩn bị “xếp bút nghiên lên zường chanh đấu”? Sao không nghe ừ hử gì hết vậy? Bộ điếc hết rồi hả mấy cha nội? Cứ để nàng thét khơi khơi một mình hoài không sợ nàng khan cổ mà tắt tiếng hay sao? Orange juice, please!
Hồi ở Việt Nam trong thời chiến quốc, đã có người nình ông đòi “đâm nổ mặt trời”. Bần tăng hoảng quá bèn di tản chiến thuật, đóng thuyền vượt biên. Giờ ra tới hải ngoại, lại đụng độ với người đàn bà “thét vỡ không gian”. Quả thật là phước bất trùng lai, họa vô đơn chí. Theo cái điệu này, riết rồi bần tăng không biết có còn chỗ nào an ổn để cắm dùi dựng chùa đất thanh tịnh, ngõ hầu có thể rút vô đó tịnh tâm mà tu hành không sợ nghe ai la hét, cho mau mau thành chánh... quỷ. “Trời cao có thấu! Cúi xin người ban phước cho đời con.”
Em Nhỏ xúi bần tăng đi theo ánh sáng (Phúc Âm) và “tiếng thét vỡ không gian” (bốn chiều) của người đàn bà theo kiểu này hại cả một cuộc đời tu hành vất vả và vô cùng đạo hạnh của bần tăng đó biết không? Bởi lẽ ngày nào bần tăng cũng nghe đều đều “tiếng thét vỡ màng nhĩ” của bà xã yêu dấu để kịp thời đánh kiệu hoa ra đón rước nàng trọng thể ở siêu thị không đèn. Bao nhiêu đó mỗi ngày cũng đủ mệt ngất ngư rồi! Nay lại chợt nghe từ đâu vẳng tới “tiếng địch thổi nghe chừng đồng vọng/ hàng cờ bay trong bóng phất phơ” của Em Nhỏ, bần tăng bỗng nghẹn ngào tê tái con tim và vô cùng kinh tâm bạt vía! “Lên voi túc một tiếng còi/ Thương con nhớ vợ, lịnh đòi phải đi!” Đi nhưng không biết mình sẽ về đâu khi bóng hoàng hôn phủ kín chân trời tím. Biết đi về đâu, khi không gian đã bị Nữ chúa thét vỡ mất rồi! Nhưng cũng phải đành nhắm mắt nhắm theo hướng Ánh Sáng Phúc Âm đi đại. Chết bỏ! “Đánh liều nhắm mắt đưa chân/ Thử xem con tạo xoay vần đến đâu”. Nghe theo lời xúi giục của Em Nhỏ và nghe theo “tiếng thét vỡ không gian” của Nữ chúa để đi gặp gỡ tương lai theo kiểu này thì bần tăng xin dằn cơn hồ hởi xuống mà khải tấu thiệt tình: “Thà đi... ăn phở sướng hơn!”
Tuy nhiên, nếu không đi thì làm sao mà gặp gỡ được tuơng lai vô cùng xán lạn như Em Nhỏ hứa hẹn. Một lần nữa, lại đành phải “giã nhà ôm cái áo màu/ thét roi Cầu Khỉ ào ào thây ghê" mà đau lòng ra đi. Và thêm một lần nữa, lại đành phải hẹn Em sơn nữ Phà Ca ngày giải phóng quê hương dưới chưn đồi sim tím... có con cù lần màu xanh ngơ ngác đạp trên lá vàng khô queo... (Đèn xanh phựt đỏ. Đèn đỏ phựt xanh. Màn từ từ hạ...) Music! Please!
Bái bai Em Nhỏ!
“Đến đây là chấm dứt... chương trình của ban Tùng Lâm...” Nếu sau khi coi cho tới hết tuồng Đại hội múa nón ly kỳ ngoạn mục mà bà con ta vẫn còn bất mãn (tình dục) đòi trả vé lấy tiền lại thì xin chịu khó xếp hàng làm cơ chờ tới phiên mình. Vì bởi mười màn Múa nón có chất lượng hoành tráng do Em Nhỏ tận lực thi công pỉu diễn trước dân tộc Rồng Tiên còi lông tróc vảy anh hùng của ta đã làm ngứa mắt vô cùng cao cấp và “rất có cơ sở” của 99,99 phần trăm khán giả!
Nghĩ lai rai - Bảy
1. Cái gì có mặt trên đời cũng đều có cái lý do riêng của nó để hiện diện. Phán rằng nó phi lý hoá ra chẳng phải tại vì mình ngu muội nên không thấy được cái lý do hiện diện của nó hay sao ?
2. Người ta thường lầm tưởng cái tên gọi chính là đồ vật. Không ai có thể no thân ấm cật với hai tiếng “cơm áo”. Sự lừa đảo này đã và đang được áp dụng triệt để dài dài trên sân khấu chính trị. Vậy mà vẫn có khối người tiếp tục bị lừa gạt dài dài. Có khi bị lừa gạt hết sức trắng trợn mà vẫn cứ rên sướng hù hù. Hiểu không nổi!
3. Khởi đầu, người ta dùng sự phân tích làm phương pháp để tìm hiểu sự thật. Khi tưởng rằng mình đã hiểu, người ta lại lầm tưởng phương pháp đó là chân chính và cái tìm được đúng là chân lý. Nhưng khi xét kỹ lại thì cái tìm được chỉ là kết quả của phương pháp sử dụng. Bởi lẽ nếu sử dụng một phương pháp khác người ta sẽ tìm được một kết quả khác hẳn. Và cái mà người ta tưởng là đã giải thích được, đã thấu đáo được, nghĩ cho cùng nó cũng chỉ là một sự diễn giải/ interprétation, như mọi diễn giải chủ quan và cá nhân khác mà thôi. Chẳng có cái nào là chân lý hay... cẳng lý gì hết ráo.
4. Thượng đế lấy hình ảnh mình để tạo ra con người hay con người lấy hình ảnh mình để tạo ra Thượng đế? Thử để ý mà xem: Chúa Trời ở Âu châu thì làm bằng gỗ trắng, Chúa Trời ở Phi châu thì làm bằng gỗ đen. Chừng nào thì mấy ông Cắc Chú lấy gỗ vàng mà tạc tượng Chúa Trời đây?
5. Bần tăng có một cô bạn gái học chung tại Vĩnh Long từ đệ thất lên tới lớp đệ tứ. Sau đó bần tăng rời bỏ Vĩnh Long sang Mỹ Tho, lên Sài Gòn, kế đến xuất ngoại du học bên Canada. Rồi tiếp theo là chiến tranh đằng đẵng 20 năm trên quê hương. Rồi bặt tin nhau. Rồi vượt biên năm 1975. Cho tới năm 2005, bần tăng trở về quê hương và ghé thăm Vĩnh Long, thấy cô bạn xưa vẫn còn một mình lẻ bóng. Khi ôn lại tuổi trẻ, cho tới lúc ra đời, yêu đương, cưới hỏi, cô bạn yêu dấu vẫn trưng ra độc nhứt câu trả lời như cái ngày còn mài đũng quần ở trung học: “Hoàn cảnh chưa cho phép!”
Gần đây nhứt, một cô bạn hảo tâm ở Pháp đã ân cần lo hết mọi thủ tục cho cô bạn lẻ bóng của mình sang Pháp chơi: xin sổ thông hành, xin visa, làm giấy bảo lãnh, đổi ngoại tệ, book vé máy bay Air France khứ hồi. Chỉ cần bước chưn ra khỏi nhà là sẽ tới Paris ngay trong vòng mười sáu tiếng. Ấy vậy mà cô bạn thân yêu vẫn án binh bất động. Hỏi tại sao, vẫn được cô bạn đơn chiếc trả lời bằng cái bài học thuộc lòng đã quá date từ trước thời giải phóng: “Hoàn cảnh chưa cho phép!” Bần tăng bèn hỏi cà rỡn: “Cô đã làm đơn xin phép hoàn cảnh chưa?” Được đáp: “Anh hỏi gì mà kỳ dzậy!” Xong lại lui về hậu trường tử thủ chờ hoàn cảnh cấp giấy phép xuất ngoại. Quả thiệt là: “Chờ anh (hoàn cảnh) em quá sức chờ / Chờ cho rau muống lên bờ trổ bông”!
6. Ca dao cũ: “Chị kia bới tóc đuôi gà/ Nắm đuôi chị lại hỏi nhà chị đâu?”
Ca dao mới: “Chị kia bới tóc đuôi chồn/ Nắm đuôi chị lại hỏi…” (A di đà Phật, bần tăng xin nhường cho bà con ta làm tiếp cho hết câu thơ tám chữ và bà con ta hãy rán mà chịu cho mấy bà nữ quyền đục cho phù mỏ! Không còn một cái răng nào để mà húp cháo!)
7. Một dạo nọ, liên tiếp cả tháng trời, hễ cứ nhắm mắt ngủ là bần tăng nằm chiêm bao thấy đàn bà ở truồng. Cả người gầy ốm xanh xao. Quá lo sợ, bần tăng đi khám bác sĩ tâm lý. Sau khi lắng nghe tự sự, bác sĩ bèn làm trắc nghiệm.
Bác sĩ vẽ một cái hình chữ nhựt đưa ra hỏi: “Anh nhìn thấy gì?” Bần tăng: “Tôi thấy một người đàn bà ở truồng nằm trên cái giường hình chữ nhựt”. Bác sĩ vẽ một cái hình vuông: “Anh nhìn thấy gì?” Đáp: “Tôi thấy một người đàn bà ở truồng nằm trên cái giường hình vuông”. Bác sĩ vẽ một hình tròn: “Anh nhìn thấy gì?” Đáp: “Tôi thấy một người đàn bà ở truồng nằm trên cái giường hình tròn”. Bác sĩ gật gù kết luận: “Anh bị ám ảnh tình dục nặng. Nhìn cái gì anh cũng đều nghĩ tới chuyện dâm dục”. Bần tăng phản đối: “Tôi mà nghĩ tới chuyện dâm dục? Chỉ có bác sĩ khoái vẽ hình tục tĩu thì có!"
8. Khi đẻ con, mọi con thú mẹ đều liếm con mình cho sạch sẽ và úm con mình trong lòng cho nó đủ ấm. Chỉ ở cõi người mới có hiện tượng người mẹ đẻ con xong bèn bỏ vô tủ đá mà... đông lạnh.
9. Không có thời gian nào khác hơn là thời gian hiện tại. Dĩ vãng và tương lai cũng nằm trong hiện tại. Dĩ vãng cô đọng lại thành hiện tại. Và từ hiện tại phát xuất ra tương lai. Người ta chỉ có một cách sống duy nhứt: sống trong hiện tại. Kỳ dư, tất cả các lối sống khác đều là hoang tưởng.
Chẳng hạn ngày 23 tháng chạp vốn là ngày đưa ông Táo về Trời mà vẫn có nhiều người lớn và nhiều đấng con nít ke “hoang tưởng” là mình đang ăn tết! Thiệt ra, chỉ khi nào ngày mùng một tháng giêng trở thành hiện tại thì người ta mới có thể ăn tết được thực sự mà thôi.
10. Tự do được thể hiện bằng sự lựa chọn. Sự lựa chọn phát xuất và dựa trên hoàn cảnh và điều kiện. Nhưng than ôi! Cái hoàn cảnh đó và cái điều kiện đó thường khi lại không do mình lựa chọn. Vậy mà con người vẫn khoái nghĩ rằng mình có tự do tuyệt đối: cái gì cũng tự mình lựa chọn và do mình quyết định hết cả.
Tự do tuyệt đối? Một ảo tưởng tuyệt đối! “Tự do tuyệt đối” là một dạng thức ích kỷ trá hình. Nó cho thấy một ý thức tự do còn ấu trĩ. Giống hệt như đứa con nít muốn ăn thì ăn, không muốn ăn thì nhả, trái ý thì khóc, vòi vĩnh không được thì lăn ra nằm vạ, tự (do) biên tự (do) diễn mình ên. Khi lớn lên, nếu không chịu ý thức thì sẽ cứ tiếp tục diễn tuồng con nít dài dài. Hơn thế nữa, lại còn le lói khoái nghĩ rằng mình có “tự do tuyệt đối” để (hiu hiu) có cảm tưởng rằng mình “muốn làm gì đó thì cứ làm”. Mình là một loại Thượng Đế “bỏ túi”. Ngon lành chưa?
“Thì qua khoái nghĩ vậy cho nó le lói với bà con mà em Hai! Thắc mắc với qua mà làm chi!”
Nghĩ lai rai - Tám
1. Phép mầu có thiệt! Sự tiến hoá trên địa cầu đã làm xuất hiện hai loài có vú biết bay: loài dơi và nữ tiếp viên hàng không. Loài thứ hai xinh đẹp như tiên và vô cùng hấp dẫn, nhưng không phải vì biết bay đâu nhé!
2. Nếu viết: “Đứa nhỏ âu yếm bú vú mẹ và sờ vú mẹ” ắt sẽ được ngợi khen là viết gợi cảm (muốn rớt nước mắt). Còn như viết: “Người chồng âu yếm bú vú vợ và sờ vú vợ” thì bảo đảm sẽ bị chửi liền là viết nhảm nhí. Nhảm nhí? Thì cũng chỉ là cái chuyện ấy và cũng ngần ấy động tác mà thôi. Có đấng ông chồng nào dám hiên ngang vỗ ngực chối phắt là “Em chả! Em chả!” không? Kể cả bà xã nữa. Từ ngàn xưa cho đến những nay, thằng đàn ông vẫn muôn đời là đứa con nít... chưa dứt sữa! Ô kê Sa Lem (Sao anh làm em mệt)?
3. Lỡ bước sang ngang cũ: “Em ơi em ở lại nhà/ Vườn dâu em hái, mẹ già em thương”.
Lỡ bước sang ngang mới: “Em ơi em ở lại nhà/ Vườn dâu em đốn, thịt gà xé phay”.
4. “Đất nước ta hễ bước xuống phố là gặp anh hùng!” Cứ chạm mặt anh hùng theo kiểu này tối ngày thì chắc chắn sẽ có chầu bị thằng anh hùng nó đục cho phù mỏ. Và hơn thế nữa: Bảo đảm đồng bào ta sẽ đói nhăn răng dài dài để mà vô cùng le lói và hãnh diện về cái đất nước vô địch anh hùng “Chống Mẽo kíu nước” của mình. “Ta thà chết chớ không hề lui!". Cứ nhất quyết như vậy thì bảo đảm sẽ chết nhăn răng là cái chắc, có gì mà phải ngạc nhiên? Dĩ nhiên chết nhưng mà là chết một cách anh hùng: Một anh hùng chết thẳng cẳng! Hách cái mặt lên trời cao mà hãnh diện là quá đúng! “Bộ không sợ bị trời đánh hả cha nội”?
5. Cảnh: Phòng mạch của một bác sĩ đông khách. Để tiến hành công tác khám bịnh nhanh chóng, các bịnh nhân đều bắt buộc phải cởi truồng sẵn sàng. Nữ một bên, nam một bên, hai phòng chờ riêng biệt. Bên nam, ông thứ nhứt mở miệng than: “Tui chỉ đứt có chút xíu ở đầu ngón tay mà bác sĩ bắt tui phải cởi truồng. Thiệt là kỳ cục!” Ông thứ nhì: “Còn tui đây thì sao? Tui chỉ đổ ghèn có một con mắt mà bác sĩ cũng bắt tui phải cởi truồng. Cái đó mới thiệt là kỳ cục!” Ông thứ ba: “Ối! Hai ông mà nhằm nhò gì! Tui chỉ tới đây để phát có một cái thơ bảo đảm mà cũng bị bác sĩ bắt phải cởi truồng đây thì sao!”
6. Điểm văn chương nước ta. Khi nói về quê hương chỉ thấy phe ta ca tụng “Quê hương nghèo đói”. “Quê hương lửa khói”. Khi nói về bà mẹ chỉ thấy ca tụng “Mẹ già còm cõi, áo rách vá vai” Sao không thấy ca ngợi “Mẹ ta bận áo sạch, trồng đủ răng và ngồi ăn hủ tíu tôm cua một cách ngon lành”? Ca ngợi cái đó thử coi, có chết thằng Tây nào đâu mà sợ? Sao dân tộc ta vẫn thích ca ngợi hoài những thứ “không khá”? Vẫn hát hoài hoài cái bài lô xíttơry: “Ối cuộc đời đéo khá!... Vì đời đéo khá nên nói rõ ràng cuộc đời đéo khá!...”
7. Thêm nữa, khi nói về các cô gái thì các nghệ sĩ cứ ca tụng “Dáng em gầy gầy, gầy tay năm ngón, tóc xõa vai gầy, môi gầy nức nở, vân vân” Được lắm! Thì cứ để các em có da có thịt phây phây, có đôi vú thơm lủng lẳng, có cái gò mông núng nính vô cùng gợi cảm đó cho bần tăng. Bần tăng xin muôn tạ ơn lòng. Ối các em phây phây sao mà nó mát da mát thịt đến thế! Như cái máy lạnh tốt bụng mở rỉ rả làm dịu mát cả một trưa hè nắng gắt... củ kiệu. Maria hỡi! Linh hồn con ớn lạnh!
“Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên”. “Rờ mềm mềm, bóp êm êm... Rờ một cái muốn rờ thêm. Hè về! Hè về!... Khắp nơi hè về! Hè về!...”
8. Nghệ sĩ mù Văn Vỹ bây giờ đã bỏ nghề đờn vọng cổ chuyển qua nghề chạy hông-đa ôm: Từ ngày giải phóng vô, cha nội sáng mắt ra rồi!
9. Một bạo chúa muốn trở thành bạo chúa phải có vô số đồng loã. Nhiều khi chính các nạn nhân là đồng loã của bạo chúa chớ chẳng ai khác. Gẫm lại, có phải đôi khi chính chúng ta mài búa cho đao phủ để hắn chém đầu mình cho ngọt? Rồi trách sao mà thằng đao phủ nó lại quá nhẫn tâm! Dầu cho có rụng xuống đất một cái “bịch” và lăn lông lốc, cái đầu rơi vẫn cứ tiếp tục còn ngu... can không nổi!
10. Kiều: “Rằng nghe nổi tiếng cầm đài/ Nước non luống những lắng tai Chung Kỳ”
Lẩy Kiều: “Rằng nghe nổi tiếng cầm đồ/ Nước non bao hiệp cố vô tiệm vàng”
Nghĩ lai rai - Chín
1. Nhiều người có ảo tưởng rằng mình nắm được sự thật lịch sử. Thiệt ra, cùng lắm là chỉ nắm bắt được một số sự kiện (coi như) có thật (chắc không?) qua các tài liệu (thiệt hay giả?) Còn những gì xảy ra trong đầu, trong tâm lý đã dẫn tới hành động của các diễn viên lịch sử, ai dám hiên ngang vỗ ngực rằng ta đây “rành hết sáu câu vọng cổ”? Bộ ngon lành lắm hả cha nội? Sao mỗi lần mở miệng ra là cứ hiu hiu cho rằng ta đây phun ra “sự thật lịch sử” một chăm phần chăm? Vả lại, “sự thật lịch sử” là cái đếch gì? Đâu ai đó định nghĩa thử coi?
2. Ca dao cổ truyền: “Đi đâu cho thiếp theo cùng/ Đói no thiếp chịu lạnh lùng thiếp cam”
Ca dao cách tân: “Đi đâu cho thiếp theo cùng/ Đói no thiếp chịu, vô mùng... thiếp cũng vô”
3. Đố vui để chọc: Trong muôn loài có vú, tại sao chỉ có loài người, khi làm tình, con đực lại sờ vú con cái? “Thứ đồ mắc dịch!” Đố bà con ta chớ loài gays có sờ vú người phối ngẫu khi làm tình hay không? Ai rành cái vụ này xin làm ơn gỡ rối tơ lòng cho bà con ta hết théc méc.
4. Trong thế giới ngày hôm nay, tình cảm càng lúc càng được liệt vào hàng yếu hèn, khiếp nhược, cần phải loại bỏ vì nó đưa ta vào thế yếu và gây xáo trộn trong mọi tổ chức.
Người hùng bi dờ là phải “chì”, rất chì, phải dửng dưng, phải vô cảm, phải biết trơ trơ đạp lên hết đầu mọi người để tiến tới thành công cá nhân của mình. Thành công trở thành một thứ Tôn giáo siêu việt của mọi người trong xã hội chúng ta ngày hôm nay. Phải thành công bằng bất cứ giá nào mới xứng đáng là một tín đồ ngoan đạo của Tôn giáo Thành công. Nếu cần, bắt cả vợ con đi làm đĩ nơi quyền thế để bắc cầu thành công cho cá nhân mình.
Ngay trong lãnh vực yêu đương nam nữ cũng vậy. Phải gạt bỏ hết mọi tình cảm để nắm phần chủ động, ngõ hầu đè bẹp đối phương. Lên giường “đục đẽo” thì cứ tha hồ, nhưng còn “tình cảm” thì nhứt định là không. Không có tình cảm lãng mạn lãng miết gì hết ráo! Ngay cả trái mít của bà Hồ Xuân Hương cũng phom phom tuyên bố: “Nếu em có tươm nhựa là cũng chỉ để tươm nhựa chơi vậy thôi. Em không có sướng khoái hoặc rung động chi chi hết. Bọn đực rựa macho chớ có “hiểu lầm tai hại”! Làm tình với em thì cũng y chang như là làm tình với một trái mít lỏng bỏng nhựa mít vô cảm mà thôi!” Và cuối cùng trái mít cũng hạ anh macho đo ván dài dài... dài dài... Một cách lạnh lùng và tỉnh táo. “Và người đàn bà trong tôi sung sướng reo cười”! Như một serial killer! Do đó, phải nhớ thảo trước di chúc của mình để lại cho đời trước khi lên giường “xơi trái mít (đặc)” vô cảm, phớt tỉnh Ăng lê, cù mãi chả chịu cười.
5. Nhân loại đã trải qua hai lần thảm họa. Thảm họa thứ nhứt: Có thằng làm tài khôn chế ra cái đồng hồ.
Thảm họa thứ hai: Cái thằng làm tài khôn tuyên bố “Thời giờ là tiền bạc”
Sau hai lần đại họa ấy thì con người không ai còn có thời giờ được nữa. Kết quả: rất nhiều người bị bức xúc, đứt nút, bất túc, tai biến mạch máu não, đứng tim, đái đường đái xá! Để tiết kiệm thời giờ.
6. Một buổi chiều nọ, thằng lỏi Joseph đội da cu trên đầu tất tả chạy ào vô nhà, hào hển nói với ba nó: “Ba... ơi! Ba... ơi!... Bữa nay con... con... không đi xe buýt... Con chạy theo... theo... xe buýt để về... về... nhà... Con tiết kiệm... tiết kiệm... được một đồng...” Thằng cha của Joseph bèn xáng liền cho thằng nhỏ một bạt tai thấy 36 ngọn đèn: “Đồ ngu! Sao mầy không chạy theo xe taxi? Chạy theo xe taxi thì mày tiết kiệm được tới 20 đồng. Sao mà mày ngu quá vậy?”
7. Thơ TTKH: “Người ấy thường hay vuốt tóc tôi/ Thở dài những lúc thấy tôi vui”
Nhái thơ TTKH: “Nàng ấy thường hay vuốt củ tui/ Thở dài khi thấy củ... đen thui”
8. Rất nhiều người trong chúng ta muốn thay đổi đời sống theo ý mình (để đạt tới hạnh phúc riêng tư?) Nhưng rất ít người làm cho đời sống thay đổi theo ý mình được.
Bần tăng trộm nghĩ: “Nếu không thay đổi được đời sống thì tốt hơn ta nên thay đổi cách nhìn của mình về đời sống”. Thay đổi cách nhìn đời sống hầu như lúc nào cũng dễ dàng hơn và khôn ngoan hơn là tốn hao sức lực để cố gắng thay đổi đời sống và thất bại ê chề. Từ xưa đến nay, đời sống có đó không phải để chìu ý mình đâu. Vả lại, cho dù có thay đổi được đời sống theo ý mình đi chăng nữa thì cũng chưa chắc gì đã tốt cho mình và tốt cho mọi người khác. Tham vọng là cái đáng cho ta dè dặt và cẩn trọng. Tham vọng thường phát sinh từ lòng ích kỷ chỉ nhằm phục vụ cho mình. Nào có hay ho tốt lành gì đâu!
9. Giữ thể diện cho khỏi mất mặt bầu cua: “Dù hèn cũng thể, dù bể cũng còn kêu cành cạch”.
10. “Các ngõ đường của Đấng Cứu Thế không thể nào bước vô được”. Ê! Ê! Tui đang kiếm đường để đi ra mà chưa được đây cha nội!
Nghĩ lai rai - Mười
1. Đàn bà chỉ thích nghe những gì mà nàng muốn nghe. Rồi trách sao mình cứ bị thằng đực rựa bất lương nó nói dóc, nó lường gạt ái tình, làm rách nát, tơi tả, tiêu tùng cả một đời huê!
2. Thơ Bà Huyện Thanh Quan, Chiều hôm nhớ nhà: “Trời chiều bảng lảng bóng hoàng hôn/ Tiếng ốc xa đưa lẫn trống dồn/ Gát mái ngư ông về viễn phố/ Gõ sừng mục tử lại cô thôn”
Nhái thơ Bà Huyện: “Trời chiều bảng lảng bến Hàm Dương/ Bún ốc rao vang khắp phố phường/ Gát mái xe lôi ngồi tréo ngoảy / Gõ sừng vợ cắm thấy thêm thương!”
3. Trân trọng: “Mời bác xơi cơm”. Khoát tay: “Cám ơn bác! Nhà cháu xơi zồi”. Đ.m.! Đói chết mẹ mà còn bày đặt xĩ ziện!
4. Cũng như muôn loài, con người là con đẻ của trái đất. Con người thuộc về trái đất chớ không phải trái đất thuộc về con người. Từ xưa đến nay, cũng bởi con người (và Kinh Thánh) cho rằng “trái đất thuộc về con người” nên con người tàn phá trái đất không thể tưởng tượng nổi: tha hồ mà khai thác, tha hồ mà “quậy”, tha hồ mà xả rác, tha hồ mà gây ô nhiễm... Bây giờ đứng trước những vấn đề nan giải bèn ngửa cổ lên trời khóc ba tiếng cười ba tiếng mà than rằng: “Than ôi! Trời đã hại Sa Vệ!” Xong Sở Bá Vương Hạng Võ xuống một câu vọng cổ thiệt mùi rồi rút gươm ra mà cắt lấy đầu mình giao cho ông Đình Trưởng lái đò để đem đi nộp cho Lưu Bang mà lãnh thưởng 1000 cây - tha hồ mà đi bia ôm và bao gái. Có chết cũng quả thiệt là đáng kiếp. Understand? Comprendo?
5. Bữa nọ, một đấng đực rựa tới phòng mạch hỏi bác sĩ tâm lý: “Thưa bác sĩ, mấy lúc gần đây, ngồi trong công viên, khi có đàn ông tới ngồi gần, em cảm thấy trong người em rạo rực. Em sợ mình sa ngã, bác sĩ khuyên em phải làm sao?” Bác sĩ: “Thì những lúc đó anh đứng dậy mà bỏ chạy cho thiệt lẹ”. Đấng đực rựa cắn móng tay đỏ mặt ỏn ẻn: “Thưa bác sĩ, nhưng lúc đó em mặc váy bó sát thì làm sao mà chạy lẹ cho được?”
6. Kể từ lúc con người biết bày đặt đúc ra tiền đồng và in ra tiền giấy, con người trở nên nghiện nặng: nghiện tiền. Nghiện chết bỏ!
Người nghiện ngập tìm đủ mọi cách để thu hoạch cho thiệt nhiều “ma túy” và trở nên giàu có hầu le lói với bà con. Khi đã giàu có rồi thì đứa giàu bèn tung “ma túy” ra cho những đứa nghèo để bọn nó tập tành chích choác và phục vụ ông chủ hết mình. Cho tới lúc bọn này trở nên nghiện nặng và chạy theo ma túy y chang như ông chủ của mình vậy. Dần dà, tất cả nhân loại đều lây nhau mà nghiện ngập: nghiện tiền! Rồi giành giựt ma túy với nhau, gây ra chiến tranh triền miên. Mút mùa lệ thủy!
Mọi cuộc tranh chấp của con người, với bất cứ lý do “cao đẹp” nào, chung quy cũng nhằm để tranh giành tiền tài và quyền lực. Mọi lý do “cao đẹp” trưng ra cũng chỉ nhằm “mà con mắt” thiên hạ mà thôi.
7. Ni cô của bần tăng có một đứa em gái ngoại họ rất ham thành Phật. Quanh năm nó ăn chay trường và đóng cửa gõ mõ năn nỉ Thánh Thần cho mình mau mau được lên Thiên đàng.
Năm nọ, ở một tỉnh lẻ bên Pháp có một thằng cà chớn tự xưng mình là vị Cứu tinh Của Nhân loại, và tiên đoán rằng ngày 10 tháng Mười năm đó sẽ là ngày tận thế, toàn thể nhân loại sẽ hui nhị tì. Xong rút vô một cơ ngơi (!) lớn với 20 tử đệ để mà tử thủ và cầu nguyện. Có đứa sợ tận thế thì mình sẽ chết nhăn răng nên lén uống thuốc chuột chết trước để rút ngắn thời gian chờ đợi Thần Chết. Bần tăng lấy làm ngạc nhiên mà rằng: “Quái! Bề gì tới lúc tận thế thì cũng chết, mắc mớ gì mà phải uống thuốc chuột chết trước? Bộ gấp lắm hả?”
Đứa em gái ngoại họ bèn lên tiếng giải đáp théc méc: “Tại anh không biết đó chớ! Chết trước thì sẽ lên Thiên đàng sớm hơn mọi người để giành chỗ tốt”! À za thế! Người ta đi lên Thiên đàng cũng như là đi coi hát cải lương hoặc đi coi xi nê cà la ma. Cần phải vô rạp sớm sủa để giành được chỗ tốt.
Chịu thua em gái! Vêry krềzi! Thiệt là «ẻn phu la tết»!
8. Nhân loại có cái «đỉnh (cứt) cao trí tuệ» gần đây đã thực hiện được nhiều bước tiến nhảy vọt trong lãnh vực sinh học: con người tráo đổi gán ghép lung tung các genes của nhiều sinh vật khác nhau để sáng chế ra những giống mới. Con người đã sáng chế ra được con cá dạ quang, ban đêm tự phát sáng để thấy đường mà lội đi cua đào khỏi cần mang theo đèn bấm. Con người cũng đã sáng chế ra được con gà không có lông (người tình không chân lông?) để lúc nào muốn nấu cà ri chỉ cần bắc nước sôi lên luộc cà và khoai tây rồi mời ngài gà cồ bước vô nồi đậy nắp lại, khỏi mất công vặt lông rửa cẳng. Con người lại còn sáng chế ra được một loại dưa hấu vuông vức sáu mặt ngõ hầu tiết kiệm được nhiều chỗ trống trên xe hàng lúc chuyên chở, đỡ tốn xăng nhớt và bớt hao bạc cắc, lại tránh được bọn du thủ du thực ló mòi đá cá lăn dưa.
Bần tăng đang thấp thỏm lo sợ rồi đây các bà nữ quyền sẽ âm mưu lén lút sáng chế (và tối chế) những thằng đực rựa có cái đầu vuông vức y chang như nhau, hầu cho các bà chụp cái nón macho vuông vức may sẵn lên đầu thằng đực rựa được dễ dàng và lúc nào cũng vừa vặn khít khao, khỏi cần phải thử trước!
9. Điểm mặt "Chúa tể muôn loài" (muôn lòi?): Thuyết tương đối của ông Ễnh-Tai đã cho phép con người chế tạo (bày đặt ra) bom nguyên tử. Khi hay tin trái bom nguyên tử đầu tiên của loài người liệng xuống Hiroshima tiêu diệt liền ngay tại chỗ 100 000 người, ông Ễnh-Tai đã giậm cẳng kêu trời: "Trời hỡi! Phải dè như vậy tui đã đi làm thợ ống nước!"
10. Vẫn ông Ễnh-Tai: Sau vụ liệng bom xuống Hiroshima, khi được một nhà báo hỏi rằng sau thế chiến nguyên tử thứ ba, loài người sẽ đánh nhau bằng vũ khí gì? Ông Ễnh-Tai trả lời cái rụp: "Bằng cái nạng dàn thun!"
Sập tiệm là cái chắc!
Nghĩ lai rai - Mười một
1. Cần phân biệt hai thứ tự do: tự do lý thuyết và tự do thực tiễn. Cái tự do thực tiễn bao giờ cũng dễ sử dụng hơn là tự do lý thuyết.
2. Tự tử để chứng minh mình có tự do (để chống đối Thượng đế?) thì cái tự do đó quả thiệt là hẩm hiu và kiêu căng xuẩn ngốc.
3. Le lói: “Ta đã từng thi rớt tiểu học, thi rớt trung học, thi rớt đại học. Ta cũng đã từng rớt tuyển vào trường Harvard, trường MIT, trường Cambridge, trường kỹ sư, trường y khoa, trường dược! Và ta cũng đã từng rớt cử Tổng thống, rớt cử Nghị sĩ, rớt cử Trưởng ấp, rớt cử Thường dân! Và hơn thế nữa, ta cũng đã từng đứt luôn cái dây thiều… lọt luôn xuống cầu tiêu”. Cho nó đủ bộ bình tích.
4. Thì thầm trong đêm: “Em ơi! Anh muốn kiếm một đứa con để nuôi. Em đừng có nhúc nhích, đổ uổng!” Nói xong bèn cùng nhau gần gũi (trích Liêu trai chí dị)
5. Cộng sản phát xuất từ đâu? Khi xét kỹ lại thì chế độ cộng sản chính là con đẻ của chế độ tư bản. Bóc lột áp bức làm nảy sinh nổi loạn và bạo động. Sau khi rạn nứt rồi sập tiệm cái rụp, “banh xà rông” cuổng trời, cộng sản bèn lột xác “đổi mới” thành chế độ “xã hội - thị trường”, theo cái kiểu ba rọi của Ba Tàu và Á Nàm dành ta. Một loài thú lạ không giống một con giáp nào hết, thuộc loại “đầu cua tai nheo”, vừa biết sủa quấu quấu, vừa biết kêu meo meo.
Bây giờ còn lại một mình một chợ, một mình độc chiếm thị trường, tư bản bèn thừa thắng xông lên, rùng mình hóa thân thành “tư bản - toàn cầu”, lấy thịt đè người, dùng tiền bạc làm xăng nhớt để vận chuyển lòng tham và guồng máy sinh lời của giống người. Người ta gọi đó bằng một từ chuyên môn: “làm kinh tế” hậu hiện đại, nâng cấp sự tăng trưởng tổng sản lượng quốc gia lên hàng Tôn giáo. Thế nhưng các tác nhân của guồng máy đó đều thừa biết rằng sự tăng trưởng liên tục sẽ đưa trái đất đến hủy diệt cuối cùng. Và cái cứu cánh tăng trưởng hoài hoài chỉ là một điều không tưởng hết sức hiển nhiên. Luật Trời: “thành, trụ, hoại, diệt”. Chúng ta chỉ có duy nhứt một trái đất quèn với tài nguyên hữu hạn để cung phụng và đáp ứng tất cả mọi nhu cầu cho giống người và cho muôn loài. Vô số nhu cầu của con người thuộc hàng hoang tưởng, vô cùng thừa thãi, hoàn toàn phù phiếm và hoàn toàn vô ích. Nhưng nếu mấy thằng chóp bu cầm đầu các quốc gia trên thế giới tuyên bố cái sự thật đó và đề nghị giảm nhu cầu, giảm tăng trưởng thì bảo đảm một chăm phần chăm là dân chúng sẽ xuống đường và các chóp bu sẽ thất cử lần sau là cái chắc. Bởi lẽ đó mà cứ im re. Hoặc cứ tiếp tục hứa nhăng hứa cuội “tăng trưởng mạnh mẽ, đều đều, bất tận”.
Sau khi rùng mình biến thành cái quái thai “xã hội - thị trường”, cộng sản lại lột xác lần nữa và hiện hình thành “cộng sản–xã hội-quốc gia” theo cái kiểu Vénézuéla, Brésil ở Nam Mỹ, với ý đồ làm sống lại huyền thoại Che Guevara và Fidel Castro vô địch kách mọn. Cho tới năm 2007 hiện nay, ông râu xồm này vẫn còn sống nhăn răng và Cuba vẫn còn nghèo mạt rệp. Rồi đây trong tương lai sẽ còn xuất hiện những chế độ quái vật nào khác nữa đây?
Quanh đi quẩn lại, tung hô chế độ này hay tâng bốc chế độ nọ xét ra cũng chỉ là một hành động chó hùa như cái kiểu “theo voi ăn bã mía”, một màn kết bè kết đảng giành giựt tiền tài và quyền lực giữa con người với con người. Khi nhìn kỹ lại thì từ thời Chiến Quốc, từ thời César, từ thời Thành Cát Tư Hãn, từ thời Võ Tắc Thiên, sang tới thời Hitler, thời Staline, thời Mao xếnh xáng, thời Cha già Dân tộc, thời Bush con, vân vân... con người muôn thuở cũng vẫn vậy thôi. Vẫn tham lam, vẫn hiếu chiến, vẫn kiêu căng và vẫn xuẩn ngốc tột bực. Chỉ thay đổi có mỗi một cái danh xưng của chế độ. Chớ con người thì vẫn trước sau như một. Vẫn y chang như cũ: The one and only you!
6. Thơ của Đại Cùi thi sĩ: “Sao anh không về chơi thôn Vỹ?/ Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên/ Vườn ai mướt quá xanh như ngọc/ Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Dưới chế độ “xã hội-thị trường” của xứ ta ngày hôm nay thì Nhà Nước làm chủ nhân ông đất đai trên toàn quốc và là đại lý độc quyền đất đai. Do nạn đầu cơ, giá đất tăng lên vùn vụt, nhứt là ở Sài Gòn, Hà Nội và Huế. Do đó thơ Hàn Mặc Tử cũng được cải biên cho thích hợp với chính sách kinh tế xã hội-thị trường hiện nay của Đảng ta: “Sao em không về chơi thôn Vỹ?/ Nhìn giá nhà lên giá đất lên/ Vườn ai mướt quá bao nhiêu mét?/ Giấy đất che ngang cứ hốt tiền”.
7. Nhìn lại sự tiến hoá của muôn loài trên trái đất, ta không khỏi ngạc nhiên.
Muôn loài từ xưa tới nay đều vẫn tiến hóa từ từ và hoà hợp với nhau. Sự chênh lệch trí khôn giữa muôn loài không cách biệt nhau mấy. Cho dù có chênh lệch thì cũng không có loài nào dùng trí khôn để khai thác và bắt muôn loài khác phải phục vụ cho mình. Chẳng thấy có loài nào đầu cơ tích trữ, trao đổi kiếm lời, mở trương mục hoặc để dành cho đời sau, vân vân… Ngay cả con Sư tử, mang tiếng là Chúa tể sơn lâm (tước vị này do con người phong cho) nhưng chẳng thấy Sư tử bắt con nai hầu bàn, bắt con khỉ hút bụi, bắt con trâu đấm bóp mát-xa, bắt con ngựa cõng mình đi chơi, hay chi chi hết.
Đùng một cái! Cách đây khoảng 5 triệu năm, Con Người chợt xuất hiện với trí khôn tách biệt hẳn với muôn loài. Một sự cách biệt vĩ đại! Con người đương nhiên trở thành độc tôn, rồi tự cho mình (qua Kinh thánh?) có toàn quyền khai thác, bóc lột tất cả muôn loài khác có trí khôn kém cỏi hơn mình. Tuy kém cỏi nhưng vô cùng lương thiện so với cái lưu manh tột bực của con người. Và trên tất cả, không hề độc ác như con người. Giả thử như loài khỉ có được 95 phần trăm, loài cọp có 90 phần trăm trí khôn của con người thì ắt hẳn sẽ có chiến tranh triền miên giữa loài người, loài khỉ và loài cọp. Đàng này, vì bởi con người không có loài nào đủ trí khôn để xứng đáng là đối thủ của mình, bèn xoay ra gây chiến tranh không ngớt giữa con người với con người, chém giết nhau tưng bừng, cắt cổ mổ ruột, bắn vô đầu nhau bể gáo hằng hà sa số.
Cũng bởi con người thình lình có trí khôn vượt bực trong dòng tiến hóa, ăn bứt cả muôn loài nên có thể xem con người là Đứa Con Cưng của Tạo hóa. Và cũng bởi được cưng chìu quá mức nên con người đâm ra hư hỏng trắc nết và nhứt là “mất dạy” vô cùng đối với muôn loài khác đang cùng cư ngụ trên trái đất này. Con người khai thác và bóc lột muôn loài một cách hết sức triệt để. Con người coi mạng sống muôn loài như là đồ bỏ, như cục đất, như hòn sỏi, như cát bụi không bằng. Nhưng liệu tình trạng này có thể kéo dài thêm được bao lâu nữa? Và con người có tỉnh ngộ được chút nào chưa?
“Thuận lẽ Trời thì sống, nghịch lẽ Trời ắt chết”! Bạo phát thì bạo tàn! “Các em nên lấy đó làm gương mà giữ (cửa) mình” Chớ có hung hăng con bọ xít quá thể! E rồi một ngày gần đây có hối cũng không kịp.
8. Đây nói qua về chuyện đấu bò. Trò chơi đấu bò đại khái như sau: Gã đấu bò có cây gươm. Nếu dùng gươm đâm chết được con bò thì gã đấu bò thắng. Con bò có cặp sừng nhọn. Nếu dùng sừng đâm chết được gã đấu bò thì con bò thắng. Mọi người đã hiểu hết chớ? Xong!
Mùa hè năm nọ, bần tăng xuất chinh du ngoạn xứ Tây ban nha và đi coi đấu bò, một đặc sản địa phương hết sức ly kỳ. Tan trận đấu, bần tăng ra về, bụng đói nên chui vào một quán ăn đông khách. Vì không rành tiếng địa phương nên bần tăng kêu nhằm món gì chỉ có toàn là bột, dở ẹt! Ngó sang bàn bên cạnh thấy có một anh chàng Tây ban nha râu ria xồm xoàm đang xì xụp nhai ngấu nghiến hai cục gì tròn tròn to bằng cỡ trái cam lớn Florida, coi bộ rất ngon lành. Bần tăng hỏi, hắn đáp: “Đây là món dái lăn bột. Mày muốn thưởng thức món này thì ngày mai trở lại quán này và gọi y chang như vậy: dái lăn bột, nhớ chưa?”
Lòng mừng khấp khởi, ngày hôm sau bần tăng trở lại quán và gọi đúng bon cái món “dái lăn bột”. Tha hồ mà thưởng thức nhé! Chờ hồi lâu. Chập sau gã bồi bàn bưng ra một cái dĩa lớn. Trong dĩa có hai hột gì tròn tròn lớn bằng hai trái cà na đèo đẹt. Bần tăng gọi chủ quán tới bàn, chỉ tay vào dĩa phản đối: “Hôm qua món dái lăn bột có hai cục rất lớn. Sao bữa nay hai cục có chút xíu vậy?”
Tên chủ quán đáp tỉnh bơ: “Ngày hôm qua thằng đấu bò nó thắng. Bữa nay con bò nó thắng. Bữa nào có sẵn dái gì thì tao làm dái đó. Có gì mầy phải thắc mắc?”
9. Tần Thủy Hoàng Đế! Vị hoàng đế đầu tiên của Trung Quốc. Một tay gồm thâu lục quốc, lên ngôi báu, xưng danh Thủy Hoàng Đế!
Đọc sử hoặc nghe kể lại, ai ai cũng đều biết, Tần Thủy Hoàng là một bạo chúa lẫy lừng, đã từng giết cha đày mẹ, đốt sách chôn học trò, lấp sông xẻ núi, xây Vạn lý trường thành trên xương máu của toàn dân. Nhưng đã làm người thì một ngày nào đó cũng phải chết, chỉ sớm hay muộn mà thôi. Cũng như mọi sinh vật khác trên đời, Hoàng đế đầu tiên hay Hoàng đế cuối cùng gì thì cuối cùng đều cũng phải chết, cũng phải chầu Diêm vương hết ráo.
Tần Thủy Hoàng, cho dù là bạo chúa năm-bờ-oan (hay năm-bơ-ten) cũng không thoát khỏi luật Trời. Và trong một chuyến xuất cung “thăm dân cho biết sự tình”, Tần Thủy Hoàng thình lình cảm thấy long thể bất an, rồi đột ngột lâm trọng bịnh được ít hôm thì băng hà bất ngờ trong đêm, hưởng dương 50 tuổi. Triều thần sợ dân chúng biết tin bạo chúa đã chầu Trời bèn nổi dậy sinh ra hỗn loạn trong Thiên quốc. Bèn giấu nhẹm và lẳng lặng đặt xác rồng của Bạo Chúa trên xe rồng trực chỉ kinh đô. Nhưng luật Trời vẫn cứ vận hành bất cưỡng: xác rồng của Bạo Chúa bắt đầu sình chương và bốc mùi hôi thúi khủng khiếp, y chang như mọi thây ma khác. Triều thần bèn lập kế để “mà mắt” dân ngu khu đen hai bên đường. Sách “Tần Thủy Hoàng” của Cảnh Bảo Trân chép:
“Khi ấy thời tiết nóng bức, thi hài của vua Tần Thủy Hoàng bắt đầu thối rữa, bốc mùi hôi. Để giữ kín chuyện trong xe chở xác Tần Thủy Hoàng, Triệu Cao sai người mua hết cá mắm dọc hai bên đường, đem chất lên tất cả các xe trong đoàn. Vậy là đoàn xe đi đến đâu hắt ra mùi tanh của cá mắm đến đó, không ai biết có mùi thối xác người chết”.
Than ôi! Tần Thủy Hoàng một thời làm chúa tể thiên hạ, một thời mặc sức tung hoành, một thời thở ra khói phun ra lửa, tự mình mặc sức đoạ đày dân đen. Vậy mà khi chết rồi thì cũng bốc mùi hôi thúi khủng khiếp như một con cá sình chương, như một con mắm tôm tanh tưởi. Thiện tai! Thiện tai!
Tần Thủy Hoàng thuở bình sanh đã sai người trèo non vượt biển để tìm thuốc trường sinh mang về cho mình. Muốn được sống hoài, sống dai để mà tiếp tục đục cho các ông Ba Tàu phù mỏ dài dài. Vậy mà phỏng đặng chăng?
Mà nào phải đâu chỉ có mỗi một mình Tần Thủy Hoàng mới ham bất tử bất diệt. Còn có biết bao nhiêu là đấng Tai to Mặt lớn khác nữa. Những Pharaông ướp xác đem chôn vùi bí mật dưới Kim tự tháp đồ sộ. Cũng như cái xác ướp của Cha già Dân tộc (!) ở cái cuộc đất “bốn ngàn năm ăn vặt”. Và những người lúc chết phải giấu xác vì sợ bị quật mồ: những Tần Thủy Hoàng, những Thành Cát Tư Hãn, những Tào Tháo, những Tự Đức...
Than ôi! Khi sống thì hồi hộp, sợ chết. Mà đến khi chết rồi cũng vẫn hãy còn hồi hộp, sợ bị quật mồ. Sống như vậy mà gọi là vui sống đấy ru?
10. Nói chuyện bên Tàu: Chuyện Panda. Panda là loài gấu trắng mặc pyjama đen, đeo kiếng đen, có đủ 6 ngón ở mỗi bàn tay và mỗi bàn chân. Panda chỉ ăn toàn là tre trúc và có “nụ cười tre trúc” vô cùng hiền hậu. Loài panda chỉ sống độc nhứt trong rừng núi bên Tàu. Vì vậy nên bị các ông Cắc Chú đồng hóa, thỉnh thoảng panda xổ tiếng chệt lai rai: ngộ ái nị, ngộ tả nị xẩy, tỉu na má, dách dì xám xây, vân vân… Panda được Cơ quan Bảo vệ Đời sống hoang dã (WWF) lấy làm biểu tượng.
Lớp bị săn bắt, lớp bị giành dân lấn đất từ phía con người, loài panda càng lúc càng bị giảm sĩ số và bị đe doạ tuyệt chủng trong một tương lai rất gần nếu con người cứ tiếp tục “quậy” và phá thiên nhiên theo kiểu đó.
Trong rừng rậm hoang vu mênh mông, các nam nữ panda ít khi gặp nhau, ít khi hẹn hò, ít khi nhảy nhót với nhau, cũng không điện thoại di động hay meo miết gì cho nhau hết ráo. Bởi lẽ đó, hầu hết các panda, nam cũng như nữ, đều sống độc thân, tự nấu cơm lấy một mình mà ăn, rồi cũng dọn dẹp, cũng rửa chén mình ên. Tối đến, nằm chèo queo một mình mà ngủ, rất là (Hoàng đế) cô độc như Thanh Tâm Tuyền, nhưng không biết làm thơ tự ro. Bởi lẽ đó, các baby panda vô cùng hiếm hoi. Mỗi lần sinh nở chỉ độc có mỗi một baby. Sinh đôi rất hiếm có và khó nuôi. Panda mẹ có hơi dở phần nào ở mục dưỡng nhi nuôi trẻ, và cũng không biết giặt pyjama cho con mình. Ngoài ra, mẹ hiền cũng không bao giờ thay quần thay áo. Nói chung chung, về mặt nội trợ, bà mẹ panda rất là bê bối.
Bởi lẽ đó, đời sống trong rừng rú hoang dã không làm tăng sĩ số panda lên được chút nào. Các ông Ba Tàu bèn nghĩ ra một kế: bắt hai panda nam nữ sống chung cưỡng bách với nhau trong một cái chuồng rộng. Biết đâu chừng nam panda sẽ bị kích động bởi nữ panda sexy mà có ý kiến. Ngày lại ngày qua… Than ôi! Thằng nam panda một mực vùi đầu vào đống lá tre mà xực phàn suốt ngày, không thiết gì đến chuyện truyền giống để báo hiếu cha mẹ.
Các ông Ba Tàu bèn khẩn trương (lên!) cho triệu tập Đảng ta lại để cùng nhau tư duy Mác Lê rất là hoành tráng và có cơ sở hầu tìm cách tác hợp “thực tế” đôi trẻ panda. Cuối cùng sáng kiến phựt lên: các ông Cắc Chú đặt một cái TV màu mặt phẳng rất lớn trong chuồng panda đực. Xong chiếu 24/24 giờ toàn là phim X của loài panda. Ối thôi là đủ kiểu hết: ôm ấp, vuốt ve, nút lưỡi, sờ vú, bóp đít, mò mẫm, rồi tiếp theo là đủ kiểu yêu nhau: kiểu đứng, kiểu nằm, kiểu ngồi, kiểu sấp, kiểu ngửa, kiểu cõng nhau, kiểu vác cày qua núi, kiểu lộn mèo (lộn chuột), vân vân...
Mới đầu nam panda cứ dửng dưng như thầy tu chính cống. Rồi ngày qua ngày... Các hình ảnh kích dâm bắt đầu khích động cái libido của chàng panda… từ từ, nhè nhẹ… tăng độ, lên cao, rồi… tột đỉnh! Và cuối cùng, nữ panda thọ thai như mấy ông Ba Tàu mong ước. Mừng hết lớn. Reo hò chiến thắng!
Đó, các bà nữ quyền thấy không? Cho tới loài panda cù lần cũng còn biết khoái coi phim X, nói chi tới bọn đực rựa tham dâm thô tục chúng tôi. Giống đực loài nào cũng mang sẵn trong mạch máu của mình cái gène voyeurisme (căn bịnh dòm). Lỗi là do tại ông Trời ổng bày đặt ra như vậy chớ nào phải đâu chúng tôi tự ý chuốc lấy chứng bịnh nan y. Xin các nàng nương tay và ngưng chụp cái nón macho (cũ mèm) lên đầu bọn đực rựa tham dâm, mỗi khi chúng tôi ngó lom lom các nàng ngoe nguẩy cái mông, lắc lư cái vú và buột miệng trầm trồ chiêm ngưỡng. Chụp nón macho bừa bãi như vậy, tội chết!
Nhưng thử hỏi, nếu bọn đực rựa không mắc chứng bịnh dòm thì lấy ai mà ngắm các nàng tô son điểm phấn và ngoáy mông lắc ngực? Còn các nàng căng da mặt, bơm môi bơm vú để làm chi vậy? 
Nghĩ lai rai - Mười hai
1. Vũ trụ vốn vận hành theo những quy tắc riêng của nó. Những quy tắc đó không mắc mớ gì tới những mục tiêu hay cứu cánh mà con người (hiu hiu) tự ý bày ra cho vũ trụ. Nói rõ hơn: Vũ trụ không mắc mớ gì tới cái Lỗ đen Bất tận, cái Ánh sáng Phúc âm, cái Tình yêu Thiên chúa, cái Vô dư Niết bàn, cái Địa ngục Allah, cái Điểm cuối Ômêga, cái Tận thế Sập tiệm hay cái chi chi le lói khác nữa của mấy cha nội ham động não và bày đặt ra hết ráo. Tóm lại: «Thôi! Bỏ đi Tám!»
2. Khi quan sát sự vận hành của vũ trụ, người ta có cảm tưởng lúc nào vũ trụ cũng khuấy trộn không ngừng các nguyên tố của mình. Sao cứ «quậy» hoài vậy cha nội? Khuấy cho tới khi nào trộn đều hết mọi nơi, đạt được thế quân bình tuyệt đối. Khi đó mọi điểm trong vũ trụ đều có năng thế (potentiel énergétique) y hịch nhau, một cấu trúc bền bỉ mút mùa, lê thê bất tận. Khi đó sẽ không còn chỗ nào có thể nhúc nhích cục cựa gì được nữa hết: một cái Chết Tuyệt Đối. Chết thẳng cẳng. Chết không thể tái sinh. Tuy nhiên, biết đâu vũ trụ khuấy trộn hoài hoài để mà sáng tạo ra cái mới hoài hoài? Vũ trụ giống như một khối bột vĩ đại, từ đó nặn ra một số hình tướng vào một thời điểm nhất định nào đó. Xong, vũ trụ thu hồi các hình tướng đó trở lại. Rồi lại nặn ra các hình tướng khác hơn lần trước ở thời điểm kế tiếp. Và cứ thế... cứ thế... hình tướng của vũ trụ đổi mới hoài hoài, vũ trụ thay xiêm đổi áo hoài hoài. Nhưng trong bản chất của mình, vũ trụ tự nó không hề thay đổi, không hề khác đi. “Sắc bất dị không, không bất dị sắc (...) Xá lợi tử, thị chư pháp không tướng, bất sinh bất diệt...”
Nhưng sáng tạo hoài hoài để làm chi vậy cà? Để làm gì ư? Đó là câu hỏi của con người, không phải là mối bận tâm của vũ trụ. “Thì sáng tạo hoài hoài để mà giỡn chơi cho vui khơi khơi vậy thôi, được hông cha nội? Cứ theo hỏi cù nhây hoài coi chừng ông bộp tai cho một cái gãy hết răng bây giờ!”
3. “Trời không chìu lòng người", bạo chúa hét lớn lên như thế, đoạn xuống một câu vọng cổ thiệt mùi rồi đâm dao phay vô cổ họng mình mà thác. Cũng may mà Trời không chìu lòng người. Thử tưởng tượng Trời chìu lòng Tần Thủy Hoàng, Trời chìu lòng Hitler, Trời chìu lòng Staline, Trời chìu lòng Mao Trạch Đông! Và Trời chìu lòng luôn cả Bokassa, Bin Laden, rồi cả Bush Cha lẫn Bush Con bây giờ nữa! Rồi hôm nào Trời bỗng xiêu lòng chìu luôn cả chàng ca sĩ mặc xì líp hường Elton John, ca sĩ Hời Chế Linh, rồi luôn cả Bác Hồ, Lê Duẩn, Ngô lãnh tụ, Lê Ngọa triều, Tào Tháo, Ba Cụt, Năm Lửa, vân vân... thì sẽ bỏ mẹ hết thiên hạ. Là cái chắc!
4. Từ thuở hồng hoang ăn lông ở lỗ có lửa ấm cho tới lúc ở building có gắn máy lạnh ngày hôm nay, con người vẫn không ngừng đánh nhau một giây phút nào. Có khác chăng là ở chỗ vũ khí thì cứ mỗi ngày một tối tân hơn, mỗi ngày một hiệu quả hơn, giết được nhiều người hơn. Còn lòng người thì vẫn trước sau như một: vẫn tham lam, vẫn hiếu chiến, vẫn xuẩn ngốc. Xuẩn hết chỗ nói! Ngốc hết chỗ chê! Vậy mà cái con người xuẩn ngốc đó vẫn cứ hiu hiu tự đắc về cái khả năng vô biên nhằm huỷ diệt đời sống của mình. Một ngày nào đó có bị chính cái Núi Ngũ Hành của mình nó đè mình dẹp lép (như Tề Thiên) thì đừng có trách. Chết mà không còn có được một mảnh đất nhỏ để chôn thây! “Em ơi khóc đi em! Khóc đi em! Khóc đi em!...”
5. Lần nọ, trong một buổi họp mặt thân hữu, bần tăng phát ngôn (bừa bãi): “Phê bình lúc nào cũng đều là chủ quan”. Một ngòi bút nữ chuyên trách văn nghệ ở đài truyền thanh tại Pháp phản đối: “Phê bình cũng có thể rất khách quan đấy chứ Kiệt Tấn! Đó là phương pháp phê bình dựa theo những tiêu chuẩn khách quan chọn lọc khắt khe và được nhiều người đồng ý.” Bần tăng lại tiếp: “Nhưng khi chấp nhận một số tiêu chuẩn nào đó thì sự chọn lựa đó cũng là chủ quan rồi. Vì bởi tại sao chọn lựa những tiêu chuẩn đó mà không chọn lựa những tiêu chuẩn khác?”
Bần tăng trộm nghĩ, khi phê phán rằng một tác phẩm nào đó hay hoặc dở, chung qui cũng chỉ để nói lên cái sở thích của mình mà thôi: “tôi thích” hoặc “tôi không thích”. Mà ở cái chỗ thích mí lị không thích thì chẳng có ai giống ai cả. Nó tuỳ thuộc vào trình độ văn hóa và cảm quan của mỗi người. Ô kê Salem?
Khi để ý, người ta nhận thấy một điều vui vui: Những cây viết phê bình sắc sảo nhứt, nếu vì một phút ngứa tay cầm bút lên mà sáng tác thì sáng tác ấy thường khi lại không được “đạt” gì cho lắm. Đôi khi “nó chả za nàm thao cả!" Có lẽ tại vì nghề phê bình khiến cho các nhà phê bình cẩn trọng quá chăng? Do đó mà “Em bé hậu phương” đi đứng không được tự nhiên. Và khi em bé cố gắng nhoẻn miệng cười nụ thì cứ như là... La Joconde Mona Lisa mếu khóc. Viết cái kiểu này, bần tăng e rằng các nhà phê bình sẽ xúm lại đục cho thằng nhỏ phù mỏ! Mắng chửi thậm tệ. Và giáng cấp bắt làm tạp dịch, rửa cầu, chà láng, như ở quân trường.
Nhưng thử nhìn lại, cổ nhân ta há đã chẳng từng nói: “Nhứt nghệ tinh nhứt thân vinh” đó sao? Thúy Kiều khi xưa cũng nhờ ở cái chỗ chuyên nghiệp hết chỗ chê “Vành ngoài bảy chữ, vành trong tám nghề” mà hạ Thúc Sinh, Từ Hải cùng nhiều tay hảo hớn khác đo ván dài dài. Còn các tên trọc phú đa dâm thì sạt nghiệp và... đi tù (liền tù tì!) mút mùa lệ thủy. Cái lũ đực rựa “dê xồm” quả thiệt là zở hơi! Từ xưa đến nay “Danh bất hư truyền”, lời đồn không sai vậy!
Nếu như bi giờ Thúy Kiều còn sống thì bần tăng sẽ rước nàng về làm cố vấn cho “Công ty Bán Phấn Buôn Hương” của mình. Bảo đảm cổ phần của công ty sẽ bán chạy như tôm tươi. Và cũng bảo đảm trị giá của nó sẽ tăng lên tối thiểu là 101,99 % mỗi năm! And no VAT, of course!
6. Đây nói qua về Tây du ngoại truyện. Nhắc lại là dưới đời nhà Đường, Tam Tạng được hoàng hậu Võ Tắc Thiên (đệ nhứt “chằn ăn trăn quấn”) cử làm một chuyến công du sang miền Tây Trúc thỉnh kinh Phật đem về giảng dạy cho mấy ông Cắc Chú vốn xưa nay theo đạo Khổng, đạo Lão, đạo thờ Ông Bà, và đắm chìm trong mê tín dị đoan.
Dọc đường, Tam Tạng thu nhận ba đồ đệ: Tề Thiên (đã từng đục Vua Trời phù mỏ), Trư Bát Giới (tham dâm, rất khoái yêu nữ), Sa Tăng (ba phải, nghị gật). Khi bốn thầy trò sắp tới miền Tây Trúc thì bị đạo sĩ Phật Ma dùng trấn thạch chắn ngang đường đèo, không thể nào tiến lên được. Sách Tây du ngoại truyện chép rằng: “Đạo sĩ Phật Ma mình mặc nửa áo cà sa nửa áo giấy, ánh mắt để lộ một bên từ bi một bên hung quang, râu mọc dưới cằm một bên dài ngoằng trắng phau một bên chổi xể đen nghịt, đầu nửa bên cạo trọc nửa bên rối rễ tre, rõ ràng dị tướng quái diện”.
Đạo sĩ Phật Ma chận đường Tam Tạng và ba đồ đệ ngang giữa đèo rồi bày trò “đố vui để chọc” như trên TV ở nước ta thời Đệ nhị Cộng hòa để chọc quê hết cả bốn thầy trò. Đạo sĩ cam kết là sẽ dời trấn thạch cho thầy trò tiếp tục cuộc hành hương với điều kiện Tam Tạng trả lời ngon lành ba câu hỏi của lão ta về Phật pháp - như thể là đi thi vấn đáp. Tam Tạng kẹt quá đành phải ô kê. Sau khi Tam Tạng ô kê, sách Tây du ngoại truyện có chép lại cái màn “đố vui để chọc” giữa hai bên rất là gay cấn như sau.
Trích dẫn:
Đạo sĩ rống lên cười oang oang:
“Hay lắm! Vậy hãy nghe ta hỏi đây. Câu thứ nhứt: Ngươi sang phương Tây thỉnh kinh để tìm gì trong đó?”
“A di đà Phật! Thỉnh kinh là để tìm chân lý trong kinh.”
“Cái thân của ngươi là hư giả hay chân thật?”
“Cái thân của ta là hư giả.”
“Ha! Ha! Ha! Ngươi dùng cái hư giả để tìm chân lý, vậy phỏng đặng chăng?”
Huyền Trang cúi đầu không biết đáp ra làm sao. Đạo sĩ đưa cao thiền trượng và hồ lô lên trời rống cười một tràng dài, đoạn hỏi tiếp:
“Này nghe ta hỏi câu thứ hai đây: Thái tử Sĩ Đạt Ta quả có thành Phật Thích Ca hay không?”
“A di đà Phật! Thái tử Sĩ Đạt Ta quả có thành Phật Thích Ca.”
“Thế nhưng chúng sanh có cái thực ngã, tức là có cái ta thực sự hay không?”
“Cái ta của chúng sanh chỉ là giả tưởng. Chúng sanh không có thực ngã.”
“Ha! Ha! Ha! Khi ở trên trần thế Thái tử cũng là một chúng sanh không có thực ngã, vậy Thái tử Sĩ Đạt Ta lấy cái “ta” nào để mà thành Phật Thích Ca? Cái gì thành Phật, ngươi hãy đáp cho ta nghe thử!”
Huyền Trang một lần nữa lại cúi đầu, không tìm được câu trả lời. Đạo sĩ lại rống cười hai tràng dài, hỏi tiếp:
“Này, đây là câu hỏi thứ ba mà cũng là câu chót. Ngươi đáp không được thì đừng có hòng đi thỉnh kinh. Nghe đây: Ngươi thỉnh kinh về Trung Quốc để làm gì?”
“A di đà Phật! Ta thỉnh kinh về để thuyết pháp tế độ chúng sanh.”
“Ha! Ha! Ha! Ngươi há không biết Phật đã dạy ông Tu Bồ Đề: ‘Như Lai nói thuyết pháp tức là không có pháp gì để thuyết được, mới gọi là thuyết pháp.’ Vậy ngươi đòi thuyết pháp rồi mới thuyết bằng cách nào?”
Huyền Trang bàng hoàng, mồ hôi tháo ra ướt dầm áo cà sa, không biết cách gì mà giải đáp.
Phật Ma đắc ý lại ngửa cổ cười ba tràng dài rồi đưa hồ lô lên cao:
“Ngươi là sư tăng mà không thông đạo pháp, vậy không xứng đáng đi thỉnh kinh. Ngươi phải ở lại đây với ta mà chờ đợi người trí tuệ làm công việc đó.”
Nói xong Phật Ma niệm chú trỏ miệng hồ lô về phía Tam Tạng hét lớn:
“Hô thâu!”
Tam Tạng bị hút bay lên và lọt vào trong đáy bình. Ba đệ tử cả kinh nhào tới vây lấy Phật Ma kêu gào:
“Hãy trả thầy lại cho ta! Đồ nghiệt súc!”
Nhưng Đạo sĩ đã rùng mình độn thổ biến mất.
(Hết phần trích dẫn)
Kể từ lúc Tam Tạng bị đạo sĩ Phật Ma biệt giam trong connex phơi nắng giữa trời cho tới bi dờ vẫn chưa có ai lên tiếng giải đáp ba câu hỏi tà mị của đạo sĩ hầu tế độ Đường tăng qua khỏi mùa pháp nạn. Bần tăng xin thỉnh ý các bậc cao tăng làu thông kinh pháp, thỉnh luôn các ác tăng mọc nanh ăn mặn cỡ Lỗ Trí Thâm, và luôn cả các thầy chùa quốc doanh chuyên môn đi xe Mẹcxơđì và tụng kinh đám cưới ở xứ Việt Nam - Xã hội - Thị trường của đất nước ta hôm nay.
Bậc nào giải đáp được, bần tăng hứa chắc một chăm phần chăm sẽ dắt đi hát karaôkê. Bảo đảm sẽ có mấy em nhỏ hậu phương xinh xắn múa hát và phục vụ tận tình, muốn gì được nấy. Bần tăng nguyện sẽ muôn tạ ơn lòng.
7. Ta thà sướng thân để tìm hạnh phúc chớ không thèm hành xác để tìm hạnh phúc. “Ấy chết! Hãy lấy cái hành xác, hãy lấy cái đau đớn và lấy cái bất hạnh để mà làm hạnh phúc ở đời! Có được như vậy mới thực sự là thiêng liêng và cao cả, mới xứng đáng được mọi người tôn thờ, lễ bái. Hãy tử vì đạo! Hãy bị đóng đinh! Hãy chết nhăn răng! Hãy...”. Nói chơi hay nói giỡn vậy cha nội?
8. Ai cũng biết ở Nam Phi có chế độ Apartheid kỳ thị đen trắng: trắng đi đường riêng, đen đi đường riêng, trắng học trường riêng, đen học trường riêng, trên xe buýt trắng ngồi riêng, đen ngồi riêng, vân vân...
Chuyện xảy ra vào giai đoạn phong trào Apartheid lên đến cao điểm: Một anh chàng tây đen chạy xe cà tàng, thắng không ăn nên xe vượt đèn đỏ. Phú lít trắng thổi còi chặn lại, lôi anh tây đen xuống lấy dùi cui khỏ đầu và mắng: “Tiên sư cái bọn mọi đen chúng mày! Chúng mày bây giờ tưởng là ngon lành hả? Dám vượt cả đèn đỏ!” Gã tây đen khúm núm: “Dạ tui đâu có dám vượt đèn đỏ. Tui thấy mấy ông tây trắng chạy đèn xanh cho nên tui tưởng đèn đỏ là dành cho tây đen tụi tui chạy đó chớ!”
9. Khi đặt câu hỏi (tưởng là) nhớn mà không có câu giải đáp, coi chừng là đã đặt câu hỏi trật đường rầy rồi đó cha nội. Hoặc là cha nội ngụy tạo ra vấn đề rồi bày đặt ra những câu hỏi bí hiểm vớ vẩn cho nó có vẻ siêu thoát và vô cùng le lói để hù thiên hạ. Chẳng hạn: “Con người từ đâu đến, đến đây để làm gì, rồi đi về đâu?” “Mẹ rượt! Tui từ đâu đến thì thây kệ cha tui, mắc mớ gì tới mấy người mà mấy người hỏi?”
10. Có cao có thấp thì nước mới chảy. Không cao không thấp thì nước đọng ao tù. Cao thấp chênh lệch quá trớn thì nước lũ, sanh ra bạo động, và thác lũ sẽ cuốn trôi hết mấy cha nội đó. Phải rán mà chịu cho nó quen!
Nghĩ lai rai - Mười ba
1. May mắn thay, hạnh phúc không khép mình vào một định nghĩa nào hết. Bởi lẽ đó mà hạnh phúc nó thiên hình vạn trạng, biến hóa khôn lường. Và chính nhờ vậy mà ai ai cũng có thể tìm được hạnh phúc theo cảm quan của mình, miễn đừng làm phương hại tới kẻ khác. Một hạnh phúc trong tầm tay của mỗi người và hết sức lương thiện. Tưởng như vậy cũng đã nà quý nắm zồi!
2. Theo cảm quan của bần tăng, hạnh phúc là một thế quân bình giữa mình và ngoại giới. Hạnh phúc là một trạng thái, một cảm giác. Nó không dính dáng gì tới trí tuệ và thông minh hết ráo. Người ta vẫn thường nói “ngu si hưởng thái bình” là vậy. Một con người lúc nào cũng sáng suốt thì khó lòng mà hạnh phúc cho được. Người ta vẫn nói “Đui không sợ cọp, điếc không sợ súng”.
Vật chất chỉ có thể tạo điều kiện cho hạnh phúc xuất hiện (và ngược lại đôi khi còn ngăn cản) chớ vật chất không bao giờ có thể tự nó là một hạnh phúc được.
3. Khi muốn diệt dục thì người ta vẫn còn ham muốn: Ham muốn và si mê Niết bàn.
4. “Diệt được cái ngã, người ta sẽ đạt được Niết bàn”. Nhưng một khi cái ngã đã diệt rồi thì lấy cái gì mà đạt Niết bàn đây cha nội?
5. Ông Ễnh Tai là cha đẻ của “Thuyết Tương Đối” giải thích được hầu hết mọi hiện tượng có kích thước lớn trong vũ trụ. Thuyết này được diễn tả bằng những phương trình toán học dài cả thước, gồm nhiều ký hiệu bí hiểm mà chỉ một số ít nhà bác học chuyên khoa mới hiểu nổi.
Vì vậy, bận nọ, được một nhà báo yêu cầu, ông giải thích sơ lược Thuyết Tương Đối “nhức đầu” của ông bằng một ví dụ ngắn gọn cho bà con dễ hiểu. Ông bèn kể lại một giai thoại như sau: “Một bữa nọ tui đi mua sữa tươi, trứng gà và vài món lặt vặt. Trên đường về tui ghé thăm một người bạn mù quen thân. Tui rót một ly sữa tươi và mời người bạn mù uống sữa. Người bạn mù ngẩn người ra hỏi: “Sữa là gì?” Tui đáp: “Sữa là một thứ nước màu trắng”. Lại hỏi: ”Nước tui biết, nhưng trắng là màu gì?” Đáp: “Trắng là màu lông của con thiên nga”. Lại hỏi: “Lông tui biết, nhưng thiên nga là con gì?” Đáp: “Thiên nga là con vịt có cái cổ cong”. Lại hỏi: ”Con vịt tui biết. Cái cổ tui biết. Nhưng còn cong là gì?” Bị hỏi bí quá, tui mới nắm cánh tay người bạn mù kéo ra và nói: “Thế này là thẳng, anh biết chớ?” Anh mù gật đầu. Đoạn tui xếp cánh tay anh lại ở chỗ cùi chỏ rồi bẻ cụp bàn tay anh xuống. Xong tui nắm bàn tay kia của anh ta hướng dẫn cho sờ cánh tay bẻ gập kia và giải thích: “Khi nãy là thẳng, như thế này là cong”. Anh bạn mù gật đầu mỉm cười đắc ý: “À, bây giờ tui đã hiểu sữa là gì rồi"
Kể xong, ông Ễnh Tai mới vỗ vai anh nhà báo đã hỏi ông cắc cớ mà nói: “Đó! Bây giờ anh đã hiểu Thuyết Tương Đối của tui là gì chưa?” Và anh nhà báo (hại) lật đật gật đầu một cái rụp. Dĩ nhiên!
6. Đàn bà mà không có cái sự đời thì đàn ông sẽ mất cái bàn thờ, mất cái chánh nghĩa, mất cái lý tưởng, mất cái mục tiêu để phục vụ, mất cái lẽ sống ở đời. Bảo đảm sẽ đình công, ngừng lao động, và dẹp tiệm luôn. Rồi bọn đực rựa sẽ dần dần biến mất hết trên mặt đất. Chắc chắn một chăm phần chăm.
Bởi thế, không có đàn bà thì sẽ hư hết đại cuộc. Muôn sự của con người đều xuất phát từ cái sự đời. Hoan hô! Hoan hô cái sự đời !
7. Một đấng ghiền nặng triết Tây đã hạ bút: “Viết là đâm nổ mặt trời!” Có ai dám ngon lành hơn ta không? Coi chừng ông đâm mặt trời cho nó nổ rồi là cúp điện toàn cầu, hết thấy đường mà viết luôn đó nghe cha nội!
Chưa hết! Mới đây, trong bức Tâm thư gởi cho đại văn (dầu) hào Kiệt Tấn, một em nhỏ đã hò hét kêu gọi bọn đực rựa hãy nghe theo “tiếng thét vỡ không gian” của đàn bà để chui ra khỏi cái hang tối Plato và đi gặp gỡ tương lai! Một “tương lai” tối hù khi mặt trời đã bị đâm nổ! “Trời cao có thấu! Cúi xin người ban phước cho đời con!”
8. Tôn giáo đặt nền tảng trên những gì mà không một ai có thể kiểm chứng được. Nói kiểm chứng là kiểm chứng một cách sáng tỏ, quả quyết, không ai có thể chối cãi hay phản bác được. Cũng bởi lẽ đó, khoa học chính xác không bao giờ có thể là một tôn giáo được hết. Lòng tin bao giờ cũng ẩn chứa một chút hoang mang một chút nghi ngờ. Nếu không có hoang mang, không có nghi ngờ thì đó là sự mù quáng chớ không phải lòng tin.
9. Lòng tin bao giờ cũng cần có một chút gì mơ hồ, bí ẩn. Chẳng hạn như một với một là hai, rờ điện thì điện giựt, ngừng thở thì chết. Nó như vậy đó, hết sức hiển nhiên, có tin hay không tin thì cũng vậy thôi. Trái lại, khi nói rằng “Thượng đế có thật” thì có người tin, có người không tin. Nhưng không có gì bảo đảm một chăm phần chăm là một ai đó đúng cả. Nhưng chính vì vậy nên mới cần có lòng tin, cần có tín ngưỡng “bí ẩn, mơ hồ”. Khi có lòng tin thì người ta yên tâm, là cái chắc. Cũng tốt thôi!
10. Không thấy tận mắt bất cứ một tôn giáo nào đưa một ai đó lên thiên đàng hết cả. Nhưng ngược lại, thấy rất nhiều người vì tôn giáo mà kéo nhau xuống địa ngục rần rần. Mà nghĩ lại, đâu cần gì tới phải kéo nhau xuống dưới sâu làm chi cho mất công. Địa ngục lúc nào cũng nằm sờ sờ ngay trên mặt đất này, thường trực, đâu đó. Và cái địa ngục đó lại do chính do con người bày ra.
“Trẻ tạo hóa đành hanh quá ngán/ Chết đuối người trên cạn mà chơi”. Cụ Ôn Như hầu nói giả ngộ. Tạo hóa nào mà lại đi dìm chết người trên cạn? Chỉ có chính con người mới trấn nước con người ngất ngư (và đồng thời cho điện giựt) thì có. Không tin thử hỏi Phòng Nhì của Tây, hỏi CIA, hỏi Bush con, hỏi KGB, hỏi Staline thì biết.
Nghĩ lai rai - Mười bốn 
1. Ở Pháp, sau cuộc Cách mạng 1789, Condorcet đã quả quyết: “Cuộc Cách mạng Pháp đặt nền tảng chính trị cho tiến trình hoàn hảo liên tục các đức hạnh của con người” (Ghê chưa?) Năm sau, Condorcet được Cách mạng Pháp gia ơn cho phép chọn lựa giữa thuốc độc và máy chém. Hồi cuối: Condorcet đã lom khom cúi xuống lượm cái thủ cấp của mình lên mà khóc thét: “Tưởng rằng nó đức hạnh ai dè… nó đứt thiệt!”
2. Liên tiếp một thời gian dài, khi ngồi vào bàn ăn, các văn nghệ sĩ ta dọn lên rặt có hai món đặc sản xen kẽ nhau: hết rong rêu tới sỏi đá, hết sỏi đá tới rong rêu. Một khi thức ăn chỉ có toàn là “rong rêu/ sỏi đá” thì nuốt vô chỉ có mà mắc nghẹn, cắn vô chỉ có mà gãy răng! Chơi chi mà ác quá vậy mấy cha nội? Làm ơn cho bần tăng ngả mặn chút đỉnh: ăn vú heo nướng, đớp dái dê lăn bột, hoặc xơi ngầu pín hầm thuốc bắc thử coi! Bổ lắm! Bổ lắm!
3. Đó là phần thức ăn. Về mặt thơ nhạc giao duyên, mỗi nghệ sĩ ta lại tự chọn cho mình một con vật để làm biểu hiệu:
“Em đi lấy chồng rồi/ Anh làm con sâu nhỏ/ Rúc vào trái táo đỏ/ Đắp chăn rên hù hù”
“Anh làm chim bói cá/ Trên cọc nhọn trăm năm/ Hai bàn chân lủng hết/ Anh đau cẳng quá xá/ Cho nên anh đi cà nhắc... cho tới bi giờ!”
“Bên bãi cát Nha Trang/ Anh làm con dã tràng/ Bò ngang không bò tới”
Vân vân... và vân vân...
4. Lời dân nhậu: “Ăn gan thì bổ gan, ăn tim thì bổ tim, ăn phổi thì bổ phổi. Còn uống rượu thì bổ… cột đèn!” Xin nhắc lại: ăn sỏi đá thì gãy răng! Còn nhai rong rêu thì trẹo quai hàm!
5. Thử bàn về thái độ nghiêm chỉnh… một cách nghiêm chỉnh!
Khi phải nói về một vấn đề quan trọng nào đó, người ta thường giữ cho mình một tư thế nghiêm chỉnh. Nghiêm chỉnh để thấy mình (quả thiệt) là quan trọng, nghiêm trọng, và trầm trọng. Những nhà đạo đức thiệt thường đều giữ cho mình một vẻ nghiêm chỉnh (ngoại trừ Đức Đạt lai Lạt ma). Những nhà đạo đức giả lại càng (giả bộ!) nghiêm chỉnh hơn thập bội các nhà đạo đức thiệt. Cù mãi chả chịu cười! Nói theo kiểu Nam kỳ: “Cái thằng đó có thọc lét cách mấy cũng không chịu cười!” Tại sao vậy? Bởi lẽ người đời khoái tin những người “có vẻ” nghiêm chỉnh - thiệt hay giả bất cần. Vì vậy, phải nghiêm chỉnh mới ăn tiền thiên hạ! Và các nhà đạo đức giả thừa biết điều đó.
Tuy nói vậy, bần tăng không phải là người chủ trương (cái đạo) “không nghiêm chỉnh” một chăm phần chăm. Bần tăng chỉ muốn gióng một tiếng chuông báo động: “Coi chừng!” Khi bàn chuyện đánh giặc, người ta hết sức nghiêm chỉnh. Khi cầm súng bắn vào người khác ở mặt trận, không thấy một ai cười. Khi thổi kèn xung phong thúc giục quân sĩ chém giết nhau, cũng không thấy một ai cười. Sau khi tàn sát nhau tơi bời, tới lúc ký kết hòa ước, người ta cũng ký một cách hết sức nghiêm chỉnh (chẳng hạn Hòa ước Paris 1973 về chiến tranh Việt Mỹ). Tới lúc cần xé bỏ hòa ước, người ta cũng xé một cách hết sức nghiêm chỉnh (chẳng hạn Bắc Việt xé Hòa ước Paris 1973 rồi xâm lăng miền Nam năm 1975). Rồi tuyên chiến. Cũng tuyên chiến một cách hết sức nghiêm chỉnh. Dĩ nhiên. Nghiêm chỉnh mút mùa (... lệ thủy)!
Trên cõi đời ô trọc này, ai ai cũng là một tên hề. Người không nghiêm chỉnh là một tên hề, nhưng biết mình là hề. Người nghiêm chỉnh là một tên hề mà không biết mình là hề. Có những người hề mà rất nghiêm chỉnh. Cũng có những người nghiêm chỉnh mà lại rất là hề. Và hơn nữa, lại còn hề tột bực, hề đỉnh cao (trí tuệ!) Vì bởi đấng hề này cố gắng nghiêm chỉnh hết mình cho mình có vẻ nghiêm chỉnh chính cống. Tới mức trong thâm tâm cứ tưởng bở là mình nghiêm chỉnh... thiệt sự!
Thử hài danh một vài nhân vật nghiêm chỉnh khét tiếng trong lịch sử: Tần Thủy Hoàng, Hitler, Nhật hoàng, Mao Trạch Đông, Staline, Truman, Bác Hồ, Pol Pot, Bush Cha, Bush Con, Bin Laden... Kể thêm: Đức Giáo hoàng, Ay Da Tô La, các vị Thuợng toạ, các vị Lãnh đạo Tinh thần (hoặc hầu hết). Ngoại trừ có một vị đã tuyên bố: “Môn thể thao mà tôi ưa thích nhứt: Cười!” Tác giả: Đức Đạt lai Lạt ma.
Tuy nhiên, trên hết tất cả mọi người và trên hết tất cả muôn loài, trong Trời Đất có một vị nghiêm chỉnh vô địch: Thượng Đế. Một Đấng cù mãi chả chịu cười. Cù mỏi cả tay. Vô phương! Hết thuốc chữa! Chịu thua! Một Đấng mà mỗi khi nhìn thì ta phát “run như run thần tử thấy long nhan!” như Hàn Mặc Tử đã gào lên như thế í. Mà nghĩ cha nội này cũng thiệt là kỳ. Kiếm Thượng Đế nhìn làm chi cho phát run lên như cái... đuôi con thằn lằn? Bộ bị mắc bịnh khổ dâm hả cha nội? Mắc bịnh cùi thôi vẫn chưa đủ khổ hay sao?
6. Chuyện mang giày: Một anh chàng ngày nào cũng đi làm việc chăm chỉ. Nhưng lúc về đến nhà, ngày nào anh ta cũng ôm lấy bàn chưn của mình mà khóc thét: đau chịu đời không thấu! Sau cùng, chịu hết nổi, anh ta đi khám bác sĩ chuyên khoa. Sau khi tuột giày, bác sĩ khám bàn chưn anh rất kỹ, không thấy gì lạ ngoại trừ bàn chưn anh lớn hơn cỡ bình thường. Bèn hỏi: “Bàn chưn anh cỡ số mấy?” Anh đáp: “Dạ cỡ 42.” Hỏi tiếp: “Anh đi giày số mấy?” Đáp: “Dạ số 40.” Bác sĩ trợn mắt: “Sao? Giày số 40? Anh dư biết bàn chưn anh cỡ số 42. Như vậy anh bị đau chưn là phải lắm! Anh chỉ cần đổi giày số 42 mà đi là sẽ hết đau”. Anh chàng lắc đầu nguầy nguậy: “Dạ không được đâu bác sĩ”. “Sao vậy?” “Tui có con vợ rất khó tánh. Ngày nào đi làm việc về tui cũng bị vợ tui cằn nhằn đay nghiến. Cái thú vui độc nhứt và đã nhứt trong cuộc đời hẩm hiu của tui là lúc được cởi giày!”
7. Người ta cần có trí nhớ để tiếp tục, nhưng cần phải lãng quên để sống.
8. Một nhà thơ Nga nổi tiếng, trước khi tự nã đạn vào đầu, đã hạ bút viết lời trăn trối cuối cùng: “Thiệt tình mà nói: Không có gì để nói.” Nói chơi hay nói giỡn vậy cha nội?
9. Loài sống bằng lý trí rứt tóc phản kháng: “Tại sao ta phải sống hạnh phúc khi ta có quyền sống đau khổ? Ta tự ý chọn lựa sống đau khổ... cho cuộc đời ta có đầy đủ ý nghĩa (và đầy đủ tứ chi). Tự do của ta phải được thể hiện bằng sự chọn lựa! Pigé? Understand? Comprendo?” Quả đúng là “L’Homme Révolté”, Con người nổi loạn vô cùng trung thực, vô cùng hiên ngang, vô cùng hữu lý và vô cùng thích hợp với triết lý... Tây! Mấy ông Triết ta da vàng mũi tẹt còn chờ gì nữa mà không bắt chước? Bắt chước để mà nổi loạn một cách trung thực và để chọn lựa sống vô cùng đau khổ cho nó có vẻ... chết lý! “Phải tưởng tượng rằng Sisyphe hạnh phúc” Hết ý kiến! (Tưởng cần nhắc lại là theo thần thoại Hy Lạp, vì chống lại Trời nên Sisyphe bị Thượng đế đày lăn hòn đá lớn lên đỉnh núi. Chờ cho hòn đá lăn trở lại xuống chưn núi, Sisyphe lại lăn nó trở lên đỉnh núi. Lại lăn xuống... lại lăn lên... mút mùa lệ thủy... cho tới bây giờ vẫn còn lăn. Và Camus đã phán: “Hãy tưởng tượng rằng Sisyphe hạnh phúc”. Cần phải có một trí tưởng tượng phong phú và rất lớn dĩ nhiên!)
10. Đời sống trong rừng thoạt trông rất hỗn loạn, vậy mà nó rất trật tự theo cái luật riêng của nó. Đòi sống con người thoạt trông rất trật tự, vậy mà nó rất hỗn loạn theo luật riêng của nó. Luật rừng, luật người: Luật nào ít tác hại hơn luật nào? Hãy trông vào cài kết quả dài hạn thời biết liền: Trên địa cầu này, loài thú đã có mặt từ hơn mấy trăm triệu (tỉ?) năm nay mà bây giờ vẫn còn tiếp tục đều đều. Còn loài người le lói và nhảm nhí chỉ mới xuất hiện chưa đầy năm triệu năm mà ngay trong thời điểm này đã tạo ra vô số vấn đề nan giải (ô nhiễm, làm nóng địa cầu, đe doạ nguyên tử...) gieo hỗn loạn trong thiên nhiên và trong đời sống của muông thú. Than ôi! Cái thành quả sáng chói của cái gọi là “đỉnh (cứt) cao trí tuệ” mà như thế đấy ư? Coi chừng một ngày nào đó, Trái Đất sẽ đá đít cái giống “đỉnh cao trí tuệ” ra khỏi địa cầu như một tên cờ bạc lận bị túm cổ và quăng ra khỏi casino ở Las Vegas. “Đi chỗ khác chơi!”
Nghĩ lai rai - Mười lăm
1. Trên bình diện sinh học, con người cũng chỉ là một loài thú như bao loài thú khác. Cũng đầu cổ, cũng tóc tai, cũng chưn cẳng, cũng máu huyết, cũng mắt mũi, cũng miệng lưỡi, cũng tim gan, cũng phổi phèo như mọi con thú khác. Xêm xêm. Và hơn nữa, cũng có cái đuôi nhưng mọc ở phía trước (con đực). Xin nhắc khéo là nhà zăn Thế Giang có viết quyển “Thằng người có đuôi” để miêu tả cái thằng người dưới chế độ Cộng sản. Nhưng than ôi! Con người cũng là một con thú nhưng có điều khác hơn một chút: Con người là một con thú băng hoại. Cái giống người, cái giống Homo, tiến hoá từ Homo habilis sang Homo ergaster, sang Homo erectus, rồi tới Homo sapiens. Và cuối cùng: Homo sexuel: Terminus! Mời giống Homo xuống xe và cút thẳng cho người ta nhờ!
2. Thơ “lộn lèo”: Ban ngày lặt cỏ tối công phu/ Đậu ủ lâu ngày hóa đậu lu/ Ngày thì địa chủ đêm tu đạo/ Đạo chi lạ rứa? “Đạo ù ù”!
3. Kinh nghiệm bản thân về tham thiền: Thiền trong động vắng thì dễ. Thiền trong động đĩ mới quả thiệt là khó lắm thay! Thiên nan vạn nan! Hổng tin làm thử thì biết liền đó, mấy cha nội!
4. Con người bỏ ra nhiều khối tiền đồ sộ để tìm cách bay lên mặt trăng. Nhưng lại quên bỏ ra chút đỉnh để tìm cách xít lại gần nhau trên cái mặt đất già nua và tốt bụng này. Chung quy, tiền mất tật mang! Quả là làm chuyện ruồi bu chó cắn.
5. Một anh chàng nọ rất sùng đạo, sáng nào cũng tới giáo đường cầu nguyện Ánh sáng Phúc âm. Nhưng tối đến thì lại khoái nhậu. Nhậu bia lu bù. Gì chớ nhậu bia vô thì mắc tè dài dài. Đời sống anh ta trôi suông êm ả: sáng Ánh sáng Phúc âm, tối La de Con cọp. Và tè đều đều, dĩ nhiên.
Cho đến một tối nọ, khi anh ta nhậu vô cả chục chai bia, mắc tè và “hò dô ta nắm cu kéo ra” mà tè thì mình mẩy bỗng phựt sáng. Lần thứ hai: Tè. Cũng lại phựt sáng. Lần thứ ba: lại phựt sáng nữa! Vô cùng hoảng sợ, sáng hôm sau anh ta tới nhà thờ thú tội với Cha Cả: “Thưa Cha, chẳng giấu gì Cha, ban ngày con cầu nguyện Ánh sáng Phúc âm, nhưng tối đến thì con có tật nhậu bia và đi tè. Nhưng tối hôm qua, khi tè thì cả mình con phựt sáng, Cha Cả khuyên con phải làm sao?”
Cha Cả đưa tay bóp trán ngẫm nghĩ hồi lâu rồi nói: “Con không phải làm gì đặc biệt hết. Nhưng Cha thành khẩn khuyên con đừng có tè vô cái tủ lạnh của con nữa”!
6. Ai cũng biết Đức có một triết gia lừng lẫy đã từng tuyên bố le lói: “Thượng đế đã chết!” Và mọi người thành khẩn sụp lạy trước câu phán này của Nietzsche, kể cả mấy ông da vàng, mặc dầu chính mình cũng đếch biết Thượng đế của ông Đức râu quặp này là cái chi chi cả!
Để duy trì truyền thống triết học le lói này (đã từng đẻ ra siêu quái thai Hitler!), ở Bá Linh có một đại học (máu) le lói mang cái tên le lói của Nietzsche. Trên cổng sắt lớn của đại học có gắn một bảng đồng đen bự tổ chảng, trên đó có khắc sâu câu phán le lói xanh dờn thuở sinh tiền của đại triết gia. Cho tới một hôm nọ, sau một đêm bão tố tơi bời, sấm chớp đầy trời, cái cổng sắt bị sập. Và trên bảng đồng đen, cái câu “Thượng đế đã chết!” (ký tên: Nietzsche) đã được một bàn tay bí mật nào đó xoá đi và thay bằng câu “Nietzsche đã chết!” (ký tên: Thượng đế).
Mới biết, vẫn có người le lói hơn cái người le lói số một trần gian!
Tuy nhiên, nghĩ kỹ lại, ngay từ đầu, khi nói “Thượng đế có thiệt” thì đã là một hoang tưởng - ít ra là dưới dạng thức một ông già nghiêm khắc có râu trắng dài chấm rún và chuyên ban phát phán xét cuối cùng. Bởi lẽ đó, khi nói tiếp “Thượng đế đã chết!” thì cũng là một hoang tưởng nốt. Vì vậy, bây giờ bàn về cái chuyện sống/ chết của Thượng đế thì cũng là bàn chuyện tào lao mà thôi. Chung quy, từ đầu tới cuối đều là hoang tưởng. Chỉ có “Nietzsche đã chết!” là có thiệt - ít ra là trong kinh nghiệm của một ít người.
7. Trên tất cả các tờ đô la phát hành ở Mỹ đều có in rõ ràng: “In God we trust”. Trên tất cả các tờ giấy bạc phát hành ở Do Thái đều có in rành rành: “In God we trust. The others pay cash!”
Mới biết, ở cái đất Jérusalem này, chỉ có Thượng đế mới được ghi sổ thiếu chịu. Kỳ dư, mọi người khác đều phải móc hồ bao mà trả tiền mặt liền tù tì. Cash! Please! Cộng thêm VAT, of course!
8. Một triết gia Pháp trứ danh (ngó một người thấy hai người) đã phán: “Địa ngục là kẻ khác!”
Từ từ đã cha nội (s’il vous plaît!). Xin đừng có chen lấn. Tại cha nội ngó không kỹ đó thôi. Coi chừng cái địa ngục của cha nội chính là cha nội đó nghe cha nội. Đi chữa mắt cho hết lé đi! Rồi hẵng tính sau. Có nói lộn cho cha nội nói lại. Mấy hồi!
9. Nếu định nghĩa: “Làm đĩ là đem cái nhục thể của mình ra để đổi lấy một lợi lộc”, vậy thì khi vua Trần gả ép công chúa Huyền Trân cho Chế Mân để đổi lấy hai châu Ô, Ri là đã bắt con mình làm chuyện gì? Trong ngôn ngữ của thế kỷ 21 này, người ta sẽ đáp: “Politically correct”!
Thêm nữa, cái chuyện nàng đệ nhất phu nhân Mẽo Jackie Kennedy đã chịu hiến mình cho tên tỉ phú Onassis để đổi lấy vài chục triệu đô bỏ vô nhà băng lấy lời là đã làm chuyện gì? Cũng vẫn là làm cái chuyện “politically correct” dĩ nhiên. Vinh hạnh thay! Vinh hạnh thay! Từ xưa tới nay, từ Á sang Âu, từ Âu sang Mỹ, xuyên qua các triều đại, xuyên qua các trung tâm quyền lực, xuyên qua các tài sản kếch sù, những cuộc dựng vợ gả chồng, những cuộc kết hôn hoàng tử với công chúa xét ra cũng chỉ là những cuộc “bán phấn buôn hương” trắng trợn và vô cùng hợp pháp mà thôi.
Vậy mà khi mấy em nhỏ thất học ở xứ nghèo nhắm mắt đem thân xác mình (đôi khi cả tiết trinh mình) để đổi lấy năm mười đô nuôi thân và giúp đỡ gia đình thì lại bị sỉ vả tơi bời là “đồ làm đĩ!” Nhiều khi còn bị bắt bỏ tù và phạt tiền. Dĩ nhiên, tiền nộp phạt là tiền bán thân của em nhỏ chớ biết lấy đâu ra?
10. Ca dao: “Đi đâu mà chẳng lấy chồng?/ Người ta lấy hết chổng mông mà gào!”
Nghĩ lai rai - Mười sáu
1. Lời thật thì không đẹp/ Lời đẹp thì không thật.
2. Lời nói khiến cho ta phải bật cười bao giờ cũng tốt cho sức khỏe hơn là lời nói khiến cho ta bóp trán nhức đầu cả đêm. Và bị táo bón nặng.
3. Tình tuyệt vọng:
Đèn Mỹ tho không xanh không đỏ
Anh coi không rõ anh tưởng đèn màu
Rút gươm đâm họng máu trào
Để em ở lại kiếm nơi nào hơn anh!

4. Có người xả mình để binh vực những đấng không cần một ai binh vực hết như Thượng đế, Thần linh, Đảng trưởng, Chủ tịch, Tổng thống, Lãnh tụ, Trưởng ấp... thì bần tăng, bần tăng binh đĩ. Chết bỏ! Cũng đâu có oan ức gì đó mà kêu ca?
5. Bí quyết gia truyền: Cô nữ minh tinh nọ lúc xuân xanh nổi tiếng với bộ ngực vĩ đại vang lừng Hollywood. Lúc về chiều, bà góa phụ già có một đòn căng da mặt chớp nhoáng: Bà chỉ cần tháo cái nịt vú của mình!
6. Sau khi cách mạng Trung Quốc thành công vĩ đại, về mặt kinh tế, Mao thực hiện “bước tiến nhảy vọt” vĩ đại. Nhưng rủi thay, bởi vì nhảy vọt lẹ quá nên heo gà trâu bò theo không kịp. Hằng tỉ ông Cắc chú chỉ còn nước ăn bo bo với muối cục và nai lưng ra mà cày thay trâu.
Cày dài dài cho tới lúc Mao thực hiện thêm một cuộc đại cách mạng thứ hai khác nữa: “Cách mạng văn hóa”. Sau cuộc cách mạng này, mấy ông Cắc chú vẫn tiếp tục ăn bo bo với muối cục, và hơn nữa còn thêm “dốt đặc cán mai”. Nhưng cũng nhờ ở dốt đặc cán mai nên không biết mình bị Mao xếnh xáng gạt dài dài... suốt cái lịch sử trường thiên của Ba Tàu. Dài như cái Vạn lý trường thành lê thê ở trên xứ chệt bên đó vậy!
7. May mắn thay! Con người có cái chết. Vì thử tưởng tượng một tỉ ông Ba tàu (khoái ăn mì) không chịu chết và tiếp tục xực phàn mỗi ngày 3 bữa, một tỉ ông Chà và cứ sống nhăn hoài để ăn cà ri dài dài, năm trăm triệu người Nam Mỹ... một trăm triệu người Inđônêxia... vân vân và vân vân... Nếu như không một ai chịu chết hết thì chuyện gì sẽ xảy ra trên cái trái đất chật hẹp này? Vậy mà có một đấng triết Tây đã từng lớn tiếng để nổi loạn chống lại Thượng đế: “Tại sao làm người lại phải chết? Phi lý! Phi lý!” Rồi nôn mửa tới mật xanh như đàn bà có bầu, và phe da vàng ta có nhiều đấng cũng bắt chước ói mửa theo vô cùng ngất ngư. Ai mới thực sự là người phi lý đây cha nội? Thượng đế hay cha nội? Cũng may! Cha nội này đã chết mất đất từ khuya. Chết một cách hết sức... có lý! Cho cha nội hết cho chó ăn chè.
8. Phàm ở đời, dạy cho con khỉ leo cây và con chó nó sủa vẫn hợp lẽ trời và dễ hơn là dạy cho con khỉ nó sủa và con chó leo cây. Nhưng vinh hạnh thay! Loài có lý trí (và có cứt trong đầu) vẫn khoái kiếm chuyện khó mà làm. Và hiu hiu!
9. Chuyện khó tin nhưng có thật: Một bận nọ, Đức Giáo hoàng đáp phi cơ phản lực (không người lái) đến nước Nga để viếng thăm các con chiên đỏ của mình bên đó. Trước khi đáp xuống phi trường Móc-Cu-Ba (ui da! đau chết cha!), Ngài phải điền vào một tờ khai nhập cảnh.
Ở mục “Sexe”, Đức Giáo hoàng đã gạch chữ thập cho phải đạo (dĩ nhiên) và ghi chú thêm: “Rất bình thường. Ngày trong tuần: một lần. Ngày chúa nhật: hai lần”
10. Nếu chỉ đọc sách thể dục khơi khơi mà có thể nở được bắp thịt thì chỉ cần đọc kinh khơi khơi thôi cũng sẽ lên được Thiên đàng. “Dễ ợt!”.
27/9/2007
Kiệt Tấn
Theo http://www.talawas.org/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Hoàng Nhuận Cầm "Mà thơ là nợ, mà tình là đau"

Hoàng Nhuận Cầm "Mà thơ là nợ, mà tình là đau" Mà thơ là nợ, mà tình là đau là câu thơ Hoàng Nhuận Cầm viết tặng bạn anh, nhà th...