Sự đời 1
Đôi lời: Đến nay lưng mỏi gối dùn, không còn làm chi được
nữa, bần tăng bèn nhậu vô lai rai, động não lai rai và nghĩ lai rai về ba cái sự
đời. Ngay từ xưa, ca dao ta đã từng ngẫm cái sự đời như sau:
Sáng trăng em tưởng tối trời
Em ngồi để cái sự đời em ra
Sự đời như cái lá đa
Đen như mõm chó, chém cha sự đời!.
Nghĩ lai rai - Một
1. Trong đời sống, có một cách chữa trị hiệu quả nhứt chứng nhức đầu: sự
giễu cợt.
2. Cái thông minh của con người là một loại vũ khí tiêu diệt tập
thể tài tình và hiệu quả nhứt.
Chính cái đầu óc (đỉnh cao trí tuệ!) và cái gọi là “thông minh” của
con người đã được chỉ huy bởi lòng tham và lòng ác mà nó đẻ ra biết bao loại vũ
khí tiêu diệt tập thể khác: bom nhỏ, bom lớn, bom xăng đặc, bom hóa học,
bom vi trùng, bom nguyên tử, bom hạch nhân... - và nó sẽ còn chế tạo thêm loại
vũ khí khủng khiếp nào khác nữa? Bên cạnh các loại vũ khí, cái “thông
minh” của con người còn đẻ ra những hoạt động sinh lời (cho một
số người) gây ra ô nhiễm môi sinh, bóp nghẹt trái đất và tàn sát muôn
loài.
Trong tình trạng hiện nay, cái thông minh của con ngưòi chỉ mới đạt tới trình độ khôn
vặt. Một loại thông minh được chỉ huy bởi lòng ích kỷ và lòng tham, nhằm phục vụ
độc nhứt cho mình và bè đảng mình. Hơn nữa, một khi cái thông minh-khôn vặt được
chỉ đạo bởi lòng ác, thì nó sẽ trở nên vô cùng tàn độc.
Trộm nghĩ, cái thông minh-thực sự là cái thông minh được hướng dẫn bởi
lòng tử tế và lòng tốt, nghĩa là cái ý muốn và hành động thành thật nhằm đem tới
hạnh phúc cho kẻ khác. Chính cái hạnh phúc của kẻ khác sẽ đem tới hạnh phúc cho
mình. Nếu như nó không mang tới được hạnh phúc, thì ít ra nó cũng không gây khổ
đau cho người khác, thiết tưởng như vậy cũng đã là quý lắm rồi!
Cái thông minh-thực sự nó rất gần gũi với hiền triết (wisdom/ sagesse). Bởi
vậy, khi nói “thông minh” phải thận trọng. Coi chừng mình đang ngợi ca và đồng
loã với cái ác!
3. Thơ Kiều: “Trải qua một cuộc bể dâu/ Những điều trông thấy mà đau đớn
lòng”
Nhái Kiều: “Trải qua một cuộc bể dâu/ Những điều trông thấy mà đau... thấy
bà!”
4. Sở dĩ con người biết nói láo là bởi vì con người có ngôn ngữ.
5. Cái guồng máy của loài người được vận chuyển bởi một thứ nhiên liệu gây
ô nhiễm nhứt trần gian: lòng tham.
Cái mà lòng tham làm ô nhiễm trước tiên là lòng người. Từ đó, chính
cái lòng người–ô nhiễm này tạo ra mọi thứ ô nhiễm khác: ô nhiễm không khí, ô
nhiễm đại dương, ô nhiễm sông ngòi, ô nhiễm đất đai, ô nhiễm nguyên tử, ô nhiễm
vũ khí, ô nhiễm kinh tế-tài chánh dưới dạng thức bóc lột, đưa tới cách biệt sâu
thẳm giữa giàu nghèo tạo ra bạo động triền miên, vân vân... Nói chung, lòng
tham của con người làm ô nhiễm môi sinh của chính con người, hủy diệt sự sống trên
địa cầu, cướp đoạt hơi thở trái đất. Và cuối cùng, chính cái lòng tham của
con người sẽ đưa con người tới sự hủy diệt của chính mình.
6. Ta thà sống trong vinh quang chứ không thèm chết trong vinh
quang.
7. Nói chuyện văn nghệ chơi: chuyện làm thơ. Bận nọ trong lớp học, để
dạy cho học trò mình làm thơ, cô giáo đương cử ra một thí dụ: “Ao thu lạnh lẽo
nước trong veo/ Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo. Chữ veo với
chữ teo đều thuộc vần eo. Làm thơ cốt nhứt là phải có vần, các
em hiểu chưa?” “Dạ hiểu!" Thực tập. Trò thứ nhứt, cũng cảm đề từ cái ao:
“Trong một cái ao cóc/ Em thấy bơi lội một bầy cá lóc”. Cũng được.
Trò thứ hai, cũng lại cái ao: “Trong một cái ao ếch/ Em ngó hoài hổng
thấy gì hết”. Không hay lắm, nhưng mà có vần, thôi cũng được. Trò thứ ba, cũng
vẫn cái ao: “Trong một cái ao nhái/ Em bước xuống nước lên tới...” Tới
đây em nhỏ bỗng nhợn, bèn nhỏ bước ngập ngừng: “lên tới..., lên tới...” Cô giáo
sốt ruột lên tiếng thúc giục: “Nước lên tới đâu em?” “Dạ... dạ... Trong một cái
ao nhái/ Em bước xuống nước lên tới... đầu gối” Cô tức quá đập
thước cây xuống bàn: “Bộ em không thể nào rán thêm một chút nữa cho nó có vần
hay sao?” “Dạ thưa cô... thưa cô... em cũng rán lắm, nhưng mà ngặt vì ao nước
nó cạn quá!”
8. Ở đời có ba trình độ ngu: Ngu mà biết mình ngu là ngu
ít (tiểu ngu). Ngu mà không biết mình ngu là ngu vừa (trung
ngu). Ngu mà tưởng mình khôn là ngu lớn (đại ngu, nói xuôi chứ
không có lái liếc chi cả).
9. Tuyệt đối và vĩnh cửu là hai ý niệm mà không ai có thể
kiểm chứng được hết. Bởi lẽ đời người thì có giới hạn, nằm trong vòng tương đối
và thuộc lẽ vô thường. “Thì qua nói tuyệt đối và vĩnh cửu chơi cho
dui dậy mà em Hai! Sao gài cẳng qua chi dậy?”
10. Ở đời cái gì cũng (có thể) quan trọng. Nhưng nghĩ cho cùng, cũng
chẳng có cái gì quan trọng.
Nghĩ lai rai - Hai
1. Quan niệm tự do có nghĩa là “muốn làm gì thì làm”: đó là
cách tự sát tốt nhứt. Bởi lẽ, khi đem cái màn “muốn làm gì thì làm”
ra biểu diễn (chẳng hạn tát tai đại cái thằng có bản mặt thấy ghét) thì thiên hạ
(nhứt là thằng Bruce Lee) nó sẽ đục cho phù mỏ liền tại chỗ! Hoặc trên xa lộ tự
nhiên nổi hứng cảm thấy mình có tự do đổi sang lề trái, “muốn làm gì thì làm”.
Thì cứ đổi đi, sẽ biết liền.
2. Thuyết dù có hay cách mấy cũng có thằng sẵn sàng bẻ cong để phục vụ
cho cái tham vọng và quyền lợi của mình. Bất luận: từ thuyết chính trị,
thuyết xã hội, thuyết kinh tế, thuyết tài chánh, vân vân… cho tới thuyết triết
lý, thuyết tôn giáo… Bẻ cong lý luận là cái tánh đặc thù của con người.
Và đó chính là cái đạo đức giả và cái đểu ác/ cynisme, hai lối
hành xử đặc thù của loài người. (Hành xử: hành động và xử trí. Comportement/
behaviour)
3. Vũ trụ còn có bờ có bến, chớ cái xuẩn ngốc của con người thì nó vô bờ
vô bến.
4. Khi chứng đúng được hành động của mình thì người ta dám hiên
ngang trở thành bạo chúa.
5. Quan niệm “Tự do là tôi có quyền đặt để thân xác tôi”,
hoặc nôm na: “Tôi có toàn quyền sử dụng thân xác tôi để làm gì thì làm”. Quan
niệm như thế sẽ nhanh chóng dắt mình tới chỗ xâm mình, xỏ mép, cẩn vú, xỏ lưỡi,
để chóp, bạo động, nghiện ngập và… làm đĩ.
Hơn nữa, ôm bom cho nổ banh xác giữa đám đông là quyền tự do của mỗi
người chăng? Hoặc biết mình bị bịnh sida mà vẫn tiếp tục dùng thân thể
mình để truyền bịnh cho người khác cũng là tự do chăng? Vân vân và vân vân.
Đi tìm tự do tuyệt đối là chạy theo một ảo tưởng tuyệt đối.
Nó là dạng thức của thứ tự do vô trách nhiệm, một sự ích kỷ trá hình, một
trình độ ý thức còn ấu trĩ. Nó chẳng khác gì đứa con nít tự cho mình có tự do
tuyệt đối rồi muốn làm gì đó thì làm: muốn ăn thì ăn, muốn ỉa thì ỉa, muốn la
thì la, muốn khóc thì khóc, muốn nằm vạ thì nằm vạ. Bởi lẽ đó, nghĩ cho cùng,
có thể chỉ có một loại tự do thực tiễn khả dĩ chấp nhận được: Tự do có
trách nhiệm. Một dạng thức của tự do đã trưởng thành.
Và trên hết, một điều kiện tiên quyết của tự do: Phải tôn trọng tự do của
kẻ khác.
6. Thơ Bà Huyện Thanh Quan: “Tạo hóa gây chi cuộc hí trường / Đến nay thấm
thoắt mấy tinh sương”
Nhái thơ Bà Huyện: “Tạo hóa gây chi cuộc hý cầu/ Đến nay thấm thía cái phao
câu”
7. Làm chính trị mà không biết nói láo là không làm đúng nghề của
mình và thiếu lương tâm nghề nghiệp.
8. Loài sống bằng lý trí cự nự: “Tại sao ta phải sống giản dị khi ta có
quyền sống rắc rối? Tại sao ta phải sống hạnh phúc khi ta có quyền sống
đau khổ? Tại sao ta phải sống hòa bình khi ta có thể gây chiến
tranh?” Chiến tranh bao giờ cũng mang tới phồn thịnh cho những nước bán vũ khí,
trong đó có Mỹ, Nga, Tàu, Anh, Pháp, v.v... Nếu không có chiến tranh, sẽ có nhiều
nền kinh tế sụp đổ, sẽ có vô số người bị sa thải, thất nghiệp. Và đảng đang cầm
quyền sẽ thất cử lần tới. Vì vậy phải duy trì chiến tranh và mở rộng thị trường
vũ khí.
9. Quẳng câu hỏi nhớn lên không trung, coi chừng nó rớt xuống
trúng u đầu!
10. Đại hội múa nón
Trong bài “Xúc cát trước bàn thờ”, bần tăng có hứa hẹn với bà con ta là sẽ
viết về cái tiết mục “Đại hội múa nón”. Sở dĩ có cái tiết mục này là bởi bần
tăng có nhận được, qua talawas, một bức “Tâm thư gửi nhà văn Kiệt Tấn: toang hoang ngoàì phố chợ” (3/2007)
do Em Bé Quàng Khăn Đỏ (gọi tắt sau đây là Em Nhỏ) âu yếm soạn
thảo với tất cả tấm lòng. Mới đầu, ngó thấy cái tên mình le lói, bần tăng cứ tưởng
bở là “Tâm thư” đó gởi cho mình. Ai dè càng đọc càng có cảm tưởng là Tâm
thư đã gởi nhầm địa chỉ: nhân vật được “Tâm thư” nhắm tới và lột da là ai
đó lạ wắc, không ăn nhập gì tới mình hết. Quả thiệt là tai bay vạ gió!
Thoạt đầu, Em Nhỏ nói lên sự cảm mến của mình đối với đại văn (dầu)
hào Kiệt Tấn. Rồi tiếp theo đó là sự thất vọng não nề của mình khi đọc
bài “Sục cặc trước bàn thờ” (SCTBT) của Kiệt Tấn trên talawas (tháng
3/ 2005). Bần tăng rất lấy làm cảm động và vô cùng (Tổ Quốc) ăn năn. Từ sự thất
vọng, “Tâm thư” dần dần chuyển sang hờn dỗi, trách móc, ngắt véo, và cuối cùng
là chụp lên cái đầu trọc lóc của bần tăng vô số cái nón bèo nhèo “không khá”.
Ngửi cái hơi văn của “Tâm thư”, bần tăng nghi ngờ là có bàn tay của “Mỹ Ngụy ác
ôn” giựt dây phía sau Em Nhỏ. Bởi lẽ đó, cái tiết mục “Đại hội múa
nón” này được bần tăng viết ra không phải chỉ nhằm trả lời Em Nhỏ mà
là để giải độc chung cho “Mỹ Ngụy ác ôn” sau hậu trường. Nhưng nói chung là để
trả lời cho tất cả những ai có những cái nón tương tự như vậy và rắp toan chụp
lên đầu bần tăng.
Cảo thơm lần giở trước đèn...
Trước khi đi vào thời sự bi giờ, bần tăng giở lại sử sách thời cổ để xem người
xưa xử trí ra sao khi gặp phải hoàn cảnh khó xử như bần tăng hiện nay.
Thời xưa, các ông Trời Con của Trung Quốc lúc nào cũng kiếm cớ để đục cho dân
Giao Chỉ ta phù mỏ và đè đầu dài dài. Cả ngàn năm. (Mẹ rượt!). Rồi một lần nọ,
thêm một lần nữa Xứ Giữa lại kiếm một cái cớ bá láp nào đó để mà kéo quân Chệt
sang xéo dày lăng miếu ta - cũng giống như Bush Con thời bi giờ phịa
ra cái chuyện “vũ khí tiêu diệt tập thể” để kéo quân và tung máy bay sang vừa
uýnh vừa dội bom I-Rắc vậy đó. Quân sư Khổng Không Minh của Xứ Giữa bèn bày ra
kế độc như sau: Sai sứ đem con Trâu Cổ vĩ đại giỏi võ Thiếu Lâm
và Võ Sừng nhứt nước Tàu sang xứ ta để thách chọi trâu. Nếu ta thắng
thì Xứ Giữa bãi binh. Nếu ta thua thì mấy ông Ba Tàu sẽ cất đại quân sang mà đì
cái giang sơn gấm vóc của nước Văn Lang ta và bắt dân ta phải triều cống dài
dài.
Được thư của sứ Tàu, vua ta sợ toát mồ hôi - có sách chép là “té đái luôn”. Bèn
khẩn trương (lên!) cho họp hết bá quan văn võ lại và đồng thời ban chiếu chỉ
triệu Trạng Quỳnh cấp tốc đến chầu. Sau khi nghe quan Thừa Tướng
làm biefing tình hình nước nhà và tin tức khí tượng, Trạng Quỳnh bèn
dập cái đầu có sạn của mình xuống bệ rồng (ui da!) rồi khải tấu: “Muôn tâu
Bệ Hạ! Hạ thần đã có kế thắng con Trâu Cổ của Trung Quốc”. Đức vua lấy làm mầng
rỡ, truyền bãi trào.
Trạng Quỳnh lui về cơ ngơi nhỏ của mình ở Ô Cầu Giấy, đóng cửa kín mít tử thủ với
một con trâu baby nữ chưa có sừng suốt ba ngày ba đêm. Suốt ba ngày
đó, Trạng Quỳnh tha hồ xơi phở, còn con baby nghé thì bị Trạng Quỳnh
dứt sữa cưỡng bách, chỉ được uống nước phông-ten chớ không được bú sữa mẹ hoặc
sữa đặc có đường chi hết ráo. Baby khóc thét lâm ly!
Rồi ngày trọng đại đã đến. Vua, quan, triều thần và bá tánh đến đặc nghẹt vây
quanh cái sân tròn lớn để xem chọi trâu. Sứ Tầu truyền thả con Trâu Cổ ra.
Sổ lồng, con Trâu Cổ bèn hung hăng chạy một vòng sân banh để biểu diễn cặp sừng Adidas mới
tinh khôi của mình. Vừa chạy vừa xổ tiếng Quan Thoại vừa múa võ sừng, vừa thở
ra lửa đỏ và khói CO2 mịt mù, tạo ra nạn ô nhiễm trầm trọng tại kinh đô Thăng
Long ngàn năm ăn vặt của ta. Bên phía ta, Trạng Quỳnh truyền mở một cái chuồng
gỗ nhỏ kín mít thả con baby nghé ra. Bị bỏ đói rã ruột từ ba bữa nay,
con nghé ngó thấy con Trâu Cổ bèn mừng rỡ như thấy má đi chợ về. Nghé ta bèn
kêu lên “Mamy!” một tiếng lớn vô cùng cảm động rồi lon ton chạy đến chui dưới bụng
con Trâu Cổ tìm vú mẹ để xin “bú tí”. Tưởng cần nên nói rõ là theo truyền thống
dân tộc của loài có sừng, trâu đực không bao giờ húc trâu nghé không có sừng.
Đang trong tư thế sẵn sàng chiến đấu, bỗng nhiên bị “nâng bi” bất ngờ, Trâu Cổ
chới với chạy giạt ra góc sân. Nhưng con baby nghé đâu có tha. Baby cứ
lon ton chạy theo khóc la dậy trời. Rồi cứ đưa lưỡi mà liếm dưới bụng và giữa
hai chân sau của con Trâu Cổ - có cái gì tòn teng như thể là hai cái vú. Nhột
quá! Nhột quá! Một bên bỏ chạy, một bên cứ rượt theo. Được ba vòng sân
banh, trọng tài thổi còi chấm dứt trận đấu và tuyên bố “Trâu Nghé toàn thắng!”.
Thế là nước Văn Lang ta thoát nạn. Vua tôi bèn mở tiệc ăn mầng ba ngày ba đêm,
để Nhà Nước ta cùng liên hoan với nhân dân và “nhảy hòa bình” mút mùa lệ thủy.
Sở dĩ bần tăng nhắc lại sự tích “chọi trâu” này là ngụ ý chỉ cho bà con ta thấy
bần tăng đang lâm vào cái thế kẹt của con Trâu Cổ Ba Tầu. Em Nhỏ đang
(bị xúi giục?) đem bức “Tâm thư” ra sử dụng như đòn “Sư Tử Hí Cầu” để mà chọc
nhột bần tăng. Chẳng lẽ Trâu Cổ trả đòn con baby nghé, cho Em Nhỏ khóc
thét chạy về nhà mét ba mét má? Hay là bần tăng sẽ bỏ chạy như con Trâu Cổ Ba
Tầu? “Không!” Bần tăng sẽ ở lại cầm bút lên mà vạch cho đám quân sư quạt mo Trạng
Quờn thấy các ngón đòn chụp mũ bừa bãi của mình quả nhiên đã đi trật
đường rầy tuốt luốt.
Nón một: Dâm thư
Tâm thư viết: “Hễ không đủ tài, không đủ “form” là văn sẽ “ô uế” ngay, sẽ
thành một loại dâm thư... vọc lồn”.
Nếu viết như trên để ám chỉ tà ý của bần tăng thì Em Nhỏ hãy đọc kỹ
bài “SC” lại đi. Trong suốt bài của mình, bần tăng vẫn một mực đính chánh là
các nàng không hề viết dâm thư. Vả lại, trong suốt cuộc đời tu hành vớ vẩn
của mình, bần tăng đã đọc không ít các loại sách gợi dục/ érotisme và
dâm thư/ porno rất là “hết cỡ nói”, rất là “chằn ăn trăn quấn”. Đối
với bần tăng thì nhằm nhò gì ba cái “văn chương tình dục” lẻ tẻ trong tạp
chí Hợp Lưu
số 81/ 2005 (chủ đề: Tình dục và các nhà văn nữ di dân). Bởi
lẽ đó mà bần tăng không cấp mề đai dâm thư cho “văn chương tình dục” ta đấy
thôi. Viết theo kiểu cái “bà khoái chơi Mễ” thì theo chủ quan của bần tăng, nó
chẳng là văn chương mà cũng chẳng phải dâm thư. Chuột chẳng phải chuột mà dơi
chẳng phải dơi. Các ngòi bút nữ, có ai đồng ý với quan điểm này? Và ai không đồng
ý? Viết dâm thư cho “đúng mức và đạt” cũng cần phải có cái nghệ thuật
riêng của nó. Chớ nên lầm tưởng viết dâm thư là chỉ việc tung ra tưới hột
sen các tiếng tục tĩu (như lồn cặc, đụ fuck, bú vú, bú cặc, vọc lồn, chảy nước
lồn, đụ liền tức khắc...) như một hai ngòi bút nữ đã làm trong HL 81 (cho nhân
vật nữ của mình đụ đủ người, chơi đủ kiểu, hoặc cho nàng leo lên giường biểu diễn
nhiều màn bạo dâm kỳ quặc) là ăn tiền độc giả. Dễ ợt như vậy à? Nếu có ai gọi
đó là dâm thư thì bần tăng sẽ bổ túc: “loại dâm thư tập tễnh, vụng về,
ngán ngược. Ớn chè đậu!” Đó là hạng dâm thư ấu trĩ thuộc loại “thủ dâm tâm
lý” của chính người viết.
Tuy nhiên, để tránh mang tiếng “dâm thư”, các nàng thường dùng một “tiểu xảo” rất
thông dụng: Em sẽ viết một cái chuyện rất là thanh bai, rất là luân
lý đạo đức, và em sẽ nói lên những điều rất là “siêu” (hình học không
gian)... Nhưng trong khi chờ đợi, xin độc giả cảm phiền nhướng con mắt lên để
coi em trình diễn những màn bạo dâm, những cảnh vọc lồn, bú cặc,
cái cảnh “và chơi cho sướng, chơi đủ người, đụ đủ kiểu”, hoặc ngoáy cái lỗ tai
lên mà nghe em văng tục “lồn cặc, đụ fuck” để hù bà con
là em vô cùng “tân kỳ hậu hiện đại”. Kế đến là để cho em xả
lòng em tự bấy lâu, không có thì em chết mất! “Rằng hay thì
thiệt là hay/ Nghe xong ngậm đắng nuốt cay... thấy bà!” Cái tiểu xảo này
trong dâm thư thiếu gì! Những quyển sách dẫy đầy “đụ fuck” có những cái tựa vô
cùng hấp dẫn như: “Nhựt ký lầu xanh của Nàng Đĩ Ngựa”, hoặc “Đời sống về khuya
của Bà Quả phụ Vú lớn”, hoặc “Dâm tình của Con nhỏ ở và Ông chủ Mắc dịch”, vân
vân... Suốt trong truyện cứ cho hành dâm ê hề, cho fuck thả giàn (như
cái bà khoái chơi Mễ). Chỉ cần hồi kết cuộc em cho Nàng đĩ ngựa, Bà
góa phụ và Con nhỏ ở ăn năn vô cùng thành thực và lâm ly. Rồi em cho cả ba cạo
đầu hoặc khoác áo nhà dòng mà đi tu, hay đi hành hương ở cái đất Tây Tạng xa
xôi trắc trở. Và cuối cùng, Đấng Tối Cao động lòng đưa tay xuống cứu rỗi và mở
cửa Thiên Đàng đón hết cả ba Thánh Nữ vào. “The End”! Vô cùng siêu hình học và
sặc mùi đạo hạnh! Em sẽ lấy nước mắt bà con ta dễ ợt. “Kleenex, please!”
Nón hai: Khinh miệt gái đĩ
“Tâm thư” viết: “(Tuyết) không có đủ ngôn ngữ hoặc lý trí để phản kháng lại sự
bất lực của hai tên con trai (Lộc và Kiệt) còn mang nặng thành kiến về sự cách
biệt giữa “gái nhà lành” và “đĩ” ”
Em Nhỏ nói “bất lực” xem chừng có hơi tối nghĩa, vì thuở mười tám tuổi, thằng
bé của bần tăng phục vụ rất là good. Còn “khinh miệt” thì bần tăng đoán có
lẽ Em Nhỏ chưa từng nghe tới cái hỗn danh “người binh đĩ” mà giới
giang hồ cầm bút đã gán cho bần tăng từ khuya. Thứ nữa, ông tướng Trần
Nghi Hoàng (cái đầu có rất nhiều sạn và sỏi đá rong rêu) đã viết về bần
tăng trong tạp chí Văn 117 & 118/ 2006 (tr. 40) như sau: “Kiệt Tấn
yêu đĩ, yêu nữ sinh, yêu đàn bà, yêu con gái, yêu ca ve, yêu gái quê... đều “bằng
như nhau”. KT không... phân biệt giai cấp trong tình yêu lẫn tình dục
của ông”. Té ra cái ông tướng Trần Nghi Hoàng đã viết nhảm nhí, đã
loan tin thất thiệt. Rất là phản động, rất là phản cách mạng, rất là đắc tội với
Nhân Dân. Chẳng những thế, lại còn âm mưu phá hoại Nhà Nước, bôi nhọ Dân Tộc
anh dũng kiên cường hoành tráng của ta. Chỉ còn nước xách cổ ra mà bắn bỏ dưới
cột “Cờ Đỏ Sao Vàng”.
Tới đây, bần tăng xin tạm ngưng tiết mục trình diễn “Múa nón” và cho
đi một trang quảng cáo. Em Nhỏ có ôm mặt khóc thét mà chạy về mét má?
Ông Thầy Chùa có bị điểm trúng nhằm yếu huyệt mà ngã xuống chết giấc ngay tại
chỗ? Muốn biết diễn tiến của màn “Múa nón” như thế nào, xin bà con
đón xem hồi sau sẽ rõ.
Nghĩ lai rai - Ba
1. Thế giới của con người khác với thế giới của con thú ở chỗ thế giới của
con người đầy dẫy những hoang tưởng. Và hơn thế nữa, con người lại tự cho
đó là “siêu”!
2. Từ chỗ thấp hèn nhứt cho tới chỗ cao cả nhứt, từ chỗ phàm tục nhứt cho
tới chỗ thiêng liêng nhứt, con người lúc nào cũng chạy theo những hoang tưởng không
dứt.
3. Quan niệm tự do có nghĩa là “muốn làm gì thì làm”: đó là cách
mất tự do nhanh chóng nhứt.
Ai đó quan niệm tự do theo kiểu “muốn làm gì thì làm” thì hãy tưởng tượng một
thằng mẹ rượt nào đó áp dụng cái kiểu tự do “ta muốn làm gì thì ta làm” (chẳng
hạn nó muốn đè ngửa mình ra thì nó đè, nó muốn lật sấp mình xuống thì nó lật,
nó muốn đục mình phù mỏ thì nó đục...) Nếu nó biểu diễn tự do của nó theo kiểu
đó thì liệu mình có chấp nhận và chịu nổi hay không? Khi đó, thế giới con người
sẽ rất tự do để mà bạo động và rối loạn triền miên.
Tự do theo kiểu “muốn làm gì thì làm” bảo đảm sẽ đưa tới tình trạng người này
tìm đủ mọi cách để ngăn cản người kia thể hiện tự do của mình. Rốt cuộc sẽ
không một ai có thể tự do được hết: Mọi người sẽ mất hết tự do. Thử tưởng
tượng trong thành phố không một ai tôn trọng đèn xanh đèn đỏ, mạnh ai nấy chạy tự
do theo kiểu của mình. Khi đó, liệu ai có thể tự do để mà chạy được nữa
hay không?
Ai đã chẳng từng nếm thử thương đau cái kinh nghiệm kẹt xe ở một cái rond
point tám ngã mà mọi người đều giành nhau, lấn nhau để mà... kẹt cứng! Tự
do kẹt cứng! Ô-kê?
4. Bần tăng trộm nghĩ: Bạo dâm và khổ dâm (sado-maso /
S-M) phát xuất từ một nhu cầu tâm lý, từ cái hoang tưởng (thường là vô thức)
cho rằng hành lạc và khoái lạc là một tội lỗi cần phải được trừng
trị để cứu rỗi. Cứu rỗi bằng cách hành hạ, đánh đập, hạ nhục
thân xác mình và thân xác của người cộng lạc. Cũng như các tín đồ quỳ dưới
chưn Đấng Cứu Rỗi vừa lấy roi gai quất lên người mình cho đổ
máu, vừa khóc lóc, năn nỉ, tạ tội, xin lỗi để thấy mình xứng đáng được cứu rỗi.
Có hành hạ và trừng trị thân xác mình trước rồi thì sau đó mới được yên
tâm để hành lạc và hưởng cái khoái lạc nhục thể mà đầu óc mình
chối bỏ, kết tội, lên án (ý thức hoặc vô thức). Tóm lại: một trò “tự biên tự diễn”
(với một hay nhiều đồng loã) vô cùng lố bịch, vô cùng buồn bã, vô cùng đau đớn
và vô cùng thảm hại.
5. “Tôi suy nghĩ vậy tôi có”. Mẹ rượt! Không suy nghĩ tôi vẫn có như thường.
Không tin thử lấy kim nhọn đâm vào đít triết gia đang say ngủ thì biết.
6. Cuộc đời tự nó không có ý nghĩa, cũng không vô nghĩa. Cuộc đời vốn
nó như vậy đó. Ý nghĩa là một ý niệm do con người bày đặt ra nhằm thỏa
mãn cái đầu óc duy lý của mình. Nói ý nghĩa nhưng chưa chắc ai
đã đồng ý với ai về cái ý nghĩa (là phải như thế nào đó) mà mình gán
cho một cái gì đó (như đời sống, hành động, cứu cánh, tín ngưỡng...) Cái ý nghĩa
vốn nó không tự sẵn có trong Trời Đất. Chẳng hạn như cái chuyện mặt trời chiếu
sáng, trái đất quay tròn, âm dương thu hút nhau... vốn nó như vậy đó từ
đời kiếp nào, từ khi chưa có con người. Tự nó chẳng có ý nghĩa, nhưng
cũng chẳng vô nghĩa. Con người sanh sau đẻ muộn, tự nhiên từ đâu tới bày đặt phê
phán là cái này cái nọ có nghĩa/ vô nghĩa, rồi lại còn hiu hiu cái kiểu
“đỉnh cao trí tuệ”, cái kiểu “Ta Đây” có quyền (tại sao có quyền?) áp
đặt ý nghĩa do ta bày đặt ra lên mọi thứ, mọi chuyện. Nếu không có Ta thì mọi
thứ (luôn cả Đất Trời, vũ trụ) sẽ trở thành vô nghĩa! Rất là le lói!
Nhưng con người bày đặt ra cái chuyện “ý nghĩa” để làm chi vậy? Thì bày đặt ra
để chứng tỏ và để cảm thấy cuộc đời mình rất có ý nghĩa, rất đáng sống,
và rất “siêu”! Hỏi thử nhiều người về cái nghĩa sống, thấy không có cái ý
nghĩa nào giống cái ý nghĩa nào. Thành thử cái nào cũng được. “Thì le lói cho
zui dậy mà, em Hai!”
7. Hãy làm tình cho thiệt là lu bù và chăm chỉ, đừng có âm mưu
chính chị chính em gì nữa hết thì bảo đảm thế giới này sẽ hết giặc. Nói
thiệt đó! Vì bởi cho dù có còn giặc đi nữa thì thiên hạ cũng đã lâm vào cảnh lỏng
gối sụm bà chè. Mà một khi đã hết còn “quậy” quẹt gì nổi nữa thì ắt sẽ có thanh
bình là cái chắc! (CQFD)
8. Đại hội múa nón
Sau khi cho đi một trang quảng cáo, bần tăng xin trở lại cái tiết mục “Múa nón”
của Em Nhỏ. Bần tăng đã chỉ cho bà con ta thấy hai cái nón mà Em Nhỏ (và
đám Trạng Quờn) mưu toan chụp lên đầu mình, bần tăng xin giở tới cái nón thứ ba
cho bà con ta cùng chiêm ngưỡng:
Nón ba: Bất mãn tình dục
“Tâm thư” viết: “Họ (các ngòi bút nữ quyền) cũng không phải là những con người
mal baisées như ông đã kết luận”
Em Nhỏ đã hạ bút ngon lành và quả quyết như thế í. Trong khi đó, để né
tránh cái nón cùng một kiểu như của Em Nhỏ mà “nhà văn (rất) nhớn”
Phan Thị Trọng Tuyến mưu toan chụp lên đầu mình, bần tăng đã đính chánh trong
bài “Phỏng vấn” (VĂN 117 & 118/ 2006 - trang 122): “Tôi không có ý chụp
mũ là các bà nữ quyền đều bị bất mãn tình dục, nôm na tiếng Tây là mal
baisées. Tôi chỉ muốn nói các nàng bất mãn tình dục kinh niên khó thể có cảm
tình với bọn đực rựa (vô tích sự!)”
Em Nhỏ hiểu lời phát biểu này của bần tăng “za nàm thao” mà lại nỡ đi chụp
cái nón “nói phịa” lên đầu “thần tượng” gãy cánh của mình như thế? Chẳng
thương thì chớ, sao đành giết nhau? Hơn nữa, chính Em Nhỏ (và
nhiều bà nữ quyền khác nữa) đã “cung oán ngâm khúc” dài dài cái tệ trạng mal
baisées (chơi không đã) của người nữ trong “Tâm thư” của mình (phải
chăng?). Chớ nào phải bần tăng chụp cái nón mal baisées lên một nàng
nào đâu! Và nói rộng ra, cái tệ trạng này đâu phải chỉ dành riêng cho dân Giao
Chỉ ta. Mấy thằng đực rựa ngốc nghếch như thế í, nếu có bị vợ cắm sừng thì cũng
thiệt là đáng kiếp. Hoan hô cái bà khoái chơi Mễ! Cứ làm tới nữa đi, Em cho thằng
chồng Mít da vàng của Em nó biết tay!
Nón bốn: Lạc hậu kinh niên
Sau khi trình diễn dồi dào các nhà văn ngoại quốc và cổ võ phe ta nên noi gương
các nhà văn này, “Tâm thư” viết tiếp: “Tôi thất vọng vì sau hơn 30 năm ở nước
ngoài, chúng ta vẫn chưa thoát khỏi những lối nhìn hẹp hòi, những biên giới hà
khắc đã đày ải và dìm dập chúng ta trong tình cảnh tù đày và lạc hậu kinh niên”
Nghe Em Nhỏ thở than mà bần tăng muốn sa lụy hai hàng! Bần tăng bèn lấy
một quyết định sáng suốt (trước khi hành động mù quáng): Cách tân lối
sống của mình cho nó bớt lạc hậu, ngõ hầu làm nở mặt dòng giống Rồng Tiên
(đã rụng lông tróc vảy) của nước Đại Ngu (cấm nói lái) vốn vô cùng chậm tiến của
ta. Người ta quăng net thì bần tăng quăng lưới. Người ta gởi meo thì
bần tăng gởi mốc. Người ta điện thoại di động thì bần tăng la
làng tại chỗ.
Thứ nữa, từ hồi xưa tới giờ bần tăng chưa hề được đọc một quyển sách ngoại ngữ
nào hết (!) Vì vậy, để giảm bớt được phần nào cái tình trạng lạc hậu kinh niên,
bần tăng bèn lấy quyết định “đổi mới tư duy”, và đồng thời “cách tân” ngòi bút
của mình ngõ hầu theo kịp nhịp đập của con tim văn chương quốc tế. Ông Proust viết Đi
tìm thời gian đã mất thì bần tăng viết “Đi kiếm không gian vẫn còn”.
Ông Hemingway viết Ngư ông và biển cả thì bần tăng viết
“Ngư bà và cái ao rất cạn”. Ông Faulkner viết Âm thanh và cuồng
nộ thì bần tăng viết “Im lặng là vàng” (quyển 1) và “Nín khe mà nằm vùng”
(quyển 2). Ông Gide viết Khung cửa hẹp thì bần tăng viết “Cửa
sổ rộng”. Ông Steinbeck viết Của chuột và người thì bần
tăng viết “ Của mèo và khỉ đột”. Người ta viết dâm thư “Funny hill” thì bần
tăng viết “Phanh neo heo”. Và còn hứa hẹn nhiều sáng tác tân kỳ, tình dục “táo
bạo trâng tráo” khác nữa trong một tương lai gần xịt, ngõ hầu giảm bớt được phần
nào cái tệ trạng lạc hậu kinh niên của mình. Xin bà con chuẩn bị cash liền
tức khắc (giống cái Em đòi đụ liền tức khắc như đòi ăn mì gói trong HL 81) và
đón xem.
À quên! Bần tăng nguyện từ đây khi viết một dòng tiếng Việt thì sẽ trích dẫn
kèm theo ba dòng văn chương Tây Mẽo liền tù tì cho thiên hạ lé con mắt
chơi! “Chưa chắc thằng nào sợ thằng này!"
Tới đây, thêm một lần nữa bần tăng lại xin tạm ngưng trình diễn tiết mục “Múa
nón”. Em Nhỏ sẽ níu áo ông Thầy Chùa mà nằm vạ? Ông Thầy Chùa sẽ để
tóc trở lại và lấy vợ (người) khác mà làm ăn lương thiện? Muốn biết chuyện sau
thế nào, xin đón xem hồi sau sẽ rõ.
9. Trong khi chờ đợi, xin bà con cho phép cụ Nguyễn Du (vốn lạc hậu kinh
niên) bước ra sân khấu và cố gắng “xổ nho” một tí cho nó nhẹ bớt cái gánh nặng
chậm tiến:
“Cảo perfumed lần giở trước candle
Phong love cổ green còn truyền blue history”
Đó là cụ Nguyễn Du đang thực hiện một cuộc cách tân thơ cổ-lỗ-sĩ của mình trong
truyện Kiều nguyên thủy “Cảo thơm lần giở trước đèn / Phong tình cổ lục còn
truyền sử xanh”. Nhưng chưa nhằm nhò gì đâu, ba cái lẻ tẻ. Hẹn lần sau cụ Nguyễn
Du sẽ còn trình diễn thêm nhiều màn “xổ tiếng Đức”, “xạc tiếng Tây”, “nhai tiếng
Mẽo” vô cùng ly kỳ hấp dẫn. Xin bà con ta hãy ngoáy rộng hai cái lỗ tai cù lần
của mình lên để nghe cho rõ, ngõ hầu giác ngộ kách mệnh rồi nhân đó
mà tiến lên vù vù vụt vụt. Sẵn trớn lấy luôn năm ba cái bằng Ph.D. hoặc Phó Tiến
Sĩ. Có như vậy mới mong theo kịp bước tiến rầm rộ của thiên hạ xung quanh mình.
Bà con ta hãy rán mà nghe và thưởng thúc cái thứ văn chương “ba rọi” cho nó
quen. Nếu không muốn nghe thì cũng phải rán chịu. Bắt buộc. Nghe đây! Nghe đây!
Nhĩ lai rai - Bốn
1. Một cách nào đó, thiền là một cố gắng đi tìm lại cái
cõi hồn nhiên vắng bặt ý niệm thuở nguyên sơ của trẻ con và muông thú
2. Khi chưa hiểu thì người ta còn nói. Một khi đã hiểu rồi thì
người ta không còn gì để nói nữa.
3. Ngôn ngữ của con người là loại sương mù dày đặc nhứt thế giới.
4. Đọc tạp chí Hợp Lưu số 81/ 2005 thấy có một nàng (nữ quyền?) vô
cùng hung hăng (con bọ xít) và chống đối tới cùng cái âm mưu đen tối Mỹ Ngụy của
Nhà Nước-Xã Hội-Thị Trường ta nhằm lăm le bắt các nữ sinh phải bận áo dài
trắng và quần trắng để đi học. Quả là tức tối (tức sáng) thiệt tình! Bần
tăng bèn động não tư duy Mác Lê mà ngẫm ra thấy nàng hết sức hữu lý, bèn hồ hởi
xổ nho y hịt như nàng: «Ai là người sáng chế, nghĩ ra nữ sinh Việt Nam phải bận áo
dài trắng quần trắng, bó sát thân thể đang vươn sức sống? (…) Gợi lòng
tham dục của đám đực rựa! Fuck cái trò rửa mắt hả hê của
đám đực rựa tham dâm!»
Bần tăng lúc đó mới sáng mắt ra như Văn Vỹ sau ngày «giải phóng»! Và nhận thấy
nàng đã đi đúng y chang cái phong trào «No Bra Look» bên Mẽo của các bậc đàn chị
nữ quyền thập niên 60: «Ai là người đã sáng chế ra cái «bra» nịt vú? Bó
sát đôi vú đang vươn sức sống? Tự do «lủng lẳng» phải bị băng bó! Fuck! Bà chửi
thề!» Chửi xong nàng bèn tháo cái nịt vú mà liệng bỏ. Liệng xong nàng bèn
lượm lên… mà nịt lại. Lý do: đôi vú của nàng nó phản lại phong trào nữ quyền để
chạy theo sức hút của quả đất!
5. Gẫm lại cái thái độ chống nữ sinh nước ta mặc áo dài trắng quần
trắng để đi học của nàng hết sức hợp lý, bần tăng xin rụt rè kín đáo gợi ý
cho nàng hai cái biện pháp vô cùng lợi ích cho xã hội sau đây để nàng đạo đạt
lên Nhà Nước-Xã Hội ta ban hành và áp dụng triệt để:
Biện pháp một: Xét vì xứ ta là xứ nóng. Bởi lẽ ấy, mùa nắng, các em nữ
sinh bắt buộc phải mặc mini jupe, váy cực ngắn và áo thun mỏng có khoét lỗ
tùm lum để mà tới trường… cho nó mát. Và nhứt là để bọn đực rựa tham dâm hết
còn mong gì được rửa mắt Văn Vỹ trên chiếc áo dài bó sát của mấy em (nhục
chưa?) Bà fuck con mắt Văn Vỹ cho nó mù luôn!
Biện pháp hai: Xét vì xứ ta mưa nắng hai mùa. Bởi lẽ ấy, mùa mưa, các
em nữ sinh bắt buộc phải mặc string, quần lót dây và mình thì che sơ miếng
vải cao su để đi học, phòng khi mưa đến mấy em khỏi bị ướt áo và đỡ mục cái quần.
Kế đến, để cho cái quần trắng khỏi gợi lòng tham dục của bọn đực rựa (nhục
chưa?) Và trên hết: Cho «tự do khỏi bị băng bó»! Bà fuck luôn cái
băng bó!
Các em có mặc string như thế mới tiết kiệm được bột giặt, vừa đỡ làm
ô nhiễm môi sinh, vừa bớt tốn tiền cha mẹ, vừa tiết giảm được ngân sách quốc
phòng của Nhà Nước. Nhờ đó các em sẽ tích cực tiếp tay đẩy mạnh chính
sách «giảm nghèo xóa đói» của Đảng ta một cách hoành tráng và có cơ sở,
đầy đủ tư duy Mác Lê và chất lượng cao cấp. Và cuối cùng, cho Cha Già Dân
Tộc vĩ đại của chúng ta được ngậm cười (khúc khích) nơi chín suối (Lồ Ồ).
Nếu như thế mà vẫn còn ngoan cố ọ ẹ thì bà sẽ hạ bệ luôn Cha Già Dân Tộc! Đừng
có ỷ vào cái văn hóa truyền thống «Chống Mẽo Kíu Nước». Bà fuck cái
văn hóa! Và fuck luôn cái truyền thống!
6. Nhìn chung chung, triết học Tây Phương là một trò vọc giỡn ý
niệm và quăng bắt chữ nghĩa. Một trò thôi miên và ảo thuật mà rất nhiều người,
nhứt là các môn đồ của giáo phái «Đỉnh Cao Trí Tuệ» da vàng của ta vô cùng
thán phục và thường đem ra để mà hù thiên hạ.
7. Hỡi những người chống đối tình dục! Nếu không có tình dục thì làm
gì có mấy bà và mấy cha nội xúm xít ở đây để mà gân cổ lên chống đối tình dục?
8. Truyện Kiều: «Khúc nhà tay lựa nên chương / Một thiên bạc mạng nghe
càng não nhân»
Lẩy Kiều: «Khúc nhà tay lựa nên hôi / Một thiên bạc mạng nghe rồi… bạt tai!»
9. Cái địa ngục bên ngoài ta trốn được. Còn cái địa ngục trong đầu,
ta biết trốn nó ở đâu bây giờ?
10. Một mình nó, trí thông minh không giải quyết được gì hết. Nó
tạo thêm nhiều vấn đề hơn là giải quyết.
Khi nó giải quyết một vấn đề gì thì trí thông minh lại tạo thêm nhiều vấn đề
khác còn lớn hơn thập bội. Rồi lại giải quyết, lại tạo vấn đề… Chung cuộc, trí
thông minh đã thực sự giải quyết được vấn đề gì chăng? Thử nhìn lại
các vấn đề lớn mà trí thông minh đã từng tìm cách giải quyết từ hơn mấy ngàn
năm nay. Giải quyết nghèo đói? Nghèo vẫn còn đó. Đói vẫn còn đó. Giải quyết chiến
tranh? Chiến tranh vẫn còn đó, và càng ngày lại càng khốc liệt hơn xưa. Hơn nữa,
những hoạt động (kinh tế, kỹ nghệ, chính trị, quân sự…) mà trí thông minh của
con người bày đặt ra đã tạo nên nhiều đại nạn ô nhiễm nan
giải. Và trái đất đang bị giết chết dần mòn vì cái gọi là «trí thông minh» (mẹ
rượt!) của con người.
Trộm nghĩ, trí thông minh cần phải được dìu dắt bởi lòng tốt (thực sự
muốn đem tới hạnh phúc cho kẻ khác), bởi hiền triết (sagesse/ wisdom)
và bởi lẽ thường (bon sens/ common sense). Như vậy, may ra trí thông
minh sẽ đỡ lầm lạc hơn chăng?
Nghĩ lai rai - Năm
1. Cái ngã tạo nên muôn ngàn khổ đau. Để diệt khổ đau, Phật
dạy chúng sanh diệt cái ngã (để thành Phật?). «Dễ ợt!» Vậy mà làm cho
tới trọc đầu, cho tới ngày nhắm mắt xuống lỗ cũng chưa xong. Thế nhưng, trong
cái đầu trọc mê muội của mình, bần tăng vẫn còn «théc méc»: cái ngã diệt
rồi thì biết lấy cái gì mà thành Phật đây?
2. Sau khi thuyết pháp hơn bốn mươi năm, Phật kết luận: «Ta không nói
một chữ». Nghe xong, chúng sanh bèn xúm lại mà nói mà bàn mút mùa về câu nói
đó. Riết rồi không biết đường đâu mà rờ!
3. Giải thích là sa vào mê cung. Rời mê cung này chỉ để dấn mình vào
một mê cung khác.
4. Một bữa nọ, bần tăng ngồi mạn đàm với một ông bạn từ phương xa ghé
thăm. Ông bạn một chén trà, bần tăng một chén rượu. Bàn chuyện trời trăng mây
nước, rượu vào lời ra, bần tăng bèn phát ngôn bừa bãi: «Theo tại hạ nghĩ, thuận lẽ
Trời thì sống, nghịch lẽ Trời thì chết».
Tưởng là hù cho thiên hạ sợ chơi vậy thôi. Dè đâu ông bạn bỗng cau
mày ném vào mặt và cái đầu trọc của bần tăng một cái nhìn rất là dùi cui (ui
da!) và hết sức thông minh, mà rằng: «Thế nào là lẽ Trời và thuận lẽ Trời?
Trời nào? Giê Su hay Allah? Thích Ca hay Khổng Tử?» Bị phản kích bất ngờ,
bần tăng đành ngậm miệng ú ớ - tuy rằng trong bụng đã tính phang cho bạn hiền
ta một câu xanh dờn: “Cha nội này đã bị triết Tây ăn rỗng hết cái sọ đầu và rỗng
hết ruột non ruột già nên mới hỏi một câu hết sức ngớ ngẩn như vậy. Bởi lẽ khi
nói “Trời” thì bà con ta, từ đức vua cho tới dân ngu khu đen, từ một thằng bị hăngđicáp nặng
cho tới một đứa con nít ke, ai ai cũng đều biết hết là cái gì!" Còn lúng
túng chưa biết giả nhời xao cho vừa lòng bạn hiền thì bỗng «Ầm!» May
quá Trời chợt gầm lên một tiếng lớn, đồng thời xẹt một tia sáng nhỏ chói lọi
trúng ngay cái trán thông minh le lói của ông bạn quý khiến cho bạn hiền ta té
ngửa xuống đất một cái «bịch»!
Gẫm ra mới biết: «Lẽ Trời tuy không ai thấy mà nó huyền diệu khôn cùng!» Tuy
nhiên, bần tăng vẫn không dám bảo đảm là bạn hiền ta đã thấm ý được cái «Lẽ
Trời» là gì. Khi tỉnh lại, có thể cha nội sẽ còn hỏi thêm: «Lẽ Trời
là lẽ của Khổng Tử? Của Bush Con? Của Bin Laden? Của Cocteau? Của Gide hay của
Cha già Dân tộc?» Trời cao có thấu! Cúi xin người ban phước cho đời con!
5. Tuy nhiên, mặc dầu (và luôn cả mặc mỡ) thị hiện rành rành như vậy mà Lẽ
Trời vẫn còn nương tay kỳ diệu. Dù có té chổng gọng dưới đất nhưng bạn hiền ta
không sao, trán chỉ bị nám một điểm nhỏ bằng đầu ngón tay. Bạn ta bèn lồm cồm
bò dậy phủi đít và ngồi trở lại bàn để tán phét với bần tăng. Bàn về vấn đề tình
dục, bần tăng lại phát ngôn bừa bãi: «Từ thuở tạo thiên lập địa cho tới ngày
hôm nay, muôn loài đều giao hợp với nhau một cách tự nhiên và bình
thường»
Tưởng là nói chơi cho vui câu chuyện vậy thôi. Dè đâu bạn ta lại cau mày và ném
lên cái đầu trọc của bần tăng một cái nhìn vô cùng sắc bén (ui da! rát! rát!)
và vô cùng thông minh, mà rằng: «Giao hợp một cách tự nhiên và bình thường
là sao? Bình thường và tự nhiên như chó mắc lẹo ngoài đường?»
Bị phản kích bất ngờ, bần tăng chới với, vội vàng khoát tay lia lịa rồi đâm hoảng
(nói Quảng nói Tiều): «Dĩ nhiên… dĩ nhiên… Chó mắc lẹo ngoài đường là không
bình thường. Chó bình thường thì phải mắc lẹo trong khách sạn… năm sao!»
Bạn ta thu hồi cái nhìn sắc bén và thông minh lại cất vào túi khỉ rồi cầm chén
trà lên nhắp một cái «trót», gật gù mỉm cười khoái trá. Bần tăng cảm thây yên bụng.
Tuy nhiên, bần tăng cũng thầm tư duy lén trong cái đầu trọc của mình ngõ hầu
chuẩn bị mà đối đáp với bạn ta cho phải đạo.
Nhắp một ngụm trà xanh, bạn ta lại hỏi tiếp: «Giao hợp tự nhiên và bình
thường là sao? Như gà đạp mái trong sân?» Bần tăng lật đật đáp liền:
«Không ạ! Gà đạp mái trong sân là không bình thường. Gà bình thường thì phải đạp
mái trong khách sạn… bốn sao!»
Lại một ngụm trà khoái trá, bạn ta lại hỏi tiếp: «Giao hợp tự nhiên và
bình thường là sao? Như hai người đàn ông giao hợp với nhau trong phòng kín?» Bần
tăng lật đật đáp liền: «Vâng ạ! Thời ăn lông ở lỗ, hai người đàn ông giao hợp với
nhau trong hang động là không bình thường. Nhưng trong thời văn minh hậu-hiện-đại
bi giờ thì hai người đàn ông giao hợp với nhau trong phòng kín có gắn
máy lạnh thì là rất bình thường. Hơn thế nữa, hai người còn ăn ở với nhau
có rất nhiều mặt con, hạnh phúc lâu bền như trong truyện Cô bé Lọ Lem và Hoàng
tử đẹp zai. Cũng rất là bình thường thôi ạ!».
Vẫn chưa vừa lòng, bạn ta lại nhắp một ngụm trà thơm và ném lên cái đầu trọc của
bần tăng một cái nhìn rất là rong rêu sỏi đá (ui da!) và rất là hằn lên nỗi đau
(ui da! đau bỏ mẹ!) rồi chiếu bí: «Giao hợp tự nhiên và bình thường là
sao? Như người đàn ông và người đàn bà giao hợp với nhau trong khách sạn quèn…
không có sao?» Đã có tư duy từ trước nên bần tăng liền đáp liền tù tì:
«Không ạ! Thời ăn lông ở lỗ, đàn bà và đàn ông giao hợp với nhau trong hang động
là bình thường. Nhưng thời văn minh hậu-hiện-đại bi giờ, đàn ông và đàn bà giao
hợp với nhau ở khách sạn quèn không có gắn máy lạnh và cũng «không có sao»
(no stars where!) thì là không bình thường và rất là «có sao». Vì có
thể bị lính bắt vì tội… ngoại tình đấy ạ!»
6. Lại lạm bàn qua cái thời sự tsunami ở biển Chà Và cách đây
vài năm. Bần tăng là người mộ đạo rất biết sợ và biết thờ phượng Trời Phật ở
trên cái đầu trọc của mình, và hơn nữa vốn đại kỵ cái lũ hiu hiu có «Đỉnh (cứt)
cao trí tuệ» nên lại thêm một lần nữa, phát ngôn bừa bãi: «Theo một vị lãnh tụ
Hồi giáo ở Anh Đô Nê Xi thì trận tsunami vừa qua là hình phạt của Trời
Đất để cảnh cáo lũ có cứt trong đầu và hay quậy!»
Một lần nữa, ông bạn quý lại trừng mắt ném lên cái đầu trọc của bần tăng một
cái nhìn cay nghiệt có lửa (ui da! nóng! nóng!) và vô cùng thông minh, mà rằng: «Trận
tsunami vừa qua không là hình phạt của Trời Đất để cảnh cáo lũ có cứt trong đầu
hay quậy, và không để cho những kẻ sống thuận lẽ Trời vỗ tay reo mừng. Trời đất
vô tâm. Trời đất khi nổi trận lôi đình chỉ tru diệt một cách mù quáng không
phân biệt hư kiểu/ tốt kiểu/ sống thuận lẽ Trời/ giao cấu lộn mèo/ đúng chó
gì hết ớ!»
Và cũng như những lần trước, bần tăng lật đật khải tấu: «Huynh phán như vậy là
rất đúng ớ! Bởi vô tâm nên Trời đất không thiên vị một ai hết ớ. Tuy
nhiên, theo tại hạ nghĩ thì Trời đất không có tâm mà cũng chẳng vô
tâm. Thứ nữa, cũng may mà Trời đất không phân biệt hư kiểu/ tốt
kiểu, không phân biệt tốt/ xấu theo cái «tiêu chuẩn - lỗ rún» hoặc
theo cái «tiêu chuẩn - lỗ ỉa» của loài có cứt trong đầu cũng như cái
tiêu chuẩn của một loài nào hết ớ. Vì thử tưởng tượng: Ào một
cái! Tsunami cuốn hết mọi người và mọi loài ra biển Chà Và mà tắm biển
cưỡng bách. Nhưng đặc biệt, và rất phân biệt, chỉ chừa lại loài rắn độc
trên bãi biển. Bảo đảm thiên hạ và muôn loài sẽ kiện Trời đất lên tới… Trời.
Khi đó Trời đất sẽ ú ớ, và rồi mới biết phân xử ra làm sao? Tuy nhiên, nghĩ cho
cùng thì Trời đất không mắc mớ cái đếch gì tới ngôn ngữ và ý niệm «nổi trận
lôi đình, có tâm/ vô tâm, phân biệt/ không phân biệt» trong cái đầu «cứt
cao trí tệ» của con người chó gì hết ớ! Trời đất vận hành! Thế thôi! Hiểu
chưa? Pigé? Anhđượcxítten? Compờrenđô ớ?» Ớ!
7. Một trong những tài mọn khủng khiếp nhứt của con người: Biến
tài sản trái đất thành giấy bạc để cất vô nhà băng.
8. Đại hội múa nón
Như đã hứa ở Sự đời - Bài 1, bần tăng xin trở lại tiết mục Múa nón trong
bức Tâm thư của Em Nhỏ gởi nhà zăn Kiệt Tấn. Sau
khi trình diễn được bốn điệu múa nón vô cùng ngoạn mục, giờ đây xin cho Em
Nhỏ múa tiếp để bà con ta cùng thưởng ngoạn: “Hầy lá! Tả lồ lên coi chơi
há!”
Nón năm: Đàn bà xác thịt
Xin chia điệu múa này ra làm hai phần cho bà con ta dễ tiếp thu nghệ thuật múa
nón:
Phần một: Tâm thư than thở: “Nhưng cuối cùng thì sự đam mê nào, lúc đầu
thì có thể rất đẹp, nhưng cuối cùng chỉ là một cơn sốt tình ái, một lối thoát tạm
thời, và đối tượng đàn bà chỉ là một phương tiện, không phải là chân lý cho cuộc
sống”. À za thế! Nhờ đèn zời xoi xáng mà bi giờ bần tăng mới sáng mắt ra như sư
phụ Văn Vỹ: Từ xưa đến nay, trong vòng tay học trò của mình, đàn bà chỉ là
phương tiện chớ không phải là chân lý! Vậy mà tự bấy lâu nay bần tăng cứ
tưởng bở là không có cái chân lý hay cái cẳng lý mẹ rượt gì hết trong
cái cõi đời ô trọc này. Bần tăng cũng chưa hề dám lấy Thượng Đế làm chân lý. Bỗng
nhiên bi giờ phát thinh lấy đàn bà làm “cẳng lý” sợ bà xã nghi ngờ là
bần tăng... thay lòng đổi dạ nọ kia. Kẹt lắm!
Thử hỏi Em Nhỏ và các bà nữ quyền, có nàng nào đã từng “lấy đàn ông
làm chân lý” bao giờ chưa? Nếu có xin cho biết để bần tăng mở tiệc ăn mừng. Bởi
lẽ nếu được như thế í thì trên đất nước ta, hễ bước xuống phố là gặp... chân
lý! Và gặp luôn cả “cẳng lý” nữa, dĩ nhiên.
Phần hai: Sau khi khóc than khôn xiết sự tình, Tâm thư viết tiếp:
“(...) những đam mê của ông (KT) chỉ là phù du, bọt biển, nó không vượt
khuôn khổ xác thịt, xã hội, màu da, hay ngôn ngữ” Úi zào! Nghe như thể là
“trùng dương nổi sóng, tùm lum bọt biển, lắc lư con tàu đi”! Quá hay! Đúng là
bài học thuộc lòng Quốc văn giáo khoa thư, trong bất cứ trường hợp nào cũng
tung ra được – như chỉ cần bấm nút là con búp bê Barbie nó khóc thét!
Nếu như Em Nhỏ liệu có thể vượt qua được hết những thứ mà Em Nhỏ vừa
lên án thì Em Nhỏ cứ tự nhiên mà bóp kèn qua mặt bần tăng đi! Please!
No problem!
Từ xưa đến những nay, bần tăng vẫn đinh ninh khi mình đam mê một người đàn bà
nào đó là vì bởi nàng có một nhục thể đình huỳnh. Bần tăng chưa hề
dám có ảo tưởng là mình đam mê đàn bà giống như mình thờ phượng Đức Mẹ hay thờ
phượng Nữ thần Shiva không có nhục thể. Vả lại, nếu đàn bà không có
xác thịt hoặc xác thịt đàn bà không mang tới cho thằng đực rựa một chút khoái cảm
nào hết mà chỉ có toàn là mệt bở hơi tai, thì bảo đảm thằng đực rựa sẽ trốn vợ
nhà đi nhậu với bạn bè dài dài. Sướng hơn và vui hơn là cái chắc! Thêm nữa, một
điều hềt sức quan trọng: khi hành dục, người đàn bà cũng biết rên ào ào và lên
tới tột đỉnh (đôi khi rất nhiều đỉnh, lên tận chín từng mây!) chớ có
phải nàng nào cũng bất mãn tình dục kinh niên đâu. Sao khi mở miệng ra lại cứ
chửi ra rả bọn đực rựa là “lợi dụng” (?) xác thịt đàn bà?
Giả thử bây giờ có một nàng nữ quyền nào đó vụt đổi giống thành thằng đực rựa,
chưa chắc gì sẽ hành xử khác hơn là một thằng đàn ông “bình thường”, khoái gần
gũi nhục thể người nữ. Tự muôn đời, thân thể đàn bà vẫn luôn luôn là loại “vũ
khí” hiệu quả nhứt mà người nữ sử dụng để trị bọn đực rựa tham dâm - nhứt là mấy
ông vua háo sắc, sẵn sàng vì mỹ nhân mà làm mất ngai vàng như bỡn! Em Nhỏ và
các bà nữ quyền còn phàn nàn nỗi gì nữa? Và giả thử như rủi ro thằng đực rựa của Em
Nhỏ nó “chết máy”, liệu Em Nhỏ có mời chàng đi chỗ khác chơi dể
cho người ta yên tâm mà làm việc “nghiêm chỉnh” hay không? Nếu không thì cũng sẽ
cắm dài dài cho nó một cặp sừng có đủ nhánh cành hoa lá xum xuê. Có dám đánh cá
với bần tăng về cái vụ cắm sừng này hay không?
Nhưng biết đâu chừng trên cõi đời ô trọc này vẫn còn có được những người đàn bà
“thiên thần”, thích yêu cao thượng và khoái những người đàn ông không
có “cái đó”. Hơn nữa, các nàng lại còn yêu rất... rât là cao thượng hơn cái bọn
đực rựa tham dâm xa lắc: “Em yêu anh bằng tất cả linh hồn. Còn xác thịt của
em thì em... để dành cho thằng Mễ. Và em xin hứa chắc với anh là lần sau em sẽ
để dành xác thịt của em cho... thằng Tây đen, vì em không phân biệt màu da
(khác hẳn với cái ông Kiệt Tấn còn kỳ thị da màu)”. Như vậy đã vừa lòng Em
Nhỏ chưa? Em Nhỏ có muốn bắt chước lối sống tình dục “táo bạo
trâng tráo” như một vài bực đàn chị nữ quyền của mình đã làm hay không? Da màu
hay da không màu nôcôno gì thì bà đây cũng “mời ngài lên ngựa” tuốt hết ráo!
9. Nón sáu: Tự ti
Sau khi cho bần tăng đội cái nón “tham dâm phàm tục”, Tâm thư bèn rọi
thêm “Ánh sáng (Phúc âm) phân tâm học lên bọn nình ông: “Tôi không nghĩ họ (các
nàng) làm như vậy với mục đích kiểm điểm “cu dài cu ngắn” để mạt sát nam giới -
vì nhận xét như vậy vừa hẹp hòi, vừa đầy mặc cảm tự ti từ phía đàn ông”!
Thôi rồi! Phen này thì quả thiệt “Toang hoang ngoài phố chợ”! Ai biểu dại dột đem cái
của mình ra mà so đo với cái của “thằng Mễ”! Bắt buộc phải tự ti “thân phận
da vàng nhược tiểu” là cái chắc! Hồi mới khởi đọc Tâm thư mấy dòng đầu,
bần tăng cứ ngỡ là Em Nhỏ “zất hãy còn nà thơ ngây chong chắng”. Dè
đâu Em Nhỏ cũng đã rành hết sáu câu về cái chuyện “cu dài cu ngắn” của
nình ông! Đã có thiệt sự trắc nghiệm cái vụ “ngắn dài” hay chưa? Giỏi quá nhỉ!
Quả thiệt là hậu sinh khả úy!
Trở lại cái mặc cảm tự ti. Chỉ mới có so với thằng Mễ thôi mà đã tự ti sát mặt
đất rồi. Nói chi tới cái ước mơ hão huyền đem “hén” roa mà “đấu xảo” với mấy
ông Tây đen - dẫy đầy mấy trăm triệu cái “của lọa” gồ ghề trên cả một
lục địa Phi châu rộng lớn! Khi đó chắc chỉ còn có nước mua vài trăm cây số dây
luộc về mà thắt họng dài dài từ năm này qua năm khác cũng chưa chắc đã xóa hết
được cái tự ti “nỗi buồn nhược tiểu” (còn nói chi tới cái chuyện “xóa đói giảm
nghèo”!) Rồi đây các nàng sẽ đá đít hết cái lũ da vàng nhược tiểu đầy mặc
cảm tự ti để mà chạy theo cái “của lọa” king size của mấy ông Mễ
và Tây đen hết ráo! Thôi rồi! “Thương nữ bất tri vong quốc hận/ Cách giang do
xướng Hậu Đình Hoa”! Buồn năm phút!
Viết tới đây, bần tăng bỗng giựt mình chới với và hết sức lo ngại cho đời huê của
dân tộc Á-nàm-dành ta: “Nếu bi giờ toàn thể phe nữ của dân tộc ta chợt có sáng
kiến đem cái “lủng lẳng” của mình ra mà thi đua (công tác) với cái “bự tổ chảng”
của nàng Ma ri lỹnh Hồ ly vọng?” Bần tăng dám đánh cá là sẽ có rất
nhiều nàng nữ quyền tự ý gieo mình xuống Niagara Falls mà thác theo
dòng thác. Cũng vẫn cái tự ti “da vàng nhược tiểu” dĩ nhiên. Phen này thì chẳng
những chỉ có Toang hoang ngoài phố chợ mà sẽ còn banh luôn cái “xà
rông” và đứt luôn cái xú chiêng... là cái chắc! Bảo đảm Phố Chợ sẽ chẳng còn
sót lại một món gì hết ráo. Y chang như hai cái Twin Towers sau khi bị
khủng bố bởi hai chiếc Boeing 747 vậy đó. Sập tiệm!
10. Nón bảy: Đạo đức giả
Tâm thư vẫn tiếp tục “cung oán ngâm khúc” và phàn nàn: “Trong bước khai
phá đầu tiên, những nhà văn phụ nữ này nên được sự cổ võ và khuyến khích tận tường,
thay vì bị hứng những lời dè bĩu không bằng chứng, thiếu thẩm mỹ và phẩm cách,
hay sự cô lập hóa, đạo đức giả và voyeurism của những nhà văn đàn ông Việt hiện
thời”
Nữa! Vẫn lại cái trò «rửa mắt hả hê» của bọn đực rựa tham dâm nữa. Các nàng nữ
quyền trách cái thằng đực rựa sao nó “ham ngó”, sao nó tham dâm thì chẳng khác
nào trách tại sao đàn bà thích làm đẹp, thích chưng diện, tại sao con chó nó sủa,
con gà nó gáy vậy. Tự bản chất của nó vốn là như vậy thì trách cái nỗi
gì? Sao mà các nàng làm chi cái chuyện chó cắn ruồi bu lẩm cẩm vậy?
Theo cái đà này, bần tăng e rồi đây có ngày thừa thắng xông lên, các bà nữ quyền
Giao chỉ ta (trong đó có Em Nhỏ) nửa đêm kéo tới các hộp đêm strip-tease ném
ớt bột vô mắt bọn đực rựa Giao chỉ voyeuristes cho cả lũ theo chân sư
phụ Văn Vỹ mà quay về cố quận chạy Hông đa ôm. Xong các bà còn đốt luôn cửa tiệm
thoát y của người ta. Chừng đó, nếu các bà nữ quyền và Em Nhỏ có bị mấy
em vũ nữ sexy vú lớn “cuổng trời” nó đục cho phù mỏ thì phải rán mà
chịu. Bần tăng sẽ không dám đổ thủy quân lục chiến xuống can thiệp vào cuộc nội
chiến.
Tuy nhiên, khi nghĩ lại thái độ của các bà nữ quyền và Em Nhỏ sao cứ
chửi hoài cái trò rửa mắt hả hê của bọn đực rựa, bần tăng không khỏi lấy
làm théc méc! Các nàng mặc áo khoe vú (thấy khát sữa!), mặc
váy khoe đùi trắng tươi (thấy mà ham!) nhưng lại cấm bọn đực
rựa dòm. Các nàng vọc con chem chép đùng đùng vô cùng bắt mắt,
nhưng lại cấm bọn đực rựa ngó. Rất hết sức là hợp lý duy vật biện
chứng Mác Lê vậy! Hơn nữa, các nàng thừa biết (từ khuya) là thằng đực rựa nó
khoái dòm khoái ngó. Đừng có ở đó mà tiếp tục giả đò ngây thơ (bà cụ) nữa. “Em
chả! Em chả! Em khoe mặc em! Việc gì tới các anh!” Bộ không biết mắc cỡ hả, mấy
em (giả đò) trinh nữ? Trong tình cảnh như vừa nói, thì giữa “người khoe vọc” và
“người dòm ngó”, ai mới thực sự là người đạo đức giả? Tuy nhiên, mặc dầu
(mặt mỡ) các nàng cự nự cái chuyện “rửa mắt/ voyeurism” của bọn đực rựa
như vậy đó, nhưng rủi thời bọn đực rựa bỗng dưng mắc bệnh “lọa” mà trở thành
Văn Vỹ hết ráo, thì chừng đó các nàng có tha hồ mà “cuổng trời” và đánh trống dộng
chuông ì xèo cũng sẽ chẳng có con ma nào nó ngó. Lúc đó, có lăn ra mà khóc thét
lâm ly hay nằm vạ thúi đất thì cũng đã muộn rồi! Hu hu hu...
Bần tăng mà đạo đức giả ư? Thiệt tình mà nói thì “bần tăng không đạo
đức giả mà cũng chẳng đạo đức thiệt. Bần tăng không có đạo
đức gì hết ráo. Nhưng chẳng phải vì vậy mà không có đạo đức” Nhưng về phần
mình, Em Nhỏ lúc nào cũng vẫn luôn luôn thấy mình rất là “đạo đức thiệt” dĩ
nhiên. Có soi gương mỗi ngày cũng không hề biết mắc cỡ một chút nào hết.
Nhân nói về cái chuyện “thiệt / giả”, bần tăng xin kể lại lần nữa cái hoài niệm
thương động mà bần tăng đã có dịp nói phớt qua trong bài “Xúc cát trước bàn thờ”:
Một đêm nọ, trong bóng tối mờ mờ của tiệm karaôkê, một em nhỏ bia ôm xinh
như mộng đã gục đầu lên vai của bần tăng mà trách móc não nùng: “Ối anh ơi là
anh ơi! Lúc trước chưa quen nhau và chưa có dịp tới gần anh, em cứ tưởng rằng
là anh đểu giả. Giờ quen nhau rồi và có dịp tới gần anh, em mới biết
là anh... đểu thiệt!” (Trong hoàn cảnh này thì nên (đểu) thiệt hay
nên (đểu) giả?) Bần tăng bèn rút cái khăn kleenex còn mới tinh ra lau lệ
cho em nhỏ rồi nhẹ nâng khuôn mặt u sầu chưa ráo lệ lên mà nhìn sâu vào mắt em
nhỏ. Bần tăng giựt mình chới với: “Mắt em là bể oan cừu”!
Một lần nữa, bần tăng xin tạm ngưng tiết mục Múa nón ở đây. Em
Nhỏ sẽ còn “Bần nữ thán” dài dài nữa chăng? Ông Thầy Chùa sẽ bị điểm huyệt
và phế hết võ công hay không? Muốn biết chuyện sau thế nào, xin bà con đón xem
hồi kết cuộc của thiên tình sử kiếm hiệp “Cô gái còi lông” sẽ rõ.
Nghĩ lai rai - Sáu
1. Cái đặc biệt trong cách hành xử (hành động và xử trí, comportement/
behaviour) của con người, khiến cho con người khác hẳn với con thú: Cái Ác.
2. Con người cũng có làm điều thiện. Nhưng than ôi! Cái điều thiện đó
không bù kịp cái ác mà con người hùng hục tạo ra mỗi ngày. Cái hành thiện của Mẹ TêRêZa làm
sao bù kịp quả bom nguyên tử ném xuống Hiroshima ở Nhật Bản? Cái bố
thí của Sơ Emmanuelle làm sao bù kịp những cuộc thảm sát hằng chục triệu người
do Công giáo gieo rắc hoặc bao che ở Nam Mỹ ngày trước? Một khi thiện ác mất
quân bình quá trớn, thế giới con người sẽ sụp đổ.
3. Vũ trụ, muôn vật, muôn loài đâu đợi gì tới con người giải
thích và ban cho ý nghĩa mới có đó, mới hiện hữu. Tất cả đều có từ khuya, từ
lúc con người chưa có mặt trên trái đất này.
Chớ cho rằng mình giải thích (chắc gì đã đúng?) và khai thác được một số hiện
tượng trong Trời Đất mà vỗ ngực thùm thụp «Ta đây»! Rồi hách cái bản mặt
lên trời hiu hiu tự đắc, coi Trời bằng vung. Rồi cứ tưởng bở rằng Ta đây đã
«rành hết sáu câu vọng cổ» mọi chuyện trong Trời Đất. Rằng Ta đây có
cái «Đỉnh (cứt) cao trí tuệ» trong đầu! Coi chừng chết không kịp ngáp
đó nghe em Hai. Nên nhớ kỹ điều này: không có con thú nào, không có một vật
nào cần đến con người để hiện hữu. Nhưng ngược lại, con người tối
cần đến muông thú và mọi vật khác để hiện hữu trên mặt đất này.
4. Để khép thế giới vào đầu óc bẩn chật của mình cho dễ hiểu,
con người chia cắt và đặt tên cho sự vật. Và cái thế giới dựa trên nhãn hiệu đó,
chính nó là thế giới giả hiệu và hỗn mang tột bực của con người.
5. Mọi người ai ai cũng đều biết phân tích cái khổ ải của con người và
chung chung mọi người đều đồng ý phải đi tới giải pháp công bình bác ái. Nhưng
than ôi! Không một ai thành thật mong muốn và thực hiện giải pháp ấy vì nó bất
lợi cho mình và bè đảng mình. Cái lối hành xử đó của con người, chính nó
là đạo đức giả và đểu ác / cynisme.
6. Yêu cao thượng: «Em yêu anh bằng tất cả tâm hồn. Còn cái xác thịt của
mình thì em để dành cho… người khác».
7. Ca dao cổ truyền: «Của phi nghĩa có giàu đâu / Ở cho ngay thật giàu sau
mới bền»
Ca dao cách tân: «Của phi nghĩa có giàu đâu / Ở cho ngay thật… nghèo lâu thấy
bà»!
8. Đại hội múa nón
Thiên tình sử kiếm hiệp “Cô gái còi lông” sắp đến hồi kết thúc. Sân khấu về
khuya càng lúc càng gay cấn, những màn Múa nón kết thúc chương trình
càng lúc càng huyền ảo ly kỳ và lâm ly ngoạn mục.
Nón tám: Phản động
Thấy mình đã đội cho ác tăng không biết bao nhiêu là cái nón mà ông Thầy Chùa vẫn
cứ trơ trơ, vô cùng Mỹ Ngụy ác ôn, ngoan cố và phản động, Em Nhỏ bèn
trổ tuyệt chiêu: Làm Kách Mệnh!
Phải, Em Nhỏ phất cờ cách mạng mà khởi nghĩa. Không phải cách mạng đỏ
(vô sản), không phải cách mạng xanh lục (môi sinh), mà là cách mạng... Xanh
Dờn. “True Blue”! Ý nghĩa của cách mạng “xanh dờn” là thế nào, bần tăng cũng bù
trất. Tuy nhiên, nhìn thấy lá cờ xanh dờn phất phới trong gió lộng, hơn nữa dưới
bóng cờ xanh lại có thêm hai Bà (Trưng) Phạm Thị Hoài và Dương
Thu Hương cỡi voi, khí thế vô cùng hùng dũng và rất ư là “Chống Mẽo Kíu Nước”,
bần tăng hoảng quá nên cũng lật đật mở kho báu lôi cây cờ từ lâu bỏ quên của
mình ra mà phất loạn xị: Cờ Cách Mạng Không Màu. Nô cô-no! Phát âm đúng giọng
Mẽo là “No colors”!
Cờ “Cách Mạng Không Màu” vô cùng đặc biệt. Người phàm mắt tục không bao giờ
nhìn thấy được. Có đeo kiếng mát Ray Ban (registered) loại cao cấp vô
rồi ngước lên mà “nhắm mắt ngó (cũng) chỉ thấy một chân trời tím ngắt”, kỳ dư
không thể trông thấy được cờ: Quả thiệt là Cách Mạng “True no colors” chính cống!
Bèn gỡ kiếng Ray Ban ra lau chùi cẩn thận rồi “nhắm mắt... nhắm mắt
(bỗng) rờ trúng một cái gì cứng ngắt!” nàng thoắt nhiên rụng rời, tim đập trật
nhịp mà... thở dài sườn sượt.
9. Nón chín: Chậm tiến
Rồi cuối cùng, việc gì phải đến! Tâm thư hạ lệnh: “Đã đến lúc chúng
ta phải ra khỏi hang tối của huyền thoại Plato!” Khẩn trương lên! Khẩn trương
lên! Sao bỗng nhiên Em Nhỏ đem cái hang tối Plato của ông
Hy Lạp (xưởng) ra mà hù bà con ta làm chi vậy? Bởi lẽ bà con ta chỉ biết tới
cái Hang Thánh Hoá của bà Hồ Xuân Hương là cùng: “Lườn đá cỏ leo sờ rậm
rạp/ Lách khe nước rỉ mó lam nham”. Thấy mà ham!
Nghe Em Nhỏ hét lớn, bần tăng bỗng giựt mình! Phải ra khỏi hang? Vậy
hả? Mà hang nào mới được? Bấy lâu nay, bần tăng những tưởng là mình đã ra khỏi
cái hang tối từ khuya, và đang ở trong một cái hang khác... còn tối hơn nữa. Những
tưởng cuộc đời mình đã “lên hang” (ông nội ta tên Hương nên kỵ húy), dè đâu
mình vẫn còn kẹt ở trong hang, cho nên cuộc đời mình vẫn chưa thể... lên hang
nghi ngút được. Chừng giác ngộ mới biết mình hãy còn chậm tiến hơn Bush
Con mấy mươi thế kỷ. Nhưng hãy đề phòng cẩn thận đó Em Nhỏ ! Nhiều
lúc loài người cứ tưởng bở rằng một khi mình đã ra khỏi cái hang động
tiền sử thô sơ để chui vào cái hang động văn minh có gắn máy lạnh thì chắc chắn
là cuộc đời mình đã “lên hang” (thấy rõ)! Nhưng hãy nhìn kỹ lại mà coi: cái
hang nào dã man hơn cái hang nào? Cái hang trong đó người ta đánh
nhau bằng chày đá hay cái hang trong đó người ta đánh nhau bằng vũ
khí nguyên tử?
Tuy nhiên, bần tăng cũng xin lưu ý bà con ở một điểm vô cùng quan trọng: Em
Nhỏ nói cái hang tối ở đây là cái hang của Plato, chớ không phải cái
hang của Pluto, con ông Oảnh Đít Nây. Bởi lẽ nếu hiểu lầm như thế í
thì chỉ còn ước mong sao cho mình ra khỏi được cái chuồng “Cờ Tây” của mấy ông
Bắc kỳ răng đen mã tấu, tưởng cũng đã nà quý nắm zồi! Nhưng nói gì thì nói, dân
Giao chỉ đực rựa ta vẫn khoái ở lại tử thủ trong cái hang Thánh Hóa của Bà Hồ
Xuân Hương hơn hết: “Đến mới biết rằng hang Thánh Hóa/ Chồn chân mỏi gối vẫn
còn ham!” Là cái chắc!
10. Nón mười: Điếc không sợ súng!
Nhưng một khi đã đến mức ăn thua rồi thì Tâm thư cũng đành phải dứt
điểm: “Họ (nình ông) phải đi theo ánh sáng và tiếng thét vỡ không gian của người
đàn bà để gặp tương lai đang chờ đón bên ngoài”! Ghê chưa! Có đi theo “Bà” hay
không thì bảo?
Bớ các chiến hữu nình ông! Những Nguyễn Xuân Hoàng, Nguyễn Đình Toàn, những
Nguyễn Văn Lục, Trần Nghi Hoàng, những Nguyễn Hưng Quốc, Cổ Ngư! Có nghe chăng
“tiếng thét vỡ không gian” của người nình bà để mà chuẩn bị “xếp bút nghiên lên
zường chanh đấu”? Sao không nghe ừ hử gì hết vậy? Bộ điếc hết rồi hả mấy cha nội?
Cứ để nàng thét khơi khơi một mình hoài không sợ nàng khan cổ mà tắt tiếng hay
sao? Orange juice, please!
Hồi ở Việt Nam trong thời chiến quốc, đã có người nình ông đòi “đâm nổ mặt trời”.
Bần tăng hoảng quá bèn di tản chiến thuật, đóng thuyền vượt biên. Giờ ra tới hải
ngoại, lại đụng độ với người đàn bà “thét vỡ không gian”. Quả thật là phước bất
trùng lai, họa vô đơn chí. Theo cái điệu này, riết rồi bần tăng không biết có
còn chỗ nào an ổn để cắm dùi dựng chùa đất thanh tịnh, ngõ hầu có thể rút vô đó
tịnh tâm mà tu hành không sợ nghe ai la hét, cho mau mau thành chánh... quỷ.
“Trời cao có thấu! Cúi xin người ban phước cho đời con.”
Em Nhỏ xúi bần tăng đi theo ánh sáng (Phúc Âm) và “tiếng thét vỡ không
gian” (bốn chiều) của người đàn bà theo kiểu này hại cả một cuộc đời tu hành vất
vả và vô cùng đạo hạnh của bần tăng đó biết không? Bởi lẽ ngày nào bần tăng
cũng nghe đều đều “tiếng thét vỡ màng nhĩ” của bà xã yêu dấu để kịp thời
đánh kiệu hoa ra đón rước nàng trọng thể ở siêu thị không đèn. Bao nhiêu đó mỗi
ngày cũng đủ mệt ngất ngư rồi! Nay lại chợt nghe từ đâu vẳng tới “tiếng địch thổi
nghe chừng đồng vọng/ hàng cờ bay trong bóng phất phơ” của Em Nhỏ, bần
tăng bỗng nghẹn ngào tê tái con tim và vô cùng kinh tâm bạt vía! “Lên voi túc một
tiếng còi/ Thương con nhớ vợ, lịnh đòi phải đi!” Đi nhưng không biết mình
sẽ về đâu khi bóng hoàng hôn phủ kín chân trời tím. Biết đi về đâu, khi không
gian đã bị Nữ chúa thét vỡ mất rồi! Nhưng cũng phải đành nhắm mắt nhắm
theo hướng Ánh Sáng Phúc Âm đi đại. Chết bỏ! “Đánh liều nhắm mắt đưa chân/ Thử
xem con tạo xoay vần đến đâu”. Nghe theo lời xúi giục của Em Nhỏ và nghe theo “tiếng
thét vỡ không gian” của Nữ chúa để đi gặp gỡ tương lai theo kiểu này thì bần
tăng xin dằn cơn hồ hởi xuống mà khải tấu thiệt tình: “Thà đi... ăn phở sướng
hơn!”
Tuy nhiên, nếu không đi thì làm sao mà gặp gỡ được tuơng lai vô cùng xán lạn
như Em Nhỏ hứa hẹn. Một lần nữa, lại đành phải “giã nhà ôm cái áo màu/ thét
roi Cầu Khỉ ào ào thây ghê" mà đau lòng ra đi. Và thêm một lần nữa, lại
đành phải hẹn Em sơn nữ Phà Ca ngày giải phóng quê hương dưới chưn đồi sim
tím... có con cù lần màu xanh ngơ ngác đạp trên lá vàng khô queo... (Đèn xanh
phựt đỏ. Đèn đỏ phựt xanh. Màn từ từ hạ...) Music! Please!
Bái bai Em Nhỏ!
“Đến đây là chấm dứt... chương trình của ban Tùng Lâm...” Nếu sau khi coi cho tới
hết tuồng Đại hội múa nón ly kỳ ngoạn mục mà bà con ta vẫn còn bất
mãn (tình dục) đòi trả vé lấy tiền lại thì xin chịu khó xếp hàng làm cơ chờ tới
phiên mình. Vì bởi mười màn Múa nón có chất lượng hoành tráng
do Em Nhỏ tận lực thi công pỉu diễn trước dân tộc Rồng Tiên còi lông
tróc vảy anh hùng của ta đã làm ngứa mắt vô cùng cao cấp và “rất có cơ sở” của
99,99 phần trăm khán giả!
Nghĩ lai rai - Bảy
1. Cái gì có mặt trên đời cũng đều có cái lý
do riêng của nó để hiện diện. Phán rằng nó phi lý hoá ra chẳng phải tại
vì mình ngu muội nên không thấy được cái lý do hiện diện của nó hay
sao ?
2. Người ta thường lầm tưởng cái tên gọi chính là đồ vật. Không
ai có thể no thân ấm cật với hai tiếng “cơm áo”. Sự lừa đảo này đã và đang được
áp dụng triệt để dài dài trên sân khấu chính trị. Vậy mà vẫn có khối người tiếp
tục bị lừa gạt dài dài. Có khi bị lừa gạt hết sức trắng trợn mà vẫn cứ rên sướng
hù hù. Hiểu không nổi!
3. Khởi đầu, người ta dùng sự phân tích làm phương pháp để tìm
hiểu sự thật. Khi tưởng rằng mình đã hiểu, người ta lại lầm tưởng phương pháp
đó là chân chính và cái tìm được đúng là chân lý. Nhưng khi xét kỹ lại thì
cái tìm được chỉ là kết quả của phương pháp sử dụng. Bởi lẽ nếu sử dụng một
phương pháp khác người ta sẽ tìm được một kết quả khác hẳn. Và cái mà người ta
tưởng là đã giải thích được, đã thấu đáo được, nghĩ cho cùng nó cũng chỉ là một
sự diễn giải/ interprétation, như mọi diễn giải chủ quan và cá nhân khác
mà thôi. Chẳng có cái nào là chân lý hay... cẳng lý gì hết ráo.
4. Thượng đế lấy hình ảnh mình để tạo ra con người hay con người lấy hình ảnh
mình để tạo ra Thượng đế? Thử để ý mà xem: Chúa Trời ở Âu châu thì làm bằng gỗ
trắng, Chúa Trời ở Phi châu thì làm bằng gỗ đen. Chừng nào thì mấy ông Cắc Chú
lấy gỗ vàng mà tạc tượng Chúa Trời đây?
5. Bần tăng có một cô bạn gái học chung tại Vĩnh Long từ đệ thất lên tới lớp
đệ tứ. Sau đó bần tăng rời bỏ Vĩnh Long sang Mỹ Tho, lên Sài Gòn, kế đến xuất
ngoại du học bên Canada. Rồi tiếp theo là chiến tranh đằng đẵng 20 năm trên quê
hương. Rồi bặt tin nhau. Rồi vượt biên năm 1975. Cho tới năm 2005, bần tăng trở
về quê hương và ghé thăm Vĩnh Long, thấy cô bạn xưa vẫn còn một mình lẻ bóng.
Khi ôn lại tuổi trẻ, cho tới lúc ra đời, yêu đương, cưới hỏi, cô bạn yêu dấu vẫn
trưng ra độc nhứt câu trả lời như cái ngày còn mài đũng quần ở trung học: “Hoàn
cảnh chưa cho phép!”
Gần đây nhứt, một cô bạn hảo tâm ở Pháp đã ân cần lo hết mọi thủ tục cho cô bạn
lẻ bóng của mình sang Pháp chơi: xin sổ thông hành, xin visa, làm giấy bảo
lãnh, đổi ngoại tệ, book vé máy bay Air France khứ hồi. Chỉ cần bước chưn ra khỏi
nhà là sẽ tới Paris ngay trong vòng mười sáu tiếng. Ấy vậy mà cô bạn thân yêu vẫn
án binh bất động. Hỏi tại sao, vẫn được cô bạn đơn chiếc trả lời bằng cái bài học
thuộc lòng đã quá date từ trước thời giải phóng: “Hoàn cảnh chưa
cho phép!” Bần tăng bèn hỏi cà rỡn: “Cô đã làm đơn xin phép hoàn cảnh
chưa?” Được đáp: “Anh hỏi gì mà kỳ dzậy!” Xong lại lui về hậu trường tử thủ chờ
hoàn cảnh cấp giấy phép xuất ngoại. Quả thiệt là: “Chờ anh (hoàn cảnh) em
quá sức chờ / Chờ cho rau muống lên bờ trổ bông”!
6. Ca dao cũ: “Chị kia bới tóc đuôi gà/ Nắm đuôi chị lại hỏi nhà chị
đâu?”
Ca dao mới: “Chị kia bới tóc đuôi chồn/ Nắm đuôi chị lại hỏi…” (A di
đà Phật, bần tăng xin nhường cho bà con ta làm tiếp cho hết câu thơ tám chữ và
bà con ta hãy rán mà chịu cho mấy bà nữ quyền đục cho phù mỏ! Không còn một cái
răng nào để mà húp cháo!)
7. Một dạo nọ, liên tiếp cả tháng trời, hễ cứ nhắm mắt ngủ là bần tăng nằm
chiêm bao thấy đàn bà ở truồng. Cả người gầy ốm xanh xao. Quá lo sợ, bần
tăng đi khám bác sĩ tâm lý. Sau khi lắng nghe tự sự, bác sĩ bèn làm trắc nghiệm.
Bác sĩ vẽ một cái hình chữ nhựt đưa ra hỏi: “Anh nhìn thấy gì?” Bần tăng: “Tôi
thấy một người đàn bà ở truồng nằm trên cái giường hình chữ nhựt”. Bác sĩ vẽ một
cái hình vuông: “Anh nhìn thấy gì?” Đáp: “Tôi thấy một người đàn bà ở truồng nằm
trên cái giường hình vuông”. Bác sĩ vẽ một hình tròn: “Anh nhìn thấy gì?” Đáp:
“Tôi thấy một người đàn bà ở truồng nằm trên cái giường hình tròn”. Bác sĩ gật
gù kết luận: “Anh bị ám ảnh tình dục nặng. Nhìn cái gì anh cũng đều
nghĩ tới chuyện dâm dục”. Bần tăng phản đối: “Tôi mà nghĩ tới chuyện dâm dục?
Chỉ có bác sĩ khoái vẽ hình tục tĩu thì có!"
8. Khi đẻ con, mọi con thú mẹ đều liếm con mình cho sạch sẽ và úm con
mình trong lòng cho nó đủ ấm. Chỉ ở cõi người mới có hiện tượng người mẹ đẻ con
xong bèn bỏ vô tủ đá mà... đông lạnh.
9. Không có thời gian nào khác hơn là thời gian hiện tại. Dĩ vãng và
tương lai cũng nằm trong hiện tại. Dĩ vãng cô đọng lại thành hiện tại. Và từ hiện
tại phát xuất ra tương lai. Người ta chỉ có một cách sống duy nhứt: sống
trong hiện tại. Kỳ dư, tất cả các lối sống khác đều là hoang tưởng.
Chẳng hạn ngày 23 tháng chạp vốn là ngày đưa ông Táo về Trời mà vẫn có nhiều
người lớn và nhiều đấng con nít ke “hoang tưởng” là mình đang ăn tết! Thiệt ra,
chỉ khi nào ngày mùng một tháng giêng trở thành hiện tại thì người ta mới có thể
ăn tết được thực sự mà thôi.
10. Tự do được thể hiện bằng sự lựa chọn. Sự lựa chọn phát xuất
và dựa trên hoàn cảnh và điều kiện. Nhưng than ôi! Cái hoàn cảnh
đó và cái điều kiện đó thường khi lại không do mình lựa chọn. Vậy mà
con người vẫn khoái nghĩ rằng mình có tự do tuyệt đối: cái gì cũng tự mình
lựa chọn và do mình quyết định hết cả.
Tự do tuyệt đối? Một ảo tưởng tuyệt đối! “Tự do tuyệt đối” là một dạng
thức ích kỷ trá hình. Nó cho thấy một ý thức tự do còn ấu trĩ. Giống
hệt như đứa con nít muốn ăn thì ăn, không muốn ăn thì nhả, trái ý thì khóc, vòi
vĩnh không được thì lăn ra nằm vạ, tự (do) biên tự (do) diễn mình ên. Khi lớn
lên, nếu không chịu ý thức thì sẽ cứ tiếp tục diễn tuồng con nít dài dài. Hơn
thế nữa, lại còn le lói khoái nghĩ rằng mình có “tự do tuyệt đối” để (hiu hiu)
có cảm tưởng rằng mình “muốn làm gì đó thì cứ làm”. Mình là một loại Thượng Đế
“bỏ túi”. Ngon lành chưa?
“Thì qua khoái nghĩ vậy cho nó le lói với bà con mà em Hai! Thắc mắc
với qua mà làm chi!”
Nghĩ lai rai - Tám
1. Phép mầu có thiệt! Sự tiến hoá trên địa cầu đã làm xuất hiện hai
loài có vú biết bay: loài dơi và nữ tiếp viên hàng không. Loài thứ
hai xinh đẹp như tiên và vô cùng hấp dẫn, nhưng không phải vì biết bay đâu nhé!
2. Nếu viết: “Đứa nhỏ âu yếm bú vú mẹ và sờ vú mẹ” ắt sẽ được
ngợi khen là viết gợi cảm (muốn rớt nước mắt). Còn như viết: “Người chồng âu yếm bú
vú vợ và sờ vú vợ” thì bảo đảm sẽ bị chửi liền là viết nhảm
nhí. Nhảm nhí? Thì cũng chỉ là cái chuyện ấy và cũng ngần ấy động tác mà
thôi. Có đấng ông chồng nào dám hiên ngang vỗ ngực chối phắt là “Em chả! Em chả!”
không? Kể cả bà xã nữa. Từ ngàn xưa cho đến những nay, thằng đàn ông vẫn muôn đời
là đứa con nít... chưa dứt sữa! Ô kê Sa Lem (Sao anh làm em mệt)?
3. Lỡ bước sang ngang cũ: “Em ơi em ở lại nhà/ Vườn dâu em hái, mẹ già em
thương”.
Lỡ bước sang ngang mới: “Em ơi em ở lại nhà/ Vườn dâu em đốn, thịt gà xé
phay”.
4. “Đất nước ta hễ bước xuống phố là gặp anh hùng!” Cứ chạm mặt anh
hùng theo kiểu này tối ngày thì chắc chắn sẽ có chầu bị thằng anh hùng nó đục
cho phù mỏ. Và hơn thế nữa: Bảo đảm đồng bào ta sẽ đói nhăn răng dài dài để mà
vô cùng le lói và hãnh diện về cái đất nước vô địch anh hùng “Chống Mẽo kíu nước”
của mình. “Ta thà chết chớ không hề lui!". Cứ nhất quyết như vậy
thì bảo đảm sẽ chết nhăn răng là cái chắc, có gì mà phải ngạc nhiên? Dĩ nhiên
chết nhưng mà là chết một cách anh hùng: Một anh hùng chết thẳng cẳng! Hách
cái mặt lên trời cao mà hãnh diện là quá đúng! “Bộ không sợ bị trời đánh hả cha
nội”?
5. Cảnh: Phòng mạch của một bác sĩ đông khách. Để tiến hành công tác khám
bịnh nhanh chóng, các bịnh nhân đều bắt buộc phải cởi truồng sẵn sàng. Nữ một
bên, nam một bên, hai phòng chờ riêng biệt. Bên nam, ông thứ nhứt mở miệng
than: “Tui chỉ đứt có chút xíu ở đầu ngón tay mà bác sĩ bắt tui phải cởi truồng.
Thiệt là kỳ cục!” Ông thứ nhì: “Còn tui đây thì sao? Tui chỉ đổ ghèn có một con
mắt mà bác sĩ cũng bắt tui phải cởi truồng. Cái đó mới thiệt là kỳ cục!” Ông thứ
ba: “Ối! Hai ông mà nhằm nhò gì! Tui chỉ tới đây để phát có một cái thơ bảo đảm
mà cũng bị bác sĩ bắt phải cởi truồng đây thì sao!”
6. Điểm văn chương nước ta. Khi nói về quê hương chỉ thấy phe ta ca tụng
“Quê hương nghèo đói”. “Quê hương lửa khói”. Khi nói về bà mẹ chỉ thấy ca tụng
“Mẹ già còm cõi, áo rách vá vai” Sao không thấy ca ngợi “Mẹ ta bận áo sạch, trồng
đủ răng và ngồi ăn hủ tíu tôm cua một cách ngon lành”? Ca ngợi cái đó thử coi,
có chết thằng Tây nào đâu mà sợ? Sao dân tộc ta vẫn thích ca ngợi hoài những thứ
“không khá”? Vẫn hát hoài hoài cái bài lô xíttơry: “Ối cuộc đời đéo
khá!... Vì đời đéo khá nên nói rõ ràng cuộc đời đéo khá!...”
7. Thêm nữa, khi nói về các cô gái thì các nghệ sĩ cứ ca tụng “Dáng em gầy
gầy, gầy tay năm ngón, tóc xõa vai gầy, môi gầy nức nở, vân vân” Được lắm! Thì
cứ để các em có da có thịt phây phây, có đôi vú thơm lủng lẳng, có cái gò mông
núng nính vô cùng gợi cảm đó cho bần tăng. Bần tăng xin muôn tạ ơn lòng. Ối các
em phây phây sao mà nó mát da mát thịt đến thế! Như cái máy lạnh tốt bụng mở rỉ
rả làm dịu mát cả một trưa hè nắng gắt... củ kiệu. Maria hỡi! Linh hồn con
ớn lạnh!
“Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên”. “Rờ mềm mềm, bóp êm êm... Rờ một cái muốn
rờ thêm. Hè về! Hè về!... Khắp nơi hè về! Hè về!...”
8. Nghệ sĩ mù Văn Vỹ bây giờ đã bỏ nghề đờn vọng cổ chuyển qua nghề chạy
hông-đa ôm: Từ ngày giải phóng vô, cha nội sáng mắt ra rồi!
9. Một bạo chúa muốn trở thành bạo chúa phải có vô số đồng loã.
Nhiều khi chính các nạn nhân là đồng loã của bạo chúa chớ chẳng ai khác. Gẫm lại,
có phải đôi khi chính chúng ta mài búa cho đao phủ để hắn chém đầu
mình cho ngọt? Rồi trách sao mà thằng đao phủ nó lại quá nhẫn tâm! Dầu cho có rụng
xuống đất một cái “bịch” và lăn lông lốc, cái đầu rơi vẫn cứ tiếp tục còn ngu...
can không nổi!
10. Kiều: “Rằng nghe nổi tiếng cầm đài/ Nước non luống những lắng tai
Chung Kỳ”
Lẩy Kiều: “Rằng nghe nổi tiếng cầm đồ/ Nước non bao hiệp cố vô tiệm vàng”
Nghĩ lai rai - Chín
1. Nhiều người có ảo tưởng rằng mình nắm được sự thật lịch sử. Thiệt
ra, cùng lắm là chỉ nắm bắt được một số sự kiện (coi như) có thật (chắc không?)
qua các tài liệu (thiệt hay giả?) Còn những gì xảy ra trong đầu, trong tâm lý
đã dẫn tới hành động của các diễn viên lịch sử, ai dám hiên ngang vỗ ngực rằng
ta đây “rành hết sáu câu vọng cổ”? Bộ ngon lành lắm hả cha nội? Sao mỗi lần mở
miệng ra là cứ hiu hiu cho rằng ta đây phun ra “sự thật lịch sử” một chăm phần
chăm? Vả lại, “sự thật lịch sử” là cái đếch gì? Đâu ai đó định nghĩa thử coi?
2. Ca dao cổ truyền: “Đi đâu cho thiếp theo cùng/ Đói no thiếp chịu lạnh
lùng thiếp cam”
Ca dao cách tân: “Đi đâu cho thiếp theo cùng/ Đói no thiếp chịu, vô mùng...
thiếp cũng vô”
3. Đố vui để chọc: Trong muôn loài có vú, tại sao chỉ có loài người, khi
làm tình, con đực lại sờ vú con cái? “Thứ đồ mắc dịch!” Đố bà con ta
chớ loài gays có sờ vú người phối ngẫu khi làm tình hay không? Ai
rành cái vụ này xin làm ơn gỡ rối tơ lòng cho bà con ta hết théc méc.
4. Trong thế giới ngày hôm nay, tình cảm càng lúc càng được liệt
vào hàng yếu hèn, khiếp nhược, cần phải loại bỏ vì nó đưa ta vào thế yếu và gây
xáo trộn trong mọi tổ chức.
Người hùng bi dờ là phải “chì”, rất chì, phải dửng dưng, phải vô cảm, phải biết
trơ trơ đạp lên hết đầu mọi người để tiến tới thành công cá nhân của
mình. Thành công trở thành một thứ Tôn giáo siêu việt của mọi
người trong xã hội chúng ta ngày hôm nay. Phải thành công bằng bất cứ giá nào mới
xứng đáng là một tín đồ ngoan đạo của Tôn giáo Thành công. Nếu cần, bắt
cả vợ con đi làm đĩ nơi quyền thế để bắc cầu thành công cho cá nhân mình.
Ngay trong lãnh vực yêu đương nam nữ cũng vậy. Phải gạt bỏ hết mọi tình cảm để
nắm phần chủ động, ngõ hầu đè bẹp đối phương. Lên giường “đục đẽo” thì cứ tha hồ,
nhưng còn “tình cảm” thì nhứt định là không. Không có tình cảm lãng mạn lãng miết
gì hết ráo! Ngay cả trái mít của bà Hồ Xuân Hương cũng phom phom tuyên bố: “Nếu
em có tươm nhựa là cũng chỉ để tươm nhựa chơi vậy thôi. Em không có sướng khoái
hoặc rung động chi chi hết. Bọn đực rựa macho chớ có “hiểu lầm tai hại”!
Làm tình với em thì cũng y chang như là làm tình với một trái mít lỏng bỏng nhựa
mít vô cảm mà thôi!” Và cuối cùng trái mít cũng hạ anh macho đo ván
dài dài... dài dài... Một cách lạnh lùng và tỉnh táo. “Và người đàn bà trong
tôi sung sướng reo cười”! Như một serial killer! Do đó, phải nhớ thảo trước
di chúc của mình để lại cho đời trước khi lên giường “xơi trái mít (đặc)” vô cảm,
phớt tỉnh Ăng lê, cù mãi chả chịu cười.
5. Nhân loại đã trải qua hai lần thảm họa. Thảm họa thứ nhứt: Có thằng làm
tài khôn chế ra cái đồng hồ.
Thảm họa thứ hai: Cái thằng làm tài khôn tuyên bố “Thời giờ là tiền bạc”
Sau hai lần đại họa ấy thì con người không ai còn có thời giờ được nữa.
Kết quả: rất nhiều người bị bức xúc, đứt nút, bất túc, tai biến mạch máu não, đứng
tim, đái đường đái xá! Để tiết kiệm thời giờ.
6. Một buổi chiều nọ, thằng lỏi Joseph đội da cu trên đầu tất tả chạy ào
vô nhà, hào hển nói với ba nó: “Ba... ơi! Ba... ơi!... Bữa nay con... con...
không đi xe buýt... Con chạy theo... theo... xe buýt để về... về... nhà... Con
tiết kiệm... tiết kiệm... được một đồng...” Thằng cha của Joseph bèn xáng liền
cho thằng nhỏ một bạt tai thấy 36 ngọn đèn: “Đồ ngu! Sao mầy không chạy theo
xe taxi? Chạy theo xe taxi thì mày tiết kiệm được tới 20 đồng.
Sao mà mày ngu quá vậy?”
7. Thơ TTKH: “Người ấy thường hay vuốt tóc tôi/ Thở dài những lúc thấy
tôi vui”
Nhái thơ TTKH: “Nàng ấy thường hay vuốt củ tui/ Thở dài khi thấy củ... đen
thui”
8. Rất nhiều người trong chúng ta muốn thay đổi đời sống theo ý
mình (để đạt tới hạnh phúc riêng tư?) Nhưng rất ít người làm cho đời sống thay
đổi theo ý mình được.
Bần tăng trộm nghĩ: “Nếu không thay đổi được đời sống thì tốt hơn ta nên thay đổi cách
nhìn của mình về đời sống”. Thay đổi cách nhìn đời sống hầu như lúc nào
cũng dễ dàng hơn và khôn ngoan hơn là tốn hao sức lực để cố gắng thay đổi đời sống
và thất bại ê chề. Từ xưa đến nay, đời sống có đó không phải để chìu ý mình
đâu. Vả lại, cho dù có thay đổi được đời sống theo ý mình đi chăng nữa thì cũng
chưa chắc gì đã tốt cho mình và tốt cho mọi người khác. Tham vọng là
cái đáng cho ta dè dặt và cẩn trọng. Tham vọng thường phát sinh từ lòng ích kỷ
chỉ nhằm phục vụ cho mình. Nào có hay ho tốt lành gì đâu!
9. Giữ thể diện cho khỏi mất mặt bầu cua: “Dù hèn cũng thể, dù bể cũng còn
kêu cành cạch”.
10. “Các ngõ đường của Đấng Cứu Thế không thể nào bước vô được”. Ê! Ê! Tui
đang kiếm đường để đi ra mà chưa được đây cha nội!
Nghĩ lai rai - Mười
1. Đàn bà chỉ thích nghe những gì mà nàng muốn nghe. Rồi
trách sao mình cứ bị thằng đực rựa bất lương nó nói dóc, nó lường gạt ái tình,
làm rách nát, tơi tả, tiêu tùng cả một đời huê!
2. Thơ Bà Huyện Thanh Quan, Chiều hôm nhớ nhà: “Trời chiều bảng lảng
bóng hoàng hôn/ Tiếng ốc xa đưa lẫn trống dồn/ Gát mái ngư ông về viễn phố/
Gõ sừng mục tử lại cô thôn”
Nhái thơ Bà Huyện: “Trời chiều bảng lảng bến Hàm Dương/ Bún ốc rao vang khắp
phố phường/ Gát mái xe lôi ngồi tréo ngoảy / Gõ sừng vợ cắm thấy thêm thương!”
3. Trân trọng: “Mời bác xơi cơm”. Khoát tay: “Cám ơn bác! Nhà cháu xơi zồi”.
Đ.m.! Đói chết mẹ mà còn bày đặt xĩ ziện!
4. Cũng như muôn loài, con người là con đẻ của trái đất. Con người thuộc về
trái đất chớ không phải trái đất thuộc về con người. Từ xưa đến nay, cũng bởi
con người (và Kinh Thánh) cho rằng “trái đất thuộc về con người” nên con người
tàn phá trái đất không thể tưởng tượng nổi: tha hồ mà khai thác, tha hồ mà “quậy”,
tha hồ mà xả rác, tha hồ mà gây ô nhiễm... Bây giờ đứng trước những vấn đề nan
giải bèn ngửa cổ lên trời khóc ba tiếng cười ba tiếng mà than rằng: “Than ôi!
Trời đã hại Sa Vệ!” Xong Sở Bá Vương Hạng Võ xuống một câu vọng cổ thiệt mùi rồi
rút gươm ra mà cắt lấy đầu mình giao cho ông Đình Trưởng lái đò để đem đi nộp
cho Lưu Bang mà lãnh thưởng 1000 cây - tha hồ mà đi bia ôm và bao gái. Có chết
cũng quả thiệt là đáng kiếp. Understand? Comprendo?
5. Bữa nọ, một đấng đực rựa tới phòng mạch hỏi bác sĩ tâm lý: “Thưa bác
sĩ, mấy lúc gần đây, ngồi trong công viên, khi có đàn ông tới ngồi gần, em cảm
thấy trong người em rạo rực. Em sợ mình sa ngã, bác sĩ khuyên em phải làm sao?”
Bác sĩ: “Thì những lúc đó anh đứng dậy mà bỏ chạy cho thiệt lẹ”. Đấng đực rựa cắn
móng tay đỏ mặt ỏn ẻn: “Thưa bác sĩ, nhưng lúc đó em mặc váy bó sát thì làm sao
mà chạy lẹ cho được?”
6. Kể từ lúc con người biết bày đặt đúc ra tiền đồng và in ra tiền giấy,
con người trở nên nghiện nặng: nghiện tiền. Nghiện chết bỏ!
Người nghiện ngập tìm đủ mọi cách để thu hoạch cho thiệt nhiều “ma túy” và trở
nên giàu có hầu le lói với bà con. Khi đã giàu có rồi thì đứa giàu bèn tung “ma
túy” ra cho những đứa nghèo để bọn nó tập tành chích choác và phục vụ ông chủ hết
mình. Cho tới lúc bọn này trở nên nghiện nặng và chạy theo ma túy y chang như
ông chủ của mình vậy. Dần dà, tất cả nhân loại đều lây nhau mà nghiện ngập: nghiện
tiền! Rồi giành giựt ma túy với nhau, gây ra chiến tranh triền miên. Mút
mùa lệ thủy!
Mọi cuộc tranh chấp của con người, với bất cứ lý do “cao đẹp” nào, chung quy
cũng nhằm để tranh giành tiền tài và quyền lực. Mọi lý do “cao đẹp” trưng ra
cũng chỉ nhằm “mà con mắt” thiên hạ mà thôi.
7. Ni cô của bần tăng có một đứa em gái ngoại họ rất ham thành Phật. Quanh
năm nó ăn chay trường và đóng cửa gõ mõ năn nỉ Thánh Thần cho mình mau mau được
lên Thiên đàng.
Năm nọ, ở một tỉnh lẻ bên Pháp có một thằng cà chớn tự xưng mình là vị Cứu
tinh Của Nhân loại, và tiên đoán rằng ngày 10 tháng Mười năm đó sẽ là
ngày tận thế, toàn thể nhân loại sẽ hui nhị tì. Xong rút vô một cơ ngơi
(!) lớn với 20 tử đệ để mà tử thủ và cầu nguyện. Có đứa sợ tận thế thì mình sẽ
chết nhăn răng nên lén uống thuốc chuột chết trước để rút ngắn thời gian chờ đợi
Thần Chết. Bần tăng lấy làm ngạc nhiên mà rằng: “Quái! Bề gì tới lúc tận thế
thì cũng chết, mắc mớ gì mà phải uống thuốc chuột chết trước? Bộ gấp lắm hả?”
Đứa em gái ngoại họ bèn lên tiếng giải đáp théc méc: “Tại anh không biết đó chớ!
Chết trước thì sẽ lên Thiên đàng sớm hơn mọi người để giành chỗ tốt”! À za thế!
Người ta đi lên Thiên đàng cũng như là đi coi hát cải lương hoặc đi coi xi
nê cà la ma. Cần phải vô rạp sớm sủa để giành được chỗ tốt.
Chịu thua em gái! Vêry krềzi! Thiệt là «ẻn phu la tết»!
8. Nhân loại có cái «đỉnh (cứt) cao trí tuệ» gần đây đã thực hiện được nhiều
bước tiến nhảy vọt trong lãnh vực sinh học: con người tráo đổi gán ghép lung
tung các genes của nhiều sinh vật khác nhau để sáng chế ra những giống
mới. Con người đã sáng chế ra được con cá dạ quang, ban đêm tự phát
sáng để thấy đường mà lội đi cua đào khỏi cần mang theo đèn bấm. Con người cũng
đã sáng chế ra được con gà không có lông (người tình không chân
lông?) để lúc nào muốn nấu cà ri chỉ cần bắc nước sôi lên luộc cà và khoai tây
rồi mời ngài gà cồ bước vô nồi đậy nắp lại, khỏi mất công vặt lông rửa cẳng.
Con người lại còn sáng chế ra được một loại dưa hấu vuông vức sáu mặt
ngõ hầu tiết kiệm được nhiều chỗ trống trên xe hàng lúc chuyên chở, đỡ tốn xăng
nhớt và bớt hao bạc cắc, lại tránh được bọn du thủ du thực ló mòi đá cá lăn dưa.
Bần tăng đang thấp thỏm lo sợ rồi đây các bà nữ quyền sẽ âm mưu lén lút sáng chế
(và tối chế) những thằng đực rựa có cái đầu vuông vức y chang như nhau, hầu cho
các bà chụp cái nón macho vuông vức may sẵn lên đầu thằng đực rựa được
dễ dàng và lúc nào cũng vừa vặn khít khao, khỏi cần phải thử trước!
9. Điểm mặt "Chúa tể muôn loài" (muôn lòi?): Thuyết tương đối của
ông Ễnh-Tai đã cho phép con người chế tạo (bày đặt ra) bom
nguyên tử. Khi hay tin trái bom nguyên tử đầu tiên của loài người liệng xuống Hiroshima tiêu
diệt liền ngay tại chỗ 100 000 người, ông Ễnh-Tai đã giậm cẳng kêu trời:
"Trời hỡi! Phải dè như vậy tui đã đi làm thợ ống nước!"
10. Vẫn ông Ễnh-Tai: Sau vụ liệng bom xuống Hiroshima, khi
được một nhà báo hỏi rằng sau thế chiến nguyên tử thứ ba, loài người sẽ đánh
nhau bằng vũ khí gì? Ông Ễnh-Tai trả lời cái rụp: "Bằng cái nạng
dàn thun!"
Sập tiệm là cái chắc!
Nghĩ lai rai - Mười một
1. Cần phân biệt hai thứ tự do: tự do lý thuyết và tự do thực tiễn.
Cái tự do thực tiễn bao giờ cũng dễ sử dụng hơn là tự do lý thuyết.
2. Tự tử để chứng minh mình có tự do (để chống đối Thượng đế?)
thì cái tự do đó quả thiệt là hẩm hiu và kiêu căng xuẩn ngốc.
3. Le lói: “Ta đã từng thi rớt tiểu học, thi rớt trung học, thi
rớt đại học. Ta cũng đã từng rớt tuyển vào trường Harvard, trường
MIT, trường Cambridge, trường kỹ sư, trường y khoa, trường dược! Và ta
cũng đã từng rớt cử Tổng thống, rớt cử Nghị sĩ, rớt cử Trưởng ấp, rớt
cử Thường dân! Và hơn thế nữa, ta cũng đã từng đứt luôn cái dây thiều…
lọt luôn xuống cầu tiêu”. Cho nó đủ bộ bình tích.
4. Thì thầm trong đêm: “Em ơi! Anh muốn kiếm một đứa con để nuôi. Em đừng
có nhúc nhích, đổ uổng!” Nói xong bèn cùng nhau gần gũi (trích Liêu trai chí dị)
5. Cộng sản phát xuất từ đâu? Khi xét kỹ lại thì chế độ cộng sản
chính là con đẻ của chế độ tư bản. Bóc lột áp bức làm nảy sinh nổi loạn và
bạo động. Sau khi rạn nứt rồi sập tiệm cái rụp, “banh xà rông” cuổng trời, cộng
sản bèn lột xác “đổi mới” thành chế độ “xã hội - thị trường”, theo cái kiểu ba
rọi của Ba Tàu và Á Nàm dành ta. Một loài thú lạ không giống một con giáp nào hết,
thuộc loại “đầu cua tai nheo”, vừa biết sủa quấu quấu, vừa biết kêu meo meo.
Bây giờ còn lại một mình một chợ, một mình độc chiếm thị trường, tư bản bèn thừa
thắng xông lên, rùng mình hóa thân thành “tư bản - toàn cầu”, lấy thịt đè người,
dùng tiền bạc làm xăng nhớt để vận chuyển lòng tham và guồng máy sinh
lời của giống người. Người ta gọi đó bằng một từ chuyên môn: “làm kinh tế” hậu
hiện đại, nâng cấp sự tăng trưởng tổng sản lượng quốc gia lên hàng Tôn
giáo. Thế nhưng các tác nhân của guồng máy đó đều thừa biết rằng sự tăng
trưởng liên tục sẽ đưa trái đất đến hủy diệt cuối cùng. Và cái cứu cánh
tăng trưởng hoài hoài chỉ là một điều không tưởng hết sức hiển nhiên.
Luật Trời: “thành, trụ, hoại, diệt”. Chúng ta chỉ có duy nhứt một trái đất quèn
với tài nguyên hữu hạn để cung phụng và đáp ứng tất cả mọi nhu cầu cho giống
người và cho muôn loài. Vô số nhu cầu của con người thuộc hàng hoang tưởng, vô
cùng thừa thãi, hoàn toàn phù phiếm và hoàn toàn vô ích. Nhưng nếu mấy thằng chóp
bu cầm đầu các quốc gia trên thế giới tuyên bố cái sự thật đó và đề nghị
giảm nhu cầu, giảm tăng trưởng thì bảo đảm một chăm phần chăm là dân chúng sẽ
xuống đường và các chóp bu sẽ thất cử lần sau là cái chắc. Bởi lẽ đó mà cứ im
re. Hoặc cứ tiếp tục hứa nhăng hứa cuội “tăng trưởng mạnh mẽ, đều đều, bất tận”.
Sau khi rùng mình biến thành cái quái thai “xã hội - thị trường”, cộng sản lại
lột xác lần nữa và hiện hình thành “cộng sản–xã hội-quốc gia” theo cái kiểu
Vénézuéla, Brésil ở Nam Mỹ, với ý đồ làm sống lại huyền thoại Che Guevara và Fidel
Castro vô địch kách mọn. Cho tới năm 2007 hiện nay, ông râu xồm này vẫn
còn sống nhăn răng và Cuba vẫn còn nghèo mạt rệp. Rồi đây trong tương lai sẽ
còn xuất hiện những chế độ quái vật nào khác nữa đây?
Quanh đi quẩn lại, tung hô chế độ này hay tâng bốc chế độ nọ xét ra cũng chỉ là
một hành động chó hùa như cái kiểu “theo voi ăn bã mía”, một màn kết bè kết đảng
giành giựt tiền tài và quyền lực giữa con người với con người. Khi nhìn kỹ lại
thì từ thời Chiến Quốc, từ thời César, từ thời Thành Cát Tư Hãn, từ thời Võ Tắc
Thiên, sang tới thời Hitler, thời Staline, thời Mao xếnh xáng, thời Cha già Dân
tộc, thời Bush con, vân vân... con người muôn thuở cũng vẫn vậy thôi. Vẫn tham
lam, vẫn hiếu chiến, vẫn kiêu căng và vẫn xuẩn ngốc tột bực. Chỉ thay đổi có mỗi
một cái danh xưng của chế độ. Chớ con người thì vẫn trước sau như một.
Vẫn y chang như cũ: The one and only you!
6. Thơ của Đại Cùi thi sĩ: “Sao anh không về chơi thôn Vỹ?/ Nhìn nắng
hàng cau nắng mới lên/ Vườn ai mướt quá xanh như ngọc/ Lá trúc che ngang mặt
chữ điền”
Dưới chế độ “xã hội-thị trường” của xứ ta ngày hôm nay thì Nhà Nước làm chủ
nhân ông đất đai trên toàn quốc và là đại lý độc quyền đất đai. Do nạn đầu cơ,
giá đất tăng lên vùn vụt, nhứt là ở Sài Gòn, Hà Nội và Huế. Do đó thơ Hàn Mặc Tử
cũng được cải biên cho thích hợp với chính sách kinh tế xã hội-thị trường hiện
nay của Đảng ta: “Sao em không về chơi thôn Vỹ?/ Nhìn giá nhà lên giá đất lên/ Vườn ai mướt quá bao nhiêu mét?/ Giấy đất che ngang cứ hốt tiền”.
7. Nhìn lại sự tiến hoá của muôn loài trên trái đất, ta không khỏi ngạc
nhiên.
Muôn loài từ xưa tới nay đều vẫn tiến hóa từ từ và hoà hợp với nhau. Sự chênh lệch trí
khôn giữa muôn loài không cách biệt nhau mấy. Cho dù có chênh lệch thì
cũng không có loài nào dùng trí khôn để khai thác và bắt muôn loài khác phải phục
vụ cho mình. Chẳng thấy có loài nào đầu cơ tích trữ, trao đổi kiếm lời, mở
trương mục hoặc để dành cho đời sau, vân vân… Ngay cả con Sư tử, mang tiếng là
Chúa tể sơn lâm (tước vị này do con người phong cho) nhưng chẳng thấy Sư tử bắt
con nai hầu bàn, bắt con khỉ hút bụi, bắt con trâu đấm bóp mát-xa, bắt con ngựa
cõng mình đi chơi, hay chi chi hết.
Đùng một cái! Cách đây khoảng 5 triệu năm, Con Người chợt xuất hiện với
trí khôn tách biệt hẳn với muôn loài. Một sự cách biệt vĩ đại! Con
người đương nhiên trở thành độc tôn, rồi tự cho mình (qua Kinh thánh?) có toàn
quyền khai thác, bóc lột tất cả muôn loài khác có trí khôn kém cỏi hơn mình.
Tuy kém cỏi nhưng vô cùng lương thiện so với cái lưu manh tột bực của
con người. Và trên tất cả, không hề độc ác như con người. Giả thử như
loài khỉ có được 95 phần trăm, loài cọp có 90 phần trăm trí khôn của con người
thì ắt hẳn sẽ có chiến tranh triền miên giữa loài người, loài khỉ và loài cọp.
Đàng này, vì bởi con người không có loài nào đủ trí khôn để xứng đáng là đối thủ
của mình, bèn xoay ra gây chiến tranh không ngớt giữa con người với con người,
chém giết nhau tưng bừng, cắt cổ mổ ruột, bắn vô đầu nhau bể gáo hằng hà sa số.
Cũng bởi con người thình lình có trí khôn vượt bực trong dòng tiến hóa, ăn bứt
cả muôn loài nên có thể xem con người là Đứa Con Cưng của Tạo hóa. Và
cũng bởi được cưng chìu quá mức nên con người đâm ra hư hỏng trắc nết và nhứt
là “mất dạy” vô cùng đối với muôn loài khác đang cùng cư ngụ trên trái đất này.
Con người khai thác và bóc lột muôn loài một cách hết sức triệt để. Con người
coi mạng sống muôn loài như là đồ bỏ, như cục đất, như hòn sỏi, như cát bụi
không bằng. Nhưng liệu tình trạng này có thể kéo dài thêm được bao lâu nữa? Và
con người có tỉnh ngộ được chút nào chưa?
“Thuận lẽ Trời thì sống, nghịch lẽ Trời ắt chết”! Bạo phát thì bạo tàn! “Các em
nên lấy đó làm gương mà giữ (cửa) mình” Chớ có hung hăng con bọ xít quá thể! E
rồi một ngày gần đây có hối cũng không kịp.
8. Đây nói qua về chuyện đấu bò. Trò chơi đấu bò đại khái như sau: Gã
đấu bò có cây gươm. Nếu dùng gươm đâm chết được con bò thì gã đấu bò thắng. Con
bò có cặp sừng nhọn. Nếu dùng sừng đâm chết được gã đấu bò thì con bò thắng. Mọi
người đã hiểu hết chớ? Xong!
Mùa hè năm nọ, bần tăng xuất chinh du ngoạn xứ Tây ban nha và đi coi đấu bò, một
đặc sản địa phương hết sức ly kỳ. Tan trận đấu, bần tăng ra về, bụng đói nên
chui vào một quán ăn đông khách. Vì không rành tiếng địa phương nên bần tăng
kêu nhằm món gì chỉ có toàn là bột, dở ẹt! Ngó sang bàn bên cạnh thấy có một
anh chàng Tây ban nha râu ria xồm xoàm đang xì xụp nhai ngấu nghiến hai cục gì
tròn tròn to bằng cỡ trái cam lớn Florida, coi bộ rất ngon lành. Bần tăng hỏi,
hắn đáp: “Đây là món dái lăn bột. Mày muốn thưởng thức món này thì ngày
mai trở lại quán này và gọi y chang như vậy: dái lăn bột, nhớ chưa?”
Lòng mừng khấp khởi, ngày hôm sau bần tăng trở lại quán và gọi đúng bon cái món
“dái lăn bột”. Tha hồ mà thưởng thức nhé! Chờ hồi lâu. Chập sau gã bồi bàn bưng
ra một cái dĩa lớn. Trong dĩa có hai hột gì tròn tròn lớn bằng hai trái cà na
đèo đẹt. Bần tăng gọi chủ quán tới bàn, chỉ tay vào dĩa phản đối: “Hôm qua món
dái lăn bột có hai cục rất lớn. Sao bữa nay hai cục có chút xíu vậy?”
Tên chủ quán đáp tỉnh bơ: “Ngày hôm qua thằng đấu bò nó thắng. Bữa nay con bò
nó thắng. Bữa nào có sẵn dái gì thì tao làm dái đó. Có gì mầy phải thắc mắc?”
9. Tần Thủy Hoàng Đế! Vị hoàng đế đầu tiên của Trung Quốc. Một tay gồm
thâu lục quốc, lên ngôi báu, xưng danh Thủy Hoàng Đế!
Đọc sử hoặc nghe kể lại, ai ai cũng đều biết, Tần Thủy Hoàng là một bạo
chúa lẫy lừng, đã từng giết cha đày mẹ, đốt sách chôn học trò, lấp sông xẻ
núi, xây Vạn lý trường thành trên xương máu của toàn dân. Nhưng đã làm người
thì một ngày nào đó cũng phải chết, chỉ sớm hay muộn mà thôi. Cũng như mọi sinh
vật khác trên đời, Hoàng đế đầu tiên hay Hoàng đế cuối cùng gì thì cuối cùng đều
cũng phải chết, cũng phải chầu Diêm vương hết ráo.
Tần Thủy Hoàng, cho dù là bạo chúa năm-bờ-oan (hay năm-bơ-ten) cũng không thoát
khỏi luật Trời. Và trong một chuyến xuất cung “thăm dân cho biết sự tình”, Tần
Thủy Hoàng thình lình cảm thấy long thể bất an, rồi đột ngột lâm trọng bịnh được
ít hôm thì băng hà bất ngờ trong đêm, hưởng dương 50 tuổi. Triều thần sợ dân
chúng biết tin bạo chúa đã chầu Trời bèn nổi dậy sinh ra hỗn loạn trong Thiên
quốc. Bèn giấu nhẹm và lẳng lặng đặt xác rồng của Bạo Chúa trên xe rồng trực chỉ
kinh đô. Nhưng luật Trời vẫn cứ vận hành bất cưỡng: xác rồng của Bạo Chúa bắt đầu
sình chương và bốc mùi hôi thúi khủng khiếp, y chang như mọi thây ma khác. Triều
thần bèn lập kế để “mà mắt” dân ngu khu đen hai bên đường. Sách “Tần Thủy Hoàng”
của Cảnh Bảo Trân chép:
“Khi ấy thời tiết nóng bức, thi hài của vua Tần Thủy Hoàng bắt đầu thối rữa, bốc
mùi hôi. Để giữ kín chuyện trong xe chở xác Tần Thủy Hoàng, Triệu Cao sai người
mua hết cá mắm dọc hai bên đường, đem chất lên tất cả các xe trong đoàn. Vậy là
đoàn xe đi đến đâu hắt ra mùi tanh của cá mắm đến đó, không ai biết
có mùi thối xác người chết”.
Than ôi! Tần Thủy Hoàng một thời làm chúa tể thiên hạ, một thời mặc sức tung
hoành, một thời thở ra khói phun ra lửa, tự mình mặc sức đoạ đày dân đen. Vậy
mà khi chết rồi thì cũng bốc mùi hôi thúi khủng khiếp như một con cá sình
chương, như một con mắm tôm tanh tưởi. Thiện tai! Thiện tai!
Tần Thủy Hoàng thuở bình sanh đã sai người trèo non vượt biển để tìm thuốc trường
sinh mang về cho mình. Muốn được sống hoài, sống dai để mà tiếp tục đục cho các
ông Ba Tàu phù mỏ dài dài. Vậy mà phỏng đặng chăng?
Mà nào phải đâu chỉ có mỗi một mình Tần Thủy Hoàng mới ham bất tử bất diệt. Còn
có biết bao nhiêu là đấng Tai to Mặt lớn khác nữa. Những Pharaông ướp xác đem
chôn vùi bí mật dưới Kim tự tháp đồ sộ. Cũng như cái xác ướp của Cha già Dân tộc
(!) ở cái cuộc đất “bốn ngàn năm ăn vặt”. Và những người lúc chết phải giấu xác
vì sợ bị quật mồ: những Tần Thủy Hoàng, những Thành Cát Tư Hãn, những Tào Tháo,
những Tự Đức...
Than ôi! Khi sống thì hồi hộp, sợ chết. Mà đến khi chết rồi cũng vẫn hãy
còn hồi hộp, sợ bị quật mồ. Sống như vậy mà gọi là vui sống đấy ru?
10. Nói chuyện bên Tàu: Chuyện Panda. Panda là loài gấu trắng
mặc pyjama đen, đeo kiếng đen, có đủ 6 ngón ở mỗi bàn tay và mỗi bàn
chân. Panda chỉ ăn toàn là tre trúc và có “nụ cười tre trúc” vô cùng
hiền hậu. Loài panda chỉ sống độc nhứt trong rừng núi bên Tàu. Vì vậy
nên bị các ông Cắc Chú đồng hóa, thỉnh thoảng panda xổ tiếng chệt lai
rai: ngộ ái nị, ngộ tả nị xẩy, tỉu na má, dách dì xám xây, vân vân… Panda được
Cơ quan Bảo vệ Đời sống hoang dã (WWF) lấy làm biểu tượng.
Lớp bị săn bắt, lớp bị giành dân lấn đất từ phía con người, loài panda càng
lúc càng bị giảm sĩ số và bị đe doạ tuyệt chủng trong một tương lai rất gần nếu
con người cứ tiếp tục “quậy” và phá thiên nhiên theo kiểu đó.
Trong rừng rậm hoang vu mênh mông, các nam nữ panda ít khi gặp nhau,
ít khi hẹn hò, ít khi nhảy nhót với nhau, cũng không điện thoại di động hay meo
miết gì cho nhau hết ráo. Bởi lẽ đó, hầu hết các panda, nam cũng như
nữ, đều sống độc thân, tự nấu cơm lấy một mình mà ăn, rồi cũng dọn dẹp, cũng rửa
chén mình ên. Tối đến, nằm chèo queo một mình mà ngủ, rất là (Hoàng đế) cô độc
như Thanh Tâm Tuyền, nhưng không biết làm thơ tự ro. Bởi lẽ đó, các baby
panda vô cùng hiếm hoi. Mỗi lần sinh nở chỉ độc có mỗi một baby. Sinh
đôi rất hiếm có và khó nuôi. Panda mẹ có hơi dở phần nào ở mục dưỡng
nhi nuôi trẻ, và cũng không biết giặt pyjama cho con mình. Ngoài ra,
mẹ hiền cũng không bao giờ thay quần thay áo. Nói chung chung, về mặt nội trợ,
bà mẹ panda rất là bê bối.
Bởi lẽ đó, đời sống trong rừng rú hoang dã không làm tăng sĩ số panda lên
được chút nào. Các ông Ba Tàu bèn nghĩ ra một kế: bắt hai panda nam nữ
sống chung cưỡng bách với nhau trong một cái chuồng rộng. Biết đâu chừng
nam panda sẽ bị kích động bởi nữ panda sexy mà có ý kiến.
Ngày lại ngày qua… Than ôi! Thằng nam panda một mực vùi đầu vào đống
lá tre mà xực phàn suốt ngày, không thiết gì đến chuyện truyền giống
để báo hiếu cha mẹ.
Các ông Ba Tàu bèn khẩn trương (lên!) cho triệu tập Đảng ta lại để cùng nhau tư
duy Mác Lê rất là hoành tráng và có cơ sở hầu tìm cách tác hợp “thực tế” đôi trẻ panda.
Cuối cùng sáng kiến phựt lên: các ông Cắc Chú đặt một cái TV màu mặt phẳng rất
lớn trong chuồng panda đực. Xong chiếu 24/24 giờ toàn là phim X của
loài panda. Ối thôi là đủ kiểu hết: ôm ấp, vuốt ve, nút lưỡi, sờ vú, bóp
đít, mò mẫm, rồi tiếp theo là đủ kiểu yêu nhau: kiểu đứng, kiểu nằm, kiểu ngồi,
kiểu sấp, kiểu ngửa, kiểu cõng nhau, kiểu vác cày qua núi, kiểu lộn mèo (lộn
chuột), vân vân...
Mới đầu nam panda cứ dửng dưng như thầy tu chính cống. Rồi ngày qua
ngày... Các hình ảnh kích dâm bắt đầu khích động cái libido của
chàng panda… từ từ, nhè nhẹ… tăng độ, lên cao, rồi… tột đỉnh! Và cuối
cùng, nữ panda thọ thai như mấy ông Ba Tàu mong ước. Mừng hết lớn.
Reo hò chiến thắng!
Đó, các bà nữ quyền thấy không? Cho tới loài panda cù lần cũng còn biết
khoái coi phim X, nói chi tới bọn đực rựa tham dâm thô tục chúng tôi. Giống đực
loài nào cũng mang sẵn trong mạch máu của mình cái gène voyeurisme (căn
bịnh dòm). Lỗi là do tại ông Trời ổng bày đặt ra như vậy chớ nào phải đâu chúng
tôi tự ý chuốc lấy chứng bịnh nan y. Xin các nàng nương tay và ngưng chụp
cái nón macho (cũ mèm) lên đầu bọn đực rựa tham dâm, mỗi khi
chúng tôi ngó lom lom các nàng ngoe nguẩy cái mông, lắc lư cái vú và buột miệng
trầm trồ chiêm ngưỡng. Chụp nón macho bừa bãi như vậy, tội chết!
Nhưng thử hỏi, nếu bọn đực rựa không mắc chứng bịnh dòm thì lấy ai mà ngắm các
nàng tô son điểm phấn và ngoáy mông lắc ngực? Còn các nàng căng da mặt, bơm môi
bơm vú để làm chi vậy?
Nghĩ lai rai - Mười hai
1. Vũ trụ vốn vận hành theo những quy tắc riêng của nó. Những
quy tắc đó không mắc mớ gì tới những mục tiêu hay cứu cánh mà con người (hiu
hiu) tự ý bày ra cho vũ trụ. Nói rõ hơn: Vũ trụ không mắc mớ gì tới cái Lỗ đen
Bất tận, cái Ánh sáng Phúc âm, cái Tình yêu Thiên chúa, cái Vô dư Niết bàn, cái
Địa ngục Allah, cái Điểm cuối Ômêga, cái Tận thế Sập tiệm hay cái chi chi le
lói khác nữa của mấy cha nội ham động não và bày đặt ra hết ráo. Tóm lại: «Thôi! Bỏ đi Tám!»
2. Khi quan sát sự vận hành của vũ trụ, người ta có cảm tưởng lúc nào
vũ trụ cũng khuấy trộn không ngừng các nguyên tố của mình. Sao cứ «quậy»
hoài vậy cha nội? Khuấy cho tới khi nào trộn đều hết mọi nơi, đạt được
thế quân bình tuyệt đối. Khi đó mọi điểm trong vũ trụ đều có năng thế (potentiel
énergétique) y hịch nhau, một cấu trúc bền bỉ mút mùa, lê thê bất tận. Khi đó sẽ
không còn chỗ nào có thể nhúc nhích cục cựa gì được nữa hết: một cái Chết
Tuyệt Đối. Chết thẳng cẳng. Chết không thể tái sinh. Tuy nhiên, biết đâu vũ trụ
khuấy trộn hoài hoài để mà sáng tạo ra cái mới hoài hoài?
Vũ trụ giống như một khối bột vĩ đại, từ đó nặn ra một số hình tướng vào một thời
điểm nhất định nào đó. Xong, vũ trụ thu hồi các hình tướng đó trở lại. Rồi lại
nặn ra các hình tướng khác hơn lần trước ở thời điểm kế tiếp. Và cứ thế... cứ
thế... hình tướng của vũ trụ đổi mới hoài hoài, vũ trụ thay xiêm đổi áo hoài
hoài. Nhưng trong bản chất của mình, vũ trụ tự nó không hề thay đổi, không hề
khác đi. “Sắc bất dị không, không bất dị sắc (...) Xá lợi tử, thị chư pháp
không tướng, bất sinh bất diệt...”
Nhưng sáng tạo hoài hoài để làm chi vậy cà? Để làm gì ư? Đó là câu hỏi
của con người, không phải là mối bận tâm của vũ trụ. “Thì sáng tạo hoài
hoài để mà giỡn chơi cho vui khơi khơi vậy thôi, được hông cha nội? Cứ
theo hỏi cù nhây hoài coi chừng ông bộp tai cho một cái gãy hết răng bây giờ!”
3. “Trời không chìu lòng người", bạo chúa hét lớn lên như thế, đoạn
xuống một câu vọng cổ thiệt mùi rồi đâm dao phay vô cổ họng mình mà thác. Cũng
may mà Trời không chìu lòng người. Thử tưởng tượng Trời chìu lòng Tần
Thủy Hoàng, Trời chìu lòng Hitler, Trời chìu lòng Staline, Trời chìu
lòng Mao Trạch Đông! Và Trời chìu lòng luôn cả Bokassa, Bin
Laden, rồi cả Bush Cha lẫn Bush Con bây giờ nữa! Rồi hôm
nào Trời bỗng xiêu lòng chìu luôn cả chàng ca sĩ mặc xì líp hường Elton
John, ca sĩ Hời Chế Linh, rồi luôn cả Bác Hồ, Lê Duẩn, Ngô lãnh tụ,
Lê Ngọa triều, Tào Tháo, Ba Cụt, Năm Lửa, vân vân... thì sẽ bỏ mẹ hết
thiên hạ. Là cái chắc!
4. Từ thuở hồng hoang ăn lông ở lỗ có lửa ấm cho tới lúc ở building có gắn
máy lạnh ngày hôm nay, con người vẫn không ngừng đánh nhau một giây
phút nào. Có khác chăng là ở chỗ vũ khí thì cứ mỗi ngày một tối tân
hơn, mỗi ngày một hiệu quả hơn, giết được nhiều người hơn. Còn lòng người thì
vẫn trước sau như một: vẫn tham lam, vẫn hiếu chiến, vẫn xuẩn ngốc. Xuẩn hết chỗ
nói! Ngốc hết chỗ chê! Vậy mà cái con người xuẩn ngốc đó vẫn cứ hiu
hiu tự đắc về cái khả năng vô biên nhằm huỷ diệt đời sống của mình. Một ngày
nào đó có bị chính cái Núi Ngũ Hành của mình nó đè mình dẹp lép (như Tề Thiên)
thì đừng có trách. Chết mà không còn có được một mảnh đất nhỏ để chôn thây! “Em
ơi khóc đi em! Khóc đi em! Khóc đi em!...”
5. Lần nọ, trong một buổi họp mặt thân hữu, bần tăng phát ngôn (bừa bãi):
“Phê bình lúc nào cũng đều là chủ quan”. Một ngòi bút nữ chuyên trách văn nghệ ở
đài truyền thanh tại Pháp phản đối: “Phê bình cũng có thể rất khách quan đấy chứ
Kiệt Tấn! Đó là phương pháp phê bình dựa theo những tiêu chuẩn khách quan chọn
lọc khắt khe và được nhiều người đồng ý.” Bần tăng lại tiếp: “Nhưng khi chấp nhận
một số tiêu chuẩn nào đó thì sự chọn lựa đó cũng là chủ quan rồi.
Vì bởi tại sao chọn lựa những tiêu chuẩn đó mà không chọn lựa những tiêu chuẩn
khác?”
Bần tăng trộm nghĩ, khi phê phán rằng một tác phẩm nào đó hay hoặc dở,
chung qui cũng chỉ để nói lên cái sở thích của mình mà thôi: “tôi thích” hoặc “tôi
không thích”. Mà ở cái chỗ thích mí lị không thích thì chẳng có ai giống ai cả.
Nó tuỳ thuộc vào trình độ văn hóa và cảm quan của mỗi người. Ô kê Salem?
Khi để ý, người ta nhận thấy một điều vui vui: Những cây viết phê bình sắc sảo
nhứt, nếu vì một phút ngứa tay cầm bút lên mà sáng tác thì sáng tác ấy thường
khi lại không được “đạt” gì cho lắm. Đôi khi “nó chả za nàm thao cả!" Có lẽ
tại vì nghề phê bình khiến cho các nhà phê bình cẩn trọng quá chăng?
Do đó mà “Em bé hậu phương” đi đứng không được tự nhiên. Và khi em bé cố gắng
nhoẻn miệng cười nụ thì cứ như là... La Joconde Mona Lisa mếu khóc.
Viết cái kiểu này, bần tăng e rằng các nhà phê bình sẽ xúm lại đục cho thằng nhỏ
phù mỏ! Mắng chửi thậm tệ. Và giáng cấp bắt làm tạp dịch, rửa cầu, chà láng,
như ở quân trường.
Nhưng thử nhìn lại, cổ nhân ta há đã chẳng từng nói: “Nhứt nghệ tinh nhứt thân
vinh” đó sao? Thúy Kiều khi xưa cũng nhờ ở cái chỗ chuyên nghiệp hết chỗ chê “Vành
ngoài bảy chữ, vành trong tám nghề” mà hạ Thúc Sinh, Từ Hải cùng nhiều tay hảo
hớn khác đo ván dài dài. Còn các tên trọc phú đa dâm thì sạt nghiệp và... đi tù
(liền tù tì!) mút mùa lệ thủy. Cái lũ đực rựa “dê xồm” quả thiệt là zở hơi! Từ
xưa đến nay “Danh bất hư truyền”, lời đồn không sai vậy!
Nếu như bi giờ Thúy Kiều còn sống thì bần tăng sẽ rước nàng về làm cố vấn cho “Công
ty Bán Phấn Buôn Hương” của mình. Bảo đảm cổ phần của công ty sẽ bán chạy như
tôm tươi. Và cũng bảo đảm trị giá của nó sẽ tăng lên tối thiểu là 101,99 % mỗi
năm! And no VAT, of course!
6. Đây nói qua về Tây du ngoại truyện. Nhắc lại là dưới đời nhà Đường,
Tam Tạng được hoàng hậu Võ Tắc Thiên (đệ nhứt “chằn ăn trăn quấn”) cử làm một
chuyến công du sang miền Tây Trúc thỉnh kinh Phật đem về giảng dạy cho mấy ông
Cắc Chú vốn xưa nay theo đạo Khổng, đạo Lão, đạo thờ Ông Bà, và đắm chìm trong
mê tín dị đoan.
Dọc đường, Tam Tạng thu nhận ba đồ đệ: Tề Thiên (đã từng đục Vua Trời phù mỏ),
Trư Bát Giới (tham dâm, rất khoái yêu nữ), Sa Tăng (ba phải, nghị gật). Khi bốn
thầy trò sắp tới miền Tây Trúc thì bị đạo sĩ Phật Ma dùng trấn thạch chắn ngang
đường đèo, không thể nào tiến lên được. Sách Tây du ngoại truyện chép
rằng: “Đạo sĩ Phật Ma mình mặc nửa áo cà sa nửa áo giấy, ánh mắt để lộ một bên
từ bi một bên hung quang, râu mọc dưới cằm một bên dài ngoằng trắng phau một
bên chổi xể đen nghịt, đầu nửa bên cạo trọc nửa bên rối rễ tre, rõ ràng dị tướng
quái diện”.
Đạo sĩ Phật Ma chận đường Tam Tạng và ba đồ đệ ngang giữa đèo rồi bày trò “đố
vui để chọc” như trên TV ở nước ta thời Đệ nhị Cộng hòa để chọc quê hết cả bốn
thầy trò. Đạo sĩ cam kết là sẽ dời trấn thạch cho thầy trò tiếp tục cuộc hành
hương với điều kiện Tam Tạng trả lời ngon lành ba câu hỏi của lão ta về Phật
pháp - như thể là đi thi vấn đáp. Tam Tạng kẹt quá đành phải ô kê. Sau khi
Tam Tạng ô kê, sách Tây du ngoại truyện có chép lại cái màn “đố vui để
chọc” giữa hai bên rất là gay cấn như sau.
Trích dẫn:
Đạo sĩ rống lên cười oang oang:
“Hay lắm! Vậy hãy nghe ta hỏi đây. Câu thứ nhứt: Ngươi sang phương Tây thỉnh
kinh để tìm gì trong đó?”
“A di đà Phật! Thỉnh kinh là để tìm chân lý trong kinh.”
“Cái thân của ngươi là hư giả hay chân thật?”
“Cái thân của ta là hư giả.”
“Ha! Ha! Ha! Ngươi dùng cái hư giả để tìm chân lý, vậy phỏng đặng chăng?”
Huyền Trang cúi đầu không biết đáp ra làm sao. Đạo sĩ đưa cao thiền trượng và hồ
lô lên trời rống cười một tràng dài, đoạn hỏi tiếp:
“Này nghe ta hỏi câu thứ hai đây: Thái tử Sĩ Đạt Ta quả có thành Phật Thích Ca
hay không?”
“A di đà Phật! Thái tử Sĩ Đạt Ta quả có thành Phật Thích Ca.”
“Thế nhưng chúng sanh có cái thực ngã, tức là có cái ta thực sự hay không?”
“Cái ta của chúng sanh chỉ là giả tưởng. Chúng sanh không có thực ngã.”
“Ha! Ha! Ha! Khi ở trên trần thế Thái tử cũng là một chúng sanh không có thực
ngã, vậy Thái tử Sĩ Đạt Ta lấy cái “ta” nào để mà thành Phật Thích Ca? Cái
gì thành Phật, ngươi hãy đáp cho ta nghe thử!”
Huyền Trang một lần nữa lại cúi đầu, không tìm được câu trả lời. Đạo sĩ lại rống
cười hai tràng dài, hỏi tiếp:
“Này, đây là câu hỏi thứ ba mà cũng là câu chót. Ngươi đáp không được thì đừng
có hòng đi thỉnh kinh. Nghe đây: Ngươi thỉnh kinh về Trung Quốc để làm gì?”
“A di đà Phật! Ta thỉnh kinh về để thuyết pháp tế độ chúng sanh.”
“Ha! Ha! Ha! Ngươi há không biết Phật đã dạy ông Tu Bồ Đề: ‘Như Lai nói thuyết
pháp tức là không có pháp gì để thuyết được, mới gọi là thuyết pháp.’ Vậy
ngươi đòi thuyết pháp rồi mới thuyết bằng cách nào?”
Huyền Trang bàng hoàng, mồ hôi tháo ra ướt dầm áo cà sa, không biết cách gì mà
giải đáp.
Phật Ma đắc ý lại ngửa cổ cười ba tràng dài rồi đưa hồ lô lên cao:
“Ngươi là sư tăng mà không thông đạo pháp, vậy không xứng đáng đi thỉnh kinh.
Ngươi phải ở lại đây với ta mà chờ đợi người trí tuệ làm công việc
đó.”
Nói xong Phật Ma niệm chú trỏ miệng hồ lô về phía Tam Tạng hét lớn:
“Hô thâu!”
Tam Tạng bị hút bay lên và lọt vào trong đáy bình. Ba đệ tử cả kinh nhào tới
vây lấy Phật Ma kêu gào:
“Hãy trả thầy lại cho ta! Đồ nghiệt súc!”
Nhưng Đạo sĩ đã rùng mình độn thổ biến mất.
(Hết phần trích dẫn)
Kể từ lúc Tam Tạng bị đạo sĩ Phật Ma biệt giam trong connex phơi nắng
giữa trời cho tới bi dờ vẫn chưa có ai lên tiếng giải đáp ba câu hỏi tà mị của
đạo sĩ hầu tế độ Đường tăng qua khỏi mùa pháp nạn. Bần tăng xin thỉnh ý các bậc
cao tăng làu thông kinh pháp, thỉnh luôn các ác tăng mọc nanh ăn mặn cỡ Lỗ Trí
Thâm, và luôn cả các thầy chùa quốc doanh chuyên môn đi xe Mẹcxơđì và
tụng kinh đám cưới ở xứ Việt Nam - Xã hội - Thị trường của đất nước ta hôm nay.
Bậc nào giải đáp được, bần tăng hứa chắc một chăm phần chăm sẽ dắt đi hát karaôkê.
Bảo đảm sẽ có mấy em nhỏ hậu phương xinh xắn múa hát và phục vụ tận tình, muốn
gì được nấy. Bần tăng nguyện sẽ muôn tạ ơn lòng.
7. Ta thà sướng thân để tìm hạnh phúc chớ không thèm hành
xác để tìm hạnh phúc. “Ấy chết! Hãy lấy cái hành xác, hãy lấy
cái đau đớn và lấy cái bất hạnh để mà làm hạnh phúc ở đời! Có được như vậy mới
thực sự là thiêng liêng và cao cả, mới xứng đáng được mọi người tôn thờ, lễ
bái. Hãy tử vì đạo! Hãy bị đóng đinh! Hãy chết nhăn răng! Hãy...”. Nói chơi hay
nói giỡn vậy cha nội?
8. Ai cũng biết ở Nam Phi có chế độ Apartheid kỳ thị đen trắng:
trắng đi đường riêng, đen đi đường riêng, trắng học trường riêng, đen học trường
riêng, trên xe buýt trắng ngồi riêng, đen ngồi riêng, vân vân...
Chuyện xảy ra vào giai đoạn phong trào Apartheid lên đến cao điểm: Một
anh chàng tây đen chạy xe cà tàng, thắng không ăn nên xe vượt đèn đỏ. Phú lít
trắng thổi còi chặn lại, lôi anh tây đen xuống lấy dùi cui khỏ đầu và mắng:
“Tiên sư cái bọn mọi đen chúng mày! Chúng mày bây giờ tưởng là ngon lành hả?
Dám vượt cả đèn đỏ!” Gã tây đen khúm núm: “Dạ tui đâu có dám vượt đèn đỏ. Tui
thấy mấy ông tây trắng chạy đèn xanh cho nên tui tưởng đèn đỏ là
dành cho tây đen tụi tui chạy đó chớ!”
9. Khi đặt câu hỏi (tưởng là) nhớn mà không có câu giải đáp, coi
chừng là đã đặt câu hỏi trật đường rầy rồi đó cha nội. Hoặc là cha nội ngụy tạo
ra vấn đề rồi bày đặt ra những câu hỏi bí hiểm vớ vẩn cho nó có vẻ siêu thoát
và vô cùng le lói để hù thiên hạ. Chẳng hạn: “Con người từ đâu đến, đến đây để
làm gì, rồi đi về đâu?” “Mẹ rượt! Tui từ đâu đến thì thây kệ cha tui, mắc mớ gì
tới mấy người mà mấy người hỏi?”
10. Có cao có thấp thì nước mới chảy. Không cao không thấp thì nước đọng
ao tù. Cao thấp chênh lệch quá trớn thì nước lũ, sanh ra bạo động, và thác lũ sẽ
cuốn trôi hết mấy cha nội đó. Phải rán mà chịu cho nó quen!
Nghĩ lai rai - Mười ba
1. May mắn thay, hạnh phúc không khép mình vào một định nghĩa
nào hết. Bởi lẽ đó mà hạnh phúc nó thiên hình vạn trạng, biến hóa khôn lường.
Và chính nhờ vậy mà ai ai cũng có thể tìm được hạnh phúc theo cảm quan của mình,
miễn đừng làm phương hại tới kẻ khác. Một hạnh phúc trong tầm tay của mỗi người
và hết sức lương thiện. Tưởng như vậy cũng đã nà quý nắm zồi!
2. Theo cảm quan của bần tăng, hạnh phúc là một thế quân bình giữa
mình và ngoại giới. Hạnh phúc là một trạng thái, một cảm giác. Nó
không dính dáng gì tới trí tuệ và thông minh hết ráo. Người ta vẫn thường nói
“ngu si hưởng thái bình” là vậy. Một con người lúc nào cũng sáng suốt thì khó
lòng mà hạnh phúc cho được. Người ta vẫn nói “Đui không sợ cọp, điếc không sợ
súng”.
Vật chất chỉ có thể tạo điều kiện cho hạnh phúc xuất hiện (và ngược lại
đôi khi còn ngăn cản) chớ vật chất không bao giờ có thể tự nó là một hạnh phúc
được.
3. Khi muốn diệt dục thì người ta vẫn còn ham muốn: Ham muốn
và si mê Niết bàn.
4. “Diệt được cái ngã, người ta sẽ đạt được Niết bàn”. Nhưng một khi
cái ngã đã diệt rồi thì lấy cái gì mà đạt Niết bàn đây cha nội?
5. Ông Ễnh Tai là cha đẻ của “Thuyết Tương Đối” giải thích được hầu hết mọi
hiện tượng có kích thước lớn trong vũ trụ. Thuyết này được diễn tả bằng những
phương trình toán học dài cả thước, gồm nhiều ký hiệu bí hiểm mà chỉ một số ít
nhà bác học chuyên khoa mới hiểu nổi.
Vì vậy, bận nọ, được một nhà báo yêu cầu, ông giải thích sơ lược Thuyết
Tương Đối “nhức đầu” của ông bằng một ví dụ ngắn gọn cho bà con dễ hiểu. Ông
bèn kể lại một giai thoại như sau: “Một bữa nọ tui đi mua sữa tươi, trứng gà và
vài món lặt vặt. Trên đường về tui ghé thăm một người bạn mù quen thân. Tui rót
một ly sữa tươi và mời người bạn mù uống sữa. Người bạn mù ngẩn người ra hỏi: “Sữa là
gì?” Tui đáp: “Sữa là một thứ nước màu trắng”. Lại hỏi: ”Nước tui biết,
nhưng trắng là màu gì?” Đáp: “Trắng là màu lông của con thiên nga”. Lại
hỏi: “Lông tui biết, nhưng thiên nga là con gì?” Đáp: “Thiên nga là
con vịt có cái cổ cong”. Lại hỏi: ”Con vịt tui biết. Cái cổ tui
biết. Nhưng còn cong là gì?” Bị hỏi bí quá, tui mới nắm cánh tay người
bạn mù kéo ra và nói: “Thế này là thẳng, anh biết chớ?” Anh mù gật đầu. Đoạn
tui xếp cánh tay anh lại ở chỗ cùi chỏ rồi bẻ cụp bàn tay anh xuống. Xong tui nắm
bàn tay kia của anh ta hướng dẫn cho sờ cánh tay bẻ gập kia và giải thích: “Khi
nãy là thẳng, như thế này là cong”. Anh bạn mù gật đầu mỉm cười đắc
ý: “À, bây giờ tui đã hiểu sữa là gì rồi"
Kể xong, ông Ễnh Tai mới vỗ vai anh nhà báo đã hỏi ông cắc cớ mà nói: “Đó! Bây
giờ anh đã hiểu Thuyết Tương Đối của tui là gì chưa?” Và anh nhà báo (hại)
lật đật gật đầu một cái rụp. Dĩ nhiên!
6. Đàn bà mà không có cái sự đời thì đàn ông sẽ mất cái bàn thờ,
mất cái chánh nghĩa, mất cái lý tưởng, mất cái mục tiêu để phục vụ, mất cái lẽ
sống ở đời. Bảo đảm sẽ đình công, ngừng lao động, và dẹp tiệm luôn. Rồi bọn đực
rựa sẽ dần dần biến mất hết trên mặt đất. Chắc chắn một chăm phần chăm.
Bởi thế, không có đàn bà thì sẽ hư hết đại cuộc. Muôn sự của con người đều xuất
phát từ cái sự đời. Hoan hô! Hoan hô cái sự đời !
7. Một đấng ghiền nặng triết Tây đã hạ bút: “Viết là đâm nổ mặt trời!” Có
ai dám ngon lành hơn ta không? Coi chừng ông đâm mặt trời cho nó nổ rồi là cúp
điện toàn cầu, hết thấy đường mà viết luôn đó nghe cha nội!
Chưa hết! Mới đây, trong bức Tâm thư gởi cho đại văn (dầu) hào Kiệt Tấn,
một em nhỏ đã hò hét kêu gọi bọn đực rựa hãy nghe theo “tiếng thét vỡ không
gian” của đàn bà để chui ra khỏi cái hang tối Plato và đi gặp gỡ
tương lai! Một “tương lai” tối hù khi mặt trời đã bị đâm nổ! “Trời cao có thấu!
Cúi xin người ban phước cho đời con!”
8. Tôn giáo đặt nền tảng trên những gì mà không một ai có thể kiểm
chứng được. Nói kiểm chứng là kiểm chứng một cách sáng tỏ, quả quyết,
không ai có thể chối cãi hay phản bác được. Cũng bởi lẽ đó, khoa học chính
xác không bao giờ có thể là một tôn giáo được hết. Lòng tin bao
giờ cũng ẩn chứa một chút hoang mang một chút nghi ngờ. Nếu không có hoang
mang, không có nghi ngờ thì đó là sự mù quáng chớ không phải lòng
tin.
9. Lòng tin bao giờ cũng cần có một chút gì mơ hồ, bí ẩn. Chẳng
hạn như một với một là hai, rờ điện thì điện giựt, ngừng thở thì chết. Nó như vậy
đó, hết sức hiển nhiên, có tin hay không tin thì cũng vậy thôi. Trái lại,
khi nói rằng “Thượng đế có thật” thì có người tin, có người không tin. Nhưng
không có gì bảo đảm một chăm phần chăm là một ai đó đúng cả. Nhưng chính vì vậy
nên mới cần có lòng tin, cần có tín ngưỡng “bí ẩn, mơ hồ”. Khi có lòng tin thì
người ta yên tâm, là cái chắc. Cũng tốt thôi!
10. Không thấy tận mắt bất cứ một tôn giáo nào đưa một ai đó
lên thiên đàng hết cả. Nhưng ngược lại, thấy rất nhiều người vì tôn
giáo mà kéo nhau xuống địa ngục rần rần. Mà nghĩ lại, đâu cần gì tới
phải kéo nhau xuống dưới sâu làm chi cho mất công. Địa ngục lúc nào cũng nằm sờ
sờ ngay trên mặt đất này, thường trực, đâu đó. Và cái địa ngục đó lại
do chính do con người bày ra.
“Trẻ tạo hóa đành hanh quá ngán/ Chết đuối người trên cạn mà chơi”. Cụ Ôn Như
hầu nói giả ngộ. Tạo hóa nào mà lại đi dìm chết người trên cạn? Chỉ có chính
con người mới trấn nước con người ngất ngư (và đồng thời cho điện giựt) thì có.
Không tin thử hỏi Phòng Nhì của Tây, hỏi CIA, hỏi Bush con, hỏi KGB, hỏi
Staline thì biết.
Nghĩ lai rai - Mười bốn
1. Ở Pháp, sau cuộc Cách mạng 1789, Condorcet đã
quả quyết: “Cuộc Cách mạng Pháp đặt nền tảng chính trị cho tiến trình hoàn
hảo liên tục các đức hạnh của con người” (Ghê chưa?) Năm sau, Condorcet được
Cách mạng Pháp gia ơn cho phép chọn lựa giữa thuốc độc và máy chém. Hồi cuối: Condorcet đã
lom khom cúi xuống lượm cái thủ cấp của mình lên mà khóc thét: “Tưởng rằng
nó đức hạnh ai dè… nó đứt thiệt!”
2. Liên tiếp một thời gian dài, khi ngồi vào bàn ăn, các văn nghệ sĩ ta dọn
lên rặt có hai món đặc sản xen kẽ nhau: hết rong rêu tới sỏi đá,
hết sỏi đá tới rong rêu. Một khi thức ăn chỉ có toàn là “rong rêu/ sỏi đá” thì
nuốt vô chỉ có mà mắc nghẹn, cắn vô chỉ có mà gãy răng! Chơi chi mà ác quá vậy
mấy cha nội? Làm ơn cho bần tăng ngả mặn chút đỉnh: ăn vú heo nướng, đớp dái dê
lăn bột, hoặc xơi ngầu pín hầm thuốc bắc thử coi! Bổ lắm! Bổ lắm!
3. Đó là phần thức ăn. Về mặt thơ nhạc giao duyên, mỗi nghệ sĩ ta lại tự
chọn cho mình một con vật để làm biểu hiệu:
“Em đi lấy chồng rồi/ Anh làm con sâu nhỏ/ Rúc vào trái táo đỏ/ Đắp
chăn rên hù hù”
“Anh làm chim bói cá/ Trên cọc nhọn trăm năm/ Hai bàn chân lủng hết/ Anh đau cẳng quá xá/ Cho nên anh đi cà nhắc... cho tới bi giờ!”
“Bên bãi cát Nha Trang/ Anh làm con dã tràng/ Bò ngang không bò tới”
Vân vân... và vân vân...
4. Lời dân nhậu: “Ăn gan thì bổ gan, ăn tim thì bổ tim, ăn phổi thì bổ phổi.
Còn uống rượu thì bổ… cột đèn!” Xin nhắc lại: ăn sỏi đá thì gãy răng! Còn nhai
rong rêu thì trẹo quai hàm!
5. Thử bàn về thái độ nghiêm chỉnh… một cách nghiêm chỉnh!
Khi phải nói về một vấn đề quan trọng nào đó, người ta thường giữ cho
mình một tư thế nghiêm chỉnh. Nghiêm chỉnh để thấy mình (quả thiệt) là quan trọng,
nghiêm trọng, và trầm trọng. Những nhà đạo đức thiệt thường đều giữ
cho mình một vẻ nghiêm chỉnh (ngoại trừ Đức Đạt lai Lạt ma). Những nhà đạo
đức giả lại càng (giả bộ!) nghiêm chỉnh hơn thập bội các nhà đạo đức thiệt. Cù
mãi chả chịu cười! Nói theo kiểu Nam kỳ: “Cái thằng đó có thọc lét cách mấy
cũng không chịu cười!” Tại sao vậy? Bởi lẽ người đời khoái tin những người “có
vẻ” nghiêm chỉnh - thiệt hay giả bất cần. Vì vậy, phải nghiêm chỉnh mới ăn tiền
thiên hạ! Và các nhà đạo đức giả thừa biết điều đó.
Tuy nói vậy, bần tăng không phải là người chủ trương (cái đạo) “không nghiêm chỉnh”
một chăm phần chăm. Bần tăng chỉ muốn gióng một tiếng chuông báo động: “Coi chừng!”
Khi bàn chuyện đánh giặc, người ta hết sức nghiêm chỉnh. Khi cầm súng bắn vào
người khác ở mặt trận, không thấy một ai cười. Khi thổi kèn xung phong thúc giục
quân sĩ chém giết nhau, cũng không thấy một ai cười. Sau khi tàn sát nhau tơi bời,
tới lúc ký kết hòa ước, người ta cũng ký một cách hết sức nghiêm chỉnh (chẳng hạn
Hòa ước Paris 1973 về chiến tranh Việt Mỹ). Tới lúc cần xé bỏ hòa ước, người ta
cũng xé một cách hết sức nghiêm chỉnh (chẳng hạn Bắc Việt xé Hòa ước Paris 1973
rồi xâm lăng miền Nam năm 1975). Rồi tuyên chiến. Cũng tuyên chiến một cách hết
sức nghiêm chỉnh. Dĩ nhiên. Nghiêm chỉnh mút mùa (... lệ thủy)!
Trên cõi đời ô trọc này, ai ai cũng là một tên hề. Người không nghiêm chỉnh
là một tên hề, nhưng biết mình là hề. Người nghiêm chỉnh là một tên hề
mà không biết mình là hề. Có những người hề mà rất nghiêm chỉnh. Cũng
có những người nghiêm chỉnh mà lại rất là hề. Và hơn nữa, lại còn hề tột bực, hề
đỉnh cao (trí tuệ!) Vì bởi đấng hề này cố gắng nghiêm chỉnh hết mình cho mình
có vẻ nghiêm chỉnh chính cống. Tới mức trong thâm tâm cứ tưởng bở là mình
nghiêm chỉnh... thiệt sự!
Thử hài danh một vài nhân vật nghiêm chỉnh khét tiếng trong lịch sử: Tần Thủy
Hoàng, Hitler, Nhật hoàng, Mao Trạch Đông, Staline, Truman, Bác Hồ, Pol Pot,
Bush Cha, Bush Con, Bin Laden... Kể thêm: Đức Giáo hoàng, Ay Da Tô La, các vị
Thuợng toạ, các vị Lãnh đạo Tinh thần (hoặc hầu hết). Ngoại trừ có một vị đã
tuyên bố: “Môn thể thao mà tôi ưa thích nhứt: Cười!” Tác giả: Đức Đạt lai
Lạt ma.
Tuy nhiên, trên hết tất cả mọi người và trên hết tất cả muôn loài, trong Trời Đất
có một vị nghiêm chỉnh vô địch: Thượng Đế. Một Đấng cù mãi chả chịu cười.
Cù mỏi cả tay. Vô phương! Hết thuốc chữa! Chịu thua! Một Đấng mà mỗi khi nhìn
thì ta phát “run như run thần tử thấy long nhan!” như Hàn Mặc Tử đã gào lên như
thế í. Mà nghĩ cha nội này cũng thiệt là kỳ. Kiếm Thượng Đế nhìn làm chi cho
phát run lên như cái... đuôi con thằn lằn? Bộ bị mắc bịnh khổ dâm hả
cha nội? Mắc bịnh cùi thôi vẫn chưa đủ khổ hay sao?
6. Chuyện mang giày: Một anh chàng ngày nào cũng đi làm việc chăm chỉ.
Nhưng lúc về đến nhà, ngày nào anh ta cũng ôm lấy bàn chưn của mình mà khóc
thét: đau chịu đời không thấu! Sau cùng, chịu hết nổi, anh ta đi khám bác sĩ
chuyên khoa. Sau khi tuột giày, bác sĩ khám bàn chưn anh rất kỹ, không thấy gì
lạ ngoại trừ bàn chưn anh lớn hơn cỡ bình thường. Bèn hỏi: “Bàn chưn anh cỡ số
mấy?” Anh đáp: “Dạ cỡ 42.” Hỏi tiếp: “Anh đi giày số mấy?” Đáp: “Dạ số 40.” Bác
sĩ trợn mắt: “Sao? Giày số 40? Anh dư biết bàn chưn anh cỡ số 42. Như vậy anh bị
đau chưn là phải lắm! Anh chỉ cần đổi giày số 42 mà đi là sẽ hết đau”. Anh
chàng lắc đầu nguầy nguậy: “Dạ không được đâu bác sĩ”. “Sao vậy?” “Tui có con vợ
rất khó tánh. Ngày nào đi làm việc về tui cũng bị vợ tui cằn nhằn đay nghiến.
Cái thú vui độc nhứt và đã nhứt trong cuộc đời hẩm hiu của tui là
lúc được cởi giày!”
7. Người ta cần có trí nhớ để tiếp tục, nhưng cần phải lãng quên
để sống.
8. Một nhà thơ Nga nổi tiếng, trước khi tự nã đạn vào đầu, đã hạ bút viết
lời trăn trối cuối cùng: “Thiệt tình mà nói: Không có gì để nói.” Nói chơi hay
nói giỡn vậy cha nội?
9. Loài sống bằng lý trí rứt tóc phản kháng: “Tại sao ta phải sống hạnh
phúc khi ta có quyền sống đau khổ? Ta tự ý chọn lựa sống đau khổ...
cho cuộc đời ta có đầy đủ ý nghĩa (và đầy đủ tứ chi). Tự do của ta phải
được thể hiện bằng sự chọn lựa! Pigé? Understand? Comprendo?” Quả đúng là
“L’Homme Révolté”, Con người nổi loạn vô cùng trung thực, vô cùng hiên ngang,
vô cùng hữu lý và vô cùng thích hợp với triết lý... Tây! Mấy ông Triết ta da
vàng mũi tẹt còn chờ gì nữa mà không bắt chước? Bắt chước để mà nổi loạn một
cách trung thực và để chọn lựa sống vô cùng đau khổ cho nó có vẻ... chết
lý! “Phải tưởng tượng rằng Sisyphe hạnh phúc” Hết ý kiến! (Tưởng cần nhắc lại
là theo thần thoại Hy Lạp, vì chống lại Trời nên Sisyphe bị Thượng đế đày lăn
hòn đá lớn lên đỉnh núi. Chờ cho hòn đá lăn trở lại xuống chưn núi, Sisyphe lại
lăn nó trở lên đỉnh núi. Lại lăn xuống... lại lăn lên... mút mùa lệ thủy... cho
tới bây giờ vẫn còn lăn. Và Camus đã phán: “Hãy tưởng tượng rằng
Sisyphe hạnh phúc”. Cần phải có một trí tưởng tượng phong phú và rất lớn dĩ
nhiên!)
10. Đời sống trong rừng thoạt trông rất hỗn loạn, vậy mà nó rất trật tự
theo cái luật riêng của nó. Đòi sống con người thoạt trông rất trật tự, vậy mà
nó rất hỗn loạn theo luật riêng của nó. Luật rừng, luật người: Luật nào ít
tác hại hơn luật nào? Hãy trông vào cài kết quả dài hạn thời biết liền: Trên địa
cầu này, loài thú đã có mặt từ hơn mấy trăm triệu (tỉ?) năm nay mà bây giờ vẫn
còn tiếp tục đều đều. Còn loài người le lói và nhảm nhí chỉ mới xuất hiện chưa
đầy năm triệu năm mà ngay trong thời điểm này đã tạo ra vô số vấn đề nan giải
(ô nhiễm, làm nóng địa cầu, đe doạ nguyên tử...) gieo hỗn loạn trong thiên
nhiên và trong đời sống của muông thú. Than ôi! Cái thành quả sáng chói của cái
gọi là “đỉnh (cứt) cao trí tuệ” mà như thế đấy ư? Coi chừng một ngày nào đó,
Trái Đất sẽ đá đít cái giống “đỉnh cao trí tuệ” ra khỏi địa cầu như một tên cờ
bạc lận bị túm cổ và quăng ra khỏi casino ở Las Vegas. “Đi chỗ
khác chơi!”
Nghĩ lai rai - Mười lăm
1. Trên bình diện sinh học, con người cũng chỉ là một loài thú
như bao loài thú khác. Cũng đầu cổ, cũng tóc tai, cũng chưn cẳng, cũng máu huyết,
cũng mắt mũi, cũng miệng lưỡi, cũng tim gan, cũng phổi phèo như mọi con thú
khác. Xêm xêm. Và hơn nữa, cũng có cái đuôi nhưng mọc ở phía trước (con đực).
Xin nhắc khéo là nhà zăn Thế Giang có viết quyển “Thằng người có đuôi” để miêu
tả cái thằng người dưới chế độ Cộng sản. Nhưng than ôi! Con người cũng là một
con thú nhưng có điều khác hơn một chút: Con người là một con thú băng hoại.
Cái giống người, cái giống Homo, tiến hoá từ Homo habilis sang Homo
ergaster, sang Homo erectus, rồi tới Homo sapiens. Và cuối
cùng: Homo sexuel: Terminus! Mời giống Homo xuống xe
và cút thẳng cho người ta nhờ!
2. Thơ “lộn lèo”: Ban ngày lặt cỏ tối công phu/ Đậu ủ lâu ngày hóa đậu lu/ Ngày thì địa chủ đêm tu đạo/ Đạo chi lạ rứa? “Đạo ù ù”!
3. Kinh nghiệm bản thân về tham thiền: Thiền trong động vắng
thì dễ. Thiền trong động đĩ mới quả thiệt là khó lắm thay! Thiên nan vạn nan! Hổng
tin làm thử thì biết liền đó, mấy cha nội!
4. Con người bỏ ra nhiều khối tiền đồ sộ để tìm cách bay lên mặt
trăng. Nhưng lại quên bỏ ra chút đỉnh để tìm cách xít lại gần nhau trên
cái mặt đất già nua và tốt bụng này. Chung quy, tiền mất tật mang! Quả
là làm chuyện ruồi bu chó cắn.
5. Một anh chàng nọ rất sùng đạo, sáng nào cũng tới giáo đường cầu nguyện Ánh
sáng Phúc âm. Nhưng tối đến thì lại khoái nhậu. Nhậu bia lu bù. Gì chớ nhậu bia
vô thì mắc tè dài dài. Đời sống anh ta trôi suông êm ả: sáng Ánh sáng
Phúc âm, tối La de Con cọp. Và tè đều đều, dĩ nhiên.
Cho đến một tối nọ, khi anh ta nhậu vô cả chục chai bia, mắc tè và “hò dô ta nắm
cu kéo ra” mà tè thì mình mẩy bỗng phựt sáng. Lần thứ hai: Tè. Cũng lại phựt
sáng. Lần thứ ba: lại phựt sáng nữa! Vô cùng hoảng sợ, sáng hôm sau anh ta tới
nhà thờ thú tội với Cha Cả: “Thưa Cha, chẳng giấu gì Cha, ban ngày con cầu nguyện
Ánh sáng Phúc âm, nhưng tối đến thì con có tật nhậu bia và đi tè. Nhưng tối hôm
qua, khi tè thì cả mình con phựt sáng, Cha Cả khuyên con phải làm sao?”
Cha Cả đưa tay bóp trán ngẫm nghĩ hồi lâu rồi nói: “Con không phải làm gì đặc
biệt hết. Nhưng Cha thành khẩn khuyên con đừng có tè vô cái tủ lạnh của
con nữa”!
6. Ai cũng biết Đức có một triết gia lừng lẫy đã từng tuyên bố le lói: “Thượng
đế đã chết!” Và mọi người thành khẩn sụp lạy trước câu phán này của Nietzsche,
kể cả mấy ông da vàng, mặc dầu chính mình cũng đếch biết Thượng đế của ông Đức
râu quặp này là cái chi chi cả!
Để duy trì truyền thống triết học le lói này (đã từng đẻ ra siêu quái thai
Hitler!), ở Bá Linh có một đại học (máu) le lói mang cái tên le lói của Nietzsche. Trên
cổng sắt lớn của đại học có gắn một bảng đồng đen bự tổ chảng, trên đó có khắc
sâu câu phán le lói xanh dờn thuở sinh tiền của đại triết gia. Cho tới một hôm
nọ, sau một đêm bão tố tơi bời, sấm chớp đầy trời, cái cổng sắt bị sập. Và trên
bảng đồng đen, cái câu “Thượng đế đã chết!” (ký tên: Nietzsche) đã được một
bàn tay bí mật nào đó xoá đi và thay bằng câu “Nietzsche đã chết!” (ký
tên: Thượng đế).
Mới biết, vẫn có người le lói hơn cái người le lói số một trần gian!
Tuy nhiên, nghĩ kỹ lại, ngay từ đầu, khi nói “Thượng đế có thiệt” thì đã là một
hoang tưởng - ít ra là dưới dạng thức một ông già nghiêm khắc có râu trắng dài
chấm rún và chuyên ban phát phán xét cuối cùng. Bởi lẽ đó, khi nói tiếp “Thượng
đế đã chết!” thì cũng là một hoang tưởng nốt. Vì vậy, bây giờ bàn về cái chuyện
sống/ chết của Thượng đế thì cũng là bàn chuyện tào lao mà thôi. Chung quy, từ đầu
tới cuối đều là hoang tưởng. Chỉ có “Nietzsche đã chết!” là có thiệt - ít
ra là trong kinh nghiệm của một ít người.
7. Trên tất cả các tờ đô la phát hành ở Mỹ đều có in rõ ràng: “In God we
trust”. Trên tất cả các tờ giấy bạc phát hành ở Do Thái đều có in rành rành:
“In God we trust. The others pay cash!”
Mới biết, ở cái đất Jérusalem này, chỉ có Thượng đế mới được ghi sổ
thiếu chịu. Kỳ dư, mọi người khác đều phải móc hồ bao mà trả tiền mặt liền tù
tì. Cash! Please! Cộng thêm VAT, of course!
8. Một triết gia Pháp trứ danh (ngó một người thấy hai người) đã phán: “Địa
ngục là kẻ khác!”
Từ từ đã cha nội (s’il vous plaît!). Xin đừng có chen lấn. Tại cha nội
ngó không kỹ đó thôi. Coi chừng cái địa ngục của cha nội chính là cha nội đó
nghe cha nội. Đi chữa mắt cho hết lé đi! Rồi hẵng tính sau. Có nói lộn cho cha
nội nói lại. Mấy hồi!
9. Nếu định nghĩa: “Làm đĩ là đem cái nhục thể của mình ra để đổi lấy
một lợi lộc”, vậy thì khi vua Trần gả ép công chúa Huyền Trân cho Chế
Mân để đổi lấy hai châu Ô, Ri là đã bắt con mình làm chuyện gì? Trong ngôn ngữ
của thế kỷ 21 này, người ta sẽ đáp: “Politically correct”!
Thêm nữa, cái chuyện nàng đệ nhất phu nhân Mẽo Jackie Kennedy đã chịu
hiến mình cho tên tỉ phú Onassis để đổi lấy vài chục triệu đô bỏ vô
nhà băng lấy lời là đã làm chuyện gì? Cũng vẫn là làm cái chuyện “politically
correct” dĩ nhiên. Vinh hạnh thay! Vinh hạnh thay! Từ xưa tới nay, từ Á sang
Âu, từ Âu sang Mỹ, xuyên qua các triều đại, xuyên qua các trung tâm quyền lực,
xuyên qua các tài sản kếch sù, những cuộc dựng vợ gả chồng, những cuộc kết hôn
hoàng tử với công chúa xét ra cũng chỉ là những cuộc “bán phấn buôn hương” trắng
trợn và vô cùng hợp pháp mà thôi.
Vậy mà khi mấy em nhỏ thất học ở xứ nghèo nhắm mắt đem thân xác mình (đôi khi cả
tiết trinh mình) để đổi lấy năm mười đô nuôi thân và giúp đỡ gia đình
thì lại bị sỉ vả tơi bời là “đồ làm đĩ!” Nhiều khi còn bị bắt bỏ tù và phạt tiền.
Dĩ nhiên, tiền nộp phạt là tiền bán thân của em nhỏ chớ biết lấy đâu ra?
10. Ca dao: “Đi đâu mà chẳng lấy chồng?/ Người ta lấy hết chổng mông mà
gào!”
Nghĩ lai rai - Mười sáu
1. Lời thật thì không đẹp/ Lời đẹp thì không thật.
2. Lời nói khiến cho ta phải bật cười bao giờ cũng tốt cho sức
khỏe hơn là lời nói khiến cho ta bóp trán nhức đầu cả đêm. Và bị táo
bón nặng.
3. Tình tuyệt vọng:
Đèn Mỹ tho không xanh không đỏ
Anh coi không rõ anh tưởng đèn màu
Rút gươm đâm họng máu trào
Để em ở lại kiếm nơi nào hơn anh!
4. Có người xả mình để binh vực những đấng không cần một ai binh
vực hết như Thượng đế, Thần linh, Đảng trưởng, Chủ tịch, Tổng thống, Lãnh tụ,
Trưởng ấp... thì bần tăng, bần tăng binh đĩ. Chết bỏ! Cũng đâu có oan ức
gì đó mà kêu ca?
5. Bí quyết gia truyền: Cô nữ minh tinh nọ lúc xuân xanh nổi tiếng với
bộ ngực vĩ đại vang lừng Hollywood. Lúc về chiều, bà góa phụ già có một
đòn căng da mặt chớp nhoáng: Bà chỉ cần tháo cái nịt vú của mình!
6. Sau khi cách mạng Trung Quốc thành công vĩ đại, về mặt kinh tế, Mao thực
hiện “bước tiến nhảy vọt” vĩ đại. Nhưng rủi thay, bởi vì nhảy vọt lẹ quá nên
heo gà trâu bò theo không kịp. Hằng tỉ ông Cắc chú chỉ còn nước ăn bo bo với muối
cục và nai lưng ra mà cày thay trâu.
Cày dài dài cho tới lúc Mao thực hiện thêm một cuộc đại cách mạng thứ hai khác
nữa: “Cách mạng văn hóa”. Sau cuộc cách mạng này, mấy ông Cắc chú vẫn tiếp tục
ăn bo bo với muối cục, và hơn nữa còn thêm “dốt đặc cán mai”. Nhưng cũng nhờ ở
dốt đặc cán mai nên không biết mình bị Mao xếnh xáng gạt dài dài... suốt cái lịch
sử trường thiên của Ba Tàu. Dài như cái Vạn lý trường thành lê thê ở trên xứ chệt
bên đó vậy!
7. May mắn thay! Con người có cái chết. Vì thử tưởng tượng một tỉ ông
Ba tàu (khoái ăn mì) không chịu chết và tiếp tục xực phàn mỗi
ngày 3 bữa, một tỉ ông Chà và cứ sống nhăn hoài để ăn cà ri dài dài, năm trăm
triệu người Nam Mỹ... một trăm triệu người Inđônêxia... vân vân và vân vân... Nếu
như không một ai chịu chết hết thì chuyện gì sẽ xảy ra trên cái trái đất chật hẹp
này? Vậy mà có một đấng triết Tây đã từng lớn tiếng để nổi loạn chống lại Thượng
đế: “Tại sao làm người lại phải chết? Phi lý! Phi lý!” Rồi nôn mửa tới mật
xanh như đàn bà có bầu, và phe da vàng ta có nhiều đấng cũng bắt chước ói mửa
theo vô cùng ngất ngư. Ai mới thực sự là người phi lý đây cha nội? Thượng đế
hay cha nội? Cũng may! Cha nội này đã chết mất đất từ khuya. Chết một cách hết
sức... có lý! Cho cha nội hết cho chó ăn chè.
8. Phàm ở đời, dạy cho con khỉ leo cây và con chó nó sủa vẫn hợp
lẽ trời và dễ hơn là dạy cho con khỉ nó sủa và con chó leo cây. Nhưng vinh
hạnh thay! Loài có lý trí (và có cứt trong đầu) vẫn khoái kiếm chuyện khó mà
làm. Và hiu hiu!
9. Chuyện khó tin nhưng có thật: Một bận nọ, Đức Giáo hoàng đáp phi
cơ phản lực (không người lái) đến nước Nga để viếng thăm các con chiên đỏ của
mình bên đó. Trước khi đáp xuống phi trường Móc-Cu-Ba (ui da! đau chết cha!),
Ngài phải điền vào một tờ khai nhập cảnh.
Ở mục “Sexe”, Đức Giáo hoàng đã gạch chữ thập cho phải đạo (dĩ nhiên) và ghi
chú thêm: “Rất bình thường. Ngày trong tuần: một lần. Ngày chúa nhật: hai lần”
10. Nếu chỉ đọc sách thể dục khơi khơi mà có thể nở được bắp thịt thì chỉ
cần đọc kinh khơi khơi thôi cũng sẽ lên được Thiên đàng. “Dễ ợt!”.
27/9/2007Kiệt Tấn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét