Thứ Năm, 5 tháng 8, 2021

Bùi Giáng: Diogenes thời đại

Bùi Giáng: Diogenes thời đại!

Diogenes là một Triết gia cổ Hy lạp, vào khoảng Thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên - một người được mô tả là cha đẻ của Triết thuyết “Cynicism” (ngạo đời, bi quan) không tin vào Hạnh phúc đời sống, và chủ trương sống như người tiền sử gần gũi với Thiên nhiên (primitive Nature) cũng như sự Tự túc (self-sufficiency) không muốn nhờ vả ai, được thể hiện qua những cách thức đơn giản nhất (simplicity) và Tự-kỷ luật nữa (self-discipline) mà người ta cho rằng ông ảnh hưởng từ Antisthenes - một Triết gia trước đó chủ trương về Triết thuyết này. Và, ông cũng đã có một vài môn đệ nhưng không đủ mạnh để thành lập một Trường phái (School) chính thống, mà chỉ kéo dài chưa được một thế kỷ… Đặc biệt Diogenes chỉ ăn mặc sơ sài và sống trong một cái thùng gỗ, nhưng khi ra ngoài thì ông luôn luôn xách theo một cái đèn, vì cho rằng cuộc đời này đen tối quá (nhạo báng) cần phải thắp sáng thêm, dù là ban ngày đi nữa…
Theo nguyên ngữ Hy lạp, chữ “Cynic” bắt nguồn từ chữ”Kynikoi” có nghĩa là”giống như chóhoang” (dog-like), cho nên nhóm của Diogenes khi cần bài tiết cứ việc thoải mái như loài thú hoang này, kể cả việc thực hiện khoái cảm cũng rất vật tính, nghĩa là họ có thể đứng thủ dâm trước công chúng mà không hề mắc cỡ gì(shameless), không phải vì họ “mất dạy” mà là coi mình rất đỗi “tự nhiên” như thời man dã… Vì vậy, chắc hẳn những người đồng thời phải nghĩ rằng Diogenes là”thần kinh thầy chạy“như người Sàigòn bây giờ gọi Bùi Giáng vì nghĩ ông ấy “điên”(thần kinh) “nặng” (thầy chạy: không chữa được nữa) nhưng Diogenes đâu có điên gì, mà lại là một Triết gia nổi tiếng của Hy lạp…Bùi Giáng không ở trong thùng thì ở “chòi” nơi góc vườn của một người bà con, quần áo rách rưới năm bảy lớp dơ dáy, tóc tai bù xù không bao giờ tắm gội! Ông không xách đèn giữa ban ngày nhưng có dắt theo bầy chó đủ màu mà ông đặt đủ thứ tên, thường là tên của các lãnh tụ mà ông không ưa…
Ngày mới lớn, tôi  đọc Bùi Giáng rất nhiều từ Thơ như:”Lá hoa cồn“, “Ngàn Thu rớt hột“, “Mưanguồn”…, sách giáo khoa, sách dịch thuật như: ”Terre des hommes“(Cõi người ta) và “Le petitPrince” (Ông Hoàng nhỏ) của St Exupéry, hay những cuốn sách nổi tiếng của nhà Văn từng được giải Nobel như: “Symphonie Pastorale“(Khúc nhạc đồng quê) và ”La Porte étroite“ (Khung cửa hẹp) của André Gide… Phải nói Thơ, và cách dịch của ông là tuyệt cú mèo chưa thấy ai dịch hay như vậy! Và, nhất là sách biên khảo về Triết học Tây phương qua mấy tập dày cộm”Tư tưởng Hiện đại 1,2,3” mà ông rất ưa các Triết gia Hiện sinh Đức như: Heidegger (thực ra ông này chịu ảnh hưởng nặng Kierkegaard hơn là một Triết gia Hiện sinh chánh hiệu)... và của Pháp như: J. Paul Sartre, Albert Camus (đọc là: “Ca-muy” not “Ca-muýt” như nhiều người lầm), hoặc “Hiện tượng luận” của Husserl (Đức)… mà không quên nhét vào những tư tưởng Đông phương của Khổng, Lão Trang hoặc Nguyễn Du, nghĩa là ông hứng chỗ nào về ai thì cứ “chêm” vô tự nhiên chỗ ấy, đôi khi có cả Ca sĩ Hà Thanh, Kịch sĩ Kim Cương, Tài tử Marylyn Monroe, Brigitte Bardot…
Được biết ông Bùi Giáng sinh năm 1925 tại Quảng nam trong một dòng họ nổi tiếng mà người ta có thể biết như Bác sĩ Bùi Kiện Tín rất giàu có nhờ chế tạo dầu khuynh diệp, sirop nhau… và Giáo sư Bùi Luận, dạy ở trường Trung học Võ Tánh Nha Trang… Ông học Trung học ở Huế, và bị kẹt trong vùng VM (tại quê nhà Quảng Nam) từ năm 1945 lúc ông ở tuổi thanh xuân mà phải chăn bò, chăn dê - những cái “nghề” chỉ dành riêng cho trẻ con (mục đồng. Đồng: con nít) như kẻ này. Bò thì không nói chi, chứ chăn dê là một cực hình vì con vật này quái đản, dâm dễ sợ (dê xồm mà lị!) phá phách không chịu nổi, đụng cái gì cũng ăn kể cả nón lá, nghe mưa dông là cứ nhảy đại chui dưới gầm bàn thờ nhà người ta làm đổ lổn ngổn, rất phiền phức… Nhưng khi Quốc gia tiếp thu thì ông vô Sàigòn dạy học và làm Văn nghệ, viết sách… Đây là thời kỳ ông bình thường, dù cũng đã có những triệu chứng “ngông” của một người tài hoa mà hầu hết Nghệ sĩ đều có, cũng chỉ để “cho vui” vậy thôi, nhất là ông người Quảng Nam - một nơi được người đời xác nhận qua tục ngữ là hay “cãi” (ngang bướng):
“Quảng Nam hay cãi,
Quảng Ngãi hay co,
Bình Định hay lo,
Thừa Thiên ních hết!”
Có nghĩa rằng: dân Quảng Nam ưa cãi cọ ít khi chịu khuất phục ai, dân Quảng Ngãi hay “co“, tức cứng đầu (co đầu cứng cổ), dân Bình Định hay “lo“ (lo lót, chứ không phải lo âu) và Thừa Thiên “ních hết” vì dân Thừa Thiên là dân Kinh đô nhiều Quan lại nên hay ăn hối lộ… Tục ngữ nói vậy thì hay vậy, không biết đúng hay sai, nhưng chắc cũng phản ánh một phần nào… Nhưng sau đó một thời gian thì người ta bắt đầu thấy nhà Thơ “ngông dữ” đến gần như bất bình thường, (anormal) mà nguyên do có lẽ vì hoàn cảnh bất hạnh của gia đình ông: nghe nói là cả vợ con ông đều bị chết vì tai nạn gì đó! Ông bắt đầu nói lảm nhảm nhiều (thường đọc Thơ chữ Tây, chữ Hán, mà người ta gọi là”điên chữ” vì trong đầu nhiều chữ quá hóa điên!?) hay đi lang thang ngoài đường, nhất là sau 75 thì lại càng dễ điên thê thảm…
Bởi vì ông từng sống với VM trong suốt 9 năm kháng chiến chống Pháp, qua phong trào “Cải cách ruộng đất” rất khốc liệt từ năm 1952, giai cấp Địa chủ như gia đình ông Bùi Giáng, gia đình tôi… đều bị VM coi là: ”Kẻ nội thù của giai cấp công nông” nên dĩ nhiên là khốn khó vô cùng, không cách gì sống nổi! Do đó mối thù này hẳn sẽ in dấu trong tâm hồn suốt đời như một vết thương không bao giờ lành, đến năm 75 lại phải lặp lại một lần nữa, thì bịnh ông Bùi Giáng đương nhiên càng nặng thêm! Đó là lý do tại sao, trong thời kỳ này (sau 75) ông lợi dụng bịnh điên của mình để chửi chế độ còn dữ hơn nữa, nên ông bị công an bắt đánh nhiều lần, may nhờ một người đồng hương thuộc giới Văn nghệ đàn em, rất mến mộ ông là Vũ Hạnh - một tên nhà Văn nằm vùng, sau 75 làm to (xếp đám văn nghệ VC miền Nam) can thiệp, ông mới đỡ đi phần nào. Nghe nói khi gặp Vũ Hạnh, nhà Thơ họ Bùi bảo: ”Mày nói chúng nó đừng có đánh tao đau quá!”. Dù vậy, hễ gặp cơ hội là ông cứ xỏ xiên, giễu cợt CS không tiếc lời, nên không biết bao nhiêu câu chuyện về ông được kể ra, trong đó có hai câu Thơ, rất “Bùi Giáng” hay được trích dẫn trên báo chí Hải ngoại với nhiều khác biệt nhau về hai nhà Thơ VC ở Quảng Nam là Thu Bồn và Thu Ba…mà tôi nghĩ nó xảy ra ở Sàigòn chứ không thể ở “Quảng Đà“, vì ông Bùi Giáng “khùng” và “rách” cỡ đó không thể về Quảng Nam mà dự “Đại hội Thơ” được! Vả lại, ông ấy không quanh co gì đâu, vì ỷ ai cũng nghĩ mình điên “thầy chạy” thì không còn sợ gì mà không tuôn ra cho nó sướng cái lỗ mồm, nhất là đối với giới Văn nghệ VC, họ chỉ thích bái lạy nhau mà ca tụng cái gì phải ca tụng. Hai câu Thơ đó thường được trích như vầy:
“Thu Ba khen thơ Thu Bồn,
Thu Bồn sướng quá, rờ l... Thu Ba!”
Vì được “khen” nên mới “sướng“, nhất là được “em” khen “Thơ” nữa là nhất, và chữ “rờ“ (chữ của người Trung và Nam) chứ không phải “sờ” (chữ của người Bắc). Tôi nghĩ ai chứ Bùi Giáng, thì dám nghịch như thế này. Ngay trong Thơ “nghiêm túc” của ông không thiếu gì cụm từ kiểu Hồ Xuân Hương chuyên môn nói lái những vấn đề cấm kỵ trong thơ phú (ngoại trừ Thơ của nhóm “Hợp Lưu” ngày nay ở Mỹ) Tại sao thời Nho giáo cực thịnh mà Hồ Xuân Hương vốn tỉnh táo lại dám làm Thơ có những câu độc địa như thế này:
“Thuyền từ cũng muốn về Tây Trúc,
Trái gió, cho nên nó lộn lèo” (Sư bị làng Đuổi)
Hoặc:
“Hỏi thăm Sư cụ đáo nơi neo?” (Chùa Quán sứ)
Hẳn những cụm từ”đáo nơi neo“, “Trái gió“và“lộn lèo” là những nghịch ngợm có dụng ý rất “đạt” của Nữ sĩ họ Hồ, mà ngày nay nhà Thơ họ Bùi mang tiếng là giới “mày râu” và “điên thầy chạy” lại không dám viết những dòng tương tự hay sao?
“Lọt cồn trận gió đi hoang,
Tồn liên ở lại, xin làm dồn ra…”
Cách “nghịch” này, trong Thơ Bùi Giáng chúng ta gặp thường xuyên bất cứ nơi đâu… Xách mé CS thì Bùi Giáng là số một, vì ông hiểu CS hơn ai hết, ngay cả thời VNCH, ông cũng đã từng giễu Trịnh Công Sơn - vốn là một Nhạc sĩ tài hoa nhưng lại ăn nhầm phải bả CS nên có chân trong nhóm Tôn Thấp Lập, Hoàng Phủ Ngọc Tường… ở Huế do đó đâm ra phản chiến, đã viết những bài nhạc có lợi cho CS (nhưng giờ thì dường như ông ta đã tỉnh ngộ rồi?) khi Bùi Giáng đố người ta rằng: ”Đố bạn 3 chữ T.C.S viết tắt từ những chữ gì?”, rồi nhà Thơ tự trả lời: ”Đó là những chữ viết tắt từ 3 chữ Thằng Cộng Sản!”…
Đối với tôi, Bùi Giáng không phải là một người “điên“ (fou) theo đúng nghĩa của nó, mà ông chỉ là người “tàng tàng“, hay “khùng” mà người mình bắt chước Pháp gọi là ”Tốc-kê“ (tocket) được giải thích là “một chút điên“ (un peu de fou), nhưng ông giả điên (giống vua Thành Thái ngày trước chỉ để chửi Tây) hầu giễu đời chơi của một người “thất chí“, dù ông từng làm Thơ giải thích mình “khùng vì Thơ“:
“Vì yêu dấu quá nàng Thơ,
Với em vô tận nên ngơ ngẩn buồn,
Thần tiên Thánh Phật bao dung,
Hiểu lòng tôi lắm, tôi khùng vì Thơ” (Vì sao khùng?)
Tôi nghĩ ông Bùi Giáng bị thất chí vì hoàn cảnh gia đình (vợ  con chết thảm), quá khứ khổ cực (vì VM) lại có máu Văn nghệ quá đà (bao nhiêu ruộng đất, nhà cửa đều bán để in sách - cái loại đầu tư chỉ lỗ vốn, huề là may!), bất mãn chuyện đời, bất mãn thời cuộc, thiếu tình yêu của Mẹ thời còn bé (Mẹ chỉ cưng em mà lơ-là với ông như ông đã viết “Mẹ bỏ ta”!) đó là lý do khiến ông luôn luôn gọi những người ông mến mộ là ”Mẫu thân” như ”Mẫu thân Phùng-Khánh, Mẫu thân Trí-Hải“, người yêu không có, nên ông đâm ra có những giấc mơ rất cuồng không thiếu tính giễu cợt, như khi ông chết chỉ mong cô Kim Cương “tè” lên mộ ông cho ấm áp cuộc đời!
Có người kể  rằng, ở Sàigòn rất nhiều người mến mộ tài hoa nhà Thơ và thương cảm cuộc đời lê-lếch của ông nên người ta hay mời ông uống càphê, ăn phở… ông vui vẻ nhận lời. Với những lần như vậy ông rất vui vì đỡ cô đơn, cũng đỡ đói, nên ông nói chuyện huyên thuyên đủ thứ trên trời dưới đất với giọng Quảng nam rặt rất dễ tức cười và khó nghe, nhưng đây là đặc điểm của Bùi Giáng, con người luôn luôn giữ nét nguyên thủy không bao giờ đổi thay một cách tự nhiên, kể cả tiếng nói gốc của xứ mình, theo quan điểm của nhóm “Cynique“… rồi bỗng dưng ông lại đề nghị: ”Ngồi đây nhe, để coi tao ra múa cho bọn nó xem chơi mà nghĩ tao điên!”. Thế là ông bỏ ly cà-phê, nhảy ra đường đứng giữa lộ múa lung tung, xong cười ha hả, rồi vào ghế ngồi uống tiếp. Đây là một thái độ tỉnh táo, có dụng ý chọc đời… coi đời chả ra gì chứ không phải điên vì ông biết ông sẽ làm gì, và làm để chi? Điên mà biết mình điên thì chưa phải là điên!??
Ngày còn dạy học, ông giảng Kiều và khóc giữa lớp là chuyện rất thường bởi vì ông thương cảm Kiều, kính phục Nguyễn Du như Thần tượng, kể cả Chu Mạnh Trinh là người rất mê Kiều đến độ phải vịnh nguyên chuyện Kiều với bài tựa không chê vào đâu được. Bởi mê Nguyễn Du, nên Thơ họ Bùi thường là lục bát như thơ Kiều, mà trong đó hầu hết là từ của Nguyễn Du (như “Rằng, Chỉn e, Vân mồng“…) không phải chôm chĩa nhưng ông cố ý dùng để người ta biết rằng ông mê Nguyễn Du, mê đến độ có  lần ông ra một đề luận Văn chương có một không hai trên đời này cho học sinh: ”Em hãy thuật lại cuộc gặp gỡ giữa em với Nguyễn Du trong vườn Bờ-rô” (vườn Tao đàn ở Sàigòn là nơi trai gái thường gặp nhau tình tự)…
Nói về Bùi Giáng thì không hết, vì ông có một cuộc đời ngoại hạng, cái gì cũng vượt trội hơn hẳn người ta, giống như một ông Tiên mà ông thường gọi là “trích Tiên“ (Tiên bị đày) đang “phiêu diêu miền cực lạc” ngay giữa lòng cuộc đời bụi bặm này, và ông đã phiêu diêu thực sự vào ngày 8/10/98 vì vỡ mạch máu đầu sau một tai nạn ngã té… nên kẻ này mạo muội có bài Thơ “điếu” người tài hoa “outstanding” quá cố như sau:
Ông chết, rồi sẽ thành Tiên,
Bởi ông sống chẳng làm phiền gì ai!
Bán nhà in sách lai rai,
Thiên hạ đọc, hẳn có vài niềm vui!???
Dù ông ở bụi dập vùi,
Nhưng lòng vẫn cứ cố nuôi nụ cười…
Cõi này là chỗ rong chơi,
Công danh ông để cho đời giành nhau!
Chỉ mơ sao đến kiếp sau:
Bằng cách thế nào cũng gặp Nguyễn Du?
Xin làm đệ tử Tố Như,
Mong ông mãn nguyện, chắc chừ Ô.kê?
Có nhau “một cõi đi về”,
Nhưng gì, thì cũng giữ “nghề” làm Thơ!
Thượng hưởng!.
Nguyễn Tư
Theo https://doanthuan.wordpress.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Nghệ thuật ca dao từ cái nhìn đối sánh

Nghệ thuật ca dao từ cái nhìn đối sánh Nhà thơ Minh Hiệu là một trong những hội viên khóa đầu của Hội VHNT Việt Nam. Ông cũng là những hội...