Đất rừng phương Nam 2
CHƯƠNG 11 - RÙNG CHÁY
Tía con chúng tôi bơi đi, ước độ hai nghìn thước thì bị cạn
không bơi được nữa, phải dùng sào chống xuồng lướt trên mặt bùn xắp nước..
Năm nay mùa khô sớm đấy? Mọi năm, dạo này nước còn ngập ngang
bụng, tía nuôi tôi vừa nói vừa nhướn người thọc mạnh chân sào xuống tận lớp đất
sét cái, hai tay nắm chặt đầu sào đẩy xuồng trườn tới.
Chống đi một lúc nữa, gặp cái lung còn nhiều nước, tía nuôi
tôi bảo tôi vác đồ lề lên bờ, rồi ông nhận xuồng chìm xuống nước và vớt lục
bình, vớt rong phủ lên để xuồng
khỏi bị nẻ nắng..
Quanh co trong rừng, chẳng biết đâu là đâu, thế mà chỉ chừng
một giờ sau tía nuôi tôi đã dắt tôi ra đúng chỗ bụi cây tra chúng tôi ngồi nghỉ
ăn cơm chiều bữa trước...
Những ngày nắng ráo như hôm nay, rừng khô hiện Lên với tất cả
vẻ uy nghi tráng lệ của nó trong ánh mặt trời vàng óng. Những thân cây tràm vỏ
trắng vươn thẳng lên
trời, chẳng khác gì những cây nến khổng lồ, đầu lá rũ phất
phơ như những đầu lá liễu bạt ngàn. Từ trong biển lá Xanh rờn đã bắt đầu ngả
sang màu úa, ngát dậy một mùi hương lá tràm bị hun nóng dưới mặt trời, tiếng
chim không ngớt vang ra, vọng mãi lên trời cao xanh thẳm không cùng. Trên các
trảng rộng và chung quanh những lùm bụi thấp mọc theo các lạch nưóc, nơi mà sắc
lá còn xanh, ta có thể nghe tiếng gió vu vù bất tận của hàng
nghìn loại côn trùng có cánh không ngớt. bay đi bay lại trên
những bông hoa nhiệt đới sặc sỡ, vừa lộng lẫy nở ra đã vội tàn nhanh trong nắng.
Mùi hương ngòn ngọt nhức đầu của những loài hoa rừng không tên tuổi đằm vào ánh
nắng ban trưa, khiến con ngươi dễ sinh buồn ngủ và sẵn sàng ngả lưng dưới một
bóng cây nào đó, để cho thứ cảm giác mệt mỏi chốn rừng trưa lơ mơ đưa mình vào
một giấc ngủ chẳng đợi chờ.
Tôi đã ngủ một giấc dài nhưvậy, sau khi tía con chúng tôi đã
lấy mật đầy vào hai thùng sắt tây. Cái gùi bé của tôi cũng vừa chất vun ngọn những
bánh sáp trắng muốt mà tôi đã tỉ mẩn vắt thành những cục tròn tròn như trứng ngỗng..
Tôi ngồi tựa lưng vào một thân cây lá rậm xùm xòa, lơ mơ nhìn
những làn tơ nhện mỏng tang rung rung trong ánh nắng. Trong vắng lặng mệt mỏi của
rừng đã xế
chiều mọi thứ tiếng động chung quanh tôi đều nghe như không
rõ rệt, đều bị ngân dài, đùng đục không một chút âm vang, một thứ vắng lặng mơ
hồ rất khó tả. Tôi còn đang chăm chú nghe tiếng quạt cánh của một con ong vàng
mà không thấy nó đâu, thì bông nghe tiếng động cơ gào rú chuyển động rung trời.
Ba chiếc tàu bay của giặc Pháp bay vút qua bên trên khu rừng
chúng tôi đang lấy mật. Chúng bay rất thấp, là là trên ngọn cây, khi tôi vừa kịp
nghe thì chúng đã tới rồi.
Ba con cồng cộc đen sì ấy vòng ra bờ sông, lượn trở lại, đảo
mấy bận như vậy rồi bỗng nhiên nối nhau bay đi mất. Một hồi lâu, lại nghe tiếng
động cơ, và từ trên
những chòm mây thật cao, chúng thình lình xuất hiện ra, đâm bổ
xuống. Lửa chớp chớp. Súng liên thanh nã đạn xuống rừng nghe inh tai chát óc. Rồi
hàng loạt bom
nổ ầm ầm, chuyển động cả một vùng rừng ban nãy còn lặng phắc
như tờ. Đất dưới chân tôi rung rinh như chực sụp xuống.
Ì ì. ì ì Ba chiếc tàu bay phóng pháo to tướng sơn màu trắng
bay chậm rì rì thành một dọc dài, trông rõ hơn cả hiệu cờ ba sắc dưới cánh, lừ lừ
tiến đến.
- An ơi? Nằm xuống mau. NÓ thả cái gì đen đen xuống kia. NÓ
thả... - tía nuôi tôi chưa nói dứt câu, vội đẩy tôi nằm gí xuống cỏ. Tôi đã có
kinh nghiệm lúc còn chạy tản cư Hai khuỷu tay tôi chống xuống đất đỡ bộ ngực
lên, đầu cúi gằm xuống trước, tôi dán sát thân mình vào đất như con thằn lằn. Nếu
có bom nổ gần cũng khỏi bị dội tức ngực vì sức chấn dộng. Phụt... Phựt... Phụt...
Tiếng gì vậy? Sao không nghe tiếng nổ
- Chắc là bom lép, đừng ngóc đầu dậy nghe con - tía nuôi tôi
vừa bảo tôi như vậy; trong lúc tôi chưa kịp ngóc đầu lên thì bỗng nghe tía nuôi
hét một tiếng gọi: An ơi
chưa bao giờ tôi nghe ông kêu to như vậy, một thứ tiếng kêu rụng
rời, đầy khủng khiếp kinh hoàng.
Giặc đốt rừng, con ơi! - tía nuôi tôi tay vớ chiếc nỏ, tay
lôi tôi nhỏm đậy.
Một màn khói đen cuồn cuộn dựng lên trên dãy rừng chạy dài
theo sông. Mùi dầu bay tới chỗ chúng tôi khét lẹt.
lửa đỏ đã bốc lên, vượt khỏi những cây tràm cao nhất ngoài
phía bờ sông. Tiếng động cơ vẫn gào rú khủng khiếp trên đầu chúng tôi. Chúng
không bắn nữa... Chỉ nghe tiếng phụt... phụt... Lửa cháy khắp bốn phía rồi.
Tiếng sậy nô lép bép nghe gần lắm. Gió quạt hơi nóng rừng rực
đến tận chỗ chúng tôi.
Làm sao khiêng hai thùng mật, tía ơi! - tôi tiếc của, kêu
lên.
- Chạy thoát thân đã - tía nuôi tôi vất cái nón đang đội trên
đầu xuống, tay chỉ cầm chiếc nỏ lôi tôi chạy ngược hướng gió, nơi ngọn lửa bắt
đầu tràn đến chúng tôi
Lửa dầy ở đó... Đừng về phía đó, tía ơi
- Thoát ra mau. Cố lên. May ra thì còn kịp...
Tía nuôi tôi thở hổn hển, vừa chạy vừa lôi tôi. Khói xông vào
mắt cay xè, không mở ra được.Tôi cứ nhắm mắt chạy theo tía nuôi tôi, tay tôi nắm
bàn tay ông chặt cứng,
không dám lơi ra. Hốt nhiên, tôi nghe có nhiều tiếng chân chạy
dồn dập trên đất, như tiếng giầy khua.
- Tía ơi, Tây đuổi sau lưng nhiều quá?
Tây đâu mà Tây. Cứ chạy đi!
Mặc cho tía tối quát, tôi vẫn cứ ngoái đầu trông lại. Trời
ơi, không phải Tây. Trong khói mù nhô ra một con heo đầu đàn, cao gần bằng con
bò, lông gáy dựng ngược,
mũi ngước lên thở phì phì làm cho hai cái nanh dài chỗ khóe
mép vươn ra như lai lưỡi dao găm. Rồi vun vút tràn đến một bầy heo rừng, con lớn
con bé tranh nhau chạy,
sống lưng nhấp nhô tràn tới như một đàn heo mục. Nai co giò
phóng bay qua những lùm cây thấp. Hươu, chồn, bông lau, cáo, mèo... tất cả những
con thú bốn chân trong rừng đều nhắm mắt.nhắm mũi tranh nhau chạy. Thỉnh thoảng
một vài con gì không biết cứ chạy đâm bổ vào người chúng tôi. Chân tôi đạp lên
một khúc lưng con vật gì trơn trơn, lảo đảo chúi tới trước. Một con trăn gió uốn
lưng trườn tới, đầu cất cao hơn ngọn sậy, ngoằn ngoèo lướt hút vào bụi cây trầm
um tùm. Lâu lâu lại gặp một con rắn to phóng ngược hướng gió, chắn ngang đường
chúng tôi. Tía con tôi phải chạy tránh chúng, cũng có lúc cứ mặc kệ, nhảy bừa
qua, bất chấp cả những đầu phồng mang dẹt đét đang lắc lư phun nọc phì phì.. Khỉ,
vượn, nhọ nồi cuống quít kêu lúc théc trên cây. Một con vượn bạc má bồng con nhảy
xuống đất, cố chạy theo vết chúng tôi
An ơi! Gắng chạy nghe con - tía nuôi tôi không ngớt động viên
tôi. Nhưng hai chân tôi cứ khuỵu xuống.
Tía nuôi tôi lôi tôi chạy một lúc nữa. Lội qua hai cái lạch
nước khá rộng, thì hai tai tôi đã nghe bùng bùng, mắt hoa lên. Trời đất quay cuồng
chung quanh. Tôi cảm thấy mang máng rằng lúc tôi gục xuống một bờ cỏ, tía nuôi
tôi đã vực tôi cõng lên lưng. Cả người tôi bị xốc lên xốc xuống dữ tợn, rồi tôi
không còn biết gì nữa.
CHƯƠNG 12 - CHẠM TRÁN VỚI HỔ
Lúc tôi tỉnh dậy thì thấy mình đang nằm trên một đám lá khô,
dưới gốc cây sung rậm, lá che kín trời. Gió thổi làm những cành sung đong đưa,
để lọt xuống một
vài tia sáng xanh yếu ớt của những vì sao leo lét. Chim rừng
kêu buông rơi từng tiếng một, từ một nơi xa thẳm nào. Không biết độ mấy giờ.
Nhưng đêm chừng như
khuya lắm.
Tía nuôi tôi thấy tôi cựa mình ngồi dậy, ông vội vàng đưa tay
ra đỡ tôi nằm xuống:
- Con đã khỏe lại rồi đó. Cứ nằm nghỉ đi con. Đừng ngồi dậy dễ
bị choáng đầu lắm!
- Đây là đâu vậy tía?
- Xa lắm. Mình vào gần tới đầm lầy rồi!
- Lửa tắt chưa tía?
Còn cháy. Nhưng xa lắm. Con cứ vững bụng. Chỗ này, lửa không
cháy tới đâu. Còn khát không con?
Khát lắm tía ơi!
- Con đã uống nhiều nước rồi đấy! Vì mệt quá, con bị ngất
thôi. Chẳng sao đâu. Để tía đi lấy nước cho con...
- Gần hay xa vậy tía?
- Đằng kia thôi. Con cứ nằm đây mà
Trong ánh tối lờ mờ, tía nuôi tôi mò mẫm cởi chiếc túi da beo
bên lưng ra, đưa vào tay tôi. Rồi ông đứng dậy bước sột soạt khuất dần trong
bóng tối. Tôi ngồi phắt lên,
buộc ngay chiếc túi da beo vào lưng y như tía nuôi tôi.
Bàn tay nắm chặt cán dao găm, tôi nhìn thẳng về hướng ông vừa
đi. Rừng khuya im ắng quá. Tiếng côn trùng tỉ tê tận những chỗ mông lung nào,
lâu lâu hốt nhiên im
bặt đi một lúc, càng làm cho bầu không khí vắng vẻ trở nên im
lặng một cách đáng sợ. Hồi lâu, bỗng nghe có tiếng chân giẫm sột soạt trên lá
khô. Tôi vừa mừng, vừa
sợ
- Tía về đấy hở tía? - tôi vụt hỏi to lên.
- ờ, tía đây. CÓ nước rồi đây, An ạ? - tía nuôi tôi vừa táp vừa
đi dò từng bước đến chỗ tôi đứng. Hai tay ông bưng một chiếc lá môn đựng đầy nước.
Tới kề miệng vào chiếc lá, uống ừng ực một hơi. Nước ngọt lắm,
chỉ hơi có chút vị bùn và phảng phất mùi cỏ, nhưng tôi uống vào tới đâu thấy
mát rượi tới đó.
Tía nuôi tôi nhồi thuốc lá vào tẩu, bật lửa lên đốt hút một
hơi dài, ông đặt chiếc nỏ lên đùi, vừa ngồi hút thuốc vừa cầm một nhánh cây nhỏ
quơ qua quơ lại đuổi muỗi
chung quanh. Tôi nằm xuống đống cỏ, chân tay mình mẩy đau nhức
như dần. Tôi lơ mơ nhớ lại trận cháy rừng khủng khiếp vừa qua. Không biết má
nuôi tôi, thằng cò
mà cả con Luốc nữa... ở nhà có xảy ra chuyện gì nguy hiểm
không? Đêm nay, tía con chúng tôi còn chưa về, chắc má nuôi tôi và thằng CÒ ở
nhà lo lắm... Tôi vừa chợp mắt thiu thiu ngủ, bỗng nghe tía nuôi tôi gọi
"An! " một tiếng cộc lốc bàn tay ông nắm lấy tay tôi lôi phắt dậy.
Trèo lên cây sung mau đi, con
Cọp hở tía? - tới vụt tỉnh hẳn, hỏi ngay.
ừ mau đi. Nghe tiếng con chim lệnh kêu rồi?
Tôi ôm cây sung trèo lên. Mọi ngày tôi trèo nhanh như sóc,
nhưng giờ đây tay chân cứ trượt mãi không bám vào t.hân cây trèo lên được. Tía
nuôi tôi đưa bàn tay lên dỡ gót chân tôi, để tôi lấy tựa. Tôi trèo bên trên,
ông trèo bên dưới Gần tới một chạc ba ông rướn người lên để tôi đạp chân vào
hai vai ông, đu người thốc lên. Tôi đã có thể lần trên các nhánh cây, leo cao một
mình được rồi tía nuôi tôi ngồi lại chỗ chạc ba, tay cầm nỏ đưa mắt nhìn quan
sát.
chúng tôi vừa ngồi yên chỗ trên cây thì nghe tiếng con chim
thiêng vẳng tới. Boong... bong... krooi... loói
Boong... boong... boong... k.ruồi... kroói... Tiếng con chim
lệnh kêu một hồi dài, cả rừng im bặt. Tôi bám chặt hai tay vào một cành cây. Tiếng
boong... boong... kroói...
krooi... âm vang rất xa như một thứ tiếng ngân vang kìm loại,
một thứ tiếng đồng tiếng sắt xé tan màn đêm, làm thức tỉnh và kinh hoàng tạo vật.
" NÓ bay kêu chỗ nào, có cọp tới ngay chỗ đó. NÓ là con
chim ma dắt đường? Những oan hồn bị cọp ăn, nhập vào con chim, đưa đường cho cọp
đi tìm bắt người khác...
CÓ hồn khác tới thay thế thì những oan hồn kia mới đi đầu
thai được?" Má nuôi tôi đã bảo như vậy. Thằng CÒ vốn sẵn sàng tin ngay mọi
thứ chuyện ma qủy, vậy mà không hiểu sao bận đó là lần thứ nhất tôi nghe nó cãi
má nuôi tôi:
- Bịa đấy! Làm gì có! - Thằng CÒ cười cười, vênh mặt lên. -
Con cọp nào lại không ăn thịt sống? NÓ ăn nhiều thịt quá, thịt thối mắc trong
chân răng, làm cọp ta đau
nhức. Hễ nằm đâu là nó há họng cho con chim đó mổ thịt lôi
ra. NÓ là con chim bẩn, chuyên ăn thịt thối, ăn giòi bọ trong miệng cọp. Con cọp
đi đâu, con chim theo đó như con nhông con sáo đi theo trâu vậy, chứ có gì mà sợ
nó?
Má nuôi tôi nổi giận ngay:
Nè, trứng chẳng khôn hơn vịt đâu. Mày học cái sách nào đó của
ai mà toan dậy khôn tao thế, hử Cò?
Thằng Ch chẳng những không cãi, mà còn nhe răng cười hì...
hì:
- Chú VÕ Tòng bảo con vậy đó, má à!
- ôi thằng cha đó thì trời cũng không sợ. Cọp vật hắn không
chết thì hắn còn sợ ai nữa! Nói cứ ngang như cua.
Dầu thế nào mặc lòng, nó cũng vẫn là con chim "báo hiệu
của Thần Chết Tiếng boong... boong... krooi... kroỏi... vang dội trong rừng
khuya có một ma lực đáng sợ,
khiến tôi nghe một lúc bỗng nổi gai ốc khắp người. Khi gần
khi xa, tiếng chim hình như cứ lảng vảng trong khu rừng này, chẳng chịu bay đi.
- Tía ơi, lên đây với con! - tôi gọi khẽ thôi, chẳng dám gọi
to.
ừ tía lên ngay - tía nuôi tôi đeo nỏ vào lưng, trèo lên chỗ tôi
ngồi. ông cởi chiếc khăn bịt đầu ra, vòng ngang bụng tôi, buộc mắc vào nhánh
cây. - Thế cho khỏi ngã,
con ạ?
- Lửa còn cháy dữ quá, hở tía?
- ừ còn cháy nhiều...
Xa lắm, ánh lửa còn bùng lên nhiều chỗ. CÓ chỗ trông rõ cả ngọn
lửa bốc cháy trên đầu ngọn cây. Một vùng chân trời rực đỏ. Xa xa có những bầy
chim lượn vòng trên
cao, kêu hu nu. CÓ lẽ chúng đang ngơ ngác không tìm về dọc
nơi rừng xưa tổ cũ, nên cứ lượn mãi giữa trời kêu bi thiết đây chăng
Bây giờ bụng đói cồn cào, tôi mới tiếc hai thùng mật và gùi
sáp ong non... Đói cũng chẳng sao. Chỉ lo mất lối về Tôi lạỉ nhớ tới cái địa
bàn có cây kim lúc nào cũng quay quay chỉ về phương bắc... Nhưng đã có tía nuôi
tôi thì còn lo gì chuyện lạc rừng Chà, lúc này mà có con luốc ở đây thì mình
cũng không đến nỗi sợ lắm... Tôi đang mơ mơ màng màng, bỗng giật nảy người.
Không có chiếc khăn an toàn của tía nuôi tôi buộc tôi vào cành cây, có lẽ tôi
đã rơi xuống đất.
Tiếng Boong...! Boong...! Tron i... Kroó i...! kêu vang dội
ngay sát dưới chân tôi. Tía nuôi tôi nạt một tiếng cọp, tiếng nạt dội vang rừng.
Con chim vụt bay mất. CÓ một mùi khét lẹt và tiếng chân sột soạt trên lá ở ngay
dưới gốc cây.
Tôi quên mất cả đói, quên mất chuyện lạc rừng, cứ hồi hộp
nhìn vào tất cả những chỗ nào có bóng tối đáng nghi ngờ. Bỗng nhiên tôi nhớ
ngay đến một đêm, má nuôi tôi ngồi đan giỏ bên bếp lửa đã kể cho chúng tôi nghe
một câu chuyện về lửa cọp Đừng tưởng không có ma. Mấy mươi năm về trước, có vợ
chồng nhà nọ dắt đứa con
trai chống thuyền vào rừng đốn củi. Thuyền đi dưới rạch, con cọp
đi theo trên bờ, trong khi đó người vợ cứ đòi dừng thuyền lại cho mình lên bờ
đi đại tiện. Người chồng và đứa con hãi quá, phải khua thùng thiếc ầm ĩ, hò hét
đuổi cọp đi Một chốc sau lại thấy nó lẽo đẽo theo thuyền, mà người đàn bấn thì
cứ nằng nặc đòi nhảy lên bờ. Người chồng phải lấy dây trói vợ lại. Khi họ tới
chỗ lấy củi, bấy giờ người chồng mới tháo dây, cởi trói cho vợ. Và người vợ
cũng thôi, không thấy buồn đi đại tiện nữa? Cả ba người lên bờ nhặt củi từ sáng
đến trưa, chẳng việc gì. Tưởng là cọp đi rồi Ai ngờ vào lúc mặt trời gần lặn,
con cọp bỗng xồ ra cắn đứt cuống họng người đàn bà. Người chồng và đứa con vung
rựa xông vào cướp thây, chém trúng con cọp mấy nhát, nó mới chạy đi. Trời tối đến
nơi, mà bấy giờ nước triều cũng xuống cạn sát lạch, không đẩy thuyền ra được.
"Con cọp này sẽ trở lại xé nát thây vợ ta thôi SỐ vợ ta đã đứt cũng đành.
Lẽ nào nỡ để chết rồi mà thi thể chẳng giữ được vẹn toàn?" Người chồng
nhìn xác vợ buồn rầu nghĩ vậy. Chôn thì cọp đến móc mả. Để dưới thuyền tất nó sẽ
nhảy xuống phá thuyền. Anh ta đành buộc thừng rút xác vợ treo lên cây mắm khô
giữa khoảng đất trống, chờ sáng mai nước triều lên, sẽ đưa xác vợ
xuống thuyền chở về mai táng. Hai cha con đốt một đống lửa to
tướng dưới gốc cây mắm khô, trước khi trèo lên một cây khác ngồi chờ bình minh
tới. Con cọp cứ quanh
quẩn kêu "béo... béo... " trong những lùm bụi chung
quanh. Về khuya, sương xuống mịt mù, đống lửa mỗi lúc lụi dần rồi tắt hẳn.
Trong ánh trăng xanh lạnh ngắt,
người chồng thấy con cọp cứ chạy vòng quanh gốc mắm, lâu lâu
lại đứng dựng hai chân sau lên như người, còn hai chân trước thì với với cào
cào gốc cây mắm khô. Mỗi lần nó đứng lên, cái thây ma treo trên cành cây lại cười
hắc...hắc..."
Tía nuôi tôi đang xe gai bên chõng, nghe thế bèn dừng lại,hừ
một tiếng:
- Bà khéo nhát trẻ con! Xưa nay, chuyện cọp theo bén cái thây
nó vồ thì có. ừ, mang thây về nhà rồi nó cũng theo kêu "béo... béo...sát
bên hè suốt đêm. Còn cái
chuyện thây ma cười cũng có. Nhưng sự thật thì không phải vậy!
- CÓ mà lại không phải Vậy ông cứ nói không" có dễ nghe
hơn chăng - má nuôi tôi hứ một tiếng, ngó sang phía khác, không muốn nghe lời
tía nuôi tôi giải thích.
- CÓ chớ nhưng không phải cái thây ma cười. Mà có giống chim
khắc ăn đêm,thường đáp trên cây khô bắt tắc kè, bắt thằn lằn, hoặc bắt chuột.
Tình cờ nó đáp đúng cái
cây có treo xác người. Thấy cọp chồm lên, con chim kêu
"khắc.. khắc... thì mình cho là thây ma cười. NÓ kêu hệt như tiếng cười vậy.
Người yếu bóng vía đi rừng ban đêm, nghe con chim khắc kêu, có khi sợ vãi cứt
ra quần đấy.
- Thế tại sao biết có con cọp trên bờ, mà người đàn bà cứ đòi
nhảy lên nộp mạng cho nó? Không phải đã tới số rồi à - má nuôi tôi vẫn chưa chịu
thua. còn vặn lại.
- Lúc bấy giờ, có bà ở đó à? ĐÓ là người ta bịa, người ta thêm
nhân thêm nhị cho câu chuyện có vẻ thật, dễ tin...
- ông không tin tbì mặc ông. Tôi cứ tin.
Bà cứ tin thì tùy bà! Nhưng đừng có tập cho con cái nó quen sợ
hãi nhưng chuyện vô lý như vậy
Má nuôi tới lặng lẽ cúi xuống đan giỏ, không nói gì nữa.
Không biết có phải vì tốt nhịn mà má nuôi tôi không cãi nhau với tía nuôi tôi nữa
hay không? Nhưng câu chuyện hấp dẫn của má nuôi tôi đã bị chấm dứt đột ngột ở
chỗ đó, làm thằng CÒ và tôi tuy không tin nhưng đứa nào cũng ức...
Tía nuôi tôi vẫn ngồi trên một chạc cây, tay cầm chiếc nỏ.
Tôi thấy sương bất đầu thấm lạnh trên vai áo.
Tía ơi!
- Gì thế, con?
- NÓ ngồi dưới gốc cây đó
ừ, tía, tía thấy rồi... Đừng sợ, con ạ?
Trong bóng tối đen ngòm phủ kín một vùng rộng dưới gốc cây
sung, có vài mảng sáng lỗ chỗ. ở một chỗ sáng xanh nhờ, có một cái đuôi cọp vẫy
qua vẫy lại. Con cọp
núp khuất đâu trong bóng tối, chỉ thấy khúc đuôi của nó thôi.
Bắn nó đi, tía. - tôi nén giọng run run giục tía nuôi tôi
- NÓ không phóng lên tới chỗ này đâu. Mặc kệ nó con à.Tôi bỗng
nhớ đến chú VÕ Trang với tất cả tấm lòng trìu mến và kính phục vô hạn. Trong đầu
óc tôi bây giờ chỉ có hình ảnh chú ấy như anh hùng xuất chúng thôi.
Nhất là nồi thuốc đen nhánh sôi ục... ục... trên bếp lửa,mũi
tên có tẩm thuốc từ nồi thuốc đó đang nắm chắc trong tay tía nuôi tôi đây mà.
Tôi không còn sợ con vật đang ngồi rình chúng tôi ngay dưới gốc cây sung như
lúc nãy nữa.
- Chết cha mày, con cọp! - tôi quát to lên một cách bất ngờ.
Con cọp giật mình phóng soạt ra tận ngoài một lùm xa. Bấy giờ
trống ngực tôi mới bắt đầu nổi lên,vì khoái trá cũng có, vì mừng cũng có, mà có
lẽ là cái sợ chưa tan
hết cũng có.
- Sao hồi nãy tía không bắn cho nó một phát tên?
- Chỉ còn có ba phát thôi, con à! Rơi mất hết mười bảy chiếc
lúc tía cõng con chạy đi. CÓ lẽ bị vướng cành cây, tía không hay.
- Vài hôm nữa mình lại về xin chú VÕ tòng, lo gì?
Tía đang lo nghĩ về chú ấy nãy giờ đây. Ngôi lều của chú chắc
chắn đã bị thiêu hủy rồi...
- Thế tại sao tía không bắn?
tía đã nói là còn có ba phát thôi mà. Chưa cần lắm thì mình
chưa dùng. Còn đề phòng thứ nguy hiểm hơn...
còn gì nguy hiểm hơn cọp hở tía?
thằng Tây chứ còn gì nữa.
Tía nuôi tôi chỉ đáp gọn lỏn như vậy rồi ông lặng lẽ thở dài.
CHƯƠNG 13 - CÁI CHẾT CỦA VÕ TÒNG
Ba hôm sống trong rừng. Ban ngày hái trái bình bát tìm mật ong
ruồi ăn đỡ dạ; ban đêm chúng tôi trèo lên những cây to, tìm chạc ba tựa lưng thật
vững, buộc người
vào cành cây, ngủ đến sáng. Tía nuôi tôi nóng lòng sốt ruột cứ
độ nửa buổi lại trèo lên một cây thật cao xem lửa ở các khu rừng đã cháy lụi hết
chưa.
CÓ thể đi lần ra hướng bờ sông được rồi đấy con ạ!
Đi lối nào bây giờ, tía?
- Lối nào cũng tới. Nước trong rừng bao giờ cũng đổ ra sông.
Cứ men theo bất cứ con lạch nào, theo hướng nước chảy của nó thì đi tới sông
thôi...
Tía con tôi dắt nhau lội theo những khe nước chảy, đến gần hết
một ngày hôm sau nữa mới thấy những rặng cây quen thuộc lờ mờ hiện lên trong
làn hơi nước, báo hiệu dòng sông êm ả của xứ rừng U minh đang trôi qua nơi đó.
Chúng tôi giẫm chân lên những lớp tro dầy còn nong nóng, tìm dò mãi mới đi tới
chỗ cái lung còn nước, nơi tía nuôi tôi đã nhận chiếc xuồng hôm nọ. Chung quanh
tôi, đen hắc một màu cây cối đã cháy thành than.
Những con rùa, con cần đước bò qua trảng cỏ trốn chạy không kịp,
bị lửa đốt cháy còn trơ lại những cái mai như nồi đất úp lổm ngổm trên tro tàn.
Một khối than khổng lồ còn giữ nguyên hình gốc cây, đang âm ỉ bốc khói bên cạnh
chỗ chúng tôi giấu xuồng. Lục bình, rau mác dưới lung bị lửa táp cháy rụi lớp
lá bên trên, phần chìm
dưới nước thì bị nước nóng luộc chín cả. Xác cá, tôm, xác rắn
trương phình trên mặt nước phủ đầy tàn tro, bốc lên một mùi thối khắm nhức cả
óc.
Tôi cởi truồng lội xuống lung, vớt lớp xác lục bình cháy queo
trong chiếc xuồng ngâm nước, vứt lên bờ rồi lắc xuồng tát nước ra.
May quá, nhờ phòng nắng nẻ be mà chiếc xuồng của tía con mình
khỏi cháy, tía nhỉ! - tôi lội mò dưới nước tìm nhặt đủ cả: giầm, sào, ván sạp,
không mất món nào.
Chúng tôi hì hục chống chiếc xuồng theo con lạch cạn, đi lần
ra hướng bờ sông. Từ ngoài rặng cây xa lắc chỗ bờ sông, vang lên một tràng súng
liên thanh pập... pập... và sau đó còn nghe rõ ràng tiếng súng trường bắn loạn
xạ một hồi lâu.
CÓ thể giặc đã đổ bộ vào xã mình rồi, con ạ? - tía nuôi tôi
lo lắng.
- Làm sao bây giờ, tía?
Về nhà xem ra sao, chứ làm sao cái gì!
chúng tôi lại lặng lẽ chống xuồng đi. Hai bên bờ lạch xám
ngoét một màu tro. Ngôi lều của chú VÕ Tòng lấp dưới một lớp than màu tro, nếu
không có những khúc cây tràm xếp lên nhau làm bậc. thang còn chìm ở mé nước thì
tôi không thể nào nhận ra dấu vết. của ngôi nhà cũ.
Xế chiều hôm đó, chúng tôi mới ra đến bờ sông. Khu rừng bên tả
ngạn vẫn còn đương xanh rờn, soi bóng những cây tràm bạc thếch trên dòng nước lờ
đờ. Tôi nhảy xuống sông tắm qua loa rồi trèo lên xuồng mặc quần áo. Tía nuôi
tôi không giục tôi một tiếng nào cả, cũng không lấy thuốc lá ra hút. ông ngồi
êm ru, mắt đăm đăm nhìn
xuống dòng nước. Phút yên lặng trầm mặc bất ngờ của ông lây
sang tôi tức khắc. Mấy hôm nay, nóng lòng sốt ruột bao nhiêu thì bây giờ khi sắp
về đến nhà, tôi lại như
muốn kéo dài thời gian ra, như muốn đi chậm lại bấy nhiêu.
Không biết có phải đó là bản năng hèn yếu của con người, trong phút giây nào đó
bỗng bất ngờ nổi lên, khiến
mình trù trừ, như sợ phải sớm chứng kiến quang cảnh đau lòng có
thể xảy cho những nguội thân yêu nhất của mình chăng
Một lúc sau, không ai bảo ai, tía con chúng tôi mỗi người cầm
lấy cây giầm của mình bơi đưa chiếc xuồng qua sông. Mặt sông vắng ngắt. Dòng
sông như thẫm lại và rộng thêm ra. Một thứ không khí lặng lẽ chết chóc, rờn rợn
trùm lên mặt nước.
Đã trông thấy một đám người láo nháo bên kia bờ sông, dưới
ánh mặt trời tà. Chúng tôi quạt mạnh tay giầm, đưa xuồng rẽ nước lao nhanh về
hướng ấy. Từ bờ phía đó, một chiếc tam bản hai chèo đang chèo ra, ngược lên
dòng nước; khi nhận ra chúng tôi, người đàn ông đứng sau lái bèn vung tay la
lên..
Bác Hai đó hả? Bác ơi, giặc bắn chết VÕ Tòng rồi. Vừa đem được
xác về lúc nãy...
Tía nuôi tôi kêu "Trời một tiếng. ông đứng nhổm lên lái
xuồng hỏi bằng giọng run run:
- Vậy chú có gặp... bà nhà tôi và tháng CÒ ở đâu không?
- Bình yên. Bình yên cả. Tôi vừa gặp bác gái ban trưa đây Tội
nghiệp, bác khóc sưng cả mắt. Cứ lo trận cháy rừng...
Tía nuôi tôi thở phào một tiếng. Bấy giờ, tôi mới khua giầm hời
to:
Giặc ở trên tàu bay bắn xuống hở chú?
Người đàn ông đang chèo chiếc tam bản trố mắt nhìn qua xuồng
chúng tôi một lúc rồi mới nói:
- Không hay biết gì cả à? Giặc vào đóng bốt tại Cây Dừa rồi.
- Chú đi đâu đó? tía nuôi tôi hỏi..
- Đi nhắc hàng(Mua quan tài) cho VÕ Tòng đây. Bác lên vuốt mắt
ông ấy thử coi... Tội nghiệp, chết rồi mà cặp mắt vẫn không chịu nhắm lại...
Lát nữa, tôi sẽ quay về ngay thôi.
- Nhanh tay lên, con? tía nuôi tôi giục.
Tôi có cảm giác như tự chiếc xuồng đang lao nhanh vào bờ, chứ
không phải do mình đang dốc lực bơi đi. Tôi chưa kịp buộc xuồng vào một gốc cây
thì tía nuôi tôi đã nhảy phóc lên, chạy đến chỗ đám người xúm xít đứng vòng
quanh trên một bãi cỏ.
Khi tôi lên tới nơi, lách qua mấy ngươi đứng bên ngoài, chen
được vào trong thì thấy tía nuôi tôi đang qùy xuống bên cái thây đắp bằng mấy
tàu lá chuối, hai bàn chân người chết ló ra ngoài mé lá; vết bùn đóng trên mấy
đầu ngón chân hãy còn ướt. Lão Ba Ngù mặt đăm chiêu, đứng phía sau đầu người chết
có cắm mấy nén hương cháy. Thấy tôi, lão hất hàm một cái, dường như ra ý hỏi
mày cũng ở đây à? rồi lão lại đứng lặng yên trở về cái dáng thiểu não và bộ mặt
rầu rĩ ít thấy có ở lão xưa
nay. Tía nuôi tôi run run đưa bàn tay to lớn đẫm đầy mồ hôi
ra cầm một tàu lá chuối nhấc lên. Đôi mắt chú VÕ Tòng vẫn mở trừng trừng như
lúc còn sống, ngồi bên nồi
thuốc ở giữa lều một đêm khuya. BỘ ngục to lớn bị đạn bắn thủng
năm sáu lỗ, máu đọng đen sì trên những vết thương càng làm nổi bật lên bảy chữ:
"Ninh thọ tử, bất
ninh thọ nhục" bằng quốc ngữ xâm một cách nắn nót theo lối
cổ tự, giữa hình một quả tim có con rồng cuộn khúc bao quanh. Con người bị áp bức
ấy, lúc sống đã ưỡn
ngực mình ra cho anh em bạn tù cùng khổ thích vào da thịt những
chữ xanh để nêu lên một phương châm sống:
"Thà chịu chết. quyết không chịu nhục giờ đây đã nằm
xuôi tay trên bãi cỏ, nhưng đôi mắt hãy còn chưa chịu khép lại
Tía nuôi tôi nhìn vào mặt cái xác, khấn to, như gọi hồn người
chết về chứng chiếu lời mình.
- VÕ Tòng ơi? Vong hồn chú sống khôn thác thiêng cho tôi vuốt
mắt chú nhắm lại đi. Đừng để bà con thấy thêm đau lòng...
Bàn tay tía nuôi tôi từ từ đặt lên đôi mắt dại đờ.
Chung quanh im phăng phắc. Tía nuôi tôi để yên bàn tay như vậy
khá lâu, và khi ông từ từ vuốt mí mắt xuống thì đôi mắt của người chết vừa rồi
mở trừng trừng quả nhiên đã khép lại.
Mọi nguùì ồ lên một tiếng và bấy giờ tiếng thì thào mới bắt đầu
nổi lên. Tôi ngạc nhiên quá đỗi. Không hiểu sao những lời khấn vừa rồi lại có
thể "ứng nghiệm, lạ lùng như vậy được.
Lão Ba Ngù đưa tay quệt một giọt nước mắt, cúi xuống đắp tàu
lá chuối lên mặt cái xác. Theo lời những người chung quanh thì lão là người độc
nhất chứng kiến cái chết anh dũng của VÕ Tòng. Sau khi chiếc ca nô địch chạy
qua, còn chưa khuất lái, lão đã lặn ngay xuống sông vớt xác VÕ Tòng lên, và mặc
cho máu me còn đầm đìa rỏ
xuống uớt cả người, lão cứ thế vác đi một quãng mới gặp xuồng
gọi chở về đây. Còn như sự thể đã diễn ra như thế nào thì không nghe ai nói. Dường
như mọi người đều biết cả rồi. Chỉ còn tía con chúng tôi mới đến là còn chưa
rõ.
Người đàn ông chèo chiếc tam bản trên sông lúc nãy đã quay về,
chở theo một cái "hòm". Trên tam bản còn thấy có ông chủ nhiệm thôn bộ
Việt Minh vai đeo khẩu
súng hai nòng, và một anh thanh niên mặc quần đùi, cởi trần,
dáng chừng là người theo phụ giúp việc khiêng vác.
Huyệt mả đã đào xong gần ngay đất. Cuộc nhập quan cũng hết sức
giản đơn và nhanh chóng. Người ta đặt xác vào quan tài, và mọi người chung
quanh đứng cúi
đầu vĩnh biệt người anh hùng của xã lần cuối, trước khi đóng
nắp áo quan. Không một tiếng khóc. Không một bài điếu văn nhỏ, hoặc một người
nào đó đứng ra nói mấy lời về cái chết anh dũng cua người còn nằm đây. ĐÓ là điều
làm cho tôi xốn sang, bứt rứt không chịu nổi. Trên những gương mặt sạm đen dãi
dầu nắng gió của họ, tôi không tìm ra một nét nào là biểu hiện của bi thương.
Cho dù là dáng vẻ bề ngoài, một sự bi lụy thông thường bao giờ mà chả cần có ở
một đám đưa ma? Trên những gương mặt bất động dường như chạm bằng đá kia, chỉ
có những cặp mắt là chói ngời, khiến tôi không dám nhìn thẳng vào mắt họ.
Khi quan tài đặt xuống, ông chủ nhiệm thôn bộ Việt Minh là
người ném hòn đất xuống đầu tiên, rồi bước ra ngoài nhường chỗ cho người khác.
Mỗi người cầm một hòn đất bước đến bỏ vào huyệt mả. Trong lúc ai nấy đang loay
hoay lo lấp huyệt, bỗng nghe đoành... đoàng... hai tiếng nổ bên tai. ông chủ
nhiệm thôn bộ Việt Minh đã bất thần bắn lên hai phát súng chào không dự định
trước. Một tay ông cầm khẩu ca-líp đui hai nòng bốc khói xanh, một tay giơ lên
trước huyệt, bộ ria đen nhánh rung rung:
- Chú VÕ Tòng! Đồng bào sẽ trả thù cho chú
Tất cả những cánh tay nhớp nháp bùn đất của người đứng chung
quanh huyệt mả cùng giơ tay thẳng lên trời.
HỌ gào lên như tiếng súng vừa nổ bất thình lình: "Trả
thù! ". Hồi âm từ trong rừng xanh vọng lại hai tiếng "Trả thù?"
âm vang trên mặt sông chiều đỏ rực một màu máu.
Bầu không khí nhiễm đặc mùi thơm nồng của khói thuốc súng như
rung lên, và sự im lặng lại trở về xâm chiếm đầu óc tôi, một chú học sinh bé nhỏ
sống ở thành phố,
chưa từng bao giờ trông thấy một cuộc tống táng tràn đầy phẫn
nộ như vậy.
Những người còn nấn ná sau cùng bên ngôi mộ mới đắp xong là
lão Ba Ngù, tía nuôi tôi và tôi. Khi thấy lão nhận lời mời "về ở chơi vài
bữa, của tía nuôi tôi mà không
một lời từ chối, tôi lập tức thấy cái tính không khách sáo của
lão thật là đáng yêu biết chừng nào.
Vào khoảng hơn bẩy giờ tối hôm ấy thì chúng tôi về đến nhà.
Tôi không chú ý đến sự mừng rỡ của má nuôi tôi và thằng Cò. Cả những câu hỏi đầy
âu yếm và lo lắng của
bà, tôi cũng chỉ nghe có một bên tai và trả lời qua loa cho
xong về trận cháy rừng. Tôi đang nóng lòng sốt ruột, muốn nghe lão Ba Ngù kể lại
cái chết của "người đàn ỏng
cô độc giữa rừng l mà lão là người độc nhất được chứng kiến.
Thế mà lão lại ngồi uống trà nhâm nhi với tía nuôi tôi và nói những chuyện con
cà con kê gì ở đâu đâu. Sự hy sinh anh dũng của chú VÕ Tòng có làm cho má nuôi
tôi buồn thương giây lát, nhưng dầu sao cái việc chồng con vừa thoát chết trong
trận cháy rừng về tới nhà, và sự có mặt của một ông khách vốn là chỗ có đôi
chút quen biết trước với chồng mình - mà tất cả đều chưa ăn uống gì - khiến bà
bấn lên trong việc lo cơm nước đãi khách một cách vui vẻ.
Nghe má nuôi tôi bảo thằng CÒ bơi xuồng sang xóm bên mua thêm
rượn, và tiếng vịt bị cắt tiết kêu cạp... cạp sau bếp, tôi càng yên trí ngồi
hóng chuyện bên tía nuôi tôi. Tôi giành cho mình cái quyền được nghỉ ngơi sau mấy
ngày vất cả, và tự thấy mình như một người con trai lớn có thể đường hoàng cùng
ông bố ngồi tiếp chuyện với
khách vậy.
- Chúng nó bắt được tôi trong lúc tôi có hơi quá chén, anh
Hai ạ - lão Ba Ngù e hèm mấy tiếng, cười cười nhìn bố nuôi tôi. CÓ bao giờ lão
nhận là lão say đâu - chẳng là tôi đưa vợ con tản đến ở nhờ nhà một người bà
con ở Kim Quy Đá Bạc, vừa quá giang xuồng về đến xã này thì gặp giặc đổ bộ vào.
Cái thằng chủ xuồng chết tiệt, nó mới cùng uống rượu với mình, thế mà lúc nguy
biến, nó đạp xuồng nhảy lên bờ chạy tháo mạng, bỏ mình nằm trơ như con lợn quay
cho giặc xách đi mới nhục chứ! Chúng nó dắt tôi về tới một ngôi miếu khá lớn...
- Ngôi miếu chỗ cây dừa, gần ngã ba sông - tía nuôi tôi gật
gù vừa như hỏi lại vừa như kết thúc cho xong câu ngắc ngứ của ông khách lề mề.
- Phải rồi. Đúng là chỗ đó! Chà chà, nó đã bắt nhiều người ở
đó rồi. Đang đắp phòng tuyến đóng bốt mà!
Chúng nó vứt cho tôi một cái xẻng rồi ra lệnh cho tôi đào đất
CÓ một thằng mặt gà mái, khom lưng xúc đất, bảo khẽ tôi:
Làm cẩn thận nghe ông nội! NÓ vừa mới đánh mấy người suýt chết
đó.
Lúc bấy giờ, tôi có say đâu? Nhưng không biết tay chân xều xạo
cầm xẻng gục tới gục lui thế nào, mà một thằng Việt gian cầm roi gân bò vẫy vẫy
tôi lại "Chà. Mày
muốn thử tấm da bò trên lưng lão à? Thôi thôi. Cái trò này đối
với lão chẳng ra mùi đâu" Tôi nghĩ như vậy và sẵn sàng chịu cho nó quật một
trận. Thằng Việt gian lùn
tịt ngóc lên nhìn bộ mặt vênh váo của tôi, nó hỏi:
- Ở xã nào"
- Ở đâu Còn ở đâu nữa... ở ngay đây thôi? - tôi đáp liều mạng
như vậy.
- Tưởng nó nện tôi rồi chứ. Nhưng mà không. Không những không
động đến cái lông chân của tôi, mà nó còn toét mồm ra cười, móc thuốc lá cho
tôi hút. Lại đánh diêm cho tôi châm lửa cẩn thận!
- SỐ của ông tới rồi. Biết chưa? - nó nói như quát, bộ nó tưởng
tôi điếc hay sao ấy?
À hóa ra nó còn đùa chơi, nó còn cho mình một điếu thuốc trước
khi đem bắn mình đây. Nói có hai bên vai làm chứng, thật tình thì tôi có hơi ớn
xương sống, rùng mình một cái, nhưng tôi không sợ nó. "Bắn lão à? Được. Cứ
hút cho hết đã. Thong thả đã, vội gì. Trước khi người ta vĩnh biệt cõi đời để
không bao giờ trở lại gặp mặt vợ con bạn bè nữa, thì việc gì mà phải vội!
" Tôi nghĩ như vậy Thằng Việt gian đứng chéo chân, mặt như hai ngón tay
chéo, nheo mắt nhìn tôi hút hết điếu thuốc một cách
kiên nhẫn, đầy soi mói. Cái lưng gù gù cua nó càng khom tới
thực giống như con mèo rình chuột. Không biết nó phục tôi hay rủa tôi.
- A-lê? Đi. - nó quát.
Chắc mèm nó bắn mình rồi? Tôi sắp sẵn mấy câu khẩu hiệu hô
trước khi chết cho đúng tư thế một người chiến sĩ Ha... ha... mỗi thước đất là
một chiến hào, mỗi người
dân là một chiến sĩ mà! Chắc nó đem bắn mình ở ngoài mé sông
kia. Hóa ra nó dắt tôi vào miếu, đến chỗ thằng Tây đang ngồi uống rượu trên một
cái bàn thờ mới chớp đâu về Thằng việt gian xì xồ nói gì một lúc với thằng Tây.
Rồi thằng Tây thân hành rót một cốc rượu đưa tận tay tôi, ra hiệu bảo tôi uống.
Mẹ kiếp, rượu gì mà nhạt thếch
. SỐ ông đưa tới chỗ có bạc xài. Lại có rượu uống thả của rồi
đấy, ông nội ạ. Thằng Việt gian đập đập khẽ cái roi vào lưng tôi, nói giọng mơn
trớn.
Rồi chúng nó dỗ tôi làm chỉ điểm! Mả cha nó, hồi nãy nghĩ nó
sắp đem bắn mình, tôi không chút nao núng. Sao giờ nghe chúng nó nói thế, tôi lại
phát nổi gai ốc đầy
mình? Tôi tỉnh lại ngay tức khắc. Trời ơi, bây giờ tôi mới biết
những thằng rượu chè be bét, những thằng trác táng trụy lạc, giặc coi như là
dân "bồ bịch, của nó đấy! Thằng Việt gian trải một tấm bản đồ ra bàn, hỏi
tôi: đây là con kênh gì gì, con rạch gì gì, xóm này là nhà ai, nhà ai... Cha chả,
mình đã lỡ nói mình là dân xã này, mà bảo không biết thì nó đánh tan xác. Tôi cứ
gật bừa chứ nào có biết trời trăng gì đâu? NÓ đưa cho tôi một cái giấy xanh
xanh, bảo tôi quấn lại như đẩu đũa nhét vào lưng quần, hễ có bị Tây nào khác bắt
thì cứ móc đưa ra. Bảo gì tôi cũng gật. NÓ rót thêm cho tôi cốc rượu nữa, và
nhét vào túi tôi một trăm đồng bạc, dặn rằng "Hễ thấy có Việt Minh, có du
kích ở đâu thì lập tức về báo ngay cho quan lớn biết.
Sẽ hậu thưởng. Nhớ chưa?" Tôi gật gật... Ra khỏi miếu chừng
trăm thước, tôi vạch quần đái một bãi rồi chuồn một mạch không quay mặt lại. Chỉ
sợ nó theo gọi lại chụp
hình thì sớm về chầu ông vải.
Tôi móc cái giấy xanh xanh ra cầm tay, định hễ gặp người nào
đằng mình thì lập tức trình ra. Lội hết xóm này qua xóm khác mà chẳng gặp ma
nào. Tôi cầm cái giấy trên tay như cầm cục lửa. Những muốn xé nát, vứt đi Rủi bị
thanh niên tự vệ bắt trước khi mình đưa ra cho họ, thì chết oan hơn một ngàn bà
thị Kính?
Trời xui đất khiến, may sao lại gặp đúng ông chủ nhiệm thôn bộ
cùng đi với VÕ Tòng, VÕ Tòng tôi cũng quen, còn ông chủ nhiệm thì hồi đưa ông
Huỳnh Tấn xuống Thới Bình, tôi cũng có gặp ổng. Tôi bèn chìa cái giấy ra và kể
hết mọi nỗi cho họ nghe, lại đưa cả một trăm đồng bạc ra cho ông chủ nhiệm bỏ
vào qũy ủng hộ kháng chiến. ông chủ nhiệm có khen tôi là mưu trí, trung thành,
nhưng cũng chê tôi là... như vậy coi không được Nhưng bây giờ sự tình đã lỡ rồi,
ông bảo. tôi cứ giữ cái giấy xanh xanh ấy, cứ ra vô bốt như thường, có tin tức
gì thì báo cho anh em biết. Tôi nói "Lạy ông! ông có bắn thì bắn, chứ tôi
không trở vô đó nữa đâu. Dứt khoát là không trở vô. Còn VÕ Tòng thì chỉ nghe,
chứ không nói năng gì. Nhưng tôi sợ chú ấy hơn ông chủ nhiệm thôn bộ mới lạ chứ
Chà, mấy cái chữ "Ninh thọ tử, bất ninh thọ nhục" xâm trên ngực chú,
cứ như là chửi cha tôi không bằng! được cái ông chủ nhiệm không rầy lâu. Nói sơ
chút vậy đủ hiểu thì thôi.
Đánh úp vào miếu thì mình không đánh nổi. Lính đằng mình rút
xuống Năm Căn từ tám hoánh nào rồi...
Chúng nó như một luồng dịch, bây giờ mình sức yếu phải tạm thời
lánh ra, rồi sau sẽ bọc sau lưng chơi du kích với chúng nó... Đó, đại khái ba
người chúng tôi bàn nhau
như vậy. Theo ý ông chủ nhiệm thì nên rình mấy thằng lính đi
đốn cây mà bắn tỉa, chớp súng trước. CÓ súng mới làm ăn được. Nghe có lý lắm,
còn theo ý VÕ Tòng thì phải,,khử" cái thằng việt gian đã thuộc rành đường
đất xứ rừng này trước. Giết thằng đó, thì bọn giặc co lại trong đồn thôi. Nghe
cũng có lý lắm. Hai người cứ cãi nhau.
Sau cùng, ông chủ nhiệm bảo tôi biểu quyết". Tôi hỏi,,Biểu
quyết là cái gì?" ông nói: Theo ý kiến ai thì giơ tay lên. Bên nào đông
thì làm theo ý kiến đó?" Hai ông đều giơ tay của mình lên. Bây giờ tới
phiên tôi. Hễ tôi đi theo ai thì người đó thắng. Chà, chưa bao giờ tôi thấy
mình quan trọng và oai như vậy. Nhưng mình theo người này
thi mất mặt người kia, thật khó quá? tôi bèn giơ cả hai tay
lên, mỗi tay ngả về một phía. ông chủ nhiệm lăn bò ra cười. Tôi cũng cười. Chỉ
có chú Võ Tòng là không cười.
Ba người chúng tôi dắt nhau đi phục kích ở bờ sông. Phơi nắng
suốt hai ngày mà không thấy thằng lính nào mò tới. Ca-nô nó cứ chạy phình...
phình.. ở khúc sông
trên kia ngã ba. CÓ lẽ vì chúng tôi phục kích chỗ xa quá....
Ngày hôm sau nữa, ông chủ nhiệm bận đi mượn thêm tay súng của
xã bên, chỉ còn có tôi và VÕ Tòng...
Lão Ba Ngù kể tới đây bèn dừng lại, quấn thuốc lá châm vào
kéo mấy hơi dài. Lão cúi mặt xuống một lúc; khi lão ngẩng lên, hai giọt nước mắt
long lanh hai bên khóe mắt từ từ chảy dài xuống má, đọng lại ở chòm ria. Lão
cũng không đưa tay lên chùi. Lão lại tiếp tục kể, giọng hơi thấp xuống:
- VÕ Tòng dắt tôi lội rừng, lên chặn đầu ca-nô ở khúc sông
trên ngã ba. Chỗ khúc sông ngoắt có cây ngừa gie nhánh ra sông đấy
- Nơi đó trống trải quá - tía nuôi tôi thở dài.
- ờ hai bên bờ. sông không có lùm bụi cây cối gì...
Nhưng VÕ Tòng cương quyết "phục" chỗ đó. Chú bảo
tôi là thế nào cũng làm ăn được. Bọn giặc sẽ không ngờ. Chú mang nỏ, trèo lên
ngồi trên nhánh gì ra gie ra sông, núp trong mấy đám tầm gởi. Tôi thì nằm trong
bờ, vạch cỏ chui xuống như con rùa, chỉ ló đầu lên quan sát thôi. Quá trưa mà
không thấy ca nô nó chạy qua. Hai hôm trước nó đều ra buổi sáng. Tôi đã toan gọi
VÕ Trang về thì chợt nghe tiếng ca-nô nổ máy phình phình. Chưa tàn nửa điếu thuốc,
nó đã tới. Mà không phải từ đằng miếu tới. Đêm qua nó đi đâu. bây giờ mới trở về
đây? VÕ Tòng lập tức xoay người lại tôi Chỉ thấy rung rung một cọng lá, và ở đầu
cọng lá ló ra một mũi tên tẩm thuốc độc đen sì.
Tôi đã trông rõ từng thằng trên ca-nô. Một tiểu đội cả thảy.
Tám thằng giặc, ba thằng ngụy. Chúng nó đều cởi trần, da phơi nắng đỏ như cua
luộc, thằng nào cũng đội một cái nón vải rộng vành màu cứt ngựa. Thằng Việt
gian lùn tịt ngồi Ở mũi ca-nô, mũ vải bò tụt xuống cái lưng gù gù trong thật
đáng ghét. Tôi kêu vùa đủ cho chú
nghe:
Cái thằng lùn đầu trần đấy! NÓ đấy?
- ừ!
Chú chỉ nói, có một tiếng. Thằng ngụy thủ cây trung liên đầu
bạc ghé nòng súng lên đùi, ngồi chỗ be móc thuốc ra. đốt hút. Đúng là ở chỗ này
trống trải, nó không đề phòng vả lại cũng sắp về tới đồn chúng nó rồi mà. chiếc
ca-nô ào ào rẽ nước tiến đến. Tôi chớp mắt mấy cái. Không thấy một cọng lá rung
mà mũi tên bay từ lúc nào
đã cắm đúng giữa cổ họng thằng Việt gian nghe cái phực.
NÓ ngã ngửa vào khoang. Mũi tên thứ hai bắn cắm vào vai một
thằng Pháp râu xồm. Thằng giặc già từ từ nhổ mũi tên ra, ném xuống sông cười hô
hố. NÓ đưa bàn tay
lông lá lên lau dòng máu ròng ròng chảy xuống bên vai chưa
lau sạch, đầu nó đã quay quay chúi chúc xuống như con bò bị búa tạ đập vào giữa
sọ. Kể nghe thì lâu, chứ sự việc diễn ra nhanh như chớp, anh Hai ạ? Ca-nô vẫn
chạy.
Đã chạy qua khỏi cây ngừa rồi. Bấy giờ, chúng mới bắn loạn xạ
vào hai bên bờ. Đạn véo véo bay qua đầu tôi, còn VÕ Tòng thì vẫn ngồi ngang
nhiên trên cành cây vô sự.
Tôi chờ cho nó chạy xa một quãng thì đứng lên gọi VÕ Tòng về.
Ai ngờ đâu còn một chiếc nữa đã phình... phình... ló mũi ra chỗ khúc sông
ngoài. Một thằng Tây đội kê-pi vàng rực vai đeo ga-lông(cầu vai có quân hiệu)
chớp chớp ánh kim tuyến, ngồi bên cạnh con đàn bà mặc quần áo nhà binh đang đưa
ống nhòm ngắm tới trước. Thằng này ít ra cũng là quan hai. Mấy hôm trước không
thấy có mặt nó trong đám này?.
Chòm tầm gửi rung rung trên nhánh cây ngừa, rồi trở lại im
lìm không động đậy. Tôi hồi hộp quá. Cách chừng ba tầm tên nữa thì ca nô nó lọt
vào vòng phục kích của
chúng tôi. Bỗng con mụ đàn bà buông ống nhòm tụt xuống ngực,
trỏ vào chòm tầm gởi nói xì xồ gì đó. Thằng Tây đội kê-pi vớ khẩu tiểu liên
trên tay một thằng lính
ngồi dưới khoang, đưa lên ngắm. Chòm tầm gởi đu đưa mấy cái.
Trời đất qủy thần ơi, VÕ Tòng từ từ ló lên giương cánh nỏ. Tôi muốn thét lên mà
lưỡi cứ líu lại. Bắn ngay
nó một phát tên, rồi nhào xuống sông lặn tuốt có phải êm
không Lại không bắn, còn chờ gì nữa hỡi trời! Thằng sĩ quan Pháp vẫn chưa nổ
súng. Chiếc ca nô đã tới gần
lắm rồi. Con mụ đàn bà bỗng quát lên một tiếng, vỗ tay vào
lưng thằng Pháp. Lập tức, tôi thấy cánh tay phải của thằng giặc rung rung. Tai
tôi không còn nghe tiếng súng nó bắn ra nữa, chỉ thấy làn khói trắng như sợi chỉ
phụt phụt ra từ họng súng tiểu liên. Chú VÕ Tòng từ trên cành cây rơi xuống nước.
RÕ ràng là thằng giặc thoát chết vì khoảng cách giữa nó và chú VÕ Tòng còn
ngoài một tầm tên. Nó đã xuống tay trước chú. Bấy giờ tôi không còn biết sợ hãi
là gì nữa, cứ nhô đầu lên coi chú VÕ Tòng có mệnh hệ gì không. Chiếc ca nô chạy
qua xóa những vệt máu mà tôi chắc rằng phải đỏ cả mặt nước kia... Anh Hai ơi
anh có biết con mụ đàn bà ấy là ai không? NÓ là con vợ thằng Tư Mắm ngày trước
vẫn thường lui tới bán dừa khô bí rợ trên chợ Chắc Băng đấy!
Bàn tay lão Ba Ngù đấm xuống mặt bàn một cái rầm, cốc chén nảy
bật lên. Ngọn đèn chao qua chao lại, khiến tôi có cảm giác như bốn bức vách nhà
lung lay vì một sức
chấn động dữ dội.
Tôi đưa tay chụp cái đèn, giữ cho nó khỏi đổ. Bàn tay tôi chạm
vào cái thông phong rát bỏng. Tôi bỗng nhớ tới bàn tay ngón búp măng của con mụ
đàn bà đẹp một cách
dễ sợ đã dúi vào tay tôi tờ giấy bạc năm hào nơi. quán dì Tư
Béo mà tôi đã từ chối không nhận. Chính bàn tay con mụ gián điệp ấy đập vỗ vào
lưng tên giặc Pháp, xuống lệnh khai hỏa giết chết chú VÕ Tòng.
Tía nuôi tôi ngồi lặng đi một lúc lâu. Cơm canh đã dọn ra bàn
rồi mà ông vẫn ngồi yên như một khúc gỗ. Dáng như trong đôi mắt ông đăm đăm
nhìn sững vào ngọn đèn,
đang hiện lên quá khứ xa xăm của người bạn cùng khổ, giữa nơi
cuối đất cùng trời này.
Khi nghe má nuôi tôi giục ông mời khách ăn cơm, ông mới thong
thả đứng dậy. ông bước đến bên bức vách rút ra ba mũi tên trong chiếc ống nứa
ra, để nằm ngang ở trên đĩa, đặt lên bàn thờ. Rồi ông rót một chén rượu đặt bên
cạnh ở ba mũi tên thề, và thắp nguyên cả một bao hương cắm vào bát tro.
Tuyệt nhiên không hề thấy có một nét biến đổi trên sắc mặt
ông. Cả một hơi thở mạnh cũng không nghe thấy...
CHƯƠNG 14 - MŨI TÊN THÙ
Tội nghiệp cho hai ông già, ngày nào cũng dắt nhau ra đi từ trời
còn mờ đất, có khi đến tối mịt mới về. Má nuôi tôi lo lắm: Nhưng bà biết rõ chồng
mình hơn ai cả. Khi
ông đã quyết một sự gì rồi, thì lời khuyên can và những giọt
nước mắt của bà không thể làm mềm được ý chí của ông Tốt hơn hết là nên im lặng.
Sau cái trận phục kích bất ngờ, chết mất tên Việt gian đưa đường
lợi hại và một thằng Pháp, bọn địch phát quang cây cối dọc ngã ba sông có hơn
nghìn thước, bắn
chết ba người đàn bà đi thuyền trên sông giữa ban ngày, và yết
bảng tại ngã ba rằng: Ai nộp một cái đầu Việt Minh. sẽ được lĩnh một nghìn đồng.
Đồng thời chúng
cũng ra sức mua chuộc: mỗi người dân bị chúng ruồng bắt về đồn
đắp phòng tuyến trước khi được thả về đều được phát cho ba thước vải, một số
thuốc ký ninh và hai
bao thuốc lá "gô-loa" cùng một cái giấy
lách-xê-pát-xê
Lão Ba Ngù ở chơi với tía nuôi tôi hơn một tháng mới từ giã
trở về Chắc Băng. Không biết có phải lão buồn vì công lặn lội của mình chẳng
đem lại một kết quả gì, hay bởi con mụ vợ Tư Mắm đã theo thằng quan ba trở ra
chợ Rạch Giá - thế là mất đối tượng chính - nên lão nản lòng bỏ đi chăng. Tía
nuôi tôi từ hôm ấy càng đâm ra ít
nói, chẳng thiết gì công việc làm ăn, cứ bỏ nhà đi luôn.
Nhiều khi cả mấy ngày không về nhà. CÓ về nhà thì lại thắp
hương cắm lên bàn thờ rồi lại ngồi uống rượu khan một mình.
Một số người ở xung quanh đồn giặc đã lục tục trở về nhà cũ.
Cả ba bốn ngôi quán cà phê, hủ tiếu cũng vừa dựng lên. Tía nuôi tôi đã mấy lần
mò ra quán cà phê, lần
nào cũng trở về với bộ mặt rầu rầu khiến cho thằng CÒ và tôi
không dám nói chuyện to tiếng.
Một hôm, tía nuôi tôi cầm rựa đi đốn ở đâu về mấy gốc tre
già. ông vứt tre xuống sân, bảo thằng CÒ đi mua rượu. Người ông thay đổi hẳn,
chân tay nhanh nhẹn, vui
vẻ hoạt bát lên như ngày trước. ông chẻ tre, nắn nót chuốt từng
mũi tên, ban ngày phơi nắng, ban đêm hong lửa ông châm từng mũi tên lên tay,
cân xem có vừa sức
nặng và bề dài của ba mũi tên tẩm độc của ông không...
Ba hôm liền, ngày nào cũng ngậm tẩu thuốc lá, cầm nỏ mang
tên, dắt con Luốc di vào rừng.
Chẳng thấy bắt được con chồn con cáo gì, mà ngày nào cũng lặn
lội cho mệt! má nuôi tôi làu bàu nói như vậy
Tía nuôi tôi chỉ cười. Nụ cười hồn hậu trên gương mặt khoáng
đạt mà tôi thấy ở ông lần đầu tiên nơi xóm chợ Ngã Ba Kênh, lại trở về với ông.
Dứt khoát không phải tía nuôi tôi đi săn con chồn con cáo gì
đâu. CÓ thể là ông đi tập bắn nỏ đấy thôi! Mà một người thông thạo nghề rừng
nghề biển như ông, thì việc
sử dụng cánh nỏ chỉ như một trò chơi, ông cần gì phải tập. Vậy
thì tía nuôi tôi đi đâu? Làm gì?.
Ý nghĩ ấy cứ nung nấu trong đầu tôi, càng thôi thúc sự tò mò
dậy lên trong tôi rất mãnh liệt. Phải theo coi ông làm gì? Thế là tôi mò vào rừng.
Theo dấu chân ông, tôi đi
tìm khắp nơi nhưng không thấy. Đã trở về, bỗng con chó Luốc từ
trong một bụi cây chạy ra xoắn lấy tôi. Tôi vội ôm con chó, vuốt ve cho nó đừng
sủa. Và con Luốc dắt
tôi chạy băng qua một khoảng đất lầy, đến một cái bàu rộng.
Tôi gí mõm con chó xuống đất, núp trong một bụi sậy ngó ra bàu. Tía nuôi tôi cởi
trần, đang loay hoay bơi
trong một đám rều. ông nhặt lục bình, rau mác phủ kín thân người,
rồi giương nỏ, chống hai khuỷu tay lên hai khúc bẹ dừa nước thả giữa đám rều,
giữ thăng bằng trên
mặt nước, không động đậy. Khi mặt bàu đã trở lại phẳng lặng,
và một cái lá lục bình cũng chẳng thấy còn rung nữa, thì từ trong đám rều nghe
vang ra một "tiếng tách
rất khẽ của cánh nỏ bật dây. Chiếc tên bay ra, cắm phập vào một
bẹ dừa nước cắm ở mấp mé ven bờ, mà đám rều không mảy may động đậy. Tôi không đếm
rõ, nhưng ước chừng sáu bảy chiếc tên đã cắm đầy bẹ dừa nước, cách mặt nước khoảng
một tấc, đều tăm tắp như ta cầm từng mũi tên và ghim vào vậy. Tôi hãi quá. Vừa
hãi vừa
kính phục. Muốn gọi tía nuôi một tiếng. Nhưng sợ ông mắng,
tôi len lén dắt con chó đi một quãng mới thả nó ra và lẳng lặng trở về.
Tôi không hề lộ ra chút gì tỏ rằng mình biết chuyện tập bắn của
ông. Hôm sau, tía nuôi tôi gọi tôi ra sân bảo khẽ:
- Con đi với tía ra bốt đi?
Tôi đoán rằng tía nuôi tôi dắt tôi đi phục kích bắn giặc; ông
đã gọi tôi theo, hẳn là ông tin cậy tôi hơn thằng CÒ Bụng mừng rơn, tôi nói
luôn:
Tía đưa cho con cái dao găm!
ông cười cười, vỗ tay lên đầu tôi:
Đi chơi thôi mà. Việc gì phải mang dao.
Thấy tôi đứng ngớ ra, ông cúi mặt khẽ trong tai tôi:
Hồi trước, con có biết mặt vợ thằng Tư Mắm... Con đi với tía,
coi phải đúng là nó không?
Tự nhiên hai chân tôi nhảy dựng lên một cái. Giờ phút đợi chờ
của tía nuôi tôi đã đến rồi. Thảo nào trông ông khác hẳn. Tôi lập tức hiểu ngay
việc chuẩn bị của ông từ
mấy hôm nay.
- Đi tía! Con làm sao quên con gián điệp khốn nạn ấy được -
tôi phấn khởi nói như vậy. - Nhưng mà... nó cũng nhớ mặt con đấy, tía à?
Không lo. Con thấy nó mà nó không thấy con đâu, đừng sợ.
Thế là hai tía con chúng tôi bơi xuồng ra đi. Đến xóm nhà gần
đồn, tía nuôi tôi giấu xuồng vào một bụi ô rô rồi dắt tôi lên bộ. Chúng tôi đều
đi tay không. Rủi gặp một
thằng lính nào thì lấy gì chống trả? Tới vừa đi vừa lo, mắt cứ
dao dác ngó chung quanh. ông vỗ vào vai tôi một cái mạnh:
- Đi đường hoàng, con ạ! Làm như mình là dân ở xóm này vậy. Đừng
dao dác... CÓ gặp chúng nó, để tía liệu lời ứng phó.
Trời chưa tối. Nhưng con đường trước đồn vắng tanh. Lác đác một
vài nhà đã thắp ngọn đèn kiểm tra treo trước cửa. Chúng tới đi ngang qua ngôi
quán cuối cùng, rồi tạt xuống mé sông ngồi đấy.
Nếu có ai hỏi, con cứ nói là chờ xuồng quá giang, nghe chưa?
- ông dặn tôi như vậy và ung dung móc thuốc lá trong túi ra nhồi vào tẩu, bật lửa
lên châm hít mấy hơi
dài.
Đã ngồi rình mà còn hút thuốc Tôi hơi bực với tía nuôi tôi,
nhưng không dám phản đối. Từ chỗ chúng tôi ngồi cách đồn giặc không đầy ba trăm
thước. Chắc chắn là bọn lính trên chòi đã thấy chúng tôi rồi. CÓ lẽ tía nuôi
tôi cố ý đốt thuốc lên hút, để chúng nó ngỡ chúng tôi là người trong quán ra ngồi
chơi. Bên kia bờ sông, cây cối bị
san bằng mặt đất, một con mèo chạy cũng thấy rõ. Mặt trời sắp
lặn chiếu ánh vàng nhợt nhạt lên mặt đất trần trụi bên ba bờ, và hồi quang từ mặt
nước hắt lên tường
vôi trắng bệch của ngôi đồn một màu không tên gọi, một thứ
màu đặc biệt khó tả nhưng nó gợi cho người ta nghĩ ngay đến mùi tanh nhớt cá..
Quái, mọi hôm giờ này nó đã ra rồi kia mà? - Tía nuôi tôi vừa
lẩm bẩm nói xong, thì ông đã nén giọng kêu khẽ trong cổ: NỔ đây rồi.
Từ trong đồn, một dáng người đàn bà tóc phi dê ưỡn ẹo đi ra,
vai quàng chiếc khăn tắm biển xuống tận gối.
Trông rõ cả đôi quai dép trắng dưới chân. Con mụ ngửa cổ ra
sau, lắc lắc mớ tóc rồi đưa bàn tay túm gọn vào gáy trước khi trùm chiếc mũ cao
su lên. Thoạt trông dáng đi ưỡn ẹo như hình rắn luồn, thấy bàn tay đưa lên vén
tóc, tôi biết ngay là nó rồi. Bàn tay búp măng rất đẹp, không thể nhầm lẫn Bởi
nó quay lưng về phía chúng tôi, lại phi dê tóc, nên tôi còn phải chờ xem cẩn thận
đã. Đến khi nó xoay người bỏ chiếc khăn quàng xuống trụ cầu nước, nhìn bộ mặt
trông nghiêng nửa bên của nó, thì tim tôi đập rộn lên:
- Đúng nó rồi, tía à! Suýt nữa thì tôi kêu to lên.
Xem cho kỹ!
Đúng là nó mà!
Con gián điệp phơi nguyên cái thân hình lồ lộ của nó, chỉ có
ba mụn che chỗ kín và bộ ngực. NÓ vung tay vung chân khởi động chừng nửa phút rồi
gieo mình xuống
nước.
- Chắc chắn là nó, chứ con? - Tía nuôi tôi hỏi lại cẩn thận.
Chắc..
- Thôi về, con!
Tía con chúng tội vừa đứng lên đi mấy bước, thì có một thằng
ngụy trên chòi gác la lên:
- ê! Mấy thằng nào trong quán ra rình coi bà lớn tắm đó? Coi
chừng ông lớn bắn bỏ mẹ đa?
Chúng tôi cứ thản nhiên đi. Đi một quãng thật xa, bấy giờ tôi
mới thấy rờn rợn nghĩ lại lúc mình ngồi ở bờ sông.
Về nhà đừng nói gì với má con biết, nghe không? -. tía nuôi
tôi cứ dặn đi dặn lại, bảo tôi có đến ba bốn lần chỉ mỗi câu ấy.
Đêm đó, cả nhà ngủ đã lâu rồi. Tôi giật mình thức dậy, vẫn thấy
tía nuôi tôi ngồi cầm cái tẩu lăn lăn trên bàn tay, bên gốc cây tràm trước sân.
Trưa hôm sau, khoảng hai giờ chiều, tía nuôi tôi đã xách nỏ, mang ống tên ra
đi, không quên lấy cái dao găm trong chiếc túi da beo ra đeo thật chặt bên
hông.
Má nuôi tôi hỏi:
ông đi đâu mà không cầm theo chiếc nón đội vậy?
Tía nuôi tôi đáp ngắn ngủi:
- Ra ngoài xóm một chốc thôi
Con Luốc ve vẩy đuôi chạy theo. Tía nuôi tôi quay lại bảo tôi
giữ con chó, đừng cho nó theo. Tôi biết ông đi đâu rồi. Tôi ôm con chó nhìn
theo cái lưng trần chắc nịch của
tía nuôi tôi, thấy rất vững tin, nhưng đồng thời cũng có một
cái gì nôn nao hồi hộp cứ dâng lên trong lòng khiến tôi dưng dưng muốn khóc.
Tôi đi ra đi vào, bụng nóng như lửa đốt. Tai cứ hướng về phía
đồn. Những tiếng súng vu vơ ngoài đó, mọi ngày tôi không thèm chú ý, giờ chỉ
nghe tiếng nổ xa lắc ở đâu
cũng đủ làm tôi bàng hoàng lo sợ. Má nuôi tôi hỏi gì, tôi
cũng chỉ ậm à ậm ừ. Thằng CÒ rủ tôi đi đâm cá, tôi cũng không đi. Đến bữa cơm
tôi lùa nuốt vội một bát, rồi
lén dắt con chó đi. Tay tôi cầm cái mác, con chó đủng đỉnh chạy
theo sau. Tôi băng rừng ra tới bờ sông, đi về hướng đồn giặc. Mặt trời gần lặn
thì tôi đã trông thấy bức tường vôi trắng xóa và cái chòi gác cao lêu nghêu bên
kia sông. Tôi núp trong những bụi cỏ, lúc thì đi lúc thì lom khom bò tới. Đến
chỗ chúng phát trụi sát mặt đất, không ló ra được nữa, tôi đành nằm xuống ngóng
qua đồn. Con chó tinh khôn cũng nằm sát một bên tôi không động cựa gì cả.
Mắt tôi dán trên mặt sông trước ngôi đồn giặc, theo dõi từng
đám rều từ trên kia theo nước trôi xuống. Lỡ tía nuôi tôi núp trong một đám rều
lưới qua rồi, mà con gián
điệp khốn kiếp chưa ra tắm thì sao? Bây giờ tôi không lo sự
nguy hiểm xảy ra cho tía nuôi tôi, mà chỉ lo con qủy cái không ra tắm. Mắt tôi
lại nhìn ra cửa đồn. "Nó sẽ ra...
NÓ sẽ ra... Rồi nó sẽ ra... " Tôi lẩm bẩm như vậy một chốc
thì quả nhiên nó ra thật. Vẫn như chiều hôm qua, nó lại ngửa đầu ra sau, vén
tóc trùm chiếc mũ cao su lên. Nó lại cởi chiếc khăn tắm đặt lên trụ cầu. NÓ đã
bắt đầu khởi động rồi kia! Một thằng Tây từ trong đồn đi ra, có con chó béc-giê
to tướng theo sát bên chân. Con gián điệp quay lại cười hắc hắc, nói lí nhí gì
đó trước khi gieo mình lao xuống nước. Hai tay tôi nắm hai bụi cỏ cứ run lên.
Con chó béc-giê sủa oang oang khi thấy một đám rều trôi qua ngang đồn. Tôi phải
vỗ vỗ vào lưng con Luốc, gí mõm nó xuống, không thì nó cứ chờn vờn chực đứng
lên sủa chửi lại con chó xấc xược kia.
Con gián điệp vẫn bơi lên ngụp xuống chung quanh chỗ cầu nước.
Một đám rều nữa lại trôi tới. Con chó béc giê lại sủa. Nghe rõ cả tiếng thằng
giặc suỵt suỵt mắng con chó. Đám rều thứ ba trôi tới, bé hơn hai đám trước,
trôi lờ đờ, coi bộ chậm chạp. Đúng là tía nuôi tôi đang núp trong đám rều này.
Tôi vừa nghĩ như vậy thì nghe tiếng hét thất thanh của con mụ "vợ Tư Mắm".
NÓ quẫy đùng đùng như con cá mắc câu, cánh tay với với bám trụ cầu. Con chó
béc-giê chồm chồm trên cẩu, sủa ra sông dữ dội. thằng Tây lôi con mụ kia lên cầu,
vừa chỉ vừa hét:
Việt Minh? Việt Minh!" Con gián điệp còn dốc hết lực giơ
cánh tay chỉ ra đám rều trôi trên sông trước khi ngã xuống giãy đành đạch. Đèn
rọi lia như chổi quét trên sông. khắp bốn phía đồn. Súng đủ các cỡ bắn ra như
chấu. Thằng giặc Pháp cầm khẩu tiểu liên đuổi theo bờ sông, ria xuống đám rều.
Đạn đỏ ngời nẩy trên mặt nước như thia lia. Lại thêm năm sáu thằng ngụy trong đồn
cầm súng tủa ra.
Tôi bất chấp cả đạn. bắn vèo vèo bên tai, xách mác đứng dậy
chạy đi. Thằng giặc chạy bên kia bờ, tôi chạy bên này bờ. Giá tôi có khẩu súng
trường trong tay, thì tôi
đã nổ cho nó một phát rồi. Máu dồn lên nóng cả mặt. Tôi che
tay lên mồm hô lớn: "Xung phong! " Con Luốc cũng bắt đầu sủa oang
oang, hỗ trợ cho tiếng hô vang rền của tôi Thằng giặc Pháp cầm súng. đuổi theo
đám rều bên kia bờ, nghe tiếng thét xung phong của tôi vụt co người lại như bị
điện giật. NÓ quay lưng tháo chạy về đồn.
Tôi cứ chạy theo đám rều, gọi: "tía ơi, tía hời!"
mà không nghe tiếng đáp. Đám rều mỗi lúc một trôi nhanh.
Tôi ngồi xuống bờ sông, khóc nấc lên. Hồi lâu, bỗng nghe tiếng
chân đi sột soạt đến gần. Con chó đứng bên tôi ve vẩy đuôi, lao về phía chân
người đi tới.
- Thằng An đấy hả con? - giọng tía nuôi tôi vọng ra từ trong
bóng tối.
Tôi mừng cuống lên, chạy đâm vào người tía nuôi tôi, làm ông
suýt ngã.
- Tía có sao không, tía? - tôi vừa hỏi vừa đưa tay sờ khắp
người ông xem có máu chảy không.
Chẳng việc gì, con ạ. Tía lặn xuống tới đáy sông, làm sao nó
bắn trúng được. Con ra đây bao giờ
- Tía di một lúc thì con đi theo. Con lo quá
Tôi cảm thấy bàn tay tía nuôi tôi sờ soạng đặt lên vai tôi và
từ trên vai tôi, bàn tay to lớn ấy dần dần mò xuống nắm chặt bàn tay tôi.
-Cám ơn con. Tía cám ơn con!
Con Luốc sấn vào bên chân chúng tôi, vướng không đi được. Tôi
co chân tống nó một cái, nó mới chịu lui ra. Tiếng súng moóc-chê trong đồn bắt
đầu bắn ra, nổ ầm ầm vào những khu rừng chìm kín trong đêm. Nghe tiếng súng bắn
nhiều chừng nào, tôi càng khoái chừng nấy.
-Vì thù mà phải báo, chứ tía đâu màng tới chuyện giết một con
đàn bà!
Đột nhiên, tôi bỗng có cảm giác như mình đang nghe câu nói ấy
vẳng ra từ một câu chuyện cổ xa xưa nào.
CHƯƠNG 15 - PHƯỜNG SĂN CÁ SẤU
Chỉ trong vòng không đầy hai tháng, mà đã có hai tên Việt gian
gián điệp lợi hại và một thằng Pháp bỏ mạng vì tên tẩm thuốc độc. Thứ vũ khí
thô sơ thời Trung cổ, lặng lẽ từ trong cành xanh phóng ra, đem lại cái chết bất
thình lình không phương cứu chữa -sự việc ấy đã gieo vào đầu óc bọn giặc đang cầm
những khẩu súng hiện đại trong tay một nỗi khiếp đảm khôn lường. Càng sợ, chúng
càng lồng lộn lên một cách dữ dội để tự trấn tĩnh và động viên tinh thần bọn ngụy.
Chúng đưa thêm tới ba tiểu đoàn, mở những cuộc càn quét báo thù liên miên khắp
các vùng rừng chung quanh. Những ngôi lều của thợ đốn củi ở tít mãi trong rừng
sâu cũng bị chúng mò tới đốt trụi. Chúng bắt dân phải dỡ nhà về ở chung quanh đồn
để làm vòng rào người, và đóng thêm bốn lô-cốt ở mấy nơi hiểm yếu dọc bờ sông.
Ngôi lều của tía nuôi tôi cũng đã làm mồi cho ngọn lửa của giặc Pháp. Cả nhà chống
thuyền sống lay lắt qua ngày trong các vùng đầm lầy và trong các khu rừng ngập
nước.
-Đành phải đi về vùng U Minh hạ thôi, ông à!
Một hôm má nuôi tôi thở dài, bàn với tía nuôi tôi như vậy. Bà
ngồi trong mui thuyền chật chội, nhìn ra những làn mưa trắng tuôn mù mịt xuống
ngàn xanh, chậc lưỡi.
-Chỉ lo cho hai thằng bé. Dầm mưa dãi nắng thế này, rủi chúng
ốm đau nằm xuống thì lấy gì mà thang thuốc!
-Mười mấy năm trời, quen thuộc ở đây, tôi không nỡ bỏ đi...
Tía nuôi tôi đáp, giọng rầu rầu.
-Nhà ở đâu tức quê hương ở đó. Vậy trước kia thì ông và tôi ở
đâu? ông sao câu nệ quá vậy? Tôi vì hai đứa nhỏ... chứ không, tôi cứ mặc cho
ông muốn ra sao đó thì ra...
Tía nuôi tôi không đáp. ông ngồi cầm cái tẩu dài quăn queo,
gõ gõ thành tẩu vào gót chân, thỉnh thoảng lại đưa mắt nhìn một vài giọt mưa từ
trên mui lá rơi lộp độp xuống giữa khoang thuyền ẩm ướt. Đêm hôm đó, chúng tôi
chống thuyền ra sông. Cả gia tài chúng tôi, ngoại trừ mấy cái nồi cái niêu và một
ít quần áo cũ, thì chỉ còn có mỗi chiếc thuyền này thôi. Lúc ngang qua chỗ ngôi
mộ Võ Tòng, tía nuôi tôi dừng thuyền lại, bước lên bờ. Thằng Cò sợ ma, ngồi sát
vào bên má, lại còn ôm thêm con chó vào lòng. Tôi bước lên theo tía nuôi tôi.
Trong bóng tối lờ mờ, dưới vòm trời ảm đạm le lói một vài ngôi sao xa lắc, ông
đang ngồi phệt bên nấm mộ, đầu cúi xuống, bàn tay lơ đễnh đưa đi đưa lại nhổ những
cọng cỏ dưới chân. Nghe tiếng chân giẫm sột soạt trên cỏ ướt, tía nuôi tôi ngước
lên nhìn và vẫy tay ra hiệu cho tôi ngồi xuống bên ông.
-Tôi và thằng cháu lên từ biệt chú nó đây!
Tía nuôi tôi ngó vào ngôi mộ nói bằng giọng mũi ngạt ngạt
Tôi chỉ dùng được có một mũi tên trong số hai mươi chiếc chú
đã trao cho tôi... Nhưng tôi chắc rằng dưới suối vàng, chú đã có thể ngậm cười
mà yên nghỉ...
Dứt khoát tôi không tin rằng người chết có linh hồn. Nhưng
cái giọng trầm trầm của tía nuôi tôi đang nói với ngôi mộ, đồng thời tôi chợt
nhớ lại bàn tay vuốt cặp mắt trừng trừng khiến cho đôi mắt khép lại, chính con
người ấy đã nằm xuống dưới đất ngay trên chỗ tôi đang ngồi đây, việc ấy đã làm
cho tôi thấy rờn rợn. Tía nuôi tôi dặng hắng mấy tiếng rồi quay sang tôi:
-Thằng An có nhớ con vượn bạc má của chú Võ Tòng không?
-á, nó đâu rồi, tía?
Tôi hỏi lại ông như vậy, chứ tôi đã đinh ninh là nó chết
trong trận cháy rừng rồi.
-Con vật ở rừng còn có nghĩa, huống chi con người. Hôm Tây đốt
rừng, chú Võ Tòng đi vắng, buộc nó ở lều. Nó bứt xích chạy thoát được. Người ta
trông thấy một đoạn xích bị giật đứt, còn lủng lẳng ở cổ nó mà đoán ra như thế...
Sau đó nó trở về ngồi trên nền cũ, không ăn không uống gì rồi chết rũ xương ở
đó. Có người qua ngang đấy, về thuật chuyện lại cho tía nghe, con ạ.
-Hôm tía với con từ trong rừng chống xuồng về, có qua ngang
đó. Lúc bấy giờ nó chưa về, tía nhỉ? Giá nó về thì mình gặp nó rồi.
Tía nuôi tôi đứng dậy thở dài, rồi bảo tôi xuống thuyền. ông
còn quay lại, lom khom nhặt hòn đất đặt lên ngôi mộ rồi mới bước theo tôi. Nước
mỗi ngày một chảy xiết, và dòng sông càng đi tới càng mở rộng mênh mông. Đứng
trước mũi thuyền chèo cập bờ bên này mà nhìn sang bờ bên kia, chỉ thấy một vệt
dài xanh thẫm của rặng dừa nước lờ mờ trên đầu ngọn sóng. Chúng tôi đi ròng rã
ba ngày ba đêm, chỉ trừ những lúc phải dừng lại thổi cơm ăn, còn thì cứ luân
phiên nhau chèo. Mấy hôm liền, trời vẫn nắng gay gắt. Mặt sông lao xao phản chiếu
ánh mặt trời như một dòng thủy ngân cuồn cuộn trôi về hướng biển. Mây đen từ
chân trời đùn lên, vẩn hình mặt quỷ, rủ nhau quần tụ một chỗ không chịu bay đi.
Rồi dông kéo tới ào ào, mưa như trút nước xuống như thác đổ hơn một ngày đêm.
Sóng gầm thét không lúc nào ngớt. Chúng tôi phải chui thuyền vào núp trong một
rạch lá dừa nước um tùm, chờ cho dứt cơn mưa dữ mới quay ra sông chèo đi.
Một buổi chiều, tía nuôi tôi cho thuyền cập lại bên ngôi quán
lá cất nhoai ra bờ nước. Chúng tôi buộc thuyền vào trụ sàn cầu, nơi đã có hai
chiếc tam bản lớn của những ông khách ngồi trong quán cắm sào đỗ lại đó từ bao
giờ. Thấy có người đến, họ ngóng cổ ra nhìn rồi lại quay vào tiếp tục cuộc rượu
bày trên chiếc bàn tròn giữa quán. Tía nuôi tôi rướn người bước lên sàn cầu lát
toàn bằng những cây mắm nhỏ. Cứ mỗi bước ông đi tới, những cây mắm lại kêu lắc
rắc dưới chân. Con Luốc lập tức phóng lên theo. Tôi gọi "Luốc! Luốc!"
và lấy cớ đuổi theo giữ con chó để nhảy lên theo nó. Một con kỳ đà bị trói chặt
bốn chân bằng sợi dây thép, nằm khoanh gần chỗ cửa. Con Luốc xô tới, chồm chồm
vào con kỳ đà sủa váng lên. Bấy giờ, ba người khách rượu mới quay ra, gật gù, vẻ
như muốn chào làm quen với tía nuôi tôi. Một ông cụ già cởi trần, râu quăn
queo, vận xà-rông đen, đầu bịt khăn lụa đỏ, người cao lớn như tía nuôi tôi, đứng
lên cất giọng ồm ồm:
-Chào ông bạn!
Hai người đàn ông kia hơi có tuổi, gầy gò, đầu cạo trọc như
nhau, mỗi người vận một cái khố nhuộm màu vỏ cây. Họ giống nhau một cách rất buồn
cười, chỉ khác là một người thì cao quá, còn một người lại thấp quá. Cả hai
cùng đứng lên gật đầu chào tía nuôi tôi. Tía nuôi tôi đứng lại nhìn họ một lát
rồi bỗng nhiên ông chếch cánh tay phải lên, tay trái áp vào ngực, nghiêng người
tới trước, nói cách trịnh trọng:
-Kính chào các ông bạn!
Ba người kia vội vã cùng một lúc đưa tay lên chào đáp lễ y
như kiểu chào của tía nuôi tôi. Tôi đứng ngớ ra nhìn, ngạc nhiên quá đỗi. Về
sau, mới biết đó là lối chào ra mắt của các phường săn cá sấu khi gặp nhau muốn
tỏ tình thân. Chủ quán là một ông già lùn tịt, lật bật như con rối, từ sau bếp
chạy ra, vác một gộc cây đặt xuống cạnh bàn rượu, giọng lăng xăng:
-Mời ông khách! Mời ông ngồi xuống đây!
Mùi thịt nướng từ trong bếp bay ra khét lẹt. Và khói cũng từ
trong cái bếp lò thấp thoáng sau quầy rượu cuồn cuộn bay ra, như làn khói đốt đồng
cỏ tháng tư.
-Cháy miếng thịt mất rồi!
Tôi vội kêu lên, và thản nhiên không chú ý tới mọi người ngồi
đó, cứ đi thẳng một mạch vào bếp. Tôi cầm cái que cời dập bớt than, rồi trở gắp
thịt đặt lên nướng phía bên còn chưa chín.
-Để đó cho qua, chú em!
ông chủ quán chạy vào, vừa nói líu ríu bằng giọng khen ngợi vừa
với tay cầm chai rượu dựng bên cạnh lò. Tôi đáp cách bình thản, nhưng cũng rất
tự hào:
-Cháu giúp bác một tay, được mà!
Rồi tôi mỉm cười một mình, chợt nhớ tới "thằng bé hầu rượu"
trong quán dì Tư Béo. ông cụ già bịt khăn lụa đỏ đỡ lấy chai rượu trên tay chủ
quán, rót đầy vào một cái bát lớn đặt giữa bàn mà họ đã uống vơi gần quá nửa.
-Kính mời ông bạn! Làm một hớp cho ấm bụng. Chẳng hay ông bạn
từ đâu tới?
Tía nuôi tôi đáp, giọng từ tốn:
-Tôi là người vùng U Minh thượng... Giặc Pháp đã vào tới đó.
Nay lênh đênh phiêu giạt... Còn chưa biết về đâu.
Hai người đàn ông đầu cạo trọc đưa mắt nhìn nhau. Tía nuôi
tôi bưng bát rượu lên nhấp một hớp; chừng như đoán ra ý họ, ông đặt bát rượu xuống
bàn, nói chậm rãi:
-Phải, tôi là người U Minh thượng. Nhưng nguồn cội tận xứ Tiền
Giang kia. Thuở còn trẻ tráng, tôi cũng đã lặn lội nhiều năm trong nghề hạ bạc.
Nghèo như chiếc lá rụng xuống dòng sông, nước trôi tới đâu mình theo tới đó. Bấy
nay tôi theo nghề rừng, chẳng qua cũng vì mưu sinh theo hoàn cảnh, chuyện đó có
chi là lạ...
Người đàn ông thấp lùn tức thời đứng phắt dậy, dang tay ra ôm
tía nuôi tôi, cười ha hả:
-Vậy thì huynh ông neo lại khúc này, trở về nghề cũ, chúng ta
hiệp nhau làm ăn, được chứ?
Tía nuôi tôi cười cười, chưa đáp ra sao. Tôi giúp ông chủ
quán dọn thịt nướng ra bàn và gọi thằng Cò lên xem ông giết thịt con kỳ đà. Tôi
cứ chạy ra chạy vào, khi thì quạt lửa, khi thì lấy tí muối ớt, khi thì rót thêm
mỡ rái cá vào đĩa thịt tự tôi tìm thấy trong bếp và mang ra bàn rượu. Tôi cảm
thấy mình bận rộn nhưng vui vẻ như thằng bé hầu rượu trước kia. Chẳng mấy chốc
mà họ đã uống cạn hai lít rượu, thứ rượu ngon nhất mà ông chủ quán bảo chỉ để
dành riêng cho khách quen sành sỏi. Rượu vào thì lời ra. Họ nói đủ thứ chuyện về
sông nước, và trong câu chuyện đã bắt đầu xưng hô anh anh chú chú cởi mở thân mật.
Dường như ba ông khách rượu ấy và tía nuôi tôi là những người bạn cũ, xa nhau
lâu ngày, giờ mới tình cờ gặp lại vậy. Khi biết ông bạn phương xa vừa tới có
"bà nội tướng" đang thổi cơm dưới thuyền, ông cụ già bịt khăn đỏ bèn
trịnh trọng bước ra sàn cầu, chắp hai tay trước ngực hướng vào mũi thuyền, sửa
giọng kính cẩn:
-Chẳng mấy thuở được gặp anh Hai... Xin kính mời chị Hai quá
bước lên quán, dùng một chén rượu mọn với anh em chúng tôi.
Má nuôi tôi "cám ơn" và từ chối năm lần bảy lượt
không xong, đành phải đội khăn bước lên quán. Món thịt kỳ đà nấu ca-ri nước cốt
dừa cũng vừa bưng dọn ra bàn bốc khói thơm lừng. Cả gia đình chúng tôi, ba ông
phường săn kỳ dị và ông chủ quán lùn tịt cùng ngồi vào bàn, dùng bữa cơm tối một
cách hết sức vui vẻ. Cả con Luốc cũng có phần một bát thịt to tướng trộn cơm
nguội mà ông chủ quán đã có "nhã ý" dọn riêng cho nó trước sàn cầu.
-Bao giờ giặc tấn công tới đây, chúng ta sẽ liệu. Còn bây giờ,
làm nghề cứ lo làm nghề. Còn phải nghĩ tới miếng sống chứ. Tôi nói vậy, liệu có
phải không chị Hai?
Người đàn ông cao lêu nghêu bắt đầu làm quen với má nuôi tôi
bằng câu mở đầu ấy. Người đàn ông thấp lùn vội nói tiếp theo:
-ắt chị Hai vui lòng để anh Hai cùng đi làm ăn với chúng tôi
chứ?
Má nuôi tôi cầm bát lên tay, nhìn tía nuôi tôi:
-Xin các chú hỏi ông nhà tôi. Chứ tôi là phận đàn bà!
ông chủ quán ngứa miệng, vung hai tay lên:
-Chị Hai còn theo xưa quá. Người ta nói nhất vợ nhì trời mà!
Mọi người đều cười, khiến ông chủ quán cứ xoay quanh hết nhìn
người này đến nhìn người khác, lắc la lắc lư ra vẻ đắc chí với câu pha trò của
mình lắm. Không biết có phải vì có mặt má nuôi tôi mà các ông già trở nên lịch
sự, vui vẻ và hoạt bát hẳn lên không? ông cụ già bịt khăn đỏ hỏi má nuôi tôi một
cách khoan thai:
-Ngày xưa, chị Hai cũng theo nghề câu chứ?
Má nuôi tôi lắc đầu:
-Tôi sợ lắm. Chỉ có ông nhà tôi thôi. Tôi chỉ câu lòng tong
cá chốt, chứ thứ đó tôi sợ lắm!
Người đàn ông cao lêu nghêu nhếch mép cười, bàn tay đưa lên
gãi gãi cái đầu trọc nhẵn thín:
-Nói không phải phô phang với chị Hai và các anh tôi đây, chứ
thuở mười ba mười bốn tuổi, tôi đã theo ông nội tôi đi bắt cá sấu như bắt cá
lóc rộng trong khạp vậy thôi. Vào mùa khô, chúng tôi lội vào rừng cỏ, men theo
những cái bàu giữa rừng tìm cá sấu. Hồi đó, cá sấu còn nhiều lắm. Bàu nào cũng
có. Không nhiều thì ít. Tệ lắm cũng năm bảy con trở lên. Bà con quen gọi là ao
cá sấu. Chọn được ao sấu nào có nhiều sấu hoa cà rồi, chúng tôi mới phát sậy,
phát cỏ rũ xuống phơi nắng vài ngày cho khô. Dùng thuổng đào một đường nhỏ từ
mé ao lên rừng, càng xa bờ càng cạn dần, chừng mươi thước. Sau đó mới ôm sậy, cỏ
khô thả xuống cho phủ kín mặt bàu và ném lửa đốt cháy...
Thằng Cò buột miệng hỏi:
-Cho sôi nước, cá sấu chạy lên bờ phải không chú?
-Cậu em này đoán gần đúng! Nhưng không phải vậy đâu. Nước
lênh láng cả bàu, làm gì sôi được? ừ, mà nếu mình thả bổi khô xuống thật dày,
thả liên tục, đốt nóng nước thì nó cũng có thể chạy lên... Thả bổi xuống rồi,
mình ném lửa đốt cháy. Khi lửa tắt thì mặt bàu đã bị phủ kín dưới một lớp tro
dày chừng hai ba đốt tay. Cá sấu trừng lên thở thì bị tro cay mắt, trầm lâu thì
ngạt, mà hễ bị tro cay mắt là y như trự ta đập đuôi chạy chạy lên bờ tức khắc.
Mà không phải chạy lung tung đâu. Chúng nối đuôi nhau trườn theo con đường
mương đào sẵn, bò lên rừng. Thấy người, con nào cũng há họng ra, toan đớp. ông
nội tôi bèn đút vô họng nó một khúc gỗ mớp, dài chừng ba tấc. Nó liền táp phậm
một cái, hai hàm răng dính chặt lại như ngậm cục kẹo mạch nha, không há ra được.
Tôi lập tức cầm mác xắn trên sống lưng, chỗ giáp chân sau, để cắt gân đuôi. Cái
đuôi chỉ còn có nước đập qua đập lại nhè nhẹ, như đuổi ruồi, chứ còn quật nổi
ai? ông cháu tôi bèn lấy dây lạt dừa trói thúc ké hai chân sau lên lưng, còn
hai chân trước thả tự do. Khớp mõm xong rồi, bỏ đấy, bắt con khác... Ui
chao!... Ui chao! Có bàu, chúng tôi bắt vài chục con trong một ngày. Cứ ba con
thì dùng bốn đoạn tre buộc xâu lại một hàng ngang, như kiểu ta cặp gắp nướng chả.
Rồi lấy hai cây tre dài kiền tất cả, xếp dính liền thành một dọc dài, hướng đầu
chúng nó tới trước. Sau đó mới phát sậy, dọn một đường như đường cộ trâu từ bàu
chạy thẳng ra bờ sông nào gần nhất. Thế là hai ông cháu tôi nhảy lên đứng giữa
lưng bầy quỷ sứ đó, mỗi người cầm một cây mun quơ quơ đập vào hai cây tre dưới
chân, hét lên. Chúng nó cứ theo đường dọn trống ấy, kéo nhau đưa nguyên đàn, bò
ra bờ sông. Bao giờ cũng có thuyền lái mua chực sẵn ở đó. Gặp khi chẳng có lái
mua thì mình chịu khó tháo ra, khiêng từng con bỏ xuống thuyền của mình, chở đi
bán... ấy, ngày xưa chúng tôi săn cá sấu dễ ợt như vậy đó, anh Hai chị Hai ạ!
Tía nuôi tôi ngồi nghe chăm chú. Chắc câu chuyện của người
phường bạn vừa kể đã gợi lại trong ông những ngày mình còn là anh thợ câu lận đận
ở mạn Tiền Giang. Chẳng vậy mà ông đã chống hai khuỷu tay lên mặt bàn, hai bàn
tay to lớn ngửa ra đỡ lấy cằm, mặt đăm chiêu hồi lâu:
-ở vùng tôi, bắt được một con cá sấu có khi phải mất vài ba
con vịt sống làm mồi. Nhiều công mà cũng tốn kém. Dạo đó, năm nào trên Biển Hồ
hoặc Nam Vang cũng chở cá sấu về bán ở các chợ tỉnh dọc sông Cửu Long, hết bè
này tới bè khác. Hàng trăm con một chuyến bè. Thịt cá sấu bé trên ấy trắng lắm,
lại giòn, mùi thơm ngon như thịt gà, bán cũng rẻ. Mình lâu lâu mới bắt được một
con, cốt lấy tấm da, chứ thịt bán chẳng đặng mấy đồng tiền... Tranh nhau không
lại với giá thịt cá sấu trên Biển Hồ chở xuống, nhiều lúc thua, buồn cũng chẳng
thiết nữa.
ông già bịt khăn đỏ bưng tô rượu lên uống một hớp, đưa mu bàn
tay quệt ngang mép, khà một tiếng sửa giọng:
-Bọn chúng tôi ở đây không câu vịt mồi. Nhưng cũng tốn kém đấy.
Vì câu đèn mà! Lại phải trầm mình dưới nước, neo người cả đêm. Nhưng bắt được
con nào là đáng tiền con nấy, anh Hai ạ! Chỉ lo cái thời buổi khó khăn, ba thằng
giặc Pháp khốn kiếp nó có chịu để yên cho người ta làm ăn đâu!
Người đàn ông đầu trọc cao lêu nghêu rướn cổ lên như con kỳ
đà, hỏi tía nuôi tôi:
-Anh Hai có quyết ở lại đây với bọn tôi không? Tại ngã ba Bàn
Cùi, gần năm nay cá sấu biển về nhiều lắm. Có con to gần bằng chiếc ghe lườn.
Nhờ đất đai âm trạch, cho anh Hai trúng mươi chuyến câu thì lo gì chẳng kiếm được
cái vốn kha khá!
Tía nuôi tôi còn giọng phân vân:
-Bỏ nghề cũng lâu... Tôi e nhát tay!
ông già bịt khăn đỏ tức thời cầm chai rượu giơ lên:
-Sông lạ đăi người câu mới. Anh em chúng tôi sẽ tiếp giúp cho
mượn đồ nghề. Anh Hai khứng chứ?
Tía nuôi tôi đưa mắt nhìn sang má nuôi tôi. Má nuôi tôi chỉ
nói cách lơ lửng:
-Cái đó tùy ông!
Tía nuôi tôi cầm chai rót một nhểu rượu vào lòng bàn tay to lớn
của mình, chìa ra giữa bàn. Ba bàn tay của ba người phường săn cá sấu lần lượt
đập lên nghe bách... bách... Thế là tía nuôi tôi đã nhập phường rồi đó.
Chiếc thuyền to đang cưỡi sóng tiến vào mỗi lúc một gần bãi.
Tía nuôi tôi mình trần, quấn khố, miệng ngậm cái tẩu dài quăn queo, khói thuốc
lá từ trong nõ tẩu cứ phùn phụt bay tạt về phía sau. ông già Tư bịt khăn đỏ
cũng mình trần, vận chiếc xà-rông đen, đứng trước mũi thuyền cạnh tía nuôi tôi.
Càng vào gần đến bãi, ông già Tư càng huơ tay huơ chân, tỏ vẻ rất đắc chí. Người
đàn ông đầu trọc cao lêu nghêu thì đứng chèo sau lái. Trên chót ngọn sào dài cắm
vào một lỗ cột chèo, có buộc lá cờ đỏ hình đuôi nheo bay lất phất.
-Được con cá sấu khá to, bà con ơi!
ông già bắt tay lên mồm gọi vọng vào xóm nhà trên bờ. Những
người lố nhố đứng trên bờ và đám trẻ con phường chài đang chơi xếp vỏ ốc cạnh mấy
người đàn bà vá lưới vụt reo lên, rối rít chạy xuống bãi.
-Sửa soạn chia thịt nghe, bà con!
-Đã kiếm được rượu chưa, mà toan chia thịt!
Vài người xắn quần lên tận bẹn, chạy tất tả ra ngoài mé nước.
Mấy người đàn bà vá lưới cũng buông gai buông nhợ bỏ đấy, chạy ùa ra bãi. Chiếc
thuyền trườn mũi lên bãi cát, để lại những đám bọt sóng trắng nháo nhào chạy
lùi ra sau lái. Người trên thuyền chưa kịp quăng dây xuống thì bọn con nít đã
trèo phốc lên be rồi. ại chao, con cá sấu to quá! Mình dài có tới hơn năm mét.
Chỗ quãng bụng giữa, ước chừng một vòng rưỡi tay người lớn ôm mới giáp. Cái mõm
dài sọc, đầy răng chơm chởm của nó đã bị khớp chặt lại bằng một sợi dây thép.
Hơn hai tháng nay, riêng tía nuôi tôi đã bắt được mười hai con rồi. Thường thì
da cá sấu màu xanh rêu pha bùn mốc, dưới lườn bụng hơi trắng, khắp mình trên mọc
gai, có chỗ vằn hoa lốm đốm. Con cá sấu này, màu da xám ngoét như da cây bần,
gai lưng mọc chừng ba đốt tay, trông rất dễ sợ. Cái đuôi dài -bộ phận khỏe nhất
của con vật kinh khủng dùng để tấn công đã bị cắt gân, trói xếp vào một bên mạn
sườn. Bốn chân cũng bị thít chặt vào cái đuôi hoàn toàn mất tác dụng ấy. Con cá
sấu hung tợn nằm im như chết giữa lòng thuyền.
Mọi người xúm lại, dùng đòn buộc dây da trâu khiêng con cá sấu
vừa đánh được, đưa lên bãi. Phải có đến mười hai người đàn ông lực lưỡng mới
khiêng nổi nó và đưa vào tới bờ. Má nuôi tôi cũng đi theo tốp người khiêng. Những
người đàn bà lăng xăng ngă giá mua nguyên cả con cá sấu cứ bám sát bên má nuôi
tôi. Mấy chị phụ nữ tre trẻ trong xóm cũng xoắn theo chân má nuôi tôi, người
nào người nấy đều sẵn sàng dao rổ, chia phần thịt mang đi bán. Thằng Cò dắt con
chó đi mua rượu về, thấy bố còn ngồi trong bóng thuyền dựa bãi với các ông bạn
phường săn bèn chạy vù đến vứt phịch chai rượu xuống cát rồi quày quả chạy đuổi
theo đám người nhốn nháo đằng kia.
-Khi tôi phóng mũi lao trúng con cá sấu này, thì tôi nghe đằng
xa nước động dữ dội. Chắc còn một con nữa to hơn. Nhất định là sấu cặp!
Tía nuôi tôi nói xong, còn tặc lưỡi mấy tiếng ra bộ tiếc rẻ lắm.
ông già Tư ghé vào tai tía nuôi tôi:
-Sắp hết mỡ rồi! Không biết tìm đâu ra bây giờ?
Tôi rất sợ cái "đèn nghề" của tía nuôi tôi. Người
ta đồn rằng: đèn ấy đốt bằng mỡ người. Cá sấu bắt hơi đèn từ xa lắm. Nó rất
thèm thứ mỡ cháy này. Hễ ngửi mùi là nó bơi tìm đến tức khắc. Theo như lời ông
già Tư, thì những tay phù thủy giang hồ người Mã Lai vượt vịnh Thái Lan đưa thứ
mỡ ấy sang bán. Giá rất đắt! Tôi nghĩ: Mỡ nào mà không cấu tạo chủ yếu bằng
thành phần chất béo? Mỡ lợn không được à? Tại sao phải dùng đến mỡ người một
cách man rợ như vậy? Có lần, tôi đã chất vấn tía nuôi tôi về thứ "đèn nghề"
khủng khiếp ấy. Tía nuôi tôi nói:
-Đó là thói tục cổ lỗ, mê tín dị đoan. Người xưa thấy cá sấu
hay ăn thịt người, tưởng dùng mỡ người tất dễ câu nó, chứ chắc gì đã là mỡ người
thật.
Tía nuôi tôi đã nhiều lần kể cho thằng Cò và tôi nghe rành rọt
về nghề săn cá sấu. Tôi nghe đến thích mê. Nhưng có nghèo, thà bắt con tôm con
tép ăn, chứ tôi chẳng dám theo cái nghề nguy hiểm này. Săn cá sấu thường phải
chọn những đêm tối trời. Nhất là những ngày nắng to, có trận mưa vừa tạnh, gió
chỉ hơi rao rao mát gợi làn da, khí trời vẫn còn thấp và nặng. Mặt sông rộng
mênh mông, phẳng lặng như mặt hồ. Tía nuôi tôi người trần, chỉ quấn cái khố nhỏ,
hai cánh tay cặp trên hai ống tre bè buộc chặt hai đầu bằng dây thép. ông trầm
mình dưới nước, chỉ ló người từ phần giữa ngực lên trên. Cứ thế, thả trôi đi.
Hai chân thỉnh thoảng quạt nhè nhẹ, lái cho bè xuôi đứng giữa lòng sông. Cá sấu
chỉ gắp người bơi ngang, hoặc dùng đuôi quật ngã người ngồi trên xuồng cho rơi
xuống nước rồi gắp chạy đi, chứ chúng khó gắp được người bơi đứng. Tay phải tía
nuôi tôi cầm một cây lao bằng gỗ mun. Gỗ mun kỵ thịt cá sấu. Đâm vào thịt con
cá sấu, cây mun cứ hút sâu vào, làm con vật nhức buốt không chịu nổi. Cán lao
buộc vào một đầu dây, phải biết lòng sông sâu bao nhiêu sải nước mà sắm sợi dây
cho vừa đủ, không thừa quá mà cũng không thiếu quá. Dây thừa quá thì phải mất
công lặn xuống kiếm lâu mới gặp con cá sấu trúng thương, mà dây ngắn quá thì nó
kéo phao chìm dưới nước, chẳng biết đâu mà mò. Đầu kia sợi dây buộc vào một cái
phao bằng gỗ mớp. Phải khoanh sợi dây cho khéo, để khi con cá sấu lôi dây chạy,
sợi dây cứ xoay vòng tự động tháo ra, không vướng.
Trên phao kiền chặt cây đèn nghề, tựa như cái đĩa sắt con sâu
lòng, thả ngọn bấc vào cái đèn "mỡ người" ấy, thắp cháy lên. Lại phải
cắm trên phao một cây cờ đỏ, để dễ nhận thấy từ xa (còn có lý do huyền bí nào
đó nữa không thì tôi không được biết). Thả cái phao trôi trước mặt người thợ
săn chừng hơn một với tay, được giữ cỡ bằng một sợi dây nhỏ. Tía nuôi tôi thả
trôi theo nước như vậy, có khi hàng hai, ba giờ liền. Bao giờ ông cũng phải uống
một tô nước mắm cốt, để trầm dưới nước lâu không bị nhiễm lạnh. Trong đêm tối mịt
mùng, trên dòng sông mênh mông chỉ lấp lóe "ánh đèn thiêng" và đôi mắt
sáng ngời của tía nuôi tôi... Đang trôi xuôi, cả người ông bỗng bị xô lùi lại bởi
một luồng nước tống lại cực mạnh. Nghe khì... ì... một tiếng, rồi một cái bướu
to bằng cái bát trừng lên. Con cá sấu nổi lên, há họng thè lưỡi liếm mỡ cháy
trong cây đèn. Nhanh như chớp, tía nuôi tôi nín thở, dồn hết lực vào cánh tay,
phóng mạnh cây lao đâm vào giữa họng nó, và lập tức buông phao ra. Con cá sấu
trúng thương, đập đuôi ầm ầm, lộn lên lộn xuống, quẫy mạnh làm cho mặt sông nổi
dậy sóng cồn. Rồi nó lôi dây, mang phao chạy. Tía nuôi tôi "ì..." một
tiếng. Thuyền chèo yểm hộ người thợ săn cá sấu bao giờ cũng theo song song bên
bờ, phòng trường hợp bất trắc có thể bị đôi ba con nổi lên tấn công cùng một
lúc thì xông ra tiếp ứng. Nghe tiếng "ì..." họ biết đã đâm trúng cá sấu
rồi. Thế là thuyền chèo bay ra, đón tía nuôi tôi lên. Con cá sấu chạy đến đâu,
dây tháo theo đến đó. Nó cố gắng chịu đau lắm thì cũng chỉ chạy nổi đôi ba
nghìn thước là cùng. Rồi dần dần đuối sức, không chịu đau nổi nữa, nó tìm một
cái vịnh sâu nào đó, trầm xuống đáy. Sáng hôm sau, hai chiếc thuyền của phường
săn chia nhau trèo cặp hai bên bờ để tìm cái phao. Bao giờ người đã phóng cây
lao đâm trúng cá sấu cũng là người lặn xuống đáy sông trói nó. Như vậy, mới được
hưởng nguyên phần mình cái bao tử của con cá sấu khi mổ ra... Mỗi lần tía nuôi
tôi mang vòng dây thép lặn xuống, thằng Cò theo thuyền cứ mếu máo chực khóc.
Còn tay chân tôi thì cứ phát run lên. Tía nuôi tôi lặn rất lâu mới trồi lên thở.
Rồi lại kéo đôi lặn trở xuống buộc nó, để anh em phường thợ khác trên thuyền
kéo nó lên. Thường sau mỗi lần như vậy, tía nuôi tôi bao giờ cũng làm vài hớp
rượu cho lại sức. ông đưa bàn tay lạnh móp lên chùi những giọt rượu chảy xuống
chòm râu đóng đầy rêu nước xanh lè, ngó tôi và thằng Cò, cười khà khà:
-Hai đứa bay sao cứ khéo lo! Con cá sấu đã bị cây mun đâm, nhức
buốt, tê liệt cả mình mẩy rồi. Nó bám sát đáy vịnh, tao lặn xuống sờ đầu nó, nó
cũng không dám động cựa. Cứ nằm im, chịu phép cho tao khớp mőm, trói lại. Cây
mun đâm vào mắc giữa họng rồi, nó cắn ai được nữa? Càng cựa quậy thì càng đau
thôi!
Một cơn gió từ mặt sông bất thình lình thổi thốc vào bờ, khiến
cho lá cờ đuôi nheo đỏ buộc trên đầu con sào giật nảy lên, reo vù vù. Tôi ngồi
bên tía nuôi tôi và ông già Tư, nhìn xuống dòng sông mênh mông đang cuồn cuộn
chảy, hình dung ra những con quái vật kinh khủng đang bơi lặn dưới đó, càng thấy
những con người nhỏ bé ngồi quây quần trong bóng thuyền ghếch mũi lên bãi cát
đây thật vĩ đại biết bao nhiêu... "Hỡi thiên nhiên dữ dội và nham hiểm,
ngươi hãy coi chừng. Không một sức mạnh nào ẩn chứa trong ngươi mà con người
không khuất phục nổi đâu!" Tôi chỉ chực muốn thét lên như vậy. May sao đó
chỉ là những ý nghĩ còn nằm trong đầu óc thơ bé của tôi mà tôi chưa thốt ra
thành lời được. Không thì có lẽ ông già Tư và tía nuôi tôi sẽ cho là tôi phát rồ
cũng nên.
CHƯƠNG 16 - QUA SRÓC MIÊN
"Nghèo như chiếc lá rụng xuống dòng sông, nước đưa tới đâu mình
theo tới đó! Huống chi bây giờ lại gặp lúc giặc đánh lung tung..."
Hôm chúng tôi gặp phường săn cá sấu ở quán rượu ông già lùn,
nghe tía nuôi tôi nói như vậy, tôi cứ tưởng là ông nói cho có nói vậy thôi. Đâu
ngờ ông nói vậy mà có vậy thật. Giạt vào xóm chài chưa đầy ba tháng, ngôi lều mới
dựng lên chưa ấm chỗ, má nuôi tôi chưa thuộc khắp mặt những người đàn bà quanh
quẩn ở khúc sông này, thì chúng tôi lại trở về cuộc sống lênh đênh. Mấy hôm
nay, dân đánh lưới hàng về cứ nhao lên là Tây sắp tiến vào vùng U Minh hạ, theo
đường con sông này. Ca-nô do thám của nó đã thập thò ngoài vàm sông Cán Cạy. Những
buổi trời lặng gió, tiếng tàu giặc chạy xình xịch tận ngoài vịnh biển vọng thấu
tận đây, nghe rõ mồn một. Buổi chiều hôm kia, ca-nô xích hầu của nó tắt máy thả
trôi theo nước vào tới vịnh Bần Cùi, bắt mất hai người câu tôm. Sáng hôm sau,
hơn tiểu đội giặc cải trang giả làm thường dân, bơi xuồng thọc sâu vào đầm Le
Le, đã bị dân quân tự vệ phục kích bắn chết mấy thằng. "Con đầm già"
ngày nào cũng vè vè lượn sát xuống ngọn cây và bữa nay nó dắt hai chiếc tàu há
mồm vào sắp tới đây rồi. Khói nhà cháy đã dựng lên từng bựng ở mạn Bần Cùi.
Thiên hạ đã nhốn nháo tản cư. Tía nuôi tôi đã quyết định ở lại đây.
Giặc tới thì theo anh em dân quân tự vệ, du kích đánh lại nó.
Không lẽ cứ chạy măi. Ai cũng chạy thì thà dâng đất này cho nó, bày chuyện đánh
chác làm gì? Giặc sắp tới bên nách. Lại không may cho gia đình chúng tôi là việc
thằng Cò bị đau chân, còn rên la nằm đấy. Nó theo đám trẻ phường chài lội dọc
theo bãi đi thụt bắt cá bồng trong bẹ dừa nước, không may đạp nhằm cá mặt quỷ.
Nọc độc của con cá quái ác đã hành nó sốt mê man, bàn chân phù lên như chân
voi. Má nuôi tôi cuống lên, cứ khóc giục tía nuôi tôi phải đi.
-Đi đâu bây giờ?
Tía nuôi tôi cau mày, nói bằng một giọng giận dữ bất lực. Má
nuôi tôi chùi nước mắt, lạnh lùng buông thõng một câu:
-Hừ! ông mê ba con cá sấu của ông thì ông cứ ở đây. Tôi đóng
bè chuối tôi chở hai thằng nhỏ đi!
Gương mặt buồn não của má nuôi tôi dần dần tái nhợt, đôi môi
bà run run mấp máy như muốn nói gì mà không nói ra được. Tía nuôi tôi ngồi xệp
xuống chõng, thở ra một hơi dài. ông đăm đăm nhìn thằng Cò đang đắp chiếu nằm
thiêm thiếp hồi lâu, rồi lặng lẽ đứng dậy bịt khăn lên đầu, xách mác đi lột bẹ
dừa nước chẻ lại quai chèo. Vào lúc xế chiều thì chiếc thuyền nhỏ của chúng tôi
rời bến. Xóm chài lạnh ngắt. Bầy ruồi xanh bâu vào mấy con cá chết nằm dọc theo
bãi, thấy động bay kêu vu vu. Tía nuôi tôi chèo lái. Tôi chèo mũi. Thuyền đi đã
xa mà tôi cứ ngoái nhìn về những bóng nhà quạnh quẽ chơ vơ nơi đầu xóm cũ. Hàng
cột phơi lưới mỗi lúc một mờ dần trong khói sóng chiều hôm... Cũng như chuyến nổi
trôi ngày trước, chúng tôi cứ thay nhau chèo ròng rã mấy ngày mấy đêm liền
không nghỉ. Lắm lúc tôi có cảm giác như chèo mãi mà thuyền vẫn còn đứng y
nguyên một chỗ. Trông chỗ nào cũng không khác chỗ nào. Hai bên bờ, dừa nước mọc
san sát. Gió thổi khua động tiếng lá rì rào và tiếng sóng lách chách vỗ vào mạn
thuyền cùng tiếng chèo đưa kĩu kịt tạo thành một nhịp điệu buồn triền miên, một
thứ hòa thanh rũ rượi khiến tôi nghe vừa nhớ nhà mà cũng vừa buồn ngủ. Nhiều
lúc nhớ tới anh Ba thủy thủ, tôi tự hỏi:"Không biết trên bước đường phiêu
lãng, anh có trải qua những ngày buồn bã thế này không?" Rày đây mai đó...
Trên rừng, dưới biển, đồng ruộng, núi cao, bất cứ chỗ nào mình cũng đi tới.
Càng đi thì càng gặp nhiều chuyện lạ, khiến cho mình say mê. "Xưa kia có một
con tàu nhỏ Nó chưa hề lướt sóng ra khơi... Này hỡi những chàng thủy thủ Đang
xông pha trên ngọn sóng cao vời!" Giọng nam trầm của anh Ba thủy thủ như cứ
dập dềnh trôi theo chiếc thuyền nhỏ của tôi. Tôi mơ màng thấy những ốc đảo xanh
rờn giữa sa mạc, mênh mông một màu cát vàng rừng rực, có mấy người lái buôn ngồi
bên những con lạc đà, mệt mỏi nhìn bóng Kim Tự Tháp nhô vút lên ở chân trời...,
những hải cảng tấp nập hành khách với đủ các kiểu y phục và màu da khác nhau, từ
trên những con tàu khổng lồ xuyên đại dương chen chúc nhau theo bậc cầu thang
xách va-li xuống bến... Những biển băng lạnh cóng trắng xóa một màu tuyết,
không còn phân biệt đâu là mặt đất đâu là chân trời, có những người Et-xki-mô mặc
áo lông gấu sù sụ ngồi trên xe trượt tuyết do hươu kéo chạy như bay...
Phải rồi, tất cả những quang cảnh chói lòa màu sắc rực rỡ in
trong xấp bưu ảnh của anh Ba thủy thủ đã cho tôi ngày trước đó, đều đẹp và có một
sức hấp dẫn, khiến cho mình càng muốn đi tới. Nhưng nó xa xôi quá, biết bao giờ
mình có thể tới được. Trên dòng sông mênh mang giờ đây, chỉ có nỗi buồn khiến
tôi thiếu nhiều lúc cứ muốn biến thành con panh-goanh thôi... Thuyền chúng tôi
cứ xuôi theo dòng nước. Hai bên bờ sông, hết lá dừa nước thì đến gai chà là. Rừng
cây chà là với những ngọn san sát giao nhau, mặt trời phải khổ sở lắm mới chiếu
xuyên qua được những tàu gai dày đặc, để lọt một vài đốm sáng xuống mặt đất
sình lầy đen kịt. Nhiều con rắn mai gầm khoang đen khoang vàng nằm khoanh như
những đống dây thừng, nghếch mồm lên gốc cây chà là mọc sát mé nước đã bị sét
đánh cháy thành than. Đôi khi tôi quơ mái chèo gạt lên mình rắn mà nó cũng
không thèm chạy. Hết rừng chà là lại đến đồng cỏ. Bốn mặt chân trời, sắc cỏ nối
liền với sắc trời xanh biếc. Loài cỏ cao xứ nhiệt đới cao lấp mất đầu người, mọc
lưu niên trên những đầm lầy, bất cứ mùa nào cũng vươn thẳng ngọn xanh reo hát
dưới mặt trời. Lâu lâu, gió từ hướng biển thổi vào lướt chạy vi vu trên đầm cỏ;
gió chạy đến đâu, cỏ rạp mình cúi xuống đến đó, làm cho cánh đồng cứ gợn lên
như sóng nổi. Trên mặt biển cỏ xanh rờn ấy, những đàn cò trắng chấp chới bay,
không biết cơ man nào mà kể xiết. Tôi dừng chèo, quay vào khoang thuyền:
-Cò ơi! Mày gắng ngồi dậy coi. Cò bay trên đồng cỏ nhiều lắm
đây, Cò này!
Thằng Cò biết tôi trêu nó, nhưng cũng tốc chiếu ra, xoay người
nằm sấp trong mui nhìn lên cánh đồng. Nó nhoẻn miệng cười không thành tiếng.
-Chưa ăn thua gì đâu! Còn nhiều hơn thế nữa...
Rồi nó lại xoay người nằm co lại, kéo chiếu đắp lên. Tôi nghe
nó rên ư... ư... dưới lớp chiếu tùm hum, thương nó không để đâu cho hết. Má
nuôi tôi thở dài:
-Không biết chừng nào mới tới sróc Miên để kiếm thuốc cho thằng
bé.
Tía nuôi tôi đưa tay lên che mắt nhìn vào chân trời, nơi có
những đầu cây thốt nốt vươn thẳng lên mờ mờ xa tít, trông chỉ to hơn cái nấm.
-Chèo một mạch hết con nước này thì đến thôi. Gắng lên, nghe
An!
Tôi không còn điều khiển được hai cánh tay nữa. Nó cứ nặng
trình trịch và cứng như hai khúc gỗ lắp vào đôi vai đã mỏi dừ của tôi. Nhưng
khi nghe tía nuôi tôi hồ hởi nói thế, tôi cũng cười:
-Con còn chèo được mà. Chưa mỏi lắm đâu, tía ạ!
Má nuôi tôi từ trong mui lom khom bước ra, bảo tôi:
-Vào nghỉ tay đi. Để đó cho má!
Và bà cầm lấy guốc chèo, đẩy tôi vào mui. Tôi nằm xuống bên
thằng Cò, chưa kịp xoay trở lấy thế nằm cho ổn thì cơn buồn ngủ đã kéo tới khép
chặt đôi mi mắt nặng trịch của tôi lại rồi...
Quá trưa hôm đó, chúng tôi vào đến sróc Miên. Những giồng cát
liên tiếp nối nhau chạy dọc theo hai bờ con sông nhỏ mà chúng tôi đang rẽ vào.
Hơi nóng rừng rực từ giồng cát bốc lên làm hoa cả mắt. Nắng đốt vàng ngọn cỏ, thiêu
vàng lá tre. Lâu lâu có một luồng gió từ xa chạy tới, cuốn từng vầng cát lớn
bay mù mịt, phủ mất bóng những đàn bò uể oải đứng gặm cỏ khô dưới những tầng
cây thốt nốt, khiến cho tôi có cảm giác những con bò mộng to tướng ấy đã bị cuốn
theo vầng cát, bay lên biến mất giữa trời. Bọn trẻ chăn bò trần truồng tắm dưới
mé sông, lặn ngụp, té nước vào nhau, reo hò inh ỏi. Đứa nào đứa nấy da cứ đen
bóng như bôi nhọ mỡ. Một thằng bé tóc xoăn như bụt ốc, cầm roi bò đứng trên bờ,
không tắm nhưng cũng cứ trần như nhộng. Giữa cái bụng tròn như quả bóng bơm
căng của nó, một sợi dây nịt mới toanh thắt ngang. Tự nhiên, tôi cũng cảm thấy
bụng mình như đau đau tức tức. Thấy tôi liếc mắt ngó, nó nhe răng ra cười. Hàm
răng trắng nőn của nó đều tăm tắp như hạt ngô rất đẹp. Trên con đường mòn như rắn
lượn dắt vào xóm, có chiếc xe trâu bánh gỗ kéo lúa đi cót... két... cót...
két... Một người đàn ông cởi trần, đầu không đội mũ, vận chiếc xà-rông đỏ đi
trước xe lúa, tay cầm sợi thừng dắt theo con trâu. Hai người đàn bà còn trẻ, dong
dỏng cao, đều mặc một kiểu áo bít bùng may hở cổ xuống gần giữa ngực, mỗi người
đội trên đầu một vò nước bằng đất sét nung, chậm răi bước sau xe. Hai cái bóng
phụ nữ cổ thon thon hình cổ lọ, dường như lúc nào cổ họ cũng rướn lên để giữ
thăng bằng cho hai chiếc vò đất, nổi bật lên đẹp như những tượng phù điêu bằng
đá khắc hình các vũ nữ Khơ-me mà tôi đã từng thấy trong ảnh ở một quyển du ký
nói về đất Cao Miên. Cảnh vậy chung quanh đều chìm trong một màu vàng buồn bã,
rừng rực hơi nắng; chỉ có ngọn những cây thốt nốt cao lêu nghêu là còn giữ được
sắc lá màu xanh. Thuyền chúng tôi đi qua một dãy nhà vách phên trống hoác. Một
con chim chài chài sắc lông xanh có bộ ức đỏ tuyệt đẹp đậu trên cái giàn cúng
ma cất dựa bờ sông, nghe động tiếng mái chèo, giật mình bay vụt lên, mất hút giữa
nền trời xanh. Chúng tôi đậu thuyền lại bên một doi cát, sửa soạn bữa cơm chiều.
Tía nuôi tôi thay áo, bịt khăn mới, dắt tôi lên chùa xin thuốc
cho thằng Cò. Chúng tôi đi được một quăng thì con Luốc phóng lên bờ chạy theo.
Đuổi mãi nó cũng không quay lại, tôi đành phải cho nó đi theo bên tôi. Tới ngôi
nhà sàn đầu xóm nằm thấp thoáng trong một lũy tre, tía nuôi tôi đứng ở cửa gọi
vọng vào hỏi thăm lối lên chùa. Người chủ nhà mặc may-ô trắng, vận xà-rông tơ kẻ
ca-rô đen, đứng trên sàn chỉ trỏ về phía những cây xoài cổ thụ, nói lăng líu một
hồi. Hai người nói với nhau bằng tiếng Miên, tôi không biết họ nói gì, phần thì
bị những con chó từ dưới sàn nhà chạy túa ra sủa vang, nên cứ tưởng như hai người
đang cãi nhau chuyện gì. Chúng tôi đi tới đâu, chó sủa rộ lên tới đó. Không biết
bao nhiêu là chó, con nào con nấy dữ như quỷ sứ, cứ chồm chồm ra, cậy gần nhà
chực xông vào cắn con Luốc.
-Sao họ nuôi chó làm gì mà nuôi lắm vậy, hở tía?
Tôi phát bực, hỏi tía nuôi tôi.
-ờ, nuôi mà như không nuôi... Người Miên theo đạo Phật, không
ai ăn thịt chó. Cũng không bán. Ai xin thì họ cho không vậy thôi. Chó đẻ ra bao
nhiêu cũng nuôi mặc cho nó lớn, sống thế nào cũng mặc.
Con Luốc đi bên tôi, đuôi nó không cụp xuống tỏ vẻ sợ hăi, lại
còn cứ ve vẩy, tuồng như không màng đến bọn nhãi nhép tong teo kia. Chỉ cần tôi
ra lệnh một tiếng, là nó xông ra cho bọn chó kia một bài học nên thân ngay.
Ngôi chùa sáu mái lợp ngói đỏ uốn cong vút, xây trên nền đá như kiểu kiến trúc
chùa chiền ấn Độ, sừng sững đứng trên một ngọn đồi cát, chung quanh mọc toàn những
cây xoài cổ thụ to có đến ba bốn người ôm. Chúng tôi lần theo những bậc thang
xây bằng đá tổ ong, đi lên chùa. Hai bên bậc thang, ở mỗi quãng mặt bằng phải
đi bình thường một lúc trước khi bước lên một tầng thang cao hơn, có bệ xây
hình rắn bảy đầu xòe ra như cái quạt khổng lồ. Ngọn đồi cũng thấp thôi, nhưng
cách kiến trúc đường lên bậc thang khiến tôi khi bước đi cứ có cảm giác là chùa
ở trên chỗ cao lắm, vì luôn luôn phải ngửa cổ lên mới nhìn thấu được bên trên.
ông Lục cụ chưa già lắm, khoảng ngoài năm mươi tuổi thôi. ông không mặc quần áo
kiểu sư ta mà choàng quanh người bằng cả một súc lụa vàng, lẹp xẹp đôi hài cỏ,
tươi cười bước ra tiếp tía nuôi tôi. Tía nuôi tôi chắp hai tay vái Lục rất kính
cẩn. Thấy tía nuôi tôi làm gì, tôi cũng bắt chước làm theo như vậy. Hai người lại
nói chuyện với nhau bằng tiếng Miên, làm tôi đứng ngớ ra nhìn. Tía nuôi tôi
theo Lục vào chùa. Tôi vừa toan bước theo thì tía nuôi tôi quay lại, bảo:
-Không được dắt chó vào chùa. Con muốn vào thì phải bắt nó nằm
ngoài sân kia!
Tôi không thể nào bảo được con Luốc cho nó chịu nằm yên. Hễ
tôi quay lưng đi thì nó lóc cóc chạy theo, nên tôi đành phải đứng ngoài cửa
ngóng vào. Tía nuôi tôi đập đập chân giũ bụi trên góc phản, rồi lên ngồi xếp bằng
tròn trên chiếc chiếu hoa rất đẹp, đối diện với Lục. Tôi thấy ông Lục ân cần
rót nước mời tía nuôi tôi, rồi hai người lại tiếp tục nói lăng líu gì với nhau.
Tôi đưa mắt nhìn sâu vào trong, thấy trên bàn thờ là những ông bụt cũng gần giống
như bụt ở các chùa Việt Nam vậy thôi. Duy chỉ có điều khác là dưới bàn thờ nào
cũng chất lổm nhổm những chiếc nồi đất mới, đựng xương người đã hỏa thiêu, trên
nắp buộc vuông vải trắng, và bên hông nồi có dán mảnh giấy nhỏ đề tên họ ngày mất
của người đó. Từ một ngôi nhà nhỏ bên phải, bọn trẻ con đang líu ríu cúi đầu
vái một ông Lục trẻ, rồi chúng cắp sách xô ra, tranh nhau bước xuống bậc thang
chạy về. Tía nuôi tôi cầm gói giấy vàng bước ra, còn ngoái lại vái ông Lục cụ một
lần nữa. ông bước ra theo tiễn chân khách, hình như toan nói điều gì rồi lại
thôi. Khi tía con chúng tôi ra đến đầu bậc thang ông "dớ!" lên một tiếng,
khiến tía nuôi tôi giật mình quay lại. ông Lục cụ điểm ngón tay trỏ vào khoảng
không, nói thật chậm nghe rõ từng tiếng một:
-Rừ xây choòng cáp, boòng lá trrâu xoa!
Tía nuôi tôi "pát!pát!" luôn mồm và vái ông Lục cụ
một cái thật dài trước khi nắm tay tôi dắt đi.
-Nói chuyện gì trong ấy mà lâu vậy tía? -Tôi hỏi.
-Đủ mọi thứ chuyện. Lục hỏi thăm Tây đánh vào tới đâu rồi, hỏi
chúng ta từ đâu tới. -Tía nuôi tôi đáp cách vui vẻ.
-Có thuốc cho thằng Cò không tía?
Tía nuôi tôi chìa gói giấy vàng ra:
-Thuốc đây. Hay lắm! Làm bằng một trăm thứ cứt chim và xương
rắn độc. Trong uống ngoài xoa, khỏi ngay thôi. Lục không lấy tiền, chỉ biếu
thôi.
-Lúc nãy ổng nói gì với tía đấy?
Tía nuôi tôi ngó tôi một lúc rồi mới đáp:
-Con thì cái gì cũng hỏi. ừ, Lục bảo:
"Tre muốn chặt thì gai phải đốn!" Không nói thẳng
đâu, mình phải suy ngẫm ra mà hiểu lấy... Tức là muốn đánh được thằng Tây, thì
phải trừ bọn tay chân của nó trước!
-Hay quá tía nhỉ! ờ, tụi nhỏ nhỏ đi học kinh ở chùa vừa ra
lúc nãy phải không hở tía?
-Học chữ đấy. Các sróc Miên đều không có trường học. Trẻ con
đến học ở chùa thôi. ông Lục cụ là người oai quyền nhất sróc đấy!
-Gặp được ông Lục cụ tốt thì may, tía nhỉ!
Tía nuôi tôi chỉ "ừ" rồi cười cười nhìn tôi bằng cặp
mắt khó hiểu.
Chúng tôi lặng lẽ trở về thuyền, mặc cho những bầy chó đuổi
theo vờn chung quanh con Luốc sủa đến váng óc. Sau khi uống thuốc và bôi thuốc
được một lúc, thằng Cò đã ngồi dậy, tỉnh như không. Quả là món thuốc thần diệu
thật! Tía nuôi tôi liền bọc một gói nanh cá sấu trở lên chùa đền ơn Lục cụ, bảo
là để Lục tiện nó làm quân cờ... Má nuôi tôi thì cứ bảo nên ở nán lại một ngày
nữa hãy đi để hôm sau bà lên chùa lạy Phật đã, nhưng đang gặp lúc thuận nước
thuận gió, nên tía nuôi tôi không thể chiều bà được. Thế là vào khoảng đầu canh
một đêm đó, chúng tôi lại tiếp tục cuộc hành trình mà tôi chưa biết sẽ về đâu.
CHƯƠNG 17 - SÂN CHIM
Ở vùng này, những chiếc thuyền nhỏ cỡ thuyền chúng tôi, chẳng
ai làm buồm. Có lẽ để tránh bớt sự cồng kềnh, choán chỗ, và để cho thuyền được
nhẹ. Khi cần, cứ chặt một tầu lá dừa nước mọc theo bờ sông cắm lên thuyền là đã
có ngay một chiếc thuyền buồm rồi. Thuyền chúng tôi đổ ra dòng một con sông lớn,
với bốn cánh buồm thiên nhiên kiểu đó, cắm trong bốn lỗ cột chèo. Má nuôi tôi
ngồi giữ lái. Gió đưa chiếc thuyền buồm xanh của chúng tôi lướt chạy ào ào như
chiếc ca-nô. Chạy một mạch hai ngày hai đêm như vậy, đến ngang một cái chợ, tía
nuôi tôi mới "hạ buồm" vứt xuống lòng sông trả lại cho bà Thủy.
Người ta gọi chợ này là chợ Mặt Trời. Có lẽ vì chợ nhóm tại
doi đất ngã ba vàm một con kênh có tên là kênh Mặt Trời. Còn thằng Cò thì cứ bảo
tôi đây là chợ chim. Hôm qua, chợ chưa nhóm. Tía nuôi tôi còn cắm sào ở bên chợ,
hy vọng có thể bán nốt mấy tấm da cá sấu còn vướng chỗ trong thuyền. Suốt ngày,
ánh nắng rừng rực đổ lửa xuống mặt đất. Bốn phía chân trời trống huếch trống
hoác. Từ lúc mặt trời mọc cho tới khi mặt trời lặn, không kiếm đâu ra một bóng
cây để tránh nắng. Con kênh Mặt Trời còn phơn phớt màu đào buổi sáng, giữa trưa
bỗng hóa ra một dòng thủy ngân cuồn cuộn lóa mắt, rồi dần dần biến thành một
con suối lửa lúc trời chiều. Năm ba ngôi quán lèo tèo ngó cửa ra một khoảng đất
rộng. Trên mặt đất nứt nẻ, vết cứt chim khô trắng khắp nơi, lông chim theo gió
cuốn lên xoáy tít trong nắng như những cánh bông gòn rụng bay lấp lóa. Từ sáng
sớm, ghe xuồng đã vào cập bến chợ, đậu san sát như lá tre. Mũi xuồng này buộc nối
vào lái thuyền kia, đen kín mặt nước. Tiếng chim kêu râm ran trong đám ghe xuồng
và trên sân chợ. Tía nuôi tôi ngồi uống rượu một mình trong ngôi quán ồn ào,
toàn những đàn bà và trẻ con đang húp cháo chim xì xà xì xụp. Mấy tấm da cá sấu
hoa cà dựng trên ngạch cửa, bên lối ra vào. Mùi chim nướng từ trong những ngôi
quán bay ra thơm phức. Tiếng dao thớt khua lộp cộp trong tiếng chim kêu xé màng
tai, làm cho cái chợ nhỏ lạ lùng này thêm phần náo nhiệt. Má nuôi tôi xách rổ
lên chợ mua chim non và trứng để làm thức ăn dự trữ mang theo thuyền. Thằng Cò,
vì bàn chân hãy còn sưng, không được phép lên bờ, phải ngồi lại trong mui ôm
con Luốc ngó lên chợ, coi bộ thèm thuồng lắm. Tôi cầm bát lên mua một tô cháo
chim băm hành củ rắc hạt tiêu bưng xuống cho nó, rồi quày quả nhảy lên chợ
ngay. Con Luốc cũng muốn theo tôi. Nó cứ vẫy đuôi kêu ư... ử... Nhưng thằng Cò
cứ ôm cổ giữ nó lại. Nó tức mình, quay ra mấy xuồng chim đậu chung quanh gắt ngậu
xị. Chim nhốt trong các giỏ tre nghe tiếng chó sủa, hoảng hốt đập cánh kêu loạn
lên. Tôi đi một mình, luẩn quẩn theo những người bán chim trên chợ. Ngay dưới bờ
sông chỗ tôi đứng, có mấy người đàn bà đang mặc cả, cãi nhau trên một chiếc
thuyền to. Giỏ cần xé chất ngổn ngang, đựng đầy các thứ trứng chim. Từng xâu
chim trắng, chim đen buộc chân, dồn chật trong khoang: những con chim bị trói
chen nhau ngóc cổ lên, con này mổ vào lưng con kia, đập cánh phành phạch. Một
thằng bé gánh tòn ten hai con chim gì lạ quá, cổ dài như cổ rắn, to gấp rưỡi
con vịt bầu, sắc lông màu vàng xám.
-A, bán chim gì đó, mậy?
Tôi men theo, tay chắp đít hất hàm hỏi nó.
-Con điêng điểng mà cũng không biết!
Cặp môi nó trề ra, cái mặt vênh vênh nhưng bộ tướng nhỏ thó
và đôi mắt chân thật của nó nhìn lâu cũng rất dễ mến.
-Bộ mày ở đâu mới tới hả? -Nó hỏi tôi.
-ờ, mới tới. Xứ tao cũng... vô khối chim. Nhưng không giống
như chim ở đây, thành ra tao mới hỏi mày chứ!
Tôi nói phét với nó như vậy, để nó đừng chê tôi là
"quê". Coi ra nó cũng khoái. Nó trỏ từng con chim, gọi tên cắt nghĩa
cho tôi nghe, ý như muốn khoe với tôi rằng nó là "tổ sư Bồ Đề" ở
đây... Những con chàng bè đồ sộ như con ngỗng, mỏ to bằng cổ tay cứ gõ vào nhau
lộp cộp, làm rung rung mảnh da mềm thòng xuống tận cổ như cái diềm lụa mỡ gà.
Những con giang sen cẳng cao lêu nghêu, nặng hàng năm bảy cân thịt, bị khớp mỏ,
tréo cánh đứng giữa đám sếu đen sếu xám mào đỏ, đầu không ngớt nghiêng qua
nghiêng lại ngó theo mấy con ó biển đang lượn vòng trên kênh. Cò thì không biết
bao nhiêu mà kể. Cò ngà, cò trắng, cò xanh, cò ma... buộc từng xâu, chất nằm
hàng đống. Một đám đàn bà trẻ con đang ngồi lúi húi vặt lông chim cồng cộc gần
đấy.
-Mày muốn kiếm tiền xài không?
Thằng bé kéo tay tôi, bảo nhỏ.
-Nhổ lông chim mướn đấy. Mày muốn làm thì lại nói với cái
thím đội nón lông chim ó rằn đang đứng chống nạnh hai quai trước quán kia kìa!
Thấy tôi lắc đầu, nó hích khuỷu tay vào hông tôi:
-Chê à? Làm một ngày, kiếm bộn tiền. Mày không lấy tiền thì lấy
thịt chim về ăn. Lông chim bán riêng, thịt bán riêng mà! Chỗ này mươi giỏ le đặt
bên cạnh một đống lồng nhốt đầy chim trích. Những con trích lông xanh, mỏ đỏ
như quả ớt ngắn, cặp chân hồng như đôi đũa sơn, coi bộ tốt mă nhất. Con nào con
nấy lộng lẫy như con gà tre, cứ ngước cổ kêu trích... trích... ché..., nghe đến
nhức màng tai. Chỗ kia lổm ngổm hàng sọt chim cồng cộc lông đen như nhọ chảo,
không ngớt cựa quậy, mổ vào nhau kêu léc chéc.
-Chim ở đâu mà họ bắt nhiều vậy?
Bấy giờ tôi mới đành chịu hỏi thằng bé ấy.
-Chim bắt ở sân chim chứ đâu, mậy!
-Sân chim ở đâu?
-ở chỗ nó ở chứ còn ở đâu!
Thằng bé cười cười, ra vẻ thích thú lắm. Dường như nó chỉ chờ
nghe tôi hỏi để được trả lời, nhưng vẫn còn làm bộ làm tịch, chưa vội bảo ngay.
Hồi lâu, nó mới nói:
-Mấy người đàn bà mặc áo cộc tay đứng dưới tam bản chở trứng
chim kia, là dân hốt trứng chim đồng. Trứng le le, trứng trích, trứng cò... đẻ
rơi trong đồng cỏ, không có chủ. Ai gặp nấy hốt. Hốt trứng tự do mà! Còn cái
ông ngồi bán quạt, tết bằng lông ó rằn, lông chim già đãy ở chỗ mấy con sếu
kia, là chủ vườn cò. Mày biết vườn cò hả? ừ, vườn cò... thì chỉ có cò ở thôi.
Không nhiều bằng sân chim đâu. Sân chim thì vô phương nói được. Đủ các thứ
chim. Mày thấy mới biết! Mặt trời đã lên cao. Nắng bắt đầu gay gắt. Cái chợ
chim nhóm giữa trời đã có phần bớt huyên náo. Bỗng nghe tiếng hu... hu... từ
đâu vẳng tới. Mọi người còn đang ngơ ngác ngóng lên trời thì từ dưới đám thuyền
có tiếng thét vang dội:
-Máy bay giặc, bà con ơi!
Chợ nhốn nháo như vỡ đám làm chay. Người ta quýnh quáng chạy
tới chạy lui lộn xộn trên khoảng đất trống. Không một lùm cây, bụi cỏ để lấy chỗ
nấp tạm. Nhiều người đàn bà hãi quá, nhảy bừa xuống kênh tìm một chỗ ẩn mình dưới
các gò đất dựa bờ. "Con đầm già đi guốc" bay là là trên mặt sông, vút
qua ngang chợ. Nó cất lên cao, rồi từ từ quay lại lượn trên chợ một vòng, thả
ra những cục gì đen đen. Tôi nằm úp mặt xuống đất, nín thở chờ nghe tiếng nổ.
-Giặc thả truyền đơn, bà con ơi!
-Đừng sợ, nó không bắn đâu!
-Ai dám nói nó không bắn đó!
Tiếng kêu thét, cãi nhau nghe ran chung quanh. Tôi nghiêng đầu
ngó lên. Những cục đen đen từ trong chiếc thủy phi cơ thả ra ban năy đã tan
trong gió, bay trắng trời, lấp lánh trong nắng như vảy cá. Gió thổi giạt những
tờ truyền đơn bay đi xa lắc. Ghe xuồng vội vă chèo đi. Giầm chèo va vào nhau,
khua lốp cốp. Chim kêu điếc tai. Tiếng hú, tiếng ì, tiếng gọi nhau ran mặt nước.
Khi tôi chạy xuống bến, trèo lên thuyền thì đã thấy bộ da cá sấu vắt nằm trước
mũi. Tía nuôi tôi cũng vừa quay xong quai chèo lái. Tôi chụp lấy guốc chèo mũi,
quạt mạnh mấy cái, đưa thuyền quay ra cho trôi xuôi theo dòng. Trong chốc lát,
ngoảnh lại thì cái chợ chim đã biến mất chỉ còn trơ khoảng đất trống và dãy
quán lụp xụp đứng buồn thiu.
-Không biết giặc rải truyền đơn nói cái gì?
-Mươi hôm trước, nó cũng rải trên chợ Cái Rắn. Nó gọi mình đầu
hàng!
-Bộ đội mình đâu, sao không đánh nó?
-Chỗ nào cũng chờ bộ đội à? Vậy chứ bà con mình cụt tay hết rồi
sao? Nó vô đây, vác dao vác rựa chém nó ra từng khúc như khúc chuối, cho bỏ cái
thói cướp nước người ta.
-Nghe có lính Bắc Bộ ngoài Cụ Hồ đưa vô rồi mà!
-ờ, cũng có nghe đấy!
-Sao lại cũng có nghe? Vô nhiều lắm rồi. Tướng Vũ Đức chỉ
huy. Đâu còn ở mạn trên Phước Long.
Mặt sông vang dậy tiếng người tranh nhau nói. Ai cũng muốn tỏ
ra thông thạo. Ai cũng nói, thành ra không ai nghe ai... Thuyền chúng tôi cứ
xuôi theo dòng nước chèo đi. Tía nuôi tôi định đi về hướng Năm Căn. ông bàn với
má nuôi tôi:
-Năm Căn là xứ tiền rừng bạc biển. Sông rạch hiểm trở. ở đó
toàn là rừng. Rừng đước, rừng mắm, rừng bần... Tây khó bề tới. Về đó, ta có thể
đi đốn củi mướn cho các lò than...
Má nuôi tôi nói xuôi lơ:
-Cái đó tùy ông. ở đâu thì ở, miễn được yên nơi yên chỗ mà
làm ăn. Chứ lênh đênh mãi thế này, tôi e có ngày hai đứa nhỏ chết lép xác thôi!
Mờ sáng hôm sau, tôi còn đang ngủ trong mui bỗng nghe thằng
Cò gọi giật tôi dậy:
-Mau ra coi, An ơi! Gần tới sân chim rồi. Đã sáng bét mà mày
còn ngủ à?
Tôi giụi mắt bò ra khoang trước, vốc nước dưới sông lên rửa mặt.
Trên vệt rừng đen ở chỗ con sông ngoặt như lưỡi cưa cá mập chơm chởm dựng đầu
răng nhọn đã ửng lên màu mây hồng phơn phớt. Từ chỗ vệt rừng đen xa tít đó,
chim cất cánh tua tủa bay lên, giống hệt đàn kiến từ lòng quả đất chui ra, bò
li ti đen ngòm lên da trời. Càng đến gần, khi bóng chim chưa hiện rõ hình đôi
cánh, thì quang cảnh đàn chim bay lên giống như đám gió bốc tro tiền, tàn bay
liên tri hồ điệp. Những bầy chim đen bay kín trời, vươn cổ dài như tàu bay cổ
ngỗng lướt qua trên sông, cuốn theo sau những luồng gió vút cứ làm tai tôi rối
lên, hoa cả mắt. Mỗi lúc tôi càng nghe rõ tiếng chim kêu náo động như tiếng xóc
những rổ tiền đồng. Và gió đưa đến một mùi tanh lợm giọng, khiến tôi chỉ chực
nôn ọe. Chim đậu chen nhau trắng xóa trên những đầu cây mắm, cây chà là, cây vẹt
rụng trụi gần hết lá. Cồng cộc đứng trong tổ vươn cánh như tượng những người vũ
nữ bằng đồng đen đang vươn tay múa. Chim già đăy, đầu hói như những ông thầy tu
mặc áo xám, trầm tư rụt cổ nhìn xuống chân. Nhiều con chim rất lạ, to như con
ngỗng đậu đến quằn nhánh cây. Một con điêng điểng ngóc cổ lên mặt nước, thoạt
trông tôi tưởng là một con rắn từ dưới nước cất đầu lên. Khi thuyền chúng tôi
chèo đến gần, nó bèn ngụp xuống lặn mất. Chốc sau đã lại thấy nó nổi lên gần bờ,
mỏ ngậm con tôm xanh gần bằng cổ tay còn đang vung râu cựa quậy. Tôi mê quá! Mà
thằng Cò cũng mê như tôi. Hai đứa cùng ước: phải chi mình được dừng thuyền lại
đây vài hôm để bắt chim thì phải biết! Chim từ những đâu tập trung về ở đây,
nhiều không thể nói được! ở đây, còn có rất nhiều giống chim lạ, không thấy bày
bán ở chợ Mặt Trời. Chúng đậu thấp lắm, đứng dưới gốc cây có thể thò tay lên tổ
nhặt trứng một cách dễ dàng. Tôi chồm người ra be thuyền, kêu to:
-Dừng lại đây bắt một mớ chim đi, tía!
-Sân chim có chủ, không bắt của người ta được đâu! -Tía nuôi
tôi bảo.
-Bộ họ nuôi nó sao? Chim trời cá nước, ai bắt được nấy ăn chứ!
-Đúng là không ai nuôi. Nhưng chim về ở trên vùng đất của ai
thì nó thuộc về tài sản của người đó. Họ phải đóng thuế hằng năm như đóng thuế
ruộng đấy, con ạ. Thấp thoáng trong xa, bốn năm người quảy giỏ, cầm sào trúc có
ngoéo sắt đang ngoéo cổ chim non xuống bắt. Coi bộ dễ hơn bắt gà nhốt trong chuồng.
Tiếng chim kêu vang động bên tai, nói chuyện không nghe nhau được nữa. Thuyền
chúng tôi chèo đi hơn ba nghìn thước rồi mà hãy còn thấy chim đậu trắng xóa
trên những cành cây gie sát ra sông.
CHƯƠNG 18 - RỪNG ĐƯỚC CÀ MAU
Nếu như có ai bảo tôi quay trở lại một nơi nào đó -một bến chợ
hoặc một xóm làng chẳng hạn, nơi mà tôi đã rời đi cách đó chừng dăm ngày -trở lại
bằng đúng con đường cũ mà không được hỏi ai đường đi, thì tôi sẽ chịu thôi. Chỉ
mới đi qua một lần thì dứt khoát là không thể nhớ và không dễ dàng nhận ra con
đường cũ. Trông chỗ nào cũng như chỗ nào. Càng đổ gần về hướng mũi Cà Mau thì
sông ngòi, kênh rạch càng bủa giăng chi chít như mạng nhện. Trên thì trời xanh
dưới thì nước xanh, chung quanh mình cũng chỉ toàn một sắc xanh cây lá. Tiếng
rì rào bất tận của những khu rừng xanh bốn mùa, cùng tiếng sóng rì rào từ biển
Đông và vịnh Thái Lan ngày đêm không ngớt vọng về trong hơi gió muối -thứ âm
thanh đơn điệu triền miên ấy ru ngủ thính giác, càng làm mòn mỏi và đuối dần đi
tác dụng phân biệt của thị giác con người trước cái quang cảnh chỉ lặng lẽ một
màu xanh đơn điệu. Từ khi qua Chà Là, Cái Keo... rồi bỏ con sông Bảy Háp xuôi
thuyền trôi theo dòng, thì tôi bắt đầu có cảm giác trên đây... ở đây, người ta
gọi tên đất tên sông không phải bằng những danh từ mỹ lệ, mà cứ theo đặc điểm
riêng biệt của nó mà gọi thành tên. Chẳng hạn như gọi rạch Mái Giầm, vì hai bên
bờ rạch mọc toàn những cây mái giầm cọng tròn xốp nhẹ, trên chỉ xòa ra độc một
cái lá xanh hình chiếc bơi chèo nhỏ; gọi kênh Bọ Mắt vì ở đó tụ tập không biết
cơ man nào là bọ mắt đen như hạt vừng, chúng cứ bay theo thuyền từng bầy như những
đám mây nhỏ, ta bị nó đốt vào da thịt chỗ nào là chỗ đó ngứa ngáy nổi mẩn đỏ tấy
lên; gọi kênh Ba Khía vì ở đó hai bên bờ tập trung toàn những con ba khía,
chúng bám đặc sệt quanh các gốc cây. (Ba khía là một loại còng biển lai cua,
càng sắc tím đỏ, làm mắm xé ra trộn tỏi ớt ăn rất ngon). Còn như xã Năm Căn thì
nghe nói ngày xưa trên bờ sông chỉ độc có một cái lán năm gian của những người
tới đốn củi hầm than dựng nên, cũng như Cà Mau là nói trại đi theo chữ Tức khơ
mâu tiếng Miên nghĩa là "nước đen". Thuyền chúng tôi chèo thoát qua
kênh Bọ Mắt, đổ ra con sông Cửa Lớn, xuôi về Năm Căn. Dòng sông Năm Căn mênh
mông, nước ầm ầm đổ ra biển ngày đêm như thác, cá nước bơi hàng đàn đen trũi
nhô lên hụp xuống như người bơi ếch giữa những đầu sóng trắng.
Thuyền xuôi giữa dòng con sông rộng hơn ngàn thước, trông hai
bên bờ, rừng được dựng lên cao ngất như hai dãy trường thành vô tận. Cây đước mọc
dài theo bãi, theo từng lứa trái rụng, ngọn bằng tăm tắp, lớp này chồng lên lớp
kia ôm lấy dòng sông, đắp từng bậc màu xanh lá mạ, màu xanh rêu, màu xanh chai
lọ... lòa nhòa ẩn hiện trong sương mù và khói sóng ban mai. Chợ Năm Căn nằm sát
bên bờ sông, ồn ào, đông vui tấp nập. Vẫn là cái quang cảnh quen thuộc của một
xóm chợ vùng rừng cận biển thuộc tỉnh Bạc Liêu, với những túp lều lá thô sơ kiểu
cổ xưa nằm bên cạnh những ngôi nhà gạch văn minh hai tầng, những đống gỗ cao
như núi chất dựa bờ, những cột đáy, thuyền chài, thuyền lưới, thuyền buôn dập dềnh
trên sóng... Nhưng Năm Căn còn có cái bề thế của một trấn "anh chị rừng
xanh" đứng kiêu hãnh phô phang sự trù phú của nó trên vùng đất cuối cùng của
Tổ quốc. Những bến vận hà nhộn nhịp dọc dài theo sông; những lò than hầm gỗ đước
sản xuất loại than củi nổi tiếng nhất của miền Nam; những ngôi nhà bè ban đêm
ánh đèn măng-sông chiếu rực trên mặt nước như những khu phố nổi, và nơi đây người
ta có thể cập thuyền lại, bước sang gọi một món xào, món nấu Trung Quốc hoặc một
đĩa thịt rừng nướng ướp kiểu địa phương kèm theo vài cút rượu, ngoài ra còn có
thể mua từ cây kim cuộn chỉ, những vật dụng cần thiết, một bộ quần áo may sẵn
hay một món nữ trang đắt giá chẳng hạn, mà không cần phải bước ra khỏi thuyền.
Những người con gái Hoa kiều bán hàng lởi xởi, những người Chà Châu Giang bán vải,
những bà cụ già người Miên bán rượu, với đủ các giọng nói líu lô, đủ kiểu ăn vận
sặc sỡ, đã điểm tô cho Năm Căn một màu sắc độc đáo, hơn tất cả các xóm chợ vùng
rừng Cà Mau.
-ở lại đây thôi, ông ạ!
Má nuôi tôi vừa đưa mắt nhìn lên bờ vừa bảo tía nuôi tôi. Tía
nuôi tôi ngồi trước mũi thuyền thong thả nhồi thuốc vào nõ tẩu, nheo mắt cười với
tôi và thằng Cò:
-Hai đứa bay muốn ở đây hay đi nữa?
Giọng đùa vui hiền lành dễ dãi của tía nuôi, nhất là nét cười
bên hai khóe mắt của ông cứ mở ra, khiến tôi và thằng Cò cũng cười theo mà
không đứa nào trả lời.
-Không nên ở đây!
Tía nuôi tôi buông lửng một câu ngắn cộc bất ngờ, rồi dặng hắng
ngước lên nhìn má nuôi tôi dò hỏi.
-ông tính ra ngoài biển ở hay sao?
Dường như không chú ý tới sự phản ứng của má nuôi tôi, và
cũng không buồn nhìn bốn con mắt thô lố đầy ngạc nhiên của hai thằng nhỏ con mà
ông thừa biết rằng qua bao nhiêu chặng đường dài mệt mỏi, đều đang chờ đợi phút
dừng chèo, cắm thuyền là nhảy lên mảnh đất định cư hằng mong ngóng, tía nuôi
tôi cứ thong thả bật lửa lên đốt thuốc, bập bập hít mấy hơi dài.
-ở lại đây, nhưng không ở tại đây!
-ở chợ vui hơn chứ, tía?
Thằng Cò hong hóng ngó lên bờ, buột miệng kêu lên.
-Người ta đông như thế này mà... mình còn đi đâu nữa, hở tía?
Tía nuôi tôi như cười mà như không cười, sẽ sàng nói:
-Mình có phải là dân buôn bán đâu mà cần ở chợ!
-ông có cần mua sắm gì không? -Má nuôi tôi hỏi.
-Chưa vội. Để lo tìm chỗ cất nhà trước đã. Bà có muốn cho hai
đứa nhỏ lên chợ chơi thì ghé lại một chốc cũng được.
-Thôi, để lúc khác!
Bao giờ đang lúc căi nhau vì sự bất đồng ý kiến trên một vấn
đề nào đó với tía nuôi tôi, mà má nuôi tôi bỗng dưng quay ra nói một câu chuyện
gì khác, thì tôi hiểu ngay rằng bà đã chịu cái lý lẽ của tía nuôi tôi là đúng.
Thuyền chúng tôi không đỗ lại chợ.
Chúng tôi còn đi non một buổi nữa mới cập bến. Đây là một xóm
nghèo, nhà cất lưa thưa trên bờ một con rạch nhỏ dựa lưng vào rừng. Những người
thợ đốt than đã tiếp tay đốn cây, chặt lá dựng cho chúng tôi một ngôi lều nhỏ.
Ngày ngày tía nuôi tôi vác rìu theo thợ rừng đốn củi mướn cho các lò hầm than.
Má nuôi tôi thì xách giỏ đi bắt ba khía về làm mắm. Thằng Cò và tôi bữa nào
cũng rủ bọn trẻ trong xóm dắt con Luốc sục sạo vào rừng săn chồn, săn kỳ đà.
Cũng có khi chúng tôi mò ra tận sông cái lội xuống bãi bắt cua, bắt vọp. Chúng
tôi thường men theo con đường mòn của thợ đốn củi dắt nhau ra chơi dọc bờ sông.
Nơi nào cũng vậy, bọn trẻ nhỏ chúng tôi bao giờ cũng tìm ra được nhiều trò chơi
trên các bờ sông, cho đến lúc chán thì nhảy ngay xuống nước tha hồ bơi tắm. ở đấy
khi nước triều xuống, còn có những con cá biển đủ các loại màu sắc và hình thù
khác nhau, mắc cạn nằm trong những vũng nước trong veo. Con nào bé thì sau khi
đã nghịch chán, chúng tôi bụm nó trong tay mang ra thả xuống mé nước. Con nào
kha khá, ăn được thì chúng tôi xâu mang xách về. ở vùng rừng ngập nước của xứ
Cà Mau này, sông ngòi kênh rạch là đường giao thông chính. Hầu như ngày nào tôi
cũng mò ra đứng trên bờ sông hưởng cái thú xem đủ các kiểu thuyền sông thuyền
biển dong buồm cánh én chạy phăng phăng rẽ nước trắng xóa như tàu thủy -từ chiếc
xuồng vỏ gòn nhỏ, như con cá thòi lòi nhảy sóng rất tinh, cho đến chiếc ghe
chài đồ sộ như một quả đồi ì ạch, nặng nề, chỉ có thể nhờ tàu kéo dắt đi. Nơi bờ
sông, người ta chờ gọi thuyền mua thuyền bán, và lúc nào cũng có thể nghe được
tin tức chiến sự nhiều nơi của khách tứ phương trên những con thuyền từ khắp chốn
đi qua.
Và ở bờ sông, không những đôi lúc tình cờ có thể vớ được con
rùa con rắn một cách dễ dàng, tôi còn tìm gặp nhiều cây cỏ lạ không thấy có ở mọi
vùng chung quanh. Có nhiều thứ cây mỗi cái lá đẹp như một cái hoa, do dòng nước
mang hạt giống từ những vùng đất xa xôi nào đưa về tận đây nhờ bọt sóng đánh giạt
lên bờ. Một buổi sáng sớm, tôi và thằng Cò xách chai ra bờ sông chờ thuyền trà
vải đón mua dầu lửa. Bỗng nghe đằng xa có tiếng bọn trẻ con gọi nhau í ơi.
Trong ánh nắng nhẹ chưa xua tan hết lớp mù kéo lê trên đầu ngọn cỏ ướt đẫm
sương, bóng những người đàn ông xách xà beng, cầm chĩa, xách phảng chạy hộc tốc
về hướng đồng mả. Bao giờ có một điều bất thường, một biến cố gì vừa xảy ra thì
tức khắc bọn trẻ con kéo đến đó ngay. Tôi lôi thằng Cò ba chân bốn cẳng chạy
theo bọn nhỏ. Đám người cởi trần, lăm lăm dao mác trong tay, đang quây thành một
vòng tròn chung quanh một ngôi mả trên gò đất cao hiện ra trước mắt chúng tôi.
-Bọn con nít lui ra! Nó chưa chết đâu. Coi chừng cái đuôi...
Cái đuôi nó còn cựa quậy đấy!
Tiếng một người nào đó hét oang oang. Vòng người giãn ra rồi
lại thít lại như cũ. Bọn nhỏ vừa chạy giạt ra xa đã thoăn thoắt quay lại. Tôi
chắc mẻm rằng người ta vừa hạ một con beo con cọp gì đây, nhưng chưa kịp hỏi ai
thì nghe có tiếng một người nào đó trong đám đông kêu lên:
-Đúng là con kỳ đà rồi!
"Con kỳ đà thì một mình mình cũng đập chết được, làm gì
mà xôn xao dữ vậy? " Tôi vừa thầm nghĩ như thế, vừa chen lách đám người
đang thở hổn hển, nét mặt đầy kinh dị đứng ngáng trước mặt tôi, kiếm một chỗ trống
ghé nhìn. Vừa nhìn vào, tự nhiên người tôi bỗng bật lùi ra sau. Trời ơi, một
con kỳ đà kinh khủng, tôi chưa từng thấy và chưa từng nghe tía má nuôi tôi nói
đến bao giờ! Con vật bò sát to lớn vừa bị đâm chết, những vết thương toang hoác
trên lưng, bên bụng, giữa đầu tóe máu, máu còn chảy ròng ròng. Ngôi mả ai mới
chôn, nấm đất đắp chưa khô đã không may bị nó moi vào lưng gò ngang chân mộ. Và
từ cái hang rộng đào bằng hai chân trước ấy, con vật đã chui vào, cạy bật nắp
áo quan lên, thò đầu vào ăn thịt cái thây ma. Vết đất bị móng chân con vật cào
sâu lúc giẫy chết, bới tung lên, cùng những lùm cây bụi cỏ gãy rạp, nhàu nát,
nhốm đầy máu chung quanh, chứng tỏ rằng một cuộc chiến đấu ác liệt diễn ra nơi
đây giữa con vật kinh khủng với đám người chiến thắng cởi trần, mồ hôi mồ kê nhễ
nhại còn đang cầm xà-beng, cầm chĩa đứng vây quanh. Một ông cụ già nghiêng đầu
ngắm nghía con vật đã bị đâm chết, thở phào ra:
-Từ cha sinh mẹ đẻ đến giờ, tôi chưa gặp con nào lạ lùng khủng
khiếp như con này. Không phải cá sấu, mà cũng không phải là kỳ đà. Kỳ đà thì
mõm nhọn chứ! Cái mõm con này lại bằng, không ra hình đầu kỳ nhông mà cũng
không ra hình đầu rắn mối. Chắc nó là một con lai... gì đó!
-Nom như một con rồng. Nhất là khi nó cất đầu lên, cái lưỡi
dài đỏ hỏn le ra thụt vào nhanh như chớp, chẳng khác gì một con rồng đang phun
lửa. May mà tôi né kịp, không thì tôi đã chầu Diêm Vương rồi!
-ờ... Khi nó táp hụt thằng này, hai hàm răng chơm chởm của nó
bập vào nhau nghe một tiếng "cảng" rợn người.
Một người đàn ông bạo dạn thò tay vào nắn nắn những mụn gai
trên lớp da lưng rất dày đóng đầy bùn khô mốc của con vật lâu lâu còn giật giật
co co mấy cái, cũng lắc đầu bảo:
-Hồi nhỏ tôi có nghe ông nội tôi nói, nhưng tôi không tin,
nghĩ có lẽ là các ông già xưa hay vẽ ra bằng tưởng tượng... Không biết có chắc
là giống này chăng?
Con vật kinh khủng nằm đấy, không động cựa gì nữa. Mình nó
dài và to cỡ một chiếc xuồng ba lá, chỗ vòng bụng thòi ruột còn đỏ vì máu chảy
ri rỉ kia, phải đến hai vòng tay người to lớn ôm mới giáp.
-Chạy đi mời thầy giáo đi. Chắc ổng biết đấy!
Trong đám đông, sáng kiến của một người nào đó vừa gợi lên, lập
tức được hưởng ứng ngay:“Phải rồi! Phải rồi! Chạy đi tìm thầy giáo Bảy mau lên".
ở vùng rừng xa xôi này, thầy giáo Bảy là người trí thức duy nhất của xã, am tường
mọi việc. Lại nghe nói thầy là người có cảm tình với cộng sản, bị bọn thực dân
luôn luôn làm khó dễ, và chúng "đày thầy về tận cái xứ khỉ ho cò gáy này
cho muỗi đốt", nên thầy càng được phụ huynh học sinh nể trọng. Giỗ chạp,
cưới gả gì người ta cũng mời thầy giáo Bảy. Thậm chí những việc kiện tụng,
tranh chấp nhau mà làng xã không phân xử nổi, một ý kiến của thầy đưa ra có thể
giảng hòa được đôi bên. Cho nên trong trường hợp đứng trước con vật quái lạ
không ai rõ tông tích nó là con gì này, người ta chỉ còn đợi chờ ở sự hiểu biết
có tính cách quyết định của thầy giáo Bảy thôi.
-Ai lại để cái mùi người chết xông ra mà đứng quanh hít thở
mãi như vầy được! Thời bây giờ chứ có phải ngày xưa đâu mà để vậy chờ tề tổng tới
làm biên bản!
-Nào, bà con ta mỗi người một tay... nhanh lên!
-Chao ui! Kinh khủng quá!
Trong lúc thầy giáo Bảy chưa đến, người ta gấp rút đóng lại nắp
áo quan, lấp cái hang ăn thông vào huyệt mả, và không ngớt xôn xao bàn tán về sự
xuất hiện bất thường của con vật quái lạ này...
-Thầy Bảy tới rồi!
Tiếng bọn trẻ reo lên trước tiên. Mọi người tránh giạt ra,
nhường lối vào cho một người đàn ông trạc ngoài bốn mươi tuổi, mặc áo sơ-mi cộc
tay, quần bà ba đen xắn cao ngang ống chân, vừa từ dưới một chiếc tam bản cập bờ,
gấp bước đi lên.
-Thầy coi giùm nó là con gì, thầy Bảy?
ông cụ già ban nãy đã ước đoán nó là "con lai", bước
tới gật đầu chào thầy giáo, vừa hỏi vừa nhìn vào mặt thầy rồi lại đưa mắt nhìn
con vật. Mọi người chung quanh ồn lên một thoáng rồi bắt đầu im phăng phắc. Thầy
giáo Bảy lần túi lấy mục kỉnh ra lau vào vạt áo, đoạn thong thả đeo lên mắt, đầu
khẽ nghiêng qua nghiêng lại ngắm nghía con vật. Những nếp nhăn trên trán thầy cứ
giãn ra co vào, càng làm tăng thêm vẻ quan trọng trên gương mặt xương xương mà
ai nấy đều kính nể, và càng làm cho mọi người thêm háo hức đợi chờ lời phán của
"con người thông tường mọi lẽ, nhất xứ làng quê" này.
-Nó là một con kỳ đà thôi! Đúng như vậy, một con kỳ đà.
Thầy giáo Bảy chép miệng nói, đầu gật gù như khẳng định thêm
cho câu mình vừa thốt ra. Tiếng xôn xao lại bắt đầu dậy lên. Một người nào đó
trong đám đông cười hô hố:"Hồi nãy, tôi đã bảo nó là con kỳ đà mà không ai
chịu nghe!" Có tiếng người cãi lại:“Hứ! Kỳ đà thì to hơn bắp vế là cùng,
chứ kỳ đà gì mà to bằng con cá sấu vậy?" Không biết đó là lời phản đối lại
người vừa cất tiếng cười, hay lời phản đối lại ý kiến của thầy giáo Bảy. Thầy
giáo Bảy mỉm cười. Nụ cười độ lượng không tỏ ra có chút gì khó chịu, mà còn làm
tăng thêm vẻ đôn hậu trên gương mặt hiền lành. Thầy ngắm nghía con vật một lúc
nữa, rồi thong thả nói:
-Con kỳ đà này to thật! Hồi năm 1942, lúc tôi còn dạy học ở
xã Đốc Vàng thuộc Đồng Tháp Mười, bà con cũng có đâm chết một con, đo dài ba
mét sáu. Con này là con thứ hai mà tôi được thấy tận mắt đấy...
-An thịt được chứ, thầy Bảy?
Một người đứng phía sau hỏi với vào.
-An thịt được. Giống kỳ đà thôi!
Thầy giáo Bảy lại gật gù, nhấc mục kỉnh lên.
-Con này là con thứ hai mà tôi được thấy đấy. Như vậy là hiếm
lắm. Có thể nó sinh sống ở một vùng nào khác, nhờ một điều kiện ngẫu nhiên nào
đó, bị bão tố giạt đi, bám trên một khúc gỗ trôi qua biển chẳng hạn, mà nó lạc
tới đây.
-Im để nghe thầy Bảy nói, làm gì mà ồn ào vậy?
-Nói tiếp đi, thầy Bảy!
Chờ cho mọi người lắng xuống, thầy giáo Bảy mới nghiêm sắc mặt,
bảo:
-Thời tiền sử, có những con vật to lớn khủng khiếp, có loại
có sức nặng đến bốn năm mươi tấn, nhưng ngày nay đều đã bị hủy diệt cả. Trong
điều kiện thích nghi nào đó thì chúng mới có thể sống được. Sự thay đổi khí hậu
trên vỏ quả đất nguội dần đã làm biến mất nhiều loại sinh vật và thực vật mà
ngày nay người ta chỉ còn tìm ra được những bộ xương hay dấu vết đã hóa thạch
đào được dưới nhiều tầng đất sâu...
Nhiều tiếng xì xào bắt đầu nghe lâm râm chung quanh. Dường
như những danh từ xa lạ từ miệng thầy giáo Bảy nói ra, những chuyện vỏ quả đất,
xương hóa thạch xa xôi mà sự hiểu biết của họ còn lâu lắm mới có thể với tới,
khiến họ không còn tập trung chú ý nghe thầy nói nữa. Nhưng chắc chắn là mọi
người đều thán phục thầy giáo Bảy, và nhiều người bắt đầu chêm vào đôi ba câu
gì đó, tỏ ra mình cũng có ít nhiều chỗ lĩnh hội được ý nghĩa của lời thầy giáo
nói, gây nên một sự mất trật tự rất thỏa thuê, không người nào phản đối người
nào cả. Khi mọi người sắp sửa xả thịt con kỳ đà khổng lồ, thầy giáo Bảy tháo mục
kỉnh ra, mặt đăm chiêu hồi lâu, nói với những người còn ngong ngóng đứng chung
quanh:
-Bất cứ chúng nó từ đâu tới, hung hăn đến thế nào, nếu bà con
ta đều đồng tâm nhất trí thì chúng ta có thể diệt trừ được chúng cả. Sá gì con
quái vật này!
Tôi biết thầy giáo Bảy muốn ám chỉ đế quốc xâm lược. Hình như
thầy còn toan nói điều gì nữa thì phải. Nhưng mấy tiếng kêu bất thình lình từ
chỗ bờ sông vọng tới khiến thầy quay mặt trông ra và thôi không nói nữa.
"Tiếng ai mà the thé như tiếng dì Tư Béo?" Tôi vội ngóng cổ lên nhìn.
Quả đúng là dì Tư Béo thật!
-Một trăm đồng cái mật con kỳ đà, tôi mua đây. Hai trăm đồng
cái mật, tôi mua đây. Để cái mật cho tôi!
Dì Tư Béo vẫn béo tròn béo trục như trước, tay trái cầm tờ giấy
bạc con voi đỏ giơ cao lên, miệng vừa gào, chân vừa lạch bà lạch bạch chạy về
phía chúng tôi, tay phải vừa lần túi mở kim băng rút ra một tờ giấy bạc nữa,
hai tay xòe cao hai tờ giấy bạc phẩy lia phẩy lịa như sợ ai mua cướp cái mật
trước. Tôi vội chạy ra, kêu lên:
-Dì Tư mới tới đó hả? Dì ở đâu tới đây?
Dì Tư Béo "ơ" một tiếng, toét mồm cười, bàn tay cầm
tờ giấy bạc bóng mỡ đập vào vai tôi một cái khiến tôi suýt ngã. Bà ta gật đầu
lia lịa, như ra ý bảo:“Chờ đấy, chốc sau hẵng nói chuyện", rồi vội vă chen
lách mọi người bước vào trong. Thằng Cò nãy giờ vẫn theo dõi tôi, nó kéo tay
tôi hỏi:
-Dì mày đó hả?
-ờ... Nhưng mà không phải dì.
-Bà chủ quán rượu ở chợ Ngã Ba Kênh, mày không nhớ à? Hồi trước
tao làm hầu bàn ở đấy mà!
Thằng Cò ngó chằm chằm vào mặt tôi, buông thõng một câu:
-Thôi, về. Có ghe vải đậu đằng kia. Mình đi lại đó mua dầu lửa
rồi về. Má trông lắm đấy.
Tôi ngần ngừ:
-Mày không ở coi xả thịt con kỳ đà à?
-Coi làm quái gì! Về ăn cơm, trưa này còn đi rừng cho kịp.
Dì Tư Béo quay ra tìm tôi, mặt tiu nghỉu:
-An, cháu có quen ai trong này không?
-Làm chi vậy, dì?
-Hỏi mua giùm tao cái mật đi. Tao nói mãi mà họ không chịu
bán!
-Như vậy là họ không bán đâu!
Bà chủ quán rượu thở ra một hơi dài nặng nề, chậc lưỡi tiếc
mãi. Thảo nào ngày trước có lần lão Ba Ngù bảo tôi:"Bà phệ của mày lưng mật
đấy. Lúc nào cũng tìm mật tọng vào bụng. Bả là bà chúa nhát sợ tàu bay
mà!". Tôi hỏi thăm dì có khỏe không, lâu nay dì ở đâu... Nhưng bà ta chỉ ừ
ào đáp qua loa. Thất vọng vì không mua được cái mật con kỳ đà hiếm có này đã
làm rơi rụng hết mọi tươi vui của bà ta khi gặp lại tôi ban nãy.
-Bây giờ mày ở đây à? Có khá không?
Giọng xởi lởi của bà ta bỗng trở lại nhanh chóng, và trên
gương mặt phì phị buồn thiu hé mở một nét cười.
-Thôi, đi với dì đi, An ạ! ở với dì, cháu sẽ chẳng đến nỗi
nào đâu...
-Cháu có ba má ở đây rồi! -Tôi cười cười, đáp.
-ủa, mày gặp ba má mày rồi sao?
-Gặp rồi!
Thằng Cò cũng cười theo tôi. Tôi chợt hiểu ngay vì sao lúc
nãy nó cứ giục tôi đi về gấp. Dì Tư Béo phàn nàn cuộc sống khó khăn, giặc giã
đánh lung tung làm cho bà ta không ở yên nơi yên chỗ làm ăn buôn bán. Bà ta còn
nấn ná đứng lại một lúc nữa, đến khi đã biết chắc rằng không thể mua được cái mật
con kỳ đà, bà ta mới chịu xuống thuyền chèo đi. Lần gặp gỡ đầu tiên và buổi
chia tay cuối cùng của tôi với dì Tư Béo đều bắt đầu và kết thúc bằng câu
"ngã giá" của bà ta. Nhưng dẫu sao cũng có lúc tôi đã chịu hàm ân bà
ta trong những ngày đầu lưu lạc, nên lòng không khỏi có đôi chút ngậm ngùi.
Chúng tôi mua dầu lửa xong, lo muộn, bèn lội tắt qua rừng mà không về theo lối
cũ. Hai đứa xắn quần lên đến bẹn, vừa đi vừa khảo chuyện về con kỳ đà khủng khiếp.
Bỗng dưng thằng Cò tặc lưỡi, kêu lên:
-Phải chi hồi sáng mình dắt con Luốc theo, An nhỉ!
-ờ!
-Mày liệu con Luốc có chống cự nổi với con kỳ đà ấy không?
-Biết đâu được!
-Sao lại biết đâu được? Cọp nó còn không sợ mà!
-ờ!
-Tao chắc chỉ còn lại mỗi con này và nó đã bị đâm chết, chứ ở
đây không còn con nào nữa đâu!
-Con gì cũng sống có đôi. Biết đâu lại không còn một con đang
chờ mình trong này...
-Đừng có nói bậy!
Thằng Cò bỗng quát tôi, rồi nó vênh vênh bộ mặt làm ra vẻ cứng
cỏi, vung vẩy chai dầu lửa trong tay, lội bươn tới trước đi một mình. Rừng đước
mênh mông. Cây đước mọc dài tăm tắp, cây nào cây nấy thẳng như cây nến khổng lồ.
Rễ cao từ ba bốn thước tua tủa giương ra chung quanh như những cánh tay từ
trong thân cây thò ra bám đất. Mặt đất lầy nhẵn thín, không một cọng cỏ mọc. Chỉ
có vài chiếc lá rụng mà nước triều chưa lên kịp để cuốn đi, và bóng nắng chiếu
xuyên qua những tầng lá dày xanh biếc, soi lỗ chỗ trên lượt bùn mượt mà vàng
song li ti vết chân của những con dã tràng bé tẹo. Những buổi triều lên, nước
chỉ ngập quá gối thôi, chúng tôi năm bảy đứa rủ nhau đi bắt vọp, bắt cua, trên
đường về thường đuổi nhau chui qua những "cánh tay đước", móc bùn ném
nhau, té nước và reo đùa ầm ĩ, những lúc đang vui vẻ chung quanh có đông bạn bè
ấy thì tôi có cảm giác như rừng đước đang xôn xao từ dưới biển mọc lên. Nhưng
hôm nào đi một mình, chung quanh vắng lặng, nhìn làn nước đục ngầu xô nhau tràn
qua cội đước xù xì, thì tôi lại thấy như khu rừng cứ lặng lẽ chìm dần xuống biển,
và một nỗi lo sợ không đâu, bất thần ập tới, khiến đôi lúc tôi phải hét to lên
để tự trấn tĩnh và ba chân bốn cẳng hộc tốc chạy về hướng một ngôi lều nào đó,
mà tôi biết là gần nhất.
Thằng Cò vẫn mải miết ộp oạp lội bùn đi trước tôi. Giữa vắng
lặng xanh nhờ của rừng đước âm u, từng bước di động của chúng tôi mồn một vọng
vào tĩnh mịch. Tự nhiên, tôi ngoái nhìn ra phía sau lưng và dặng hắng một tiếng,
gấp bước đuổi theo thằng Cò, nghĩ lan man rằng nguy hiểm xảy ra trong rừng hầu
như bao giờ cũng đến với kẻ do dự, nhút nhát đi sau.
CHƯƠNG 19 - DU KÍCH TRONG RỪNG
Dòng sông Năm Căn hơn hai tháng trước còn ồn ã khua động tiếng
mái chèo xuôi ngược, giờ đã trở nên lạnh ngắt, vắng teo. Thuyền bè rút mãi theo
các đường kênh rạch nhỏ, chạy sâu vào rừng cho dễ đánh du kích, tiêu hao sinh lực
địch. Quán lều dỡ đi theo, lùi vào tận trong "đớn". Lò than bỏ cho
các loại dây rừng bò kín nóc. Cáo cầy tha hồ dắt nhau làm tổ trong những đống củi
gỗ đước cao như núi chất ngoài sân lò, mọc đầy nấm dại.
-Hừ! Thằng Tây mới tới Năm Căn hơn hai tháng thôi. Vậy mà gần
chục mạng người đã hy sinh! Hai anh du kích diệt được khá nhiều Tây và lính ngụy
vừa bị nó bắt và bắn chết, buộc xác phơi ở chỗ gốc cây mắm gần bờ sông chiều
hôm qua... Bà con trong chợ đến cướp xác hai anh em về chôn, bị nó bắt đánh một
trận gần chết, bữa nay còn giam trong đồn!
ông già thợ đốn củi nói đến đây ngập ngừng cúi xuống cời lại
đống hun. Khói cay nồng, đặc sệt từ đống hun ngùn ngụt bốc lên, tỏa trắng khắp
gian lều. Bầu không khí ẩm ướt từ trong ngôi lều của chúng tôi như quánh lại,
ngột ngạt đến tức thở. ông lại ngẩng nhìn tía nuôi tôi, nói tiếp.
-Như vậy là hết đất rồi. Chỗ nào cũng có thằng giặc. Chí như
cái Hòn Khoai ngoài biển kia mà nó còn mò tới đóng đồn! Vậy thì mình cũng phải
làm thế nào chứ, anh Hai?
Tía nuôi tôi cứ gật gù im lặng ngồi nghe. Khi ông già đốn củi
ngừng nói, với tay rứt một dúm thuốc trong cái ống bơ nhồi vào tẩu, tía nuôi
tôi bèn cầm chai rót thêm rượu vào bát:
-Uống đi, ông bạn!
-Trời ơi, bộ anh Hai muốn tôi "mượn tửu binh giải phá
thành sầu à?"
ông già nhếch nụ cười móm mém, đưa tay đỡ bát rượu.
-Chẳng qua đó là cái thói tật không bỏ được của anh em bọn
mình đấy thôi! Chỉ có chúng ta mới giải phá được thành sầu này, chứ cái thứ tửu
binh... thì nó chỉ quật cho mình say mèm, nằm đó đợi giặc đến trói cổ dắt về đồn
thôi.
Đôi bạn già ngồi xếp bằng trên một tấm đăng trải giữa nhà
cùng cười lên mấy tiếng và chuyển bát rượu cho nhau mỗi người tợp một ngụm. Tiếng
cười khành khạch gượng gạo của ông già đốn củi có lẽ cũng làm lây đôi chút buồn
sang cho tía nuôi tôi. Cả hai người cùng im lặng, đưa mắt ngó ra ngoài. ánh nắng
trời chiều xuyên qua những tầng lá đước rậm rạp, chiếu xuống mặt đất lầy ngoài
bờ bên kia con rạch nhỏ một màu xanh tai tái. Gió từ biển khơi thổi tới, hun
hút lùa qua những vòm lá đước tối om, thốc mạnh vào lều làm cho mái lá rung lên
và ngọn lửa cháy lép bép trong đống củi hun bỗng phụt sáng đỏ ngòm... Cứ vài
hôm lại có một ông khách tạt vào lều uống vài chén rượu với tía nuôi tôi. Có
người tôi quen, có người tôi chỉ biết mặt chứ không rõ tên. Đôi khi cũng có một
vài người lạ mà tôi đoán chừng là bị giặc càn chạy tới đây. Những lần đầu, tôi
còn thường la cà bên tía nuôi tôi, lắng nghe câu chuyện giữa những ông già trao
đổi với nhau qua chén rượu suông, nhưng mãi rồi tôi cũng không chú ý nữa. Quanh
đi quẩn lại, vẫn là chuyện bọn giặc ruồng bố, càn quét. Họ rất căm thù bọn giặc
ở đồn Năm Căn, nhưng nghe cái giọng rượu lè nhè của họ, tôi biết rằng họ chỉ có
thể mượn rượu để nói ra cho hả một lúc vậy thôi. Thậm chí có một ông nom còn trẻ
tráng, gọi tâng tía nuôi tôi là bác, mà cũng thở ra cái giọng bạc nhược của những
lão già cổ hủ, một hai tin rằng sự xuất hiện con kỳ đà kinh khủng nơi đồng mả mấy
tháng trước là điềm trời giáng tai họa cho dân xứ này. Sau những bữa rượu như vậy,
tiễn khách đi rồi, tía nuôi tôi thường đứng rất lâu một mình ngoài bờ cỏ. ông lắng
nghe tiếng ca-nô giặc chạy tận ngoài sông Cửa Lớn, hay nghĩ gì về những câu
chuyện của các ông bạn già thì không rõ, nhưng tôi thường thấy ông khoát khoát
tay làm những cử chỉ bực tức khó chịu. Mỗi ngày tía nuôi tôi lại một thêm lầm
lì, ít nói.
Có khi ông ngồi lặng lẽ hàng giờ bên đống củi hun, như một gốc
cây khô giữa rừng, đến nỗi tôi và thằng Cò đứa nào cũng len lét không dám đi mạnh
chân. ông thường bỏ nhà đi luôn. Chẳng rõ đi đâu. Nhiều lúc đi hai ba hôm mới về.
Má nuôi tôi rất lo. Cơ sự này thì ông lão đến quẫn chí mất. Nhưng mỗi lần tía
nuôi tôi trở về, tôi lại thấy ông tỉnh táo và vui vẻ hơn trước. Có khi ông còn
cầm về cho tôi và thằng Cò một vài thứ quả lạ, màu đỏ óng, có những chấm li ti
xam xám rất đẹp mà ông bảo là chỉ để cầm chơi chứ không ăn được. Chà, có thứ quả
rừng nào mọc ngoài bờ sông và trong những khu rừng chung quanh đây lại có thể lọt
khỏi con mắt của tôi và thằng Cò? Thế mà cả hai đứa chúng tôi đều chưa hề trông
thấy những thứ quả tía nuôi tôi cầm về.
-Tía lấy quả này ở đâu vậy, tía?
-Ngoài xóm kia thôi...
-Xóm nào vậy tía?
-Xóm ngoài chứ xóm nào. Con sao cứ lục vấn mãi...
Tôi lặng im không hỏi nữa. Thằng Cò tưởng ông mệt mà tôi cứ
đeo hỏi mãi làm ông bực, nó bèn lôi tôi đi bắt mồi câu cá. ở nhà được vài hôm,
tía nuôi tôi lại sắm sửa đi. ông soạn mấy bao diêm, một cái xoong nhôm và hơn
chục lít gạo bỏ trong bao cà-roòng. Điều đó càng khêu gợi thêm sự tò mò trong
tôi bấy nay một cách mãnh liệt, khiến tôi không nén được ý định: phải dò xem
tía nuôi tôi đi đâu và làm gì? Cũng như mấy bận vừa rồi, tía nuôi tôi lấy xích
buộc con Luốc vào chân cột cẩn thận, rồi sai bảo tôi và thằng Cò đi làm một
công việc gì đó, hoặc chờ đúng lúc chúng tôi vắng mặt, ông mới đi. Tía nuôi tôi
đã sắm sửa xong rồi. Chẳng đợi ông bảo, tôi cầm con dao bước ra cửa, còn quay lại
nói vọng vào bếp:
-Má ơi, con ra ngoài bờ sông chẻ mớ lạt dừa nghe má!
Tía nuôi tôi "ừ" đáp thay cho má nuôi tôi, ông còn
cười cười nhìn tôi bằng con mắt khuyến khích. Tôi cầm dao men theo bờ rạch, đi
tới một chỗ ngoặt bèn chui ngay vào núp trong một bụi sậy um tùm. Từ nơi trú ẩn
này, tôi có thể nhìn rõ mọi hướng chung quanh. Ngồi chưa yên chỗ, tôi đã thấy
tía nuôi tôi quẩy bao cà-roòng lên vai lững thững bước ra sân. ông còn đứng giữa
sân giũ chiếc khăn rằn bịt lên đầu, quay qua quay lại chung quanh rồi mới lẩn
ra bờ rạch. Tôi nén thở, cúi thấp đầu xuống gối, không dám động cựa. Lâu lắm mà
vẫn không thấy ông đi qua chỗ tôi. Như thế này thì dứt khoát là tía nuôi tôi đi
vào hướng rừng trong kia rồi. Tôi nhảy ra khỏi bụi, chạy về. Chưa vào tới cửa,
tôi đã hỏi giật giọng:
-Má ơi, tía con đâu? ông đi rồi hở má?
Má nuôi tôi bước ra, "ừ" một tiếng:
-Mày hỏi ổng có việc gì? Sao hồi ổng còn ở nhà mày không hỏi,
để cho ổng đi rồi mới chạy tìm cuống lên vậy?
-Tía có nói đi đâu không, má?
-Không. Mày còn lạ gì tính của tía mày nữa. ổng đã không muốn
nói thì hỏi ổng làm gì, hở con?
Má nuôi tôi nói giọng buồn buồn, có hơi giận dỗi. Tôi chạy
vào mở xích thả con Luốc ra sân. Rồi tôi bước đến, cầm tay má nuôi tôi:
-Con đi theo tía đây. Theo coi tía đi đâu.
-ổng đập mày chết đấy. ổng đi đâu mặc ổng, theo làm gì? Đến
như tao mà ổng còn giấu, không nói thay...
-Đúng rồi! Như vậy là đúng rồi. Con đã biết đúng là tía con
đi đâu rồi!
-ổng đi đâu?
Tôi ghé vào tai má nuôi tôi, thấp giọng:
-ổng đi vô chơi với mấy anh du kích trong rừng! Má không thấy
tía con mang theo nào diêm, nào gạo, cả cái nồi nữa đấy sao?
Má nuôi tôi lùi lại một bước, tròn xoe mắt nhìn tôi:
-Ai nói với mày vậy?
-Con đoán vậy thì biết chớ đợi gì phải nghe ai nói!
-ờ, mày nói không chừng phải đấy. Tao cũng nghĩ mang máng như
vậy. Từ hôm ổng nhặt cái quả gì ở đâu về cho chúng mày đấy. Bà Tám ngoài xóm có
bảo nhỏ với tao rằng: nghe đâu anh em bộ đội đằng mình còn ẩn trong rừng. Bả
còn nói họ rách lắm. Nghe vậy, thì để bụng thôi, đừng có hở ra cho ai nghe con!
-Má còn phải dặn! Thôi, để con vào gọi thằng Cò dậy đi với
con.
Má nuôi tôi nắm tay tôi, lôi lại:
-Không được! Không được đâu. Con đi một mình thôi. Có con Luốc
theo con là đủ rồi. Cái miệng thằng Cò hay bép xép lắm!
Má nuôi tôi vội vã quay vào, soạn trong rổ may lấy một ống
kim khâu và mấy cuộn chỉ, gói vào mảnh giấy nhật trình cũ, nhét vào túi áo tôi:
-Nhà nghèo chẳng có gì... Con vào gặp các ảnh, nói là của má
gởi biếu... Đi cẩn thận nghe con.
Tôi gật đầu, huýt sáo một tiếng. Con Luốc nhảy phóc theo chân
tôi, chạy dọc theo bờ rạch ăn sâu vào rừng. Cứ men theo dấu chân tía nuôi tôi,
tôi vừa đi vừa dắt con Luốc chạy ộp oạp trên bờ đất sình lút ngang ống chân. Đi
độ hai ngàn thước thì mất dấu. ở đây, hãy còn có nhiều vết chân của những người
lội vào rừng bắt cua, bắt vọp. Những vết cũ lội từ trên bờ xuống rạch đã được
phủ một lượt phù sa mỏng khi triều xuống rất dễ phân biệt với dấu chân mới của
tía nuôi tôi. Tôi lội ngay xuống rạch, ngược theo dòng nước gợn bùn vẩn đục ngầu
từ trong rừng chảy ra, mải miết bươn ra. Con Luốc cứ kêu ư... ử... trong cổ, dường
như muốn gọi tôi lên mà mãi không thấy tôi lên, nó bèn co giò phóng tùm xuống
nước, lội xộn xộn sát theo tôi. Càng đi sâu vào rừng, lòng rạch càng hẹp lại.
Nhiều quãng bị cành lá rậm rạp trên cây che phủ, bóng nắng không lọt xuống tới,
khiến cho dòng nước tối om om, trông rất dễ sợ. Tôi vẫn mải miết đi tới. Chừng
nửa giờ sau thì thấy mất những gợn nước vẩn bùn, mà trông hai bên bờ lại chẳng
có một vết chân nào lội lên. Nhìn những cánh tay đước từ trên bờ tua tủa thò xuống
lòng rạch, tôi nghĩ có lẽ tía nuôi tôi đã lợi dụng những cái rễ to lớn này làm
cầu trèo lên cây, đi lên bờ rồi. Quả nhiên con Luốc vẫy đuôi lia lịa, làm bùn
và nước bắn tung tóe vào mặt tôi. Lập tức tôi bám theo cái rễ ấy, trèo ngay lên
cây. Nhìn xuống phía dưới chân, chỉ thấy những cọng rễ đước xám ngắt chung
quanh tua tủa cắm xuống mặt bùn phẳng lì. Con Luốc cứ đứng dưới gốc cây ngửa cổ
lên chực sủa. Tôi phải suỵt suỵt luôn mồm, nó mới chịu im. Không lẽ tía nuôi
tôi đến đây biến thành chim bay mất hay sao?
Mà lại không có vết chân tụt xuống chung quanh gốc. Vậy thì dứt
khoát là ông đã lần theo những cái rễ đước to lớn, xỏ rễ vào nhau này mà lần đi
trên cao thôi. Sau khi đã đoán vậy, tôi bèn đưa mắt quan sát từng cái rễ một,
và chỉ một chốc sau, khi đã tìm thấy một cái rễ có lớp da bên ngoài bị đạp tróc
xước những mảnh vỏ con để lộ ra một vết xanh còn mới, thế là tôi đã nắm được đầu
mối con đường bí mật đã đưa tía nuôi tôi đi về hướng nào rồi. Trên khoảng tầm
cao quá đầu người, tôi như con vượn, cứ dò theo dấu vỏ rễ xước, chuyển từ cây
này sang cây khác đi tới mãi. Con Luốc trung thành vẫn bám theo sát phía dưới
chân tôi. Chiều ở rừng bao giờ cũng xuống rất mau, chẳng mấy chốc mà trời đã gần
tối. Vết vỏ cây tróc dẫn đường còn tìm thấy lờ mờ được một lúc, rồi sau đó tôi
không còn nhìn ra được một dấu nào nữa. Ngồi trên một cái rễ cao, tựa người vào
thân cây, ngơ ngẩn nhìn ra màu xanh trùng điệp quanh mình đang chìm dần vào
bóng tối, tôi cảm thấy tay chân mình bủn rủn, nhấc không muốn nổi. Một con chim
hồng hoàng to như con ngỗng, sắc lông đen, vỗ cánh phành phạch bay vút qua bên
trên đầu tôi. Chiếc mỏ cong to tướng và những rìa lông màu trắng ở chót cánh mất
hút trong bóng tối lờ mờ.
Tiếng "các các" kêu vang rừng của con chim đen to
tướng tan dần trong mênh mang vắng lặng, khiến tôi rùng mình nhớ tới con kỳ đà
kinh khủng đã đào mộ người chết nơi đồng mả. Tôi phải tự động viên mình luôn và
chật vật lắm mới trèo lên tận ngọn một cây đước cao. Nguồn hy vọng tìm thấy vệt
khói bốc ở một nơi nào đó giờ đây hoàn toàn tan rã trong tôi. Mặt trời đã xuống
khuất mất rồi. Và bây giờ màn đêm cũng đã bao trùm mỗi lúc một dày đặc trên những
ngọn cây. "Trời tối thì tối chứ sợ gì? Mình sẽ dễ dàng nhận ra ánh lửa của
họ. Có ai ở thầm giữa rừng đâu mà lo". Nghĩ như vậy, tôi lại phấn khởi mừng
thầm. Nguồn hy vọng mới làm tôi phấn chấn trở lại rất mau. Tôi kiên nhẫn ngồi
trên một nhánh cây, phóng tầm mắt nhìn xuyên qua màn đêm, mặc kệ cho bầy muỗi
đói vo ve kêu dậy bên tai và không ngớt đáp vào đốt khắp mặt mũi chân tay. Tôi
không biết mình ngồi như vậy đã bao lâu. Nhiều lúc tôi có cảm giác như mắt mình
bị mù, vì nhìn vào màu đen lâu quá. Con Luốc cũng kiên nhẫn đứng dưới gốc cây
chờ tôi, thỉnh thoảng lại hực lên một tiếng. Không biết là nó muốn báo cho tôi
biết rằng nó hãy còn đứng đấy, hay nó dọa một con chồn con cáo nào đang mon men
tới gần. Gió bắt đầu nổi lên. Rừng đêm khua xào xạc.
Mùi bùn lạnh và mùi rêu đóng trên vỏ cây nhạt nhạt mốc mốc xộc
đầy vào mũi tôi. Giữa lúc không còn trông cậy vào tai, vào mắt mình nữa thì khứu
giác lại báo ngay cho tôi biết rằng tôi đã đi đến gần một chỗ có người. Trong
những luồng gió từ màn đêm thăm thẳm thổi tới, lâu lâu tôi lại ngửi thấy có mùi
khói và mùi cá kho, cháy nồi... Bấy giờ, tôi mới nhớ ra là mình chưa có gì cho
vào bụng, và bắt đầu thấy đói cồn cào. Tôi tụt ngay xuống gốc cây, đạp trúng
lên lưng con Luốc. Lần theo mùi cá kho cháy, tôi dắt con Luốc càn rừng, đi tới.
Nói cho đúng, thì chính con Luốc dắt tôi đi. Nhiều lúc tôi loạng choạng vấp vào
những rễ cây, ngã sóng soài vào bùn, con Luốc đã nhanh nhẹn, cắn áo tôi lôi dậy
và nó luôn luôn đi trước chân tôi chừng một bước. Tôi và con Luốc mò mẫm dắt
nhau lội đi từng bước như vậy rất lâu. Kia rồi! ánh lửa tôi đang tìm bỗng hiện
ra thấp thoáng sau những thân cây, như một vầng mặt trời nhỏ từ dưới mọc lên.
Tôi phải túm chặt chòm lông gáy trên cổ con Luốc, giữ nó lại và khẽ suỵt mấy tiếng,
không thì nó sủa váng lên và bỏ tôi chạy vụt tới đấy ngay. Tim tôi đập rộn lên.
ánh lửa mỗi lúc một gần.
Đã trông thấy rõ hình một cái bếp cháy trong gian chòi nhỏ,
dưới một gốc cây rậm. Bùn ngập ngang ống chân tôi cứ tụt xuống dần. Bàn chân
tôi giẫm lần lần lên mặt đất rắn hơn và đạp phải một bụi cỏ. Bỗng nhiên, con Luốc
vùng ra khỏi tay tôi và chồm lên sủa oang oang. Đồng thời, một tiếng
quát:"Ai?" vang lên rùng rợn trong tối, rất gần: tiếng lên cò súng
đánh rốp và tiếng quát liền theo, nghe càng dữ dội hơn trước:“Đứng lại! Ai? Đứng
lại".
-Đằng mình! Người đằng mình! -Tôi cuống quít kêu lên. Rồi tôi
tuôn luôn một hơi.
-Tôi là thằng An, con ông Hai ngoài xóm Lá. Tôi đi vô tìm tía
tôi!
Tiếng chân nhiều người chạy thình thịch trên gò đất. Luồng
ánh sáng từ một chiếc đèn pin chiếu thẳng vào mặt tôi khiến tôi bị lóa mắt, phải
quay nghiêng mặt tránh ra một bên.
-Còn có đi với ai nữa không?
Tiếng một người nào từ trong tối, sau một gốc cây hỏi vọng
ra. Tôi chưa kịp đáp, bỗng nghe tía nuôi tôi kêu "Trời!" một tiếng.
Hình như ông đang nói với người cầm chiếc đèn pin chiếu vào tôi. ông nói:“Đúng
nó là con tôi. Nó mò theo tôi đấy. Thật là hết chỗ nói cho cái thằng bé
này!".
-Thôi, vào đây chú em!
Người cầm đèn pin vừa nói vừa hạ luồng sáng thấp xuống ngọn cỏ,
cho tôi thấy lối đi vào. Tiếng người vừa nói đó, sao nghe quen quen. Hình như
tôi đã có gặp người đó và nghe cái giọng nói ấy ở đâu một lần rồi thì phải? Tía
nuôi tôi cầm khúc đèn chai bước ra đón, cốc vào đầu tôi một cái đau điếng.
-Ai bảo mày lội vô đây? Rồi tao sẽ bảo cho má mày biết để bả
dần cho mày một trận. Thôi, bước xuống cái vũng bên phía trái ấy, rửa mình ngay
đi. Y như là thằng mò bùn bắt cá cạn.
Tôi cởi quần áo giặt giũ qua loa rồi máng lên nhánh đước, tắm
vội tắm vàng một chốc là xong ngay. Con Luốc cũng nhảy phốc xuống vũng nước, bì
bõm sán vào bên tôi, đòi tôi cọ bùn tắm cho nó. Một anh đứng bên mé vũng nước với
tía nuôi tôi, giọng nói nghe còn trẻ lắm, hỏi tía nuôi tôi tới bằng lối nào mà
để tôi dò theo vào được. Tía nuôi tôi không đáp, chỉ lắc đầu nói:
-Thật là hết biết! Tôi cũng chịu cái thằng bé này!
Anh đứng bên mé vũng nước trao cho tôi một bộ quần áo, bảo
tôi mặc tạm vào cho ấm, chứ nó "không được vừa và đẹp lắm đâu"... Tôi
như bơi trong bộ quần áo rộng thùng thình, dày cộp vì muối nhiều nước mặn và vá
không biết bao nhiêu là mụn vải. Khi tôi bước vào lều của những người du kích,
người đầu tiên tôi nhận ra ngay là thầy giáo Bảy, kế đó là ông già đốn củi. Còn
người cầm chiếc đèn pin, mặc bộ quần áo bà ba rách nhiều chỗ, mặt xương xương,
râu mọc tua tủa xung quanh cằm vì lâu ngày không cạo, đang ngồi trên bộ vạt lót
bằng cọng sống lá kia thì tôi trông quen lắm. Tôi đã gặp ông ấy ở đâu một lần rồi.
Chắc chắn là tôi không nhầm, từ khi nghe giọng nói nhanh nhảu của ông ban nãy.
Trong thoáng chớp, có rất nhiều gương mặt quen quen hiện nhanh ra trong đầu
tôi. Vừa ở ngã ba sông này có một gương mặt người dân quân tự vệ hiện ra cười với
tôi, thì trong ngôi miếu tận một nơi xa kia, gương mặt những người thương binh
lặng lẽ cúi xuống nhìn tôi chợt hiện lên và biến đi. Một bộ mặt xương xương
toét miệng cười bỗng hiện ra giữa quán rượu dì Tư Béo... cái bóng người cao lêu
nghêu, mặc bộ quân phục màu rêu, thắt lưng da rộng bản, khẩu súng poọc hoọc đeo
trễ bên đùi... Đúng là ông ấy rồi! Tôi vụt kêu lên:
-Chú Huỳnh Tấn!
Người ấy buông chiếc đèn pin ra, nhổm lên, nhảy xuống khỏi bộ
vạt, đứng sững nhìn vào mắt tôi. Tất cả những người chung quanh đều trố mắt ngạc
nhiên. ông ta nghiêng đầu, nheo mắt:
-Trời ơi! Chú em này sao lại biết mà gọi đúng tên cúng cơm của
mỗ vậy kìa?
-Đêm đó, chú đi với anh Sáu tuyên truyền ghé quán dì Tư Béo,
chú có gặp anh phân đội trưởng... Cháu làm hầu bàn ở đó mà!
Cuộc gặp gỡ bất ngờ giữa tôi và người chỉ huy du kích đã làm
tiêu tan bầu không khí im lặng trong ngôi lều khi tôi mới bước vào... Các anh
du kích bỏ củi vào đống hun quạt lên, bảo tôi ngồi xuống hong cho ấm. Tôi vừa
ngồi xuống một khúc gỗ, chưa kịp xòe bàn tay móp cóng ra hong trên lửa thì đã
có anh bưng vào cho tôi một tô cơm kèm hai khúc cá kho khô và một đôi đũa. Đúng
là mùi cá kho cháy nồi mà tôi đã bắt gặp lúc nãy đây! Tôi chẳng khách sáo gì cả,
cũng chẳng kịp nói hai tiếng "cám ơn" cho phải phép, đỡ ngay lấy tô
cơm, và ngốn và ngấu gần như không kịp nhai. Con Luốc cũng có phần một miếng
cháy, ve vẩy đuôi ngồi nhá tóp tép bên đống hun cạnh tôi. Qua làn khói củi hun
bọ mắt tỏa trắng, tôi biết có những đôi mắt cười nheo nheo trong ánh lửa của những
người du kích ngồi tựa lưng vào vách đang nhìn tôi. "Cà, gói giấy nhật
trình của má gói đã ướt sũng cả rồi... Lúc nãy mình dại quá. Sao không dám cầm
vào đây mà hong cho khô, cứ giấu nó trong cái túi áo ướt". Tôi và nốt miếng
cơm trong tô, rồi đứng dậy cầm tô đi ra rửa ngoài vũng nước. Lúc vào, tôi không
quên cầm vào gói quà của má nuôi gởi cho các anh du kích:
-Cái này... là cái má tôi gởi cho các chú, các anh đấy!
Nói xong, tôi mở năm đầu ngón tay xòe đưa gói giấy ướt sũng
ra, trao cho chú Huỳnh Tấn. Tía nuôi tôi đang đứng xem một anh du kích lau khẩu
súng trường ở chỗ góc lều, vội ngẩng lên:
-Hóa ra má mày bảo mày vô đây à? -Rồi tía nuôi tôi dang cánh
tay ra, nói như phân bua.
-Lạ quá! Tôi có hề nói với bả lần nào đâu? Sao mà hai mẹ con
bả thính đến vậy!
Chú Huỳnh Tấn không cần biết có lời phân trần của tía nuôi
tôi. Chú cứ thận trọng bóc từng mảnh giấy ướt nhàu ra, cầm nắm chỉ và ống kim
giơ lên:
-Quà của chúng ta đây rồi!
Tiếng cười vui vẻ của nhiều người dậy lên. Chú Huỳnh Tấn quay
sang bảo tía nuôi tôi:
-Bà già tâm lý lắm! Biết anh em rách, gởi cho ngay cái thứ
mình cần mới thích chứ!
Thầy giáo Bảy ngồi cầm cái cuống quài dừa nước đã đập tơi
dùng làm phất trần xua muỗi quơ qua quơ lại, mỉm cười nói thong thả:
-Đồng bào đều biết chúng ta ở đây mà anh em chúng ta có người
nào hở môi chỉ chỗ cho họ biết đâu! Như vậy thì... khu rừng này đâu có thể chắc
chắn bảo đảm che giấu được những cái lều này...
Chú Huỳnh Tấn nhướng mắt cười hì... hì...
-Che mắt địch thôi! Chúng ta làm sao che giấu được với đồng
bào!
-Anh nói có lý! -Thầy giáo Bảy gật gù tiếp.
-Mọi người đều biết hoặc có thể biết có du kích ở đây, nhưng
bọn địch thì hoàn toàn không hay biết... Như vậy thì... chỉ có rừng nhân dân mới
bảo đảm che giấu được mọi hoạt động của chúng ta thôi!
Nhiều tiếng cười tán thưởng từ chỗ góc lều tối vọng ra:
-Đồng chí Bảy nói nghe sâu sắc lắm!
Thầy giáo Bảy sửa giọng nghiêm trang, nói:
-Không phải là ý kiến của tôi đâu. Vừa rồi, được đồng chí
Hoài dắt vào gặp anh Tư Thượng Vũ, tôi đã nghe anh Tư bảo như thế đấy! Một anh
nào đó đang đi qua đi lại ngoài sân, hát se sẽ giọng trầm buồn:“Thần dân nghe
chăng... sơn hà nguy biến! Hận thù đằng đằng... biên thùy rung chuyển...".
Tiếng hát nhỏ dần, tắt mất trong bóng đêm. Rồi một lúc sau, cái giọng trầm buồn
ban nãy bỗng bật lên sang sảng:"Trước nhục nước nên hòa hay nên chiến?".
ông già đốn củi nói tướng lên, cắt ngang: "Chiến" chứ "hòa"
là hòa làm sao? Đất của mình nó tới nó đánh chiếm, mà còn vớ vẩn hỏi "chiến"
hay "hòa"! Còn người nào, đánh người ấy. Tới người cuối cùng cũng
đánh mà! Tôi cúi xuống nhìn vào ngọn lửa cháy rực trong đống củi. Nhưng tôi biết
rõ là ông già đốn củi đang rướn người lên đằng sau các anh du kích, và ông đang
vung tay, xúc động đến rung rung cả chòm râu. Giọng sôi nổi đầy nhiệt tình vừa
thốt ra của ông làm tôi không muốn nhớ tới tiếng cười khành khạch đầy gượng gạo
của ông và cái dáng người còm cõi, rầu rĩ cầm bát rượu thở dài nơi nhà chúng
tôi chiều nọ.
CHƯƠNG 20 - LÊN ĐƯỜNG CHIẾN ĐẤU
"Nam Bộ là máu của máu Việt Nam, là thịt của thịt Việt Nam.
Sông có thể cạn, núi có thể mòn, nhưng chân lý ấy vẫn không bao giờ thay đổi".
Hồ Chủ tịch đã trịnh trọng tuyên bố trước năm châu thế giới
những lời đanh thép ấy. Mà đó cũng là tình cảm của đồng bào Nam Bộ chúng ta. Thầy
giáo Bảy nói đến đây bỗng dừng lại chớp chớp mi mắt ngước nhìn lên lá cờ. Chung
quanh im phăng phắc. Trong sự im lặng có thể nghe rõ cả tiếng đập trong tim người
bên cạnh ấy, bất thình lình tiếng nức nở của một người đàn bà nào đó bỗng bật
ra. Giọng nghẹn ngào cố nén trong cổ họng không thoát ra thành tiếng được nữa cứ
ấm ức bên trong lồng ngực. Mấy bà cụ già bên cạnh như bị lây theo, sụt sịt mũi
và nép sau lưng người khác, đưa ống tay áo lên quệt nước mắt. Ngọn cờ đỏ sao
vàng đã bạc, cháy xám ở một chéo góc và rách thủng lỗ chỗ vì vết đạn, rung rung
phập phồng trong ánh lửa. Anh chiến sĩ vạm vỡ nhất được chọn trong đơn vị đứng
thẳng người, hai bàn tay to lớn cầm chặt cán cờ, giương lá quốc kỳ nghiêng về
phía trước. Tôi đứng một bên, một cậu nữa cũng trạc tuổi tôi đứng một bên. Hai
chú liên lạc mới sung vào đơn vị đều cao chưa tới vai anh du kích cầm cờ đứng
giữa. Sau lưng chúng tôi, các anh lớn dàn đội hình trung đội hàng ngang, hướng
mặt theo lá cờ. Đồng bào đến dự buổi lễ tuyên thệ của trung đội du kích địa
phương đứng thành một vòng bán nguyệt, trên bãi cỏ rộng giữa một khu rừng gần bờ
sông. Tía nuôi tôi và một số người có con em trong hàng được xếp đứng ở một chỗ
danh dự: cạnh đống lửa đốt giữa sân, bên chiếc bàn thờ Tổ quốc kết bằng những
bông hoa rừng đỏ, giữa đặt khung ảnh Hồ Chủ tịch...
Buổi lễ bắt đầu từ chập tối. Sau khi chào cờ, hát quốc ca, đồng
chí ủy viên quân sự huyện Cà Mau thay mặt huyện ủy nói về sự quan trọng cấp
bách phải thành lập trung đội du kích địa phương, rồi đại biểu các đoàn thể
nhân dân đứng ra phát biểu ý kiến xong, thầy giáo Bảy nhân danh là người trong
ban đỡ đầu du kích của xă đứng ra có mấy lời chung với anh em trong đơn vị và đồng
bào. Thầy nói về tội ác của thực dân xâm lược Pháp, cụ thể là bọn giặc chiếm
đóng Năm Căn đã giết chóc, bắt bớ và gây nên bao nhiêu tai họa cho đồng bào...
Giọng rõ ràng, khúc chiết, thầy nói đến đâu dẫn ra sự việc chứng minh đến đấy.
Vì sao ta phải kháng chiến chống Pháp? Lực lượng quân đội chúng mạnh hơn ta,
nhưng ta nhất định đánh thắng chúng. Vì sao? Sự có mặt và hoạt động của anh em
du kích trong xã này là một cái tát vả vào mặt tên tướng Lơ-cờ-lét huênh hoang
khoác lác... Thầy nói không vội vàng hấp tấp, không la ó gào thét; đó là thái độ
trầm tĩnh và cương nghị của người tự tin vào lời mình nói, tin ở sự tất thắng của
chính nghĩa. Nhờ vậy mà thầy đã hoàn toàn thuyết phục tất cả quần chúng đứng
nghe. Thầy nói về mưu mô thâm độc của đế quốc Pháp: chúng đã phản bội hiệp định
sơ bộ mồng 6 tháng 3, phản bội tạm ước tháng 9, đã nổ súng bắn vào quân đội ta ở
Bắc Bộ như thế nào; thầy nói về bọn tay sai thành lập Nam Kỳ tự trị, chủ trương
thuyết phân ly, đã thất bại thảm hại như thế nào, và giờ đây chúng đang khua
chiêng gióng trống rùm beng, bày trò độc lập thống nhất giả hiệu như thế nào...
Bao nhiêu người chết, nhà cháy, bao nhiêu xương máu đồng bào ta đã đổ ra! Quyết
không thể để bọn chúng đặt lại ách thống trị lên đầu lên cổ dân tộc ta một lần
nữa... Ngọn lửa căm thù trong lòng người nghe được lần lần khơi dậy, mỗi lúc một
thêm bùng cháy mãnh liệt. Nhiều lúc tiếng vỗ tay, tiếng hò hét, tiếng nguyền rủa
bọn giặc Pháp và tay sai cứ vang lên rất lâu. Nhưng khi thầy nói về tấm lòng Hồ
Chủ tịch, tấm lòng nhân dân miền Bắc hằng ngày hướng về Nam Bộ, thì bầu không
khí chung quanh bỗng trở nên nghiêm trang lạ lùng. ánh lửa rừng rực soi sáng một
vùng sân cỏ rộng.
Cả trung đội du kích chúng tôi đứng nghiêm dưới cờ, hướng về
chân dung Hồ Chủ tịch, và đồng bào cũng đứng thẳng người, tất cả như nín thở hướng
về Cha già dân tộc kính yêu. Tiếng nức nở bật lên đột ngột vừa rồi đã làm cho bầu
không khí thiêng liêng lập tức bị xáo động. Tôi đứng nghiêm, nén thở nghe tim đập
rộn ră trong lồng ngực bé nhỏ của mình đang ưỡn tới. Tất cả chung quanh tôi như
chìm vào trong ánh sáng đỏ của ngọn lửa cháy rừng rực. Chỉ còn nghe tiếng củi nổ
lép bép, và xa lắm tiếng sóng trùng dương dào dạt xô bờ vọng qua những khu rừng
rậm. Dòng sông Cửa Lớn ầm ầm cuộn sóng và rừng đêm như cựa mình nhổm dậy khi
nghe tiếng nức nở bật lên. Không biết có phải là hồn dân tộc đang hiện về trong
lá cờ ám khói lửa đạn chiến trường và trong đôi mắt Bác Hồ đăm đăm nhìn đàn con
đang tập họp trên mảnh đất xa xôi cuối cùng Tổ quốc đây chăng? Tôi đưa cánh tay
lên chùi nước mắt, hình ảnh đồng bào hướng về lá quốc kỳ và bức chân dung Hồ Chủ
tịch lòa nhòa trước mắt tôi. Những giọt lệ tủi thân đôi chút, nhưng xiết bao ấm
áp sướng vui của đàn con khi gặp lại Mẹ yêu vời vợi cách xa, làm cho những bóng
người vây quanh ngọn lửa như bé lại, mềm đi trong giây phút và sau đó tức khắc
vụt cao lớn lên và cứng rắn hẳn ra. Giữa lúc mọi người đang đứng trầm ngâm yên
lặng, bỗng tía nuôi tôi dặng hắng một tiếng lớn. Tôi khẽ liếc mắt nhìn ông. Bàn
tay tía nuôi tôi đang run run vuốt lại nếp áo, và đôi mắt ông cũng vừa liếc
nhìn sang tôi. Vụt một cái, ông đã bước ra giữa sân cỏ. Ai nấy đều ngạc nhiên,
hướng mắt nhìn theo tía nuôi tôi.
ông như không biết có mọi người chung quanh, đường hoàng bước
đến trước bàn thờ Tổ quốc đứng nghiêm người, chắp tay cúi đầu xá ba xá. ông lại
dặng hắng một tiếng lớn, ngước lên nói to:
-Kính thưa ban chỉ huy cùng tất cả bà con đồng bào! Tôi là
Nguyễn Văn Hai, năm nay sáu mươi mốt tuổi... tuy quê mùa dốt nát, nhưng cũng mạo
muội xin phép được tỏ bày chút ý kiến mọn...
"Trời ơi, ông già mình ổng làm gì vậy kìa?" Tôi cảm
thấy hơi bực mình và lo lắng nhìn theo tía nuôi tôi... ông ủy viên quân sự thay
mặt huyện ủy đến dự buổi lễ tuyên thệ, các ông ủy ban xã và thầy giáo Bảy đều sửa
bộ nghiêm trang, cùng quay về phía tía nuôi tôi. Còn chú Huỳnh Tấn, trung đội
trưởng chỉ huy đơn vị đang đứng bên đội hình trung đội dàn ngang, cũng giật
mình vội vã chạy ra đứng nghiêm trước mặt tía nuôi tôi.
-Cháu Nguyễn Văn An năm nay mười lăm tuổi, được vinh dự đứng
dưới cờ hôm nay... Tuy nó là con nuôi tôi...
Tía nuôi tôi vừa nói vừa ngập ngừng đưa tay trỏ vào tôi.
"Trời đất quỷ thần ơi, ông già mình hồi chiều đưa mình đến đơn vị, ổng có
uống chén rượu nào đâu! ổng ngẫu hứng kiểu gì lạ vậy? Có ai tra khảo đâu mà ổng
khai ra những chuyện con đẻ con nuôi làm chi hỡi trời?" Tôi tự nghĩ như vậy.
Tía nuôi tôi vừa trỏ vào tôi, vừa nhìn vào mắt tôi cách rất tự hào. Rõ ràng đôi
mắt ông như muốn hỏi:“Sao, tía mở đầu như vậy con nghe có được không?" Tôi
đứng nghiêm người, không nhúc nhích. Bộ quần áo bà ba đen má nuôi tôi vừa khâu
cho tôi lại rộng quá khổ, cứ lùng nhà lùng nhùng, làm tôi càng thẹn thùng khó
chịu. Một con muỗi lá to tướng cứ vo ve bay vờn trước mắt tôi và đáp vào bên má
trái đốt đau nhói. Tôi nheo mắt mấy cái, động đậy bắp thịt má để đuổi nó nhưng
nó vẫn không chịu bay. Tôi cảm thấy một cách rất rő rệt rằng con muỗi chết tiệt
đang vo vo chân trước thỏa thuê cong đít lên chọc sâu cái kim vào gò má tôi.
"Được, cứ cho mày tha hồ đốt. Mày cứ bám đấy cho đến khi xong phần kết
thúc buổi lễ nhá!" Mồ hôi trên trán tôi rịn ra và từ từ lăn xuống, các bắp
thịt ở má đang bắt đầu phản ứng, rung rung giật lia lịa mấy cái. Nghe có tiếng
thì thào của vài người trong đám đồng bào đứng bên phía trái tôi. Một người nói
nho nhỏ:
-Coi thằng bé sắp khóc rồi đấy!
-Khóc đâu mà khóc! Con muỗi đốt má nó đấy!
Rõ ràng là tiếng ông già đốn củi cãi lại. Tía nuôi tôi cứ
nhìn vào mặt tôi. Có lẽ ông đã trông thấy con muỗi lá quái quỷ này rồi. Và hình
như những tiếng thì thào vừa rồi cũng đã lọt vào tai ông, động viên ông thêm
hay sao ấy! Tía nuôi tôi liếc nhanh về chỗ vừa phát ra tiếng cãi nhau, và không
nói không rằng gì, cứ tự nhiên như ở nhà, ông bước đến đưa bàn tay vỗ
"chách" lên gò má tôi, rồi bóc con muỗi ra cầm nó vo vo vào hai đầu
ngón tay, đoạn búng xuống đất. Tiếng cười nổ ra xung quanh, khiến cho tôi có cảm
giác như hai chân sắp khuỵu xuống. Chú Huỳnh Tấn đường đường là một trung đội
trưởng chỉ huy đơn vị, trong tư thế đứng nghiêm trước hàng quân mà cũng không
nén được. Hai vai chú cứ rung rung, mặt đỏ dừ lên và cái miệng chú cố mím lại
càng chằng ra động đậy hai bên khóe mép. ông ủy viên quân sự thay mặt huyện ủy,
thầy giáo Bảy cũng mỉm cười. Tai tôi váng lên vì tiếng cười, tiếng nói râm ran
dậy lên chung quanh. Tôi càng cố đứng nghiêm thì tiếng cười càng lớn hơn. Cả
tía nuôi tôi cũng cười cười nhìn tôi. Trật tự của buổi lễ không còn giữ được nữa.
Thầy giáo Bảy phải đưa tay lên khoát khoát ra hiệu cho đồng bào im lặng, mà vẫn
còn nghe tiếng cười rúc rích mãi. Tía nuôi tôi lại dặng hắng một tiếng lớn. Có
lẽ ông lúng túng không biết nên tiếp tục nói như thế nào cho ra cung cách một
người đứng phát biểu trước buổi lễ đông người.
-Kính thưa ban chỉ huy... cùng tất cả bà con đồng bào! Thằng
cháu An đây, tuy nó là con nuôi... nhưng vợ chồng tôi còn quý nó hơn con ruột.
Sở dĩ tôi nói thế, là vì ngẫm ra cũng có nhiều người thích bạn bè hơn thích anh
em ruột. Anh em ruột có quan hệ tình cảm riêng của người cùng cha mẹ sinh ra,
cùng chung một dòng máu. Nhưng tính tình không giống nhau thì quan hệ với nhau
vẫn không thích bằng bạn bè.
-Đúng lắm! ông già nói đúng lắm! Nói tiếp nghe đi, ông già!
Một người nào đó trong đám đông cổ vũ to lên.
-Con ruột cũng vậy. Sinh con ai dễ sinh lòng. Lỡ đẻ ra một thằng
con ngỗ nghịch, trái khoáy, không giống mình thì sao? Thằng cháu An đây... bé
thế, nhưng nó là một thằng bé thông minh, gan dạ. Trong những cơn thập tử nhất
sinh, một mình tôi chiến đấu với kẻ thù, nó vẫn mò theo, không hề rời tôi một
bước... Nay trước lời kêu gọi của Tổ quốc lâm nguy, nó xin theo các anh ra trận
tiền giết giặc, vợ chồng tôi dù thương yêu nó đến mấy cũng phải dứt ruột để cho
nó theo các anh...
Tía nuôi tôi khẽ dặng hắng mấy tiếng trong cổ. ông đứng nuốt
nước bọt một lúc rồi bước đến bên chú Huỳnh Tấn, thấp giọng:
-Chú Tư! Chú có thể tin rằng nó là một thằng bé thông minh và
can đảm. Chính vì vậy mà chú đã tiến dẫn nó vào hàng ngũ. Nhưng dẫu sao thì nó
cũng hãy còn ăn chưa no lo chưa tới. Vợ chồng tôi chỉ mong nó được các anh đây
uốn nắn cho nó nên người, cho nó biết trung với nước hiếu với dân như lời Cụ Hồ
hằng dạy bảo. Nếu như các anh có bảo ban điều gì mà nó không nghe thì xin chú cứ
kỷ luật sắt giùm nó cho tôi. Sao chú Tư? Chú có thể hứa với tôi như thế được
không?
Khi chú Huỳnh Tấn nghe tía nuôi tôi bảo chú "cứ kỷ luật
sắt" tôi thì tôi thấy chú có hơi cười mủm mỉm, liếc nhìn tôi. Dường như
chú muốn nói:“Đấy, tía mày dặn tao như thế, mày nghe chưa?" Nhưng khi tía
nuôi tôi hỏi chú có hứa với ông như thế được không, giọng tía nuôi tôi nói nghe
sao mà khẩn thiết, vừa xúc động mà cũng đượm đầy lo âu, thì cái cười mủm mỉm
trên môi chú vụt bay mất. Chú ngẩng mặt quay nhìn vào trung đội, rồi trang trọng
nhìn vào tía nuôi tôi:
-Thay mặt toàn thể anh em chiến sĩ trong đơn vị, nhân danh
trung đội trưởng trung đội du kích địa phương Cà Mau, tôi xin hứa với bác như
thế!
-ờ, như vậy là vợ chồng tôi an tâm rồi!
Tía nuôi tôi khẽ nghiêng đầu, nói lắp bắp. Đoạn ông quay lưng
bước mấy bước đến bên bàn thờ Tổ quốc. Tôi tưởng ông xá ảnh Bác Hồ rồi lui ra.
Không ngờ ông lại cúi chào ông ủy viên quân sự và thầy giáo Bảy cùng các đại biểu
dân, quân, chính, rồi ngẩng lên nhìn ra đám đồng bào dự lễ, cất giọng run run:
-Con tôi được các đồng chí dắt dẫn đứng vào hàng ngũ, đó là
điều hết sức vinh dự cho gia đình tôi. Vợ chồng tôi già rồi, không theo kịp anh
em bộ đội, anh em du kích để cầm súng giết giặc. Trước giờ phút con tôi theo
các anh lên đường, tôi xin gởi nó con dao này...
Tía nuôi tôi nói đến đây, bàn tay ông từ từ vén vạt áo rút
con dao găm sáng quắc trong chiếc túi da beo ra, cầm con dao đưa lên.
-Hoan hô ông già! Hoan hô!
-Cha nào con nấy. Thật là xứng đáng một ông già!
-Hoan hô bác Hai!
-Hoan hô ông già đi, anh em! Một, hai, ba. Hoan hô! Hoan hô!
Hoan hô... ô... ô!
Tiếng vỗ tay và tiếng hoan hô vang dậy chung quanh. Các vị chủ
tọa buổi lễ cũng vỗ tay và la hoan hô một lúc lâu. Tía nuôi tôi cầm con dao soi
vào ánh lửa đang rừng rực cháy đỏ, thần mặt nhìn món vũ khí tùy thân của mình một
lúc, dặng hắng nói tiếp:
-Con dao này lúc nào cũng dính trong tay tôi. Lưu lạc khắp xứ,
trong những cơn thập tử nhất sinh, nó đã cứu tôi bao nhiêu lần thoát chết. Gia
đình, vợ con, còn có khi vì sinh kế, tôi phải tạm rời xa vài ba tháng, một đôi
năm, chứ con dao này chưa hề xa tôi một chút nào.
Đôi mắt tía nuôi tôi sáng lên. ông cầm con dao lật qua lật lại.
Tất cả dĩ vãng của một cuộc đời phiêu bạt, luôn luôn phải vật lộn với cái chết
để tìm lấy miếng sống, như đang bừng bừng sống dậy trên lưỡi thép sáng chói. Rồi
tía nuôi tôi ngước nhìn tôi, nói bằng một giọng rắn rỏi:
-Ngày trước, tía đánh rơi nó. Con đã nhặt được. Au cũng là
"duyên nợ" của con. Số nó thuộc về con từ buổi ấy. Hôm nay tía giao
nó lại cho con. Coi như lúc nào cũng có tía bên cạnh con. Khá giữ lấy!
Tía nuôi tôi cầm con dao run run đưa cho tôi. Lần đầu tiên
tôi mới đứng nghiêm dưới cờ của một buổi lễ tuyên thệ có tính chất thiêng liêng
như đêm nay. Sự việc diễn ra đột ngột quá, không ai lường trước được. Tôi lúng
túng chưa biết phải nên như thế nào, thì chú Huỳnh Tấn đã hất hàm ra hiệu như bảo
tôi:“Cầm lấy đi! Sao cứ đứng đực ra mà nhìn vậy?"
Sau lưng tôi, các anh trong hàng ngũ cũng thì thào:“Bước ra
đi! Bước ra! Cầm lấy!". Tôi bước tới ba bước, đỡ con dao trên tay tía nuôi
tôi. Bỗng thấy chú Huỳnh Tấn rập chân hướng vào trung đội hô "nghiêm"
một tiếng lớn. Rồi chú ngước mắt lên hô to:
-Hy sinh tất cả vì Tổ quốc Việt Nam! Thề chiến đấu đến giọt
máu cuối cùng, dù đầu rơi máu chảy cũng không lùi bước!
-Xin thề!
Toàn trung đội du kích chúng tôi cùng vung thẳng nắm tay lên
trời và hô rập "xin thề" vang vang như một tiếng sét. Hồi âm từ những
khu rừng tối mênh mông vọng lại hai tiếng "xin thề", như tiếng hưởng ứng
của hàng nghìn, hàng vạn chiến sĩ du kích đứng dày đặc trong đêm, cùng vung thẳng
cánh tay lên hô theo chúng tôi. Tai tôi ù đi, không còn nghe rõ những khẩu hiệu
của người chỉ huy đơn vị mình thét lên sau đó. Mắt tôi chỉ còn thấy đầu người
lô nhô và những cánh tay vung lên hạ xuống, vung lên hạ xuống cùng với những tiếng
"xin thề"... "xin thề"... nổi lên. Tôi bồi hồi nhớ lại lúc
má nuôi tôi trao cho tôi bộ quần áo mới, bà đợi tôi mặc xong, đứng ngắm nghía một
lát, vuốt lại từng nếp áo sột soạt còn nguyên mùi hồ, mỉm cười:“Có hơi rộng đấy.
Nhưng má đã ước tính sang năm con cao lớn lên, thì mặc sẽ vừa vặn lắm!" Rồi
má nuôi tôi lim dim đôi mắt, quay nghiêng mặt đi... ừ, thằng Cò ốm. Một trận sốt
thương hàn đã quật nó nằm liệt giường hơn tháng nay, mới ngồi dậy ăn được bát
cháo. Nó không đến tiễn chân tôi được, cũng đành. Nhưng còn má nuôi tôi?
"Má mày lấy cớ phải ở nhà trông nom cho thằng Cò. Tao biết bả không chịu nổi
phút bịn rịn lúc chia tay đấy thôi!" Tía nuôi tôi cười cười vỗ vào lưng
tôi, thân mật nói bằng giọng đầm ấm xiết bao... Thầy giáo Bảy và ông ủy viên
quân sự thay mặt huyện ủy đã bước ra nói mấy lời kết thúc và trân trọng cám ơn
đồng bào. Đã nghe lệnh cử hành quốc ca. Không biết tôi đang gào lên hay tôi
đang hát nữa? Và tôi cũng không biết có phải tôi đang hát, hay những tiếng hát
chung quanh tràn vào người tôi, rồi lại từ trong người tôi ngân bổng dội ra
chung quanh? Tại sao chung quanh tôi bỗng dưng mờ đi như trông qua một làn kính
ướt nước như thế?
-Chào cờ... ờ... ờ! Chào!
Tôi ngẩng mặt lên, nhìn thẳng vào lá cờ Tổ quốc mới tinh khôi
treo trên đầu cột cao chót vót giữa sân lễ, đang được một bác già trong đơn vị
trân trọng cầm mối dây đưa dần xuống. Một cảm giác lạ lùng vụt xâm chiếm đầu óc
tôi: không phải lá cờ đang từ từ hạ xuống, mà chính những người đứng trên sân lễ
giữa rừng đước Cà Mau đây, tất cả đang từ từ bay lên, mỗi phút một gần màu đỏ của
lá cờ. Bao nhiêu lo buồn, tủi cực, bao nhiêu căm thù, nhớ thương và hy vọng
cùng dồn dập đến cả trong tôi trong giờ phút này. Tôi chớp chớp mi mắt nhìn lên
lá cờ, để cho những giọt nước mắt vui sướng và nóng hôi hổi tự do lăn rơi trên
đôi gò má nóng bỏng. Toàn thể các chiến sĩ du kích của trung đội địa phương đã
tập hợp dưới bóng những cây đước cổ thụ bên bờ sông vào lúc trời sắp rạng. Anh
em chia thành từng tổ ba người, xuống những chiếc thuyền nhẹ hai chèo, do các cụ
già và các ông thợ đốn củi xung phong chèo đưa chúng tôi đến một địa điểm khác.
Từ chỗ đó, trung đội du kích sẽ lên bộ đi vào vùng hoạt động mới trong huyện.
Sau buổi lễ, tía nuôi tôi đã có ý định theo thuyền đưa tôi đi. Nhưng khi ra đến
bờ sông, tía nuôi tôi ngần ngừ nhìn tôi một lúc, rồi lắc đầu bảo:“Thôi, tía bận
lắm. Con cứ đi với các anh các chú của con!". Đoạn tía nuôi tôi vỗ vào vai
tôi một cái thật mạnh:“Cố gắng, nghe con!". Tiểu đội 1 đã đi rồi. Tiểu đội
2 cũng đã xuống thuyền sắp sửa rời bến. Các anh trong tiểu đội 3 của tôi cũng
đã đeo ba-lô lên vai, lích kích mang súng đứng vào hàng. Tía nuôi tôi cài lại
cúc cổ cho tôi, miệng lắp bắp:
-Cố gắng nghe con! Cố gắng nghe con!
ông hấp tấp móc một dúm thuốc nhồi vào tẩu, xoẹt bật lửa đốt
đuốc, bập bập hít măi. Bỗng nghe con Luốc sủa oang oang. Tôi vừa quay mặt lại
thì con chó trung thành đã lao đến, dựng đứng hai chân sau lên, chồm chồm vào
tôi, vẫy đuôi rít lên những tiếng kêu mừng rỡ. Má nuôi tôi chạy tới, thở hổn hển:
-Thằng An đấy à? Tao chỉ lo tới đây thì mày đã đi mất rồi! Khổ
quá, có mỗi cái lược chải tóc mà mày cũng quên! Thấy còn giắt bên vách, tao vội
cầm chạy đem ra đây. Nghe bà Tám đi dự lễ về, bảo chúng mày còn ở đây...
-Hừ! Cứ làm như thằng bé mình nó còn con nít... Bà cầm gói gì
trong tay vậy?
Tía nuôi tôi hỏi bằng giọng có hơi khó chịu.
-Gói ruốc thịt nai! -Má nuôi tôi cười, nụ cười không tự nhiên
làm cho gương mặt bà như mếu
-Thằng Cò nó không chịu ăn. Nó bảo đem ra cho thằng An.
Mặc kệ tía nuôi tôi nhìn bà bằng cặp mắt sốt ruột, má nuôi
tôi cứ cầm lược chải chải món tóc lòa xòa trước trán tôi thành nếp xuôi ra sau,
đoạn bà nhét lược vào túi áo trên ngực tôi. Bà thong thả gỡ chiếc ba-lô trên
vai tôi, tháo ra, đặt gói ruốc vào. Bàn tay gầy gò của má nuôi tôi lật lật mớ
quần áo đã xếp thẳng nếp trong ba-lô, lôi ra chiếc áo cũ kẹp vào nách, rồi vội
vã buộc ba-lô lại vuốt vuốt đeo lên vai cho tôi:
-Cái áo này còn sờn mấy chỗ sau lưng, để má mạng lại. Rồi có
anh em nào đến chỗ con ở, má sẽ gởi theo!
Tía nuôi tôi nhấc tẩu ra khỏi miệng, thở một hơi khói thuốc
lá đặc sệt, dim mắt ngó má nuôi tôi:
- Sao mấy hôm trước, bà không mạng cho nó? Mạng hay vá gì đó
thì tùy bà. Nhưng đừng có học cái kiểu của các bà già xưa, mỗi lần nhớ thằng bé
lại bỏ cái áo của nó vào nồi rang để nó "nóng lòng sốt ruột" mà xin về
thăm nhà thì không được đâu!
ông cứ nói vậy...
Một luồng gió sớm từ biển thổi vào, mang theo hơi mát lạnh của
đại dương và mùi thơm sực nức của những bông hoa rừng vừa nở, làm gợn lên trên
mặt sông những ánh đỏ của bình minh đang nhuộm hồng mặt nước. Tôi cúi đầu chào
tía nuôi tôi, chào má nuôi tôi, gởi lời chúc thằng Cò mau mạnh, rồi xốc lại con
dao găm và quả lựu đạn đeo bên thắt lưng, rướn người nhảy phóc xuống thuyền.
2/4/2022 Đoàn Giỏi
2/4/2022
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét