Vũ Hoàng Chương
"Say" để quên thời thế
Viện Hàn lâm khoa học Thụy Điển mới đây đã công bố 100 cái
tên được đề cử cho giải Nobel Văn chương năm 1972 (theo đúng quy định sau 50
năm), trong đó bất ngờ có tên nhà thơ Vũ Hoàng Chương của Việt Nam được đề cử.
Vũ Hoàng Chương được đề cử bởi Thang Lang (nhiều người cho là
lỗi đánh máy của nhà phê bình Thanh Lãng). Như vậy sau nhà báo – nhà văn Hồ
Hữu Tường và trước chính trị gia Lê Đức Thọ, Vũ Hoàng Chương là người Việt thứ
3 được đề cử tại giải thưởng này.
Vũ Hoàng Chương sinh năm 1915 tại Nam Định, trong một gia
đình giàu có và gia giáo. Cha ông là quan tri huyện, mẹ ông cũng yêu nghệ thuật
nên ông được học và tiếp cận với Hán văn từ nhỏ. Khi trưởng thành, ông học tiếp
tiếng Pháp và đỗ tú tài Pháp tại Hà Nội năm 1938.
Nhà thơ Vũ Hoàng Chương (1915 – 1976)
Tại Việt Nam, nhiều thi phẩm của ông đã được nhiều thế hệ yêu
thơ quý mến. Ông xuất hiện vào giai đoạn cuối Thơ mới, khi những Xuân Diệu, Huy
Cận, Lưu Trọng Lư… đã có tiếng nói nhất định. Nhiều nhà phê bình cho rằng thơ
ca của ông sang trọng, có dư vị hoài cổ, giàu chất nhạc và có sắc thái Đông
Phương. Có thể nói chính sự pha trộn văn hóa Đông – Tây, mới – cũ giữa tuổi thơ
ấu và quãng trưởng thành đã làm nên những khác biệt trong thơ của Vũ Hoàng
Chương.
Điều đó cũng được thể hiện trong tập Thơ Say gần
đây đã được tái bản. Theo đó tình yêu là trụ cột chính vẫn luôn xuất hiện trong
thi ca ông, từ đó mở đường hướng về quá khứ để trốn tránh hiện tại bế tắc. Tuy
thế tình yêu của ông không trường tồn, đắm đuối; mà lại mong manh, e ngại và rồi
thất bại, tuyệt vọng, chán chường. Chính trong cảnh ấy mà ông đến với trạng
thái siêu hình của say, để thả lòng mình và sống trong thế giới khác.
Nói về tình yêu, trong tập Thơ Say, ta có thể thấy được
hai tổ khúc vô cùng trinh nguyên và đầy tươi mát gồm Mùa (đề tặng em
Vân) và Yêu (đề tặng Kiều Thu). Đây như là hai tuyệt tác ca tụng ái
tình, với những “tình xuân”, “cung Hồ lả lướt trôi”, “duyên nụ tuổi 15”, “gót
sen”, “lời suối”… Ở đó có “anh vô tình em ngây thơ” vừa mới yêu nhau, vẫn còn lạ
lẫm, đôi chút ngượng ngùng. Tuy thế kết cục của chúng không hề tươi sáng, mà ta
sẽ thấy ở ngay tổ khúc Lỡ làng tiếp sau, cũng như từ những trải nghiệm
của cuộc đời ông.
Theo đó “thi bá” họ Vũ từng có một lời thề ước với Tố Vân, và
cũng là Vân trong lời đề tặng chuỗi Mùa hay tập thơ Mây ra mắt
sau đó. Tuy thế bởi việc hứa hôn từ năm 12 tuổi, nàng bỏ chàng đi với cuộc hôn
ước. Đáng nói là với gia cảnh khá giả, Vũ Hoàng Chương hoàn toàn có thể thuyết
phục Vân thoái hôn, trả lại sính lễ, nhưng chàng đã không làm thế. Từ đó mà những
nhạc điệu của khúc Lỡ làng ra đời.
Nhưng dù cho thế thì chính nhà thơ cũng có một sự tôn thờ hướng
đến ái tình thiêng liêng. Trong tổ khúc Cưới với những bài thơ
như Tối tân hôn, Động phòng hoa chúc, ông đã “thoát hồn khỏi kiếp trần
gian” để đến với những hình tượng và thế giới riêng. Cái đẹp của sự giao hòa giữa
những thể xác được ông sánh ngang với chính niềm vui khi tìm thấy thơ Đường, để
ta được nghe những câu thơ như “ngây ngất rời xứ mộng”, “bỏ cánh lại cung
trăng”… cùng những hình tượng “thuyền mây”, “cửa động”… mờ ảo trong tiếng tiêu,
sắt, cầm, nguyệt, tì và hương trầm dâng
Chính ông cũng từng nói về tình yêu như sau: “Đã từ lâu, tôi
có ước nguyện gom góp lại những bài thơ ‘tình yêu’ viết trong tuổi hoa, để in
thành tập riêng, điều đó sẽ giúp tôi sống trọn vẹn cùng muôn ngàn ảo ảnh xa
xưa. Đành rằng tình yêu không chịu ràng buộc nào. Tình yêu vốn không tuổi!
Nhưng tôi nhiều khi cảm thấy mình đặc biệt ưa thích những bài thơ ‘tình yêu’ viết
từ trước tuổi bốn mươi”.
Thế nhưng cuộc tình lại chẳng tày gang, để ngay sau đó họ phải
tách biệt trong Bức khăn mời cưới, Đời còn chi hay là Chợ chiều.
Trong sự cách xa “vò võ sầu cô liêu”, ông khóc tình phụ, khóc mộng tàn để rồi
than rằng “sống để đợi ngày chết, đời còn chi?” Trong chuỗi Lỡ làng, không
dưới một lần ông nhắc đến cái chết, cõi âm, bạc mệnh và những linh hồn mong
manh. Với nỗi ngậm ngùi thắm thiết rầu rỉ thê lương, tình yêu trong ông “chỉ
còn một điểm trắng, hấp hối trong đêm sâu”, kéo theo “sầu chở đầy xe nẻo cố
hương”. Và say là thứ khả dĩ cứu vớt đời ông.
Nói về cái “say” thường xuyên xuất hiện trong thi ca của Vũ
Hoàng Chương, Hoài Thanh – Hoài Chân trong tập Thi Nhân Việt Nam đã từng
nói rằng: “Ý giả Vũ Hoàng Chương định nối cái nghiệp những thi hào xưa của Đông
Á: cái nghiệp say […] Cái say sưa của Vũ Hoàng Chương là một thứ say sưa có chừng
mực, say sưa mà không hẳn là trụy lạc, mặc dầu từ say sưa đến trụy lạc đường chẳng
dài chi. Nhưng trụy lạc hay say sưa đều mang theo một niềm ngao ngán. Niềm ngao
ngán ấy ta vốn đã gặp trong thơ xưa. Duy ở đây có cái vị chua chát, hằn học, và
bi đát riêng…”
Trong phong trào Thơ Mới, Vũ Hoàng Chương nổi bật lên hẳn với
một phong cách vô cùng độc đáo và đầy mới lạ. Thi ca của ông đi từ trữ tình với
những hình ảnh chịu nhiều ảnh hưởng của thơ Đường, cho đến tượng trưng – siêu
thực với những ảo ảnh, hư ảnh… có phần buông tuồng, hoang dã, mê đắm đậm chất
jazzy của văn hóa Tây phương.
Trong bài Phương xa nổi tiếng, ông tự gọi mình là
“lạc loài dăm bảy đứa”, “đầu thai lầm thế kỷ”. Có thể thấy rằng ông không chỉ lạc
trong cõi trần hoang sơ, mà còn tách khỏi thể xác để vươn đến những hồn mây, về
với quá khứ gần với Đường thi để ủi an mình. Riêng về điều này ta có thể thấy
ông rất hay dùng những điển cố, điển tích xưa của Đông Phương như Thiên Thai,
Đào Nguyên, bể mây, cung trăng… Do đó những bài thơ như Đà Giang, Tạm ghé
thuyền, Nghe hát, Nhớ quê nâu… lại như một mạch nối dài của Tỳ Bà Hành từ
Bạch Cư Dị. Ở đó có những điểm chung về các hình tượng đẹp hư vô, tự diệt,
không cố định và dễ suy tàn. Trên thực tế ông cũng là người dịch thơ Đường với
những bản dịch được đánh giá cao.
Từ những ảnh hưởng kể trên, có thể thấy Vũ Hoàng Chương tự tạo
cho mình một thế giới riêng, nơi có Xứ Mê ly, Trời Phóng đãng, Thành Sầu, Xứ Mộng,
Trời Quên… Với những “kiến trúc” tưởng như gắn với Thơ Đường, tuy thế ông tạo
“lối vào” lại gần Tây phương, khi mang vào đó những siêu thực – tượng trưng với
những “hư ảnh”, “tường gương hư ảo bóng giai nhân”… trong “khúc nhạc hồng”, “điệu
kèn biếc”… và những đôi chân, khớp gối… đã quá rã rời trong cơn chếnh choáng của
jazz, say sưa và cả những chất thức thần.
Vũ Hoàng Chương tách đôi thế giới, bởi mơ và thực chẳng cùng
đi đôi. Sự say của ông vừa là trốn tránh hiện thực tàn khốc với tình dở dang, với
yêu bơ vơ; mà còn là khoảng không gian để ông đi đến vì ý thức được tài mọn, sức
hèn trong việc chuyển hóa những khao khát ấy trở thành hiện thực trong ý thơ,
khung tranh hay các bản nhạc. Với ông thực tế “nặng trần ai” và chỉ có “say
nàng men” để hồn “cay như quế”, “đắng như mơ” mới là cung cách khả dĩ để lãng
quên đời.
Sự thoát hồn này không chỉ đến từ thơ ca, mà trong đời thực
ông cũng dường như đang không thực sống. Một học trò trong quãng thời gian ông
từng dạy học cũng đã tả lại: “Thầy đi quanh lớp bằng những bước chân nhẹ nhàng,
đầu nghểnh cao, mắt xa vắng, giảng bài bằng cái giọng nhừa nhựa thanh thanh. Có
những lúc mắt thầy như nhắm hẳn lại, đầu lắc lắc từng chập. Những lúc đó thầy
như thoát hồn bay về một trời thơ nào đó. Thầy say thơ. Thầy ngâm thơ như một
người đồng thiếp. Như không còn thầy. Như không có trò. Như không phải là một lớp
học. Chỉ có một cõi thơ lồng lộng bát ngát”.
Như vậy từ những thất bát trong chuyện ái tình, việc thấy bản
thân sức mọn kém tài cũng như thời cuộc có phần đen tối… ông đã chọn “say” như
cách thoát khỏi cõi đời phàm tục, để đến với “cõi tạm” khác, nơi ông thấy mình
hiện diện và thực sống hơn. Với nhiều thập kỉ sáng tác đa dạng thể loại từ thơ,
văn đến cả kịch thơ… Vũ Hoàng Chương đã để lại một sự nghiệp dài và đậm dấu
ấn cá nhân, để những Thơ say (1940), Mây (1943), Hoa
đăng (1959), Cảm thông (1960), Tâm sự kẻ sang Tần (1961), Trời
một phương (1962)… lưu lại ấn tượng với người yêu thơ.
13/6/2023
Đoàn Tuấn Anh
Nguồn: T/c Văn Nghệ Quân Đội
Theo https://vanhocsaigon.com/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét