Thứ Sáu, 30 tháng 6, 2023

Hồi ký Đoàn Duy Thành: Làm người là khó 1

Hồi ký Đoàn Duy Thành:
Làm người là khó 1

CHƯƠNG 1
Diễn Đàn xin giới thiệu với bạn đọc toàn văn hồi ký LÀM NGƯỜI LÀ KHÓ của ông Đoàn Duy Thành.
Sinh năm 1929, ông đã tham gia Khởi nghĩa tháng tám 1945. Trong kháng chiến chống Pháp, ông bị bắt và giam ở Côn Đảo. Từng giữ các chức vụ chủ tịch Uỷ ban nhân dân Hải Phòng, bí thư Thành uỷ Hải Phòng, Bộ trưởng ngoại thương, Phó chủ tịch Hội đồng chính phủ (nội các Phạm Văn Đồng và Phạm Hùng), uỷ viên Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam.
Cuốn sách này đã được in và "lưu hành nội bộ", không được phép xuất bản chính thức, nhưng đang được phổ biến khá rộng rãi dưới hình thức in chụp và trên mạng internet.
Chương 1: Thời niên thiếu
Chương 2: Tham gia phong trào cách mạng và khởi nghĩa tháng 8 năm 1945
Chương 3: Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược Việt Nam lần thứ 2 trên đất Kim Thành, Hải dương
Chương 4: Cuộc chiến đấu mới, mặt đối mặt với quân thù
Chương 5: Ra tù và tiếp tục hoạt động cách mạng
Chương 6: Thời kỳ đổi mới ở Hải Phòng
Chương 7: Tòng chính tại thủ đô
Chương 8: Cuộc đối chất có một không hai trong lịch sử đảng ta
Chương 9: Con cá nó sống vì nước - Chủ tịch phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam (VCCI) sống vì doanh nghiệp
Chương 10: Đồng chí Trường Chinh, đồng chí Phạm Văn Đồng và một số đồng chí uỷ viên bộ chính trị, uỷ viên Ban bí thư thời kỳ đó, đối với Đảng bộ và nhân dân Hải Phòng
Chương 11: Kết luận
Hồi ký Đoàn Duy Thành - Chương 1
Thời niên thiếu
Tôi sinh ngày 15-9-1929 ở thôn Tường Vu, xã Cộng Hòa, huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương.
Giống như bao làng quê thuần nông của đồng bằng Bắc bộ, làng tôi có lũy tre xanh bao bọc, nổi lên tựa một hòn đảo nhỏ giữa biển lúa mênh mông. Làng tôi không lớn, nhưng tất cả, tất cả đều gắn bó với tôi rất thân thiết và sâu sắc trong thời thơ ấu và niên thiếu. Tôi thuộc từng nét mặt người, từng mái nhà, xóm ngõ, từng gốc cây, bờ ao, giếng nước... Sau này dù đi khắp nơi, mảnh đất chôn rau cắt rốn vẫn luôn hiện lên rõ nét trong tâm trí tôi với một nỗi nhớ da diết, cháy bỏng. Có một cây gạo cổ thụ cao vút, vượt khỏi những vồng tre giữa làng, mỗi độ xuân về nó đơm đầy hoa đỏ, rực rỡ giữa trời xanh.
Cây gạo ấy đã như một biểu tượng của làng tôi. Những khi đi xa về gần, cứ chợt thấy bóng dáng cây gạo từ xa, lòng tôi lại bồi hồi xao xuyến. Kia, làng tôi kia rồi...
Dưới lũy tre xanh, con đường làng hình thành tự nhiên từ những lối mòn ngoằn ngoèo, uốn lượn Khi trời mưa, đường trơn như đổ mỡ, lầy lội, bùn đất ngập ngang mắt cá chân. Một ngôi chùa nhỏ mái ngói rêu phong nằm cạnh đầu làng. Kỳ tuần rằm lễ tiết nào, mẹ tôi cũng đưa tôi lên chùa lễ Phật. Nhờ năng đi lễ mà từ bé tí tôi đã thuộc hết từng cầu đối chữ nho ở đó.
Dân làng tôi quanh năm đầu tắt mặt tối, chân lấm tay bùn nhưng vẫn thiếu đói, rau cháo đắp đổi. Trừ một vài nhà thuộc diện địa chủ, phú nông, có nhà ngói cây mít, còn hầu hết đều mái tranh vách đất, dột nát, tồi tàn. Tuy thế trong cái cộng đồng nhỏ bé dường như yên bình này, hàng ngày, hàng giờ vẫn diễn ra bao nhiêu chuyện, bao buồn vui theo dòng đời của một xã hội thu nhỏ, mà tôi sẽ kể sau.
Làng Tường Vu nối liền với làng Lai Khê, có đường quốc lộ số 5, có đường sắt Hà Nội - Hải Phòng đi qua, có cầu và ga Lai Khê. Kế tiếp là làng Thanh Liên, có trường tiểu học Pháp-việt (Ecole Primaire) mở từ những năm 1924, trước cả trường của huyện 4 năm. Ba làng chúng tôi hợp thành một xã, ngày nay gọi là xã Cộng Hòa. Do vị trí địa lý thuận lợi như thế nên quê tôi dù nghèo vẫn phảng phát chút văn minh đô thị, văn minh công nghiệp, cũng như sự nhậy cảm chính trị với tình hình thời cuộc, tạo điều kiện cho dân làng sớm tiếp cận các phong trào cách mạng trong từng thời kỳ lịch sử đất nước.
Trường tiểu học nơi tôi vỡ lòng có 2 cấp. Mỗi cấp học trong 3 năm. Học xong 6 năm, nếu thi đỗ và đủ 16 tuổi sẽ được bổ nhiệm làm hương sư ở các làng khác, trình độ gọi vắn tắt là đã có bằng “Séc” sau này ta dịch là “bằng sơ học bổ túc”, qui sang hệ giáo dục của ta tương đương lớp 4. Tuy nhiên sức học thực tế của những người có bằng “Séc” khá hơn lớp 4 hiện nay rất nhiều vì được học kỹ, học sâu, cả toán lẫn Pháp văn. Toán đã học đại số, ngoại ngữ thì những học sinh giỏi có thể giao tiếp, viết văn bằng tiếng Pháp được.
Cha mẹ tôi sinh cả thảy 10 lần, nhưng 6 người bị chết ngay từ nhỏ, còn lại hai trai, hai gái. Về kinh tế, gia đình tôi thuộc diện trung lưu. Xưa ông nội tôi dạy học ở nhà ông ngoại, dạy 2 con trai của gia đình ngoại học chữ Hán. Ông bà ngoại tôi cảm kích gả mẹ tôi cho con giai thầy đồ tức là bố tôi. Ông bà ngoại còn cho bố mẹ tôi 3 mẫu ruộng (mỗi mẫu là 3.600 m2) làm vốn. Khi tôi còn nhỏ, gia đình có điều kiện cho tôi đi học cùng với người anh ruột, hơn tôi 3 tuổi, nhưng cùng học một lớp. Sau 3 năm học, hai anh em tôi đều đỗ lấy bằng “Sơ học yếu lược”. Thi chuyển cấp hai anh em cũng được lên. Nhưng mới học nửa học kỳ, gia đình tôi gặp tai biến: Bố tôi thua bạc, bị gia đình Trưởng Cơ (Cơ Ký), một thương gia kiêm địa chủ ở thành phố Hải Dương lừa, chiếm mất 3 mẫu ruộng. Kinh tế bị sa sút, bố mẹ tôi buộc phải chuyển chúng tôi về học Hán tự (chữ Nho) để giúp thêm gia đình cày cấy, chăn nuôi, khắc phục hoàn cảnh khó khăn.
Hàng ngày, buổi sáng chúng tôi học chữ Nho, chiều giúp đỡ gia đình chăn trâu, nuôi lợn, nấu cơm, tát nước và học cày bừa, cấy gặt. Ngày còn theo học tại trường, tôi học khá, lại chăm chỉ, lễ phép, quý mến bè bạn, học bạ luôn được phê: “hạnh kiểm tốt và rất tốt; thông minh và rất thông minh2, bởi vậy các thầy giáo đều tiếc cho tôi.
Các thầy khuyên tôi mượn sách vở của người cậu họ và cháu họ để tiếp tục học thêm. Một vài tuần thầy giáo Nhất (thầy Phong - hiệu trưởng), và thầy giáo Nhì (Nguyễn Đình Tụng) cho phép tôi đến nhà để kèm cặp. Đặc biệt thầy giáo Tụng rất yêu quý tôi. Chính thầy giúp đỡ tôi giải 565 bài tính đố trong tập toán luyện thi sơ học yếu lược mà thầy là tác giả. Sách đã xuất bản vào cuối những năm 30 - 40 của thế kỷ 20, một cuốn sách được hầu hết thầy trò những lớp sơ đẳng năm thứ 3 các trường ưa chuộng, nhất là các tỉnh phía Bắc.
Thầy Tụng tham gia kháng chiến chống Pháp. Sau khi miền Bắc giải phóng, thầy về làm kế toán trưởng Trường Sư phạm miền núi, rồi được cử về làm cán bộ cải tạo công thương nghiệp ở thành phố Hải Phòng và được phân công về đơn vị tôi phụ trách. Thầy trò gặp nhau tay bắt mặt mừng, nhưng “Thầy vẫn là thầy, trò vẫn là trò”, tuy chức vụ nay đã khác xưa. Tôi lúc nào cũng giữ lễ độ như khi còn là đứa trò nhỏ, vẫn xưng “con” với thầy. Nhiều lần thầy bảo tôi: “Nay trò là thủ trưởng, thầy là cán bộ dưới quyền, xưng hô như vậy thầy thấy ngượng”. Tôi phải giải thích mãi. Nhiều ngày chủ nhật thầy không về ngôi nhà 222 Hàng Bột, Hà Nội, thầy lại nhà tôi ăn bữa cơm “rau mắm”, chia sẻ với chúng tôi hoàn cảnh kinh tế khó khăn lúc đó. Thầy trò lại được một dịp hàn huyên vui vẻ, ôn chuyện cũ. Cho đến năm 1982 thầy qua đời. Lúc đó tôi là Bí thư Thành uỷ Hải Phòng, tôi lên viếng Thầy với bao xúc động. Cả nhà, cụ bà và các em đều khóc. Ngày hôm đó thật là ngày đau buồn!
Do xuất thân từ gia đình nhà nho nông dân yêu nước, nay lại trở về học chữ thánh hiền nhờ bác tôi và cha tôi dạy, được giáo dục theo “cửa Khổng, sân Trình” nên tôi thấm nhuần rất nhanh đạo đức Nho giáo. Để tôi có thêm ý thức về truyền thống gia đình, hai ông chú ruột con cụ nội tôi là cụ Đốc Khảm thường hay kể lại chuyện cụ tham gia phong trào Bãi Sậy, do chủ soái Nguyễn Thiện Thuật chỉ huy. Phó tướng thứ nhất kiêm Tham mưu trưởng là cụ Cử Đức. Chính cụ Cử từng ngồi dạy học ở nhà tôi 9 năm. Bên ngoài là dạy học, bên trong là chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy. Nhưng cuộc khởi nghĩa thất bại, các cơ sở ở Hưng yên bị phá gần hết, các cụ đều chuyển về nhà tôi ở Kim Thành với một số cơ sở ở Thanh Hà, ở Tứ Kỳ, cùng thuộc tỉnh Hải Dương. Mỗi khi có động, các cụ vượt sông Tường Vu, tức sông Rạng, sang Thanh Hà rồi đi Tứ Kỳ, tới một xã đảo trên sông Thái Bình ẩn náu. Nghe cha tôi kể lại, trước khi cụ Tán Thuật - Nguyễn Thiện Thuật - tránh nạn sang Trung Quốc, cụ đã lưu lại nhà tôi hơn một tháng. Trong thời kỳ cụ ở đây, sự canh gác vô cùng cẩn mật. Ông nội tôi vừa là nghĩa quân Bãi Sậy, vừa là học trò cụ Cử Đức, có trách nhiệm bảo vệ, cắt người canh gác từ đường số 5 và chung quanh nhà tôi. Đường số 5 nếu vạch thẳng vào nhà tôi như con đường ngày nay chỉ có 400m, nhưng trước đây do dân cư không có quy hoạch, đường sá xấu, nên đi vào nhà tôi phải mất cây số rưỡi.
Sáng nào cụ Tán và cụ Cử cũng dậy rất sớm. Không có đồng hồ, các cụ dùng 3 nén hương đen, đốt hết là dậy, xem xét, nghe ngóng hiện tượng chim kêu, hót... để phán đoán tình hình. Có một buổi sớm tinh mơ, thấy con chim lợn kêu éc éc ba tiếng rồi bay đi, các cụ liền cho chuyển địa điểm ngay. Thuyền các cụ sang Thanh Hà thì khoảng tám, chín giờ hôm đó lính Tây cùng Tri huyện Kim Thành kéo đến khám nhà tôi. Chúng lục soát nhưng không bắt được tang vật. Bọn lính lấy cắp mất một ít đồ đạc vải vóc rồi bỏ đi.
Sau khi cụ Tán Thuật đã lánh nạn sang Trung quốc, cụ Cử Đức đã ổn định chỗ ở, cụ nội tôi - cụ Đốc Khảm, lên Huyện kiện về việc lính đến khám nhà ăn cắp tài sản. Quan Tri huyện hồi đó cùng đỗ cử nhân đồng khoa với cụ cử Đức (tôi quên tên ông ta) nên rất nể cụ đốc Khảm, đã đền bù chức “Phó tổng” cho một người con trai cụ Đốc. Quan điểm của các cụ tôi lại là học hành thành tài chỉ đi dạy học, làm thuốc cứu dân độ thế, chứ không làm bất cứ chức sắc gì để hợp tác với Pháp làm hại dân mình. Nhưng chức Phó tổng lúc đó cũng to, bỏ thì có người tiếc, nên các cụ bàn cứ để người cháu ngoại cụ Đốc, ông Nguyễn Văn Quốc, nhận chức đó, tạo thế hợp pháp che chở cho những người yêu nước và không được hà hiếp nhân dân.
Tôi học chữ nho gần 4 năm, học miệt mài. Cha tôi dạy: “Học phải như thiết như tha, như trác như ma, như nang huỳnh, như ánh tuyết” (có nghĩa học phải như mài, như dũa, như cắt, như cưa sắt, không có đèn dùng ánh sáng đom đóm, ánh trăng, ánh tuyết mà làm đèn học). Tôi thức khuya dạy sớm, nằm quỳ viết, hệt các nho sinh, sĩ tử ngày xưa. Nhờ dùi mài kinh sử, chẳng bao lâu tôi đã học hết Tứ thư, sang Ngũ kinh. Đặc biệt Kinh thi và Kinh Xuân thu (dạy cách trị quốc của phong kiến Trung Quốc) tôi phải nhập tâm rất kỹ. Do nỗi ấm ức vì không có điều kiện theo học quốc ngữ tại trường nên tôi dồn hết khát khao vào việc đèn sách tại nhà. Bởi vậy sự tiến bộ của tôi khiến mọi người ngạc nhiên.
Nhưng cha tôi không mấy khi khen con trước mặt. Tôi chỉ nghe lỏm được một lần bác tôi, người cùng dạy dỗ tôi, nửa đùa nửa thật nói nhỏ với cha tôi:
- Tôi và chú đèn sách có dễ hơn hai chục năm, học qua các cụ Cử, cụ Tú, kể cả cụ Thủ Khoa Huân... nhưng xem ra ta sắp hết chữ dạy thằng bé. Đúng thế. Tôi thực sự lấy làm lạ thằng bé này!3
Nghe vậy, cha tôi gạt đi. Người càng tỏ ra nghiêm khắc rèn cặp tôi hơn trước.
Tôi còn nhớ có lần sau khi học xong hai quyển thuộc bộ sách Mạnh Tử, bác và cha tôi bắt tập làm câu đối. Bác tôi ra vế:
“Sự Tề hồ? sự Sở hồ? Đằng Văn chi vấn thậm nan” (thờ vua nước Tề hay thờ vua nước Sở, vua Đằng Văn Công hỏi rất khó trả lời).
Tôi đối lại:
“Vi Tướng dã! vi Quân dã! Thứ dân diệc do bình dị?” (làm tướng, hay làm vua, người dân cũng coi là dễ)
Bác tôi khuyên son tất cả, lại khen niêm luật đủ. Nhưng bác chê tôi không trích được điển tích. Quan trọng nhất là khẩu khí tôi coi thường nhà vua, lời lẽ ấy ngày trước thi viết có thể bị chém đầu như bỡn. Tôi thấy ngại, xin thôi không tập làm câu đối nữa, chỉ tập viết, làm vài bài thơ hoặc bài phú ngắn đưa trình bác tôi xem cho vui.
Các bạn đồng học với tôi hàng ngày đọc thật to những sách Bắc sử, Minh tâm chính văn... (cách học ngày xưa bắt buộc phải gào toáng lên như vậy) Tôi có cái thú lắng nghe những tiếng ê a của họ rồi thuộc lúc nào không nhớ. Đối với tôi cũng là một trò chơi thôi. Ai ngờ đến nay đã hơn 60 năm, tôi vẫn còn thuộc lòng hàng trang những bài học cũ, nhất là những bài mang tính triết lý cao mà mình tâm đắc.
Đương nhiên những thể loại thơ Đường luật như “Thất ngôn bát cú” hoặc “Tứ tuyệt” bằng chữ Hán, tôi có thể làm trong mươi mười lăm phút. Khi cảm xúc dào dạt thì thơ cũng thấy hay hay, khi bị bắt buộc thì ý tứ cũng đủ, nhưng thường thôi, gọi là có!
Ông nội tôi, cụ Khóa Thản, đã mất sớm trước khi tôi ra đời. Nghe cha tôi kể lại, cụ học giỏi, nhưng đi thi Hương ba, bốn bận chỉ đỗ đến “Nhị trường” vì “Phú” cụ kém. Ai đỗ “Tam Trường” thì giỏi là Cử nhân, trung bình là Tú tài. Cụ Khóa Thản dạy học ở nhiều nơi trong tỉnh, trong huyện. Học trò cụ khá đông. Cùng với số học trò cụ Đốc Khảm, thân sinh của cụ, cộng lại môn đồ hai cha con cụ có tới hàng trăm người. Tôi là cháu chắt nội các cụ, được thơm lây, đi đến đâu đều được trọng vọng, quí mến.
Ngoài ra tôi có hai ông chú ruột là cụ khóa Đôi và cụ Lý Xá. Cụ Lý Xá chỉ là con nuôi cụ Đốc tôi, gọi cụ bằng chú rể. Cụ Lý Xá học hành rất sáng dạ nên sau cũng dạy học và làm thuốc, làm thầy địa lý, xem số tử vi. Có bận hai cụ đem lá số của tôi ra chấm, tấm tắc khen tôi có số làm quan to. Cha tôi nghe thấy gạt đi, ý không muốn nhắc tới chuyện đó.
Cha tôi là người hiền lành, ít nói, sống thì trên kính dưới nhường, không to tiếng với ai. Đối với con cái cha rất hiền từ, dạy bảo nhỏ nhẹ. Mỗi khi anh em tôi sai quấy, ông chỉ tỏ vẻ khó chịu trên nét mặt, “chặc, chặc...” vài tiếng. Tuy cha không nói gì thêm, nhưng chúng tôi đều rất sợ và kính nể, cố không để cha phật lòng. Anh chị em tôi bảo ban nhau chăm học, chăm làm cho bố mẹ vui lòng, chỉ mong gia đình hòa thuận, êm ấm.
Có điều cha tôi thích chơi tổ tôm. Ông có thể đánh bài thông hai ba ngày liền. Nhưng ông đánh rất thấp, mười lần thua đến chín. Rút cục ông thua nhiều, mắc nợ, phải gán ruộng... Lần ấy ông phải viết giấy tạm gán (đoản mại) 3 mẫu ruộng, nhưng họ lừa ông, bảo viết giấy bán đứt (đoạn mại), ông cũng nghe theo. Do đó gia đình tôi bị nhà tư sản kiêm địa chủ ở Hải Dương là Trường Cơ chiếm đoạt mất 3 mẫu ruộng kể trên. Gia đình khánh kiệt. Mẹ tôi tiếc của, khóc lóc không nguôi. Bà quyết định lên tận Hải Dương vạch mặt đôi co với vợ chồng Trưởng Cơ. Nhưng bà yếu thế chẳng làm gì được họ.
Đau khổ quá, khi trở về đến cầu Phú Lương bà định nhảy xuống sông Thái Bình tự vẫn. Lúc đó mẹ tôi đang mang thai em út tôi (cô Vinh, nay gần 70 tuổi). Nhìn xuống bụng, mẹ tôi thương con đứt ruột, đành gạt nước mắt trở về... Gia đình xúm vào khuyên can, an ủi mãi nên mẹ tôi mới từ bỏ ý định tự tử.
Trong những năm vừa học Hán tự vừa tập làm nghề nông, từ cày bừa, cấy gặt, xay lúa giã gạo đến nghề mà nhiều người sợ mất vệ sinh không dám làm như gánh phân và rải phân “bắc” ra ruộng tôi đều làm cả.
Năm 13 tuổi, tôi bàn với anh giai là Đoàn Hữu Hòe rằng phải thay đổi cách làm ăn mới mong khá được. Cau quá già cỗi, không ra quả phải phá bỏ. Ngoài đồng cấy một vụ lúa rồi trồng khoai lang nuôi lợn. Đan thuyền chở lúa không phải gánh, vừa nhẹ, vừa không mất tiền thuê. Tôi còn vận động anh rể đi cày cùng anh Hòe, thực sự làm ruộng, cấy thuê cho Trưởng Cơ. Hai em gái tôi cắt cỏ chăn trâu.
Sau vài năm vất vả, kinh tế gia đình đã khá lên, nghĩa là đủ cơm ăn hai bữa sáng, trưa, tối nhịn. Những năm mất mùa, tháng ba ngày tám mới phải ăn bữa cơm bữa cháo. Tuy thế vẫn sướng hơn nhiều gia đình trong làng, họ chỉ ăn rau cháo, khoai lang, củ chuối... Có buổi tối bố mẹ tôi bắt học khuya, đói quá, anh em phải chia nhau đứa hái ngọn khoai, đứa sắp nồi nấu, nêm ít mắm muối, mỗi người một bát ăn cho ấm bụng rồi lại học. Sáng sớm đã phải dạy đọc bài cho bố tôi và bác tôi nghe, xong anh em chia nhau nấu cơm, nấu cám lợn... sau đó người đi học, người ra đồng, ai vào việc nấy. Cha tôi không làm chức sắc gì, nhưng vẫn được vì nể, bởi họ Đoàn cũng là họ lớn, cùng với họ Nguyễn chia nhau các ngôi thứ trong làng. Nếu hai họ không hòa thuận tất sinh ra mâu thuẫn, kiện cáo, đánh nhau, hằn thù liên miên, năm này qua năm khác... Chỉ đến Cách mạng tháng 8-1945 mới tạm chấm dứt hận thù giữa hai họ. Tôi là người góp phần quan trọng vào việc hòa giải từ ngày đó cho tới tận hôm nay... và mãi mãi mai sau...
Về điều này có nhiều chuyện ly kỳ, thậm chí man rợ. Ông bác họ tôi làm Tiên chỉ (cụ Bá Xừ) cũng là thầy dạy chữ Nho cho tôi, ông kể: “Khi ông tranh nhau chức Lý trưởng cùng với người em con bà cô ruột là ông Bá Ngôi, do lòng căm ghét ông đã đi thuê một thích khách về giết em họ. Người thích khách ẩn ở nhà bố vợ ông Bá Xừ, nơi ông nội tôi ngồi dạy học. Do đó ông tôi phát hiện ra người thích khách. Ông tôi vội gọi ông Bá Xừ đến khuyên ngăn, giảng giải về đạo đức, nhân nghĩa ở đời. Rằng họ Đoàn chuyên làm điều thiện không làm điều ác, thất đức. Ông tôi là thầy dạy ông Bá Xừ nên lời khuyên can đó có kết quả. Ông Bá Xừ mới bỏ ý định giết ông Bá Ngôi. Tuy nhiên hai họ không hết kình địch nhau, vẫn tìm cách tiêu diệt nhau nếu có cơ hội”.
Lại năm 1940, chú họ tôi là Đoàn Hữu Lộng, vừa tham gia phong trào khởi nghĩa Bắc Sơn về nhà vào đêm 14-8 âm lịch, sáng hôm sau là ngày rằm tháng 8, ông đã bị tên Két-may, Chánh mật thám tỉnh Hải Dương cùng Tri huyện Kim Thành Phạm Gia Hệ đem một trung đội lính khố đỏ vừa Tây vừa ta về bao vây, bắt ông. Chúng còng tay ông, giải luôn lên tỉnh. Qua tin tức mật, được biết chính Chánh hội Hổ, con ông Bá Ngôi, báo cho viên cai trạm Bưu điện Lai Khê để y báo cho mật thám Hải Dương về bắt ông Lộng.
Khi Cách tháng 8 thành công, ông Đoàn Hữu Bảy, em ruột ông Lộng, lúc này là cán bộ Việt Minh bị truy nã, dăm sáu năm không dám công khai về nhà. Ông Bảy có ý muốn trả thù ông Nguyễn Văn Hổ (Chánh hội Hổ). Tôi vội can ngăn. Trả thù sẽ khiến hận thù kéo dài mãi mãi, không bao giờ chấm dứt. May mà ông Bảy nghe lời tôi.
Cuối năm 1946 giặc Pháp trở lại chiếm đóng quê tôi. Trong một cuộc diệt tề phản động, ta bao vây bí mật bắt tên trùm phản động đầu sỏ đến đánh bạc tại nhà Chánh hội Hổ. Lúc đó ông Hổ đang đánh bạc cùng tên này. Một người cháu họ ông Hổ giương súng định bắn luôn ông ta. Tôi vội ngăn lại nên ông Hổ thóat chết. Từ đó ông Hổ theo hẳn Cách mạng, ra vùng tự do. Ông được học tập ít lâu rồi trở về hoạt động vùng tạm chiếm, trở thành Đảng viên, làm đến Bí thư chi bộ. Khi ông Hổ bị địch bắt, bị tra tấn, ông không khai, không hợp tác với địch. Ông được nhân dân và Đảng viên quê tôi tín nhiệm, sống trọn đời, hơn 80 tuổi mới mất. Con cái ông sau này đều đi theo Cách mạng đến cùng và đời sống cũng khá giả. Sinh thời ông hay kể lại chuyện cũ, nói rằng rất biết ơn tôi.
Có thể nói sự tranh giành quyền lực gay gắt giữa bọn kỳ hào lý dịch ở nông thôn hồi ấy, cảnh chèn ép lẫn nhau đến mức tàn khốc đã gây ấn tượng rất sâu sắc trong thời niên thiếu của tôi. Đặc biệt là việc nhà tôi cấy ruộng “tô” cho địa chủ Trưởng Cơ. Sau mỗi vụ, bà Trưởng Cơ cùng gia nhân đến thu tô từng nhà. Đó thật sự là một ngày khủng khiếp... Họ kéo tới hàng chục người, do viên đồ tể Tuần Ca cầm đầu. Họ bước vào, thấy chưa kịp mở cửa buồng cho họ xúc thóc ra đong, viên tuần Ca xông tới đạp tung cửa buồng. Trông mặt mũi ông ta thật hung bạo... Cả nhà tôi cùng khóc. Riêng bố tôi, ông ngồi im ở một góc giường, nhắm mắt suy nghĩ. Còn mẹ tôi vừa khóc, vừa giằng co với họ, cãi nhau chuyện đong đầy, đong vơi (lúc đó đâu có cân để cân thóc).
Không những thế, tôi còn bị địa chủ Trưởng Cơ nghi cho viết lên kho thóc nhà y ở thôn Thanh Liên, chửi y và ông chánh tổng H. Ông H là thông gia với y, nên một buổi sáng, tôi đi đến trường tiểu học Thanh Liên, bị ông H cùng với người đầy tớ túm áo, bắt vào nhà tra hỏi. Tôi hoàn toàn không làm việc này, bị oan ức, tôi kêu khóc rất to. Ba thầy giáo: Thầy Phong, Thầy Tụng, thầy Phi cùng đến can thiệp, và nói: “Cháu là học trò có hạnh kiểm tốt, không bao giờ viết bậy như vậy”. Ông H. vừa tức vừa thẹn thùng, tha tôi ra. Khi tôi đến trường, thầy Hiệu trưởng tỏ thái độ bực tức, nói trước học sinh: “Đồ bắt nạt trẻ con...” rồi thầy vẫy tay bảo tôi vào học... Đến nay tôi còn nhớ như in nét mặt, thái độ của thầy Phong - thầy Hiệu trưởng lúc đó, với tấm lòng cảm kích.
Về quan hệ họ tộc, ông H., vợ ông với cha tôi là con cô con cậu ruột. Vợ ông là cháu ngoại cụ Đốc. Gia đình ông còn phải đóng giỗ Tết với gia đình tôi. Bởi vậy hôm sau mẹ tôi ra tận nhà ông Chánh H. trách móc ông gay gắt. Đến những năm 1944-1945 phong trào cách mạng đang lên, ông H. biết là làng tôi có Việt Minh bí mật, và hai ông Đoàn Hữu Lộng, Đoàn Hữu Bảy đã xuất hiện về làng công khai, nên ông H, lo xa. Ông hay đến nhà tôi chơi. Khi ông ta qua rẻo ruộng gặp tôi đang tát nước, làm ruộng... mặc dù tôi mới 14,15 tuổi nhưng đã lớn, ông dừng lại nói chuyện với tôi, khen ruộng này, ruộng kia lúa tốt, khen tôi học thông minh, hay làm và thân mật xưng “bác” với tôi. Ông nói “Bác sẽ làm mối cho cháu lấy H.”. Đó là con gái ông Giáo Q. em ruột ông H. Cô H. cùng học với tôi một lớp, sau cũng đi hoạt động cách mạng tích cực. Cô đẹp gái, nết na, đúng bản chất con nhà giáo, thuỳ mị dễ thương. Nhưng không may mẹ cô bị tai nạn giao thông, do ta đánh mìn đường 5 tàu đổ, cô phải trông nom đàn em nhỏ, không tiếp tục tham gia cách mạng được lâu dài... Cô cũng không đi lấy chồng, nay vẫn sống độc thân ở thành phố Hồ Chí Minh. Sau ngày thống nhất, cô H. ra Hà Nội, Hải Phòng thăm tôi mấy lần. Khi nhà tôi qua đời năm 1999, cô có viết cho tôi một lá thư dài, kể lại quãng đời của cô và lý do không đi lấy chồng. Còn giữa tôi và cô H. không có sự gặp gỡ hứa hẹn gì, nhưng trong lòng, theo ý riêng tôi thì hai người đều kính trọng nhau về phẩm chất và tình bạn học, bạn làm cách mạng.
Đối với ông Chánh H. Sau cách mạng tháng 8-1945, gia đình ông có nhiều người tham gia cách mạng và trưởng thành, tôi đối xử với ông đúng mực, không có hận thù gì để lại trong tôi. Kể cả con cái ông bà Trưởng Cơ khi cách mạng thành công, kháng chiến bùng nổ, chạy về làng tôi và sang huyện Thanh Hà tản cư, tôi đều thu nạp họ vào các đoàn thể quần chúng.
Từ những năm tôi mới 13-14 tuổi bố mẹ tôi đã ép lấy vợ. Bảo tôi lấy ai tôi cũng từ chối. Đến năm tôi 15-16 tuổi, gia đình đã đi hỏi vợ cho tôi tới 6,7 chỗ, nhưng tôi không ưng ai cả, cho là mình còn ít tuổi, còn ăn bám gia đình, chưa có khả năng tự lập để lấy vợ. Phong tục “tảo hôn” đã làm tôi rất phiền lòng. Anh Hòe lấy vợ từ năm 16 tuổi và đã có con. Trong làng vào độ tuổi tôi đều có gia đình cả, nên tôi cũng thấy lẻ loi, nhưng vẫn quyết tâm chưa lấy vợ. Có lần bị sức ép quá, tôi doạ nếu cứ tổ chức cưới, tôi sẽ tự tử. Từ đó cha mẹ tôi không dám ép nữa. Có ai nói tới việc này, cha mẹ tôi chỉ trả lời: “Tùy ý cháu...”
Trong những tháng năm như vậy, ông Đoàn Hữu Lộng đã mãn hạn tù, thường đến nhà tôi chơi, tuyên truyền về Cộng sản, về Việt Minh với cha tôi và anh em chúng tôi. Trong lúc suy nghĩ mông lung của tuổi đang lớn, tôi gặp rất nhiều xu hướng tư tưởng khác nhau của những người trong họ tác động. Ông anh Đoàn Hữu Xừ thì khuyên tôi cố gắng học hành để làm lý dịch. Sống ở làng, không có chân lý dịch dễ bị khinh rẻ. Rồi anh lấy việc ông Nguyễn Văn Hổ khi làm Chánh hội đã đến gọi cha tôi đi đắp đê vì không đủ thóc đóng cho làng. Chú họ cha tôi là cụ Lệ Tố (Đoàn Hữu Sóng) bảo cha tôi: “Lấy váy đàn bà mà mặc”. Cụ Lệ Tố đâu biết do lời nguyền từ thời cụ Tán, cụ Cử, cụ Đốc... “không hợp tác với thực dân Pháp”, nên tuy cha tôi là đại biểu họ Đoàn (gọi là tộc biểu) ông không chịu ra làm Chánh hội, mà ký cho ông Nguyễn Văn Hổ làm chức đó. Cụ Lệ Tố nói nặng lời như vậy, cha tôi chỉ lặng im, không nói lại gì cả.
Lúc đó anh Đoàn Hữu Xừ thường tâm sự với tôi: “Làm Cách mạng mình không có tài, ra thành thị mình không có nghề, còn ở lại nông thôn thì phải làm chức lý dịch mới không bị chèn ép...”.
Đến năm 1944 cuối cùng anh Xừ cũng chạy được làm chức Phó lý. Sang năm 1945 Cách mạng tháng 8 bùng nổ, mọi chức sắc kỳ hào lý dịch làng Tường Vu đều bị xóa bỏ. Lúc đó anh Xừ nói với tôi:
- Tôi hơn chú hơn hai mươi tuổi, nhưng tôi dại hơn chú!
Đến năm 1987, anh ốm nặng, tôi đến thăm anh, anh Xừ lại nhắc:
- Khi ấy chú còn trẻ, nhưng chú thông minh và khôn hơn tôi nhiều!
Tôi chỉ cười trả lời anh:
- Anh theo thời, tôi gặp thời, chứ khôn thì chưa chắc ai đã khôn hơn ai.
Lúc đó tôi đang là Phó Thủ tướng. Anh vui vẻ bảo tôi:
- Không, chú thức thời, anh xu thời mới đúng!
Cả hai anh em cùng cười xoà. Ai ngờ tháng sau anh tôi qua đời. Anh thọ 80 tuổi.
Hồi ký Đoàn Duy Thành - Chương 2
Tham gia phong trào cách mạng và khởi nghĩa tháng 8 năm 1945
Trong những năm 1943-1944 phòng trào Việt Minh bí mật đã có cơ sở ở xã tôi. Ông Đoàn Hữu Lộng sau khi được tha từ Hoả Lò về, ông Đoàn Hữu Bẩy sau một thời gian bị truy nã, phải đi trốn tránh biệt tích, nay đã bí mật trở về xã hoạt động. Hai ông xây dựng được một vài cơ sở là ông Đoàn Hữu Thụ, ông cụ Xu... ở Thanh Liên, anh Nguyễn Huy Hoàng tức Chương cũng được tha từ Hoả Lò về. Cụ Trần Cung, tức Giáo Cư, thỉnh thỏang cũng về ở nhà cụ Xu và con cụ là anh Xi để chỉ đạo phong trào.
Những năm tháng trước và sau khi bị bắt, ông Đoàn Hữu Lộng thường xuyên đến nhà tôi vào buổi tối để nói chuyện về Chủ nghĩa cộng sản, về Việt Minh, về lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Có cả ông Ký Hãnh chú họ tôi cũng đến nghe. Nhiều bữa chúng tôi trao đổi trò chuyện đến 1, 2 giờ sáng hôm sau mới về.
Câu chuyện chủ yếu là Thế chiến thứ II, Nhật xâm chiếm Đông Dương, Đức đánh Nga-Xô, mặt trận đồng minh đánh phát xít, các trận Đức tấn công Mát-cơ-va, Nhật đổ bộ lên Tân Gia Ba (Singapore)... Thế mà đêm này qua đêm khác, khi ông Lộng kể, khi ông Bẩy kể, chỉ có uống nước chè tươi nhưng ai cũng say sưa nghe và trao đổi thâu đêm suốt sáng.
Hết kể chuyện mới, lại nói đến chuyện Đông Kinh Nghĩa Thục, phong trào khởi nghĩa Bãi Sậy-Hưng Yên; khởi nghĩa Yên Thế-Bắc Giang của cụ Đề Thám, rồi chuyện cụ Phan Chu Trinh, cụ Phan Bội Châu..., rồi lại đọc thơ của các cụ. Tôi còn nhớ mấy câu thơ kêu gọi nhân dân đứng dậy chống Pháp của cụ Phan Bội Châu mà ông Đoàn Hữu Bẩy hay đọc: “...Sống như thế sống để sống nhục, sống làm chi cho chật non sông. Thà rằng chết quách cho xong, cái thân nô lệ làm chi cho rầy...”. Tôi cũng thích đọc đoạn đó. Mẹ tôi bảo: “Thằng này chán đời hay sao mà đọc câu ấy...”. Tôi đọc cả bài cho mẹ tôi nghe và nói của cụ Phan Bội Châu. Mẹ tôi bảo: “Thơ này của hội Trống, hội Kín đấy. Tây nó cấm, lý dịch họ nghe thấy báo Tây về bắt thì sao?”. Tôi bảo mẹ: “Bây giờ không sợ thằng Tây nữa. Nhật nó đánh cho Tây thua chạy hết rồi, chỉ còn Nhật đến bắt dân mình trồng đay, thu thóc thuế cao của dân để đánh nhau. Ta phải đánh Nhật thôi”. Mẹ tôi hỏi lấy gì mà đánh? Tôi bảo có cụ Nguyễn Ái Quốc. Mẹ tôi lại hỏi, cụ Nguyễn Ái Quốc là ai? Tôi trả lời: “Mai hỏi ông Lộng...”.
Trong những ngày đó tôi suy nghĩ rất nhiều và rất thích nghe ông Lộng kể chuyện. Ông biết võ, nói chuyện rất vui, tuy học ít nhưng thông minh, biết làm thuốc bắc, đặc biệt là tư cách ông đàng hoàng, dễ gần. Tôi rất kính trọng ông. Nhất là hôm Rằm tháng 8 âm lịch 1940, khi tôi đi học về, gặp bọn mật thám Tây và Viên Tri huyện xích tay ông giải lên tỉnh, hai cổ tay bị xích, hai cánh tay bị trói, mặc cái quần trắng “xáo lòng” và cái áo sơ-mi xanh, ông đi rất đàng hoàng. Theo thường lệ tôi cúi đầu chào ông, ông mỉm cười và gật đầu. Tên Chánh mật thám Két-may cũng gật đầu. Y tưởng chúng tôi chào y và y nói tiếng Việt ngọng nghịu: “Học trò tốt, tốt...”.
Năm 1944 mất mùa, lúa gặt về chẳng được mấy. Khi trả thóc tô cho địa chủ Trưởng Cơ, lại bị Lý trưởng Nguyễn Văn Gia kê man diện tích cho gia đình tôi phải đóng khống 1 tạ thóc (100 kg). Do đó gia đình đời sống khó khăn. Tôi nói chuyện này với ông Lộng. Ông Lộng bảo tôi viết đơn kiện Lý Gia lên Công sứ Hải Dương. Tôi viết đơn và đưa mẹ tôi lên Tỉnh, đến dinh Công sứ. Lần đầu tiên tôi theo mẹ vào đấy, thấy mẹ phải bỏ một đồng Đông Dương cho viên Thư ký thường trực, ông ta mới đưa cho một con tem dán vào góc đơn.
Mẹ con tôi bước vào căn phòng rộng lớn, thấy viên công sứ Mát-xi-mi (Massimie) ngồi ở giữa, trước cái bàn lim rất to. Viên Công sứ nhận đơn, hỏi qua loa mấy câu, rồi bảo sẽ xét đơn. Mẹ con tôi đi ra thì gặp 2 người “ăn xin” đệ đơn vào. Viên công sứ hỏi: “ Ai xui chúng bay”. Hai người “ăn xin” nói: “không có ai xui cả. Vì đói quá đến xin quan lớn cấp cho ít tiền và gạo”. Mát-xi-mi hất hàm đuổi về bảo quan lớn sẽ xét và lệnh cho viên thư ký bóc con tem trả lại người thư ký bán tem ngồi ngoài, rồi lấy lại một đồng Đông Dương trả hai người “ăn xin”, không đóng dấu vào con tem như đơn kiện của mẹ tôi.
Hai mẹ con tôi ra về, tôi kể chuyện cử chỉ của công sứ Mát-xi-mi cho ông Lộng nghe. Ông bảo đó là cách mị dân của thực dân Pháp, bề ngoài tỏ vẻ lương thiện nhưng bên trong cực kỳ gian ác. Khi Nhật đảo chính, Mát-xi-mi bị Nhật bắt giam, đến cách mạng tháng 8-1945 ta tha hắn, hắn về Hải Phòng với thân phận là Pháp kiều.
Tháng 12-1946 Pháp chiếm Hải Phòng, quả nhiên Mál-xi-mi được cử làm Đốc lý Hải Phòng và đeo lon thiếu tá, tiếp tục đàn áp nhân dân ta. Còn Lý Gia không chịu trả lại nhà tôi một tạ thóc, mà ông ta trừ vào số thóc thuế vụ mùa sau vụ tháng 10 năm 1944.
Hai ông Lộng và Bẩy rất quí tôi. Tuy ít tuổi nhưng trong những câu chuyện trao đổi tôi thường có những câu hỏi, những nhận xét sắc sảo được các ông cho là tinh ý. Do đó hai ông thường bảo tôi lại nhà chơi, giảng giải về nguyên nhân vì sao ta phải làm cách mạng phải đánh Nhật, Pháp, giành độc lập, không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ cho ngoại bang. Ông Lộng hiểu sâu, lại có văn hóa hơn ông Bẩy, được đào tạo qua nhà tù Hoả lò, được đồng chí Đặng Việt Châu giao công tác sau khi ra tù, nên ông phân tích có tình có lý, với giọng nói thuyết phục, ai nghe cũng thích, nhất là lớp thanh niên chúng tôi. Ông bảo muốn đánh được Nhật - Tây phải tổ chức nhau lại thành đoàn thể, đoàn kết muôn người như một, dưới sự lãnh đạo của Mặt trận Việt Minh do cụ Nguyễn Ái Quốc là lãnh tụ của Mặt trận. Sau đó ít lâu, thỉnh thỏang ông giao việc cho tôi, như đến nhà người này, người khác, chuyển thư cho ông, đặc biệt là theo rõi bọn Lý dịch trong làng xem họ có hành động ám hại hai ông không. Khi có cán bộ về làng, ông thường giao cho tôi canh gác. Nhất là khi cụ Trần Cung về hoạt động, nghỉ tại nhà cụ Xi, ông bảo tôi:
“Có ông Giáo về chơi, cháu ra ngoài Lai Khê, tìm cách đến nhà cai trạm bưu điện Lý Đờn, ga Lai khê, xem có tin tức và động tĩnh gì thì tìm mọi cách báo về cho chú biết”.
Ông hướng dẫn, dặn dò tôi cách đi lại, và những ám hiệu cần thiết để thông tin nhanh về nhà. Tôi làm rất chu đáo nên ông đã giới thiệu tôi cho cụ Trần Cung biết.
Đầu thập kỷ 40 của thế kỷ 20, quân Nhật sau khi chiếm Lạng Sơn, đổ bộ lên Hải Phòng qua đò Khuể, Kiến An, tấn công chiếm thành phố Hải Phòng. Nhật chỉ thả 3 quả bom rồi kéo bộ binh vào thành phố. Thực dân Pháp ngay lập tức đầu hàng, giao thành phố cho phát xít Nhật. Tôi nhớ lúc đó máy bay Nhật đã thả màn khói, khi khói tan thì rất nhiều hình máy bay trong khói hiện ra. Chúng thả từ Hải Phòng, các hình máy bay bằng khói bay tới Hải Dương. Chính mắt chúng tôi trông thấy hàng đàn máy bay rồi chốc lát tan biến. Bấy giờ chúng tôi mới biết là Nhật tung hoả mù để doạ quân đội thực dân Pháp.
Sau khi chiếm Hải Phòng, bộ binh Nhật kéo từ Hải Phòng chiếm thành phố Hải Dương (thời thực dân xâm chiếm Hải Dương, thị xã cũng đã được gọi là thành phố như ngày nay). Từ Lạng Sơn quân Nhật kéo về chiếm Hà Nội. Dân ta từ đó một cổ hai tròng. Thực dân Pháp đầu hàng dâng nước ta cho Nhật, Nhật vẫn dựa vào chính quyền tay sai của Pháp và do Pháp điều khiển để bóc lột nhân dân ta. Chúng bắt người dân nhổ lúa trồng đay để làm nguyên liệu cho chiến tranh. Mỗi nơi trồng đay chúng đều có một tên sĩ quan Nhật cùng với bọn kỳ hào, chánh phó tổng, thúc ép nhân dân trồng và thu đay, để vào kho rồi chuyển đi.
Khu vực Lai Khê có viên trung uý Nhật tên là Trường Sơn cai quản với người vợ là gái điếm.
Hắn chiếm một gian nhà của ông Khách Làm (Thịnh Phong) ở ga Lai Khê làm nơi ở và làm việc.
Hàng ngày lý dịch các làng chung quanh phải đến báo cáo với y. Con vợ y môi son, má phấn, hét ra lửa. Các viên kỳ hào lý dịch gặp “thị” cúi đầu chào, thưa bẩm “bà lớn”, trông rất nhục nhã. Ông Đoàn Hữu Lộng, ông Bẩy, anh Hoàng... đem những hành động dã man của giặc Nhật, sự hèn nhát của bọn công sứ Pháp, lính Pháp để phân tích cho nhân dân biết, kích động nhân dân đứng dậy lật đổ cả Pháp và Nhật, giành độc lập cho Tổ quốc. Bất cứ một hành động xấu xa đê tiện nào của chúng đối với nhân dân ta đều được thu thập và truyền miệng trong nhân dân...
Phát xít Nhật chiếm đến đâu là đóng quân đến đó. Ga Lai Khê thuộc xã tôi có 3 tên lính Nhật gác; cầu Lai Vu có một trung đội. Khi máy bay đồng minh bắt đầu thả bom đánh phá cầu Lai Vu, phá đầu tầu xe lửa đậu ở ga Lai Khê thì nhân dân xã tôi lại phải gánh chịu hậu quả, một người chết và một số người bị thương. Ga Lai Khê bị phá, cầu Lai Vu bị đổ, Nhật bắt Pháp phải làm cầu tạm bằng gỗ.
Máy bay của đồng minh bắt đầu oanh tạc Hải Phòng, Hải Dương. Chẳng mấy ngày chúng tôi không được xem máy bay đồng minh và máy bay Nhật đánh nhau bay qua làng tôi. Lúc đó hiểu biết quá kém, nên trên trời máy bay đánh nhau, chúng tôi ở dưới ngửa mặt lên xem, không những thế, còn reo hò nữa. Có lần tôi đang tát nước ở ruộng, máy bay “Đồng Minh” ném bom ga Lai Khê, văng cả mảnh bom xuống ao và ruộng, tôi còn nhặt mấy mảnh bom, cũng chẳng thấy sợ. Do không hiểu biết, chúng thả bom trên trời mặc chúng, mình cứ tát nước. Sau này mới được phổ biến là nó thả bom, mình phải nằm xuống...
Một hôm máy bay “Đồng Minh” thả bom ở Hải Phòng, trên đường bay về Côn Minh Trung Quốc, bị 4 máy bay khu trục của Nhật đuổi đánh. Chúng tôi được tận mắt nhìn chiếc máy bay thả bom to kếch sù, còn 4 máy bay Nhật nhỏ xíu như những con “nhạn” đánh nhau với “diều hâu”. Nhưng “diều hâu” bị thương, bay lướt qua xã tôi và rơi xuống huyện Nam Sách, cách xã tôi khoảng 8 km. Hôm sau chúng tôi kéo nhau đi xem máy bay rơi. Lúc đó mới biết máy bay là thế nào. Sao nó to thế!
Người ước nó bằng cái đình, người bảo nó to bằng cái nhà gỗ lim 5 gian... Nhân dân kéo nhau đi xem bàn tán, người ca ngợi “Đồng Minh”, người ca ngợi Nhật, đủ thứ luận điệu khác nhau. Nhưng từ khi Liên Xô tham chiến, chiều hướng dư luận ngả hẳn sang khen Đồng Minh giỏi, sẽ chiến thắng, còn phát xít Đức, Ý, Nhật sẽ thua.
Những hành động hung bạo ngông cuồng của phát xít Nhật dạo đó hay được bọn tay sai thổi phồng lên. Nào là quân Nhật hùng mạnh, chiến đấu gan dạ, đánh đâu được đấy... Trong một buổi nghe ông Lộng nói chuyện, tôi thắc mắc hỏi ông:
- Người ta bảo quân đội Nhật gan dạ, sao họ phải xích chân lính vào súng ở cầu Lai Vu kia?
Ông Lộng bảo:
- Họ tuyên truyền Võ sĩ đạo của Nhật dũng cảm, dám hy sinh liều chết để bảo vệ Nhật Hoàng, để nước “Mặt trời” sẽ không bao giờ lặn... làm được việc đó chỉ có một số ít người do cuồng tín, bị mê hoặc đến mông muội... Còn đã là người ai không ham sống sợ chết? Cổ nhân có câu “Nhân giai uý tử cầu sinh”. Lính Nhật cũng sợ chết, vì họ chỉ là người dân bị bắn đi lính, họ chẳng có lý tưởng gì. Nay cả sĩ quan lẫn binh lính Nhật đều bị xích chân vào cỗ súng bắn máy bay là để buộc họ phải bắn trả. Nếu sợ quá bỏ chạy không bắn thì máy bay Đồng minh sẽ bỏ bom chết hết. Nếu bắn mạnh còn có hy vọng máy bay mải tránh đạn, bỏ bom bị chệch, hoặc không dám đến gần cầu, họ có cơ may thóat chết.
Đó là lý do vì sao tụi Nhật phải xích chân lính vào cỗ pháo bắn máy bay.
Sau đó chúng tôi thỉnh thỏang lên Hải Dương, qua hai cầu Lai Vu và Phú Lương, trông thấy các vị lính của “Thiên Hoàng” đầu đội mũ “đầu lốc”, mắt một mí, tay bưng cơm mà chân vẫn bị xích, trông thảm hại, rất buồn cười...
Nạn đói khủng khiếp
Năm 1944 và đầu năm 1945, khi Đại chiến Thế giới sắp kết thúc, phát xít Nhật và thực dân Pháp càng tăng cường đàn áp, bóc lột nhân dân ta. Ruộng đất bị chiếm để trồng đay, diện tích cấy lúa còn rất ít, thóc thuế bị thu rất nặng, nên thóc dự trữ trong nông dân không có. Một số địa chủ đầu cơ ghìm thóc chờ giá cao mới bán, hơn nữa có bán ra nhân dân cũng không có tiền để đong.
Cuối năm 1944-1945 rét rất đậm, phá hoại nhiều hoa màu, ngô, khoai... không mọc lên được. Đến rau muống, rau má cũng bị tàn lụi. Đầu Xuân Ất Dậu (1945) bắt đầu thấy ăn mày, ăn xin khắp nơi đổ về ga Lai Khê, nằm rải rác dọc đường số 5 và đường 186 từ ga đến nhà thương, đến trường Thanh Liên. Sau Tết âm lịch đã thỉnh thỏang có người chết đói nằm ở dọc đường. Nhưng đến tháng 2,3 âm lịch thì ăn mày kéo về càng đông và người chết đói càng ngày càng tăng, từ 3-4 người/ngày rồi lên 8-9 người/ngày. Sang đến cuối tháng 3 đầu tháng 4, có ngày lên đến hơn 10 người chết! Thật là khủng khiếp!
Trước tình hình đó, những cơ sở Việt Minh bí mật, dưới sự chỉ đạo của ông Lộng, ông Bẩy và anh Hoàng đã vận động thanh niên cùng với chính quyền xã của Nhật-Pháp tổ chức đi chôn cất những người chết đói, vận động những người hảo tâm cho gạo, khoai, ngô, cám... rồi nấu cháo cứu những người còn sống... Có những cảnh chết đói tôi được chứng kiến đến nay nghĩ lại vẫn còn rùng rợn, rơi nước mắt: những em bé cứ ngậm nhay mãi vú mẹ, trong khi người mẹ đã chết từ bao giờ; hay cảnh con chết đói, bố đem con nấu cháo ăn ở Miễu Quỳnh (làng Quỳnh Khê). Khi Tri huyện Nguyễn Bích Liên bắt người bố giải về đến huyện thì người bố cũng lăn ra chết.
Lúc đó người chết thường hai ba ngày sau mới được chôn, hầu hết chỉ bó chiếu, chôn vài người một hố. Lại nhiều khi không thể dùng cuốc xẻng, gậy gộc để xúc họ vào chiếu được, phải dùng bằng tay, mà lúc đó làm gì có găng tay, phải dùng tay mình kéo xác, bó chiếu, ghê rợn vô cùng. Xác họ rất lạnh, da ráp như da cóc, người mắt trợn ngược, người mồm méo xệch, người tay còn như sờ soạng chới với kêu cứu... Quần áo họ đều rách tả tơi để lộ hình hài những da cùng xương... Có trường hợp đang kéo chân thì chân rời thân thể luôn, lòng ruột tuột cả ra ngoài, bốc mùi hôi thối nồng nặc khiến mọi người đều ói mửa. Hàng ngày phải cắt cử luân phiên nhau, không ai có thể làm được liền hai ngày. Nhưng dù thế nào cũng phải có người làm nòng cốt. Tôi nhớ lúc đó anh Oản Con, người to béo, suốt ngày ngà ngà hơi rượu, chẳng biết sợ là gì, cứ được ăn no uống say thì bất kể trường hợp nào anh cũng làm tất. Anh cứ vừa làm vừa chửi bọn Nhật-Pháp, bọn địa chủ bóc lột làm dân chết đói. Chửi chán, anh Oản Con quay ra cầu nguyện những người chết phù hộ anh sống lâu, giầu có, hứa sẽ cúng khấn những vong hồn chết đói tử tế. Anh chỉ vào mấy xác chị em gái, nói oang oang:
- Những cô nàng đẹp gái lắm đây. Thế mà chết đói mới tội nghiệp. Nếu tao giàu, tao nuôi tất, lớn lấy làm vợ, bé nuôi làm con. Chỉ tại ông Giời không cho số tao giàu, tao phải đi chôn chúng mày. Phù hộ cho tao giàu đi, rồi kiếp sau ta gặp nhau.
Anh làm việc thiện mà ai cũng sợ, cũng muốn tránh. Nhưng anh mặc kệ, vẫn vừa làm, vừa tươi tỉnh động viên người khác:
- Mình may không bị chết đói, còn sống đây. Nếu lỡ chết đói thì cũng như họ thôi. Việc gì phải sợ, cứ làm đi! Họ chết thế này thiêng lắm, sẽ phù hộ độ trì cho chúng ta giàu có, không bị chết đói như họ.
Rồi anh tu một hớp rượu, chai rượu luôn giắt ở thắt lưng, lại cười thản nhiên như không có chuyện gì xảy ra. Tuy anh hay chửi thề văng tục, nhưng lúc ấy ai cũng nể anh. Vì không có anh, lấy ai làm nòng cốt cho việc đại sự thê thảm đau lòng này?
Đảo chính Nhật, Pháp và phá kho thóc Trường Cơ để cứu đói
Sáng ngày 9-3-1945, nhân dân xã tôi xôn xao về việc Nhật đánh Pháp ở thành phố Hải Dương. Tin tức mỗi lúc một dồn dập.
Ga Lai Khê có bưu điện nên tin tức lan ra rất nhanh. Những người từ Hải Dương, Hải Phòng, Hà Nội đi qua mang theo tin tức bốn phương đổ về. Nào tin tên công sứ Mat-xi-mi bị trói và giam ở đề lao Hải Dương; tên quan tư giám binh Tây bị Nhật mổ bụng, phơi xác giữa ngã tư thành phố; các quan ta quan tây chạy trốn như vịt... Nhân dân thành phố Hải dương rất hoang mang lo sợ, còn nhân dân ở nông thôn lắng nghe tin và phấp phỏng chờ đợi một việc gì trọng đại sắp xảy ra, đâu đâu cũng xôn xao bàn tán.
Thế là nạn đói đã cướp đi 225 người xã tôi. Nếu kể cả người nơi khác đến thì cả xã Cộng Hòa nạn đói giết chết đi 538 sinh mạng, gần bằng một phần tư dân số xã. Có 17 gia đình chết đói cả nhà.
Đến một buổi sáng, lệnh phát ra từ đâu không rõ, ông Lộng, ông Bẩy, anh Hoàng... họp trao đổi ở Thanh Liên, rồi phổ biến cho mọi người đi phá kho thóc của địa chủ để cứu đói. Sáng sớm hôm đó, ông Lộng đi tắt qua nhà tôi, bảo tôi báo tin cho mọi người ra Thanh Liên, vào kho Trưởng Cơ lấy thóc. Rất nhanh, mọi người tập trung đi từng đoàn ra phá kho thóc. Người có thúng dùng thúng, có rổ rá dùng rổ rá. Có người cởi cả quần ra, túm hai ống lại, xúc thóc đổ vào rồi khóac lên vai chạy về nhà, mặc dù cởi truồng nhưng vừa cười vừa chạy hối hả để còn làm chuyến nữa... Đứng ngoài cổng kho thóc Trưởng Cơ, anh Hoàng, ông Bảy, mỗi người cầm một thanh kiếm Nhật, mặt sát khí đằng đằng. Bọn cường hào lý dịch, trương tuần, phu tuần không dám ho hoe gì... Đến khoảng 10 giờ sáng kho thóc bị lấy hết. Nhân dân tỏa về các làng phá thêm một vài kho thóc của địa chủ nhỏ, như ở làng tôi phá thêm kho thóc của ông Hội Hiếu (phú nông) và ông chánh Hội Viên (địa chủ nhỏ).
Nhờ số thóc lấy được, nạn đói đã kết thúc, mọi người có gạo ăn cầm cự cho đến vụ chiêm... Mấy hôm sau một trung đội lính Nhật về đóng ở ga Lai Khê và nhà thương Lai Khê. Viên Tri huyện thực tập Nguyễn Bích Liên có “trát” cho Chánh tổng Lai Vu, cùng với các lý trưởng các làng xung quanh phải truy nã những người phá kho thóc của Trưởng Cơ và các kho khác ở Tổng Lai Vu.
Ông chánh tổng H. cùng các Lý trưởng, Trương tuần, Phu tuần đi nạt nộ một số người nghèo, còn anh Hoàng gọi ông chánh H. bằng bác ruột nên ông H. nể mặt. Ông Bẩy là người cách mạng bị truy nã mới về công khai hoạt động nên ông H. cũng tránh đụng vào. Ông H. cho người xông vào nhà ông Vệ Cần dùng kiếm chém một nhát vào cánh tay ông Cần chảy máu nhẹ và trói ông giải về Huyện, hôm sau huyện giải ông lên tỉnh, sau 3 ngày được tha về. Mọi người thấy khí thế của Việt Minh mạnh lên, chẳng ai dám bàn đến việc ai chỉ huy phá kho thóc Trưởng Cơ nữa...
Phong trào Việt Minh ở xã tôi ngày càng mở rộng, tuy tổ chức chưa chặt chẽ, nhưng việc tuyên truyền bằng miệng và rải truyền đơn viết tay đã bắt đầu. Một áp phích viết tay dán giữa biển chỉ đường ra ga Lai Khê vào Đông Triều: “Chánh H., chú cháu Cửu D. và cai Trạm coi chừng!” làm xôn xao cả khu vực. Trong lúc đó tin tức Việt Minh ở Đông Triều, Kinh Môn, Thanh Hà đã xử tử những tên cường hào gian ác, nên bọn lý dịch khu vực Tổng Lai Vu càng run sợ, co rúm lại...
Thế giới đại chiến, tình hình quân Đồng Minh đang tiến công dồn dập các mặt trận. Đức, Ý, Nhật thua liểng xiểng. Chiến trường Nga - Đức, Hồng Quân thắng lớn, Việt Minh tuyên truyền rất mạnh cho chiến thắng của Nga. Nước Pháp được giải phóng, bọn tay sai Pháp lại ngo ngoe... Nhưng chúng cũng biết được quan thầy chúng hèn nhát như thế nào khi quân Đức tấn công, thống chế Pê-tanh đầu hàng nhục nhã phát xít Đức.
Trong lúc phong trào Việt Minh vận động chống đói cho nhân dân thì bọn tay sai phát xít Nhật tuyên truyền thuyết “Đại Đông Á” làm cho một số người Việt Nam mơ hồ chạy theo Nhật. Chính phủ Trần Trọng Kim thân Nhật ra đời, họ cũng kêu gọi “Nhiễu điều phủ lấy giá gương”, bớt ăn để giúp đỡ người đang sắp chết, chết đói; chúng tuyên truyền sẽ chở gạo từ Nam bộ ra giúp dân nghèo chống đói. Nhưng đâu có thấy gì.
Khi lúa chiêm đã thu hoạch thì diện đói được thu hẹp. Không còn người chết đói, chỉ thỉnh thỏang có người “chết no”, vì một số người đói kéo dài, chỉ ăn rau má, “củ chóc” (loại củ ăn xong rất ngứa, như sắp bị xé tan cổ họng) nên khi có gạo chiêm mới ngon miệng, ăn quá bát, cứ sưng bụng hoặc đi ỉa lỏng mà chết...
Mãi đến khi thu hoạch vụ chiêm gần xong, cả làng Tường Vu tôi mới nhận được 40 kg gạo mốc xanh từ miền Nam chuyển ra cứu tế cho nạn đói!
Nạn “hồng thủy” chưa từng có
Đúng như các cụ xưa thường nói: “phúc bất trùng lai, hoạ vô đơn chí” nghĩa là: “vận may không cùng đến một lúc, tai vạ không chỉ xảy ra một lần”, nạn chết đói vừa tạm thời kết thúc thì nạn vỡ đê làm lụt lớn cả đồng bằng Bắc bộ. Từ nhỏ đến lúc đó, tháng 6, 7-1945, tôi chưa thấy ở quê tôi trận lụt nào ghê sợ như vậy. Nước sông Thái Bình, sông Kinh Thầy lên rất to, tràn qua đường số 5, đường sắt, ào vào làng tôi. Nước chảy tràn vào nhà làm cho thóc lúa mới thu hoạch ướt sũng, giường chiếu nổi lềnh bềnh, gà bay lên cây đỗ, chó mèo kêu thảm thiết. Tường nhà bằng đất bị ngấm nước, tã ra và sụp đổ, khiến cho nhà không còn tường đỡ, ngả nghiêng xiêu vẹo. Mấy bố con tôi tập trung nhau chống nhà, làm sàn để chứa thóc gạo, thu dọn quần áo, dụng cụ gác lên cao. Gia đình nào cũng rất bận rộn, trẻ con kêu khóc, người lớn hối hả, nhà nào lo việc nhà ấy, chẳng ai cứu được ai! Trong lúc đó mẹ tôi dắt em gái út tôi còn bé, chạy ra khu “Đống Bài” là nơi cao nhất làng, tạm lánh nước lũ. Mẹ tôi vừa đi vừa niệm Phật, cầu trời khấn phật cho lai qua nạn khỏi trong trận “hồng thủy” nước chảy ngang trời này. Tôi vừa thương mẹ, thương em, nhưng bật cười vì thấy mẹ tôi quá mê tín. Bà tỏ ra chẳng lo lắng công việc mà chỉ lo khấn trời phật. Hình như bà nghĩ sau khi khấn vái xong nước sẽ rút xuống. Một tay dắt con còn bé, một tay mẹ tôi vái trời, miệng lẩm bẩm: “Lạy bốn phương trời, lạy mười phương phật, phù hộ độ trì cho chúng con...” Cứ nhắc đi nhắc lại cho đến khi tôi không còn nghe thấy tiếng bà nữa...
Nước to, mưa lớn, nước rút không kịp, trong làng đi lại phải dùng thuyền. Trong nhà nước dâng lên đến giường, rồi sát những mái nhà thấp. Mọi người đêm đến phải ra các gò đống cao để ngủ. Các cán bộ Việt Minh lúc đó tranh thủ đi tuyên truyền, vận động nhân dân giúp đỡ lẫn nhau thóat khỏi nạn lũ Nước tràn về sớm nên lúa mùa bị chết hết. Bởi vậy, nước rút đến đâu phải nhanh chóng cấy đến đấy cho kịp thời vụ. Nơi nào không cấy được thì trồng hoa màu để tránh nạn đói tháng 8.
Cán bộ Việt Minh rất hăng hái (nhất là những người mới được gia nhập) họ say sưa đi tuyên truyền, đôi khi còn tỏ ra hãnh diện vì công việc của mình. Nhật đang thua lớn, bọn tay sai, lý dịch lo sợ không dám hành động gì, đôi khi còn khúm núm trước những người họ nghi là Việt Minh bí mật.
Ông Đoàn Hữu Thụ, người anh con ông bác của ông Lộng, rất hăng hái, đi đâu cũng tuyên truyền cho phong trào Việt Minh, lắm lúc ông còn nói “bốc” hơn cả sự thật, gặp ai cũng tuyên truyền về “nam nữ bình quyền”, về dân chủ. Một hôm tôi gặp ông, vì nước lũ ông không mặc quần đùi để tránh ướt quần, nhưng ông cởi quần dài khóac lên vai, rồi cứ đi tự nhiên như chỗ không người. Gặp một số người trong đó có cả đàn bà, con gái, ông quên, cứ đi đàng hoàng và tuyên truyền Việt Minh cho mọi người nghe.
Tất cả tròn mắt kinh ngạc, nhất là mấy cô gái vừa ngượng vừa tủm tỉm cười. Vừa lúc tôi đi đến, lấy tay phát vào vai ông và bảo: “chú mặc quần vào rồi hãy nói”. Ông quay lại tôi, tay sờ sờ, kêu “chết chửa”, vội mặc quần, rồi cười loe toét nói chữa thẹn: “Thời kỳ nam nữ bình quyền mà... ”. Mọi người cười rộ lên, thông cảm với tính quá hăng hái của ông.
Khởi nghĩa cướp chính quyền huyện Kim Thành
Nước lụt vẫn chưa tiêu hết ra biển, mưa lại nhiều. Để giữ bí mật nơi họp hành của Việt Minh vẫn phải họp ở những đống cao và hẻo lánh. Đống Cao, đống Lềnh thuộc làng Lai Khê, đống Vua Nước thuộc làng Thanh Liên là những chỗ để cho các tổ Việt Minh bí mật họp, chuẩn bị Tổng khởi nghĩa.
Tôi được ông Lộng giao cho phụ trách thanh niên. Tôi đi vận động được hơn 20 người. Đến ngày 1-7-1945 tôi được giao chính thức làm Bí thư thanh niên cứu quốc làng Tường Vu (gọi là làng để phân biệt với xã mới sau cách mạng). Tôi họp anh em lại chia làm 5 tổ, rồi phân các tổ phát triển thêm hội viên, từ 16 tuổi trở lên đều được kết nạp vào đoàn. Nhiệm vụ của đoàn viên lúc đó là giúp mọi gia đình khôi phục lại nhà cửa sau lũ lụt, học tập võ do ông Lộng huấn luyện, chuẩn bị quần chúng tham gia tổng khởi nghĩa cướp chính quyền xã và huyện.
Trong lúc chờ đợi ngày phát lệnh tổng khởi nghĩa, chúng tôi háo hức như ngày hội, đêm nào cũng ra đống Cao họp để nghe phổ biến tin tức chiến sự. Cán bộ từ đệ tứ chiến khu Đông Triều về báo tin cho biết Đông Triều đã cướp được chính quyền, Việt Minh đã xử tử một số tên tướng cướp. Khi nước lũ xảy ra bọn cướp đã cướp phá nhà bà cựu Hải làng Cam Đông, bắn chết một bạn học của tôi nên tôi càng phấn khởi trước việc làm của Việt Minh.
Tối ngày 15-8-1945, ông Lộng, ông Bẩy triệu tập chúng tôi họp, chuẩn bị lực lượng để sáng sớm ngày 16-8-1945 đi xuống huyện cướp chính quyền. Cả đêm chúng tôi không ngủ. Tôi thấy ông Bẩy, ông Lộng, ông Thụ, anh Hoàng, anh Phách, cùng anh Tiến, anh Khoảnh... ăn mặc gọn gàng, đeo kiếm Nhật trông thật oai hùng mà mê. Anh Tiến, cai lính khố xanh giác ngộ theo ta từ lâu, còn mặc quần soóc, đeo khẩu súng lục, đi đi lại lại tỏ vẻ sốt ruột (anh Tiến nay là đại tá về hưu). Anh Khoảnh cũng vốn là “Đội Khoảnh”, đội khố đỏ trước đây, được tuyên truyền giác ngộ.
Tập hợp lực lượng xong, chúng tôi bừng bừng khí thế, lên đường.
Đi đầu đoàn lực lượng võ trang khởi nghĩa có mấy khẩu súng bắn chim, còn toàn là giáo mác, gậy gộc. Nam giới ăn mặc gọn gàng, nữ giới thắt lưng sang bên trái. Lờ mờ sáng đã tập trung ở miếu Quỳnh Khê, giáp huyện lỵ khoảng 2 km, rồi chia làm 2 ngả, ngả đi bộ từ ga Thái vào Bàng La (huyện lỵ lúc đó còn đóng ở Bàng La (ở gần ga Phú Thái); một cánh đi thuyền tắt qua chùa Muống (Dưỡng Mông). Lúc đó nước lũ còn lớn nên đi thuyền qua cánh đồng, vòng lên Bàng La rồi cả hai cánh cùng tiến vào huyện.
Anh Nguyễn Ngọc Phách gặp Tri huyện thực tập Nguyễn Bích Liên, tuyên bố: “Chính quyền Trần Trọng Kim do Nhật lập ra đã tan rã. Ông bàn giao dấu, ấn lại cho chúng tôi. Đại diện Tổng bộ Việt Minh sẽ tha thứ cho các ông. Ông phải tập hợp số lính khố đỏ và lính lệ lại, giao nộp súng, bàn giao hồ sơ tài sản của huyện cho chúng tôi”. Tri huyện Nguyễn Bích Liên mặt tái, lời nói run run: “Thưa các ông tôi đã chuẩn bị sẵn sàng giao lại chính quyền cho Việt Minh”. Ông ta đang nói thì một ông già mặc bộ quần áo lụa nâu, lom khom hai tay chắp trước ngực vái lia lịa các đồng chí đại diện Việt Minh và nói: “Tôi là cha ông Huyện, cháu nó ra trường đi thực tập tri huyện mới về được ít tháng, không dám làm việc gì trái với Việt Minh. Tôi cũng sợ cháu trẻ người non dạ, nên theo sát cháu để bảo ban, kẻo cháu còn điều gì sai sót. Thôi thì nếu cháu còn dại, xin các ông tha cho”. Anh Phách, anh Hoàng giải thích chính sách khoan hồng của Việt Minh cho cha con tri huyện nghe, hai cha con ông ta sung sướng, cảm ơn rối rít, rồi tri huyện Bích Liên hạ lệnh cho 5 lính “khố đỏ” gác huyện lỵ và đám “lính lệ” xếp hàng trước “công đường” huyện quan, hạ súng nộp cho cách mạng.
Sau 3 ngày bàn giao xong, tri huyện Bích Liên xin về Hà Nội, ta cho người đưa gia đình ông ấy ra ga Phú Thái để lên tàu về Hà Nôi, chấm dứt cuộc đời mới ra làm quan của ông huyện trẻ. Còn viên Thừa phái và trợ tá tri huyện xin ở lại làm việc cho Việt Minh. Khi chiến tranh xảy ra họ bỏ đi tản cư, không theo cơ quan sơ tán sang Thanh Hà.
Chính quyền cách mạng lâm thời mới thành lập, anh Nguyễn Ngọc Phách làm chủ tịch Uỷ ban Cách mạng lâm thời huyện Kim Thành, anh Vũ Viết Nhuận con bà Hậu Khai, đại địa chủ làng Quỳnh khê làm uỷ viên tài chính, anh Nguyễn Quý Nỹ làm uỷ viên Thư ký, anh Phạm văn Khoảnh làm uỷ viên quân sự, anh Thái làm uỷ viên tư pháp. Còn anh Hoàng cùng anh Minh Thứ, anh Dị phụ trách bên huyện bộ Việt Minh, anh Minh Thứ phụ trách Đảng (anh Minh Thứ người làng Lan Can huyện Thanh Hà là Tỉnh uỷ viên Hải Dương phụ trách huyện Kim Thành).
Trong lúc trăm công nghìn việc vào lúc mới khởi nghĩa, toàn là học sinh và hương sư ra làm việc, vừa làm vừa học, rồi đâu cũng vào đấy cả, bộ máy dần dần ổn định. Cán bộ Việt Minh phân công nhau đi lập chính quyền các làng (xã cũ). Tôi được cử vào Ban chấp hành thanh niên cứu quốc huyện. Tuy tôi mới 16 tuổi nhưng người lớn, lại học sâu về chữ nho, nên nói năng ôn lồn lễ phép theo kiểu “nho giáo”, không “lấc cấc” như mấy anh bạn cũ của tôi thuần theo “tây học”, nên khi gặp may ông kỳ hào lý dịch, những người có học ít nhiều Hán tự, tôi dễ thuyết phục họ.
Đội ngũ cán bộ chính quyền mới và các đoàn thể Việt Minh huyện, trông đi trông lại hầu hết là người tổng Lai Vu, còn 5 tổng dưới rất ít người tham gia, do đó cần mở rộng cán bộ các nơi tham gia vào Mặt trận, như anh Nguyễn Thượng Trình, tức Vũ Chính, tức Lê Răm, chủ tịch Uỷ ban lâm thời xã Bát Nạo lên làm cán bộ Việt Minh huyện, sau đó làm Bí thư huyện bộ Việt Minh và Bí thư huyện uỷ năm 1947-1948.
Tôi được cử cùng mấy anh bạn học cũ ở trường Thanh Liên, vác cờ đỏ sao vàng đi về các làng thuộc tổng Lai Vu để thu bằng triện của tiên chỉ, lý trưởng và thành lập các Uỷ ban cách mạng lâm thời. Bầu cử bằng cách giơ tay, hầu hết là do người của các cơ sở Việt Minh tham gia Uỷ ban cách mạng lâm thời xã. Khi làm công tác tuyên truyền giải thể chính quyền cũ, thành lập chính quyền mới, nhiều viên lý trưởng, tiên chỉ cũng còn nuối tiếc quyền lực. Tuy sợ Việt Minh, nhưng cũng có người so sánh giữa cụ Hồ Chí Minh với ông Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh. Nhất là ở những nơi có cơ sở của Quốc dân Đảng như xã Lai Vu, xã Thượng Vũ... nhiều người hỏi: “Chúng tôi là chánh phó tổng, Việt Minh có dùng chúng tôi không?”. Như ông phó tổng Cựa ở xã Thượng Vũ, tôi cùng học với con ông ta, ông biết tôi, nên tôi trả lời ông: “Việt Minh là mặt trận đoàn kết toàn dân, thu hút mọi người vào mặt trận. Người có tài được sử dụng, không kể quá khứ làm gì. Ông Phó tổng là nhà nho học uyên thâm, mà cụ chủ tịch Hồ Chí Minh là bậc hiền triết nho học, con cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, chắc chắn cụ Chủ tịch rất trọng người tài. Ông Phó tổng còn nhớ câu Khổng Tử đánh giá về Trọng Cung: “Lê ngưu chi tử tuynh thả dốc chứ?”. Ông tổng Cựa gật gù tán thưởng cho là chí lý. Đến khi Pháp chiếm đóng trở lại, ông bị Pháp ép ra làm chánh tổng, nhưng vẫn ủng hộ ta, không có hành động gì chống đối, giúp cán bộ qua lại công tác ở khu vực ông làm chánh tổng. Khi ta phá hết tề, tôi bảo ông ta đi xuống Hải Phòng mà ở, không nên ở quê nữa, ông ta nghe theo. Chính quyền mới thành lập ở huyện được 3,4 tháng thì xảy chuyện nội bộ lục đục, tranh giành quyền lực giữa hai ông cháu, anh Phách và anh Hoàng (anh Hoàng gọi anh Phách bằng ông). Rồi anh Hoàng báo cáo lên tỉnh và trung ương rằng anh Phách khi học ở Hà Nội là người của Việt Cách... Tỉnh cử đồng chí Trần Cung về giải quyết. Đồng chí Trần Cung cho bắt giam Nguyễn Ngọc Phách và một số người, giam ở chùa Muống (chùa Dưỡng Mông), cử anh Nguyễn Huy Hoàng lên làm chủ tịch Uỷ ban cách mạng lâm thời, cử anh Nguyễn Hải cán bộ tỉnh về làm Phó chủ tịch. Lúc đó tôi đã có cảm nghĩ rằng: “Tham vọng đẩy con người vào vòng luẩn quẩn, đời này qua đời khác, khó có thể chấm dứt được “lòng tham không đáy” (nhân dục vô nhai). Nhưng tôi vẫn hy vọng nó sẽ giảm dần với chế độ mới. Anh Phách bất mãn, sau khi được tha về làng anh đi dạy học, đến 1950 thì bỏ vào vùng địch... nay sống ở Mỹ, thỉnh thỏang có về thăm quê hương.
Sau khi đã lập xong chính quyền mới ở các làng (xã) tôi xin về xã hoạt động và được cử làm Bí thư xã bộ Việt Minh, cùng với chính quyền lo việc sản xuất, xóa nạn mù chữ, xây dựng các đoàn thể thanh niên, phụ nữ, thiếu nhi, lão thành...Chính quyền xã (làng) tôi do ông Đoàn Hữu Lộng làm chủ tịch, ông Đoàn Hữu Thụ là phó chủ tịch, ông Đoàn Hữu Bẩy làm uỷ viên... Công việc nói chung chạy đều. Những xích mích giữa hai họ Đoàn và họ Nguyễn đã dần dần được khắc phục, tuy chính quyền xã họ Đoàn nắm vai trò chủ chốt. Vì toàn là những người có thành tích cách mạng nên nhân dân ủng hộ, mà họ Nguyễn cũng nể phải đồng tình.
Nạn đói được đẩy lùi, uy tín của cách mạng ngày càng tăng, nhân dân tham gia chống giặc đói, giặc dết, giặc ngoại xâm ngày càng mạnh mẽ.
Để chuẩn bị cho việc tổng tuyển cử, bầu cử ra Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và bầu cử Hội đồng nhân dân xã. Hội đồng nhân dân xã lúc đó được qui định là người đại diện cho nhân dân đề bầu ra Uỷ ban hành chính huyện, và Uỷ ban hành chính xã. Quyền lực của Hội đồng nhân dân xã rất lớn, xã tôi lúc đó được chính phủ quyết định nhập 3 xã (làng) cũ thành liên xã Cộng hòa, gồm 3 xã cũ là: Tường Vu, Lai Khê, Thanh Liên. Sau bỏ 2 chữ “Liên xã” chỉ gọi là xã Cộng Hòa, cho đến cải cách ruộng đất đổi là xã Kim Liên. Nhưng khi sửa sai, nhân dân không tán thành tên mới mà phải giữ lại tên cũ cho đến nay vẫn là xã “Cộng Hòa”, xã anh hùng lực lượng vũ trang thời kháng chiến chống thực dân Pháp.
Sau này, tôi có hỏi cụ Trần Cung, tại sao lại bắt giam anh Nguyễn Ngọc Phách. Cụ Trần Cung trả lời tôi: “Mình cũng làm quá tay! nhưng chỉ giam mấy tháng rồi tha ngay”. Rồi cụ Trần Cung hỏi tôi có biết Phách bây giờ ra sao không? Tôi trả lời, năm 1950 có nhận được một lá thư của Phách muốn xin về Hải Phòng công tác, rồi sau không nhận được tin tức gì cả. Đến khi thống nhất đất nước mới biết tin Phách đang dạy học ở Tây Ninh và gia nhập đạo Cao Đài, mấy năm sau đi Mỹ, đã có lần về quê Kim Thành. Cụ Trần Cung tỏ vẻ suy nghĩ, nhưng không hỏi gì thêm.
Cuộc bầu cử Quốc hội khóa I và bầu cử Hội đồng nhân dân đầu tiên
Ngày 6-1-1946 là ngày Tổng tuyển cử đẩu tiên của nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa trong tình hình chính trị cực kỳ phức tạp. Thực hiện chỉ thị của Tổng bộ Việt Minh về cuộc bầu cử, chính quyền lâm thời và xã bộ Việt Minh được giao nhiệm vụ tuyên truyền để mọi người đi bầu theo phổ thông đầu phiếu, một việc rất mới mẻ. Ngay tên “Quốc hội” nghĩa là gì cũng phải lên tỉnh hoặc xuống huyện hỏi. Xã tôi ở giữa tỉnh và huyện, lên tỉnh còn gần hơn và đường dễ đi hơn, nên vấn đề gì cán bộ không nắm được thì lên phòng thông tin tỉnh hỏi, sẽ được giải đáp chu đáo, về phổ biến lại cho nhân dân.
Tỉnh Hải Dương lúc đó được bầu 13 đại biểu, hầu hết là nhân sĩ trí thức văn nghệ sĩ như cụ Phan Tất Tuân, nhà thơ Xuân Diệu, nhà giáo Nguyễn Sinh Anh... Còn đảng viên chỉ có 3 đồng chí là Vũ Duy Hiệu, Chủ tịch Uỷ ban cách mạng lâm thời tỉnh, đồng chí Nguyễn Công Hòa và chị Bùi Thị Diệm, ba đồng chí này hiện cư trú ở Hà Nội tuổi đã 90 và gần 100 tuổi.
Trong lúc ta tuyên truyền bầu cử Quốc hội để thành lập chính phủ mới thay cho chính phủ lâm thời, Quốc Dân Đảng và một số đảng phái thân Pháp, Nhật ra sức xuyên tạc phá hoại bầu cử. Phố ga Lai Khê có chi bộ Quốc Dân Đảng, do một số đảng viên là kỳ hào lý dịch cũ vừa bị chính quyền cách mạng giải tán, như Lý Tán xã Lai Vu, Lý Đờn, Chương Bạ Hiệu ở Lai Khê, cựu Nhạn ở Thượng Vũ (Cựu Nhạn là tay hai mang, vừa làm cán bộ Việt Minh vừa theo Quốc Dân Đảng, khi kháng chiến bùng nổ thì y theo Tây và bị chết do chúng bắn lẫn nhau). Trụ sở chúng treo cờ Tưởng Giới Thạch, Trung Quốc, hàng ngày bắc loa tuyên truyền nói xấu Việt Minh, nói xấu xuyên tạc Bác Hồ... Chúng tôi cảnh cáo chúng không nghe, sau phải cấm chủ nhà là ông Làm (Thịnh Phong) Hoa kiều cư trú ở ga Lai Khê, buôn bán gạo đã mấy đời, nên ông này không cho chúng kéo cờ và bắc loa tuyên truyền xuyên tạc nữa. Do đó cuộc bầu cử ở quê tôi nói chung suôn sẻ và đạt kết quả tốt. Toàn dân đi bầu, đông như hội, chỉ đến 12 giờ trưa đã đạt 100% cử tri đi bầu. Những đại biểu do Việt Minh giới thiệu đều trúng cử.
Sau bầu cử Quốc hội, ngày 26-4-1946 bầu cử Hội đồng nhân dân xã. Làng Tường Vu dân số đông được bầu 6 đại biểu, Lai Khê được 5 đại biểu, Thanh Liên 4 đại biểu, tổng cộng 15 đại biểu. Tôi mới 17 tuổi nhưng lúc đó tính theo âm lịch kể cả tuổi “mụ” tôi 18 tuổi, được đi bầu và được xã bộ Việt Minh giới thiệu. Tôi trúng cử đại biểu Hội đồng nhân dân với số phiếu cao nhất.
Trong thời gian diễn ra các cuộc bầu cử, ở Tường Vu vẫn còn xảy ra tranh giành giữa họ Đoàn và họ Nguyễn. Họ Đoàn có 4 người ứng cử, họ Nguyễn cũng có 4 người ứng cử. Dưới sự điều hành của ông Đoàn Hữu Lộng là Chủ tịch Uỷ ban cách mạng lâm thời, ông xin nghỉ nên không ra ứng cử, nhưng ông chỉ đạo vừa khách quan vừa khéo léo. Để tránh sự nghi ngờ gian lận, ông đề cử ông Nguyễn Văn Chương là nhà giáo làm chủ tịch Hội đồng bầu cử. Mọi việc diễn ra tốt đẹp. Trong vận động bầu cử cũng có một vài tờ rơi và áp phích nói xấu lẫn nhau bằng ca dao, không gây ảnh hưởng gì đến bầu cử. Nhưng khi kiểm phiếu xong, trong số 6 đại biểu được bầu thì họ Đoàn trúng 4 là: Đoàn Duy Thành, Đoàn Hữu Bẩy, Đoàn Hữu Thụ, Đoàn Hữu Thiều. Còn họ Nguyễn chỉ có một ông Nguyễn Văn Hổ trúng cử, một người khác là Nguyễn Văn Hát thuộc họ Nguyễn dưới, không thuộc họ Nguyễn của ông Chương. Bởi vậy ông Chương không ký biên bản. Ông Lộng phải thuyết phục và Hội đồng bầu cử đều xác nhận cuộc bầu cử hợp lệ, ông Chương mới chịu ký biên bản.
Hội đồng nhân dân xã hồi đó được bầu chính quyền 2 cấp: xã và huyện, việc bầu cử Uỷ ban hành chính xã Thuận Lợi, xã Cộng Hòa do ông Nguyễn Mạnh Vinh làm chủ tịch. Riêng bầu chủ tịch huyện có việc tranh giành giữa hai ứng cử là đồng chí Nguyễn Huy Hoàng (tức Chương) và đồng chí Trần Xuân Viên (tức Viễn Chi). Đồng chí Viễn Chi được tỉnh uỷ giới thiệu (danh nghĩa tỉnh bộ Việt Minh), còn đồng chí Chương tự ứng cử với danh nghĩa nguyên Chủ tịch Uỷ ban cách mạng lâm thời. Đồng chí Viễn Chi người Nam Định, hoạt động ở Thanh Hà- Hải Dương, có năng lực hơn đồng chí Chương. Nhưng đồng chí Chương lấy thế là người địa phương, in truyền đơn vận động bầu cho mình, trong truyền đơn có câu ca dao: “Ta về ta tắm ao ta, dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn...”. Tôi nghĩ sao lại tranh nhau như vậy? Đồng chí Chương là đảng viên từ 1940, bị bắt giam ở Hoả Lò, cuối năm 1944 mới được tha. Cách mạng thành công rồi mà không bảo được nhau, nhất là trong lúc nước sôi lửa bỏng, thù trong giặc ngoài... Kết quả đồng chí Chương chỉ được 73 phiếu, chiếm 25%, còn đồng chí Viễn Chi được 75% phiếu, trở thành Chủ tịch Uỷ ban hành chính huyện Kim thành. Đồng chí Chương được tỉnh bộ Việt Minh điều về làm Bí thư huyện bộ Việt Minh Gia Lộc, sau về làm chủ tịch Uỷ ban kháng chiến hành chính huyện Khóai Châu- Hưng Yên. Sau này tôi hỏi đồng chí Chương tại sao lại làm như vậy, đồng chí trả lời tôi: “Do ấu trĩ cả”, tôi bảo: “Do cá nhân địa vị, cục bộ địa phương...”, đồng chí cười không nói gì thêm. Thế mới hay “nhân dục vô nhai” thực sự khó khắc phục lắm thay!
Ông Đoàn Hữu Lộng được nhân dân yêu mến tín nhiệm, nhưng vì con đông, nhà nghèo, lại đẻ sinh đôi, nên ông buộc lòng phải xin nghỉ việc để làm thuốc nuôi vợ con và bố mẹ già. Nhưng ông ở nơi nào cũng tham gia tích cực ở cơ sở nơi đó. Cho đến khi ông qua đời, thọ 89 tuổi, mất ở huyện lỵ Vĩnh Bảo, mọi người đều quí trọng và kính mến ông.
Trong lúc chính quyền ta còn non yếu, quân đội Quốc dân Đảng Trung Quốc do Lư Hán và Tiêu Văn đem hàng vạn quân vào Bắc Bộ, với danh nghĩa thay mặt Đồng Minh tước khí giới quân Nhật. Thực chất đội quân này rất ô hợp, ốm đói. Họ kéo đến đóng ngập xã tôi, hết toán này đi, toán kia lại đến, nhũng nhiễu nhân dân, thấy gì cũng lấy cắp, thấy bánh xà phòng tưởng bánh kẹo cũng lấy ăn, không ăn được mới vứt đi. Một hôm họ vào một nhà ở làng tôi bắt gà, tôi can thiệp, chúng đánh tôi một cái tát, tôi đến báo cho viên “Trung uý Bài trưởng” (trung uý đại đội trưởng) ông ta bắt tên lính đánh tôi phải xin lỗi tôi và viên trung uý tát tên lính của ông ta hai cái. Sau này tôi mới biết loại lính này mới tập hợp ở Hoa Nam, không được đào tạo giáo dục gì, cần đủ quân số vào giải giáp binh lính Nhật. Những toán lính đến sau, ăn mặc chỉnh tề và có kỷ luật hơn chút ít. Lúc đó có bài hát chế diễu quân Tưởng Giới Thạch như sau:
Đoàn quân Tầu ô đi, sao mà ốm thế?
Vác chân phù sang ăn hại nước Việt Nam...”
Trong thời gian này tôi vẫn là Bí thư xã bộ Việt Minh, trực tiếp phụ trách thanh niên cứu quốc xã và tham gia Ban chấp hành huyện bộ Việt Minh, thỉnh thỏang được huy động đi làm cán bộ của huyện một hai tháng như tổ chức các lớp huấn luyện, đi tuyên truyền cho việc chuẩn bị kháng chiến, tổ chức các cuộc đón tiếp lớn như đón trưởng đoàn Việt Nam Phạm Văn Đồng đi họp Hội nghị Phông ten nơ bờ lô (Fontainebleau) ở Pháp về. Đồng chí về bằng tàu hoả, qua ga Lai Khê. Khi tàu dừng ở ga Lai Khê, đồng chí xuống sân ga nói chuyện với nhân dân khoảng 3 phút. Tôi thấy đồng chí mặc áo khóac bằng da, nghiêm nghị và trầm ngâm suy nghĩ. Đồng chí bắt tay các đại biểu ra đón, phát biểu mấy câu ngắn gọn, đại ý: “Tôi đi đàm phán với Chính phủ Pháp, họ đưa ra nhiều điều kiện bất hợp lý, nên cuộc đàm phán không có kết quả. Ta đã đưa ra những điều kiện nhân nhượng, nhưng phía Pháp cứ khăng khăng giữ ý kiến của họ... Chủ tịch Hồ Chí Minh còn ở lại Pháp ít ngày nữa để tiếp tục đàm phán với Tổng thống Pháp...”. Trông đồng chí gầy nhưng đi lại rất nhanh nhẹn, với con mắt sáng và bộ mặt khắc khổ, da ngăm ngăm đen, mọi người vừa thương mến, vừa ca ngợi: đúng là ông Đồng, “mình đồng da sắt”. Khi kháng chiến toàn quốc bùng nổ, anh Phạm Văn Đồng được Chính phủ và Hồ chủ tịch phân công phụ trách các tỉnh Nam Trung bộ, từ đèo Hải Vân trở vào. Năm 1949, anh từ Liên Khu 5 ra Bắc để nhận chức Phó Thủ tướng, kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, gánh vác bớt công việc cho Bác. Anh qua đường Kim Thành để lên Việt Bắc. Tôi làm nhiệm vụ tổ chức lực lượng bảo vệ cho anh vượt đường số 5. (Đến tháng 2-1987 tôi được cử làm Phó Thủ tướng. Anh Phạm Văn Đồng biết tôi người Kim Thành, Hải Dương nên sau những buổi làm việc anh hay nhắc lại chuyện đi Pháp về qua Kim Thành và chuyến vượt đường 5 để lên Việt Bắc gặp Bác. Anh còn kể lại cho tôi nghe suốt chặng đường từ Nam Trung bộ ra đến Việt Bắc, đường đi vừa dài vừa khó khăn, địch phục kích luôn...).
Tháng 10-1946 Hồ Chủ tịch từ Pháp trở về bằng tàu thủy. Chiến hạm Đuy-mông-tuyếc-vin (Dumont d’Urville) chở Bác từ cảng Mác-xây (Marseille) về cảng Hải Phòng. Hôm sau Bác về bằng tàu hoả. Từ Hà Nội xuống Hải Phòng đón Bác có cụ Nguyễn Văn Tố, Phó Chủ tịch thường trực Quốc hội.
Từ sáng sớm ngày 21-10-1946 hàng vạn nhân dân 3 huyện Kim Thành, Thanh Hà, Kinh Môn đã đứng dọc đường số 5 và đường sắt, tay cầm cờ đỏ sao vàng, biểu ngữ, suốt lừ ga Phạm Xá đến cầu Lai Vu dài 7km, để được vẫy chào Bác. Thật là một ngày hội hiếm có kéo dọc một đoạn đường khá dài. Khi đoàn tàu chở Bác dừng lại ga Lai Khê, cụ Nguyễn Văn Tố xuất hiện đầu tiên, với bộ quần áo “Nam Phục” khăn xếp, áo dài lương, quần trắng, giầy “Ký Long”. Cụ bước xuống sân ga, thông báo cho mọi người biết, cụ Chủ tịch ở toa sau, cụ sẽ ra chào đồng bào. Chúng tôi tranh thủ cử đồng chí Phạm Tất Đạt và ba cháu thiếu nhi, cùng cụ bà Quản Khóay, lên tận toa tàu Bác ngồi để chào và xin chữ ký. Bác ghi vào sổ vàng “Các cháu gắng học cho ngoan - Hồ Chí Minh”.
Mọi người dự lễ đón Bác ở ga Lai Khê ngóng chờ, mong được nhìn thấy Bác, vị Cha già của dân tộc, bao năm bôn ba nước ngoài, nay với cương vị Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, là khách mời của Tổng thống Pháp, từ nước Pháp trở về, được toàn dân đón mừng, đặc biệt là những người đang chờ đợi Bác ở ga Lai Khê. Tôi vừa phụ trách tổ chức công việc cho mọi người đón Bác vui vẻ phấn khởi, vừa bảo đảm an toàn chuyến đi của Bác, vừa bận rộn giữ gìn trật tự. Ngoài ra tôi phải nhanh mắt nhìn Bác xuất hiện, vì đây là lần đầu tôi được tận mắt thấy Bác, muốn xem Bác có phải mỗi bên mắt có hai “con ngươi” không? Rất nhiều người tung tin là Bác “Song mục trùng đồng”.
Vừa lúc đó tàu từ từ chuyển bánh. Bác xuất hiện, vẫy tay chào mọi người. Mọi người đổ dồn vào toa tàu Bác đang vẫy tay. Tàu đi khá chậm, kéo dài mấy phút đủ để mọi người đứng gần đó nhìn thấy Bác. Bác tuy gầy nhưng rất vui tươi, tay Bác vẫy chào đồng bào cho đến lúc tàu mở tốc độ đi nhanh, rồi khuất xa. Mọi người ra về, chuyện trò vui như Tết và chỉ kể chuyện về Bác. Cụ bà Quản Khóay được Bác bắt tay, xúc động kể lại cảm tưởng sung sướng của cụ. Cụ nói: “Bây giờ có chết cũng thỏa lòng...”.
Chi bộ xã Cộng Hòa vừa mới thành lập được 6 ngày thì được giao nhiệm vụ bảo vệ tuyệt đối an toàn chuyến đi của Bác. Chúng tôi đã làm tròn nhiệm vụ dưới sự chỉ đạo của Tỉnh uỷ, Huyện uỷ, đã phối hợp chặt chẽ với lực lượng của các xã, các huyện bạn, làm tốt cuộc đón Bác đầu tiên ở quê nhà. Tuy Bác chỉ đi qua thôi, nhưng đã gây một ấn tượng sâu sắc trong lòng nhân dân xã tôi, nhất là các em thiếu niên nhi đồng, được Bác ghi vào sổ vàng của Đội. Cuốn sổ vàng khi chiến tranh bùng nổ bị thất lạc nay không còn nữa. Thật là đáng tiếc. Sẽ không bao giờ có một vật kỷ niệm vô giá như thế đối với Đảng bộ, nhân dân xã Cộng Hòa và các em thiếu niên nhi đồng.
Quan hệ Việt - Pháp ngày một căng thẳng. Hải Phòng cách xã tôi có 34 km, hàng ngày luôn xảy ra xung đột. Không khí chiến tranh lan rộng. Phái đoàn Liên kiểm Việt Pháp do đồng chí Hoàng Hữu Nam (Phan Bôi) làm trưởng đoàn. Phía Pháp do Đại tá La-mi (Lamie) làm Trưởng đoàn. Phái đoàn ta qua lại Lai Khê luôn luôn vì mỗi cuộc xung đột ở Hải Phòng, phải xuống dàn xếp. Khi về anh Hoàng Hữu Nam thường dừng lại ở ga Lai Khê, gặp Uỷ ban hành chính và chi bộ xã trao đổi tình hình, nói cho mọi người cùng thấy rõ âm mưu của thực dân muốn xâm chiếm nước ta lần thứ hai. Bởi vậy mọi việc chuẩn bị cho cuộc chiến tranh rất khẩn trương. Trên cử anh Nam Long (tức Đoàn Văn Ưu) về chỉ đạo chuẩn bị kháng chiến trên địa bàn dọc đường 5 từ Hải Dương xuống Hải Phòng. Chúng tôi chuẩn bị mọi lực lượng chiến đấu, chuẩn bị phá đường 5, đường sắt, thực hiện “vườn không nhà trống”. Mọi người thường gọi anh Nam Long là tướng Nam Long, dù lúc đó chưa có chuyện phong quân hàm.
Tôi là cán bộ trẻ lại nhanh nhẹn, nên việc gì cũng được giao, cũng dính vào. Tôi cảm thấy quá bận, nhưng rất phấn khởi, vì tuổi trẻ vừa sôi nổi, vừa hăng say, không thấy chiến tranh mà sợ hãi, thậm chí tôi còn mong cho nó đến sớm để đánh bọn Tây một trận cho biết tay nhau, chứ để nó lấn tới mà ta cứ nhân nhượng thì rất khó chịu. Cho nên sách “xưa” đã dạy: “Niên thiếu lực cường, khí huyết phương cương, giới chi tại đấu” (nghĩa là: người ít tuổi, sức thì mạnh, khí huyết đang phát triển, bồng bột, nên chú ý răn dạy họ phải kiềm chế hành động quá khích).
Mọi sức lực, trí tuệ của tôi lúc đó dồn hết vào việc chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược Việt Nam lần thứ hai. Kết thúc sớm hay muộn chưa biết, chỉ mong sao ta đánh thắng chúng thật nhanh để chúng khỏi nghênh ngang hàng ngày dùng xe cơ giới qua lại, thỉnh thỏang bắn vài phát súng thị uy khi xe đang chạy trên đường 5 với tốc độ cao, vài tuần lại có máy bay treo cờ 3 sọc rải truyền đơn khiêu khích quân dân ta. Đầu óc tới lúc đó cứ suy nghĩ triền miên về cuộc chiến sắp xây ra...
CHƯƠNG 2
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược Việt Nam lần thứ 2 trên đất Kim Thành, Hải dương
Ngày 15-10-1946 chi bộ xã Cộng hòa được thành lập gồm 4 đồng chí: Trần Đình Cự, Đoàn Duy Thành, Bùi Quang Xôi, Phạm Tất Đạt, do đồng chí Trần Cự làm Bí thư.
Dự buổi lễ thành lập chi bộ, có các đồng chí Nguyễn Thượng Trình (tức Lê Ràm, Vũ Chính) phó bí thư Huyện uỷ Kim Thành, đồng chí Tăng Bá Chuẩn cán bộ huyện uỷ, đồng chí Vũ Chính nay đã 86 tuổi, đại tá về hưu. Lúc đó tôi mới 17 tuổi, làm Bí thư xã bộ Việt Minh. Ý kiến đồng chí Trình và đồng chí Chuẩn muốn tôi làm Bí thư chi bộ, nhưng tôi từ chối vì còn ít tuổi, để đồng chí Cự làm Bí thư, tôi sẽ làm tốt nhiệm vụ Bí thư xã bộ Việt Minh, trực tiếp phụ trách thanh niên cứu quốc xã và dân quân tự vệ.
Trong thời kỳ này công việc chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp rất khẩn trương. Hàng ngày tin tức chiến sự ở miền Nam đưa về, địch phá hiệp định đình chiến 6-3-1946, tạm ước 14-9-1946 gây ra bao nhiêu vụ bắn giết đồng bào ta ở Hải Phòng, Hà Nội... Bọn Quốc dân đảng phản động Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam, Vũ Hồng Khanh núp sau bọn lính Tưởng Giới Thạch sang tước khí giới phát xít Nhật, nay quân Tưởng rút về nước, quân Pháp thay thế, chúng sợ chạy trốn theo quân Tưởng. Nhất là sau khi ta khám phá vụ thảm sát ở phố Ôn Như Hầu, Hà Nội (phố Nguyễn Gia Thiều ngày nay), bộ mặt thật của bọn Quốc dân đảng phản động ở phía bắc bị lột mặt nạ, những chi bộ Quốc dân đảng ở xã Lai Vu, Cộng Hòa đều co rúm lại không dám ngo ngoe gì nữa.
Tháng 11-1946 Pháp gây hấn ở Hải Phòng, chiếm Sở thuế quan (Hải quan) độc quyền thu thuế xuất nhập khẩu. Ta chiến đấu chống lại. Quân đội thực dân Pháp dùng tổng lực đánh chiếm Hải Phòng. Quân đội ta chiến đấu quyết liệt. Sau một tháng, do tương quan lực lượng ta yếu hơn địch, nên phải rút sang Kiến An để bảo toàn lực lượng kháng chiến lâu dài.
Tháng 12-1946 địch được viện quân từ Pháp sang, huy động quân ở Nam bộ ra, chúng khởi sự tiến công lên Hà Nội. Biết rõ âm mưu địch nên ta chủ động tiến công bết địch đóng ở cầu Lai Vu (do Hiệp định 6-3-1946 qui định ta đóng phía đầu cầu Hà Nội xuống, Pháp đóng đầu cầu phía Hải Phòng lên).
Hai đêm 19/20-12-1946 ta đánh cầu Lai Vu, đốt cháy cầu (lúc đó cầu bằng gỗ, do Nhật bắc tạm, cầu sắt bị quân đồng minh đánh sụp từ 1944). Tôi với cương vị chỉ huy dân quân tự vệ xã Cộng hòa, phối hợp với lực lượng chủ lực đánh cầu Lai Vu 2 đêm liền, chỉ đốt được cầu và tiêu hao một phần sinh lực địch, không tiêu diệt được bốt định đóng ở phía nam.
Chi bộ lúc đó mới thành lập được hơn hai tháng nhưng đã lãnh đạo nhân dân, dân quân du kích đánh địch rất quyết liệt. Trong số bốn đồng chí, khi chiến tranh nổ ra, đồng chí Đạt được điều về huyện phụ trách giao thông, đồng chí Cự, và đồng chí Xôi đưa gia đình đi sơ tán. Huyện uỷ chỉ định tôi làm Bí thư chi bộ, trực tiếp chỉ huy lực lượng vũ trang của xã cùng với lực lượng vệ quốc đoàn chiến đấu chống địch.
Sáng ngày 21-12-1946, quân đội thực dân Pháp gồm có xe tăng, xe bọc thép, tàu chiến, máy bay yểm trợ, kéo quân hai ngả tiến đánh đường số 5, mở đường tiến lên Hà Nội. Đường thủy chúng đi theo sông Kinh Môn, sông Kinh Thầy, đổ quân lên bến phà Tuần Mây để đánh chiếm ga Lai Khê, cách Tuần Mây 2 km dọc theo đường 186.
“Quân Pháp bị Hải đội Ký con và đại đội 3 của Trung đoàn Nam Long chặn đánh. Xã Cộng Hòa có 2 trung đội dân quân tự vệ, khoảng 70 người, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của chi bộ Đảng do đồng chí Đoàn Duy Thành làm Bí thư chi bộ, tổ chức chiến đấu rất quyết liệt. Địch bị tiêu diệt một số tên, không tiến công được phải quay lại Tuần Mây, tổ chức lại lực lượng. Chúng tiếp tục tiến công. Đến chiều ngày 21-12-1946 địch mới chiếm được ga Lai Khê. Trong trận chiến đấu này dân quân tự vệ xã Cộng hòa hy sinh 2 đồng chí là: Liệt sĩ Đỗ Văn Điệu và Nguyễn Văn Tham...” (Trích báo cáo của Đảng uỷ xã Cộng hòa ngày 20-12-2003).
Trong trận chiến đấu này có một thương binh là anh Bùi Quang Ngong. Trong lúc đang chiến đấu quyết liệt anh bị thương vào cánh tay, anh vừa chạy vừa ôm cánh tay gẫy, máu chảy đầm đìa kêu cứu: “Nó bắn chết hết cả rồi”. Tôi quát to: “Chạy về phía sau có cứu thương, không được kêu la ầm ĩ”. Anh Ngong là bạn học của tôi, lại là anh ruột chị dâu tôi, nhưng có điều viết hồi ký cần tôn trọng sự thật nên tôi nói rõ, một điều mà trước đây gia đình anh Ngong có hỏi nhưng tôi chưa nói.
Nguyên do là có sự éo le phức tạp của cuộc đời anh Ngong. Anh sinh trưởng trong gia đình hào lý, nên khi cách mạng tháng 8-1945 anh bị chú ruột là Lý trưởng cùng một vài đảng viên Quốc dân đảng phản động tuyên truyền, lôi kéo đi làm lính cho Quốc dân đảng, đóng ở thị xã Quảng Yên. Sau đó tôi bảo gia đình gọi anh ta về, không cho theo Quốc dân đảng. Anh đã bỏ về, rồi gia nhập dân quân tự vệ xã. Câu chuyện nếu đến đây kết thúc thì tôi vẫn có thể chứng thực cho anh là thương binh. Khốn nỗi trong những năm sau này, khi hồi cư về, mang cánh tay khoèo, không tham gia đoàn thể gì cả, hôm giỗ thầy dạy chữ nho ở thôn Tường Vu, vào Tường Vu cúng thầy, ăn uống xong không về nhà, lại đi “ghẹo gái” (bản tính anh này học dốt, nhưng đa dâm dục). Du kích xã bắt giải sang Thanh Hà, báo cáo là một tên Quốc dân đảng. Hôm sau tôi đi họp ở huyện về, xã báo cáo với tôi, tôi bảo: “Cậu này nó chẳng hiểu chính trị gì đâu, chỉ đi “ve gái” thôi. Trước cậu ta là lính Quốc dân Đảng phản động, nhưng sau đã tham gia kháng chiến và bị thương. Cho cậu ta về”. Được tha nhưng anh ta lại còn nấn ná ở lại Thanh Hà mấy hôm chơi bời. Tôi đi vào đất Kim Thành một tuần sau ra Thanh Hà thì được biết đã xảy ra chuyện đáng tiếc. Xã gặp đồng chí chủ tịch Uỷ ban kháng chiến hành chính huyện, báo cáo về việc anh Ngong, đồng chí chủ tịch huyện bảo: “Cho giết đi...”. Thế là dân quân du kích đêm đem ra sông giết anh Ngong. Sau này tôi hỏi đồng chí V.V.N chủ tịch huyện vì sao anh lại quyết định giết anh Ngong. Anh trả lời tôi: “Hồi đó còn trẻ cả, nên tả khuynh.”. Tôi nói lại, nếu anh ta không bị giết, bây giờ có thể anh ta là thương binh chống Pháp đấy! Anh V.V.N tỏ vẻ buồn và ân hận... Sự việc khá phức tạp, suy đi nghĩ lại mãi chưa muốn nói. Nhưng anh Ngong là bạn học với mình, mình lại biết rõ sự thật 100%, không nói sẽ ân hận với lương tâm... còn nay nên giải quyết như thế nào cho hợp với đạo lý và chính sách của Đảng và Nhà nước, thực là khó. Nhưng vẫn có thể giải quyết được, nếu ta quyết tâm giải quyết đúng với bản chất của sự việc.
Còn anh Trần Cự đi sơ tán, đến năm 1948, tôi gọi về huyện và giao nhiệm vụ làm giáo viên bình dân học vụ dậy cho bà con làm chài lưới ở Quí Cao. Năm 1949 tôi điều anh Cự về làm văn phòng cho huyện hội Liên Việt và kết nạp Đảng lần thứ 2 cho anh. Sau này tôi chứng thực cho anh được công nhận là Lão thành cách mạng.
Trận chiến đầu tiên, cũng là trận giặc Pháp chiếm đóng ga Lai Khê kéo dài suốt 8 năm cho đến tháng 12-1954, chúng phải rút khỏi ga Lai Khê theo Hiệp định Giơ-ne-vơ.
Từ đây bắt đầu cuộc trường kỳ kháng chiến trên đất Kim Thành - Hải Dương và cả nước chống đế quốc Pháp xâm lược lần thứ hai nước ta.
Tôi là Bí thư chi bộ xã Cộng Hòa, lại được huyện uỷ Kim Thành giao phụ trách cả 4 xã thuộc tổng Lai Vu cũ là: Cộng Hòa, Lai Vu, Cổ Dũng, Thượng Vũ. Trong lúc này chiến tranh đã bước vào giai đoạn rất ác liệt và chiến tranh du kích bắt đầu. Tôi động viên các hội viên, các đoàn thề phụ lão, thanh niên, phụ nữ và chính quyền các xã hướng dẫn bà con đi sơ tán, vận chuyển hết thóc gạo sang vùng hậu phương, thực hiện “vườn không nhà trống” kháng chiến lâu dài. Tôi cũng phân công các đồng chí phụ trách các đoàn thể và chính quyền các xã ổn định lòng dân, tổ chức sinh hoạt các nhóm gia đình sơ tán để thông báo tình hình địch chiếm đóng quê hương, những hành động dã man của chúng và tin chiến thắng của quân đội ta. Mặt khác tôi cùng với một số cán bộ Công an, quân sự do huyện tăng cường cho khu vực tôi phụ trách, như đồng chí Vấn, đồng chí Phạm Thiệp công an, đồng chí Tiến Minh, đồng chí Đại tình báo, đồng chí Tư Nghiễn quân sự... hợp thành lực lượng tổng hợp, làm đủ mọi việc, từ điều tra theo rõi địch, nắm quần chúng nơi sơ tán, rải truyền đơn địch vận. Cùng với quần chúng đêm đêm về làng, chúng tôi cắt cử các đồng chí về theo, phối hợp với du kích quấy rối địch, làm cho chúng ăn không ngon ngủ không yên. Có khi chúng tôi cử 1 -2 du kích đến bốt Lai Khê hoặc Phạm Xá bắn 1, 2 phát súng quấy rối địch, khiến chúng phải bắn suốt đêm, hết hàng thúng đạn... Sau khi quấy rối địch, chúng tôi bơi qua sông về đất Thanh Hà, quần áo ướt sũng, trời rét nhưng mọi người rất thích thú, nằm nghe địch bắn hàng giờ rồi mới về nơi ăn nghỉ.
Đông xuân năm 1946-1947 trời rét rất đậm, gia đình tôi sơ tán sang xã Cẩm Chế - Thanh Hà trong điều kiện rất khó khăn. Bố tôi lúc đó bị thương ở chân do nhiễm trùng, rụng mất bốn ngón bên trái, nước vàng suốt ngày chảy ra, đi đâu cũng phải khiêng cáng. Hai em gái tôi còn nhỏ chưa biết làm gì, anh ruột thì cháu bé bị ốm nặng, hai vợ chồng chỉ biết trông con. Tôi một mình vừa lo việc chiến đấu, vận động nhân dân, ban đêm phải về nhà lấy thóc tiếp tế cho gia đình, hết sức vất vả. Với một con thuyền nan nhỏ, mỗi khi qua nhà tôi xúc một ít thóc chở sang Thanh Hà. Tôi nhiều lần định chở theo con chó “xồm” vàng rất khôn, nhưng nó không chịu theo tôi, cứ đến bến sông Tường sang Thanh Hà là nó nhảy lên bờ. Ngồi trông tôi chở thuyền qua sông, nó khóc. Khi tôi sang bên bờ bên kia nó mới lững thững quay về nhà. Nó bị đói, nên tối đến, nó đón tôi để được ăn cơm, nhưng bắt nó đi theo, nó giãy giụa, cắn lung lung, quay về nhà. Được khoảng 2 tuần không thấy nó đâu nữa. Có lẽ nó bị chết đói hoặc có người bắt rồi.
Trong điều kiện kinh tế khó khăn, nhà nuôi được 3 con lợn, ủng hộ bộ đội 1 con, còn 2 con tôi chở sang thôn Tiền Tảo, Thanh Hà. Chưa tới nhà đã bị bà Giũi đòi lấy một con to. Vì hôm chiến đấu, anh em dân quân tự vệ có đến nhà bà Giũi vận động ủng hộ một con lợn để làm thức ăn cho dân quân chiến đấu 2 đêm liền ở cầu Lai Vu, bà Giũi đã sẵn sàng ủng hộ. Nhưng khi thấy tôi chở lợn sang, bà đòi lại Tôi trả ngay con lợn to, không nói một câu, nhưng cũng tiếc công chở lợn sang Thanh Hà, vất vả, đêm tối mà chẳng được gì, nhà lại đang lâm vào cảnh túng thiếu, bố ốm không có tiền mua thuốc. Nhà bà Giũi lúc đó lại khá giả hơn nhà tôi nhiều. Sau này tôi vẫn chứng thực cho gia đình bà Giũi là địa chủ kháng chiến, không hề nhắc lại chuyện cũ.
Tháng 3, tháng 4-1947, dân đi tản cư cũng đã cạn kiệt lương thực, lúa chiêm bà con tranh thủ về cấy ban đêm cũng sắp được thu hoạch, nên trên chủ trương cho dân về hồi cư, bám đất để kháng chiến lâu dài. Được lệnh, tôi huy động các đoàn thể theo dân cùng hồi cư, để tổ chức hướng dẫn làm ăn cho nhân dân, đồng thời xây dựng lực lượng vũ trang, đấu tranh với địch ngay trên đất tạm chiếm. Một vấn đề lớn được đặt ra lúc đó cho Đảng và chính quyền phải xử lý là địch bắt dân theo chúng, lập chính quyền bù nhìn (ta gọi cái tên lúc đó là “hội tề”), cũng có đủ: lý trưởng, chánh tổng, tiên thứ chỉ như trước cách mạng tháng 8-1945.
Được trên cho phép, ta cho người của ta lập “tề”, nhưng ta phải nắm chắc những người này, bề ngoài làm cho địch, nhưng là người của ta đưa vào. Trong khi ta chưa kịp đưa người của ta, một số nơi địch đã đưa người của chúng ra lập “tề”, rất phản động, gây khó khăn cho ta. Mặc dù ta đã cử người đến thuyết phục họ, nhưng họ cố tình theo địch, buộc ta phải xử lý như lý trưởng Tường Vu và Cổ Dũng, chánh tổng Cam Lâm. Đến cuối năm 1947 tất cả các xã dọc đường 5 (17 km thuộc đất Kim Thành) bề ngoài là “tề” của địch nhưng bên trong ta nắm được toàn bộ. Chỉ có một thôn An Bình (làng Vừng) do một đơn vị quân sự của huyện về phá “tề”, bị bọn phản động chống lại quyết liệt, có một số dân theo chúng, nên đồng chí chỉ huy đơn vị xử lý không đúng, đã đốt một số nhà ở thôn An Bình. Địch kích động dân rào làng chống lại ta. Đến 1954, một số dân thôn này di cư vào Nam. Ở một vài nơi khác có người vừa làm cho ta, vừa làm tay sai cho địch, ta đã gọi ra hậu phương cảnh cáo, như Lý Kỷ thôn Thắng Yên, phó tổng Phu, tổng Lai Vu. Sau đó những người này không dám làm việc hai mang nữa, đến khi ta có lệnh giải tán các loại “hội tề” thì những người này bỏ chạy vào Hải Phòng, nhưng không làm gì có hại cho ta.
Cuối năm 1947 cơ sở ta đã mạnh lên, các đoàn thể được tổ chức lại, các chi bộ đảng được xây dựng, tôi được đề bạt tham gia huyện uỷ Kim Thành và được giao phụ trách các xã thuộc 2 tổng Lai Vu và Cam Lâm gồm: Cộng Hòa, Cổ Dũng, Lai Vu, Thượng Vũ, Lâm Xá, Tuấn Hưng, Việt Hưng, Lâm Thái. Riêng xã Cổ Dũng chưa đủ đảng viên lập chi bộ nên tôi kiêm Bí thư chi bộ xã này và là Bí thư chi bộ đầu tiên của xã.
Tháng 12-1947 các “hội tề” đều phá hết, dù là “tề” do người của ta đưa vào làm, chỉ còn chính quyền ta công khai với dân, nhưng bí mật với địch. Hai bốt “dõng” ở Cổ Dũng và Tường Vu ta cũng phá luôn, thu được 13 khẩu súng trường Mỹ (Cổ Dũng 8 khẩu, Tường Vu 5 khẩu). Khu vực tôi phụ trách được đón phái đoàn của Chính phủ, do đồng chí Trần Cung, đặc phái viên của Chính phủ làm trưởng đoàn, đồng chí Đặng Tính, Bí thư tỉnh uỷ Hải Dương về thăm, nói chuyện với đồng bào xã Cộng Hòa, tại thôn Tường Vu (nhà ông Bích xóm Trại). Phái đoàn đã biểu dương và khen ngợi tinh thần yêu nước của nhân dân xã Cộng Hòa và toàn huyện Kim Thành. (Phái đoàn Chính phủ do Bộ trưởng Hoàng Minh Giám làm Trưởng đoàn, nhưng đến huyện Thanh Hà, Bộ trưởng Hoàng Minh Giám bị mệt không vào đất tạm chiếm được, đồng chí Trần Cung thay).
Mặc dù địch đóng bốt rất dày, riêng xã Cộng hòa có tới 4 bốt, sau này lên đến 6 bốt, nhưng địch cũng không lập được “tề”. Đôi khi địch o ép quá, ta phải đưa ra một vài người rất ngớ ngẩn, không biết chữ, làm đại diện cho chúng, như ông Thoại thôn Tường Vu. Địch buộc phải chấp nhận. Công tác địch vận chống bắt phu, bắt lính, chống thu thuế rất có kết quả. Tất cả thanh niên đến tuổi đều ra hậu phương đi tòng quân, tham gia bộ đội huyện, tỉnh, chủ lực, còn lại làm dân quân du kích, kết hợp với lực lượng vũ trang huyện phá “tề”, trừ gian. Sau này nhiều xã đội đã chủ động đánh địch.
Lúc này huyện uỷ Kim Thành quyết định thành lập 3 khu, gọi là 3 đồn: Đồn 8 gồm các xã thuộc đường 5 của hai tổng Lai Vu và Cam Lâm, do tôi phụ trách: Lai Vu, Cộng Hòa, Cổ Dũng, Thượng Vũ, Lâm Xá, Lâm Thái, Tuấn Hưng, Việt Hưng. Đồn 5 gồm các xã đường 5 còn lại là: Song Thái, Vạn Tân và các xã lân cận là Kim Quang, Ngũ Phúc, Vạn Thọ, Hưng Đạo, Tân Dân (thuộc 2 tổng Bất Nạo và Phú Tải) do đồng chí Hoàng Hồi phụ trách.
Đồn 9 có các xã thuộc 2 tổng Phí Gia và Nại Xuyên gồm: xã Bình Dân, Cẩm La, Tam Kỳ, Đại Đức, Hoàng Xá, Liên Hòa do đồng chí Phiên (Bách) phụ trách.
Sau khi xây dựng củng cố đồn 8, tôi chuyển xuống phụ trách đồn 5, như vậy là tôi đã phụ trách tất cả các xã dọc theo đường 5 dài 17km.
Trong thời gian công tác ở hai đồn 8 và 5, tôi hoạt động cùng các cán bộ thuộc hai đồn đều còn rất trẻ, rất xông xáo và hăng say công tác như đồng chí: Lê Công Thiện, Nguyễn Tiến Long, Nguyễn Văn Ngoạn, Nguyễn Văn Sanh, Phạm Văn Bổn, Văn Tuấn, Nguyễn Văn Khóai, đồng chí Khoa, đồng chí Cung (tức Cường), đồng chí Thủ. Cán bộ quân sự có đồng chí Phí Văn Tư (Tư Nghiễn), đồng chí Hoàng Văn Bút, đồng chí Nghê, đồng chí Thịnh (Đen). Cán bộ phụ nữ có: cô Cúc, cô Xuân, cô Dung. Cán bộ công an có đồng chí Phạm Thiệp, đồng chí Vấn. Cán bộ tình báo trung đoàn 42: đồng chí Minh Tiến, đồng chí Đại... tất cả đều là những đồng chí hăng say công tác, sẵn sàng xông vào đất địch, không sợ gian lao nguy hiểm...
Cuộc sống của chúng tôi vừa giản dị vừa đầm ấm. Suốt đêm đi hoạt động trong đất địch, ngủ bờ ngủ bụi, cơm ăn nhiều lúc không đủ no, quần áo nhiều lúc chỉ có bộ rưỡi, nhưng lúc nào chúng tôi cũng vui như ngày hội. Các cụ xưa thường khen các bậc chí sĩ yêu nước, những gương anh hùng coi cái chết “nhẹ như lông hồng”, còn chúng tôi lúc đó hình như ít ai nghĩ đến cái chết, bao giờ nó đến với mình cũng được, nó nặng hay nhẹ hơn lông hồng cũng chẳng ai biết, cứ được giao việc là đi làm, không thấy ai từ chối bao giờ!
Tôi lúc đó còn rất trẻ, hiền lành, nhưng bảo anh em cái gì họ cũng làm răm rắp, chẳng bao giờ phải ra mệnh lệnh. Chúng tôi đi vũ trang tuyền truyền, đi phá “tề” trừ gian, có lúc tôi và đồng chí Vấn công an ăn ngủ tại nhà ông Đội Sử làm chánh tổng “Tề” Lai Vu, nhà sát bốt Tuần Mây gần 200m, hoặc ngủ lại bốt “Dõng” ở Đình Vuông xã Cổ Dũng. Những người lính bề ngoài của địch, bên trong là người của ta đã bảo vệ chúng tôi. Trong lúc đang chiến đấu cùng nhau, có những đồng chí đã hy sinh trước mũi súng quân thù như đồng chí Quý, Bí thư thanh niên huyện Kim Thành; đồng chí Ngoạn, hy sinh khi làm chính trị viên huyện đội Kim Thành; cô Dung bị địch giết rất dã man; đồng chí Tiến Long bị bắt và hy sinh khi vượt Côn Đảo; đồng chí Cọ, đồng chí Kiêm bị bắt mất tích... Nhưng cũng có đồng chí nửa đường nhỡ bước sa cơ, bị địch bắt, không chịu được tra tấn đã đầu hàng địch (anh Hanh - tức Ngải thôn Đính Giàng, xã Đại Đức).
Người tiêu biểu mẫu mực cho các thời kỳ hoạt động ở Kim Thành, cùng trong cấp uỷ với tôi, là Bí thư Huyện uỷ Lê Ràm. Tên thật anh là Nguyễn Thượng Trình. Khi làm báo Quân đội, anh lấy thêm tên Vũ Chính. Nhưng cái tên Lê Ràm thì đến hôm nay anh cũng vẫn thích dùng. Duyên do anh Trình đặt tên ấy có ý nhắc nhở đồng chí Huyện uỷ viên, Trưởng ban Tuyên huấn Huyện uỷ, lúc đó không chịu vào đất tạm chiếm hoạt động, chỉ ở vùng tự do huyện Tứ Kỳ, tối về cầu Ràm, huyện Ninh Giang, nơi vợ bán hàng tại đó. Anh Trình lấy tên Lê Ràm không những ám chỉ đồng chí này chỉ “lê” ở cầu “Ràm”, đồng thời cũng phê bình chung một số cán bộ Kim Thành hay ở lâu vùng tự do (nay anh Trình đã 86 tuổi, là Đại tá về hưu, viết thư cho tôi bao giờ cũng ký: Lê Ràm).
Anh Lê Ràm luôn luôn bám sát đất tạm chiếm để đánh địch, giản dị, không có quá 2 bộ quần áo nâu và cái khăn vuông đen để gói quần áo đeo vào vai, tối làm chăn che bụng, lúc đó gọi vui là: “Khăn gói quả mướp”. Tôi nhớ Tết âm lịch năm 1947-1948, mồng một Tết tôi vừa ăn Tết với nhân dân trong vùng địch tạm chiếm, sáng mồng 2 tôi đi một mạch qua huyện Thanh Hà sang Nhân Lý huyện Tứ Kỳ thăm chúc tết Bí thư Huyện uỷ. Đi 5, 6 tiếng đồng hồ, đường mưa lầy lội đến văn phòng huyện uỷ, bụng mẩm chắc Bí thư Huyện uỷ sẽ chiêu đãi Tết. Nhưng đến văn phòng ở một nhà dân thì được ông chủ nhà cho biết Bí thư đi công tác từ tối 30 tết. Chúng tôi ngồi đợi một lúc mới thấy Bí thư Lê Ràm về, cùng với chú Hải (Mão) văn phòng Huyện uỷ. Hỏi ra được biết đêm 30 Tết Bí thư Lê Ràm ra chùa ngủ nhờ, sợ ngủ ở nhà “giông” cho gia chủ. Ngày mồng một Tết Bí thư Cộng sản ăn nhờ lộc Phật ở chùa và mồng hai Tết mới về làm việc. Anh em gặp nhau kể lại chuyện Tết trong đất “tề”, coi như là báo cáo với Bí thư Huyện uỷ. Trưa hôm đó ăn hơi muộn, ông bà chủ hồ hởi tổ chức bữa cơm Tết, tuy muộn mằn cho chúng tôi, nhưng rất thịnh soạn...
Năm 1948, mở đầu cuộc đấu tranh chính trị lớn nhất ở các xã đường số 5 là cuộc đấu tranh chống thu thuế vụ hè của địch. Ta đã phá hết “tề” các loại, địch tổ chức vào thu thuế, ta đánh mìn chặn đường chúng. Tiêu biểu là 2 trận đánh mìn ở xóm Gốc Me 17-8-1948 và xóm Đình, cổng nhà ông Tú ngày 23-8-1948 thôn Tường Vu, xã Cộng Hòa. Ta giết hàng chục tên địch đến cướp thóc của dân, sau khi chúng đi càn ở Thanh Hà về qua thôn Tường Vu. Địch trả thù hèn hạ bằng cách đốt sạch thôn Tường Vu. Đối với các gia đình thôn Lai Khê về phía Nam đường số 5, chúng bắt 22 người dân xếp hàng tập trung rồi xả súng bắn chết hàng loạt. Chỉ còn một người sống sót là ông Đoàn Hữu Nhung. Khi chúng sắp bắn ông đã lăn ra, chúng cho là chết rồi nên thóat chết. Tàn bạo hơn nữa, chúng thiêu sống ông Đỗ Văn Hứa ngay tại nhà ông. Ngày này đã thành ngày giỗ Trận ở xã Cộng Hòa.
Song song với 17km đường số 5 trên đất Kim Thành là đường tàu hoả, con đường huyết mạch của địch vận tải binh lính, vũ khí, lương thực từ chính quốc và miền Nam ra, cung cấp cho Hà Nội cùng chiến trường Bắc bộ. Đây thực sự là con đường chiến lược của thực dân Pháp đối với chiến trường Bắc Đông Dương bao gồm cả Thượng Lào.
Được chỉ thị của Trung ương Đảng, Chính phủ, Bộ Tổng tư lệnh và tỉnh uỷ Hải Dương, Huyện uỷ Kim Thành chỉ đạo huyện đội (có một trung đội do người trung đội trưởng nổi tiếng là đồng chí Tăng Bá Liệp chỉ huy) cùng với lực lượng dân quân du kích các xã luôn nắm sát tuyến đường số 5 và đường sắt thuộc Kim Thành, để tổ chức đánh mìn, phá đường tàu hoả, phá kế hoạch vận tải của địch. Tôi cùng các đồng chí cán bộ quân sự, công an, tình báo, cán bộ phụ trách xã, tiểu khu... luôn luôn nắm sát tình hình địch vận chuyển đi lại trên đường 5, đường sắt, tìm những điểm yếu của địch, kết hợp với tin từ cơ sở tình báo Hải Phòng để biết những chuyến tàu vận tải binh lính, vũ khí, lương thực, đánh cho trúng. Vì năm 1948 ta cũng đã đánh nhầm một đoàn tàu chợ, tuy phá tan được đầu tàu, đổ mấy toa, một số dân thường bị thương vong, từ đó chúng tôi kết hợp chặt chẽ với tình báo Hải Phòng đồng thời quan sát kỹ mỗi chuyến tàu rồi mới cho bấm mìn nổ. Năm 1947 ta chưa biết cách sử dụng pin (điện) để nổ mìn, phải dùng sức người kéo dây giật cho mìn nổ, nên thường không chính xác trúng đầu tàu, hơn nữa sau khi mìn nổ rút lui khó khăn, vì đông người địch dễ phát hiện.
Từ năm 1948 ta dùng pin (điện) nối vào đầu dây dẫn đến kíp mìn, nên độ chính xác rất cao và điều kiện giữ bí mật cũng tốt hơn, vị trí ngồi bấm nút cũng xa mìn hơn. Kéo dây giật phải ngồi gần, đông người mới kéo nổi giây cho mìn nổ (thường từ 3 người trở lên), còn bấm điện chỉ cần 2 người là đủ.
Nhưng đánh mìn bằng bấm điện cũng có cái phức tạp. Phải thử mìn trước khi đánh, phải cho điện chạy qua quả mìn, qua bóng điện, đèn sáng mới là mìn tốt. Có lần thử bóng đèn hỏng, khi bấm điện mìn nổ luôn, ba đồng chí bộ đội huyện bị hy sinh. Chỉ tìm thấy được vài cánh tay bay xa hàng trăm mét. Cả ba gian nhà của cụ Cựu Càng thôn Du La, xã Cẩm Chế, huyện Thanh Hà, Hải Dương và cót thóc đầy bay hết, nhưng không thiệt hại về người, vì mỗi khi thử mìn như vậy, anh em bộ đội Kim Thành nói với gia đình đi ra ngoài, tránh bất trắc xảy ra (gia đình cụ Cựu Càng là gia đình cách mạng, cụ và các con như anh Quản, chị Ngân, anh Kiên... đều là cán bộ cách mạng, là những người con trung hiếu). Khi sự cố mìn nổ, tôi đến thăm uý lạo anh em bộ đội huyện, thu dọn hậu quả và cảm ơn Cụ... Cụ Cựu Càng nói: “Tôi chỉ thương tiếc các đồng chí hy sinh. Tối hôm qua anh em đi tìm nơi đặt mìn, đặt dây mìn, hôm nay thử mìn để tối đem đi đặt, không may mìn nổ trước. Tôi thương tiếc anh em vô hạn. Còn nhà và thóc của tôi có đáng là bao. Cần hy sinh bao nhiêu nữa, tôi cũng không tiếc. Tôi sẽ làm lại 3 gian nhà và mời anh em bộ đội Kim Thành về ở”. Rồi Cụ khóc... Không đầy một tháng nhà đã dựng xong, anh em lại về nhà Cụ ở, mọi việc lại diễn ra bình thường như không có chuyện gì xảy ra!
Trên đoạn đường 5 (Kim Thành) địch tìm trăm phương ngàn kế, hòng ngăn chặn hoạt động của quân ta. Nhưng chúng đã thất bại! Tháng nào cũng có tàu địch bị mìn ta lật đổ trên đoạn đường này. Do những chiến công vang dội đánh mìn trên đường sắt, đội du kích Kim Thành đã 2 lần được Bác Hồ gửi thư khen và đã xuất hiện nhiều cán bộ chiến sĩ đánh mìn xuất sắc như: “Bộ ba vua mìn Cảnh, Huy, Chính”; nữ du kích Đinh Thị Nhìn, chiến sĩ thi đua toàn quốc Nguyễn Huy Trường, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Nguyễn Văn Thòa...
Có đoạn đường sắt từ ga Phạm Xá, đến thôn Phương Duệ (thôn Dòi) - Quỳnh Khê, ta đánh đi đánh lại rất nhiều lần nhưng địch vẫn không sao tránh được! Nhiều trận đánh chúng tôi ngồi tại một nơi kín đáo ở phía bắc đường 5 để xem tàu đổ chỉ cách 200 - 300m. Mỗi chuyến tàu đến, nghe tiếng còi tàu, tim chúng tôi như bắn lên, vừa mong đợi, vừa lo cho anh em, lo mìn không nổ, lo không phải tàu nhà binh... đủ mọi nỗi lo. Rồi lại mím môi chờ đợi, chẳng ai muốn nói với ai chuyện gì, tất cả tập trung vào ý nghĩ mìn nổ trúng đầu tàu vận chuyển quân sự... Đang suy nghĩ miên man thì tàu xình xình sắp qua chỗ đặt mìn. Bỗng một luồng khói lớn trùm hết đoàn tàu. Đầu tàu sững lại. Các toa tàu chùn lại như con sâu róm bị chạm đầu vào lửa hoặc vật gì nguy hiểm đến tính mạng... Đầu tàu đổ xuống, các toa đổ theo. Sau đó chúng tôi mới nghe thấy tiếng mìn nổ inh tai... Mọi người sung sướng... chui xuống hầm đề phòng địch càn cả sang phía bắc đường xe lửa. Sau 2 giờ địch tập trung truy tìm, anh em ở phía Nam kịp thời rút về thôn Thiệu Đáp, rồi bơi qua sông sang thôn Lan Can, xã Hưng Đạo, huyện Thanh Hà. Còn chúng tôi cũng rút về thôn Cam Đông, xã Việt Hưng ăn mừng chiến thắng... Trận nào cũng có cán bộ chỉ huy quan sát ở vị trí phía Bắc đường số 5 để theo dõi đánh giá kết quả trận đánh cho chính xác. Có lần chúng tôi mời cán bộ lãnh đạo huyện, tỉnh về quan sát trực tiếp... Tiếc rằng lúc đó không có máy ảnh ghi hình làm kỷ niệm. Máy quay phim thì không bao giờ dám nghĩ tới và cũng không hình dung quay phim thế nào. Mỗi chúng tôi cũng chỉ được nghe loáng thóang về xem xi-nê, chứ không ai được nhìn thấy nó!
Ngoài việc đánh mìn, còn có từng đợt phá đường tàu. Như năm 1949, hưởng ứng lời kêu gọi của Trung ương chuyển sang thời kỳ chuẩn bị tổng phản công, có một đêm ta đã dùng pháo mìn, phá hơn 10 km đường ray thuộc đất Kim Thành. Có thể nói đêm đó là ngày hội. Mỗi dân quân du kích được giao 2 quả mìn, phụ trách 50 mét đường ray. Đặt xong pháo mìn, từng đoạn dài 1 km có cán bộ quân sự Huyện phụ trách. Đến giờ phát hoả toàn tuyến bằng một phát pháo hiệu, mìn nổ ầm ầm sáng rực cả bầu trời Kim Thành. Sau trận phá đường, địch phải tập trung sửa hàng tuần, tàu mới chạy qua được đất Kim Thành.
Về việc phá tề trừ gian, hai đồn 8 và 5 làm liên tục, không cho “tề” phản động mọc ra. Muốn vậy trước nhất phải phá tan cái quận “bù nhìn” đóng tại thôn Thanh Liên, do Đặng Thúc Quỳnh làm quận Trưởng. Phạm vi của quận này gồm hầu hết các xã dọc đường 5 thuộc đất Kim Thành và một phần huyện Kinh Môn. Quận có 2 tiểu đội lính Pa-ti-giăng canh gác. Tên Quỳnh thuộc loại có học (tú tài cũ), ta đã vận động bọn lính bảo vệ quận, đồng thời viết thư kêu gọi quận Trưởng Quỳnh, nên y tỏ thái độ trung lập, không dùng bọn “tề” phản động phá cơ sở ta. Những gợi ý của cán bộ địch vận, y đều làm theo như không bắt dân làm thẻ căn cước để kiểm soát, không thu thuế những nơi mất mùa, nơi phải nuôi dưỡng cán bộ nhiều như Tường Vu, Lai Khê... y lờ đi không buộc dân phải đóng thuế. Do công tác địch vận tốt của xã Cộng Hòa y có ý muốn ra với kháng chiến và xã Cộng Hòa đã tổ chức đón y. Nhưng chuyện không thành chỉ vì không thống nhất ám hiệu. Sau y phải tự tìm đường ra với cách mạng. Ngày 11-10-1948 y đã dẫn binh lính dưới quyền mình ra xã Lâm Xá, đến thôn Bộ Hổ gặp được đồng chí Hoàng Văn Bút, cán bộ quân sự của Đồn 8 đưa toàn bộ quận Trưởng, 1 thư ký, 11 lính cùng võ khí vượt qua đường số 5 sang xã Cổ Dũng, qua đò sang thôn Du La, xã Cẩm Chế, Thanh Hà, được cơ quan huyện Kim Thành và nhân dân sở tại đón tiếp chu đáo. Họ rất phấn khởi. Những người lính đều tham gia vào bộ đội Huyện và Tỉnh. Còn Đặng Thúc Quỳnh được sử dụng ở Ban địch vận tỉnh. Khi địch đánh rộng ra vùng tự do của tỉnh Hải Dương, y lại chạy vào nội thành, nhưng không làm gì có hại cho cách mạng.
Tháng 1-1949 tôi được bầu làm uỷ viên Thường vụ Huyện uỷ, được Huyện uỷ phân công phụ trách tổ chức, phụ trách dân vận, làm chủ nhiệm Huyện bộ Việt Minh. Khi hợp nhất mặt trận Việt Minh vào Mặt trận Liên Việt, tôi làm thư ký mặt trận Liên Việt Huyện, về Đảng phụ trách khối Dân vận và Tổ chức Đảng.
Thời gian này, tuy địch đóng khá dày trên đất Kim Thành nhưng phong trào quần chúng ở các xã đều rộng khắp. Các tổ chức Phụ lão, Thanh niên, Phụ nữ, Nông dân... hoạt động rất sôi nổi, nhưng chỉ có một thôn An Bình (làng Vừng) là có cơ sở bí mật. Còn ở các xã, tổ chức quần chúng giữ bí mật với địch, công khai với dân. Những tên phản động hoặc những người cầu an đã chạy vào thành phố Hải Phòng. Các phong trào thi đua yêu nước như mua công phiếu kháng chiến, nộp thuế, đi dân công, tuyển quân, huyện Kim Thành đều làm đầy đủ nghĩa vụ do Tỉnh giao.
Phong trào học tập văn hóa, tập diễn văn nghệ rất sôi nổi. Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mark ra đời do tôi làm Hội trưởng để tuyên truyền chủ nghĩa cộng sản, có đồng chí Phí Văn Tưởng làm cán bộ giúp việc (đồng chí Tưởng mang cái tên “Tưởng - Marx” là vì thế. Sau này đồng chí Tưởng làm Chủ tịch huyện Kim Thành, và làm Chủ nhiệm Công ty Bách hóa Hải Dương).
Đặc biệt phong trào luyện quân, xây dựng lực lượng vũ trang rất nổi. Mỗi xã có một Trung đội dân quân du kích, huyện có một đại đội gồm 3 trung đội. Tháng 8-1949 toàn huyện đã tổ chức Đại hội Tập ở huyện Tứ Kỳ trong 3 ngày liền. Nhân dân toàn huyện tuy bị địch chiếm đóng, nhưng đã kéo ra khu Tự do Tứ Kỳ hàng vạn người dự Đại hội Tập. Địch biết ta tổ chức Đại hội Tập rất lớn ở vùng Tự do nhưng chúng cũng chẳng dám làm gì. Phong trào quần chúng rất vững. Khi địch đánh chiếm vùng Tự do Từ Kỳ, Ninh Giang, Thanh Miện... của Hải Dương, cơ quan huyện đã chuyển hẳn về đất Kim Thành. Đầu năm 1950 đã tổ chức Đại hội Đảng ở thôn Cao Ngô, xã Liên Hòa.
Xây dựng gia đình
Đầu năm 1949 tôi đã bước sang tuổi 20. Lúc này các đồng chí trong Huyện uỷ với lứa tuổi như tôi đều đã có gia đình, con cái đề huề, riêng tôi vẫn sống độc thân, lại là uỷ viên Thường vụ phụ trách dân vận. Lệ “tảo hôn” cũng làm tôi phiền lòng. Ban Chấp hành Phụ nữ huyện có nhiều đồng chí chưa lập gia đình, nên các đồng chí cứ gán ghép, giới thiệu với tôi nhiều “cô”. Tôi cũng hiểu Ban Thường vụ rất quan tâm đến việc thành lập gia đình của tôi. Mới 20 tuổi mà mọi người cho rằng tôi đã “ế vợ”, hoặc có bệnh (?) nên mới không lấy vợ. Các cô phụ nữ xã, huyện, đều muốn gán cho tôi cô này, cô khác. Có cô mạnh dạn nói thẳng “muốn làm bạn” với tôi. Cô khác tế nhị hơn chỉ chăm sóc đời sống cho tôi như giặt giũ, vá may quần áo giúp. Tôi đều cảm ơn, tất cả không dám ngỏ lời với bất cứ ai, vì tôi nghĩ mình còn ít tuổi, trong lúc kháng chiến gian khổ, không may bị hy sinh sẽ làm dang dở cho chị em, nên tôi không dám đặt vấn đề xây dựng gia đình...
Khoảng tháng 4-1949, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Hải Dương dự kiến điều tôi lên làm Trưởng ban chiếm đóng của Tỉnh. Các đồng chí khuyên tôi nên lấy vợ trước khi lên Tỉnh, nhất là những đồng chí thân thiết như đồng chí Lê Công Thiện, Hoàng Hồi, Nguyễn Văn Ngoạn. Đồng chí Thiện lúc đó phụ trách đồn 9, có xã Bình Dân. Đồng chí Hồi người xã Bình Dân giới thiệu cho tôi cô Phí Thị Tâm là Bí thư Phụ nữ xã Bình Dân mới 17 tuổi. Tôi cũng biết sơ qua đồng chí Tâm, vì đồng chí Tâm được kết nạp vào Đảng mới 16 tuổi, mà qui định Điều lệ Đảng lúc đó là 17 tuổi (tính cả tuổi mụ là 18) thì mới được kết nạp vào Đảng. Khi tôi là Trưởng ban Tổ chức Huyện uỷ đã về xã Bình Dân thẩm tra việc kết nạp sai điều lệ về tuổi của đồng chí Phí Thị Tâm. Nhưng sự việc cũng dừng ở đó thôi. Đến khi đồng chí Thiện và Hồi giới thiệu, nhận làm mối cho tôi, tôi cũng rất phân vân. Sau do sự vận động, có lúc như thúc ép, tôi mới nhận lời. Chúng tôi gặp nhau được 3 lần, trao đổi sơ sơ, nhưng Ban Thường vụ Huyện uỷ có ý kiến là tổ chức đám cưới luôn, và chủ động đi bàn bạc với hai gia đình chúng tôi. Hai gia đình cũng đồng ý
Thế là đến ngày 13-6-1949 đám cưới của chúng tôi được tổ chức theo hình thức “đời sống mới” ở thôn Phù Tinh thuộc khu Hà Đông, huyện Thanh Hà. Ngày tổ chức lễ thành hôn do Huyện và hai xã Cộng Hòa, Bình Dân đứng ra tổ chức rất đông vui. Tiệc cưới có bánh kẹo, đặc biệt là có xôi vò, chè đường, do hai xã tặng cô dâu chú rể. Hôm đó tôi bận họp Thường vụ, việc tổ chức là nhờ vào huyện, xã, cô Tâm với gia đình lo liệu. Cô Tâm mới 17 tuổi nhưng đã quán xuyến một phần công việc ngày hôm đó. Đúng 5 giờ chiều, họp xong Ban Thường vụ Huyện uỷ, chúng tôi cùng về một lúc. Đến Phù Tinh, tôi mới mượn được chiếc áo sơ-mi trắng của anh Hồng Long và cái quần ka ki của anh Ngoạn để mặc về làm lễ thành hôn. Tôi thay bộ quần áo nâu đưa cho nhà tôi gói cất đi. Cô dâu cũng giở gói tư trang đưa cho tôi đôi dép cao su trắng hiệu “con hổ”. Lần đầu tiên tôi được đi đôi dép cao su trắng, do vợ mua cho, tôi rất cảm động...
Hình như tôi có duyên với đồng chí Lê Ràm. Trong dịp này đồng chí Lê Ràm công tác ở Ban chiếm đóng Liên khu III về công tác ở Kim Thành. Tôi mời đồng chí đến dự, đồng chí đã làm bài hát và tự hát trong buổi lễ thành hôn của chúng tôi. Tôi chỉ còn nhớ có một câu... “Cả huyện đi ăn cưới đôi Thành - Tâm”...
Oái oăm và đáng buồn cho chúng tôi! Đúng 9 giờ tối, mọi người đang thu xếp dọn dẹp, nhất là gia đình cụ Hương Hòi thôn Phù Tinh suốt cả ngày lo lắng nấu nướng giúp đỡ, nhà sư chùa Phù Tinh tạo mọi điều kiện tốt nhất cho lễ thành hôn của chúng tôi, tất cả còn đang bận rộn dọn dẹp thì có tin địch sẽ tiến công vào khu Hà Đồng sáng sớm ngày hôm sau. Như vậy là cơ quan huyện Kim Thành đóng tại Hà Đông, ngay đêm 13-6-1949 phải chuyển hết sang Tứ Kỳ. Gia đình hai họ phải trở về Kim Thành ngay đêm đó. Thật là không ngờ ngày vui lại vất vả đến thế
Mọi việc chuẩn bị cho đêm tân hôn không còn nữa vì 12 giờ đêm thu xếp xong công việc, hai vợ chồng đi bộ đến sáng ngày 14-6-1949 mới đến làng Mép -Tứ Kỳ, nơi gia đình tôi sơ tán.
Ngày hôm sau địch không đánh lên khu Hà Đồng, đó chỉ là tin dự báo thôi. Còn tôi lại phải đi họp ở tỉnh rồi về họp ở huyện. Thực sự đêm tân hôn của chúng tôi phải sau 17 ngày nữa mới được “chính thức hóa”. Nói chuyện này nhiều đồng chí của tôi vừa buồn cười, vừa không tin, nhưng sự thật là thế.
Sau này thỉnh thỏang tôi hay nói vui với nhà tôi, nhất là sau khi từ “Ăng ca” ở Campuchia du nhập sang, tôi bảo đám cưới chúng mình do “Ăng ca” cưới cho đấy? Vợ chồng cùng cười... Nhưng “Ăng ca” Việt Nam khác “Ăng ca” Campuchia.
Đồng chí Phí Thị Tâm khi còn trẻ là cô gái xinh đẹp nhất nhì trong huyện. Về phẩm chất đạo đức phải nói là hiếm có, giỏi việc nước, đảm việc nhà. Sáu năm tôi đi tù và công tác xa, đồng chí giữ chữ hiếu với cha mẹ hai bên, giữ trọn nghĩa tình với chồng, làm trọn nhiệm vụ với Đảng và nhân dân giao cho, trông nom con cái chu đáo. Sau 8 năm chúng tôi cưới nhau mới sinh cháu đầu là Đoàn Duy Linh năm 1957 và tiếp 3 cháu nữa. Liền trong 4 năm 11 tháng chúng tôi đã sinh 4 cháu trai, trong lúc kinh tế cực kỳ khó khăn. Vợ tôi vẫn đi làm và chăm nuôi con, giúp đỡ chồng rất chu đáo, dạy bảo con cái đến nơi đến chốn, cho tới ngày các cháu trưởng thành. Đồng chí Nguyễn Thị Định, Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữa Việt Nam đã đến tận nhà tôi để gắn Huy chương vì Sự nghiệp giải phóng Phụ nữ cho cả hai vợ chồng tôi.
Đồng chí Tâm xuất thân từ gia đình nhà nho nghèo yêu nước. Ông nội là cụ Thương Quê, còn gọi là quan Thương, đô tú tài làm Thương tá Hải Dương, cùng với Cao Bá Quát chống vua Tự Đức. Cụ bị xử tử hình, chôn nửa người, sau một tuần mới mất. Do những người lính canh tử tế, đêm đem nước cháo cho cụ uống, nên mới sống được 7 ngày. Gia đình sợ hãi phải chạy xuống xóm “Lau” xã Đại Đức, Kim Thành lánh nạn. Gia đình trở lên nghèo khổ. Khi cải cách ruộng đất được qui thành phần cố nông. Tuy nhà nghèo, đến Cách mạng tháng 8-1945 mới được đi học, nhưng đồng chí Phí Thị Tâm chăm học, có di truyền thông minh, nên học giỏi, tiếp thu rất nhanh, khi đi làm cách mạng từng bước được học tập, đào tạo nên công việc phụ trách đều làm tốt. Họ Phí thôn Quê Phương, xã Bình Dân, Kim Thành có truyền thống nho học, thông minh nên địa phương có câu: “Văn chương họ Phí, lý sự họ Bùi...” vì thời kỳ đó cả huyện Kim Thành chỉ có hai người đỗ Tú tài thì đều người họ Phí cả.
Đầu năm 1950, giặc Pháp đánh chiếm vùng Tự do của tỉnh. Để chia lửa với hậu phương, phân tán lực lượng địch, huyện uỷ phân công 3 đồng chí uỷ viên Thường vụ Huyện uỷ về 3 đồn vận động quần chúng đánh địch. Mỗi đồn phải tổ chức một trận đánh tiêu biểu. Tôi được phân công về đồn 8, đồng chí Hoàng Hồi về đồn 5, đồng chí Vũ Viết Thưởng huyện đội trưởng về đồn 9. Huyện Kim Thành lúc đó đóng ở thôn Bàu và thôn Bửa thuộc khu Hà Đông, huyện Thanh Hà. Tôi về đồn 8, xã Cộng Hòa là nơi có lực lượng vũ trang mạnh, có đồng chí Bí thư chi bộ xã, Chủ tịch xã, xã đội trưởng, Thường vụ rất năng nổ, chiến đấu dũng cảm như đồng chí: Vượng, Văn, Cao, Quang, Đắn, Hoàn, Vanh. Đồng chí Huyện uỷ viên phụ trách đồn là Nguyễn Tiến Long rất hăng say đánh giặc...
Tôi cùng các đồng chí nghiên cứu đánh một trận mở đầu ở đồn Lai Khê, nơi địch tập trung mạnh nhất huyện. Nếu ta đánh thắng sẽ có tiếng vang cho toàn huyện. Nắm được qui luật đi lấy nước ngọt của địch ở giếng thôn Thanh Liên, tôi chọn cách đánh “độn thổ”, giáp vị trí quận, để gây bất ngờ cho địch. Chúng tôi đào 8 hố giấu kín 8 du kích đã được thực tập gần một tháng ở Bến Tắm huyện Chí Linh, khu căn cứ kháng chiến. Trên nắp hố và chung quanh được hóa trang rất cẩn thận. Những người đi đào hố đều lấy du kích thôn Tường Vu, khi đào xong trở về đều tập trung ở xóm Trại thôn Tường Vu, chờ đến khi trận đánh kết thúc mới được về nhà để bảo đảm tuyệt đối bí mật cho trận đánh.
Chiều ngày hôm trước 4-3-1950 có cuộc họp để phân công chỉ huy trận đánh tại nhà anh Chuẩn xóm Trại thôn Tường Vu. Đồng chí Đào Quang Đắn (tức Tuyên) xã Đội trưởng xã Cộng Hòa đã cùng anh em đi tập luyện ở Bến Tắm, Chí Linh, đề nghị xin cử đồng chí khác làm Chỉ huy trưởng, đồng chí Tuyên chỉ nhận làm chỉ huy phó. Qua trao đổi một lát với các đồng chí lãnh đạo xã, tôi quyết định cử đồng chí Đào Quang Vượng, phó Bí thư chi bộ, chính trị viên xã đội, con người dũng cảm mưu trí và đã chỉ huy trực tiếp hai trận đánh mìn ở xóm gốc Me và Xóm Đình năm 1948, là người đã theo sát tình hình diễn biến hàng ngày địch đi lấy nước ngọt ở giếng Thanh Liên, làm chỉ huy trưởng trận đánh quan trọng này. Mọi người đều nhất trí. Hai đồng chí Vượng và Tuyên cùng 8 du kích hứa quyết tâm làm trọn nhiệm vụ được giao. Tôi còn trao đổi kỹ với hai đồng chí chỉ huy trưởng và chỉ huy phó về một số tình huống bất trắc có thể xảy ra. Sau đó tôi cho các đồng chí ăn nghỉ, đến 10 giờ đêm ra trận địa để nhận địa hình, nơi mình sẽ phải nằm dưới hố khoảng 10 giờ để chờ địch. Tôi biết đó là những giờ phút rất căng thẳng, nhất là những anh em nằm dưới hố. Tuy tất cả là người địa phương rất quen biết địa hình, đã đi xem xét và thực tập nhiều lần, nhưng anh em vẫn có nhiều lo lắng. Giả dụ xe tô đè lên miệng hố, thì có quyền xông lên đánh địch không? Ngồi lâu dưới đất khi lên có thể bị chuột rút bị mắt quáng gà? nước uống cho anh em? nếu địch không đến, hoặc bị lộ...? Tất cả mọi tình huống đặt ra đều được giải đáp chu đáo.
Ngày 5-3-1950 vào hồi 8h30 một xe chở nước (Citerne) cùng hai tên lính da đen trên một xe Jeep, cùng đi với 4 người tù chúng bắt đi vác vòi bơm. Hai đồng chí chỉ huy rất lo. Khi đến bờ giếng chúng dừng xe, đi quan sát rất kỹ, đi đi lại lại mà không cho vòi xuống bơm nước. Các đồng chí đã nghĩ đến chuyện bị lộ, nhưng đồng chí Vượng nói cứ bình tĩnh, theo rõi sát mấy thằng lính... Có lúc tên lính đến rất gần chỗ chỉ huy của hai đồng chí, nhưng các đồng chí vẫn giữ yên lặng theo rõi. Sau khoảng 15-20 phút rất căng thẳng, 2 tên lính da đen quay về xe lấy nước, bắt tù vác vòi xuống giếng. Máy bơm nổ thì lúc đó đồng chí Vượng phát hoả, hô “xung phong”. Tám chiến sĩ du kích gan vàng, dạ sắt, đã đồng loạt đội nắp hố cá nhân xông lên đánh địch. Do bị đánh bất ngờ, địch vô cùng hoảng sợ. Ta bắt sống hai lính da đen, tước súng và tha ngay 2 tên này, giải thóat 4 tù chính trị địch bắt đi lấy nước. Đây là trận đánh “độn thổ” đầu tiên của huyện Kim Thành, là trận đánh sâu trong lòng địch, làm cho chúng hoang mang lo sợ. Chúng cho là bộ đội chủ lực đã vào sâu trong đất tạm chiếm của chúng, chỉ có bộ đội chủ lực mới dám đánh “độn thổ” như thế. Chúng sợ bị phục kích, không dám tung quân ra truy kích lực lượng ta, dù bốt quận cách trận địa 100 mét, cách Tiểu khu quân sự Lai Khê 400m. Mãi đến chiều 5-3-1950 sau khi tung quân thăm dò các ngả đường vào giếng Thanh Liên, chúng cho là an toàn, đến 4 giờ chiều chúng mới dám đến nơi trận chiến xảy ra. Còn lực lượng ta đã được chuẩn bị chu đáo rút về xã Thượng Vũ an toàn. Ngay trưa hôm đó, tôi chỉ thị cho anh em hóa trang là phụ nữ, súng tháo ra làm ba, bỏ vào quang gánh, 12 giờ trưa vượt đường 5, đóng giả là người đi chợ vượt đường 5, đường sắt, về qua xã Cổ Dũng rồi về thôn Tường Vu, Xóm Trại. Tối hôm đó tổ chức liên hoan mừng chiến thắng, nhưng rất bí mật và gọn nhẹ. Sau đó tôi cử hai đồng chí du kích xã là Đoàn Hữu Cự và Lưu Văn Thơ cùng đồng chí xã đội trưởng mang 2 súng trường Mỹ - chiến lợi phẩm, nộp cho huyện đội Kim Thành và lĩnh thưởng mỗi khẩu 500 đồng tiền cụ Hồ.

Trong đêm hôm đó, tôi cũng vượt qua đường số 5, đường sắt, xuống thôn Cam Đông, xã Việt Hưng thuộc đồn 8 và các xã khác để tuyên truyền chiến thắng, và phân tích âm mưu của địch đánh rộng ra vùng tự do của tỉnh Hải Dương. Các chiến sĩ gan vàng, dạ sắt của xã tôi gồm 10 người (2 chỉ huy, 8 du kích) đến hôm nay chỉ còn 5 đồng chí. Hai đồng chí chỉ huy là Vượng và Tuyên đã về hưu, đang sinh sống ở xã Cộng Hòa.
Đồng chí Vượng không may bị mù cả hai mắt. Tám du kích, nay còn 3 đồng chí là: đồng chí Ngách, đồng chí Nàng, đồng chí Thành đang sinh sống ở xã Cộng Hòa. Ba đồng chí này là người của 3 thôn: Đồng chí Ngách thôn Tường Vu, đồng chí Năng thôn Lai Khê, đồng chí Thành thôn Thanh Liên. Thật là sự ngẫu nhiên thú vị, mỗi thôn còn một đồng chí làm nhân chứng lịch sử. Còn 5 đồng chí khác do tuổi già sức yếu đã qua đời.
Đây là trận chiến đấu lần cuối trong đời hoạt động của tôi ở Kim Thành, Hải Dương trước khi chuyển sang hoạt động ở một môi trường mới, phức tạp và gian khổ hơn - Thành phố Hải Phòng.
Kết thúc giai đoạn công tác ở Hải Dương, nơi chôn rau cắt rốn của tôi và tôi đã trưởng thành từ đấy bằng những công việc thiết thực cụ thể để xứng đáng với Hải Dương quê hương có đường 5 “Anh dũng kiên cường” yêu quí, với xã Cộng Hòa anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân thời chiến tranh chống thực dân xâm lược Pháp, xứng đáng với Thành phố Hải Phòng “Trung dũng quyết thắng” thân thương, là nơi “Lửa thử vàng, gian nan thử sức” rất khốc liệt, mặt đối mặt với quân thù, nơi cái sống và cái chết diễn ra không đầy gang tấc và đã kéo dài đời hoạt động của tôi tới 36 năm chẵn (tháng 6-1950 - 6-1986), tại Thành phố Cảng anh hùng, biết bao kỷ niệm buồn vui và đầy kịch tính.
25/8/2004
Đoàn Duy Thành
Theo https://isach.info/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Giải mã tục cúng Thần Tài vào mùng 10 tháng giêng âm lịch

Giải mã tục cúng Thần Tài vào mùng 10 tháng giêng âm lịch Khoảng hơn 10 năm trở lại đây, trên báo chí và mạng xã hội thường phản ánh chuyệ...