Thứ Bảy, 30 tháng 9, 2023

Đèn Cần Giờ 2

Đèn Cần Giờ 2

Thế là lá bài cuối cùng đã đánh xuống từ tay chàng. Đó là lá bài dâng của. Tuyết mở đường cho Bích hạ lá bài ấy, là nàng "tới" ngay. Mười bảy bốn chục đấy.

Tuyết đã yêu chàng thật sự. Chàng cung phụng Tuyết đầy đủ về mọi mặt kia mà. Có hạng người chỉ "đi" đến mức nào đó thôi, mà làm bé là một lằn mức. Khi làm bé được, là họ cũng yêu chồng, cũng trung thành với chồng như bất kỳ bà vợ lớn nào.

Vì thế Bích yêu lại nàng và tính chuyện ăn đời ở kiếp với nàng chớ không còn nghĩ chuyện qua đường như trước. Nay nhớ lại vụ Tuyết bịnh, đoán Tuyết chết, Bích càng yêu Tuyết hơn lên.

Nàng chết thì số tiền kia về ai? Bích băn khoăn tự hỏi như vậy.

Ban đầu, chỉ vì Tuyết xài lớn quá mà chàng phải thâm lạm chút ít của hãng. Nhưng cứ khẻ mòn lần lần, chàng thấy không thể lấp nổi chỗ trống. Viễn ảnh ngồi tù chỉ làm chàng hoảng vừa vừa thôi. Hơn thế nó xui chàng liều, để ở tù cho đáng với ở tù. Vì vậy chàng đã nghiên cứu làm một vố thật to. Gian lận của hãng không khó bao nhiêu. Khó là sau khi bị bắt, làm thế nào khỏi lòi tiền trả lại.

Với nhà điều tra, Bích đã nhận hết tội lỗi. Chàng đã cắt nghĩa: "Tôi lỡ dại, cờ bạc và ăn xài lớn". Người ta kiểm soát lời khai của chàng. Sòng bạc 1thì quả chàng có đến nhiều lần. Những người giúp việc trong đó nhớ mặt chàng. Mưu mẹo của chàng không khó thực hành bao nhiêu. Vô ra thường ở Kim Chung mà không thua đậm là việc cũng tương đối dễ. Làm cho một vài nhơn viên trong đó để ý và nhớ mặt mình cũng chẳng khó khăn gì. Còn biếu buộc boa hậu cho phục dịch viên ở mấy tiệm nhảy cho họ nhớ mà khai ra, nếu ai có hỏi, cũng là trò dễ làm.

Nhờ thế, số tiền cướp cạn của hãng, chàng giao gần nguyên vẹn được cho Tuyết. Bây giờ số tiền ấy về tay ai, nếu Tuyết vắn số ?

Sự tiếc của bỗng khiến cho chàng thấy ba năm ngồi tù là dài, là mất thì giờ, là mất thể diện một cách oan uổng, đau đớn. Chàng đinh ninh ra khám là sống đế vương, nên tự an ủi bằng viễn ảnh giàu sang đó. Bây giờ nguồn an ủi kia đã mất thì...

Bỗng người thiếu phụ đứng lên, xây ra ngoài. Nhưng nàng vẫn không ngó ra cửa sổ, mà chỉ nhìn vào vách, hình như xem lịch treo nơi đó.

Bích ngạc nhiên hết sức. Người đó là Rỉ, vợ bé của Tất, một người quen của chàng.

Ha ha, chàng reo thầm. Đi tìm vợ bé của mình, lại gặp vợ bé của thằng khác. Mà thằng Tất, nghĩ cũng bền sức. Tiền đâu mà nó cung phụng mãi cho cô Rỉ nầy? Chàng đoán sức nó kéo dài chỉ độ non một năm rồi đứt hơi. Mà ba năm rồi, Rỉ vẫn còn đây. Hay là Rỉ đã đổi chồng?

Dầu sao, cùng một giới làm bé với nhau, chắc Rỉ biết rõ về Tuyết. May quá, nếu chủ nhà là người khác thì thật bít đường thăm hỏi.

Bích toan bước lại gõ cửa ngoài thì chàng giựt mình, xúc động rất mạnh. Nơi khung cửa buồng, hiện ra một người đàn bà mà trong giây phút ngỡ là một bóng ma. Người đó là Tuyết. Không, Tuyết không thay đổi chút xíu nào, có phần đẹp hơn lên một tí thôi. Cũng cái lưng ong đó mà chiếc áo lỡ ôm sát vào, cũng dáng người dong dải trước mà đôi guốc cao gót giúp cho dong dải thêm. Nhưng đôi mắt xem ra sâu sắc hơn và vì thế quyến rũ hơn.

Tuyết tươi cười chớ không sầu muộn như chàng thường hình dung ra, khi nằm khám. Nàng nói với bạn:

- Mới hăm hai thôi ông ơi! Lão ấy hăm tám mới lãnh tiền. Bộ túng rồi sao?

Rỉ cũng cười, nhưng vẫn tiếp tục xem lịch rồi đáp:

- Không, tôi xem ngày ăn chay mà!

Lần nầy Bích không tính chuyện gõ cửa nữa. Nhà nầy là nhà của chàng mặc dầu Tuyết đứng tên. Chàng đã làm vua nơi đó, vua với cả đến trong lòng bà chủ, thì còn phải xin phép ai. Vả chàng lại muốn vào bất thình lình, vào một cách kiếm hiệp chơi cho vui. Chắc là vui lắm. Nhưng tiếc một cái là nhà có khách, chàng sẽ không âu yếm được Tuyết, Tuyết sẽ không chạy a lại bá lấy cổ chàng để mà khóc lóc, rồi nũng nịu nầy kia.

Cửa vào, một cánh khép, lột cánh mở, che bằng những dây chuỗi trúc. Bích thò bàn tay qua hai sợi chuỗi rồi huơi tay cho trúc kêu lắc rắc. Tiếng động ấy kéo mắt hai người đàn bà lại hướng đó. Nhìn thấy bàn tay đang huơi lên một cách kỳ dị, họ kinh khủng hết sức, trố mắt, há miệng mà nhìn, không nói gì được, không cử động được.

Bích thích chí lắm. Đoạn chàng sấn bước tới, đội tấm màn chuỗi ấy. Hai người đàn bà đã rụng rời tay chơn và toan chạy đi thì thân mình chàng đã lòi ra. Những dây chuỗi trúc chảy trên người chàng như nước, rồi bị vẹt ra sau.

Tuyết kêu lên một tiếng khủng khiếp rồi đứng đó như bị trời trồng. Rỉ không kêu la gì, nhưng cũng kinh ngạc cực độ.

Bích thấy hay hay như trong một phim trinh thám. Chàng thích chí cười hà hà rỏi hỏi:

- Tưởng ăn cướp hay tưởng ma?

Không ai đáp lại cả và câu hỏi đùa của chàng cũng không giúp tươi lại không khí trong phòng.

Chàng phải nói thêm, giọng kẻ cả:

- May là hai người. Nếu một mình em thì chắc em kêu cứu rồi. Nhà không có đờn ông thì khổ quá.

Rỉ trấn tĩnh lại được, tươi cười gượng rồi mời:

- Anh ngồi đây.

Bích ngạc nhiên lắm. Rỉ là chủ nhà? Sao nó lại mời mình ngồi ở một nơi mà mình ngự trị đã lâu ? Tuy nghĩ vậy, chàng vẫn ngồi xuống theo lời Rỉ, vì chàng cảm nghe cái gì hơi khác lạ hơn khi xưa, ngồi để xem sao. Ngồi xong, chàng ngả người trên lưng ghế cho oai, vì lòng tự ái của chàng cấm đoán chàng có thái độ e dè trong cái nhà mà chàng đã tốn rất nhiều tiền để sang dọn. Chàng nói:

- Lại đây em. Anh đây mà. Tôi giỡn bậy bạ quá, làm em cưng tôi hết hồn.

Bấy giờ Tuyết cũng đã tỉnh hồn, nhưng vẻ lo lắng lại hiện ra rõ rệt trên mặt nàng. Thấy Tuyết vẫn làm thinh đứng đó. Bích lại hỏi:

- Em hờn hả? Thôi anh xin lỗi em. Rồi anh sẽ tạ lỗi em. Em không có đọc báo à?

Rỉ trả lời hớt:

- Báo có nói gì đâu về sự anh mã hạn. Họ làm sàm lúc anh bị bắt, rồi quên anh luôn.

- Bà người thân yêu cũng quên luôn như các báo. Có phải như vậy không?

Chàng hỏi câu đó rồi cười lớn nhưng giọng rất gượng gạo. Thấy rõ là chàng tủi, lại có ý sợ phải nghe người ta đáp rằng phải.

- Anh về hồi nào? Rỉ hỏi.

Lần nầy sự im lặng dâng lên từ nơi chàng. Nhưng nín lâu không được vì bồn chồn muốn biết sự thật, Bích đáp:

- Tôi về hồi nào, chuyện ấy không quan trọng. Quan trọng là chuyện Tuyết đi hồi nào kia. Đi nghĩa là... tôi muốn nói lòng Tuyết rời tôi mà ra đi. Tuyết không muốn nói chuyện với tôi, xin cô đáp giùm.

Rỉ nhìn bạn rồi giọng ra lịnh của nàng vang lên:

- Thì Tuyết cứ ngồi xuống, rồi cả ba đều nói chuyện. Có gì mà bà chết sững ra vậy.

Tuyết và Rỉ cùng ngồi xuống một lượt. Thấy Tuyết ngước lên nhìn đồng hồ treo lần nầy là lần thứ ba, Bích cười lớn.

- Anh ấy gần về. Thôi, tôi đi nhé!

Rồi chàng làm bộ đứng lên. Thấy không ai cầm cản gì, chàng tức mình nói:

- Nói chơi vậy chớ khiêng tôi, tôi cũng chẳng đi. Nhà của tôi, muốn cho tôi đi, ít ra cũng phải nói cái gì cho dứt khoát chớ.

Rỉ biết bạn khó mở lời, nên cứu Tuyết:

- Xin anh bình tĩnh lại, rồi chị em tôi kể hết cho anh nghe.

- Tôi chưa bao giờ mất bình tĩnh, chị biết cho chỗ đó.

- Thì anh không mất bình tĩnh. Nhưng xin anh cứ giữ cái bình tĩnh đó.

- Còn tùy.

- Như thế nầy. Chị Tuyết đau bại xụi thình lình...

- Có thật bại xụi hay không? Một người ăn uống đầy đủ khó mà bại xụi lắm. Một người dư cơm dư tiền để đi thầy thuốc mỗi khi có báo động trong người thì khó mà bại xụi thình lình.

- Tin hay không là tùy anh, tôi chỉ...

-... chỉ đọc lại cái giả thuyết mà Tuyết đã lập ra và cậy chị học thuộc lòng?

- Cái anh nầy! Sao mà anh cộc cằn với tôi quá như vậy.

- Tôi xin lỗi chị, tôi tức quá nên quên rằng người kể chuyện là chị.

- Quanh chị Tuyết, không có ai bà con thân thích cả. Bịnh bại xụi mà không ai đỡ đần thì anh biết, có thể nằm đó mà chết đói.

- Còn người ở?

- Thì cũng phải có ai sai khiến chúng nó, hứa trả lương chúng nó, chúng nó mới chịu tiếp tục làm việc.

- Vì vậy có kẻ ra... tay nghĩa hiệp? Ai đó vậy?

- Anh Bổn.

- À thằng Bổn khốn nạn!

Bấy giừ Tuyết ôm mặt mà khóc nức nở, Bích nghe thấy day lại nhìn nàng một cái rồi nói với Rỉ:

- Năm xưa cô ấy cũng đã khóc như vậy. Nào là: "Em không muốn xen vào để phá gia cang của anh, nhưng em yêu anh lắm, nên em mới khổ" nào là vân... vân... và vân... vân... Chắc cô ấy cũng đã khóc với thằng Bổn ngốc: Nào là "Anh ơi, cái ơn của anh nặng lắm, em vốn không muốn phá gia cang của anh, nhưng mà nếu không thì làm sao đáp nghĩa được!." Có phải như vậy hay không nè? À mà chị, tôi quên hỏi, tại sao chị lại ở chung với cô ấy?

- Anh Tất biểu tôi về ở chung với Tuyết cho đỡ tốn, căn buồng chúng tôi mướn trên đường Tự Do bây giờ lên đến hai ngàn rưỡi.

- Còn Tuyết cho chị ở chung, cũng cho đỡ tốn, vì chị chia sớt tổn phí với cô ấy. Vậy ra Tuyết đã xuống giá rồi à? Hừ, thế mà trước kia Tuyết còn đòi tôi sang phố lầu. Mới có ba năm mà sụt giá đến phân nửa!

- Anh tàn nhẫn lắm?

- Tôi tàn nhẫn thật đó. Nhưng cô ấy lại có nhơn từ gì hơn. Chị coi kìa, cứ một lát là cô ấy xem chừng đồng hồ một cái. Nhắc nhở mãi cho tôi sôi gan lên. Không sao đâu. Tôi với Bổn là bồ mà! Cả hai đều đi một xuồng, chiếc xuồng dại dột ở bến mê, thì có gặp nhau, chỉ ôm nhau mà khóc là cùng.

Tuyết tấm tức tấm tưởi nói:

- Em đã yêu anh thật tình trong mấy năm, thì dầu sao anh cũng nên tha thứ cho em...

Tuyết sao lại đẹp hơn trong lúc khóc? Đôi môi kia, thân thể kia lại khiêu khích hơn bao giừ hết khiến con người ba năm chay lạt là Bích bỗng thấy có thể tha thứ được dễ dàng. Tuyết duỗi hai chơn ra và Bích nhận thấy gót nàng vẫn còn đỏ như ngày nào, dầu bàn chơn nàng còn thon trong quai chéo của guốc mắc tiền như ngày nào. Bích nhìn khắp thân thể người cũ rồi thấy như đó là một giai nữ lạ còn lắm bí mật chàng thèm khám phá. Chàng mệt mỏi nói:

- Tha thứ thì tôi sẵn sàng tha thứ. Nhưng cũng phải nói thiệt hơn cho em nghe chớ.

Tuyết tiếp câu khi nãy:

- Anh thường bảo chừng nào em hết yêu anh thư cứ nói ngay ra, anh sẽ phóng thích em. Ngày nay sao anh lại...

- À ra vậy?

Bích nghe như ai đánh mạnh vào đầu chàng bằng chày vồ, chát chúa, còn hơn lúc nghe Tuyết đã vào chủ khác. Thì ra cái tha thứ mà nàng xin không phải tha thứ để trở lại với nhau, mà tha thứ là đừng làm rầy rà, lôi thôi gì cả. Hy vọng chốc lát rồi tuyệt vọng ngay, khiến chàng tức giận vô cùng. Nhưng quả chàng có nói như vậy với Tuyết. Số là chàng sợ bị mọc sừng, nói hờ cho Tuyết khai thật nếu nàng có yêu ai. Thà khai ra như thế rồi xa nhau vẫn hơn là làm mọi cho chúng hưởng.

- Tôi có nói như vậy thật, chàng đáp. Nhưng cô có bảo với tôi là hết yêu tôi, có bảo như vậy lần nào chưa? Cô làm thinh mà lấy chồng, tức là cô phản bội rồi đó. Nhưng thôi, vô ích, tôi cũng chẳng nài nỉ ở lại với cô. Tôi chỉ...

Bấy giờ, Tuyết chân nói, nếu anh cần dùng tiền, anh lấy đỡ vài ngàn cho qua buổi khó khăn mới ra, rồi em sẽ liệu mà giúp anh thêm. Dầu sao, tình cũ, nghĩa xưa, em cũng không quên được.

Bích cười dài một cái rất mai mỉa:

- Hừ... hừ... hừ... tiền. Tôi sắp nói đến chuyện tiền đây. Mấy trăm ngàn tôi đưa cho cô, giờ xin cô trả lại tôi phân nửa.

- Em ngỡ anh cho, nên em uống thuốc hết rồi.

- Ý chà ! Bộ tôi nhà quê sao mà? Bại xui thì tiêm nước mã tiền một đồng một ống, tiêm sinh tố B1 ba đồng một ống, làm gì đến hết mấy trăm ngàn. Mà tôi cho cô hồi nào? Tôi nói: "Em cất đi, rồi ta cùng hưởng về sau". Cô nhớ hay không? Cô đã bá vào cổ tôi, hôn tôi rồi nhõng nhẽo xin: "Cho đứt em một phần ba đi". Cô nhớ hay không? Cô nhõng nhẽo tài lắm. Bây giờ mà cô nhõng nhẽo một lát là tôi thua ngay. Nhưng cô dại gì, tôi còn đâu tiền !

Tuyết cứ khóc như mưa.

- Cô dại lắm, Bích. tiếp. Có tiền nhiều, lại không sang nhà lầu mà ở, lại còn cho bạn ở đậu cho chật chội. Hà tiện lắm rồi chết cũng hai tay không, lại bị tôi biết nhà tìm về cho rắc rối. Thôi, tiền đâu đưa đây, tôi ra ngay, không khuấy rầy cô nưa đâu.

- Thật tình em uống thuốc hết rồi.

- Hà, năm xưa, tôi phải trưng nhiều bằng cớ thật, nhà điều tra họ mới thôi hỏi tiền tôi. Nay cô chỉ đưa ra một con bù nhìn "uống thuốc" thì mong manh quá. Đồng tiến là huyết mạch, cô nghe ra chưa? Đồng tiền của tôi lại là ba năm lao tù. Mất nó, tôi thà vào tù nữa mới đành dạ cho. Ở ngoài có những con em nó tình tứ quá, khiêu khích quá mà mình lại không xu thì chịu làm sao nổi. Vậy cô đưa hay là không, nói mau đi.

Giọng Bích trở nên câu máu, hăm dọa. Mắt chàng dữ tợn lạ lùng, đỏ ngầu và sâu hóm. Tuyết kinh hoảng vô cùng, nhưng còn nói gượng:

- Bộ anh muốn tới đây ăn cướp hay sao?

Bích đứng lên cười ha hả:

- Phải, tôi đã ăn cướp cạn của người ta, bị họ ăn cướp cạn trở lại. Bây giờ tôi đòi lại cái gì tôi đã mất. Chánh đáng lắm. Nhưng muốn bảo thế là ăn cướp cũng được.

Tuyết và Ri cũng đứng lên, toan chạy. Bích lại cười lớn:

- Một con mèo đón ngoài miệng hang của hai con chuột. Chạy đi đâu cho thoát. Nhưng chị Rỉ không can gì. Chị cứ ngồi đó.

Bích vừa nói vừa vói tay lấy con dao rọc giấy trên bàn. Con dao bằng kim khí bọc cơ-rôm bóng loáng, không bén bao nhiêu, nhưng nhọn hoắt. Chàng cầm dao theo lối cầm boa nha, đưa dao lên trước mắt Tuyết mà rằng:

- Kêu la cũng vô ích. Cô sẽ chết trước khi có người tiếp cứu. Nầy, cái ngực của cô, trước kia tôi xem như vàng ngọc, tôi sẽ đâm phập con dao nầy vào đó, đâm tới cán. Rồi tôi trở vào khám. Rụng đầu liền, hay hai mươi năm khổ sai, điều đó không có gì quan trọng. Tình với tiền, hai món ấy chỉ mất một món còn sống tạm được. Mất cả hai, đời thật lạt như nước lã. Chị Rỉ ơi, chị còn sống nhớ đừng làm cho ai mất cả hai thứ ấy một lượt, chị nhớ cho nhé.

Bích bước tới một bước, Tuyết lùi lại một bước. Nàng toan nhảy qua bên trái, Bích lườm lườm dợm bước sang phía đó. Nàng định thối qua bên mặt, Bích cũng tỏ vẻ đón rào toan tính mới của nàng. Cả hai dọn bộ như mèo vờn chuột, và như mèo giỡn chuột. Bích không ra tay liền, nói lôi thôi mãi cho Tuyết sợ chơi cho bỏ ghét.

Cùng đường, Tuyết van lơn:

- Em vui lòng chết dưới lưỡi dao của anh, nhưng anh cũng nên để cho em phân vài lời.

- Hà có vẻ tuồng dữ lắm, có vẻ tống tửu Đơn hùng Tín dữ lắm! Được, cứ nói đi!

Dáng đi của Tuyết uốn éo như con rắn. Mỗi lần nàng bước, nhìn phía sau thấy lưng nàng như dây tóc tiên quấn quít, bò lên. Bây giờ nàng lại uốn éo hơn bao giờ cả, từ từ bước lại gần Bích trong những bước rất mùi. Nếu sau lưng nàng có tranh sơn thủy và đâu đó vang lên vài tiếng dạo đờn thì cảnh nầy rõ là cảnh sân khấu cải lương, mà nàng sắp vô sáu câu áo não.

Tuyết hơi nghoẽo đầu, ưỡn ngực và đưa cánh tay trắng như bằng bột định níu lấy tay Bích. Bích vừa lùi lại, vừa hất mạnh tay nàng. Không biết mất thăng bằng thật sự hay làm bộ mà Tuyết té xuống gạch rồi nằm nghiêng một cách sỗ sàng. Bích hét:

- Vô ích, cái trò mơn trớn cổ điển của cô; trò khoe lưng cũng đã xưa lắm rồi.

Tuyết xấu hổ lại lồm cồm ngồi dậy. Không thấy Bích làm gì, nàng lại đứng lên.

- Có gì nói mau, Bích lại hét.

Không rõ nghĩ sao, Tuyết vụt chạy đi. Bích nắm đầu nàng lại và đưa cao tay cầm con dao lên. Cả hai người đờn bà đều kêu thất thanh một tiếng. Liền khi đó, một tiếng kêu khác vang lên nơi cửa, tiếng kêu ăn rập của hai người đờn ông.

Bích dừng tay, day lại, không phải vì sợ có người tiếp cứu mà vì giọng quen của tiếng kêu. Chàng buông đầu Tuyết ra, bỏ vẻ mặt hầm hầm, mỉm cười với kẻ mới đến. Hai người đờn ông ngoài cửa kinh ngạc quá, bước vào chưa được. Họ trố mắt nhìn cảnh tượng ấy rất lâu, đoạn Tất mới hỏi được:

- Mầy làm gì mà kỳ vậy Bích?

- Xử án Bàng quý phi, Bích đáp.

- Bỏ dao xuống coi! Bổn ra lịnh.

Bích bỏ dao xuống bàn rồi nói:

- Đây là muốn lịch sự với bạn chơi vậy thôi, chớ không phải để vựng lịnh mầy đâu.

Bấy giờ Bổn hoàn hồn, bước vào chống nạnh nhìn Bích mà hỏi:

- Làm gì mà ngang ngược quá vậy?

- Tính sổ gia đình.

- Tính bằng dao?

- Chỉ còn cách đó.

- Món nợ to lắm hả?

- Mầy muốn nói nợ tình chắc. Chớ còn nợ tiền thì mầy làm sao biết được. Ừ, món nợ lớn lắm.

- Mầy không nuôi người ta được nữa, mà còn muốn cấm đoán nguời ta tìm nơi nương dựa sao?

- Nương dựa? Vậy ra làm bé là một kỹ nghệ à? Thị trường nầy sụp, phải chạy đôn chạy đáo tìm thị trường khác thay thế ? À, phải. Hèn chi lắm lúc họ tranh giành thị trường đến chém nhau túi bụi. Cũng hay! Nhưng bây giờ thị trường nầy đã trở lại, thì sao cái nhà sản xuất những nụ cười, những lời nũng nịu lại không...chịu tái lập "quan hệ bình thường"?

- Là tại thị trường của mầy có tiêu thụ mà không có ngoại tệ để thanh toán món hàng.

- Hà hà... mầy không biết gì ráo. Ngoại tệ tao đã dự trữ rất nhiều từ lâu. Nhưng thôi, mầy không biết việc riêng của tao thì đừng có can thiệp vào. Tao chỉ xin khuyên hai đứa bây điều nầy thôi là cái thứ đó độc như vi trùng. Cứ xem cái gương tao đây thì biết: ba năm tù, bây giờ, lát nữa đây, không rõ mấy năm nữa không biết. Mà có gì đâu? Những câu nỉ non giả dối, những trận cười giả tạo...

- Là tại mầy dại, làm quá sức mầy. Chớ khôn như tụi tao đây thì có sao đâu. Mầy thấy không, tụi tao cho hai ển về ở chung, coi có phải bớt tổn phí không? Còn giả dối? Có cái gì thiệt ở đâu? Cứ quên cái giả dối đi, cố tình tưởng là thật - lắm khi khỏi cố mà cũng vẫn tưởng thật được - thì nó sung sướng y như là thật. Mầy tưởng mê gái là dại à? Có lẽ. Nhưng không gì thế bằng cái dại đó, thì lỗ lã gì đâu.

- Thật là quân nói bướng. Tụi bây sẽ khôn hoài khôn hủy được chăng? Tao dám cá, không kíp thì chầy, hai đứa bây cũng theo gót tao. Hỏng cả một đời, hai em ơi. Đường anh đã đi qua, anh thuộc nẻo rồi. Hai em dại, chui đầu vào ngõ hiểm ấy làm chi. Mà bây giơ lỡ rồi, có lẽ dạy khôn cho, hai em cũng chẳng chịu nghe.

- Đi ra lập tức, đừng làm bộ anh hai người ta. Có vợ bé trước chưa chắc đã khôn hơn ai.

- Nếu tao không ra thì bây làm gì tao?

- Thì tụi tao một đứa nắm chóp mầy, một đứa đá đít mầy.

- Dở quá. Rồi thiên hạ, rồi nhựt trình sẽ nói sao? Họ nói mình giành vợ bé với nhau, coi có phải xấu hay không?

- Muốn tốt, mầy nói ba điều bốn chuyện rồi đi. Mà nói cho lịch sự, đừng nắm đầu nắm cổ ai hết, đừng cầm dao cầm hèo gì cả.

- Ấy, tao nói mầy không biết việc riêng của tao. Món nợ lớn lắm, mầy nghe ra chưa?

Bổn kêu Tuyết mà nói:

- Em à, nó nói gì mà dự trữ tiền nhiều lắm. Nó có gởi tiền em không. Thôi thí cho nó vài ngàn đi, cho êm chuyện.

- Anh ấy không thèm tiền em biếu.

- Thì thôi.

- Thì thôi làm sao được. Nầy, coi nầy.

Bích chụp con dao rọc giấy trở lại, rồi vói chụp đầu Tuyết. Bổn nhảy tới chụp tay cầm dao của bạn. Người tù mới ra khám không định gây sự với kẻ can thiệp, nên chỉ lấy chơn đạp cho hắn dang ra xa thôi. Người sau cũng không muốn đánh nhau với anh chàng làm dữ, ngặt thế nào cũng phải cứu Tuyết nên y bắt chơn Bích để vặn cho Bích té.

Bích mạnh lắm rút chơn lại và kéo Bổn theo. Nhưng Bổn cứ bám riết vào chơn ấy, khiến Bích co vô, duỗi ra mấy bận mà không thoát được. Bổn bị kéo tới, kéo lui trông rất buồn cười.

Tức giận tràn hông, Bích đưa dao lên toan đâm xuống. Tất hoảng sợ nhảy lại ôm lấy Bích đằng sau lưng. Bấy giờ Bổn trật tay để một cẳng của Bích ra, Bích sẵn con dao không chỗ đâm, đưa ngược dao ra sau để dọa cho Tất buông mình.

Thấy nguy, Bổn xách cái ghế nhỏ dựa vách đập vào tay cầm dao của Bích. Anh nầy tránh không kịp, đau quá buông khí giới ra.

Bấy giờ hai người chủ nhà ráp lại định ôm khách mà xô ra ngoài. Nhưng họ kém sức hơn Bích, nên cả ba ôm nhau mà vật xàng quây mãi. Bàn ghế ngã lổn rổn, Tuyết và Rỉ thì kêu khóc om sòm.

Tuy yếu hơn, nhưng sợ nguy hiểm khác, nên Tất và Bổn cố sức tống khách trong lúc y tay không. Họ ôm chặt lấy Bích, đeo dính như sam. Để thoát, Bích thoi, đánh túi bụi. Đỡ gạt thì sợ sẩy Bích, mà cứ ôm hắn mãi, chịu sao cho thấu với những quả đấm của hắn, hai người chủ nhà nỗ lực lần cuối cùng và vật ngã được tên hung dữ xuống đất.

Bích kêu lên:

- Trời ơi, chết tôi rồi.

Tiếng kêu ấy khiến cả nhà ngạc nhiên hết sức. Cái gì mà lớn sầm sầm như nó, mà mới té một cái là kêu chết om trời.

Nhưng thấy Bích nằm ngay đơ như cán cuốc, họ sanh nghi a lại cúi xuống dòm. Gì mà như có máu. Tất lật ngủm Bích ra thì trời ơi! Quả thật máu phun có vòi, ướt cả sơ mi của hắn. Con dao rọc giấy rơi khi nãy, không hiểu do sự tình cờ nào lại nằm chỏng lên, gác trên chiếc guốc cao gót của Tuyết. Bích té xuống đó, ngực đè lên mũi dao, và bị nó đâm sâu vào thịt, ngay tim.

Cả nhà chết đứng, không ai thốt được lời nào cả.

Bổn, mặt tái xanh, mồ hôi nhỏ giọt, nhìn cảnh tượng ấy rất lâu rồi lẩm bẩm:

- Không kíp thì chầy, thằng Bích nói đúng thật. Bây giờ họa đến nơi rồi, làm sao?

- Mình tự vệ chánh đáng. Tất đáp gượng.

- Phải, tự vệ, nhưng có cần gì tự vệ đến chết người ta không. Có khỏi vào tù không? Rồi họ rùm lên, mình mất sở làm, vợ con sẽ nói sao ?

- Thì ra, mình ngỡ mình khôn, cũng chẳng khỏi khổ.

Ngoài kia, những người láng giềng Trung hoa rất ít tò mò, nghe la bu lại nói om trời như tàu sắp chìm.

--------------------------------

1

Câu chuyện xảy ra lúc còn sòng bạc.

Đèn Cần Giờ

Tặng Huỳnh Bửu Ngà

Hôm nay Sơn buồn lắm. Trên đèn có tất cả sáu người giúp việc mà hết năm đã vào bờ rồi. Anh chàng yêu hụt, nghe cô đơn từ mấy tháng nay, và bây giờ thì thấy mình thật cô độc một trăm phần trăm, giữa cảnh trời nước bao la nầy.

Đèn Cần Giờ cất trên một cồn cát ngầm, gần giữa sông, trệch vào hữu ngạn một chút, Nhà đèn hình bát giác, rộng bằng hai căn nhà phố, nằm chinh chông trên những cẳng sắt mảnh mai, xa trông giống như một lồng bồ câu. Trên nóc nhà là ngọn đèn sông, nhỏ hơn hải đăng nhiều, nhưng cùng một công dụng với đèn rọi biển. Sáu người giúp việc trên đó có phận sự lau đèn, vô dầu và canh gác về đêm sao cho đèn cháy đều mãi mãi để giúp tàu bè qua lại khỏi rướn lên cồn cát.

Hôm nay ông xếp đèn có việc nhà cần kíp nên phải vào bờ, một người đi chợ, một ngươi đi nhà thương, hai người nữa lại phải chèo ghe đưa tất cả những người đó. Thành ra Sơn phải ở lại có một mình. Theo phép thì họ không được vắng mặt cả đám như vậy, nhưng đây là trường hợp đặc biệt, và cũng đang ban ngày, không có công việc gì. Miễn là chiều tối họ về thì thôi.

Sáng sớm, mặt trời đổ bạc xuống nước, chim bay cũng nhiều, ghe thuyền qua lại cũng bộn, thế mà Sơn thấy cảnh hiu quạnh lạ kỳ.

Người con trai nầy đã yêu mà không được yêu lại nên chàng thất tình, nhìn thấy cái gì cũng đen, cũng xám cả. Lúc mới bị hất hủi, chàng định tự tử, nhưng không dám. Chàng lại định đi tu, nhưng ngại phải ăn chay. Rốt cuộc chàng xin một chân phu lau đèn ở đây. Nguyên một người cậu bà con xa của chàng làm xếp đèn từ lâu rồi, từ thời Pháp thuộc lận. Chàng bỗng nhớ sực lại người đó trong một hôm bí lối, và nghĩ cây đèn Cần Giờ có thể là nơi ẩn náu tốt để mà quên. Lương bổng, chàng không cần vì chàng là con nhà khá giả, sắp vào thơ ký ngạch nhà nước kia mà.

Bên tả ngạn, từ trong bờ một hàng cột đáy chạy dài tới cửa sông, rung rinh dưới sức xô đẩy của sóng mạnh, ghe thuyền qua một cái lạch tương đối hẹp giữa nhà đèn và cây trụ đáy bìa, để mà qua lại. Thành ra người trên ghe nói gì, Sơn nghe rõ mồn một.

Họ nói thì ít mà hát điệu chèo ghe thì nhiều. Hát rằng:

Đèn treo cột đáy, nước chảy đèn rung,
Anh thương em tha thiết vô cùng.
Biết ba mới má có bằng lòng hay chăng ?

Nghe hát, Sơn cứ muốn mình được như anh trai trong câu hát đó. Nếu chỉ có ba với má là chướng ngại vật thôi thì chàng đỡ khổ biết bao ! Bất quá là hái đứa cùng trốn đi một lúc, rồi trở về xin tha thứ. Đằng nầy trong trường hợp của chàng, chính nàng lại không bằng lòng, thế mới chết cho.

Lại hát rằng:

Đèn Cần Giờ đêm đêm sáng tỏ,
Ghe lớn ghe nhỏ nhìn thấy rõ mà vào,
Biết ai lòng dạ thanh cao
Để cho phận gái má đào gởi thân ?

Eo ơi, Sơn than thầm, con gái băn khoăn như vậy là chánh đáng. Nhưng lòng chàng không bừng sáng được mỗi đêm như cây đèn Cần Giờ để cho con gái nó thấy thanh cao mà chọn, nên chi Lệ nó đã chọn người khác cho chàng phải đau.

Chàng yêu Lệ và cũng được Lệ có cảm tình trở lại. Nhưng Nam, một người con trai khác, có bề ngoải hào hiệp hơn, lại đến và xáo trộn cả dự tính sắp thành công của chàng.

Lệ do dự rất lâu giữa hai người và rốt cuộc đính hôn với Nam.

Trốn trong sự bạo lực, Sơn nguôi được đôi phần rầu. Nhưng cảnh ở đây lại gợi tình, thành ra vết thương cứ "làm miệng" trở lại mãi. Nhứt là trong vòng tuần nầy, là tuần nghỉ hè Phục Sinh. Tàu đò chở người đi nghỉ mát qua lại dập dìu, nhắc nhở Sơn chốn cũ là nơi mà mối tình đầu của chàng đâm mộng, khiến Sơn nhớ Sàigòn vô chừng, nhớ người Sàigòn như là nhớ một điếu thuốc về đêm. Bị bỏ tù giữa sông lớn, chàng thường phải thèm thuốc, những ngày ghe của nhà đèn không đi chợ. Hai nỗi nhớ nầy sao mà minh mông và sâu thẳm như khúc sông Cần Giờ tử ngoài cửa vào tới đây !

Mỗi khi một chiếc tàu đò chạy qua, trên ấy lố nhố người ta, Sơn nhìn trân trối đám hành khách với ảo vọng tìm ra con người chàng giận nhưng chưa quên được. Áo xanh, áo trắng, áo tím, áo hường, tất cả những màu áo ấy lũ lượt đi qua, nhưng Sơn không hề thấy dáng Lệ lần nào cả.

"Chắc chồng cưới nguôi ta rồi, và người ta đang hưởng tần trăng mật ở đâu đó". Sơn lẩm bẩm như vậy mỗi lần thất vọng.

Bạn ghe đã thôi hát. Ghe nào cũng vội vàng chèo mau để qua khỏi lạc hẹp, hầu tránh tàu, vì sóng lớn do chân vịt quậy lên sẽ xô đẩy ghe họ tròng trành khó chịu lắm. Ừ, đằng xa, hướng ngoài cửa, còi tàu hú vang rền.

Tàu đi, nên thơ lắm vì nó gợi hình ảnh những cuộc viễn du kỳ thú. Còn tàu về thì như là một cuộc đời sắp tàn. Nên chỉ riêng Sơn, chàng không bồn chồn lắm, mà chỉ vui ngắm cảnh rộn rịp tránh tàu.

Nhưng cái bận rộn của bạn ghe thật vô ích. Đó chỉ là một chiếc tàu đò nhỏ, chiếc Hát Giang, chở hành khách nghỉ mát trở về Sàigòn.

Hôm nay, ngày cuối cùng của hạn nghỉ Phục Sinh, nên tàu chở khẩm lừ. Tàu đen đúa lại tróc sơn xem rất xấu xí, nhưng hành khách vẫn nhiều màu rực rỡ trông rất đẹp và người ta có ấn tượng nhìn một hộp thiếc cũ đựng một mớ bướm mà cánh nhuốm đủ cả các màu.

Chiếc Hát Giang chạy sát hàng đáy quá, không hiểu vì sao. Người tài công quên rằng có hàng cột đáy ở đó chăng? Không rõ. Nhưng khi tàu qua lạch thì suýt rướn lên cây cột đáy ngoài bìa.

Đi sai đường như vậy, không hại ai cả, hay nói cho đúng, chỉ hại chủ đáy chút ít thôi: một trụ đáy sẽ ngã, lôi theo vài trục kế cận, thế là thôi.

Nhưng người tài công lại quýnh lên, lái mạnh để xuyên tạc đường tàu một cách đột ngột hết sức. Chiếc tàu bỗng day mũi mau lẹ rồi nghiêng triềng. Hành khách trên tàu, gồm rất đông đờn bà và con trẻ đâm hoảng, chạy đổ dồn qua bên be cao, một là họ sợ rơi xuống nước, hai là họ hy vọng làm thế để lật cho tàu được thăng bằng trở lại. Vì vậy tàu thình lình lại nghiêng về phía hành khách mới đổ dồn qua. Lần nầy nó nghiêng quá 45 độ, vì sức chạy của hành khách tăng thêm sức nặng của họ. Họ vẫn hoảng nhưng không kịp chạy trở lộn về nữa vì tàu đã kể như lật rồi. Vả sân tàu bây giừ gần đứng sững, còn chạy đi đâu được nữa.

Người nào bám níu kịp vào cột, vào lan can thì còn miễn cưỡng ở lại được trên tàu, còn thì rơi xuống nước cả.

Tiếng kêu la inh ỏi của đàn bà, tiếng khóc của trẻ con, cộng với tiếng kêu gọi nhau trên các ghe kế cận làm vang dậy một khúc sông.

Nhìn những chiếc ghe vội vàng trở mũi về chỗ tàu lật để cứu vớt nạn nhân, Sơn cũng toan góp phần vào việc cứu cấp nầy. Nhưng chàng bỗng nhớ sực lại là ghe của nhà đèn đã đi chợ nên chàng cụt hứng.

Tàu lật thì mau chóng mà chìm thì chậm lắm. Sơn bất lực, đứng ngắm mặt nước nuốt lần khối sắt tầm phổng ấy, chơn bứt rứt khó chịu cỡ muốn chạy bay đến nơi ấy.

Khi hông tàu là là mặt nước, con tàu bỗng như do dự giây lát, rồi như đánh liều nhắm mắt, nó chìm mau xuống đáy sông.

Nước chỗ ấy hủng một lỗ to, và sức nặng của con tàu hút nước chung quanh, khiến ghe thuyền đang chèo về, bị thu mau lẹ lại nơi đó.

Sau khi lỗ hủng được lấp bằng như có ai vùi nông xác tàu lại, thì nhiều chấm đen bỗng nổi trở lên mặt nước. Đó là những chiếc thùng, những xe hơi, những đầu kẻ biết lội và cả đầu những kẻ tuy không biết lội mà may mắn bám được vào những vật nổi.

Ghe thuyền trên sông đã sốt sắng làm tròn phận sự. Nhưng số ghe thì ít, mà người chết đuối lại đông quá, nếu họ vớt kịp cũng không chắc đủ chỗ chứa. Mà nào có kịp đâu! Vớt một người biết lội, mất đến mười phút ! Trong khi đó những người không biết lội đủ ngày giờ sút tay chìm lỉm, hay bị sóng lớn đẩy đi xa và sợ quá hóa dại, buông thùng.

Cuộc cứu cấp kéo dài lâu quá. Có người tự lực lội vào bờ, nhưng sông quá rộng, mà họ là dân thiếu tập luyện nên đuối sức giữa đường. Có người ôm cột đáy mãi, la hét om sòm mà không ai vớt cho.

Sơn nóng ruột quá và rất mừng mà nhớ thình lình rằng mình có một chiếc di-lê nổi.

Lúc định ra đây, chàng nghĩ tới sông lớn mà phát sợ lên, nên đã mua chiếc áo hộ thân đó. Lâu rồi, không có dịp dùng tới nên quên phứt nó đi.

Sơn lật đật mở rương lấy áo tròng vào mình rồi bỏ quần ngoài chỉ giữ quần đùi thôi, chàng đứng trên nhà đèn, chấp tay lại trên đầu rồi nhắm mặt nước mà phóng xuống.

Lúc đó nước ròng, thành ra cẳng nhà sàn cao nghệu như nhón lên để mà nhìn cảnh chìm tàu. Sơn lông rông một cái và giây lâu nổi lên cách nhà sàn tám thước. Chàng lội giỏi lại có áo nổi nên lượn trên mặt sông như rái.

Chẳng bao lâu, chàng đã đến nơi tai nạn xảy ra. Vừa tới là Sơn được chứng kiến cảnh tượng lạ kỳ: hai nạn nhơn đang giành nhau một cái thùng, vì thùng nhỏ, hai người đeo nó muốn chìm nên ai cũng cố chiếm cho được thùng ấy cho mình.

Một nạn nhơn, tóc rủ phủ mặt, xem ra là đờn bà. Người nầy không chắc kém sức hơn nạn nhơn đờn ông kia, nhưng lại buông cái thùng, như chán nản lắm.

Người ấy còn đủ sức lội, vừa lội thong thả, vừa đưa một bàn tay lên vén tóc và vuốt mặt.

Sơn kêu lên một tiếng kinh ngạc: "Lệ!"

Rồi chàng bươn bả lội riết lại người con gái mà trong giây phút nầy chàng quên mất rằng ả ta đã bỏ rơi chàng.

Lệ cũng nhận ra Sơn. Nhưng nàng bình thản nói lớn:

- Anh cứu giùm anh Nam, ảnh không biết lội.

Sơn nhìn theo hướng ngón tay của Lệ chỉ thì mới hay anh chàng giành thùng là Nam.

Vì không biết lội, nên mặc dầu được thùng, Nam vẫn trầm luân. Hai cánh tay chới với, hắn níu lấy cái thùng nhỏ, đầu trồi lên hụp xuống không ngớt.

Trong vài giây, trí Sơn bị nhiều ý nghĩ làm bận rộn. Chàng bỏ mặc cho chúng chèo kéo nhau trong đó, bơi riết đến Lệ.

Tới nơi, chàng đưa một cánh tay, rồi nói xẵng:

- Níu lấy, tôi đưa vô!

Lệ không kịp nói gì đành phải níu tay Sơn.

Sơn lội một tay, đưa người bạn cũ vài phút là tới nhà sàn. Chàng nói:

- Cô ôm chưn sắt nầy mà leo lên. Nếu không được, đợi tôi trở lại.

Rồi không thèm ngó Lệ, chàng lại trở ra ngoài khơi. Biết tâm lý hoảng sợ và hay níu bậy của những người không biết lội. Sơn lại gần phía Nam sau lưng, rồi thình lình choàng tay qua ôm trái người sắp chết đuối. Lưng Nam cạ vào hông của Sơn, mặt hắn đưa ra ngoài, thành thử hắn sợ bao nhiêu, cũng chẳng níu được.

Sơn như lôi xểnh hắn vào nhà đèn, và khi tới nơi, chàng nói: "Ôm cột mà leo lên".

Bấy giờ, Lệ đã trên nảnh hường. Và bấy giờ hết sợ, nàng mới biết mắc cỡ vì áo quần dính sát vào da nàng.

Lệ ngồi co ro bó gối nhìn Sơn leo lên, và nhìn Nam lót tót bò lên theo.

Sơn nói:

- Nhà chỉ có một buồng, buồng của cậu mợ tôi làm trưởng đăng ở đây. Cô cứ vào đó, có quần áo tôi trong ấy. Nếu cô không ngại, cô thay đỡ kẻo cảm lạnh, bằng ngại thì cô vắt y phục cô cho thật ráo mà mặc lại.

Nói xong, và không thèm đếm xỉa đến Nam, Sơn lại lông rông đi nữa.

Tàu chìm hồi chín giờ sáng mà mãi đến gần mười một giờ trưa mới vớt hết nạn nhơn.

Chỉ có sáu chiếc ghe, trên mỗi chiếc có hai người bạn chèo. Một người giữ chèo một người vớt, nên họ hì hục lâu lắm.

Sơn phụ với họ và đưa người lên ghe họ thôi chớ không dám rủ khách về thêm nơi nhà giữa sông của chàng, vì gạo trên đó chỉ có hạn. Và lên đó rồi, còn phải đưa họ vào bờ nữa, lôi thôi lắm.

Khi chàng về đến nơi thì thấy Lệ đã nấu cơm xong. Nàng cười nói:

- Em vô phép làm như là nhà của em. Mà nếu em không nấu, chắc anh cũng phải nấu. Em lại vô phép nấu cho ba người ăn.

- Cô làm rất phải, cũng không vô phép gì hết. Cô giúp giùm tôi bữa nấu nầy, tôi cám ơn.

Lệ xụ mặt xuống mà rằng:

- Em chắc anh không mỉa mai, nhưng tiếng cám ơn của anh lịch sự quá, em nghe sao mà lạnh lẽo...

- Tôi quen miệng rồi...

Sơn nhìn lại thì thấy Nam mặt sượng ngắt: dễ thường hai người không trao đổi nhau lời nào lúc chàng vắng mặt.

Nhưng chàng không nghe lòng mình ghét Nam. Nhờ Nam giành thùng, nhờ nam không biết lội cho nên chàng mới cứu tình địch của chàng, chàng mới có thể tỏ ra mình thanh cao. Sơn bằng lòng mình lắm nên không ghét Nam được.

Lệ hỏi:

- Anh ở đây có một mình, lâu lâu có tàu ra tiếp tế gạo phải không? Buồn không anh?

- Không, ở đây đến sáu người. Họ có việc đi vô bờ hết, tối họ lại ra. Vài ngày thì chúng tôi đi chợ lấy một bữa. Chúng tôi có ghe riêng, của sở hàng hải phát cho.

- Mấy anh nấu nướng lấy mà ăn hả?

- Cậu tôi có vợ. Mợ tôi lo cơm nước giùm.

Gió sông lồng lộng thổi, đánh đưa những cánh cửa sổ kêu ken két và đằn ngọn lửa nấu cơn nằm dài xuống.

Họ đang ngồi giữa buồng chung to lớn và trống trơn. Đây vài thùng dầu, kia một đống dây đỏi. Bếp là 2 chiếc cà ràng nơi một xó nhà.

Sơn giở nắp một cái khạp nhỏ, lấy ra một con khô rồi nói:

- Nhà chỉ có cá khô để đãi quý khách, xin... cô tạm dùng đỡ.

Chàng do dự hơi lâu trước tiếng cô, ý muốn nói đến cả hai người khách, mà không biết phải kêu người kia bằng gì. Vả Sơn cũng hơi hờn hắn, muốn bỏ hắn ra rìa, không nói tới cho đáng kiếp, nên do dự rồi rốt cuộc chỉ trao đổi với Lệ mà thôi.

- Cả đời phải kham khổ một ngày có sao đâu. Em ngại cho anh kia chớ. Nhưng tại sao anh lại ở đây?

Sơn không đáp, ngồi bó gối trên sạp gỗ nhẵn và lên nước vì mấy mươi năm được người chà lết trên đó. Mặt chàng tuy buồn hiu mà nói lên rất nhiều về nỗi đau thầm của chàng.

Chắc Lệ đã hiểu nên không hỏi gì thêm. Nàng lui cui ghế cơm, đoạn nướng khô.

Sơn thì đi lấy chén đũa đặt lên chiếc đệm vừa được trải ra giữa nhà. Chàng nhìn cả hai người khách rồi hỏi, để đánh tan nỗi khó chịu:

- Cô đã thành hôn với... anh bạn đây chưa?

- Vẫn còn là vị hôn thê, vị hôn phu với nhau. Nhưng sao anh lại kêu em bằng cô? Cứ kêu như xưa xem có phải thân hơn không!

- Vâng, thưa chị, nếu chị cho phép như vậy. Thôi mời anh chị dùng cơm.

Ai cũng đói, nên không ai để mời hai lần. Trong bữa ăn, đã mấy lần Nam toan mở miệng nói, nhưng lại thôi. Anh chàng ấy vốn lắm lời, và cũng cần phải nói cái gì để đỡ trơ, nhưng anh ta lại xẻn lẻn quá, khó mà ra khỏi sự im lặng được. Thái độ anh lúc chìm tàu, anh ý thức rõ rệt là nó hèn, và không thể tha thứ được vì lẽ gì hết.

Lệ hỏi cho có chuyện:

- Nước uống anh lấy ở đâu?

- Lẽ cố nhiên là từ trên bờ đem ra, mỗi lần đi chợ về. Vì nặng nên chỉ đem được một khạp đường thẻ nầy thôi.

Vừa nói, Sơn vừa chỉ khạp nơi góc nhà, rồi tiếp:

- Nước ngọt ở đây quý lắm, hệt như trên một con thuyền ngoài khơi. Mặc dầu chúng tôi có ghe sẵn, không lẽ đi lấy nước ngày mấy mươi bận được.

- Nếu cả nhân viên ở đây đều có vợ con thì sao?

- Chưa xảy ra chuyện ấy bao giờ. Trừ người trưởng đăng, còn thì ai cũng trẻ tuổi cả, và vì thấy bất tiện nên họ không cưới vợ.

Không dám hỏi về chuyện âm tình riêng của bạn, sợ gợi buồn cho Sơn. Lệ cụt hứng. Thành ra bữa ăn buồn như là Sơn ở một mình.

Gần cuối bữa, Nam mới mở miệng được và hỏi:

- Rồi làm sao chúng tôi về?

- Đưa anh chị vào đây, tôi quên nghĩ đến chuyện về. Vả lại, nếu để họ đưa vào bờ, anh chị cũng đến khổ vì bơ vơ trong làng mạc, xa đường giao thông. Nhưng cũng dễ thôi. Ngày mai, tôi đón ghe cửa. Cậy họ chở anh chị trở ra Bến Đình hoặc Rạch Dứa. Ở đó rồi đi đâu cũng được.

Ăn cơm xong, Nam kêu mệt, xin một chiếc chiếu rồi lăn ra mà ngủ.

Anh chàng ngủ dễ dàng quá, mới đặt lưng xuống chừng mươi phút là ngáy pho pho, tiếng ngáy muốn át cả tiếng gió gào và tiếng sóng đánh vào chân sắt nhà sàn.

Sơn hạ gàu xuống sông kéo nước lên để rửa chén. Nhưng anh khỏi phải nhọc vì công việc sau, Lệ đã giành lấy mà làm! Sơn không cản.

Bấy giờ chàng mới để ý thấy Lệ không thay đổi y phục. Quần áo nàng nhàu nát cả và lấm dơ hết. Nhờ gió nhiều, mau khô, nên Sơn mới không nhớ đến vụ nàng ướt.

- Chị coi chưng, nếu ngày mai chị bắt đầu nhảy mũi là trúng cảm rồi đó.

- Thật ra em không lạnh... bên ngoài. Mà bên trong lòng cũng chỉ mới vừa lạnh đây. Anh... anh lạnh đã từ bao lâu còn không sao kia mà...

Lệ nghẹn ngào, nói đứt khúc từng đoạn. Sơn lơ đi và cứ tiếp tục kéo nước, mặc dầu nước rửa chén đã dư dùng. Kéo lên, rồi đổ xuống rửa mấy tấm sạp quanh đó mãi. Có lẽ chàng giấu xúc động của mình, hơn nữa dấu ngấn lệ nó không đẹp gì nơi con mắt của con trai.

Lệ sắp chén đũa rửa xong vào sóng, rồi hỏi lại câu hỏi ban sớm:

- Nhưng tại sao anh lại ở đây?

- Chắc chị cũng đoán biết rồi, còn hỏi làm chi.

- Em ngỡ anh can đảm hơn...

- Chị ít tình cảm lắm, mới ngỡ như vậy.

- Sao anh biết em ít tình cảm?

- Việc chọn lựa của chị có vẻ lý trí quá, y như thái độ của một người đàn ông có cá tính mạnh mẽ.

- Em lấy chồng, em chọn chồng, chớ có chọn nhơn tình đâu mà phải theo tình cảm.

- Ấy thế. Chị dám lấy chồng theo lý trí thì là ít tình cảm rồi đó.

Sơn nói câu nầy không phải nói lẫy. Chàng tin như thế, mặc dầu vừa thấy Lệ xúc cảm mạnh khi nãy. Chàng nghĩ rằng xúc cảm ấy chẳng qua là xúc cảm vì hối hận thôi, chớ không vì thương một người bạn không may mắn.

Lệ thở dài, làm thinh giây lâu rồi tự phê bình: và vì vậy mặc nhiên nhận Sơn nói đúng.

- Nghĩ ra theo lý trí cũng chưa chắc gặp đường tốt nẻo ngay anh à. Em chán nản đến muốn chết đi được.

- Vậy à? Từ bao lâu rồi?

- Chỉ mới từ khi sáng đến giờ.

Sơn nghe Lệ bảo chán nản thì hy vọng lắm. Nhưng ba tiếng "từ khi sáng" lại làm cho chàng khó chịu vô cùng.

"Thì ra nàng chỉ mới chán đây thôi. Còn thì mấy tháng nay nàng vẫn yêu vị hôn phu như thường và chắc không bao giờ nàng nhớ đến mình!" Ý nghĩ thầm đó xui chàng ghen tức lên. Chàng yêu Lệ quá nên ngỡ mình có quyền ghen tức ngay một phút sau khi Lệ chán người khác.

Lệ tiếp:

- Vụ giành thùng giữa sông làm em xấu hổ với anh quá. Lòng tự ái của em bây giờ nó không còn dám ló mặt ra mà nhìn ai nữa, nhứt là nhìn anh. Có một vị hôn phu hèn đến thế thì mình cũng đến bị nó lôi theo xuống bùn.

Nhưng nếu nó chỉ hèn vì tham tiền, vì sợ quyền thế thì cũng tạm quên được đi, và tạm che mặt lại mà sống. Đằng nầy nó lại có thái độ như trẻ con, tối ngủ giành hết mền một mình thì còn lòng nào mà thương yêu được.

Sơn thích lắm, nhưng vẫn làm bộ binh vực cho dịu bớt bực tức của Lệ. Chàng có ẩn ý làm cho Lệ phục chàng thêm trước thái độ thanh cao của chàng:

- Bản năng tự tồn mà... Trong trường hợp đó, ai cũng thế cả.

- Anh nói mới vô lý chớ. Em đã thấy nhiều cuộc hy sinh khiến em khiếp phục và nhớ mãi, mà kẻ hy sinh lại là những người kém Nam về học thức, về tiền của nhiều lắm. Em chắc anh cũng đã thấy như vậy ít lắm là một lần.

Sơn thở dài cho hợp với không khí nầy, trong khi Lệ phát lên cười dài:

- Cũng may cho em lăm. Nếu không có cuộc thử lửa nầy thì làm sao em biết...

- Thử nước chớ, Sơn sửa lời của bạn để đùa chơi.

- Ừ thì thử nước. Thì làm sao em biết được thâm tính của Nam!

Sơn rất muốn hỏi Lệ xem bây giàng tính sao, một khi chân tướng của Nam đã bị lộ tẩy. Nhưng chàng tìm mãi mà không ra một lối hỏi cho có vẻ không mong mỏi gì hết trong vụ đó.

Rốt cuộc, chàng tạm dùng phương pháp do đường sau đây, không được khéo lắm, không được kín đáo lắm:

- Nhưng sao anh chị chậm làm đám cưới dữ vậy. Anh gác đèn như tôi sẽ được mời uống rượu hay không?

Kể cả khi sửa lời hồi nãy, Sơn nói đùa lần nầy là hai lần. Nhưng Lệ không vui đáp lễ bận nào cả.

Nàng làm thinh ngó mông lên vuông trời xanh lơ ở ngoài cửa sổ. Một bầy quạ như viết chữ nhỏ đậm đen lên tờ giấy xanh ấy. Trong giây phút cả đôi bạn đều có ấn tượng như mình đang ngồi trong khoang thuyền và thuyền đang bình bồng giữa biển khơi.

Họ làm thinh như vậy lâu lắm rồi Lệ mới nói:

- Như ai thì sau vụ giành thùng nầy là đoạn tuyệt rồi. Trắng đen đã rõ, có gì phải do dự lâu. Nhưng em lại quyết định giữ nguyên tình trạng cũ. Xấu hổ với mình lắm rồi, nên cũng không buồn chọn lựa nữa làm chi. Vả lại biết ai "lòng dạ thanh cao" bây giờ. Em ngỡ đã chọn kỹ, lại trúng nhằm một cậu giành thùng thì còn biết sao nữa. Thôi thì phận gái mười hai bến nước, rủi mắc phải bến đục cũng đành cam anh ơi!

Thoáng thấy vẻ phản đối trên mặt Sơn, Lệ nói:

- Nhắm mắt đưa chơn như vậy cũng bậy lắm, em đồng ý với sự phản đối ngầm của anh. Nhưng xin anh biết cho rằng em chán nản lắm rồi... Anh ấy à? Phải, nếu cần chọn một người khác, em sẽ không phải bận tâm trí lâu. Người đó là anh, hẳn rồi. Nhưng em còn mặt mũi nào mà yêu anh cho khỏi xấu hổ với chính lòng em.

- Ai cũng có lúc lỡ lầm, có gì mà xấu hổ.

- Em biết anh thương em nhiều và vẫn còn thương như trước. Anh sẵn lòng đón em, chắc chắn như vậy. Nhưng em mắc cỡ với em quá!

Thôi anh à, việc thương yêu chỉ là việc nhỏ thôi. Đừng nên rắc rối với nó. Cứ suông sẻ mà đi thì tốt hơn.

- Chị thật là thiếu tình cảm.

- Có thế ấy nhiều lắm cũng chẳng làm gì. Nếu em tình cảm nhiều có phải là em đã nhào trở xuống sông rồi chăng? Anh muốn như vậy lắm à?

- Không, nào tôi có muốn như vậy đâu, nhưng...

- Để cho tình cảm anh nó thơ mộng thêm, em xin thú với anh là trước kia em đã yêu anh...

- Chị ơi, chị, trời ơi chị, tại sao đợi đến ngày nay tôi mới được nghe lời ấy !

Sơn nấc lên nơi mấy tiếng chót, và lần nầy chàng không thèm giấu mặt nữa, để cho lệ tự do ràn rụa ra.

- Không, không có gì anh phải hối tiếc. Trước kia em đã yêu anh, và bắt đầu từ hôm nay em lại yêu anh, và sẽ yêu anh mãi mãi.

- Thật không chị. Chị đừng đùa tội nghiệp. Sao hồi nãy chị bảo cam chịu cái bến đục ấy?

- Thì như thế. Em cam chịu lấy chồng như vậy, nhưng em thấy không thể thương một người chồng như vậy được. Nhưng trong đời em nếu em có yêu ai, thì người đó là anh.

Sơn sung sướng cực điểm. Chàng đưa tay toan nắm lấy tay Lệ, nhưng bỗng nghe một tiếng của nàng, khiến chàng hoảng sợ lấy tay lại ngay. Lệ nói:

- Không, anh đừng hiểu lầm...

Nàng vừa nói thế, vừa thò tay ra cho Sơn nắm. Sơn kinh ngạc hết sức, chỉ nhìn bàn tay ấy trân trân mà không dám cử động gì.

-...thì anh cứ nắm lấy đi, và chỉ có thế thôi, lần đầu và lần chót. Đây là quà kỷ niệm muôn đời mà em yêu mến tặng anh đó.

Sơn ngập ngừng tay giây lâu mới dám cầm tay bạn, trong khi ấy Lệ tiếp lời:

-... Và anh đừng hiểu lầm. Em yêu anh tận đáy lòng em, nhưng điều đó không có nghĩa là em ngoại tình với anh. Chỉ có thái độ mới tỏ được sự to lớn của tấm tình em đối vớt anh, anh là người có quyền chiếm được em trước hết, hay là không bao giờ cả.

Sơn siết chặt lấy tay Lệ và khóc như trẻ con:

- Chị... em... ơi, thà là em đừng nói gì hết, chớ còn như thế nầy, làm sao mà anh quên được.

Rỗi bỗng chàng buông tay Lệ ra, ngồi thẳng lên mà nói lớn:

- Anh sẽ giết nó, con người không xứng đáng tấm tình của em, và cũng không đáng sống trên đời nầy nữa.

Sơn bấy giờ hối hận hết sức đã cứu Nam. Khi sáng, chàng cũng có nghĩ đến việc để Nam chết chìm luôn cho rồi, nhưng muốn làm bảnh cho Lệ phục và hối hận thôi, nên bây giờ chính chàng lại phải ăn năn.

Chàng thấy rõ Nam là chướng ngại vật độc nhứt. Lệ đã yêu chàng, đang yêu chàng, đang khinh vị hôn phu. Chỉ vì nàng chán nản không muốn phiêu lưu thêm trong tình ái, nên mới quyết lấy một người chồng như vậy thôi. Bây giờ thủ tiêu người đàn ông đó là xuôi chuyện ngay.

Lệ nhận rõ tình thế nguy hiểm nên hoảng sợ hết sức. Nàng nghiêm nét mặt lại, vịn tay Sơn mà rằng:

- Anh đừng có rối trí mà làm nhăng. Nếu anh giết anh ấy thì hóa ra anh cũng hèn nốt. Vậy thì làm sao em yêu anh được nữa mà mong. Vô ích lắm!

Hai người mải mê chuyện với nhau mà quên lửng người thứ ba đang ngủ cạnh đó.

Người ấy ngáy ầm nhà và đáng lý vì sự im lặng thình lình nơi chiếu ngủ khiến đôi bạn chú ý mới phải. Đằng nầy họ quên mất, mải cho đến khi Nam cựa mình họ mới hay.

Lệ vội buông tay Sơn ra. Cả hai tuy không làm gì nên tội, vẫn bẽn lẽn, sượng sùng. Thái độ ấy không lọt mắt Nam được.

Từ sáng đến giờ, Nam tưởng Sơn chỉ là người quen thường của Lệ thôi. Việc họ ngồi gần nhau trò chuyện trong lúc chàng ngủ cũng chẳng có gì khả nghi. Nhưng cái vẻ bẽn lẽn của hai người thật đáng ngờ.

Mặt hầm hầm, Nam đứng lên đi lại cửa sổ dòm ra ngoài.

Sơn cũng uể oải đứng dậy, xách thùng dầu rồi leo lên chiếc thang sắt để vô dầu cây đèn trên nóc nhà.

Lệ hỏi vị hôn phu:

- Anh ngủ có mệt lắm không? Ở đây bức quá !

Phải, cả nhà đều bằng kim khí: cột sắt, vách tôn, nóc cũng lợp tôn. Trong ấy nóng như trong lò lửa.

Nam làm thinh giây lâu rồi day lại nói, giọng quạu quọ:

- Bức lắm. Nhưng thằng gác đèn nói chuyện nghe êm như gió thoảng nên cũng đỡ phần nào.

Lệ khổ đến muốn cắn lưỡi mà chết. Nếu hắn chỉ ghen bóng ghen gió thì nàng có thể khinh hắn để an ủi lòng. Đằng nầy nàng lại có lỗi phần nào, thì không khinh hắn được. Mà lỗi đâu có nặng cho cam, nhưng ai biết cho mình; thành ra cũng chẳng gây được với hắn để tự bào chữa.

Nàng ôn tồn nói:

- Người ấy là người ơn của ta, anh cũng nên nhẹ lời mà đừng gọi thằng nầy thằng kia.

- Binh hả? Được, tôi sẽ để hai đứa ở đây mà gác đèn, rồi trả ơn cho nó.

Lê chỉ biết thở dài.

Thấy Sơn tuột xuống, Nam chấp tay sau mông, đi qua đi lại trên sàn, mặt hầm hầm. Anh ta nện mạnh gót trên ván, đi rất mau, đó là dấu hiêu tức giận và nhứt là đang nghĩ nhiều.

"Anh ta đang toan tính gì trong trí?" Lệ lo sợ và tự hỏi như vậy.

Một đàng quyết thủ tiêu tinh địch, một đàng ghen tức muốn đập chết người tình nghi. Thế nào họ cũng choảng nhau!

Lệ hối hận hết sức. Cũng vì nàng không khéo léo mới ra nông nỗi ấy. Nàng lại tức mình quá lẽ. Đã muốn suông sẻ đường đi, không rắc rối gì cả, mà lại chuốc lấy cái lo hôm nay và biết đâu không chuốc lấy bao phiền bực vì cái án mạng có thể xảy ra bất kỳ lúc nào!

Trời càng xế càng nóng lạ. Dưới là nước, trên là gió, nhưng ở khoảng giữa nầy lại như đống than hồng.

Sơn dẹp thùng dầu rồi cũng đi lại nữa để mà ngó mông như Nam hồi nãy.

Nam dừng chơn lại, nhìn lưng Sơn. Bấy giờ anh chàng gác đèn bất đắc dĩ, không biết thấy cái gì dưới nước mà nhón gót rồi chồm ra ngoài để nhìn xuống dưới ấy.

Một ý nghĩ thoáng qua làm Lệ kinh sợ hết sức: Nam sẽ nhảy đến nắm lấy hai cái chơn kia. Vì gót đang nhón, nên Sơn sẽ bị đỡ hổng lên dễ dàng. Rồi Nam sẽ đẩy mạnh chàng ra ngoài, không sức lực nào mà chống nổi với cái đẩy thình lình và rất đắc thế nầy.

Nàng liếc mắt ngó vị hôn phu của nàng và thấy Nam cũng đang nhìn trừng trừng vào hai cái cẳng của Sơn. Chắc chắn trong đầu anh chồng ghen nầy một cuộc toan tính cũng đang nổi lên.

Nhưng sao Nam lại xây lưng, bỏ dự định để đi đi lại lại như trước? Có lẽ hắn nhớ đến hai cánh tay cứng rắn của Sơn, và nghĩ rằng khó ăn nên thôi. Sơn mà cố níu bệ cửa được rồi, rồi co duỗi chơn một lúc là hắn sẽ đuối sức, và chừng đó tình thế bị thay đổi ngay.

Lệ thở ra nhẹ nhõm.

Nàng tức sao Sơn không đề phòng gì cả, làm như không biết là Nam đang ghen tức và có thể giết người.

Sơn cứ bình tĩnh đứng đó mà dòm ghe qua lại. Độ chừng tàn một điếu thuốc, Nam lại dừng chơn khiến Lệ phải một phen hồi hộp nữa.

Nàng nín thở xem Nam làm gì bận nầy. Anh chàng chết đuối hụt bước lại một góc nhà, cúi xuống cầm lên một thanh sắt đã han rỉ. Thanh sắt to bằng ngón chơn cái và dài độ một thước. Hắn ngắm nghía một hồi rồi quả quyết bước lại chỗ Sơn đứng.

Khủng khiếp, Lệ kêu lên một tiếng thất thanh.

Sơn giựt mình day lại thì thấy Nam đang vụt thanh sắt ra một cửa sổ gần đó, vừa vụt vừa nói:

- Mẹ! Bay gần quá, chọi thử coi có trúng không.

Sơn hỏi:

- Gì đó chị Lệ?

- Trời ơi, em thấy con chim lớn nó xớt con chim nhỏ.

Sơn dòm ra thì không thấy chim đâu cả. Nhưng chàng không ngờ gì hết, vì cả Nam và Lệ đều có lý, cả hai đều có thể thấy chim, một đàng toan chọi con chim bay gần, một đàng sợ con chim xa nào xớt con chim nhỏ nào đó.

Lệ thì bối rối trông thấy.

Nàng tìm công việc gì làm cho dịu bớt sự rộn óc, và sực nhớ lại đã gần chiều. Nàng nói với Sơn:

- Anh cho em mượn cái hộp quẹt coi.

Sơn không phản đối việc Lệ nấu cơn lần thứ nhì và trao hộp diêm cho nàng. Vừa quẹt lửa, Lệ vừa dòm chừng hai người con trai. Bấy giờ Sơn cũng chấp tay sau mông, đi đi lại lại như Nam.

"Hai đứa nó đang âm thầm toan tính đập nhau đây?" Lệ nghĩ thầm.

Thật là buồn cười. Hai người con trai, đi qua đi lại mãi trong một buồng hẹp, không nói với nhau một lời, bộ tịch bứt rứt như hai con khỉ bị nhốt chung chuồng.

Lệ mong chiều xuống, trời mát sẽ làm cho họ bớt hăng. Nhứt là bữa cơm sẽ khiến họ nặng nề ra, chỉ tính chuyện nghỉ ngơi mà quên dự định làm điều hung dữ.

Cơm đã chín, khô đã nướng xong mà hai gã nầy vẫn đi không biết mỏi. Lệ trải đệm dọn bữa xong xuôi, kêu họ, họ mới chịu dừng bước.

Khi cả ba đều ngồi lại, Lệ mở lời liền cho không khí bớt lạnh.

Nàng hỏi Sơn:

- Có một ngọn đèn nhỏ xíu mà tại sao phải đến sáu người phục dịch?

- Sáu người là còn ít đa. Là vì chúng tôi phải thay phiên nhau thức đêm để canh đèn, sáu người mà hết hai người khỏi thức, vị chi còn có bốn.

- Ai khỏi thức?

- Hai anh chèo ghe.

- Đèn sao lại phải canh?

- Sợ nó tắt thình lình.

- Nó hay tắt lắm à?

- Trên thực tế, đèn nầy chưa tắt bao giờ cả từ mấy mươi năm nay. Nhưng theo lý thuyết thì đèn nào cũng có thể tắt cả nên phải canh chừng.

Vả lại quanh đèn có lồng kính. Hơi ẩm phủ lồng kính ấy về đêm, khiến đèn hay mờ, cứ độ nửa tiếng đồng hồ là phải lau kính một lần.

- Khổ quá hớ ! Nhưng có gì nguy hiểm không anh?

- Đèn nầy nhỏ nên không sao. Cây hải đăng ngoài Vũng Tàu sáng hơn gấp một trăm lần. Nên chi lão lau kính phải mù về sau, chỉ vì lão nhìn ánh sáng dữ dội mỗi đêm.

- Chiều tối rồi mà họ không về, rồi anh một mình làm sao cho kham?

Lệ hỏi điều đó và rất băn khoăn về nó. Từ hồi nấu cơm đến giờ, nàng trông đứng trông ngồi những người đi vắng. Cứ chốc chốc nàng liếc ra các cửa sổ xem coi có chiếc ghe nào xáp lại gần nhà đèn hay không.

Họ mà về thì thoát: Nam chắc chắn không dám dở trò gì bậy bạ, còn Sơn thì cũng không ra tay cược.

Sơn tuy cũng mong thế, nhưng biết bạn không dám ở đêm trên bờ nên ít hy vọng lắm. Chàng đáp:

- Thế nào rồi họ cũng về

- Có bao giờ họ không về chăng?

- Chưa bao giờ.

- Em cứ lo đêm nay là đêm đầu mà thủ tục nhà nầy bị sai chạy.

Ăn cơn xong, Sơn cũng kéo nước cho Lệ rửa chén như khi sáng. Nam thì ngồi nhăn mặt một lát rồi kêu đau bụng. Giây phút sau, hắn đi cầu tiêu liên tiếp.

Suốt mấy ngày nghỉ mát, Lệ và Nam ăn rất nhiều hải vị. Đó là thức ăn nhuận trường mạnh, lắm khi có tánh chất tẩy rửa, nên Nam bị như vậy không ai ngạc nhiên hết.

Bóng tối đã phủ lên lai bờ sông. Chỉ còn dòng nước là còn lóng lánh ánh sáng thừa của ngày hấp hối.

Sơn căn dặn Lệ:

- Đêm hôm tăm tối, nếu cô có sợ thì đóng kín cửa bên trong. Khóa kiên cổ lắm, cô có thể tin cậy nơi nó được. Có gì cô kêu lớn lên là có tôi.

- Anh ở đâu?

- Tôi ngồi trên đài suốt đêm nay... nếu họ không về.

Lệ rùng mình khi nghe Sơn nói đến sự có thể ấy: họ không về. Nhưng nàng yên lòng được đôi chút mà biết Sơn sẽ không ngủ chung với Nam ở buồng ngoài.

Nói xong, người gác đèn trẻ tuổi đi lại chiếc thang sắt, Lệ bước theo bạn, nói nho nhỏ:

- Anh coi chưng đêm nay!

Không, nàng không bất công, "lo cho chồng thì ít, lo cho trai thì nhiều". Nhưng nàng tin rằng chỉ có Sơn là bị hăm dọa.

Sơn leo chậm rãi. Lệ ngước nhìn theo cho đến khi phân nửa thân trên của chàng chun vào lồng sắt trên ấy, nàng mới rời nơi đó.

Vừa lúc ấy Nam ở trong cầu tiêu bước ra. Cầu tiêu chiếm một xó nhà. Nó hẹp quá nên không ai thấy đó là một cái buồng.

Lệ hỏi:

- Anh làm sao vậy?

- Đau bụng lắm. Nam đáp xẳng lè.

- Khổ quá, không có thuốc men gì hết. Tuy vậy, có gì anh cũng kêu em.

Rồi nàng cũng vào buồng vệ sinh, cẩn thận thế cho xong đâu đấy, hầu tối khỏi ra ngoài, nơi mà nàng sợ sệt.

Bóng tối đã dày đặc khi Lệ trở ra và vào buồng riêng của mợ Sơn.

Sơn đã lên đèn trên kia. Nhưng đó là một cây đèn nhỏ và bất động, nên ánh sáng không đi xa.

Ngoài kia, ngọn hải đăng trên nổng bên tả của Vũng Tàu giống như cây chổi trong tay một đứa trẻ nghịch ngợm, cứ quay tròn và quét chân trời ở bốn phương tám hướng.

Phường đóng đáy đã treo trên đầu cây cột đáy bìa một lồng đèn cho ghe thuyền thấy mà tránh. "Chắc là đèn bão", Lệ nghĩ thế, và lấy làm lạ không biết ngày xưa, ta chưa nhập cảng đèn bão thì treo bằng đèn gì để chịu nổi gió nầy.

Cây đèn lắc lư như có ai huơi để làm ám hiệu trong đêm tối, khiến Lệ nhớ tới câu hát, và ngâm nho nhỏ:

Đèn treo cột đáy, nuộc chảy đèn rung.

Càng về khuya gió càng thổi mạnh. Trong nhà tất cả cái gì kêu được đều kêu lên: mái tôn, cánh cửa, ngọn sóng đánh vào cẳng nhà sàn. Ngôi nhà đèn nhiều khi như bị lay chuyển và đứng không vững nữa.

Lệ nằm xuống chiếc chiếu trải ngay trên sàn gỗ, tai lắng nghe động tịnh bên ngoài. Nàng nhận thấy Nam thưa đi cầu lần lần.

Đến một khi kia, rình rất lâu mà không nghe tiếng bước của Nam, nàng đâm lo. Việc đi cầu của Nam như là một ngọn đèn hiệu, chỉ rõ hắn đang làm gì. Bây giờ im lìm, thì còn biết hắn ở đâu.

Ngồi lâu, Sơn chán và mỏi mệt quá, nên ngủ gục mấy lần. Lần chót chàng đang mơ thấy mình cưới được Lệ thì tiếng còi tàu vang rền đánh thức chàng dậy.

Sơn vội lau lia lau lịa lồng kính, và dòm ra ngoài. Một chiếc tàu lớn đen thui, lù lù tiến tới. Trong khối đen ấy trổ ra vài cái lỗ tròn và sáng.

Sơn tự hào là mình đang thủ một vai quan trọng, cứu mạng hàng ngàn người trên đó. Nếu đèn tắt, tàu sẽ rướn lên cồn, và sẽ có bao nhiêu người tử nạn?

Tàu qua khỏi đó rồi, chàng không dám ngồi nữa, sợ ngủ quên. Lồng sắt nhỏ quá, chàng phải thòng chơn xuống đứng trên một nấc thang.

Bỗng chàng nghe một tiếng kêu kinh hãi dưới kia, rồi gì như là một vật nặng rơi xuống nước. Giọng kêu là giọng phụ nữ, thì còn ai khác hơn là Lệ nữa.

Sơn nhảy một cái thì rớt xuống sàn gỗ một cái đụi. Chàng bấm đèn ló rọi quanh thì thấy Nam đang nằm ngủ. Nhảy một cái tới cửa buồng, Sơn vặn cửa thì thấy không khóa.

- Thôi chết rồi. Chàng kêu lên rồi không thèm rọi trong đó, Sơn nhảy lại cầu tiêu.

Chàng bước vào cầu, một tiếng rơi đánh đùng xuống nước!

Đêm dày mà mặt sông vẫn sáng. Sơn thấy Lệ đang lội lại chơn sắt, vội hỏi nâng:

- Em có sao không?

Lệ chỉ làm thinh mà lội. Sơn bắt kịp bạn nơi chơn nhà sàn và nói:

- Để anh cõng em lên.

Lệ hất tay chàng, và tự lực ôm chân sắt mà lên. Lên tới trên, Sơn lại nói:

- Em phải lấy quần áo anh mà thay mới được, đừng làm như khi sáng nữa.

Lệ vẫn ngậm tăm, ngoe nguẩy đi vào buồng và khóa chặt cửa lại.

Sơn tần ngần đứng nơi cửa rất lâu, đoạn thở ra rồi lững thững trở lại thang sắt.

Gió mạnh về khuya thổi vùn vụt vào quần áo ướt mèm của chàng mà Sơn không nghe lạnh. Chàng bận lo Lệ giận chàng và hy vọng mong manh của chàng khi xưa sẽ tan ra như bèo gặp bão.

Sơn ngồi đó lâu lắm, đâu có hơn một tiếng đồng hồ. Thèm một điếu thuốc, chàng lau sơ lồng kính rồi tuột thang mà xuống.

Anh sáng đèn trên soi mờ mờ gian buồng dưới. Nam vừa thức giấc nghe động dòm lên thì thấy hai ống quyển của Sơn thòng xuống. Một tia sáng xẹt ra trí hắn. Lẹ như chóp, hắn bước nhẹ lại góc buồng cầm lên một thanh sắt y hệt thanh sắt khi chiều, rồi nhắm nhíu kỹ lưỡng, hắn nhảy tới đập ngang vào nhượng của Sơn. Vố đập mạnh hết sức người, Sơn dầu xương thịt bằng sắt cũng phải sụm.

Nhưng lạ quá, tiếng động lại nghe như hai cây sắt chạm nhau chớ không phải tiếng sắt chạm vào thịt. Nam đau tức nơi tay đến điếng người và khủng khiếp hết sức mà thấy Sơn nhảy xuống một cái đụi như không có việc gì xảy ra.

Hắn có dè đâu bên ngoài và cạnh cái thang, còn một cột sắt nhỏ đứng lên để chống lồng sắt của cây đèn. Thanh sắt hắn đập vướng phải cột kia nên Sơn không bị thương như hắn tiên đoán.

Sơn lẹ làng nhảy đến chụp tay Nam và vặn mạnh. Đang bị đau tức, bây giờ bồi thêm cái vặn nầy, Nam la oái một tiếng rồi buông khí giới.

Nhưng hắn vẫn còn tỉnh táo. Hắn co giò tống cho Sơn một đạp thật mạnh. Bị đạp thình lình, Sơn té ngửa xuống sàn. Nam nhảy tới đứng đè lên bụng tình địch.

Trong giây phút đau điếng, Sơn thất thần. Nhưng sau một lúc ngắn chàng hoàn hồn lại. Chàng nắm lấy hai cườm chưn của Nam mà xô đi. Nam ngồi xuống thật mạnh cốt dùng sức nặng của tốc độ ngồi để làm ngất địch thủ. Những sức Sơn còn bền, bụng đau muốn chết mà vẫn chưa việc gì. Chàng ngóc dậy níu lấy Nam và lần nầy xô được.

Hai người con trai bây giờ nằm đè lên nhau, ôm nhau mà vật. Khi người nầy nam trên, khi kẻ kia lấn thế, nhưng không ai dám buông ai ra cả.

Sơn dang thân mình phía dưới ra được, rồi co đầu gối lên thúc mạnh vào đì của Nam một cái.

Anh chàng giựt thùng kêu lên một tiếng lớn rồi buông xụi tay chơn.

Biết Nam chỉ đau quá mà ngất đi trong giây phút thôi, Sơn lật đật ngồi dậy lấy thanh sắt mà Nam bỏ rơi hồi nãy.

Chàng giương oai đưa khí giới lên toan đập xuống một cái cho nát đầu người nằm đó thì bỗng nghe sau lưng Lệ kêu:

- Hãy khoan!

Sơn hạ tay xuống nhìn Lệ mà nói:

- Chắc em đã thấy cuộc đánh nhau nãy giờ. Anh chỉ tự vệ thôi.

- Tự vệ bấy nhiêu đó là đủ rồi.

Sơn không buông cây sắt, bước lại trước mặt bạn mà nói:

- Em Lệ, anh phải giết nó, vì nó là chướng ngại trong cuộc tình duyên của đôi ta. Em cứ nhắm mắt đi cho anh hạ thủ, em không có tội gì đâu cho dầu đối với lương tâm của em.

- Vô ích, đã trễ quá rồi!

- Sao lại trễ em. Em yêu anh mà chỉ vì còn nó. Một khi nó trôi lềnh bềnh trên sông Cần Giờ nầy rồi, thì ta sẽ xuôi chèo mát mái với nhau.

- Trễ quá rồi. Anh mà hạ sát Nam hồi chiều chắc tôi cũng chẳng cho. Nhưng nếu lỡ như thế thì tôi cũng còn có thể lấy anh được, còn bây giờ thì...

- Thì sao?

Sơn lo lắng vì thấy Lệ không xưng em nữa, mà chỉ xưng tôi thôi.

- ... thì đã trễ như tôi đã nói. Anh đã lộ chơn tướng như Nam rồi.

- Lộ chơn tướng? Chơn tướng anh làm sao?

- Nó cũng hèn như chơn tướng của Nam vậy.

Sơn rụng rời thả rơi thanh sắt cầm tay.

- Hèn, anh hèn ?

- Phải. Nếu anh giết Nam trong một chiến đấu oanh liệt như bây giờ thì đó là chuyện khác. Đằng nầy, trước đó, anh đã âm mưu ám hại, ám sát Nam một cách không đường hoàng như người quân tử.

- Tôi ám sát Nam?

Tới phiên Sơn cũng xưng tôi trả lại tiếng tôi của Lệ.

- Phải, anh ám sát Nam, nhưng ám sát hụt. Tôi hỏi anh tại làm sao mà ván lót trong cầu tiêu lại bị mở con vít? Tôi bước vào đó là bị sụp hầm, cả ba tấm ván đều di động như cái đu đòn bẩy.

Sơn tái mặt đi, thả rơi mình xuống sàn gỗ. Thì ra Lệ đã biết. Hèn chi nàng không hề trả lời lấy nuột tiếng khi Sơn nhảy theo vớt nàng, lúc nàng sụp cầu tiêu.

Quả Sơn có gài bẫy để cho anh chàng không biết lội té xuống nước mà chết luôn. Như thế ổn hơn, Lệ và pháp luật có thể tin rằng đó là tai nạn rủi ro.

Rủi quá là người chột bụng lại ngủ quên, còn người đáng lý không đám ra lại bị sụp hầm.

Số là Lệ lo lắng quá nên bị chứng buồn tiểu tiện láo nên mới lọt vào bẫy của Sơn.

Giây lâu Sơn mới nói được, giọng ngượng nghịu:

- Cho dẫu thế, tôi cũng không đến đỗi hèn như đứa giành thùng.

- Y như nhau. Nam còn tha thứ được hơn anh vì hắn bị bản năng tự tồn sai khiến. Còn anh, sao anh không đánh nhau đường hoàng với người ta mà lại làm chuyện mờ ám như vậy.

- Tốt! Cô sẽ làm vợ thằng giành thùng Tốt lắm!

- Tôi sẽ không làm vợ ai cả. Tôi chán bọn con trai các anh lắm rồi. Các anh giành thùng, giành ăn trong cơn nguy, y như con thú. Các anh chết vì một người đàn bà, các anh giết nhau vì một người đàn bà, trời ơi, vô lý và trẻ con hết sức! Lại giết nhau một cách ám muội nữa!

Ngày mai, tôi sẽ quá giang ghe thương hồ mà đi riêng một mình, và không bao giờ gặp các anh nữa.

Bấy giờ đã ba giờ khuya. Ghe ai qua đó, và để đỡ buồn ngủ, một anh bạn chèo ghe hát lên rằng:

Hò... ơ...

Đèn Cần Giờ đêm đêm sáng tỏ,
Ghe lớn, ghe nhỏ nhìn thấy rõ- mà vào,
Biết ai lòng dạ thanh cao...

Không bao giờ câu hò chèo ghe ấy lại thấm thía nơi lòng Lệ bằng đêm nay. Và ngọn đèn Cần Giờ soi sáng đêm trường từ mấy mươi năm rồi, hôm nay lại soi sáng cả lãnh vực sâu thẩm nhứt của lòng người.

Ma rừng

Phong Ngạn 1

Lão phù thủy Phya Latek đang nhìn mặt trời vừa lên khỏi đầu giải Hoàng Sơn, để luyện phép, thì bỗng nghe tiếng sột soạt khua lá cây khô trên sân, trước chiếc thảo lư của ông ta.

Ông tức giận lắm vì sự lo ra đã làm hỏng một buổi tập trung thần lực mà trong đó ông phải dồn hết tâm linh và tư tưởng vào một định ý mới mong có kết quả đôi chút. Ông day lại, mặt hầm hầm. Nhưng ông bỗng đổi sắc khi nhìn thấy người khách đến không hợp lúc ấy. Nộ khí của ông biến thành vẻ kinh ngạc, ông chỉ biết há hốc nhìn.

- Em đây anh à ! Người khách nói.

Giây lâu lão phù thủy mới hỏi được :

- Mầy lên đây làm gì, nhà có việc gì biến không ?

- Không, nhưng em có việc cần gặp anh lắm.

- Thôi, vào đây

Hai anh em leo thang tre mà lên một chiếc nhà sàng cao vọi. Nhà lão phù thủy Phya Latek, cũng như nhà của những người Lào khác, cất cao cẳng. Lối kiến trúc nầy được lão ta làm quá lố thêm vì lão ở biệt tịch dưới chơi giãi Hoành Sơn, phía sườn núi hướng Tây, ngó ra lãnh thổ Lào trung.

Khi Kha Nhay, người em dưới làng mới đến, đã ngồi xong trên chiếc chiếu tre, lão phù thủy Phya Latek hối thằng tiểu đồng dọn cơm nếp nấu với sầu riêng để cả hai cùng ăn sáng.

Phya Lakek, từ mấy năm nay, bỏ làng vào núi để hái thuốc và luyện phép, sống gần như cô độc với một đứa học trò nhỏ trạc mười hai tuổi.

Cầm một cục xôi thoa múi vừng bỏ vào miệng, Phya Latek hỏi Kha Nhay :

- Chú mấy nói có việc cần là việc gì đó ?

- Cần lắm, vì vậy tôi bất kể đêm ngày, lặn lội tìm anh. Tôi tới đây hồi khuya, nhưng sợ anh có bủa giăng bùa phép nên không dám vào, ngủ đỡ ngoài rừng đợi sáng.

- Thì việc gì mầy cứ nói ngay đi coi.

- Số là hai năm liền vì một lẽ rất kỳ bí, tôi làm ăn cứ thua lỗ mãi...

- À, mầy vẫn còn là tù trưởng ở Khum Keng Phao chớ ?

- Còn.

- Và cũng cứ cầm đầu đoàn người đi bán bò dưới nước Nam Kỳ 2 chớ ?

- Cũng còn.

- Mà vẫn lỗ mãi ?

- Phải.

- Lẽ gì mà kỳ bí dữ vậy ?

- Lạ quá anh à. Trước kia thì không có, nhưng từ hai năm nay thật là khó hiểu. Bò của chúng tôi băng rừng, lướt bụi xuống tới xứ Nam Kỳ thì bò tơ hóa bò già, bò mập hóa bò ốm hết thảy, bán chẳng ma nào thèm mua hết.

- Thì tại bây đi không nghỉ, bò nó đuối sức nên mới hư chớ có gì lạ đâu.

- Không phải vậy. Tụi tôi đêm đi, ngày nghỉ, mà đi thiệt chậm, vả lại dọc đường còn phải chờ bò của các làng khác kia mà. Và xuống tới núi Bà Rá, bò còn mập tốt như thường kia mà! Nhưng hôm sau, tới Phú Riềng là nó hư ngay.

Phya Latek trầm tư mặc tưởng rất lâu, rồi mới hỏi em :

- Bây giờ mầy muốn gì ?

- Tụi tôi bàn với nhau, chắc tại ma rừng của người An Nam hại bò, nên mới ra nông nỗi ấy. Người An Nam họ không biết gì hết, không thèm cúng quải nên ma rừng nó giận, nó lộng hành. Tụi tôi muốn rước anh đi theo đoàn để làm phép ếm cho ma nó sợ.

- Tao đi làm sao được. Tao đã nguyện không dính dáng đến việc đời rồi mà !

- Anh tu dưỡng luyện phép làm gì mà em của anh có việc một chút anh lại không cứu !

- Hay là tao về làng làm phép cho bò mầy và bò miệt trên thôi.

- Không được, như vậy bò miệt dưới vẫn bị hại. Năm ngoái lỗ quá họ không tính đi nữa, tôi phải cam đoan với họ là tôi đối phó được. Nếu năm nay để họ bị hại nữa, thì còn gì danh tiếng của tôi và của anh ?

Phya Latek thở ra, không buồn ăn nữa.

Kha Nhay chép môi vừa khen vừa hỏi:

- Sầu riêng nầy ngon. Ở đâu anh có đây ?

- Ở dưới làng họ đem lên biếu.

- Năm ngoái, sau mùa bò, cha mẹ và tôi, cả nhà đều ăn khoai, chớ tiền còn đâu mà mua nếp với sầu riêng. Tội nghiệp mẹ đã già yếu mà ăn cực khổ mãi...

Phya Latek rưng rưng nước mắt, gạt ngang :

- Thôi mầy đừng nói nữa, để tao đi.

°

Điểm khởi hành là chợ Sang Phóc, cách Thạt Khẹt năm mươi cây số về hướng tây.

Từ mươi hôm rồi, bò miệt trên và các làng lân cận lũ lượt tụ về đó, ở rải rác khắp khu rừng quanh chợ. Và sau đêm ngã trâu ăn khao là đàn bò lên đường trong cát bụi mịt trời.

Đàn bò to ước độ ba ngàn con, và bọn người buôn bò sắp đặt làm sao cho loài bò nó chọn lựa tướng soái tự nhiên lấy, và luôn luôn con đầu đàn là con bò xứng địa vị nhứt. Chừng ấy, con người mới ra mặt để dẫn đầu lại con bò đầu đàn kia. Như thế họ chỉ tốn công điều khiển có mỗi một con mà cả ba ngàn con đều ép mình vào trật tự. Người Lào thật thà thế, mà khiếu dẫn đạo của họ không kém các tay xâm lược danh tiếng của thế giới bao nhiêu.

Ba ngàn con bò ấy chà mòn thêm những đường mòn có sẵn trong rừng, đùa gãy những nhánh cây thấp ngang lưng chúng và quậy nát những bãi cỏ, những trãng tranh mỗi lần chúng đồn dinh hạ trại.

Gió cuốn bụi mù, nhánh cây gãy răn rắc và lá khô bị vò nát tạo nên tiếng rầm rì không ngớt như mưa rừng. Và mỗi lần đàn bò dài hằng ba bốn cây số ấy vượt qua một man khê, một suối dại, thì bờ suối nát nhừ và lòng suối nơi đó bỗng rộng ra như lòng một con sông.

Những nơi có quan lộ thì họ đi ban đêm, ban ngày vào rừng nghỉ mát và thả bò ăn lá cây. Những nơi chỉ toàn đường mòn thì họ đi ban ngày, lợi dụng bóng mát của cây giao nhành trên lối nhỏ ấy cho bò đỡ mệt, và ban đêm thì lại nghỉ, để dễ bảo vệ bò tránh thú dữ.

Thường thường họ dồn bò vào những đồng cỏ lớn, đốt lửa quanh đám bò và thức đêm nhìn vào ven rừng mà gõ mõ tre để nhát cọp.

Tuy thế, cũng không tránh khỏi sự hao hớt dọc đường. Làm thế nào cọp cũng rình xơi được vài con, nhứt là vào giữa ban ngày khi chúng len lỏi trong rừng để ăn lá. Cũng có một số bò yếu đuối nên chết, hoặc què rồi bị họ ăn thịt.

Bù vào đó, những con bê đẻ dọc đường đứng lên trám những chỗ trống cho đạo binh viễn chinh bò ấy, trám cho đủ số thôi, chớ bò con thì bán có bao nhiêu tiền đâu.

Đàn bò giống hệt như một con sông lớn chảy xuôi dòng. Thỉnh thoảng nhiều con rạch con đổ vào để tăng đại con sông đó. Đó là những đàn bò địa phương, nhập đoàn dọc đường để cùng đi một chuyến.

Mỗi lân có bò mới nhập bọn là đoàn người dừng bước để thầy phù thủy Phya Latek làm phép ếm ma và vẽ bùa trên đầu bò.

Chủ bò thì ngoài gạo, nếp lại mang theo nào là ngà voi, trầm, sà-rông nhiều màu sắc sặc sở để bán cho "An Nam".

Đi một tháng ròng rã họ mới vào địa phận Cao Miên, và phải một tháng nữa mới đến biên giới phía bắc của "nước Nam Kỳ".

Tuy đường xa vạn dặm thế mà bò vẫn béo tốt, vì chúng như vẫn ở trong địa hạt của chúng, vẫn tiếp tục sống giữa thiên nhiên như hồi ở nhà.

Qua khỏi Snoul, tiến về biên giới Nam Kỳ thì bò nghe như lạc hướng và rất khó chịu.

Từ nơi đó, rừng đã biến thành những sở cao-su mênh mông bát ngát, không được phép vào đó nữa, nên phải đi trên quan lộ. Mà quan lộ ở đây thì ối chào, nắng như thiêu đốt, và hơi nóng từ đường nhựa bốc lên nghe hừng hực như lửa lò. Xe hơi thì dập dìu, bò trông thấy xe tưởng xe là những con quái vật kỳ khôi từ đàng xa âm sầm đâm đầu lại; quái vật nầy vừa hét vang rền, vừa hầm hừ, vừa xịt hơi ra mũi mà mũi lại ở phía đằng sau đít mới lạ cho chớ !

Đàn bò khó chịu nhứt là vì con đường nhựa. Đường trải đá thì thỉnh thoảng còn để lòi đất, chúng rất sung sướng mà đạp được cái chất quen thuộc ấy. Ở đây chất hắc ín đã đậy kín đất mẹ, cái đất mà chúng ưa mùi và rút sinh khí từ trong đó ra.

Bò lại sợ nhứt những tiếng rồn rột như mưa rào trên ngói tạo nên bởi móng của chúng nện trên chất nhựa hắc ín cứng ngắt trong sương đêm.

Cũng may là chỉ phải chịu khổ vài ngày thôi. Khi chúng qua khỏi Phú Riềng, Phước Hòa tới Mỹ Đức là có rừng rậm nghỉ ngơi, lại khỏi phải đi nữa vì đó là chợ bò của "nước Nam Kỳ" đó.

°

Tháng giêng năm ấy, cũng như các năm khác, chợ Tân Uyên rất vui. Sau khi "ăn Tết ở nhà" và "cờ bạc", họ được dịp tốt làm ăn, vì chợ bò Mỹ Đức chính là chợ bò Tân Uyên vậy.

Tân Uyên là chợ quận ven rừng, ngã ba của sự thương mãi với hậu phương rừng sâu, còn Mỹ Đức chỉ là một làng tiền tuyến dùng làm trại bò vĩ đại thôi.

Lái bò các nơi đều tề tựu về đó. Người bản xứ thì ai đồ tể, lo chuẩn bị mua thịt; ai đầu cơ, lo mang muối, hộp diêm, gương con, hột cườm ngũ sắc lên đó bán cho người Lào với một giá cắt cổ, ai muốn làm giàu to thì mang vốn lên mua ngà voi rẻ mạt đem về rồi mặc sức mà phát tài.

Vì thế tin bò Lèo 3 về là một tin vui như người ven bể nghe thuyền đánh cá vào bờ.

Chánh phủ "Nam Kỳ" chỉ tiếp đón bò Lèo để bảo vệ họ khỏi bị gạt gẫm, cướp bóc thôi, còn thương mãi các thứ vẫn để tự do.

Đàn bò đến rừng Mỹ Đức là hạ trại. Mỗi con bò đều có đeo lục lạc bằng gỗ nên chủ bò vững tâm thả chúng vào rừng cho sống tự do để đợi khách. Muốn tìm bò, họ cứ lắng tai nghe tiếng lục lạc lốc cốc mà theo dấu. Còn ma rừng thì năm nay đừng hòng mò đến bò. Đã có thầy Phya Latek ếm rồi, mó vào có mà chết.

Người Lào ngay thẳng lắm. Bò họ để chung, chẳng thèm là con nào của ai cả. Bán được bao nhiêu (con nào cũng bán một giá) họ chia nhau tùy số mỗi người có. Mà số này thì ai có bao nhiêu, khai bấy nhiêu chẳng ai ăn gian ai cả. Vì vậy đàn bò giống đàn bò chung của một chủ.

Bò nghỉ được hai ngày đêm thì khách hàng được phép đến nơi.

Ai bán cứ ở ngoài lộ mà bán, ai mua, theo người dìu dắt vào rừng. Mua xong, họ sẽ gom bò ra đường lộ cho ta.

Mà trời ơi, các tay dìu dắt đều rụng rời khi họ dẫn khách hàng vào đến chỗ mà đàn bò đi ăn rải rác bên trong. Trời ơi, sự tình cũng y như hai năm rồi: bao nhiêu bò tơ mập mạp, sởn sơ đều hóa thành bò già ủ rũ, ốm bày sườn.

Thế nầy thì có chết hay không ! Ma gì mà dữ quá, bất kể bùa phép của thầy Phya Latek là một tay phù thủy khét tiếng từ thuở đến giờ.

Các tay dìu dắt ôm đầu chạy thoát ra trong khi những khách hàng "An Nam" ngơ ngác không hiểu làm cách nào mà người Lào đưa được những con bò ho lao ấy từ xứ xa tít đến đây, liên liếp trong ba mùa bò liền.

Thầy Phya Latek đang ngồi lựa cườm màu bỗng thấy các tay dìu dắt khách hàng hơ hải vừa chạy đến vừa la :

- Chết rồi thầy ơi, chúng nó lại bắt bò nữa, y như các năm trước.

Tất cả những người Lào có mặt tại chợ ngà voi, chợ muối hột, đều đứng lên một lượt như có lò xo bật, rồi ba chân bốn cẳng chạy riết vô rừng.

Quả thật thế, trước mắt họ bày ra một cảnh tượng vô cùng tuyệt vọng : bò con nào con nấy bụng cũng móm xom, còn xương nó thì như đang cố xoi thủng da để lòi ra ngoài.

Họ hỡi ơi, tiếc công một năm dài chăn nuôi và mấy tháng trường băng rừng vượt suối để đến đây.

Thầy Phía Latek nói :

- Bọn ma nầy có giỏi lắm là mà con mắt ta để ta thấy bò tệ như vậy, chớ làm gì mà chúng rút bớt thịt bò được. Để tôi giải phép xem thử.

Nói xong, ông nắm tay lại, trăm gì lia lịa một hơi dài, rồi búng những ngón tay ốm nhom vào hướng những con bò không muốn cựa quậy ấy. Nhưng ông đã mỏi mồm đọc thần chú ; đã hụt hơi phà khí trừ tà vào hướng bò, những con vật nầy vẫn nhất định gầy khô và run rẩy vì già liệt.

Dưới đây là bức điện văn của ông tỉnh trưởng Biên Hoà gửi cho Thống Đốc Nam Kỳ :

"Chợ bò Tân Uyên hoàn toàn thất bại như hai năm trước. Stop

Người Lào thề quyết bớt chăn nuôi và không đến chợ nầy nữa Stop.

Họ bảo rừng có ma hại bò. Stop.

Theo tôi, có lẽ một bệnh mới mà mầm bệnh ờ rừng Mỹ Đứ. Stop.

Yêu cầu phái gấp nhiều thú y lỗi lạc đón bò mua rẻ dang đổ về các tỉnh khác để khám. Stop.

Cần hành dộng gắp để tránh sự nguy ngập kinh tế cho hai xứ lào và Nam Kỳ. Stop"

Ông Thống đốc Nam Kỳ đọc xong bức điện văn này, trầm ngâm giây lâu rồi trao mảnh giấy cho viên đổng lý văn phòng xem.

- Người Lào nghĩ cũng tội nghiệp, ông thống đốc nói, mà viên tỉnh trưởng này mới thật là thiếu tưởng tượng chớ. Được, tôi sẽ hành động, nhưng chậm chạp thôi, để bắt ma của người Lào, và bắt vi trùng của ông tỉnh trưởng. Ông nhớ nhé, năm tới một tháng trước khi họp chợ bò Lào, ông nhớ nhắc tôi hành động.

- Vâng.

°

Và dưới đây là bức điện văn của thống đốc Nam Kỳ gửi cho khâm sứ Ai Lao sau Tết tây kế đó.

''Đã thi hành dủ biện pháp để bảo vệ bò Lào. Stop.

Yêu cầu khuyến khích ngườì chăn nuôi đem bò xuống như mọi năm. Stop.

Bảo đảm an ninh về ma quỉ".

Đồng thời Thống đốc Nam Kỳ lại gởi lên Biên Hòa đại đội vệ binh địa phương hầu vây bắt...ma quỉ hay vi trùng gì đó.

°

Giữa hai tỉnh Biên Hòa và Thủ Dầu Một, tại ngay ranh giới tỉnh, có một lâm thôn tên là A.M. Làng ấy thuộc về tỉnh Thủ, nhưng dân trong làng lại liên lạc mật thiết với tỉnh Biên Hòa, nên thét rồi họ không còn biết họ là dân tỉnh nào nữa.

Dân làng sống về nghề buôn "hàng đen". Hai tiếng "hàng đen" ấy đã có rất lâu đời và người miền đông ai cũng hiểu nghĩa của nó là những con trâu con bò trộm được, đem đi bán.

(Về sau ta có danh từ chợ đen để chỉ một thứ thị trường kia, nhưng thử nghĩ danh từ hàng đen mà ám chỉ vào thứ hàng hóa trong chợ đen ấy cũng vẫn là đúng).

Trong làng từ ông hương cả đến anh dân trắng (bạch đinh), ai cũng buôn hàng đen cả, nên nghề ấy thành công khai vì chính người có quyền cũng làm kia mà. Và họ coi công việc đó rất thường, không còn nghe lương tâm nói ra nói vào gì cả.

Địa thế hàng rất lợi. Đó là một làng rừng như đã nói, nghĩa là biệt tịch trong thâm sơn cùng cốc. Và vì ở biên giới nên đang đứng ở đây, bước qua một bước là đến tỉnh khác. Bên nây mà có cuộc hành binh cảnh sát là họ ùn ùn dắt trâu bò đi vài thước thì qua tới bên kia, đang êm rơ.

Trong các tỉnh miền đông, trâu bò trộm được đều tập trung về chợ đó để rồi phân phát trở ra cũng trong các tỉnh miền Đông.

Tất cả các tay trộm trong vùng đều coi làng đó là thánh địa của nghề và luôn luôn đi, về không ngớt. Đó là những cuộc hành hương ban đêm mà cả thảy tín đồ đều có một lương tâm nặng trĩu tội ác và những hành lý bốn chơn.

Làng lại tổ chức châu đáo để đánh thối lui những bọn người "theo bò" hầu giúp các tên trộm nó là kẻ tiếp tế đắc lực cho cái chợ kỳ dị ấy.

Phải nói rõ các bạn mới biết "theo bò" thế nào. Các tay trộm bò, trâu thật là tài tình. Trâu bò ngủ trong chuồng mà cổng làm bằng những khúc gỗ to hơn bắp vế. Thế mà chúng dắt trâu bò ra dễ dàng như...Trương Dực Đức lấy đầu viên thượng tướng địch.

Mãi đến mấy giờ sau khổ chủ mới hay. Thế là họ động viên cả làng, đang đêm đốt đuốc, vác dao, mác, men theo dấu trâu bò mà rượt theo trộm.

Người theo dấu cũng giỏi. Bọn trộm có "long" bò trâu ngang qua sông, qua rạch họ cũng tìm được. Nhiều khi chúng bó cẳng bò bằng rơm, họ cũng không mất dấu.

Họ theo như thế nhiều khi tới ổ, nghĩa là tới làng A. M. Là chuyên nghiệp thì phải tổ chức châu đáo. Vì thế mà làng A. M. có cả một đạo binh dáo, mác để phản công đánh lui bọn "theo bò".

Bọn nầy luôn luôn thua trận vì binh xa mới đến, mệt môi, vì ít người hơn lại không được huấn luyện hẳn hòi.

Thế mà họ không thưa kiện gì cả, mặc dầu biết sào huyệt kẻ gian, vì bọn nầy lại có nơi bí mật riêng trong rừng để nhốt trâu bò, nhà chuyên trách có đến làng khám cũng chẳng tìm thấy gì.

Trong làng có ông hương cả Nghiệm là tay hàng đen chúa tể. Vốn ông rất lớn nên hàng năm ông mua ra bán vô hàng vạn trâu bò. Ông ta có đến sáu vợ, mà bà nào cũng nhà cột gỗ gõ, nền đúc hẳn hoi. Sống giữa rừng mà ông luôn luôn trong nhà có nước đá, la-ve, bánh hộp, nho tươi, bom, xá-lị vân...vân...Người trong vùng gọi ông ta là vua hàng đen.

Nhưng ông ta vua không phải ở chỗ lớn vốn và ăn tiêu sang trọng. Phàm hễ vua là được người đầu lụy, ngự trị trên tất cả. Ông hương cả Nghiệm ngự trị trên hết thảy các tay hàng đen khác.

Vì sao ? Hàng đen, trữ xong, phải bán. Muốn bán phải có giấy tờ, vì con bò con trâu nào trong nước đều phải có thẻ căn cước như người ta cả.

Chỉ có một mình hương cả Nghiệm là có đủ giấy tờ cho hàng vạn con vật ấy. Những tay lái khác, dầu nhỏ, dầu to đều phải đến cầu khẩn ông để lấy thẻ cho bò.

- Bác muốn lấy bài chỉ cho một con bò mốc, tám xoáy, độ bốn tuổi à ? Được, hai đồng một thẻ, đây nầy thẻ cũ, có lằn xếp hẳn hoi, có mang dấu vết mắc mưa, té ruộng, lội sình đây, chớ không phải giấy giả mới làm đâu. Con dấu tỉnh trưởng, chữ ký của phó tỉnh trưởng, chữ ký thật đấy.

Ông cả phát thẻ bò như vậy gần hai mươi năm, người tò mò tìm mãi mới khám phá ra mánh lới của ông ta. Ông ta thông đồng với các lò thịt cắc chú, đặt tiền trước khắp các lò để lấy độc quyền mua lại thẻ căn cước của những con vật bị thịt mỗi ngày.

Nhà ông cả Nghiệm tấp nập khách khứa tứ phương đến đó mua bò và chuộc bò.

Ông ở cách đó năm mươi cây số và tuần rồi ông có mất trộm một cặp bò phèn ư ? Cứ tìm đến ông cả Nghiệm, ông sẽ cho người nhà đưa ôngvào rừng nhìn bò. Ôi, bò vô số kể, lển nghển trong ấy như rệp ở các tiệm hút. Ông nhìn được bò ông là may mắn lắm và cứ mặc cả mà chuộc bò lại, đừng mong thưa gởi gì hết. Ông Cả có đủ trăm phương ngàn kế để phi tang hoặc ám hại ông nếu ông giở ngón.

Vả lại người ta "làm ăn" mà, cũng như bao nhiêu cuộc làm ăn khác, ai nỡ lật lọng với người ta. Cho đến cái anh trộm kia, cũng là "làm ăn". Câu chuyện lỗ vốn sau đây, mới nghe thì buồn cười nhưng khi biết rõ cuộc thương mãi nầy mới thật là chánh đáng.

Một nông già kia ở Tây Ninh có mất trộm đôi bò thật tốt. Ông ta biết thủ phạm là ai, nên tìm đến nhà hắn xin chuộc.

Tên trộm ra giá tám mươi đồng.

- Thôi mà, năm chục là vừa phải mà?

- Không được đâu, năm chục thì lỗ tôi quá.

Ai đời của người ta, mình lấy không, người ta nạp tiền để xin lại, mà mình còn than lỗ vốn cái nỗi gì chớ.

Nhưng lỗ vốn thật đó. Hắn đã mang bò tận A. M. bán rẻ cho ông Cả. Bây giờ lội rừng mang về, phải tốn bao nhiêu là công khó, không lỗ vốn, lỗ công sao được.

Vả lại bọn trộm rất trung thành với ông Cả, nên cứ muốn nạn nhơn đi ngay lại ông mà chuộc. Sở dĩ có sự trung thành nầy là vì ông Cả rất hào hiệp, rủi em út đứa nào bị tù, ông nuôi vợ con họ tử tế và gửi quà bánh vào khám không ngớt.

Phàm hễ vua là có kẻ muốn soán ngôi tiếm vị. Ông Cả giàu sang quá nên gây nhiều đố kỵ và một hôm ông bị đồng nghiệp phản bội dắt lính đến vây tóm trọn ổ bò trong rừng trên hai ngàn con.

Kỳ ấy ông lỗ quá sá, nhưng may không rơi vào vòng pháp luật vì không có bằng cớ ổ bò ấy là của ông.

Ông ngán ngẩm thế sự, mở đại yến khoản đãi tất cả khách hàng, em út gần xa và đồng nghiệp cùng làng, trong đó có cả người ám hại ông, và khi tiệc tàn, ông long trọng tuyên bố giải nghệ.

Ông cả là tay mưu thần chước quỉ, nên không ai tin lời tuyên bố ấy hết, và tiếp tục theo dõi hành động của ông coi ông còn lôi cái trò gì ra từ cái túi trăm ngàn kế của ông.

Nhưng ông Cả quả giải nghệ thật, ông đọc truyện Tàu, chơi cây cảnh, non bộ, hoặc ngao du các tỉnh thành, phú mặc cho bạn bè tranh đua lợi quyền mối men.

Ông dưỡng già như vậy đúng một năm thì lại mở đại yến khoản đãi tất cả các người quen biết và rồi cũng tuyên bố. Ông tuyên bố trở về vào rlghề. Tin sét đánh nầy khiến cho những đồng nghiệp của ông rụng rời khủng khiếp như một quốc gia thình lình hay tin một cường quốc lân cận chuẩn bị xâm lăng để cướp nền thạnh vượng của nó.

Đọc suốt được trong thâm tâm bạn, ông Cả nói rõ để ho yên lòng :

- Không, tôi sẽ làm lái bò như xưa, nhưng không buôn hàng đen nữa, mà chỉ buôn hàng trắng thôi.

- Thế nào là hàng trắng ?

- Là những con bò nuôi lương thiện buôn bán trong vòng hợp pháp.

Người người đều mỉm cười trước lời giải thích của con cáo già nầy.

Mấy hôm sau đó, ông Cả rao ai có bò già, bò ốm, bò què đem bán rẻ cho ông đặng ông nuôi. Tuy nói là bán rẻ, nhưng họ bán cũng rất là "được tiền", cao giá hơn cho bọn đồ tể cắc chú nhiều. Nên chi bò lại đi về A. M. đông đảo. Cùng với những bò tốt do của trộm, năm ấy bò về "hưu" đổ vào vùng A. M. tấp nập. A.M. như thu hút tất cả những phần tử bạc nhược trong nước, vì nhà nông nào cũng có một hay vài con bò hết xài, để mất công chăn, bán thì rẻ quá, và cũng không nỡ bán cho lò thịt một người bạn cày sâu cuốc bẫm với họ trong nhiều năm.

Chỉ trong vòng hai tháng là ông Cả mua được già hai nghìn con bò ốm, và cho tất cả vào sào huyệt riêng của ông trong rừng như các tay hàng đen khác. Bò hàng trắng không cần giấu ai, ừ, nhưng đem vào rừng có cỏ, có lá nhiều, có lắm bóng mát, suối trong, chúng mới mập chớ.

Ông Cả khoe chắc là đến ra giêng bò ấy sẽ cải lão hoàn đồng. Tết năm ấy ông ăn Tết to hơn bao giờ cả.

Ăn rằm tháng giêng xong, ông Cả ra đi với vài tên người nhà thân tín. Vì cái lần bị bắt ấy, ông đã đổi sào huyệt và dấu kín không cho bạn đồng nghiệp nào biết nơi chốn hết. Họ hết sức dò la cũng không tìm được ổ bò của ông.

Và mười hôm sau vào đầu tháng hai, ông lùa bò về làng. Hàng trắng bán công khai mà, tội gì còn phải giấu trong rừng.

Ồ, những con bò tốt đẹp làm sao. Con nào con nấy ú nu, ú núc, sởn sơ như thanh niên mười tám hai mươi, thơm mùi rừng, thơm hoa dại, thơm cỏ non, chớ không hôi mùi phân chuồng như những con bò khác.

Làng xóm rộn rịp lên. Khắp hang cùng ngõ hẻm, ruộng khô, đồng vắng, đâu đâu cũng lúc nhúc bò của ông Cả.

Trông những con bò mới thèm làm sao ! Người đồ tể đoán thấy những bắp thịt mềm dưới làn da non của chúng. Nông gia cứ trầm trồ những cẳng bò gân guốc, thịt săn mà gân lại dẻo, móng lại kiên cố như có đóng đế sắt rồi.

Bò về làng vài ngày là bọn lái tứ phương mang đi sạch hết.

Ông Cả lại giàu hơn bao giờ. Bò già nua vẫn rẻ hơn bò của trộm mà bò hoàn đồng, bán lại được tiền hơn bò gian.

Đồng nghiệp của ông Cả đều le lưỡi. Nếu họ biết cách nuội thần thánh của ông thì tội gì họ còn phải đeo đuổi theo cái nghề bất lương và rất có thể vào tù nầy làm chi nữa.

Nhưng cách nuôi thần tình và tốc hành ấy, dân làng rình mò mãi mà không khám phá ra được. Họ mua chuộc người nhà của ông, nhưng mấy thằng nầy đã được trả công phủ phê nên vẫn ngậm câm như hến!

Một năm hai kỳ,vào cuối mùa mưa trước vào giữa mùa nắng sau, ông Cả mua bò, chăn nuôi và bán bò. Ông cưới thêm ba cô vợ nữa và hăm sắm xe hơi, mua sở cao-su.

Dân trong vùng đồn trong ông Cả đã chuộc bùa trên Cao Miên về bỏ cho bò ham ăn, và mau khỏe lại.

Có người lại quả quyết ông Cả vốn giao du rộng nên biết một món thuốc tây rất hiệu nghiệm do một ông thú y cho.

Nhưng sự thật là sao, họ vẫn hoang mang không chắc.

Bấy giờ ông Cả thật là hương cả, vị tiên chỉ trong làng.

Trước kia, làm nghề xấu, những người tai mắt ở xa không ai thèm giao thiệp với ông. Bây giờ quan chức trong tỉnh tới lui nườm nợp, ai cũng khen ông biết cải tà qui chánh và nhứt là thành công trong nghề khó khăn, nghề chăn nuôi. Có lần vị tỉnh trưởng tỉnh nầy hứa xin cho ông một khuê bài "xứng đáng về nông nghiệp" (Mérite agricole).

Ông thành công như vậy trong hai năm liền, và một hôm, đùng một cái có tin sét đánh là ông Cả Nghiệm bị bắt, khiến cho dân cả miền Đông đều kinh ngạc.

Tin rõ ràng ông Nghiệm bị bắt giữa rừng Mỹ Đức cùng với mấ'y tên người nhà, tất cả đang lùa bò tơ của người Lào, lùa vào rừng sâu để tìm đường đi vòng về A.M.

Thế là hồi ông Cả mua hàng đen, bị cảnh sát địa phương bố. Nhưng lân nầy cải tà qui chánh, buôn hàng trắng lại bị cả thống đốc Nam Kỳ "đặc biệt chú ý".

Dầu sao ai cũng khen ông Cả là người thâm.

- Phải, trộm bò của người Lào thì dại. Chúng sẽ buồn mà không mang bò đến nữa. Và vụ trộm to ấy thế nào cũng kêu gọi một phản động lực cấp tốc của nhà nước và phương tiện thanh trừng sẽ lớn lao, khó mà thoát được.

Còn đánh tráo bò thì êm rơ. Người Lào vốn lười biếng, một khi thả bò vào rừng là không thèm dòm đến chúng nữa. Họ lại mê tín, thấy bò ốm, bò già, ngỡ bò tốt của họ bị ma làm, nên chỉ run sợ mà không rình rập để khám phá ra quỉ kế.

--------------------------------

1

Bình-nguyên Lộc

2

Chuyện nầy xảy ra cách đây 30 năm

3

Biến thể của tiếng Lào

Những khối tình con của học sanh

Đạt gầm đầu trên tờ giấy có vẽ những hình vuông, hình tròn về những bài toán hình học anh đang làm.

Bỗng sau lưng anh, anh nghe ai ngâm "

Trăm năm tính cuộc vuông tròn...

Đạt giựt mình, ngước lên nhưng không ngó lại.

Người ngâm Kiều cười ha hả rồi nói :

- Anh giựt mình mà vẫn ngồi trơ, nghĩa là anh hết hồn về chuyện khác, chớ không phải vì có tiếng thình lình.

Giọng nói là giọng của người lớn tuổi. Mặc dầu thế, Đạt cũng đùa :

- Trinh thám lắm, nhưng tôi hết hồn vì chuyện gì ?

- Vì câu Kiều tôi ngâm. Câu ấy để trêu những anh học sanh như anh, ngày nầy qua tháng khác cứ học mãi những hình vuông hình tròn. Có gì đâu anh phải sợ. Nhưng anh sợ vì nó nói đúng tim đen anh trong giờ phút nầy. Tôi đoán chắc là anh đang lo ra. Anh ngó hình mà chỉ thấy con Chi.

Đạt tái mặt, rồi bẽn lẽn cắn móng tay, không nói gì nữa, cũng chẳng dám day lại dòm người đối thoại với anh.

Người nầy sợ anh mắc cỡ tội nghiệp, cười một xâu dài rất dòn rồi kể :

- Hôm qua tôi lại đằng chị tôi. Thằng cháu nó mượn thầy về dạy thêm toán. Thấy hai thầy trò đang làm bài toán số học viết lên bảng đen đầy những chữ A chữ B chữ C. Chị tôi hỏi ông thầy : "Ông à, con tôi nó mười tám tuổi, học trên mười năm rồi, sao cứ còn phải học A, B, C hoài vậy ?".

Đạt và người nọ đồng cười xòa.

Bấy giờ người ngâm Kiều mới bước hẳn vào buồng nhỏ của Đạt. Đó là thầy bảy Tân, chủ nhà nơi Đạt ăn cơm tháng đi học.

Thầy bảy Tân đặt nhẹ tay lên vai Đạt mà rằng :

- Anh đừng sợ gì hết. Con Chi là cháu tôi, phải. Nhưng anh có tội gì đâu. Tôi chỉ khuyên anh yêu nó vừa vừa thôi. Yêu chơi chơi vậy thôi, chớ đừng yêu thiệt tình...

Đạt ngạc nhiên đến cực điểm và tự hỏi : "Sao thầy ta lại xúi dại thế, bảo đừng yêu thiệt". Như hiểu ý người bạn trẻ, Tân nói :

- Anh ngạc nhiên vì anh không hiểu rõ hai tiếng "chơi chơi" của tôi. Nầy, để tôi kể anh nghe một câu chuyện tình của học sinh, một cậu học sinh mười chín như anh vậy.

Tân kéo ghế ngồi sát Đạt, vói lấy một quyển sách đậy những hình vuông, hình tròn lại, rồi bắt đầu :

"Một buổi chiều xuân êm đềm ấm áp. Trên phố hàng Bồ, cậu ấm Nguyễn Khắc Hiếu vừa đi vừa ngước mặt lên nhìn trời trong, miệng ngâm nga nho nhỏ : "Hoa cù hồng phấn nữ, tranh kháng lục y lang".

Đó là hai câu thơ trong quyển Ấu học ngụ ngôn thi mà cậu ấm đã học thuộc lòng cách đây mười bốn năm, năm cậu lên năm tuổi.

Người thanh niên ấy với bản chất đa cảm đa tình lại bị giáo dục hơi lơi (ai đời con nít lên năm lại bắt học thơ tình) nên trước cái xuân tạo vật, bất giác đọc lên bài thơ năm cũ, vì lòng đang rạo rực yêu đương.

Đời đẹp lắm, chiều hôm ấy. Trời, mây, chim chóc, cây cỏ, con người, phố xá, xe cộ, cái gì cũng dễ yêu hết.

Từ phố Gia Ngư nơi mà cậu ấm theo học trường qui thức, về nhà trọ ở phố hàng Nón, mỗi ngày cậu ấm qua đây bốn lượt, thế mà mãi đến chiều hôm nay cậu ta mới thấy vẻ đẹp con đường.

Đây, Hà-Nội Đinh-Mùi 1, một Hà-Nội mà gương mặt còn nặng vẻ Thăng-Long cũ với những ngôi nhà mái cong cong, cất không ngay hàng thẳng lối. Đây đó vài tấm biển hàng treo đứng như bên Tàu.

Hà- Nội ấy nhắc nhở đến rất nhiều cái "Thành Tây" năm cũ với những Bích Câu Thôn, những cầu con trên sông Tô-Lịch có người bán tranh tiên.

Đi trên con đường hàng Bồ, nhìn những song sa trên gác con con, cậu ấm mơ đến những cuộc thả lá của tiên để mời tao nhơn mặc khách đi uống rượu làm thơ.

Lá có rơi thật đó, nhưng xem xét kỹ mãi mà không thấy đề thơ. Mà ồ kia, có phải là tiên nữ chăng, một người con gái yếm trắng ngồi trước một căn nhà bên dãy phố lẻ.

Cô gái ngồi trước hiệu tạp hóa, bên cạnh một cái quả sơn son đựng đầy dẫy miếng song thần 2. Sau lưng cô là những bó hương xanh đỏ, những gói chè giấy vàng vàng.

Bấy giờ một chiếc ô-tô cao cẳng, ốm tong teo hổn hển chạy đến trong một vầng bụi hồng, còi bóp te te liên hồi. Cậu ấm hoảng hốt nhảy trái lên vỉa hè trước hàng tạp hóa, đánh rơi xuống đường hết một chiếc giày Gia Định.

Cô hàng tạp hóa trông thấy vẻ sợ sệt của người con trai, bèn nở một nụ cười rực rỡ bằng cả một mùa xuân năm đó.

Cậu ấm quên lượm giày, đứng trân trân mà nhìn những chiếc răng huyền bóng như hạt mãng cầu.

Trời đôi mắt bồ câu sao mà sáng hực trên gương mặt trái soan mà da hồng hồng như cô gái làng Lim thế ?

Bỗng có người đi đến đông đảo, cậu ấm bẽn lẽn quay mặt ra đường. Cậu ta không nhát gái, nhưng cả một nền luân lý Khổng Mạnh mà cậu ta thuộc làu làu kêu lên rằng cử chỉ ấy xấu lắm, nên cậu ta hổ thẹn thật tình.

Cậu ấm do dự vài giây rồi cúi xuống lượm giày, sau lưng cậu, cậu nghe tiếng cười khúc khích.

Suốt buổi chiều hôm đó, cậu ấm như kẻ mất hồn. Cầm chén cơm thì y như gương mặt giai nhân hiện lên trên đó. Tiếng đũa chạm chén, cậu ấm nghe sao mà giống tiếng cười khúc khích phát ra từ hiệu tạp hóa, tiếng cười đáng giận nhưng dễ yêu biết bao ?

Đầu hôm, hễ :

Giở sách ra, lụy sa ướt sách,
Quên câu chữ đầu bài, vì nhớ em.

Giấc mộng hồ ly của pho truyện Liêu Trai mà cậu ấm nằm lòng, lẽo đẽo theo hoài cậu ta suốt đêm đó. "Người con gái ấy có phải là hồ ly không, và nếu phải đi nữa cũng chẳng sợ gì cả, ta lại thiết tha mong nàng là hồ ly, ta sẽ chết vì nàng cũng không ân hận".

Ngày đến với ánh sáng ràng ràng; mộng nên thơ bao nhiêu cũng phải thấp lại, là là mặt đất.

Trên mặt đất, chỉ có trai thật và gái thật. Hễ yêu thì phải đi đến chỗ yêu nhau.

Kể từ ngày đó cậu ấm Hiếu sống giữa Hà - Nội mà chỉ biết có phố hàng Bồ, và đi trên phố hàng Bồ mà chỉ thấy có mỗi ngôi hàng tạp hóa ấy mà thôi.

Cậu ấm ghé hiệu mua hương, mua hương và mua hương mãi. Mỗi lần như thế là cô bé cắn chặt một cọng miến để ngậm cười người con trai mà cô đã thấu rõ nỗi lòng, mua hương mãi không biết để làm gì.

Cả một truyền thống Á Đông còn chảy trong huyết mạch cậu ấm Hiếu nên cậu ta không thể quan niệm một cuộc yêu đương ngoài hôn nhơn được.

Nhưng cái nghiệp đa-tình, dầu sao cũng phải nói một lời gì với người mơ ước, chỉ một lời thôi, chỉ một cái nhìn xa thôi cũng đủ như là một giai đoạn ái ân thầm lén, thú vị biết bao trước khi cậy mai dong đến dạm hỏi.

Cho nên một hôm vào hỏi mua hương, cậu ấm nghẹn ngào nuốt nước bọt đến mấy mươi lần mới hỏi được một câu rất vô duyên :

- Nầy cô em, cô em nghĩ sao nếu tôi cậy mai đến hỏi cô em ?

Cô bé cắn đứt ngon lành cọng miến, lần nầy không phải cắn để ngậm cười, mà cắn vì hoảng hốt trước câu hỏi bất ngờ ấy.

Giây lâu cô đáp :

- Cậu cứ vậy đi rồi hẵng hay !

Ồ thì ra đó là một lời xúi biểu, thì ra, từ lâu cô bé chắc cũng đã cảm tình với mình !

Cậu ấm lòng mở rộng thênh thang để đón cả cuộc đời như đang ùn chạy vào đó.

- Cám ơn em nhé !

Cậu ấm nói thế cố ý quên tiếng cô, rồi vội vã ra về.

Nhưng về nhà, khi thưa với người anh thế phụ việc hôn nhơn đó, người anh suy nghĩ giây lâu rồi thở ra nói :

- Nhà mình nghèo như thế, lấy đâu được song mã mà cưới !

Thật là trời long đất lở. Cái khó chiếm là lòng người. Mà lòng người thì đã về tay cậu ấm chắc chắn rồi. Vậy mà một món khó hơn đây !

Cậu ấm rúc vào buồng, ngã vật lên giường, lòng nát ngướu như tương.

Thấy em bỏ ăn suốt hai ba hôm, ông anh kêu cậu lại, ôn tồn bảo :

- Tiền đồ khoa cử có quan hệ với tình duyên. Chú cứ lo học đi, thi đỗ là việc gì cũng xong cả. Cứ theo lời chú thì cô ấy vốn cũng có cảm tình với chú, thì cố nhiên là cô ta đợi chú, đến mấy năm cũng chả nản lòng.

Không hiểu vận động thế nào mà ông anh đang tu thư ở Hà - Nội lại được bổ về làm giáo thụ ở phủ Vĩnh - Tường. Ý hẳn để cho người em trai xa cô hàng tạp hóa rồi quên cô ta chăng ?

Quên thì không bao giờ cậu ấm quên cả. Sở dĩ cậu vùi đầu học, chỉ để nên danh phận hầu "Võng anh đi trước, võng nàng theo sau" mà thôi.

Ngày chia tay cô bé không nói gì, chỉ cắn cọng miến, cắn để nuốt những tiếng nấc chực vang lên.

Không bao giờ cậu Hiếu quên được đôi mắt huyền long lanh lệ ứa đó cả.

Năm ngoái đây người ta đã đày đức Thành - Thái đi hải ngoại. Nỗi đau đớn của cậu ấm bấy giờ tuy to, nhưng ngẫm không bằng cuộc tự đày cậu lên phủ Vĩnh Tường bây giờ.

Thi hương năm Nhâm Tý 3. Cậu ấm thi hỏng và sáu tháng sau về Hà - Nội.

Công việc đầu tiên của cậu là đến phố hàng Bồ. Phố bây giờ nhà cửa đông đúc hơn xưa, cuộc buôn bán cũng tấp nập thập bội.

Ngôi hàng tạp hóa vẫn y nguyên như cũ với những quả miến, những đống bấc, những bao chè. Nhưng sau mớ hàng tạp nhạp ấy là một bà cụ đầu đã nhuốm sương.

Hỏi ra mới hay là cô nàng tạp hóa năm xưa đã đi lấy chồng.

Trời ơi,

Đời đáng chán hay không đáng chán ?

Cất chén quỳnh riêng hỏi bạn tri âm.

Cậu ấm ngậm ngùi lủi thủi ra đi, lang thang trên các vỉa hè Hà - Nội, nghe như cả vũ trụ đều sụp đổ quanh mình.

Cậu giận cho thói đời đen bạc, phi công danh bất luận vợ chồng. Trong cơn căm tức, thốt ra mấy vần thơ khinh bạc mà trong đó người đàn bà bị mai mĩa nặng lời :

Thối om sọt phẩn nhiều cô gánh,
Tanh ngắt hơi đồng lắm cậu yêu.
Quần tía đùi non anh chiệc vỗ,
Rừng xuân cây quế chú mường leo.

Cậu ấm lùi về một cái ấp ở thôn quê rồi quyết định tịch cốc để từ trần.

Nhưng nhịn ăn mà không chết, lại sầu thêm, vì tinh thần suy quá, cậu ấm lại uống rượu thật say cốt "mượn tửu bôi giải phá thành sầu".

Rượu thấm vào một cơ thể đang đói, gây nhiều phản động hóa học trong đó. Cậu ấm nghe thân mình nhẹ lâng lâng, không biết vui, không biết buồn, tai như thoáng nghe nhạc tiên giữa cảnh bồng lai.

Cậu đâm ra làm thơ, thơ đầy cốt cách thần tiên.

Cửa động,
Đầu non,
Đường lối cũ.
Nghìn năm thơ thẩn bóng trăng chơi

Một hôm có người bạn Hà - Nội lên chơi cho biết rằng cô bé hàng tạp hóa lấy chồng trước năm cậu hỏng thi.

Người khách ấy thêm :

- Bác không nhớ ta đang sống vào thời buổi Tây - Tà. Cái gì cũng nhanh như cắt. Nếu ở cảnh tiên của bác một ngày dài bằng mười năm thì ở Hà - Nôi sáu năm cũng dài được như một thế kỷ. Vào thời xưa thơ mộng của bác, cô gái nào đợi đến một thế kỷ chăng ? Bác quên cái nhịp sống hiện tại rồi trách người ta tội nghiệp, chớ cô ấy quả thật yêu bác lắm đó. Cô đi lấy chồng như Chiêu - Quân bị đưa đi cống hồ.

Sự thật ấy bóp thắt lòng thi sĩ lại (vâng, bây giờ người ta đã gọi cậu là thi sĩ Tản Đà rồi đó).

Thi - sĩ biết buồn trở lại như bất kỳ kẻ phàm tục nào. Đó là một nỗi ngậm ngùi tê tái như nỗi nhớ nhà, nhớ cây da cũ, bến đò xưa, mà con đò đã đâu rồi, con đò nên thương vì nó cũng có công đợi khách cũ nhiều năm, xuất giá vì nhịp sống quay cu62ng của thời đại chớ không vì phụ kẻ hỏng thi.

Ôi,

Kiếp sau xin chớ làm người,
Làm đôi chim nhạn tung trời mà bay,
Tuyệt mù bể nước non mây,
Bụi hồng trông thẳm như ngày chưa xa.

° ° °

- Anh nghĩ thế nào sau câu chuyện nầy ? Thầy bảy nhìn ngay vào mắt người học sinh ở trọ mà hỏi như vậy.

- Tôi thấy cho dẫu thất vọng vì tình, cũng có lợi, như cậu ấm Hiếu được biến thành thi hào Tản - Đà, và bên kia trời Đức - quốc xa xôi, ngày xưa cậu Henri Heine được biến thành thi hào Henri Heine.

- Anh lầm, chỉ có hai người ấy là thành thi hào, mà chắc đâu đã vì tình. Còn ra thì hàng vạn cậu học sinh khác hỏng cả cuộc đời, có cậu còn xằng bậy như cậu Tân-Trụ nữa là khác.

- Vậy thầy bảo bạn trẻ chúng tôi phải khô khan không được yêu đương gì hết hay sao ?

- Không, tới đây anh mới hiểu hai chữ "chơi chơi" của tôi. Các anh nên yêu chơi chơi vậy thôi, đùa nhè nhẹ với tình yêu mà không yêu say ngây như anh vậy. Anh chưa đủ điều kiện cưới vợ, anh yêu thiệt con Chi, tội nghiệp nó. Còn như yêu không được, có phải anh phá hoại tương lai của anh không ?

"Nhịp sống ngày nay còn quay cuồng bằng vạn cái thuở cậu ấm Hiếu thi hỏng. Trên đời nầy không có con Chi nào bền gan đợi cậu được cho đến ngày cậu thôi học, kiếm tiền được để nuôi thân và cưới vợ. À, con Chi nào cũng thề là đợi các anh được đó. Mà những con Chi ấy quả đã thành thật thề như vậy. Nhưng rồi chúng nó sẽ thấy một năm là lâu lắm mà sắc đẹp của chúng thì mong manh quá, dễ phai màu quá, nên chúng nó vội vàng lấy chồng. Cũng chánh đáng chớ ! Nhưng bọn các anh lại dại dột, không hiểu sự chánh đáng đó, rồi đâm ra làm thơ, mà làm thơ dở, chớ không phải hay như Tản - Đà, các anh làm thơ khóc trăng, khóc hoa, rồi hỏng thi, rồi lu bù, chuyện ba-lang-nhang khác, khổ lắm.

- Nhưng yêu chơi chơi làm sao yêu được ?

- Dễ lắm. Tối tối anh đi một vòng với tôi, yêu tất cả cô bé nào gặp anh, yêu một phút thôi, rồi quên ngay đi. Lát sau, anh về, học bài thì mau thuộc như vọng cổ vậy mà.

- Tôi sẽ thí nghiệm. Nhưng...

- Mặc con Chi. Nó không tự tử đâu mà anh lo. Rồi nó sẽ đi lấy chồng đó chớ.

Bông Lúa, 1957
(Tài liệu dựa theo GIẤC MỘNG LỚN
thơ trích KHỐI TÌNH CON của TẢN-ĐÀ)

--------------------------------

1

1907

2

Bún tàu

3

1912

Không trốn nữa

Hai tay chắp sau mông, bác sĩ Hai đếm bước trên gạch, giữa hai hàng sập trong một "phòng chung" của dưỡng đường Chợ Rẫy.

Bác sĩ lớn người, mập và trắng. Hai cánh tay to, nặng những thịt bệu, thò ra khỏi chiếc "bờ lu" ngắn tay, chừng như mỏi vì đặt mãi sau lưng, được đem ra phía trước, khoanh lại trên ngực.

Người bịnh ở phòng thì cứ ăn cơm, coi như là không có bác sĩ nơi đó, vì họ đã quen với sự đi dạo của bác sĩ giờ nầy trong phòng, y như là ngày hôm qua, hôm kia, những hôm trước nữa. Có một người bịnh mới vô, ái ngại, lén nhìn bác sĩ, rồi không thấy ông ta rầy la gì ai, lại an lòng cúi xuống ăn tiếp.

Bác sĩ không có phận sự xem xét bữa ăn của bịnh nhơn, cũng không có tánh tò mò muốn quan sát cảnh thân mật của người nghèo. Trong dưỡng đường Chợ Rẫy có tục lệ thăm bịnh sớm lắm - sớm đến nỗi muốn cho "đâu đó xong xuôi đàng hoàng" những người quét dọn, mới năm giờ sáng đã lôi tốc người bịnh dậy để vén mùng, lau gạch, đổ ống phóng và những "thầy khán hộ học trò" mới năm giờ rưỡi sáng đã lo đi lấy nhiệt độ, gây nên sự chộn rộn, phá giấc ngủ đang ngon của người bịnh mới lành hay của người bịnh nặng trằn trọc suốt đêm, mới chợp mắt được một đôi giờ - Vì vậy bác sĩ được rảnh rất lâu trước giờ tan buổi làm, và không biết làm gì trong lòng giấy, nên vào phòng bịnh giữa những bữa ăn - cũng lại rất sớm, dầu người bịnh chưa nghe đói - để cho người giúp việc "xong mọi việc" trước khi hết giờ làm.

Bác sĩ không thích đọc sách, cũng không có một đời sống bên trong phong phú. Ông tìm đến chỗ đông người đặng trốn sự trống rỗng và, không cần nói chuyện với họ, hay nhìn họ, nghe tiếng chén đũa khua, nghe họ râm ri là đủ cho bác sĩ thấy đỡ chán hơn là ở nơi văn phòng tịch mịch của ông.

Người bịnh thì ăn cơm ngay trên sập của mình. Phần đông ăn riêng. Có vài người chung đậu đồ ăn lại. Đó là những người thảo ăn cứ mời mọc nhau mãi như là đãi khách. Có người đem phần ăn lại ngồi chung một sập với người khác, mà vẫn ăn riêng. Đó là những người "thống nhất mà phân trị" vậy.

Không hiểu sao hôm đó bác sĩ lại dừng bước trước sạp của hai người "phân trị". Có phải chăng vì hai chiếc áo màu dà của hai anh "cu li cao su" nầy đã buông một tiếng đàn lạc điệu vào bản nhạc y phục đen tối của phòng thi nầy? Không biết. Nhưng một cảnh tượng khiến bác sĩ không tiến bước được nữa.

Một anh "cu li" thừa lúc bạn đồng sàn ngó lơ, gắp bớt giá xào tóp mỡ của bạn bỏ vào dĩa mình. Nửa phút sau đó, nạn nhơn thấy bạn nhìn bác sĩ, cũng lại gắp giá xào tóp mỡ của bạn, rồi chôn dưới cơm. Người sau nầy có lẽ cũng tham ăn, chớ không phải trả miếng - nói cho đúng là lấy lại miếng - vì anh ta thật không hay hành vi của bạn hồi nãy.

Bác sĩ bật cười. Bịnh nhơn ngơ ngác buông đũa nhìn. Bác sĩ nhớ lại một chuyện đời xưa nói anh em nhà kia đêm đến lén lén ra đồng vác lúa cho nhau.

Bác sĩ ngạc nhiên không hiểu sao người mình tham ăn đến thế và tham ăn cả những món không ngon đến thế. Ông nhớ lại ở làng, hễ nhà ai có động dao, động thớt là tức thì có người bu đến, cà rà, tìm công việc để làm, nói là giúp, nhưng thâm tâm họ quyết chờ những miếng thịt của con heo người ta đang thọc huyết bên hè.

Bác sĩ trề môi, khinh bỉ hai người bịnh, hay bọn nhà quê mà bác sĩ nhớ đến? Rồi không suy nghĩ thêm nữa cho niệt trí, bác sĩ lại đếm bước trên gạch.

Câu chuyện trên đây đã xảy ra mười lăm năm nay rồi. Nhưng cũng cần nhắc lại.

° ° °

Bác sĩ đương ở nơi đâu, tại nhà ai, nhà ra sao, ông không rõ. Ông chỉ biết mình đang đứng trước chảo cơn chiên. Ông vừa với tay lấy chén để xúc cơm thì một thằng nào đâu không biết, xờn xợt chạy đến đá đổ chảo cơm. Sự tức giậu toan bùng ra bằng ít lắm là một cái bạt tai thì bác sĩ giựt mình thức dậy.

Bác sĩ còn đang tiếc bữa ăn hụt, mặc dầu biết rằng đó chỉ là bữa ăn trong mơ, thì bỗng nghe vang dậy tiếng chào cờ đằng trụ sở bên cạnh nhà ông ở đậu:

... Non sông ơi, cờ theo gió bay càng cao...

Cùng với nắng sớm, tiếng hát reo tươi trên lá xanh, khiến bác sĩ nghe thèn thẹn, nhận thấy tật ngủ trễ của mình có cái gì chọi với đám người trẻ không yên kia, đã dậy cùng với mặt trời. Nhưng đó chỉ là một ý nghĩ lẩn lút thôi. Vụ hụt ăn lại trở về ám ảnh bác sĩ. Ông nhớ thuở nhỏ thường chiêm bao thấy ăn kẹo, bánh trái. Nhưng không lần nào được ăn thiệt. Luôn luôn có một thằng, một con gì, hay lột tiếng động đến rất đúng cái giây phút sắp đưa đồ ăn vào miệng như là có ai quyết tâm cản trở ông ăn trong mơ.

Mấy bà cụ quả quyết rằng "ai" đó là ông thần hộ mạng của mỗi người. Quỷ sứ nó dụ mình ăn. Ăn là chịu theo nó. Bác sĩ bực tức cằn nhằn thầm:

- Mà ai cần hộ mạng chớ. Chết bỏ, miễn là được ăn thôi. Ăn giả, phải. Nhưng cần gì giả hay thiệt. Mình có đói đâu mà cần no. Mình chỉ thèm và cần thỏa cái thèm.

Phải bác sĩ thèm, thèm thịt, hay ít ra cũng món gì chiên xào bằng mỡ, hay tệ lắm là mỡ nước chan cơm ăn, chắc cũng ngon trong lúc thèm nầy.

Một tháng nay, bác sĩ nghe lời "mấy đứa nhỏ" con ông, tản cư vào vùng quê. Trong buổi hỗn độn ban đầu, việc tiếp tế lương thực cho dân chúng thật là bết lết. Ai có cái gì cũng muốn giấu để ăn, vì không biết thời cuộc kéo dài đến bao giờ. Và không ai dám đi đâu để mua cái gì về bán hết.

Sau một bữa ăn kia, trong tuần lễ đầu đi tản cư, bác sĩ nghe thiêu thiếu cái gì. À, một món tráng miệng. Ban đầu ông tính dẹp cái thói quen phiền phức ở thành ấy lại (vì ông cũng biết tự thích nghi với tình thế chớ không quá câu nệ lắm). Nhưng nỗi nhớ mọi người "la sét" lần lần biến thành sự thèm cái gì ngọt, cục đường thẻ cũng được, thứ đường đỏ sẫm lộn rác và bụi mà trước kia không bao giờ ông mó đến. Cái thèm gào hăng quá, bác sĩ thấy nó là sự đòi hỏi về sanh lý hơn là sự nhắc nhở của thói quen. Bác sĩ lẩn thẩn tưởng tượng những biến thể, những trao đổi, những điều hòa bí mật của sanh lý trong các bộ máy của thân ông; ông cử động, máy phải quay; ông muốn quay, nó cần phải có chất đốt; chất đốt đó là đường. Rồi ông đâm hoảng. Sau những suy tính của một nhà khoa học, sự thèm ngọt đã biến thành nỗi lo âu về thiếu chất cần cho cơ thể. Và con người rất thương thân thể của mình nầy bươn bả đi kiếm đường.

Lạ, sao cái món ăn rất thường ấy ở nhà, giờ nào cũng có, tiệm nào cũng bán. Thường quá rồi, có khi người ta quên rằng có nó trong đời nầy. Và không ai gọi nó là món ăn bao giờ. Còn bây giờ ở đây sao lục lạo mãi không ra. Giá nào ông cũng dám mua kia mà. Bác sĩ Hai tính lầm thầm:

- Nếu mua được thứ bánh ít (ích) bột khoai báng, lền xơ khoai, mình cũng sướng chán.

Rồi ông đâm tiếc những trái chuối nẫu (thúi, nát) ruột mà trước kia ông chê. "Chuối? ờ, cái gì cũng được. Miễn ngọt thì thôi chớ. Người ta đồn bên xóm Bà Miệng, mía nhiều, mình qua đó thử coi".

Bác sĩ Hai đạp rạp rạ khô, đi dưới nắng tháng chạp. Gió đồng dán vào lưng ông vạt sau của chiếc áo bà ba vải đen mà ông phải mặc như những người khác. Vải gặp mồ hôi dính sát vào da. Trong ánh nắng rung rinh, hơi trên lớp vải bốc lên nghi ngút. Bác sĩ bây giờ tóc đã hoa râm, bụng lớn lên và phệ ra. Ông rất phiền phải lặn lội cực khổ vì một món không ra gì. Rồi ông oán "sấp nhỏ" đã xui dại ông. Nào ông có tính tản cư làm chi cho khổ thân. Nhưng "sấp nhỏ" nó cứ nhát: "Tụi con, ba đứa đều làm việc hết. Ba không đi nó sẽ bắn Ba, bỏ tù Ba". Thế là ông hoảng, gởi bà và đứa con nhỏ về Sàigòn, còn mình thì chạy đến làng nầy, và bây giờ phải khổ đủ thứ !

Khi bác sĩ đi ngang qua nhà kia, ông nghe tiếng một người trai trẻ hỏi lớn:

- Mầy làm gì mà hè lụi trong buồng vậy a Lịch?

- Tao làm "công tác đào đường".

- Thằng nói lạ, đào đường gì mà đào trong buồng?

Lạ thật, bác sĩ đứng lại chờ nghe tiếp. Một phút sau nghe tiếng người trai trẻ hồi nãy rùm lên:

- Tụi bây ơi, vô mà coi. Nó đào đường thiệt chớ. Mà đều thứ đường khạp làm ở Biên Hòa.

Bác sĩ quên lễ độ, cười lớn lên với những người trai trẻ trong nhà. Nhờ trận cười ấy mà bác sĩ làm quen được với họ và khỏi phải đi xa. Và từ đó biết chỗ mua đường.

"Ai mà cần ai hộ mạng chớ", bác sĩ tức tối cằn nhằn với mình; bác sĩ đã bị thịt, bị mỡ ám ảnh. Từ ngày bị cướp ở làng bên cạnh, bác sĩ hết tiền, trôi dạt qua đây, nhờ một người bà con cho mượn chút ít, bác sĩ phải ăn hà tiện cho đỡ tốn. Không đến đỗi chết đói, nhưng cũng không no lắm. Nhứt là mấy ngày sau đây số tiền đã cạn mà người bà con lại bị Tây bắt mất. Không biết ai đó ở đâu, và hồi nào vì sự tình cờ hay nhờ tìm tòi, mà đã phát minh ra rằng ăn cơn với mắm ruốc cùng đường ngon tuyệt. Rồi như một dây thuốc pháo bị cháy lan, nghệ thuật ăn của phái "mắm ruốc đương" được phổ cập khắp các làng. Vả không hoan nghinh mắm ruốc cũng không có gì khác mà ăn, vì người nào cũng hết tiền, còn thịt heo thì mắc như vàng.

Một và cơm, một quệt mắm, một miếng đường tán nhỏ, cái thành phần kỳ dị của những miếng ăn ấy đối với bác sĩ chỉ "ngon tuyệt" bữa đầu thôi. Mấy bữa sau ông nghe xót ruột như đã uống át-pi-rin không ngâm tan trong nước. Ông thề nguyền khi trở về, không bao giờ dám chê ngán những đĩa ra-gu, những miếng sườn ram nữa.

Bác sĩ triết lý:

- Thèm ngọt không nằm chiêm bao. Thèm thịt thì nằm. Vậy cơ thể đòi thịt hơn là đòi đường.

Ông nhớ lại cái chết tội nghiệp trong nhà thương của những người bịnh thương hàn mới khỏi. Nhiều người rất biết nỗi nguy nếu ăn khi mới vừa khỏi, nhưng vẫn ăn bừa chỉ vì thèm, đói quá. Ăn rồi lăn đùng ra khóc không phải vì đau đớn, mà vì hối hận, hoảng sợ cái chết đến nơi trong vài giờ.

"Thịt kho tàu, khổ qua hầm, cũng ngon chớ - không hiểu vì một ý bắc cầu nào mà bác sĩ nhảy từ người bịnh thương hàn chết oan đến vụ thịt kho - mà sao cho bằng "cay xôi cấy", "hà khàu", "phù dùn hại". Cá hấp tương với đồ Tàu cũng ngon. Nữa mình về, mình sẽ đi ăn hai ngày đồ Tây, hai ngày đồ Tàu, ba bốn ngày mì chả giò, hủ tiếu xào, xíu mại, bánh bao".

Bác sĩ thở dài, rầu lòng nhớ lại ý muốn trốn về thành mà không được của ông. Chung quanh ông toàn là thanh niên vác tầm vông canh gác. Một con chó cũng không lọt qua. Còn cái làng gì ở biên giới thành ấy, nghe họ nói gác dày mịch như màn sắt mà ghê. "Nghĩ mà tiếc của cải mấy mươi năm gây dựng, không biết nữa còn chút ít gì không. Còn ba đứa lớn, thằng Minh, thằng Công, con Hà, chúng nó sẽ học dở dang, thua sút đám con ông huyện Cần".

Bỗng bác sĩ Hai ngồi tốc dậy sần sượng với ai:

- Mà ai cầu ai hộ mạng chớ) ?

° ° °

Bác sĩ lững thững lại tiệm cà phê. Tiệm cà phê đây là một chòi tranh mà chủ nhà, một dân quê có óc con buôn nhìn thấy bao nhiêu người lạ mặt tựu về, người nào cũng ghiền cà phê, bèn chụp ngay cơ hội tốt, mở tiệm. Mặc dầu vợt làm bằng vải áo cũ, và cà phê có mùi cơm cháy, khách vẫn đông, nhứt là những ông đằng đình, cái đình làng dùng làm trụ sở.

- Bà chiên gì mà thơm dữ vậy? Bác sĩ hỏi chủ quán.

- Tôi ram thịt để bán.

- Thịt ram ăn với gì?

- Cuốn bánh tráng.

- Trời! sớm mai, ai mà ăn bánh tráng cuốn thịt ram.

Nói vậy nhưng bác sĩ vẫn hỉnh mũi hít mùi thịt chiên. Ông cố hít nhẹ cho bà chủ quán không nghe thấy và hít dài để tận hưởng.

Bác sĩ mò tay vào túi, rồi nét mặt ông xịu xuống, không phải vì thất vọng, mà vì rầu. Ông men lại chảo thịt chiên. Đây là một mớ thịt phay, mỡ chiếm tám phần mười trong mỗi lát thịt. Thịt đã ram vàng, mỡ thịt thắng ra lênh láng.

- Tôi nghe như là thịt hôi, phải không bà?

- Hôi gì mà hôi. Thịt chiều hôm qua đó.

- Tức quá! Tôi thử coi.

Nói đoạn bác sĩ lấy đũa gắp một miếng, đưa lên mũi. Ông làm bộ như chưa đánh hơi ra mùi thật của nó, thổi sơ vào miếng thịt rồi cắn một miếng.

- Phải thịt tươi. Tôi chịu thua bà - Miệng nói răng nhăn miếng mỡ nhỏ xíu vừa mưu mẹo cắn được.

- Cho một tách cà phê bà.

Mùi thịt ram mơn trớn mũi ông Hai, chọc những hạch nước miếng hai bên hàm dưới ông. Và ông lắng nghe nơi bao tử, một thứ nước gì tiết ra.

- Hay là mình ăn chịu? Không được. Họ không tín đám người lạ mặt cứ lưu động mãi nầy. Không lẽ ăn bừa rồi tới đâu sẽ hay. Chậc! Cũng không còn cái đồng hồ để cầm đỡ. Bây giờ làm thế nào ăn được món thịt ram cuốn bánh tráng? Thật là cả một bài toán đố khó giải lý.

Chợt có người bước vào, bác sĩ Hai rất mừng khi nhận thấy người còn trẻ ấy là người quen cũ ở thành.

- Anh giúp ban tuyên truyền?

- Thưa phải. Hổm nay hai anh Minh, Công và chị Hà có về thăm bác không?

- Sấp nhỏ nó đi đâu mất, tôi lo quá.

Dạ thưa còn bác có giúp đâu chưa?

- Ôi tôi già rồi...

Người con trai tên là Tương nầy kêu bánh tráng cuốn thịt ram.

- Dạ thưa bác, món nầy, hồi ở nhà có mấy thuở mình ăn, nhứt là sớm mai. Mà sao giờ ăn ngon lạ.

Bác sĩ Hai mỉm cười một cách cố thản nhiên. Ông theo dõi từng cử chỉ của Tương. Hai hàm răng bén của người trẻ cắn đứt ngon cuốn thịt, đôi môi khép lại, che giấu cái bã đồ ăn đang nhai.

- Cháu vô phép quá. Xin lỗi, bác đã điểm tâm rồi?

Bác sĩ còn một chỗ nước miếng trong họng, vội nuốt để trả lời. Nhưng bác sĩ giựt mình e thẹn nghe tiếng nuốt nước miếng của mình lớn quá. Lại mớ nước miếng nữa dồn đến. Nuốt đánh ực nữa thì sợ Tương nó nghe biết, nó cười thầm. Còn để vậy thì nghẹt họng, đừng nói chi trả lời, nội cái việc thở mà còn không thông, bác sĩ bưng tách cà phê lên, làm bộ uống nốt những giọt đã cạn tử hồi nào, nuốt trôi được mớ nước miếng và rất bằng lòng thấy sao mình lanh trí được như vậy.

Thấy rằng nếu làm bộ chê món thịt cuốn thì thất sách, bác sĩ ấp úng:

- Tôi vừa ăn xong cũng món độc nhứt đó.

Nhưng bác sĩ hối bận ngay. Ờ, mình đã ăn rồi thì còn ma nào nó mời nữa.

Tương không mắc cỡ miệng, mặc dầu bác sĩ nhìn anh trừng trừng. Sau những cái nuốt, anh thè lưỡi biếm môi mỡ và đánh lưỡi một cái "chách" lên đốc giọng. Bỗng một miếng mỡ rơi xuống đất. Bác sĩ nhìn theo vừa tiếc hùi hụi thì một con chó vện chực sẵn đâu dưới ấy hồi nào không biết, táp phập ngay lấy.

Nhìn sự chụp giựt của con chó đói nhà quê, nhìn lại mình, một niềm tủi nhục mênh mông bỗng dâng trào lên, vặn thắt trái tim không bao giờ biết thổn thức của bác sĩ lại.

Bác sĩ cúi gầm mặt xuống chiếc bàn cũ. Trong giây phút những hình ảnh xưa ở đâu hiện về, chớp nhoáng; hai người bịnh nghèo ăn cắp giá xào lẫn nhau, mười lăm năm về trước, những người nhà quê bu quanh một cái hòm, ăn nhậu; những miếng thịt heo đút lò cả chồng mỡ, trong đình làng...
Bị kích thích mạnh, óc bác sĩ Hai làm việc chóng và nhiều hơn bao giờ hết.
- Tại sao họ tham ăn, tại sao mình thèm ăn quá như vậy?
Câu trả lời đến ngay trong trí bác sĩ.
Sự thật nảy ra như tia lửa trong một buổi sáng thèm thịt làm ông ta lảo đảo. Ông nghe cả một sự sụp đổ trong người ông. Sự sụp đổ của nhơn sinh quan sẵn có của ông.
Sự thật đầu tiên, đến tóc bạc hoa râm ông mới tìm thấy.
Rồi ba chơn, bốn cẳng, ông chạy ù về nhà, miệng lẩm bẩm:
- Thôi không thèm trốn về nữa. Mình phải đi xin một việc làm mới được. Phải mà, người mình không tham ăn sao được!.
Bình Nguyên Lộc
Nguồn: binhnguyenloc.com
Theo https://vietmessenger.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Bùi Việt Phương và những vần thơ lạ từ miền núi Bùi Việt Phương thuộc thế hệ 8X. Phương sinh ra và lớn lên ở miền núi, học xong khoa Ngữ...