Thứ Bảy, 30 tháng 9, 2023

Ái ân thâu ngắn cho dài tiếc thương 2

Ái ân thâu ngắn cho dài tiếc thương 2

Con người ấy không tha thiết đến tình yêu cho lắm mà chỉ nghĩ tới việc học và sự nghiệp thôi. Bấy giờ đã xong việc chuẩn bị sự nghiệp, y mới dám làm quen với gái.
Nhưng cũng không phải để hưởng một thời yêu đương thơ mộng, mà để dọ biết trực tiếp người con gái ấy, và xin cưới nàng ngay, tháng sau đó, khi mà hắn đã tìm được công ăn việc làm vững chắc.
Thật là cẩn thận, mực thước, đúng y như những phương trình toán học và vật-lý-học, không sai chạy một ly nào cả.
Thu bị bắt chợt thình lình trong đời con gái đang mơ vị hoàng tử đẹp trai, nhưng xét ra hắn rất xứng đáng nên khi cha mẹ hỏi ý, nàng bằng lòng với một chút ngậm ngùi.
Nàng tiếc thương người con gái thơ chưa kịp yêu lần nào trên đời, nàng tiếc thương tuổi mơ mộng chưa sống qua một giấc mơ kỳ thú nào.
«Nhưng mà thôi – nàng nghĩ – rồi ta sẽ yêu chàng, vì chàng cũng đáng yêu lắm, nào có mất mát đi đâu».
Con người mực thước ấy làm một anh chồng rất mực thước, đi, về, không sớm, cũng chẳng trễ phút nào, chuyện trò và đối xử với vợ đúng y theo phép xử thế. Chàng rất ít thì giờ, vì ngoài giờ làm việc chàng bận nghiên cứu để thi tiến sĩ, mong lên làm giáo sư đại học.
Thu nghe cô đơn hơn cả hồi còn là trinh nữ sống một mình. Nhưng người chồng nầy học rộng, thông minh, dễ tính, nhất là tốt bụng, nàng còn trách vào đâu được.
Ngắm chồng, Thu đoán quyển sách chàng đang đọc chắc chắn là quyển «Cơ-học ba-động», một quyển đại luận căn bản của nhà bác học Pnáp đương thời, De Broglie, rất cần cho môn hạch-lý trong ngành nguyên-tử-năng mà chàng đang nghiên cứu mấy tháng nay.
– Anh à – nàng gọi khẽ – anh đi ngủ kẻo mệt.
– Ừ...
Đó là một người khác đã trả lời Thu, còn nhà bác học tập sự thì cứ mê man tiếp tục đọc. Con người thứ nhì ấy đáp tiếng gọi của bạn, nhưng không khiến con người thứ nhứt xếp sách lại.
– Anh à, đêm nay trăng sáng quá, phải chi ta đi một vòng...
– Ừ...
– Còn như không đi, thì anh nên nghỉ chớ...
Thu nghẹn ngào, rồi không cầm giữ được nữa. nàng nức lên khóc. Đêm nay nàng muốn yêu chồng, yêu cho thật nhiều, để mà chuộc cái tội đã thầm kín nghĩ đến người khác, cái người biết ngắm mặt trăng với con mắt thường nhân, thấy ánh sáng của nó rất đẹp rất thơ, cái người biết ngắm... nàng, biết thấy đôi mắt nàng là cả một bầu trời ánh sáng.
Chồng nàng vẫn biết như vậy, nhưng chàng chỉ biết có một lần thôi, lần tái ngộ trước trường đại học hôm chàng thi đỗ cử nhân, rồi yên lòng trong một địa vị kiên cố của một người chồng vững quyền sở hữu chủ, rồi say men khoa học, chàng đã không thấy gì nữa cả.
Nàng muốn yêu chồng thật nhiều để chuộc tội, mà cũng để cho tình yêu mãnh liệt đang sôi nổi trong người một thiếu phụ mà từ thủa con gái đến giờ không thỏa tình yêu bao giờ, dễ cho sinh lực yêu đương ấy vơi bớt đi phần nào vì đó là một thứ lửa nguy hiểm có thể đốt cháy lan cả một đời tiết hạnh.
Con người thứ nhì nơi anh chàng mê sách chập chờn nửa say nửa tỉnh bỗng nghe tiếng nức nở bên giường. Hắn lắng tai để cho chắc ý không lầm rồi hoảng hốt, hắn sống trở lại hoàn toàn đời sống của một thường nhân.
Hòa đứng dậy vứt vội quyển sách nặng lên ghế bành, rồi nhảy một cái là đến bên vợ.
– Em, em, làm sao đó em?
Thu đã day mặt vào vách, muốn giận lẩy, nằm luôn như vậy, nhưng lại rất muốn yêu chồng, nên nhượng bộ, trở mình qua khi Hòa vịn vai nàng, vừa hỏi vừa kéo nhẹ qua phía bên chàng.
– Em sao vậy ? Nghe khó chịu hơn hồi trưa à?
Thu úp mặt vào ngực Hòa rồi càng nức nở hơn. Nàng khóc mùi mẫn trong khi Hòa xoa tay lên tóc nàng và cúi mặt xuống hôn lên đó.
– Tội nghiệp em tôi...em tôi mệt!
Hòa nói bằng giọng nhõng nhẽo mà Thu đã dùng để nói những khi cưng bé Lau-Chi nhiều quá. Đôi bạn nằm nghiêng. Hòa ôm đầu vợ, lắng nghe cái mùi riêng rất quen thuộc của người bạn đầu ấp, tay gối rồi hối hận quá đã thường xuyên thờ ơ với người đẹp mà ba năm về trước đã «bỏ bùa» cho chàng khi chàng thấy mặt lần đầu.
Bấy giờ Thu chỉ còn tấm tức, tấm tưởi thôi.
– Em, em nghe trong người thế nào ?
– Em nghe buồn lắm.
– Chỉ có vậy à ? Mà cũng khóc, y như là Lan-Chi. Làm anh hết cả hồn vía.
Chàng hôn vào má vợ và nói :
– Nhỏ em dữ không !
Thu đang gối đầu lên tay chồng, bỏ cánh tay ấy, trườn mình lên để nằm gối. Nàng hôn đáp lại Hòa, hôn chàng lần đầu tiên trong đời vợ chồng của hai người, mà hôn mạnh quá, khiến Hòa hơi ngạc nhiên.
– Em muốn được anh cưng như em cưng Lan-Chi.
– Ừ, thì anh cưng em chớ sao.
– Anh như là quên có em trong nhà nầy. Em tự hỏi không biết anh có yêu em hay không ?
– Không yêu em mà lại cưới em.
– Anh cưới em để em đẻ con cho anh, để coi nhà cho anh.
– Nếu chỉ cần một người như vậy, sao anh lại không cưới người khác.
– Vì anh không có thì giờ chọn lựa. Anh gặp em, xem em cũng dễ coi, cưới em cho xong.
Hòa cười hề hề mà rằng :
– Bậy nà. Anh yêu em lắm chớ.
– Anh không bao giờ đưa em đi hóng mát, đi xem chiếu bóng.
– Tại anh không có thì giờ.
– Em với sách, ai hơn ?
– Em hơn, anh học cũng chỉ vì em thôi. Anh đã cho em biết rằng các đại học ta thiếu giáo sư. Anh mà đậu Tiến-sĩ thì có thể được mời dạy Đại học ngay không như ở các nước, phải đợi có thành tích khoa học mười mấy năm trời mới giành được một chiếc ghế. Dạy Đại học, lương anh sẽ cao, và em với lại Lan-Chi sẽ sung sướng. Em đáng được đi trên một chiếc xe hơi đẹp.
– Chớ không phải vì anh mà anh học. Anh đã tìm thấy nhiều sung sướng trong sự học, trong sự tìm tòi và mỗi lần khám phá ra được điều gì, anh như bay bổng lên cung trăng.
– Cũng có như vậy phần nào. Nhưng anh yêu em mà !
Thu lại hôn bạn. Nàng đảo lộn vai tuồng, ôm chồng thật chặt và Hòa cũng siết vợ trong hai cánh tay cứng rắn của chàng.
Bỗng nàng lại òa lên khóc. Đây là những giọt lệ hận cho số kiếp. Nàng rất muốn yêu chồng, trọn tiết với chồng chớ không phải là một kẻ lãng mạn mà mơ những phiêu lưu tình ái ngoài vòng đạo đức.
Cái hạnh phúc ấy, nào có khó khăn gì để mà tìm kiếm đâu, như giây phút nầy chẳng hạn. Nhưng nàng lại không được hưởng. Tại sao chồng nàng lại không chịu hiểu rằng con người cần yêu đương !
Hòa ngỡ vợ chưa vừa lòng nên càng siết chặt nàng hơn trong tay và nói:
– Anh yêu cưng mà cưng ơi, anh yêu cưng y như hồi đó, còn yêu hơn hồi đó nữa là khác, vì em đã đẻ cho anh con Lan-Chi rất là dễ... cưng.
Giữa bữa cơm trưa hôm sau, thình lình Hòa long trọng tuyên bố :
– Tối nay mình đi xi-nê, em nhé.
Trong khi Thu kinh ngạc trố mắt nhìn chồng thì Lan-Chi reo lên :
– Sướng a. Ba cho Lan-Chi đi với nha ba !
– Trẻ con không được coi xuất tối. Với lại Lan-Chi biết gì mà đòi xem.
– Lan-Chi biết chớ, ba ơi.
– Lan-Chi biết cái gì ?
– Lan-Chi biết xe tắc-xi chạy cái vù.
Thu hơi sợ sự thay đổi đột ngột nầy, nàng biết chắc rằng đó chỉ là một cử chỉ đẹp của người vừa tỉnh ngộ thôi, chớ không có gì mờ ám ẩn sau đó, nhưng nàng cứ sợ. Nàng hơi dị đoan, chưa quên những chuyện huyền hoặc mà các cụ thường kể. Một đôi vợ chồng kia ăn ở với nhau rất lạnh nhạt trong mười năm, bỗng một hôm anh chồng chợt tỉnh, nồng nàn thương yêu vợ, thì đùng một cái chị vợ nhuốm bạo bịnh rồi chết, bỏ lại một đám con thơ. Các cụ cho rằng sự thương yêu trễ muộn như vậy luôn luôn là dấu hiệu báo trước cái chết của người đàn bà bị thất sủng, kẻ khuất mặt xui khiến cho người đàn ông hồi tâm vài ngày, cho người bạn trăm năm của họ đỡ ngậm hờn nơi chín suối.
– Em không thích à? – Hoà thấy vợ không vui mừng lên như chàng đã trông đợi nên hỏi như vậy.
Thu cười nói :
– Sao lại không. Nhưng sao bỗng anh lại có yên-sĩ-phi-lý-thuần như thế ?
Hòa ngơ ngác hỏi :
– Yên-sĩ-phi-lý-thuần là gì?
Thu cười dòn :
– Anh thấy không, nếu anh biết chuyện khác, những chuyện không phải là «ba động», là nguyên-tử-năng thì anh đã vui cười ít nhứt là một phút đồng hồ, khi nghe câu hỏi của em. Một phút đồng hồ thì quá ít oi thật đó, nhưng nhiều phút vui như vậy, nhập lại, đời anh sẽ tươi biết bao nhiêu.
– Em nói rất có lý. Vậy yên-sĩ-phi-lý-thuần là gì ?
– Người Tàu họ không có danh-từ «cảm hứng» như ta, nên họ mượn danh từ chung của Âu-châu : Pháp, Anh, vân vân và họ làm ra chữ của họ, theo giọng của người Anh. Họ đọc là Inh-si-pi-ra-sơn (inspiration).
Các nhà nho ta, đã có sẵn danh-từ «cảm hứng» lại không chịu dùng, đi mượn cái danh từ phiên âm của Tàu mà viết vào văn là « Yên-sĩ-phi-lý-thuần » khiến chẳng ma nào hiểu gì cả.
Vậy danh từ dài nhằng ấy có nghĩa là « hứng » và nói ra để mà đùa các nhà nho gàn.
Hòa cười xòa và tự chế giễu mình :
– Anh cũng là một gã gàn, nhưng không phải nho gàn mà là khoa-học gàn.

Hòa chuẩn bị trận xuất chinh nầy rất khoa học và rất tỷ-mỷ. Hồi sáng, chàng đã dặn vợ chỉ nên mua ăn một bữa thôi, Thu không hiểu vì sao mà làm như vậy, nhưng không hỏi. Giờ nàng mới biết rằng sự hạn chế ấy nằm trong một chương trình vĩ đại bao trùm một tương lai rất gần là buổi chiều nay. Chiều nay hai vợ chồng sẽ đi hóng mát, ăn cơm ở ngoài rồi đi xem chiếu bóng.
Đúng sáu giờ hăm bảy phút rưỡi chàng sẽ về tới nhà, y như một ngàn chín mươi lăm buổi chiều đã qua. Thu phải trang điểm cho xong đâu đó cả, phải gởi con cho người bà con ở gần đó. Chàng nhận còi xe xì-cút-tơ ngoài cổng, nàng nghe thì ra khỏi nhà, khóa cửa lại (các cửa sổ phải đóng trước phút đó) rồi ra xe với chàng.
Họ sẽ theo đường thiên lý, lên tới quán Cây Dương, dưới Thủ Đức ba cây số rồi trở về Saigon tìm hiệu ăn cơm tối.
Bữa cơm phải kéo dài đến tám giờ bốn mươi phút, để đi xi-nê liền, không có khoảng thời gian nào trống không giữa bữa ăn và buổi xem hát cả.
Thật là tính toán từng giây, từng phút, chu-đáo như thiết lập trận đồ, và Thu biết chồng nàng rất không ưa ai làm cho bộ máy đồng hồ của hắn chạy sai đi một ly nhỏ.
Hắn bị méo mó nghề nghiệp bởi quá quen thân với môn vi-tích phân-học, với sự tổ chức nghiên cứu của hắn.
Nhưng lần nầy thì bộ máy bị trục trặc một chút. Thu vui mừng quá nên trang điểm hơi nhiều, thành ra phải trễ. Hòa phóng xe tới nhà đúng y vào lúc hẹn, tức là sáu giờ hăm bẩy phút rưỡi, mà vợ chàng chưa đánh phấn xong, bởi bận o-bế mãi mái tóc.
Hòa nhận còi một hai, tiếng còi diễn đúng sự sốt ruột của chàng, rồi thở ra nhẫn nại, chàng đi vào nhà, vừa đi vừa lẩm bẩm : « Hột cát trong chiếc máy đồng hồ ! Hỏng cả ! »
Bỗng một ý nghĩ làm chàng bật cười. Ý nghĩ đó là câu hỏi tự nhiên bật ra trong trí chàng . « Hỏng cái gì mới được chớ ? Ừ, hỏng cái gì ? »
Thấy mình vô lý quá, nhà bác học tập sự ấy cười khan lên lúc bước qua ngưỡng cửa, khiến Thu đang lo, cũng an dạ được ngay.
– Lan-Chi có khóc đòi theo không em ?
– Sao không. Nó làm giặc lên, em phải dỗ lắm, dì cũng dụ dữ nó mới chịu yên cho. Nhưng sao lại không cho nó đi.
– Chiếu bóng xuất tối hình như là cấm trẻ con mà ?
– Phải, nhưng không xem chiếu bóng cũng được.
– Chinh em muốn đi xi-nê kia mà.
– Không, đi với anh là đủ lắm rồi, đi mãi ngoài phố, trên đường cũng vui. Nó cũng ít được dịp đi với anh, nên nó thèm là phải.
– Bậy quá, phải dè vậy ta đem nó theo.
– Thì bây giờ anh cứ qua bên ấy mà rước con.
– Không được. Chương trình sẽ sai cả.
Thu bật cười. Phải, chương trình sẽ sai. Nhưng nó sai thì đã sao chớ ! Rõ là con người gàn.
Hòa cũng chợt thấy mình gàn, nên tìm lý do để khỏi phải sửa đổi những gì chàng đã sắp đặt.
– Vả lại anh cũng muốn đi với một mình em thôi, để nhớ lại hồi anh mới cưới em. Không có Lan-Chi đi theo, ta mới sống lại được trọn vẹn cái không khí năm nào.
Thu đang mặc áo, dừng tay lại ngay. Nàng bồi hồi tưởng nhớ đến những ngày vui ngắn ngủi của tuần trăng mật. Thật là tuần trăng, đúng y theo nghĩa đen của danh từ «tuần». Họ chỉ vui có mười ngày thôi, rồi Hòa vùi đầu trong sách vở cho đến ngày nay.
Đừng tưởng xa lộ đã cướp hết khách nhàn du của con đường thiên lý. Trái lại những cặp uyên ương thật tình yêu thiên nhiên, thật tình muốn hạnh phúc ngắn ngủi của họ được bảo vệ đối với mắt kẻ tò mò, càng trung thành với con đường thiên lý hơn bao giờ cả, bởi nó đã trở nên vắng vẻ gần như một tỉnh lộ, và nhờ có cảnh thay đổi ở hai bên đường.
Đôi bạn qua mặt nhiều cặp đi xe yếu hơn, và bị nhiều cặp đi xe hơi qua mặt. Thu có dịp so sánh để nhận xét thấy rằng Hòa và nàng không thua kém ai cả, họ trẻ đẹp, dồi dào sức khỏe, và nhứt là xứng lứa vừa đôi như là trời đã sanh họ ra để kết bạn trăm năm với nhau vậy.
Chỉ phiền là bên trong, họ lại khác nhau về tính chất, về tâm hồn.
«Không biết nơi những cặp xứng đôi khác, có những cách biệt như vậy hay không, mà xem ra họ yêu đời đến thế?» Thu băn khoăn tự hỏi như vậy, và đoán rằng có lẽ nàng khó tánh, đòi hỏi nhiều quá, chớ còn bao nhiêu người khác thì họ tự mãn được với một phần nào đức tính nơi người đàn ông mà thôi, có ai hoàn toàn cả đâu, và chính nàng, chưa chắc nàng đã là người vợ lý tưởng».
Lý trí suy luận vậy, nhưng lòng Thu cứ nghe rằng chính Hòa đã khuyết điểm, mà không có sự khuyết điểm nào gây thiệt thòi cho người đàn bà bằng khuyết điểm về tâm hồn.
Nàng sẽ sung sướng được, nếu Hòa nghèo hơn một chút, kém đẹp trai hơn phần nào. Nhưng tim Hòa phải cùng tim nàng rung động trước gió sớm mây chiều, Hòa phải thưởng thức sự óng ả của mái tóc mà nàng dụng tâm săn sóc chỉ vì chàng mà thôi.
Có lẽ trong những giây phút nầy Hòa đang băn khoăn về một vấn đề khoa học trọng đại nào, nên từ lúc lên xe đến giờ Thu không nghe chàng pha trò một câu ngắn, hay khen một lùm cây xinh, một bóng chiều đẹp lần nào cả.
Hòa có vẻ sống riêng biệt trong cái thế giới của chàng, và mặc dầu tên Hòa, chàng không hòa mình với người chung quanh, với người mà chàng long trọng thề là sẽ yêu cho đến khi đầu bạc răng long. Chàng đã thành thật mà thề như vậy, và lòng chàng vẫn trung kiên với nguyện ước đó, nhưng chàng không có thì giờ yêu, hay chàng không thèm lãng phí thời giờ quý báu để mà yêu, vì yêu là một hoạt động không bổ ích cho nhân loại, hẳn chàng nghĩ như vậy.
«A... ha... bổ ích! Cái gì cũng phải bổ ích hết thảy à? – Thu cười thầm một cách chua chát. – Ăn không cần ngon miệng, mà chỉ cần thồn chất bổ vào bao tử, xem chiếu bóng không phải để giải trí, hay cũng giải trí mà phải giải trí cho lành mạnh bằng một phim vạn vật học của Walt-Disney. Tất cả hoạt động của loài người đều phải bổ ích hết, và ca ngợi chiếc lá vàng rơi, thật là một công việc tầm phào à?»
Cuộc đi hóng mát hôm nay, thành ra chỉ cốt đổi gió thôi, vì hưởng gió lành của đồng nội là bổ ích, còn để cho hai tâm hồn bạn xít lại gần nhau nhờ khung cảnh gợi tình, là vô bổ à? »
– Bình Triệu quán !
Thu đọc to lên những chữ nàng thấy trên tấm bảng hiệu rồi hỏi bâng quơ :
– Không biết quán nầy bán gì ?
– Ừ, không biết họ bán gì ở đây và có ngon không để mình ăn tối. Lát nữa về Saigon, cũng không biết ăn đâu cho ngon.
Tự Hòa, chàng không đi ăn đâu bao giờ cả. Có bạn hữu rủ đi, chàng ăn xong là quên ngay hiệu ăn ấy, cho dẫu là món ăn ngon đến đâu đi nữa. Hai vợ chồng sống như người Âu-châu quí phái, không hề la cà nơi nào cả, nên ra phố là họ lạc hướng. Người phải thủ vai hướng đạo quả sành đường đi nước bước lên cung trăng, lên hỏa tinh hơn là thuộc nẻo đưa đến các chốn ăn chơi.
Khi tới trước quán Cây-Dương, Hòa ngừng xe lại, đúng y theo dự định của chương trình, nhứt định không tiến thêm bước nào.
Hòa biết rõ quán nầy vì trong tuần trăng mật ba năm về trước họ đã lèn đây gần như mỗi đêm. Ở đây có một cái sân lộ thiên dưới bóng dương, tối lại sáng đèn, nằm trên sân, hai chiếc ghế dài kề nhau thật thơ mộng.
Hòa tình cờ tìm được cảnh đó, tận hưởng nó một thời gian ngắn ngủi ấy rồi không bao giờ ra khỏi cái tổ lạnh của họ ở Saigon.
Hai vợ chồng ngơ ngác nhìn cảnh tang thương bây giờ với ngôi nhà hoang phế, và Thu bùi ngùi mà thấy «lối xưa xe ngựa» đó như là hình ảnh của những ngày vui không bao giờ trở lại của nàng.
Hòa thì chàng chỉ thấy một khía cạnh rất là khoa học của sự điêu tàn nầy. Chàng nhận xét :
– Sân xi măng nứt nẻ hết vì đất ở đây mềm quá. Nó lún và lôi theo lớp mặt cứng ở trên.
Ngoài giải thích thực tế ấy ra, chàng không có được một thương tiếc nào, một câu triết lý rẻ tiền nào nó giúp cho tâm hồn chàng đẹp ra.
– Thôi ta đi về nào?
Cố nhiên ! Ở đây cũng chẳng nghĩ được gì hay thì về cho xong vậy.
Họ ăn cơm tối ở nhà hàng Hải-Biên chỉ vì đó là nơi khỏi mất công tìm kiếm và biết ngay được trong ấy bán cái gì.
Tuy thế Thu cũng vui. Nàng vui như cô gái nhà quê được lên tỉnh, vào một tiệm cháo của cắc-chú cũng thích, mà chỉ nhìn đèn màu không mà thôi, cũng mê rồi.
Họ sành ăn món ăn của Pháp chớ không nhà quê nữa vì chị vợ đã học trường dầm, còn anh chồng đã đỗ cử nhơn, tức là lúc còn học đã có dịp giao thiệp nhiều.
Có lẽ ăn cơm tối là cái khoảng thú vị nhứt chương trình hôm nay vì cả hai đều như cá vào nước, nghe rằng họ đang sinh hoạt trong môi trường của họ.
Thu pha trò để chế giễu chồng :
– Anh có tính thử xem đĩa tôm hùm nầy chứa được bao nhiêu chất bổ và nhứt là sẽ phát ra được mấy trăm ca-lô-ri trong người của ta ?
Hòa cười hề hề :
– Đó cái gàn của các tay dinh dưỡng học. Cái gàn của bọn vật lý học của anh khác xa.
– Nếu em được anh đưa đi ra ngoài như vầy mỗi tuần thì em mừng lắm.
– Anh sẽ cố gắng, nếu có thì giờ.
– Làm sao mà có thì giờ cho được. Tuần nào các đại học, các viện văn hóa cũng tổ chức diễn thuyết hoặc nói chuyện và anh không bỏ sót một cuộc sinh hoạt văn hóa nào cả thì đến tận thế cũng chẳng có thì giờ. Điều cốt yếu là anh muốn sống hay không, chỉ có thế thôi.
– Anh ham sống vô cùng em ơi, em đừng tưởng...
– Có lẽ, nhưng anh sống theo lối sống của anh, chớ không theo nếp của phần đông.
– Thì anh đã bằng lòng, anh còn nài nỉ em nữa, để em giải trí với bạn hữu kia mà.
– Như thế, em lấy chồng làm gì?
Hòa đuối lý đánh trống lấp :
– Sốt ma-don-ne ở đây ngon.
Thu hối hận đã đầu độc không khí nên vui vẻ trở lại và khen :
– Ở đây ấm cúng quá. Khi nào có dịp đi nữa, ta đem Lan-Chi theo.
– Ừ, ta đem con theo.
Lan-Chi là nguồn an ủi độc nhứt của nàng từ khi nàng thấy chồng nhứt quyết không ra khỏi tháp ngà của chàng.
Có Lan-Chi thì không thể vào xem chiếu bóng. Nhưng nếu chỉ xem phim bổ ích như loại phim vạn vật học nầy thì Thu thấy không cần lối giải trí nầy nữa.
– Anh thích ngày sau con làm gì?
Nàng hỏi và ngỡ Hòa sẽ đáp: «Nữ bác-học» nhưng chàng mỉm cười mà rằng :
– Em lo xa quá. Lan-Chi làm gì à? Nó sẽ là một người vợ hiền.
– Cũng hay. Nhưng vợ hiền của ai? của nhà bác học được không?
– Không, bởi vì mẹ nó không thích như vậy.
– Anh nói sai. Em mê nhà bác học lắm. Nhưng nếu nhà bác học chịu làm người thường mỗi tuần một lần thì thích ghê.
– Nhà bác học mà làm người thường thì dở khẹt. Cái đêm mà em về dưới rồi bị chìm đò đó nghen, Lan-Chi nó khóc mãi, anh dỗ không được, đến thối chí phải khóc theo nó.
Vô tình Hòa nhắc lại chuyện cũ mà Thu muốn quên, bởi vì cái chuyện chìm đò gợi ngay lên hình ảnh người thanh niên đã làm cho nàng suýt ngã.
Sau cái đêm lịch sử ấy, nàng đã được nhiều dịp hội kiến tay đôi với hắn. Hắn khác Hòa biết bao nhiêu ! Hắn chỉ là một phàm nhân thỏi, hay hắn cố là siêu nhân đi nữa trong giới nghệ thuật, hắn vẫn biết cởi bỏ cái vỏ khác phàm của hắn để mà sống với người đời.
Có lẽ hắn cũng say mê nghệ thuật như Hòa say mê khoa học, nhưng hắn say có giờ có giấc và ngoài những phút thoát trần của hắn, hắn nói chuyện rất hay về những vấn đề nho nhỏ gần gũi với con người, như là bình một phim tình cảm, thưởng thức một chiếc xắc xinh xinh mà nàng cầm nơi tay. Thích nhứt là hắn biết yêu, hắn say tình yêu, liều lĩnh một cách dễ sợ, nhưng cũng dễ ưa. Hắn sống, sống thật sự, sống cho hắn và cho cả những người gần gũi với hắn, chớ không phải cho một nhân loại xa lạ nào, sống rất là con người, tuy không sống cho loài người.
Trời mà biết cho Thu rằng không giây phút nào nàng kết tội chồng đã ích kỷ, chỉ sống cho hắn mà thôi. Nàng rất phục chồng, xem chồng là một siêu nhân, nên rất kính nể say sưa của chồng. Nàng chỉ tiếc rằng đôi bạn không hạp tâm tính nhau thôi.
Họ ăn xong hồi tám giờ mười lăm. Ngồi cà-kê đến tám giờ bốn mươi họ mới đi đến rạp chiếu bóng.
Phim hôm nay rất là không hợp với cả hai vợ chồng. Thu thì không thích xem bò cạp, kiến với lại chó đồng Mỹ Châu bao nhiêu. Còn vạn vật học thì như trò trẻ con đối với nhà vật lý học, nên Hòa cũng chẳng vui thú gì. Chàng chọn phim nầy chỉ vì nghĩ rằng nó vừa với sức hiểu biết của vợ thôi.
«Ích lợi gì?» Thu nghĩ khi ra cửa để về nhà. «Nếu giải trí mà miễn cưỡng như thế nầy thì ở nhà vui với con như từ bao lâu nay, chắc chắn còn êm đẹp hơn bội phần!»
Thu nằm nhà hơn mười ngày, từ bữa tái ngộ với Quí. Nàng làm lụng, chăm sóc con, cửa nhà tươm tất như đã mượn thêm ba bốn người tôi tớ.
Buồn, buồn lắm, cứ nghe muốn nói với ai điều gì và muốn nghe ai nói với nàng điều gì. Những cô lân cận, toàn vợ ông, vợ thầy không chớ có phải chị bán cá, bán rau gì đâu, nhưng nàng đã kinh nghiệm về những đề tài câu chuyện của họ rồi, nên không thích dạo xóm để ngồi lê. Họ nói toàn chuyện hột xoàn, chuyện thăng quan tấn chức của chồng họ, và chuyện bà con họ giàu to, làm chức bự mãi nên Thu chán lắm.
Lắm lúc Thu mỉm cười tự chế giễu mình: «Mình khinh họ thấp lè tè nhưng lại tức mà thấy Hòa khinh mình thấp lè tè đến không buồn đàm đạo với mình. Sao mình lại vô lý và bất công dữ vậy?»
Nỗi buồn nầy, nói đúng ra là sự trống rỗng, nỗi cô đơn, nàng đã nghe thấy từ lâu, từ ngày rời bỏ cuộc đời nữ sinh của nàng. Nhưng nàng đã nhẫn nại chịu số phận cho đến khi sự tình cờ đưa nàng vào mối quen lớn với Quí.
Thú vị biết bao nhiêu, những tháng mà nàng bí mật giao thiệp với người bạn đáng sợ ấy! Nàng sợ hắn liều, nhưng cứ thèm đi thăm hắn, y như là một gã đàn ông đứng đắn tình cờ trót nếm ma túy một lần, sợ phải ghiền mà khổ cả đời, nhưng không thể tự ngăn đi tìm trở lại cái chốn bí mật mà y đã được hưởng liều thuốc độc mê hoặc một lần tai hại đó.
Rồi sự rút lui đột ngột và khó hiểu của người thanh niên kỳ lạ ấy nhận chìm nàng trở lại nỗi cô đơn và sự nhẫn nại trước.
Nhưng cuộc tái ngộ vừa qua bỗng thình lình đánh thức tỉnh bao nhiêu ước mơ khôn thỏa bị đè nén trong lòng nàng.
Hai sức mạnh vô hình nó chèo kéo với nhau nơi nội tâm nàng, làm cho Thu khổ sở đến tột bực : một sức mạnh xô đẩy nàng đi tìm một nguồn an ủi, tìm con người mà nàng trao gởi được bao cảm nghĩ của tuổi xuân thì, và nhận lãnh những ký thác tâm tư của hắn, một cuộc trao đổi của hai dòng tình cảm nó giúp cho cuộc đời đỡ khô cằn biết bao nhiêu ; sức mạnh khác trì níu nàng lại với bổn phận, với tiết hạnh của người đàn bà Á-Đông, không phải chỉ giữ sạch thân xác mà phải giữ nguyên cả hồn, cả trí cho người mà họ gởi phận trao thân.
« Sao mình bây giờ lại cổ hủ đến như thế nầy ? – Thu thở dài tự hỏi như vậy – Hồi học Marie-Curie với đầm, chính mình đã cầm đầu bọn gái Việt quyết nổi loạn chống lại giáo dục Khổng Mạnh quá câu nệ về điểm tiết trinh của người đàn bà, nhưng bây giờ, tự nhiên mình lại nô lệ nền giáo dục ấy mà mình đã không đồng ý với... »
Thu ôm đầu ngạc nhiên cho nàng lắm.
– Tại sao cô lại không dám ? Cứ dám đi thử xem sao. Đi thăm bạn chớ có đi đâu mà thắc mắc như là... – Đó là lời xúi giục của kẻ vô hình thứ nhứt.
– Cô à, cô yêu chồng cô hay không ? Nếu yêu thì đừng có phiêu lưu, dễ ngã lắm đấy nhé ! – Kẻ vô hình thứ nhì vội ngăn ngay.
« A... ha ! Thì ra mình yêu chồng mình ! Phải, mình yêu chàng. Và chỉ vì thế mà mình mới sợ ngã, chỉ vì thế mà thôi»
Thu mừng rỡ mà chụp được sự thật một cách bất ngờ, sự thật nầy cũng giúp nàng đỡ băn khoăn và hơn thế mở ra cho nàng một lối thoát. Nàng suy luận: «Tình yêu có mãnh lực ghê hồn, chiến thắng được tất cả. Ta ngã hay không chỉ do ta yêu chồng hay không, chớ không lễ giáo nào cứu ta được. Đạo đức chỉ cứu phần xác ta thôi, và giả thử ta yêu Quí trong tinh thần thì ai kiểm soát ta nổi?
Bao nhiêu đàn bà đã thất tiết về mặt tinh thần rồi mà dễ ai hay biết!
Sở dĩ ta không thất tiết về mặt ấy, nói đúng ra sở dĩ ta thoát khỏi cái suýt thất tiết tinh thần được là nhờ ta yêu chồng.
Cá tính ta đã có thành tích chiến thắng thì không còn lo gì nữa».
Vì suy luận như vậy nên Thu nhứt quvết chơi dao bén mà không sợ có ngày đứt tay.
Nàng đến thăm Quí hồi ba giờ rưỡi trưa, bữa ăn tối đã sắp đặt xong cả, con nhỏ ở chỉ còn thi hành lời dặn là bữa ăn sẽ tươm tất. Vả lại nàng có cà rà ở lâu tại căn nhà ở đường Lê-Lai bao giờ đâu.
Cửa cái, cửa sổ phía trước đều mở, nhưng Thu gõ mãi mà không ai đáp. Chợt tiếng xối nước ngoài sau dội lên, nàng đoán chừng Quí đang tắm, nên cứ bước vào phòng khách ngồi chờ.
Quả Quí tắm thật. Chàng đi dép lẹp xẹp lên buồng ngủ, Thu không dám đánh tiếng, đợi một hồi cho chàng thay y phục xong cả rồi mới ho lên.
– Đứa nào đó ? – Quí hỏi to từ trong ấy.
Không nghe đáp, hắn lẩm bẩm nhưng khá đủ rõ cho Thu nghe được câu nói một mình ấy :
– Không biết phải thằng Quang mắc dịch hay không mà nó câm cái họng lại.
« Lạ quá, chàng không phân biệt được giọng ho của nam với giọng ho của nữ sao mà ? » Thu tự hỏi câu đó rồi lên tiếng :
– Thu đây anh ơi !
Thu nghe tiếng chạy đùi đụi trên gạch rồi Quí ló mặt ra nơi khung cửa mà dòm. Chàng mặc Âu phục mà chưa kịp xỏ chân vào giày.
– Trời ơi Thu ! để anh mang giầy cái đã.
Quí thụt vào trong và trở ra ngay, vừa ngồi trên ghế, vừa cột giây giày, vừa hỏi :
– Sao không cho Lan-Chi theo ?
– Cám ơn anh đã nhớ tới Lan-Chi.
– Lan-Chi dễ thương quá.
– Cha nó có dễ thương hay không ?
– Ngoài mặt thì dễ thương. Nhưng anh không quen với anh Hòa nên không xét đoán được.
– Đâu anh cứ xét thử, làm như là chưa biết mặt, biết tên Hòa, chỉ biết là em có chồng và nói ra cảm nghĩ của anh về chồng em.
– Anh có nghĩ đến điều đó. Lạ lắm ! Anh không nghe sao cả. Anh không xấu hổ thầm với anh ấy, bởi vì anh đặt tình yêu mà không dè em đã có chồng. Anh cũng không ganh tị với anh ấy, vì anh không phải đã cùng chạy đua với ảnh rồi thua anh ấy và anh ấy không có làm gì anh hết.
– Nhưng có thương hay không? Đó là điều em muốn biết.
– Cũng không tuốt, à tại sao em không đi làm như trước nữa ?
– Anh Hòa đã khá lên, em khỏi phải giúp.
– Làm quan to rồi à ?
– Không... Ảnh chỉ mua được nhà ở xóm Cầu-Mới, trả góp rất nhẹ, thành ra khỏi phải tốn tiền thuê nhà dưới Đa-Kao nữa.
– Sao hôm nọ anh thấy hai vợ chồng băng đại lộ Đinh-tiên-Hoàng để qua trường Đakao ?
– À, đi thăm láng giềng cũ ấy mà !
– Kể ra làm công chức sung sướng thật. Lũ nghệ sĩ của anh làm gì được mua nhà trả góp. Mà cũng phải, bọn nầy chỉ sẽ góp hai tháng rồi trốn luôn, chẳng bao lâu công quỹ sẽ cạn khô.
– Anh Hòa còn được hưởng cả đặc ân dành cho các vị giáo sư Đại-học là mua trả góp biệt thự lớn xây cất trên Làng Đại-học, nhưng xa quá nên ảnh không nhận hưởng ân huệ ấy.
Thu cố ý khoe lộc của chồng để dọa Quí. Nàng muốn lập ra một hàng rào bảo vệ cho tiết hạnh của nàng bằng sự tự ti mặc cảm của bạn. Quí mà tự thấy mình lép vế quá đối với Hòa, chắc hắn sẽ bỏ tham vọng và dục vọng của hắn. Nàng thích gần Quí nhưng giữa hai người phải có một hàng rào kiên cố nàng mới an lòng.
– Chắc anh ấy đẻ bọc điều !
Cả hai cười xòa. Ho không biết nói gì với nhau nữa sau trận cười đó mặc dầu họ đã dồn rất nhiều ý tình định hễ gặp nhau là tuôn ra cho hả hơi.
Quí nhìn bạn đắm đuối một hồi lâu rồi nói :
– Em Thu nè, em có thấy là tình thế của đôi ta không ổn hay không. Ta không là bạn với nhau trước khi em có chồng, ta cũng không là nhơn tình của nhau hiện giờ, nhưng ta thân với nhau quá sức, trong khi anh chỉ được phép gọi em bằng bà thôi...
– Em cũng nghĩ như anh.
– Giờ em tính sao ?
– Tùy anh, chính anh đã thắt gút thì chỉ có anh là mở được.
– Anh thấy ta cần phải dứt khoát.
– Em cũng chỉ mong bấy nhiêu đó thôi.
Nói xong câu ấy, Thu bỗng buồn vô hạn. Quí lại nhìn nàng rất lâu, cố tìm kiếm đôi mắt nàng nó cứ lẫn trốn mãi, đoạn chàng nói :
– Em Thu à, anh không bao giờ hết yêu em cả, và càng ngày cứ càng yêu em hơn lên...
Thu bỗng chợt hiểu ý nghĩ mà bạn sắp nói tiếp, nên hoảng hốt, vội ngắt lời chàng :
– Vậy tình thế đã khác, ta nên đổi tình yêu đặt lầm chỗ ấy thành ra tình bạn. Em thấy không có cách nào hơn cả.
Nãy giờ nàng ngỡ Quí muốn đề nghị đoạn tuyệt vì có lẽ chàng đã gặp người chàng mơ, nên nàng đã buồn. Không dè anh con trai khó chịu nầy cứ cố bám vào tình yêu mãi.
Quí cưòi gằn mà rằng :
– Em nói rất là hữu lý, nhưng em không thèm biết tới quan điểm của người đã trót yêu. Hơn thế, tình yêu không đơn phương để anh có thể quên được. Chính em cũng đã...
– Vàng, em không chối. Nhưng anh cũng nên cho kẻ phạm tội cải tà qui chánh chớ.
– Em ăn nói như là một người không yêu thì anh còn biết tính sao.
– Anh nên bằng lòng với tình bạn vậy. Tình bạn cũng tốt đẹp, cao quí lắm như anh đã biết.
– Đẹp, cao quí, các thứ đó, những kẻ yêu, không cần biết đến.
– Anh đừng có muốn lôi tình yêu xuống bùn. Tình yêu đẹp và cao quí thật, hơn cả tình bạn nữa, nhưng nó chỉ đẹp và cao quí khi nào nó được sử dụng một cách mỹ-thuật. Anh là nghệ-sĩ, em tưởng...
– Mỹ thuật !
– Tình yêu là một yếu tố gây loạn trong xã-hội. Bây giờ em mới thấy được rằng người Nhựt-bổn là dân tộc khôn ngoan nhứt thế giới nên họ đã thủ tiêu ân ái từ mấy ngàn năm rồi. Người Nhựt họ đã đào luyện bọn nghệ giả để giúp cho những người đàn ông thích yêu mà không dám yêu, bởi sự gây rối, có một nơi mà họ tìm được bóng hình của tình yêu , thứ tình yêu cũng gần đủ tính chất mà không gieo họa.
Quí cười dòn lên :
– Nhưng phong tục hay ho ấy lại hi sinh phụ nữ. Họ cho đàn ông hưởng ảo tưởng về tình yêu, còn phụ nữ thì không được hưởng gì cả.
– Phụ nữ trầm tĩnh hơn, họ có thể yêu thầm một người nào đó, sung sướng với tình yêu câm lặng ấy mà không hề bước ra khỏi nơi ẩn trú để làm ngửa nghiêng đạo đức.
Quí hiểu rằng bạn chàng muốn ám chỉ đến thứ tình yêu suông giữa một đôi trai gái, họ yêu nhau mê say, đắm đuối, nhưng không hề có sự gần gũi về thân thể.
Người thiếu phụ đang ngồi trước mặt chàng bỗng như có hào quang bao phủ chung quanh nàng, một vầng hào quang đạo đức, không sáng tinh khiết một cách buồn tẻ như hào quang của Phật Bà mà lóng lánh những màu ái ân thơ mộng tuyệt vời. Đó là một người đa tình và có óc thẩm mỹ, nàng trang điểm tình yêu bằng tất cả những khéo léo tế nhị mà trí thông minh con người đã bày ra, nghĩa là gợi yêu mà lẩn tránh sự giao thân thú vật.
Tình yêu đẹp và cao quí là đây, là thế đó. Nhưng Quí chỉ là người thôi, cho dẫu là người nghệ sĩ. Chàng chỉ là một thanh niên dồi dào sức khỏe, không bị bổn phận ràng buộc như Thu và sự khát yêu không thèm sợ chất độc có thể đang ngâm trong bầu cam lộ yêu đương.
Vì thế, bức màn cẩm vân mà Thu dùng để che tình yêu cho kín đáo, xinh đẹp, lại giục chàng yêu mạnh hơn bao giờ cả.
Chàng than :
– Em đã nhượng bộ phần nào, tiến lần từ tình bạn đến tình yêu suông cao cả, anh thông cảm sự hiểu biết của em và cám ơn em lắm, nhưng em đã vô tình làm cho anh càng si hơn. Em không phải chỉ là một người đàn bà đẹp nữa, em là...
– ... Em là người bạn gái của anh, nếu anh muốn ta gần nhau lâu bền. Một mối tình không phân minh thế nào rồi cùng đổ vỡ.
Anh thấy không, nếu từ sớm đến giờ, anh kể những câu chuyện đắm tầu, chuyện thủy thủ nổi loạn ngoài khơi cho em nghe, và em tra lại những chiếc nút áo gần đứt của anh, có phải là vui vẻ hay không ? Không khí khó chịu nầy, rồi em sẽ mang nó theo về nhà và mớ còn lại sẽ làm anh khó thở.
Nếu ta yêu nhau, rồi cũng sẽ như vậy, nghĩa là trước vui, sau buồn, mà cái buồn thì sẽ đeo đuổi theo ta đến trọn kiếp.
– Anh xin lỗi em mà đã làm sầu thảm buổi gặp mặt nầy. Nhưng mà...
– À, anh có quen với gia đình họ Long-Đức hay không ?
– Có, người con thứ hai của ông Long-Đức-Minh viết văn.
– Vì thế em mới đồ là anh quen.
– Rồi sao ?
– Con thứ ba của ông Long-Đức là gái.
– Cũng viết văn ?
– Không, nhưng cô ấy đẹp lắm.
– Vậy à ?
– Em tưởng quen với Long-Đức-Mẫn, anh phải biết cô Long-Giáng-Hương ấy chớ.
– Nhưng mà không.
– Nếu anh đã thấy cô ấy một lần rồi, chắc anh không tha thiết về em nhiều lắm đâu.
Quí cười ha hả rồi nói :
– Em có đọc tiểu thuyết Âu-Mỹ viết những năm sau nầy hay không ?
– Có.
– Em có thấy gì lạ trong đó không ?
– Nhiều cái lạ lắm !
– Anh muốn nói lạ riêng về phụ nữ kia.
– Điều đó thì em không thấy.
– Nếu em chú ý kỹ thì em sẽ ngạc nhiên lắm mà nhận ra rằng các tác giả không còn tả phụ-nữ đẹp nữa, hay nói cho đúng, không còn bảo rằng các «Nàng» trong đó đẹp nữa.
– À...à... hình như quả có vậy.
– Bởi vì thật ra không có cô nào đẹp, cô nào xấu cả. Đẹp hay không, chỉ tùy con mắt người nhìn.
Có một người, có lẽ chỉ đẹp bằng thiên hạ thôi, nhưng anh, anh lại thấy cô ta đẹp hơn tất cả muôn triệu người khác và chỉ yêu được có cô ta thôi.
Thu đứng lên xin phép và nói :
– Có thể lâu lắm em mỏi đến thăm anh nữa, vì dạo nầy em bận quá.
– Em định lơi dần để một khi kia thì dứt luôn, anh hiểu mà !
Tình cảm của Quí bây giờ không còn thuần chất nữa, nên chàng rất khó chịu. Trước chàng chỉ yêu tuyệt đối. Tình yêu ấy, giờ chàng muốn giết chết nó, nhưng sinh lực nó dồi dào quá không sao giết được. Nó sống, nhưng lại lai giống, không còn là thứ tình tinh khiết của buổi đầu mà bị pha trộn với sự ngỡ ngàng vì tình trạng mà chàng đã khám phá.
Hèn chi, lúc Thu ra về chàng không buồn lắm, cũng chẳng dửng dưng được như khi tiễn khách thường.
Thật là oái oăm cho cái số của chàng. Không đào hoa một tí nào cả. Có mỗi một lần hoài thai một mối tình lớn thì lại rủi ro rơi phải vào một đám có chồng.
Quí cứ nhớ đi nhớ lại mãi lời của mấy thằng bạn kể những cái thú vô song khi yêu một người đàn bà có chồng. Riêng chàng, chàng không nghe thú như tụi nó nói. Không phải vì tình chàng chỉ có một chiều, không phải vì Thu không yêu chàng – Thu có yêu chàng chớ – mà vì chàng vốn là kẻ thiện, rất ghê tởm những hành vi trái đạo.
Cũng may là chàng chỉ biết sơ Hòa mà thôi, nếu quen nhiều với Hòa, chắc chàng sẽ nghe là mình phản bội, phản bạn.
Tuy nhiên, thiện căn nơi chàng không đủ sức đánh bạt tình yêu tội lỗi mà chàng vô tình phải dính vào. Mối tình nầy giống hệt một mụt ung thư, rễ ăn tứ phía và đi sâu vào thịt, chằng chịt từ tế bào nầy qua tế bào khác, chiếc dao mổ của nhà giải phẫu mà có thò vào cắt mất mụt ung thư, con bịnh vẫn chết như thường, vì các rễ ăn lan kia sẽ làm cho mầm khác mọc lên. Người ta chết vì ung thư cũng tại thế.
«Giờ, biết sự thật rồi, Thu còn đáng cho mình yêu đến như thế hay không?» Quí cứ tự hỏi như vậy và tìm đủ lý lẽ để đáp rằng : «Không». Thu không đẹp nhứt thiên hạ, Thu không yêu chàng trọn vẹn mà chỉ quên mình trong giây phút thôi rồi hồi tâm được ngay. Thu rất hạnh phúc tức được chồng yêu đầy đủ, Thu...
Tuy nhiên, nước trong thế nào, đem mà lọc thì làm sao cũng có một tí cặn mắc vào sớ vải dùng lọc nước.
Tí cặn ấy là cái hôn lên tóc mà Thu đã ban cho chàng trong một lúc quên mình. Chàng xem đó là một cuộc ái ân giữa hai người, không hơn, không kém. Tí cặn ấy là Thu đã yêu chàng, không trọn vẹn, nhưng yêu thành thật và thật sự. «Ngày sau dầu có thế nào...» Câu nói tiên tri ấy giờ chàng mới hiểu vỡ nghĩa của nó. «... Anh cũng nên nhớ rằng cái hôn hôm nay là...» Nhớ, chàng nhớ lắm, và chính vì nhớ lắm nên chàng không sao khuất phục lý trí của chàng để quên người thiếu phụ đã có chồng, có con nầy.
Bác-sĩ Luân giàu có và rất thích giao du. Tuy nhiên những mối quen biết của ông không hỗn tạp nhiều giới mà chỉ gồm những bậc trí thức không mà thôi.
Những «bữa cơm tối» mà ông đãi hàng tam cá nguyệt, là những đại yến hẳn hòi, mặc dầu trong thiếp mời, ông chỉ dùng danh tự kép khiêm tốn trên kia.
Thực khách của ông toàn là những người trí thức hiểu theo quan niệm Âu-Châu, tức là những người hiểu biết sâu rộng, chớ không phải chỉ có cấp bằng chuyên môn cao mà được gọi như thế.
Do sự giới thiệu lần hồi, tập danh sách tân khách của ông cứ càng ngày càng dày thêm ra, và lẽ dĩ nhiên những người đứng bản phong thần sau toàn là những người tuổi trẻ, chưa có sự nghiệp tu thư, lập ngôn gì cả. Hòa và Quí thuộc vào hạng khách «mới điền» ấy.
Đêm nay bàn tiệc đông ngót trăm người, nam phái chiếm hết tám mươi phần trăm chỗ ngồi. Nhờ họ ngồi có nơi có chỗ, nên xem cũng chẳng đông lắm, nhưng đến tuần cà-phê thì sự hỗn loạn diễn ra. Trừ mấy cụ tóc bạc thì còn ngồi yên nơi chỗ của họ, còn thì mạnh ai nấy bưng tách trà đường hay tách cà-phê của mình đi tìm người quen. Chủ nhà đã sắp sẵn chỗ ngồi không vừa ý họ, thì họ phải trốn những người lân cận không hợp ý để tìm bồ.
Quí đã vào nhà nầy một lượt với Hòa và bảy tám người khác, người nào cũng cao niên và có tiếng tăm địa vị cả, nên chủ nhà lo tiếp đón họ trước. Hai thanh niên khiêm tốn nầy đã thừa dịp ấy để lặng lẽ vào ngồi mà khỏi bị ai quấy rầy, nên chi họ không được giới thiệu với nhau.
Quí giống một kẻ núp trong bóng tối mà rình người ở ngoài ánh sáng. Chàng biết Hòa và từ nay lại biết y rất rõ, trong khi Hòa xem chàng như muôn ngàn kẻ qua đường khác.
Có lần Hòa ngồi buồn đưa mắt điểm qua đám thực khách. Khi mắt hắn ghé lại nơi chàng, hắn có vẻ ngạc nhiên giây lát mà chợt thấy một người khách trẻ tuổi quá như vậy. Hắn ngơ ngác nhìn chàng khiến chàng buồn cười quá.
Chàng cũng nhìn hắn và bụng kêu thầm lên rằng : « Ê, anh kia, tôi biết anh lắm mà, anh là người tốt số nhứt đời vì vợ anh là một thiếu phụ đẹp số dách. Nhưng tôi tội nghiệp cho anh lắm đó nhé, vì vợ anh đã trải qua một cuộc phiêu lưu, phiêu lưu vật chất, trên một hoang đảo, đảo Tân-Vinh, và phiêu lưu tình cảm cũng trên một hoang đảo, hoang đảo nầy là trái tim của tôi. Thế mà anh đâu có biết chuyện đó. Bí mật của nàng, trên đời nầy không ai biết cả, trừ tôi ra. Thế là tôi lại tốt phúc hơn anh.
Anh có biết hay chăng rằng tôi là bạn thân của vợ anh ? Rất thân anh à. Thân cho đến đổi tôi biết cái mùi tóc của nàng, y như anh đã biết, tôi đã cầm bàn tay mềm dịu của nàng y như anh đã cầm.»
Quí nghĩ tới đây thì sung sướng vô cùng. Chàng được tự tôn mặc cảm làm cho chàng nở mặt ra và bỗng thấy Hòa như kẻ bại trận đang thu nhỏ hình hài lại đằng xa kia.
Nhưng không! Tự tôn mặc cảm của chàng vừa chường mặt ra thì phải chạy đi ẩn núp ngay trước gương mặt hiền lành, thông minh của anh chồng suýt mọc sừng vì chàng.
Tất cả người của Hòa như thở lên những làn hơi lương thiện, đạo đức, mà cho đến quỷ thần có lẽ cũng phải kinh sợ. Thêm vào đó, tài ba của hắn, mà Quí đã nghe tiếng đồn vang trong giới sinh viên : Hắn là một giảng nghiệm viên lỗi lạc mà các bài giảng không kém bài giáo sư chánh hiệu chút nào, vì đó là kết quả của công trình nghiên cứu mà hắn sẽ đưa ra làm luận án, cái tài ba xuất chúng ấy khiến Quí không sao không khiếp phục được.
Những cảm giác trên đây bỗng làm cho Quí nghe mình nhỏ nhoi thấp kém quá. Chàng sợ hãi, trốn cái nhìn hiền từ của Hòa và tủi thân hết sức, chàng nghe mình lép vế rõ rệt trước một tình địch hơn hẳn chàng và chỗ hơn ấy đã làm cho Thu do dự và rốt cuộc khỏi ngã.
«Quí ơi, mày phải chịu thua ngay, phải từ bỏ mối tình vô vọng của mày đi. Thu là một người đàn bà nết na lại được tấm chồng như vậy thì mầy còn mong gì! Mày phải tự an ủi với những giây phút quên mình của Thu, và dầu sao mày cũng hơn nhiều anh chàng kia đã ôm mãi mối tình câm mà nàng không hề quen biết ! »
Quí ngồi trên chiếc nệm da tròn, cao đến bốn tấc, đặt ngay trên gạch, dùng làm ghế cho khách phụ nữ thân. Tay cầm tách cà-phê, mắt sợ hãi của chàng muốn trốn Hòa nhưng cứ phải nhìn Hòa.
Nhà Bác-học tương lai nầy như là một cục đá nam châm, còn chàng là một cây kim. Hắn thu hút chàng bằng một sức mạnh vô hình nào không rõ, nhưng không giây phút nào mà chàng không háo hức muốn đến làm quen với hắn.
Hai người đã đọc một quyển sách mà họ thích, hai người đã xem một phong cảnh mà họ ưa, tự nhiên cần trao đổi ý kiến với nhau về quyển sách, về phong cảnh ấy ; nếu trong hai người đó mà chỉ có một người biết rằng họ đã làm trùng một công việc với nhau thì sự cần, sự muốn trao gởi tâm sự của người biết, được tăng gấp đôi, chính vì cái thờ ơ của kẻ kia mà kẻ nầy thấy cần khám phá để xem có phải chăng hắn không thích lắm cái mà mình say mê.
Quí hớp một ngụm cà-phê rồi rời chiếc nệm, đứng lên bước tới mấy bước. Kỳ lạ thay, có một sức mạnh vô hình thứ nhì nó níu chàng lại, chàng ghé qua một chiếc sô-pha mà hai ký giả đang bàn về đường lối chánh trị của De Gaulle đối với vấn đề An-giê-ri.
– Nếu Pháp mà buông sớm một chút thì dân Bắc-phi sẽ tiếc thương Pháp đời đời và cho Pnáp nhiều quyền lợi kinh-tế và văn-hóa.
– Ừ, con người chỉ tiếc thương kẻ nào...
Chàng không thích chánh trị bao nhiêu, nên chỉ giữ có mấy ý về sự tiếc thương kia thôi. Chàng mỉm cười, nhưng mắt vô tri không rời Hòa. Hòa đến chào một ông lão sói đầu như người Âu-châu và rất có vẻ một nhà thông thái. Trông Hòa, tuy còn trẻ tuổi, nhưng già dặn và đạo mạo quá, chàng ái ngại cho Thu, tự hỏi không biết Thu có hạnh phúc hay không.
Hòa đã rời ông lão ấy và Quí uống rốc tách cà- phê, đặt tách trên một chiếc bàn con sau sô-pha và đứng đậy, lần nầy quả quyết gặp mặt Hòa.
Hòa nhìn đây đó rồi xem chừng không tìm gặp ai quen nữa, ngồi xuống để nhìn gạch đỏ của cái lò sưởi giả mà kiến trúc sư đã đặt vào buồng nầy, có lẽ để cho vui mắt người xứ nóng.
Nghe tiếng giày của Quí, hắn day lại rồi vui vẻ hắn gật đầu chào người bạn trẻ mà hắn đã thấy đằng xa từ nãy giờ.
Quí cũng vui vẻ đưa tay bắt tay hắn. Hắn tự giới thiệu :
– Hòa, trong giáo giới.
– Thành, sinh viên luật khoa.
Quí nói láo xong rồi kinh ngạc, không hiểu vì sao mà mình lại hèn nhát đến thế. Chàng đứng thừ người ra một lát rồi nói bậy một câu, đoạn xây lưng mà đi, vội vàng như đi trốn.
– Kiểu lò sưởi nầy có vẻ thôn dã mộc mạc lắm phải không ông ?
– Ừ, tôi cũng nghĩ như vậy.
Hòa đáp câu đó rồi cụt hứng vì người đối thoại đã đi thình lình khiến hắn không kịp biết thêm gì về y nữa cả.
Quí thở hổn hển khi tới trước một bức tranh lập thể kia, tim đập thình thình như vừa thoát khỏi một cuộc cật vấn của mật thám, và vì vừa thoát được nên chàng nghe nhẹ cả người.
Trước bức tranh đó, đang đứng sẵn một họa sĩ khác chuyên vẽ truyền thần và đã vẽ bức họa chơn dung cho bà chủ nhà nầy. Ông ta vốn quen với Quí nên nói :
– Anh nè, vẽ như vầy thì khỏi cần học, bôi bậy lèn cũng có được sự lọ lem nầy.
Quí buồn cười quá cho sự thiển cận của họa sĩ nầy, nhưng chàng không nỡ cãi, cũng không buồn nói chuyện với va.
Chàng bận tự xét coi tại sao chàng lại có thái độ kỳ dị như vậy vào phút chót. Chàng nhớ rõ là có một sức mạnh vô hình thứ nhì nó níu kéo chàng lại, không cho chàng đến làm quen với Hòa. Chàng đã thắng, nhưng đến phút quyết liệt, nó bỗng quật cường và mạnh hơn chàng.
Nhưng sức mạnh vô hình đó là gì và bị dồn ép vào tiềm thức chàng từ bao lâu nay rồi ?
Quí đưa lưng ra ngoài, ngó mãi bức tranh mà chỉ thấy có gương mặt của Hòa, y như là chàng có mắt sau lưng, và mặc dầu giấu mặt như vậy, chàng vẫn không hết sợ bị lộ tung tích. Hòa có thể tìm người quen, nhứt là tìm chủ nhà để hỏi thăm về chàng. Chàng quen với chủ nhà nhiều nên nếu bị hỏi, ông nầy sẽ đáp đúng, tuy chỉ thấy có cái lưng của chàng thôi.
«Nhưng tại sao mình sợ lộ tung tích, ừ, hắn biết mình là Quí, họa sĩ, hoặc thầy dạy vẽ, ở trường Mỹ- nghệ thì đã có sao đâu chớ? Nếu hắn biết mình là Quí thì... thì... hừ... thì....»
Người họa sĩ si tình nầy bỗng tái mặt. Chàng vừa tìm được sự thật về lòng chàng và, sợ hãi, tưởng như ai cũng chợt biết được sự thật xấu xa ấy cùng một lượt với chàng.
Sự thật đó là chàng không muốn là người quen, là bạn của Hòa mà phải mang tiếng phản bội, phản bạn về sau.
Chàng đã tự nhủ mình phải từ bỏ mối tình không phải đạo của chàng, nhưng thâm tâm, chàng không muốn từ bỏ mối tình ấy. Chính vì thế mà tiềm thức chàng xui chàng lánh mặt chồng của Thu vào phút chót, rồi còn sợ bị lộ tung tích, sợ Hòa tìm làm quen.
Người vẽ truyền thần cho bà chủ nhà vẫn còn đứng đó mà căm giận muốn xé nát bức tranh lập thể trước mặt hai người. Quí không ưa hắn nhưng vẫn phải cần đến hắn.
– Anh nè, anh xem giùm coi có ai nhìn tôi không ?
Anh kia cười ha hả mà rằng :
– Có kẻ theo dõi để ám sát anh à ? Giống phim Hít-cốc dữ vậy à ? Không, không có ai nhìn hết.
– Anh xem kỹ chớ ?
– Rất kỹ.
– Không có người trẻ tuổi nào nhìn tôi hết ?
– Không, nhứt là phụ nữ. Tất cả các bà các cô đều bị họ bắt chuyện không ai rảnh để mà ngắm cái vẻ đẹp trai của anh.
Quí an lòng, nói cám ơn anh nầy, rồi day lại. Chàng đưa mắt tìm Hòa và lâu lắm mới gặp chồng của Thu, hắn đang nói chuyện với một mạng phụ phu nhơn và bà chủ nhà.
Thừa dịp không ai chú ý đến chàng, Quí bước lần ra hàng hiên, để rồi chuồn theo kiểu Ăng-lê một cách kín đáo.
Ngoài hiên và ngoài sân cũng có năm bảy tân khách đang đứng hóng mát, ý chừng cũng làm bộ thế thôi để mà rút êm.
Quí thấy trong đám đó không có ai quen nên mạnh dạn đi ngay ra ngõ.
Biệt thự của ông Bình-nguyên-Quân thời nguyên tử này cất giữa một sở cao-su bỏ hoang, cạnh nhiều ngôi biệt thự khác. Cái ngõ từ phố Chi-Lăng đưa vào đây, xắn trong sở cao-su đó, nên tối om. Đèn nhà hai bên ngõ không soi sáng tới đây, vì nhà nào cũng có sân rộng, từ nhà ra ngõ phải qua những cái sân sâu hằng mấy mươi thước. Giữa mấy ngôi biệt-thự, những cây cao-su già cỗi còn để nguyên cho mát xóm, trọng vào đó tối như trông vào rừng sâu. Quí có cảm giác rờn rợn. Đây là những ngôi đền đài hoang phế giữa rừng lắm ma quỷ, lắm những chú lùn kỳ dị đã nuôi công chúa Bạch-Tuyết một thời gian trong đó..
Cảm-giác rờn rợn ấy lại càng rờn rợn khi chàng nhớ đến những vụ giết người trong các phim toát mồ hôi lạnh. Chỉ trong khung cảnh như thế nầy mới xảy ra được những vụ như vậy : từ trong bóng tối của sở cao- su, nhảy ra một tên sát nhơn võ trang bằng dao găm. . Nó đâm vào lưng chàng một nhát, chàng không kịp phản ứng, cũng chẳng kịp la, thế rồi một tiếng đồng hồ sau, khi tân khách ra về, người ta mới tìm gặp xác chàng, đã lạnh ngắt rồi.
Nếu bây giờ mà chàng rình nơi đây, đợi Hòa đi ra một mình, rồi bẻ cổ hắn thì trên đời, sẽ không có tay thám tử đại tài nào mà tìm ra thủ phạm cả. Cuộc ám sát sẽ lặng lẽ và khéo léo, sạch sẽ, gọn ghẽ vô cùng, không để dấu vết cỏn con nào lại cả.
Có sợ bị bắt chợt lắm, có muốn cẩn thận lắm thì dụ Hòa vào sở cao-su rồi hẵng ra tay giữa bóng tối. Hòa xem chừng rất muốn làm quen với chàng và hắn có bộ thật thà lắm. Giờ mà gạt hắn nói trong sở cao-su có một đám nấm dạ quang, rủ hắn vào xem, chắc hắn tin mà đi theo ngay.
Hòa cũng khá khỏe mạnh đấy, nhưng chàng cũng là một tay thể thao có hạng lại được hưởng ưu thế của kẻ đang chuẩn bị còn Hòa thi ơ hờ nên dễ bị tê-liệt khi bị tấn công thình lình.
Hòa chết rồi Thu sẽ là một góa phụ buồn khôn nguôi và trên đời nầy chỉ có một người, độc nhứt một người thôi, đủ điều kiện an ủi nàng, để giúp nàng không bỏ phí thời xuân trẻ của nàng.
Quí nện mạnh gót giày lên ngõ trải đá đỏ, tướng đi hùng dũng lắm, vì chàng đang nghĩ đến một cuộc đánh nhau mà chàng toàn thắng và hạ sát được địch thủ.
Bỗng chàng bật cười và cười lên rất to. Con thú dữ ẩn đi mấy ngàn thế-kỷ nay, vừa từ trong người chàng nhảy ra, hầm-hừ muốn làm dữ, nhưng con người của chàng hiền khô, không chịu trợ lực với nó, nên nó chuồn mất, trông rất là buồn cười.
Quí vui vẻ lắm, huýt gió một bản nhạc trẻ và bước thêm vài bước nữa là ra tới phố Chi-Lăng.
«Nhơn chi sơ, tánh bổn thiện», chàng lẩm bẩm đọc câu chữ nho trên đây và quyết định không tin tư tưởng trong câu ấy nữa. Nhơn chi sơ có lẽ là trẻ con mới sinh ra được vài năm, mà cũng có lẽ là con người thời tiền sử nữa. Cả hai đều không thiện một tí nào. Trẻ con thì thích đập phá, chụp được con gì là giết ngay, hay bắt ổ chim, hay phá ổ kiến. Người tiền sử giết nhau để giành một miếng thịt rừng, một người đàn bà.
Không, chỉ có người lớn và nhứt là người của thời nay mới là thiện. Chính cái con người tiền sử ác độc còn lẩn lút trong mỗi con người chúng ta, mới là bất thiện và trong vài trường hợp, nó từ đáy dĩ vãng của loài người mà trồi lên để đánh một vố bất ngờ, khiến thiên hạ đều kinh ngạc tự hỏi sao anh thư ký hiền lương ấy lại đâm vợ được, sao cô giáo dịu dàng ấy lại đầu độc chồng của cô được.
Chàng lại bật cười một lần nữa mà nhận thấy chàng lẩn thẩn quá. Chàng không sợ hãi đã nghĩ đến điều ghê gớm vừa rồi. Trong đời ta chắc ai cũng ít lắm làm một lần định giết ai đó. Nhưng rốt cuộc phần đông vẫn không hề phạm tội, vì con ngưòi hung dữ của thời tiền sử đã bị nhốt từ lâu, nên đã khá thuần.
Chàng chỉ nghe hay hay, ngộ ngộ thôi ; một anh con trai rất hiền đã có, trong giây phút, ý muốn bẻ cổ một anh con trai hiền khác, chỉ vì một người đàn bà. Và ngộ nhứt là cái anh toan làm dữ chỉ là kẻ miệng hùm gan sứa thôi.
Quí chận một chiếc tắc xi lại, và lên xe, chàng nghĩ đến một cuộc mạo hiểm thứ nhì cũng buồn cười không kém cái trò ám sát tình địch khi nãy : là thừa dịp anh chồng vắng nhà, đến cướp chị vợ một cách kiếm hiệp, y như trong những truyện của thời Trung-Cổ Âu-Châu.
Đêm nay là đêm đầu tiên mà chàng không sầu khi nhớ đến mối tình của chàng, vì những chuyện tưởng tượng vừa rồi dầu sao cũng có tánh cách hành động, khác hẳn ngồi đó mà nhơi mãi nỗi tuyệt vọng của chàng, mà hễ hành động là con người nghe hăng hái lên, không còn ủ-rủ nữa.
Chỉ phiền là chàng chỉ hành động được tới mức đó thôi, và trong tưởng tượng thôi, rồi phải trở về với cô đơn của mình, trở về căn nhà đã chứng kiến sự hoài thai của mối tình lớn của chàng, chứng kiến cuộc ái ân ngắn ngủi gồm một cái hôn của nàng trên tóc chàng, và chứng kiến thố lộ tình trạng gia đình của Thu, hai năm sau ngày gặp gỡ.
Bữa cơm mẹ đẻ ra bữa cơm con, Quí được ông Giám, một giáo sư y-khoa mời ăn cơm ở nhà ông, hôm chàng ngồi gần ông nầy trong bữa đại yến ở biệt-thự sau hồ tắm Chi-Lăng.
Giáo-sư Giám đã nghe chàng nói về hội-họa và thích lối vẽ của chàng nên muốn nhờ chàng vẽ cho một bức tranh tĩnh vật thật to, treo ở phòng ăn.
Vì thế mà có bữa cơm nầy, để họa-sĩ xem lại tận mắt khung cảnh và kích thước của bức tường.
Chàng đến được năm phút, chỉ mới nói vài câu chuyện xã giao với ông Giám, thì một ông khách khác bước vào.
Quí đứng lên chào ông nầy và được giới thiệu đơn phương với ông ta. Chàng trẻ tuổi quá lại vô danh, nên chủ nhà quên giới thiệu ông khách cao niên với chàng. Chàng chỉ nghe chủ nhà gọi ông ây là : « Anh Dương » thôi.
Giữa tuần khai vị, chủ nhà rủ «Anh Dương» ấy cùng đi nghỉ mát ở Đàlạt cho vui, ông Dương đáp:
– Rất tiếc, nhưng tôi phải đi Bạc-Xa-Lôn cuối tuần nầy.
– Vậy à? Công cán hả?
– Đại hội «Hạch-lý-học quốc-tế 1961»
– Anh đi chừng bao lâu mới về ?
– Đại hội chỉ kéo dài có hai tuần lễ thôi. Nếu chỉ có thế thì vừa đi vừa về, tốn hăm mốt ngày là cùng. Nhưng sau đó, chúng tôi lại phải đi Tây-Đức để liên lạc với giới Vật-Lý tổng-quát bên ấy. Chắc ít lắm cũng phải vắng nhà hai tháng.
Quí cố đoán xem ông khách là ai, nhưng chịu là không thể biết được. Một điều chắc chắn là ông ta là một nhà khoa học và chuyên riêng về khoa hạch lý. Giới khoa học không được làm quảng cáo rùm beng như giới cầu tướng đá banh chẳng hạn, nên chỉ một giáo sư khoa học lỗi lạc cũng chẳng được đại chúng biết tên tuổi bằng một cây vợt bóng bàn.
Cơm đã dọn lên. Chủ nhà mời khách và bấy giờ mới day qua nói chuyện với Quí, bông đùa một câu :
– Mong anh lại được một khách hàng thứ nhì hôm nay, nhưng ông Khoa-truởng đây chỉ thích những bức tranh vẽ những ly-tử chạy lạc thôi.
Cả bàn cười xòa và bấy giờ chàng mới hay ông Dương là Khoa-trưởng Khoa-học Đại-học, tức là ông « xếp » trực tiếp của Hòa. Ông Dương khiêm tốn nói :
– Địa hạt của chúng tôi khô cằn quá, không gợi hứng cho các nhà nghệ sĩ được bao giờ. Tôi chắc không ai mà viết một bản nhạc để ca ngợi hạch-lý-học nó có vẻ gì khô khan và man rợ.
Quí cãi :
– Thưa ông, chiếc nấm nguyên tử cũng là một để tài hay cho hội họa.
– Ông có mỉa mai hay không ? Chiếc nấm nguyên tử chỉ gợi ý tang tóc thôi.
– À, nè anh Dương – bà Giám hỏi – anh vừa nói khi nãy « chúng tôi », tức là chị Dương cũng sẽ đi với anh hả?
– Vâng, vợ tôi cũng được chính phủ đài thọ cuộc xê dịch nầy, theo truyền thống Âu-Châu, nhưng tôi lại muốn nói đến một người thứ nhì sẽ cùng đi với tôi. Phái-đoàn Việt-Nam gồm hai nhà khoa học.
– Ai đó vậy ?
– Cái mới là rắc rối. Ông Viện-trưởng ông chỉ định tôi, còn người thứ nhì thì tìm mãi chưa ra vì ai cũng bận việc cả, những người ông chọn, đều từ chối.
Một tia sáng bỗng loé ra nơi trí Quí. Chàng hỏi :
– Thưa ông Khoa-trưởng, cái người thứ nhì ấy, phải có điều kiện gì mới được đi ?
– Thì cố nhiên phải là một nhà khoa học, nói thật đúng ra, phải là một nhà vật-lý-học.
– Có cần phải lỗi lạc lắm không, thưa ông Khoa-trưởng ?
Ông Dương mỉm cười :
– Cố nhiên là cần. Nhưng nước ta chưa đủ cán bộ thì xoàng như tôi cũng được đi, chớ biết làm sao.
Không ai nói gì, nhưng trong bụng ai cũng nghĩ rằng ông Dương quá nhún nhường. Ông là một nhà khoa học đã nổi tiếng hồi còn ở bên Pháp.
Quí do dự một lát rồi ấp-úng hỏi :
– Thưa... ông Khoa-trưởng... có... một ông... phụ
– Có.
Ông ta mỉm cười nhìn Quí mà hỏi :
– Ông muốn ám chỉ ai ?
– Thưa ông Khoa-trưởng, cỡ như ông giảng nghiệm viên Hòa, ông ấy có đủ khả năng dự đại hội đó không ?
Ông Dương thừ người ra giây lát rồi cười lớn lên và nói :
– Trời, sao chúng tôi lại ngốc thế ? Cứ tìm mãi trong giới giáo sư ! Ừ, Anh Hòa, anh ấy nhiều khả năng và tương lai lắm, xứng đáng làm phái đoàn viên lắm. Được, để tôi gợi ý cho ông Viện-trưởng. Ông Hòa là bạn của ông ?
– Thưa không. Tôi chỉ nghe tiếng ông ấy thôi, nên hỏi vậy, chớ tôi không quen với ông ấy bao giờ.
Ông Dương trầm ngâm giây lát rồi than :
– Nước ta nghèo, không đủ phương tiện cho những người như anh Hòa nghiên cứu tìm tòi... Ừ, tôi sẽ cố gắng nói giúp cho anh ấy được đi.
Hôm nay bộ máy đồng hồ Hòa bị trục trặc. Chàng về sớm hơn mọi ngày đến mười phút.
Mọi khi thì lúc chàng về gần tới nhà, Thu đã nấu ăn gần xong, giao cho con nhỏ ở coi chừng rồi tắm rửa cho Lan-Chi và thay y phục cho cả hai mẹ con để cùng nhau ra đường đón chàng. Nhưng vì sự trục trặc ấy mà nàng hành động không ăn khớp được với Hòa.
Nàng chỉ mới gội đầu cho con trong nhà tắm thì đã nghe tiếng chồng ở ngoài:
– Thu ơi !
– Dạ.
– Lan-Chi ơi !
– Dạ, con đây ba, con tắm để đi rước ba đây,
– Ba đã về rồi.
– Hổng thèm đâu. Ai biểu ba về trước khi con tắm xong, làm con hổng được rước ba.
– Bữa nay khỏi rước.
Lan-Chi khóc lên rồi khóc mù. « Rước ba » là một trò tiêu khiển không có không được. Hai mẹ con tối ngày lúc thúc ở nhà hủ-hỉ với nhau, chỉ có dịp « rước ba » vào buổi chiều là nó thấy trời thấy đất, thấy xe, thấy người. Làm cho nó hụt buổi rước ba, nó tức lắm là phải.
– Thôi được, – Hòa hiểu ý con, kêu với vào mà dỗ. – Con tắm xong, ba sẽ đi một vòng rồi về cho con rước.
Nghe vây, Lan-Chi mới chịu nín cho. Thu băn khoăn không biết chồng về bất thường như vậy là lành hay dữ. Đối với người khác thì trễ một tiếng đồng hồ, sớm nửa tiếng đồng hồ là sự thường, nhưng Hòa đúng giờ, đúng khắc, đều đặn quá mức nên sai một phút là nàng nghe lo, cũng như nàng đã thường phải sợ hãi một khi Hòa về trễ một phút đồng hồ, nghĩ ngay đến tai nạn xe cộ rất dễ xảy ra trong thời buổi nhiều xe nầy.
Vì lời hứa với con nên Hòa chỉ cởi giày ra thôi, không thay đồ mát. Chàng bước xuống mở cửa nhà tắm, nhìn hai mẹ con mà cười.
– Tắm mau mau cho con đi nhá, kẻo ba đợi.
– Không, con cứ tắm thong thả đi chớ.
Thu hỏi chồng :
– Sao nay anh về sớm được ?
– Anh không ghé thư viện như mọi lần. Như vậy đáng lý về sớm hơn nhưng vì phải nói chuyện với ông Viện-trưởng hơi lâu, nên thật ra là về trễ đây.
Thu đã tắm con xong. Nàng chẫm rãi lau Lan-Chi nhè nhẹ, bỗng nghe chồng nói:
– Thu ơi, ta có tin mừng.
– Vậy à ? Tin gì ?
– Em đoán thử xem.
– Trúng số ?
– Bữa nay đâu có xổ số.
– Anh phát minh được cái máy treo mùng ?
Hai vợ chồng cười xòa với nhau. Hòa rất ghét bỏ mùng lúc chàng còn thức. Nhưng khi mỏi mòn gần thiếp thì không có can đảm đứng dậy để làm công việc đó nữa. Thu thì đêm nào cũng ngủ sớm hơn chàng, không thể thức mà đợi mãi kẻ mê sách, để mà phục dịch hắn vào lúc chót. Thành thử chàng hay ao ước bâng quơ một cái máy gì mà bấm nhẹ vào một cái nút thì máy được huy động để thay cho kẻ buồn ngủ hầu buông mùng xuống.
Thu không còn biết đoán gì nữa, vì đời của hai vợ chồng không có gì vui buồn cho lắm, cả hai đều không mong đợi một tài sản nào để thừa tự, Hòa cũng chẳng còn thi cử gì nữa, trừ cái bằng tiến sĩ, nhưng chuyện ấy còn lâu.
– Em xin chịu thua đó.
– Lát nữa anh nói cho nghe.
– Còn treo em làm chi ? Anh nói kẻo em nóng lắm. .
– Dài quá, nói không hết ngay được.
Lan-Chi đã được mặc quần áo. Hòa ẵm con lên hôn, cho vợ rảnh tay để thay y phục cho chính nàng. Chàng nói nựng với con .
– Lan-Chi có nhớ ba hông ?
– Nhớ lắm.
– Ở nhà má có đánh Lan-Chi không ?
Lan-Chi mếu máo mét :
– Có ba à.
– Sao má đánh Lan-Chi ?
– Khi không má đánh.
– Nói láo, má cưng Lan-Chi còn hơn ba cưng nữa. Khi không, không bao giờ má lại đánh Lan-Chi,
Bí lối, Lan-Chi giận dỗi, hờn ba đã không tin nó, còn bắt nó khai sự thật ra nữa. Hòa lại phải dỗ :
– Má mặc áo rồi kìa, Lan-Chi đi hóng mát với má với ba nha.
– Sướng a !
Lan-Chi muốn nhảy lên, nhưng ba đang ôm chặt nó, nó cục cựa không được. Trông Lan-Chi như con chim sắp sổ lồng. Thu vừa bước ra khỏi nhà tắm, mỉm cười hỏi :
– Đi chơi mát, hay đi rước ba ?
– Đi hai thứ hết. – Lan-Chi đáp.
– Tham lắm đa nhe cô.
Thu véo vào má con nhè nhẹ rồi đưa má nàng bảo :
– Hôn má một cái.
Bé hôn má kêu đánh chụt rồi day qua hôn ba cũng kêu to như vậy.
– Thôi Lan-Chi xuống đất mà đi, không được bắt ba ẵm nữa. Để ba còn tắm chớ.
– Không, hôm nay anh tắm trễ. Ta đi dạo mát một vòng, anh nói cái nầy cho em nghe.
Nãy giờ Thu ngỡ chồng gạt con cho nín. Giờ hay là đi thật, nàng cũng mừng rối rít. Đưọc đi ra ngoài với chồng là nàng thích rồi, không cần đi đâu xa, không cần xem cái gì hết.
Hòa đã đem xe vào nhà khi nãy, và họ thả bộ lên hướng Cầu-Mới. Lan-Chi đi giữa đưa tay lên cho ba má nắm như còn bé lắm, mới tập đi và chưa vững bước.
Hòa muốn nói ngay với vợ cái tin báo trước nãy giờ và Thu cũng muốn nghe ngay cho đỡ sốt ruột. Nhưng con chim non Lan-Chi vừa sổ lồng nói líu-lo không ngớt miệng, hỏi đủ thứ chuyện, ba má trả lời đã mệt mà nó chưa cho miệng nó kéo da non.
Cũng may là qua khỏi cầu là nó mỏi chơn, bắt ba ẵm. Ba giao điều kiện hễ ba ẵm là nó phải làm thinh. Chi-Lan nhận điều kiện và Hòa mới chuyện trò được với vợ.
– Em nè, hồi chiều nay, hết giờ giảng, anh sắp sửa bước qua thư viện của phân khoa để chọn vài quyển sách thì được một cú điện thoại của ông Viện- trưởng gọi anh lên văn phòng của ổng.
– Chắc anh được ban khen giảng bài hay ?
– Không, anh không có tài như em tưởng đâu. Ông Viện-trưởng ta là một nhà bác-học đã nổi danh hồi ông còn ở Ba-ri, ổng đã thấy không biết bao nhiêu nhơn tài bên ấy thì anh có nghĩa gì đâu đối với ổng. Được gọi, anh chỉ lo bị quở đã làm không xong phận sự thôi. Khi anh bước vào văn phòng của ổng thì ổng mời ngồi rồi đột ngột hỏi anh đã có gia thất chưa. Anh đáp : “Thưa ông Viện-trưởng, tôi có vợ và một con.”
– Thôi em biết rồi, ổng muốn cho anh làm phò mã chớ gì. Chắc anh làm ổng thất vọng lắm.
– Bậy mà, ổng còn trẻ, chưa tới bốn mươi.
– Chắc ổng băm bảy. Vậy con gái ông có thể được mười bảy, tức là đã tới tuần cập kê. Hồi anh cưới em, em cũng chỉ mới mười bảy thôi.
– Bậy. Để anh nói hết cho nghe. Anh đáp xong, ổng nói :
« Tháng tới tại Bac-Xơ-Lôn có Đại-hội thế-giới về Hạch-lý-học. Việt-Nam được mời tham dự. Tôi đã chỉ định nhiều người mà họ bận cả trừ ra ông Khoa-trưởng Khoa-học Đại-học thôi. Tôi đang tìm một người nữa thì ông nầy giới thiệu ông với tôi. Tôi xem lại hồ sơ của ông thì thấy ông xứng đáng đi dự Đại-hội ấy.
«Đây chỉ là một hội-nghị khoa-học thôi, nhưng cũng có tánh cách ngoại giao phần nào vì phái đoàn Việt-Nam sẽ sang Tây-Đức với một sứ mạng văn hóa. Và theo truyền thống ngoại giao Âu-Châu thì những người đi công cán cần mang vợ con theo. Vậy nếu ông đi thì đi cả gia đình. Chánh phủ sẽ đài thọ tất cả chi phí về xê dịch và ăn ở hai nơi ấy trong vòng hai tháng rưỡi. Nếu có ghé đâu khác thì cá nhân du khách phải tự-lực tự-túc bằng tiền riêng của mình. Ông bằng lòng đi hay không?»
Anh ngồi suy nghĩ mãi mà không biết phải đáp thế nào vì đó là một đề nghị đột ngột nó bắt chợt anh thình lình. Rốt cuộc anh nói với ông Viện-trưởng để anh về hỏi em lại.
Thu cười ngất mà rằng :
– Hỏi lại vợ là một chuyện xấu lắm, anh không sợ ổng cười hay sao ?
– Không, người Âu-Châu luôn luôn hỏi ý vợ về mọi việc, ông ấy ở Âu-Châu rất lâu, đã nhiễm thói tục bên ấy rồi. Hỏi vợ là một hãnh diện. Ổng căn dặn phải trả lời nội trong hăm bốn tiếng đồng hồ để ổng còn gởi đề nghị lên Chánh-Phủ và nếu trên ấy chấp thuận thì người ta còn phải làm giấy tờ và mình còn phải xin thông hành nầy kia. Vậy em tính lẽ nào ?
Thu vui mừng trông thấy, tuy nhiên nàng bối rối không biết tính sao. Đối với những người thường xuất ngoại thì đi Tây, đi Tàu, như là đi chợ chớ không có gì phải lo nghĩ. Nhưng hai vợ chồng đều chưa ai ra khỏi nước nhà lần nào, nên cả hai đều hoang mang.
– Em cũng chẳng biết tính sao. Tùy anh liệu định.
– Nhưng em có thích đi hay không chớ ?
– Anh khéo hỏi thì thôi. Sao lại không thích. Đáng lý gì ta đi ngay hồi mới cưới nhau. Nhưng trễ còn hơn không bao giờ. Ta hưởng tuần trăng mật mà có Lan-Chí thì càng thú hơn.
Hòa nghe nhắc, nhớ sực lại con mà chàng ẵm trên tay. Chàng day lại hôn nó trơ trất rồi hỏi :
– Lan-Chi thích đi máy hay hôn ?
– Máy bay bay cái vù phải không ba ?
– Ừ!
– Bay cái vù như xe tắc-xi ?
– Bay mau bằng mười tắc-xi, mà bay trên trời chớ không phải chạy dưới đường.
– Lan-Chi thích đi lắm. Bay như chim vậy.
– Ừ như chim vậy. Thu nè, vậy ta đi em nhé ?
– Dạ, nhưng không biết có tốn kém lắm hay không ?
– Cũng khá tốn. Ta phải sắm y phục ấm cho cả nhà, ít lắm cũng phải hai chục ngàn bạc... Nếu ghé các nơi khác như Pháp, Thụy-sĩ, Ý-đại-Lợi thì phải xài tiền riêng, mạt lắm cũng vài chục ngàn nữa.
– Em còn nghe họ nói muốn xài hai mươi ngàn phải tốn ba mươi ngàn.
– Sao lạ vậy ?
– Vì ta đổi tiền theo lối chính thức không được nhiều lắm. Một du khách chỉ được chút ít ngoại tệ thôi, mà nhứt định một thứ ngoại tệ nào đó thôi của một quốc-gia mà mình xin đến viếng. Muốn tiêu pha cho vừa đủ, phải đổi thêm trong giới chợ đen, tức là phải mua mắc ngoại tệ, mà ghé nhiều nước quá, càng mua khó khăn vì phải tìm nhiều người, mỗi tay chợ đen chỉ có một thứ ngoại tệ thôi.
– Rắc rối quá, anh không thạo những vấn đề ấy.
– Em thấy rằng ta khỏi băn khoăn về gì cả, mà chỉ xem coi ta có đủ tiền hay không và nếu đủ, có nên tiêu xài cho việc nầy hay không.
– Đủ, ta có đủ. Còn nên thì cũng nên. Không mấy thuở mà được đi một lần, mà chỉ phải trả một phần tổn phí thôi, phần kia công quỹ đài thọ. Vậy, đi em nhé ?
– Nếu anh không sợ tốn tiền thì em hoan nghênh lắm.
Từ đó cho đến lúc về nhà, hai vợ chồng chỉ nói toàn chuyện xuất ngoại không mà thôi, cả hai đều phấn khởi, nô nức đi cái chuyến đi xa đầu tiên trong đời họ, và họ định ngày mai lại là đi sắm đồ ngay.
Lần đầu tiên trong đời Hòa, chàng chịu bỏ sách vở một đêm để sống như một người thường. Hai vợ chồng moi dưới đáy tủ sách lấy ra một quyển «Thông ngôn bỏ túi Anh-Pháp có âm giọng đọc ».
Giới bác học thế giới đều giỏi ngoại văn, nhưng nói không thạo ngoại ngữ cho lắm, Hòa cũng ở trong trường hợp ấy, chàng đọc những quyển đại luận rất dầy viết bằng Anh-văn thì hiểu cả, nhưng muốn hỏi « Ở đây có bán thuốc ho hay không ? » Thì chàng bối rối vô cùng.
Thu bàn :
– Ta nên mua thêm năm ba quyển loại nầy do nhiều nhà xuất bản khác nhau ấn hành. Thế nào mỗi tác giả cũng nghĩ ra những câu khác các tác giả khác. Đem theo đường độ chừng năm quyển, khi muốn nói ý gì, ta cũng nói được hết.
Họ lại bàn nhau về việc chọn vải và chọn hiệu may. Hòa rất bảnh trong địa hạt nầy vì chàng thường nghe bạn hữu mách cho nhau các mánh khóe mua sắm : là họ chỉ sắm mỗi người một bộ xoàng xoàng thôi. Qua tới Âu-Châu, vào hiệu mua đồ may sẵn, đã rẻ lại vải tốt.
– Nhưng lại tốn ngoại tệ, – Thu nói, vì phải mua tiền chợ đen nhiều hơn, chung quy không rẻ hơn mấy ở nước nhà, mà không được hưởng cái lợi có y phục thật vừa vặn.
Thành ra Hòa chỉ bảnh có một đoạn đầu rồi cũng phải chịu thua vợ. Chàng ít sống quá, nên rất vụng về và mù tịt trong việc lặt vặt của phàm nhân.
Hai vợ chồng lại nói đến địa lý nhân sinh của những nơi họ sắp đi qua: Bạc-xơ-Lôn chỉ là thành phố hạng ba của Tây-ban-Nha thôi, nhưng lại là kinh-đô văn hóa của xứ ấy, nên chi các đại hội quốc tế, thường nhóm ở đấy. Cả hai đều nhớ rằng Tây-ban-Nha ngày xưa đã bị Á-Rập xâm lăng mấy trăm năm và người Á-Rập đã để lại nhiều dấu vết rất là ngoạn mục, những lâu đài, thành quách cổ kính đẹp một cách hùng mạnh.
Chuyện xưa Hòa rất sành, vì đã học rồi hồi ở trung học. Sang chuyện nay, chẳng hạn như cuộc phục sinh vĩ đại của Tây-Đức thì chàng phải kém Thu rõ rệt vì không theo dõi thời cuộc.
Thu vui như đêm mới về nhà chồng. Chỉ đêm nay nàng mới thấy là nàng đã lấy chồng, đã lấy một người thường, y chịu hòa trí, hòa hồn với người chung quanh. Chỉ đêm nay là Thu nghe mình không còn là người lữ hành cô độc trên đời nữa.
Và đêm nay nàng được chồng yêu và được yêu chồng như vào đêm tân hôn. Hòa đã gần vợ bằng cả tâm hồn, hai dòng tình cảm của hai người trái ngược chiều rồi giao lưu nhau nơi cái hôn mà trong đó nàng tin chắc rằng Hòa chỉ nghĩ đến độc một mình nàng thôi, chớ không phải như những đêm khác mà chàng gần vợ vì xác thịt thúc đẩy, nhưng tâm trí lại bấn loạn những phương trình, những công thức, những giả thuyết trừu tượng và xa vời. Trời ơi, hạnh phúc sao mà có được dễ dàng quá, nào có tốn hao công của gì đâu cho cam. Miễn chàng chịu mỗi ngày bỏ ra độ hai tiếng đồng hồ để sống với vợ với con là đủ cho nàng lắm rồi, nàng có đòi hỏi gì nhiều đâu ?
Thu được ấp yêu trong tay chồng, đã khóc ra những giọt lệ sung sướng, mà cũng là những giọt lệ tủi thân, vì nàng biết rằng đêm hạnh phúc nầy là đêm hạnh phúc cuối cùng trong đời nàng.
Rồi ngày mai, qua cơn phấn khởi được viễn du, chàng sẽ trở về với cô tình nhơn mà chàng say mê đắm đuối. Cô tình nhơn nguy hiểm đó không có đạo luật gia đình nào dự liệu cái khoản trừng trị cô ta, mặc dầu cô ta cũng phá gia cang người khác như bất kỳ cô nhơn tình nào. Cô nhơn tình nguy hiểm đó chẳng những sẽ không già, không xấu xí cùng với tháng năm để cho chàng hồi tâm, mà trái lại, càng cao niên cô ta càng lộng lẫy ra, và chàng sẽ mê mệt vì cô ta đến hơi thở cuối cùng của chàng. Đó là cô Khoa-học.
Nàng tủi thân vì viễn ảnh phải đi dạo phố một mình ở những thành Bạc-Xơ-Lôn, thành Bôn, thành Ba-ri, trong khi ở phòng hội, Hòa lắng tai nghe các cuộc thuyết trình khoa-học như nghe nhạc du dương,
Sau một tuần lễ mua sắm và chạy giấy thông hành, Thu ẵm con về Bến-Tre để thăm cha mẹ và giã từ cha mẹ nàng. Chưa bao giờ đi xa, nàng hơi tin dị đoan, và nghĩ rằng biết đâu chuyến đi nầy cũng là chuyến đi cuối cùng, sang thế giới âm hồn và không bao giờ trở về nữa. Tai nạn máy bay xảy ra rất thường thì tốt hơn nên thấy mặt cha mẹ lần chót vậy.
Hai bận qua đò Rạch-Miễu, nàng đều ngậm ngùi nhớ lại buổi chiều mưa gió đêm xưa. Xa lắm rồi, những phút giây êm đềm và hồi hộp trong đó nàng suýt ngã. Nàng mừng đã thoát nhưng lại ân hận đã không ngã.
Con người ít lắm trong đời phải được một lần yêu. Cái lần ấy đã đến với nàng, nhưng nàng lại không dám hưởng. Dầu sao, đó cũng là một mối tình và bến đò nầy là nơi lưu giữ nhiều kỷ niệm mà nàng xếp lại, giấu kín tận đáy lòng nàng.
Chiều hôm nay lộng gió, đứng trên phà nhìn cảnh sông nước mênh mông, nhìn khối lá xanh của hòn đảo Tân-Vinh, lòng Thu quằn quặn đau, nghe như người xưa đã đi xa lắm, hay không còn nữa trên đời nầy.
«Vĩnh-biệt nhé, mối tình ngắn ngủi mà ta không dám nhận! Vĩnh-biệt, nhưng ta sẽ ấp yêu trọn kiếp cái kỷ niệm êm đềm của một lần yêu ấy!»
Mọi việc đều xong xuôi cả, chỉ còn đợi ngày để lên đường. Thật là bận rộn, những ngày cuối cùng nầy. Trong tuần lễ chót, Thu phải đi thăm tất cả các nơi quen biết, phải chạy tìm người tin cậy để nhờ giữ nhà giùm trong hai tháng vợ chồng nàng vắng mặt. Và nôn nao kỳ lạ là những ngày đợi chờ nầy.
Đây là dịp may hiếm có, có lẽ là dịp may độc nhứt trong đời nàng. Nàng đợi ngày đi như trẻ con đợi Tết, như những kẻ yêu đương đợi giờ hẹn đầu tiên trong đời tình ái của họ.
Trưa hôm ấy Hòa đi giảng về, mang về ba vé máy bay mà ông Khoa-trưởng vừa trao cho chàng khi sáng.
Chàng nói với Thu :
– Lạ quá em à ! Anh mà được đi đây là nhờ một kẻ khuất mặt. Lúc ông Khoa-trưởng trao anh vé máy bay nầy, ông hỏi anh có quen với họa sĩ nào tên là Quí hay không...
Vừa nghe tên của người hạn bí mật của nàng, Thu tái mặt, tim đập thình thình, sợ hãi vô cùng vì không rõ ông Khoa-trưởng ấy đã tiết lộ những gì và chồng nàng đã biết những gì về Quí và nàng.
Hòa hoảng hốt hỏi :
– Em sao vậy ?
– Em chóng mặt !
Nói rồi nàng giao công việc cho con nhỏ ở, chạy lên giường mà nằm. Hòa quấn quít quanh vợ, hỏi thăm lăng xăng. Một lát sau, Thu đã trấn tĩnh lại được, da mặt trở lại hồng hào như thường nhưng mồ hôi đã toát ra như tắm.
Hòa lấy khăn lông trao cho vợ lau đầu lau cổ, rồi nói tiếp câu chuyện bỏ dở khi nãy :
– À, ổng hỏi anh có quen với họa sĩ nào tên là Quí hay không. Anh bảo rằng không, và ổng cho biết chính người đó đã gợi ý cho ông tiến dẫn anh với ông Viện-trưởng. Thật là lạ. Tại sao lại có người không quen, núp trong bóng tối để giúp anh thì thật anh không hiểu sao được .
Thu bối rối lắm, nhưng cố gượng giải thích cho chồng hết thắc-mắc :
– Có lẽ đó là một phụ huynh của sinh viên mến tài anh, nên can thiệp giúp anh chớ gì.
Lời cắt nghĩa nầy khá ổn, nên chi Hòa an lòng ngay mà không nghĩ đến chuyện lạ đó nữa. Chàng nựng con, nói chuyện với nó giây lát, rồi đi thay y phục để ăn cơm. Chàng sẽ quên luôn chuyện ấy, mà không, chàng đã quên mất rồi, một khi được thỏa mãn vì lời giải thích của vợ.
Riêng Thu, lòng nàng xao xuyến lạ kỳ. Nàng nghe rõ ràng như Quí đang nói với nàng : « Em, anh đã vận động cho anh ấy đi xa. Em có biết để chi vậy hay không ? »
Và lạ lùng thay, kể từ giây phút mà Hòa nói lên thắc mắc của chàng về sự can thiệp của người lạ mặt thì Thu chóng mặt thật sự. Chẳng những thế, nàng còn nghe đau nhức trong bụng, không biết là dạ dầy, ruột, gan, lá lách hay lá mía gì của nàng đã hỏng trong đó .
Bàn về khoa phân-tâm-học, một vị bác-sĩ người Mỹ có nói :
«Trên đời, có lắm người cần phải bịnh cho hợp với tình thế riêng của họ. Họ muốn bịnh ghê hồn và ý chí của họ mạnh cho đến đổi họ bịnh thật sự, với những triệu chứng có thật, chớ không phải bịa.
Họ chơn thật với họ, với y sĩ, nghe đau đớn rõ ràng nơi nào đó trong người họ, và cứ gầy sút đi, không làm việc được.
Gặp những trường hợp nầy, y sĩ thường chỉ có hai đường, một là bức đầu, bức tai vì thấy triệu-chứng mà tìm mãi không ra bịnh, hay là kết luận rằng con bịnh giả vờ.
Chỉ có y sĩ chuyên về phân-tâm-học mới khám phá được bí ẩn sâu xa của các chứng bịnh giả mà thật ấy.
Họ len lỏi vào những xó hiểm hóc của tiềm thức của con bịnh để khám phá ra các nguyên nhơn không thể thú nhận, bị chính con bịnh đẩy lùi vào đáy lòng của hắn.
Nguyên nhân bị nhốt ấy âm thầm làm việc, xui giục tiềm thức tạo ra một thứ bịnh nào hợp nhứt với tình thế, để cứu con bịnh ra khỏi một nước bí mà mặt ngoài, y không thể công khai lẫn tránh nước bí ấy »
Thu thuộc vào loại con bịnh đó. Khi nghe văng vẳng Quí nhắn lời : « Em, em đừng đi, ở lại với anh nhé ! » nàng hoảng sợ vô cùng. Quả thật đó là con người tối nguy hiểm. Hắn đã có thành tích liều mạng và giờ hắn càng liều mạng hơn trước nhiều. Nếu ở lại thì sẽ ngã, không thể khác được. Vả lại, nếu không ngã thì cũng hụt mất cái dịp ngàn năm một thuở nầy.
Nhưng thâm tâm của nàng lại len lén nhủ : « Cái dịp yêu đương của có cũng là dịp ngàn năm một thuở, còn mong manh hơn là viễn du nhiều lắm cô à! Hụt chuyến nầy, cô còn có thể hy vọng vào chuyến khác trong đời cô. Chớ như chiếc đò tình ái thì nó chỉ ghé bến có mỗi một lần thôi. Rồi xuân của cô qua, đò cũng qua, đi mất không hẹn ngày tái ngộ ! »
Người thiếu phụ có nết hạnh và quyết trung kiên với chồng nầy kinh hãi vội dồn ép những tà ý của nàng, những yêu-ngôn thì thầm bên tai nàng vào đáy tiềm thức, đậy nắp lại kỹ lưỡng và ngỡ yên lòng được.
Về mặt ý thức, nàng không hề muốn bịnh, trái lại còn lo rằng bịnh sẽ ngăn trở chuyến đi của nàng. Nếu trường hợp không may nầy xẩy ra thì uổng không biết bao nhiêu.
Nhưng bịnh cứ âm thầm tiến triển sau ngày đột phát. Nàng cứ đau bụng, bợn dạ, nôn ọe luôn, chóng mặt, ngồi dậy thì thấy nhà cửa ghế bàn đều quay chung quanh nàng trong một điệu vũ cuồng loạn.
Thấy những triệu chứng ấy, Hòa hỏi :
– Hay là em cấn thai ?
– Không, đường kinh vẫn đều đặn như thường và kỳ sau cùng chỉ xảy ra cách đây một tuần lễ thôi.
Hòa đưa vợ đến một bác sĩ mà chàng biết là giỏi nội thương : ông ấy là cựu nội trú các dưỡng đường ở Ba-ri, hiện làm phụ giáo ở Y-Khoa Đại-học.
Khám bịnh đã ba lần rồi, phân chất đủ thứ, nước tiểu, phân, máu, mà ông ấy chưa tìm thấy gì cả. Chỉ còn có bốn hôm nữa là lên đường mà Thu không thuyên giảm chút nào lại có phần nặng hơn lúc đầu nữa là khác.
Hòa hỏi thăm riêng vị bác-sĩ xem vợ chàng có thể đi xa bằng tàu bay được hay không. Nhà chuyên môn ấy nói :
– Tốt hơn là đừng đi, một khi chưa biết được bà mắc bịnh gì. Có thể đó chỉ là những xáo trộn xoàng rồi tự nó, nó sẽ qua. Nhưng cũng có thể đó là triệu chứng của những bịnh cần nghỉ ngơi.
Chàng châu mày, và khi ra khỏi phòng khám bịnh, Hòa buồn dàu dàu. Chàng tự nhận rằng đã ít sống với vợ con và ý thức được nỗi cô đơn của Thu. Mỗi một lần có dịp may hi hữu giúp chàng làm tròn phận sự người chồng thì chuyện rủi ro bất ngờ lại xảy ra.

Chàng giấu lời khuyên của bác sĩ cho đến ngày chót và ngày nầy, chàng hỏi lại ý kiến nhà chuyên môn ấy một lần nữa, bận nầy hỏi công khai, trước mặt Thu.
– Không, bà không nên đi ! Tôi không biết được gì sẽ xẩy ra cho bà thì không dám bảo đảm cho chuyến đi mệt nhọc nầy. Ông đừng tưởng đi máy bay là sung sướng lắm đâu. Nó mệt nhọc không kém đi xe hơi, có phần mệt nhọc hơn đối với những cơ thể không hợp với lối xê dịch ấy.
Hòa nhẫn nại chịu số phận, và sợ hãi an ủi Thu, hôn nàng trước mặt bác sĩ. Chàng rơm rớm nước mắt, thương vợ quá, người vợ mà chàng đã bỏ bê và muốn đền bù sự lạnh nhạt của chàng một phen, nàng lại không được hưởng sự hồi tâm trễ muộn của chàng.
Thu nghe ý kiến của bác sĩ thì nhẹ nhõm cả người. Nhưng nàng khỏi phải che giấu sự vui mừng của nàng, nó không có lộ ra ngoài ! Sự vui mừng mà chính nàng cũng không biết nguyên nhơn, bị nỗi tiếc rẻ không được đi xóa mờ mất.
Nàng ngạc nhiên lắm, không hiểu sao mình tiếc rẻ thì phải lẽ, nhưng lại vui mừng bên trong. Niềm vui nầy lẩn lút, nàng muốn chụp lấy nó để cật vấn cho biết nó ở nơi bí ẩn nào mà xuất hiện ra một cách kỳ quặc như vậy, nhưng nó tránh né tài tình, không sao bắt được nó.
Nhờ thế mà mặt nàng đăm chiêu khiến Hòa ngỡ vợ buồn tiếc và càng thương vợ hơn lên, càng dỗ dành hơn lên.
Máy bay cất cánh hồi ba giờ trưa và Hòa nài nỉ Thu nằm nhà nghỉ ngơi, nhưng Thu nhứt quyết ráng theo Hòa lên Tân-Sơn-Nhứt để tiễn chồng.
Lạ quá, đang bịnh nặng, lại bỏ giấc nghỉ trưa – họ lên tắc-xi hồi một giờ rưỡi – thế mà Thu nghe khỏe khoắn như thường, và nghĩ cỡ nàng đi cũng không việc gì. Vé máy bay của hai mẹ con chưa trả lại cho Chánh-Phủ và nàng còn cất trong ví. Giờ quay trở về nhà lấy quần áo cho nàng và cho Lan-Chi vẫn còn kịp, và từ khi Hòa gọi tắc-xi cho đến khi đứng chờ Hòa chịu thủ tục cảnh sát và quan thuế bên trong, rất nhiều lúc Thu có ý muốn thi hành quyết định mong manh của phút chót ấy. Nhưng lần nào một sức mạnh vô hình khó hiểu cũng ngăn cản nàng.
Hòa thì cử băn-hăn, bó-hó lo cho vợ mệt nhọc, cứ năm ba phút thì hỏi thăm nàng một lần, từ Saigon lên tới phi-trường, chàng bắt mạch tay vợ hơn mười bận.
Khi thủ tục xong đâu đấy cả, Hòa bước qua phòng chờ. Hai vợ chồng đứng bên nầy và bên kia chấn song sắt để nói chuyện với nhau cạnh nhiều đôi vợ chồng khác.
Hòa đưa tay vuốt má con, mắt không rời Thu, băn khoăn hỏi :
– Em đứng nãy giờ, nghe đuối sức lắm không ?
Thu không nghe gì khác lạ cả. Nhưng nàng không dám thú thật sự khỏi bịnh thình lình nầy nó làm cho chính nàng cũng phải ngạc nhiên. Nàng có vẻ đóng kịch quá, chỉ giả đau ốm vì một mục đích nào đó thôi chớ không làm sao mà ai tin được rằng nàng thành thật, đã đau ốm thật sự, và vừa khỏi thật sự.
Thu châu mày đáp :
– Anh đừng lo, em ráng được. Anh nhớ uống hai viên thuốc trừ say sóng đi.
– Anh vừa uống xong khi nãy. Thôi, em nên về, đừng lên lầu làm gì cho mệt.
– Đã trót tới đây, thì ít ra cũng phải cho Lan-Chi nó xem Ba bước lên phi-cơ chớ.
Hòa đưa má qua hai cây song sắt cho con hôn, và hôn lại con cũng qua hai cây song sắt ấy. Vợ chồng ông Khoa-trưởng cùng đi với Hòa, nãy giờ bận nói chuyện với bạn hữu, giờ hai ông bà thấy cảnh bịn rịn vợ con của người bạn trẻ, họ bước lại đó và bà Dương hỏi :
– Bà Hòa đây có phải không ?
– Thưa bà, phải.
Thu cúi đầu chào bà ta, và bà ta nói :
– Tôi nghe ông nhà tôi nói có cả bà cùng đi với ông, tôi mừng quá mà có bạn đường, nhưng đến phút chót, nghe bà bịnh thình lình, tôi thất vọng lắm. Bà bịnh làm sao ?
– Thưa em đau bao tử và gan.
Thu không muốn kể lê dài dòng về bịnh trạng bí hiểm của nàng mà đến bác sĩ cũng bí. Nói bừa chứng bịnh gan nầy mà ai cũng biết, câu chuyện bịnh tật sẽ khỏi kéo dài.
– Vậy à ? Bịnh đó làm mệt con người lắm. Bà ở nhà mà nghỉ là phải.
Rồi bà Dương thò tay qua song sắt mà nựng cằm của Lan-Chi và nói :
– Cháu dễ thương quá ! Cháu lên mấy đây bà ?
Thu không kịp đáp thì ống loa đã ong óng lên kêu gọi hành khách bằng ba thứ ngôn ngữ khác nhau :
– Mời quí vị đi Tây-Âu ra sân !
Những cái siết tay cuối cùng, những cái hôn qua song cửa rồi kẻ ở vội mau chơn lên lầu và người đi biến ra sân.
Đứng dựa lan can rào hành lang tiễn biệt, một tay ôm con đang ngồi trên đầu lan can ấy, Thu vẫy tay khi thấy Hòa ngoảnh lại.
Lan-Chi cũng vẫy tay và kêu to :
– Ba ! Ba !
Nhưng không thế nào Hòa nghe nó được vì xa quá. Chắc Hòa và bao nhiêu hành khách khác cũng không ai nhận ra người thân của họ. Họ ngoảnh lại, trông lên lầu, nhìn tổng quát vào đám đông, cười và vẫy tay chào chung tất cả.
– Má ơi, sao ba còn có chút xíu vậy má ? Sao ba bây giờ lại nhỏ lại vậy má ? – Lan-Chi hỏi.
– Tại xa, với lại ta ở trên lầu cao, còn ba đi dưới đất.
Hành khách ngoảnh lại lâu mỏi cổ, lại khó đi, nên tất cả đều nhìn tới trước như thường. Kẻ tiễn đưa chỉ còn thấy lưng của họ thôi.
– Má ơi ! Lan-Chi buồn quá, ba hổng thèm ngó Lan-Chi nữa.
– Để ba đi chớ. Nhưng lát nữa ba sẽ ngó lại.
Quả thật thế, người hành khách nào lên tới đầu thang cũng ngoảnh lại cười và vẫy tay trước khi khung cửa đen thui của chiếc Constellation hả ra như cái miệng để nuốt họ.
– Ba ! Ba ! Cho con theo với !
Lan-Chi kêu thét lên khi Hòa hạ tay xuống để bước vào trong, khiến Thu rất đau lòng, buồn tiếc sao mình lại không ráng mà đi.
– Rồi, ba mất rồi má ơi !
– Ba vào ngồi ở trong.
– Trong ấy có ghế hén má ?
– Có, có đủ thứ hết, nằm ngủ cũng được, ăn uống cũng được.
Chiếc Constellation khổng lồ đóng kín cửa lại khi công nhơn phi trường rút cái thang ra khỏi mình nó để đẩy vào kho mà cất.
Chong chóng quay vù vù và máy nổ rầm rầm. Phi cơ chạy tới chầm chậm về hướng Saigon, rồi tới một chỗ trống kia, nó quay mình lại.
Bấy giờ động cơ nổ dữ dội, và chiếc máy bay chạy tới thật mau. Ngang qua chỗ khách đứng, nó rời khỏi mặt đất và lên cao lần lần theo một chiều dốc lài.
Phi cơ đã qua khỏi đó xa rồi và đã lên cao. Nó rẽ sang tay trái rồi lần lần Lan-Chi thấy nó nhỏ chỉ còn bằng con chim, đen thui trên nền trời trong xanh.
– Thôi đi về con.
Chỉ có một mình ! Mặc dầu Hòa đã trầm lặng quá, đã rút mãi trong cái vỏ của chàng, sự vắng mặt người chủ nhà ít lời nầy cũng lộ ra rõ ràng quá.
Tiễn chồng xong, Thu trở về với sự trơ trọi của nàng, đã cô đơn bên trong, giờ lại cô đơn bên ngoài nữa.
Chỉ có một mình ! Nhưng lạ lắm là trong cảm giác quạnh hiu nầy, nàng nghe mang máng có kẻ vô hình nào ở bên cạnh nàng. Nàng không hoàn toàn cô độc hẳn, mà trái lại nữa, nghe như là kẻ ấy thoáng hiện đâu đây.
Từ hôm đau ốm đến nay, Thu nghe nhiều cảm giác kỳ lạ lắm, nhiều ý nghĩ không rõ rệt đã xẹt ngang qua nền trời đen tối, và như ngôi sao băng, những ý nghĩ mập mờ ấy mất hút luôn, không tìm thấy lại được nữa.
Hôm nay ngoài những ý nghĩ ấy nàng lại cảm nghe một sự có mặt vô hình quanh quất đâu đây.
Nàng hốt hoảng ngỡ mình sắp điên đến nơi, vì kỷ niệm đọc sách giúp nàng nhớ ra những đoạn sách nói về vài triệu chứng của bịnh điên nhẹ, con bịnh có nhiều ảo giác ban đầu chỉ lờ mờ thôi, nhưng về sau hắn thấy rõ trước mặt hắn những cảnh, những người mà kẻ khác không trông thấy.
Nàng cố xua đuổi những điều ghê rợn ấy và chú tâm vào hiện tượng vật chất đang xẩy ra rõ rệt nơi nàng: là nàng khỏe khoắn như không bao giờ mang bịnh, đi đứng nhanh nhẹn, chớ không choáng váng mỗi lần ngồi dậy để bước xuống giường như hổm nay.
Con nhỏ ở cứ nhìn nàng mãi bằng đôi mắt soi bói vì cho dẫu nó đần độn bao nhiêu, sự thay đổi rõ rệt và đột ngột ấy cũng không qua mắt nó được.
Thu khó chịu quá và mắc cỡ với nó. Nàng nghe như là nó nói thầm : « Cô ơi, cô giả đò bịnh để ở lại, em biết rồi mà ! »
Thành thử nàng phải đóng trò lần nầy. Trước đây nàng bịnh thật, đau đớn thật sự, giờ hết bịnh rồi, thỉnh thoảng lại phải giả đau. Đang mạnh dạn đi xuống nhà sau để tắm, nàng phải giả vờ bị xây xẩm mặt mày thình lình, ôm lấy khung cửa, nhắm mắt lại mà rên.
Khổ nhứt là bữa cơm chiều hôm đó. Nàng không ăn uống được bao nhiêu từ một tuần lễ nay. Có lẽ cơ thể đòi hỏi nhiều để bù đắp vào chỗ thiếu thốn, một khi nàng khỏi bịnh, nên nàng đói lắm, ăn cơm ngon miệng như nhà nghèo được nhà giàu đãi tiệc. Nàng cho con nhỏ ở cùng ăn cho vui miệng, và ăn được hai chén nàng giựt mình, nhìn nó rồi buông đũa.
Nó sẽ tự hỏi, sao bỗng dưng cô chủ nó lại ăn tợn như thế, và lòng hồ nghi của nó về sự nàng giả bịnh, càng được vững bền thêm. Nó có thể bép xép, đi đọc chuyện dị kỳ của nhà nầy cho hàng xóm nghe, và thiên hạ sẽ dị nghị mà thêm phiền.
Bữa cơm tối lưng lửng, cứ theo các bác sĩ thì rất tốt cho giấc ngủ và cho sức khỏe. Nhưng Thu ăn đói, lại ngủ không được. Đêm nay nằm một mình sau ba năm lấy chồng, nàng đâm ra nghĩ vẩn vơ. Bụng không no lại xua giấc ngủ đi, thành thử nàng cứ thao thức mãi không sao nhắm mắt.
Đêm tối giống như màn bạc của rạp chiếu bóng, và kẻ mắc phải chứng mất ngủ bị cưỡng ép xem rất nhiều phim.
Phim đầu chiếu lại cái buổi nàng tiễn chồng hồi xế nầy. Nhiều hình ảnh nàng không thấy lúc chuyện xẩy ra, giờ lại hiện lên một lượt với câu chuyện chánh. Chẳng hạn như khi hai mẹ con đứng ngoài chấn song sắt, nàng được tất cả mọi người, bên trong và bên ngoài chấn song chú ý tới kể cả người ngoại quốc nữa mà nhan sắc phụ nữ Việt Nam không quyến rũ bao nhiêu.
Tất cả những cô chiêu-đãi-viên hàng không dân sự, tất cả những cô bán hàng ở phòng chờ đều không ai bằng nàng về dung mạo cả.
Cái thời trẻ đẹp của con người thường không thọ được bao nhiêu năm. Vài năm nữa đây, những lần sanh nở liên tiếp sẽ làm cho thân thể nàng méo mó, sẽ đào lên những luống cày nơi trán nàng, và sẽ không còn người đàn ông nào ngoảnh lại để nhìn nàng nữa cả.
Thu đã lấy cái sự được khách qua đường nhìn nàng làm niềm an ủi, bù cho cảnh không được yêu trong thời con gái của nàng, cho cảnh không được yêu đúng mức trong thời làm vợ của nàng.
Cuộc thất tiết nhè nhẹ, hiền hiền ấy có lẽ cũng là cái tội mà muôn triệu phụ nữ khác đã phạm phải, mặc dầu họ không thiếu thốn như nàng. Họ không ý thức về tội của họ hay ý thức mà bỏ qua đi, vì thấy tội ấy không gây hại gì cả.
Đứng vào mặt luân lý cổ Á-Đông thì là nàng có tội với chồng đứt đi rồi, không còn chối cãi được nữa. Người đờn bà nết hạnh nầy phạm tội một cách ý thức chỉ cốt để gỡ gạc về mặt tình cảm đôi chút thôi.
Phim thứ nhì chiếu ra cảnh sông nước bến đò Rạch-Miễu mà nàng vừa qua phà hôm trước. Nhưng những hình ảnh nầy bị những hình ảnh khác tương tự như thế, in chồng lên ngay : hình ảnh quá giang đò nhỏ, hồi hai năm về trước.
Đáng lý gì ký ức của nàng lần dò theo ngày tháng mà bước từ chuyện mới, qua chuyện không mới lắm rồi sang chuyện cũ. Nhưng nó lại nhảy một cái từ nay đến xưa, đốt giai đoạn trên bước đường ngược dòng năm tháng.
Quá giang đò nhỏ, sấm, chớp, gió, mưa, chìm đò, đêm lạnh trên hoang đảo. Đoạn phim nầy qua rất nhanh. Người chiếu phim hình như vội vàng để cho đoạn sau hiện lên. Đó là đoạn về Saigon, tái ngộ với người con trai liều lĩnh.
Người con trai ấy ! Chơn dung của hắn cứ nằm mãi trên màn bạc như là máy chiếu phim bị hỏng thình lình, và trong khi bị sửa chữa người chiếu không muốn cho đèn sáng lại, cũng không thích dìm khán giả vào bóng tối hoàn toàn.
Chơn dung của hắn ngự trị trên màn bạc rất lâu. Con người dáng điệu hiên ngang ấy cầm một đóa hoa trên tay, lặng ngắm màu sắc và hình dáng của đóa hoa, vừa ngắm hoa, vừa lắng nghe nhạc gió. Hắn là một người thường, rất gần gũi con người và vì thế rất dễ ưa.
Bỗng người khán giả cô độc, đang ngồi một mình trong chính rạp chiếu bóng mà cô kiêm luôn việc quay máy chiếu phim, giựt nẩy mình: cái cảm giác rằng quanh cô đang có một kẻ vô hình lẩn quẩn, giờ đã rõ hẳn ra. Kẻ vô hình ấy là kẻ nầy, kẻ thưởng hoa trên màn bạc.
Hắn không ở gần nàng lắm như nàng đã cảm giác, người ở đầu thành phố, kẻ ở cuối châu thành, nhưng nàng biết chắc rằng tâm trí hắn luôn luôn quanh quẩn bên cạnh nàng và tâm trí nàng luôn luôn phiếm du ra phố Lê-Lai, nơi mà hắn ở.
Và Thu lại bỗng khủng khiếp quá mà chợt đoán rằng sở dĩ nàng đau ốm là vì hắn.
Nàng chỉ đoán thế thôi vì những dấu hiệu kỳ lạ, khó hiểu của sự trùng phùng cơ hội: nàng nhuốm bịnh thình lình khi hay rằng chính hắn đã can thiệp cho chồng nàng đi, và khỏi bịnh thình lình khi chắc ý rằng mình ở lại.
Nàng chỉ đoán thế thôi mà không dám tin là đúng vì quả nàng bịnh thật tình chớ không phải giả vờ. Thu không hề biết khoa phân-tâm-học, không hề biết sự đểu cáng của tiềm thức, nó giả dối mà không nhận với ai rằng giả dối, cũng không tự thủ rằng giả dối.
Lâu rồi, nàng không có đi thăm người bạn nguy hiểm ấy vì sợ hắn, không, vì sợ chính lòng nàng – vì bận việc, rồi vì bận chuẩn bị chuyến đi hụt nầy.
Không thăm, nhưng luôn luôn thấy hắn trước mặt, nhứt là những giờ nằm đợi Hòa đọc sách, những giờ mà anh chồng ham học nầy gầm đầu xuống những tờ giấy chi chít toàn những chữ A chữ B, những con số dài hằng triệu, hằng tỷ đơn vị gì không rõ.
«Phải chăng là mình nhuốm bịnh thình lình vì hắn ? Vì trời xui khiến cho mình ở lại với hắn? Không, mình không hề muốn ở lại, mặc dầu biết hắn can thiệp cho chồng mình đi. Trái lại mình còn ghê tởm thủ đoạn bần tiện của hắn nữa là khác. Nhưng mình lại ngã xuống mà đau ốm ngay đúng vào lúc hay tin ấy. Phải chăng vì trời xui đất khiến, mà ý người, muốn tránh, cũng không thoát được ?
«Nhưng không, quyết là không. Phép lịch sự đối với người vắng mặt, hạnh phúc riêng của mình cấm hẳn mình đi thăm hắn trong suốt thời gian Hòa vắng nhà.
«Thôi đi tà tâm của ta ơi ! Cút đi cho rảnh, ta không nghe mi đâu»
Rồi Thu lại làm việc nhiều hơn bao giờ cả. Gạch nền nhà láng bóng như được đánh sáp, những kẽ nhỏ đóng bụi của bàn ghế, được tẩy trần bằng những que tăm bọc gòn, bìa da sách nổi mốc của Hòa được đem ra lau chùi và phơi nắng, tất cả những cái nút áo gần đứt của cả ba người trong nhà đều được tra lại kỹ lưỡng, áo len được đan sẵn cho mùa lạnh sau, y phục của Lan-Chi bốn tuổi, của Lan-Chi năm tuổi, của Lan- Chi sáu tuổi được may trước hai ba năm.
Nhưng cô đơn vẫn bền chí rình mò đâu đó để xâm chiếm hồn nàng.
Có những ngày mà Thu nghe cuộc đời thật vô vị và nghĩ xằng rằng nếu nàng chết chìm trong tai nạn năm xưa, có lẽ sung sướng hơn. Năm đó mặc dầu không thỏa mãn tình cảm về hôn nhơn, nàng vẫn chịu được số phận, không ý thức rõ lắm về nỗi khổ của mình.
Chợt một người con trai bước đến trong đời nàng, hắn là hiện thân của ông hoàng tử đẹp trai của những giấc mơ của nàng, và mấy tháng phiêu lưu tình cảm nhè nhẹ và vô tội với hắn đã cho nàng nếm tiền vị của yêu-đương.
Ở nhà tranh mãi, ai nào biết nhà gạch là hơn. Rủi ro được tạm trú trong một biệt thự một thời gian ngắn, rồi lùi về nếp nhà tranh cũ mới thấy cảnh luộm thuộm ở đây.
Con nhỏ ở cứ thấy nàng thẫn thờ mãi, và thường bắt gặp nàng ngồi ngó mông ra ngoài, như là nhìn vào một nơi xa xôi nào, nó độ rằng cô chủ nó nhớ chồng. Nó thỏ thẻ nói nhận xét của nó cho Bé Chi nghe. Lan-Chi cũng đang nhớ ba, nghe con nhỏ nói thế nó mừng lắm, vì tìm thấy nơi mẹ nó một người «bồ ruột» đồng tâm với nó. Nó rình má nó, hễ thấy Thu lo ra một chút là nó chộ :
– Ê, mắc cỡ ê, má nhớ ba ê !
Nó ngỡ chỉ trẻ con mới nhớ ba, còn người lớn thì khỏi nhớ ai cả.
Thu giựt mình rồi ôm con vào lòng, vừa cười vừa hôn nó mà nước mắt rưng rưng. Nàng nói nựng với con :
– Ừ, má nhớ ba. Nhưng đâu có xấu hổ gì con. Con cũng nhớ ba đó thì sao ?
– Con nhỏ, má lớn.
– Lớn hay nhỏ gì, ai cùng nhớ hết.
– Lan-Chi nhớ ba, má dỗ Lan-Chi, còn má nhớ ba, ai dỗ má, má ơi ?
– Má ráng mà chịu. Người lớn không được ai dỗ cả.
Không ai dỗ ! Đáp lời với con như vậy, nhưng chính nàng, nàng cũng tự hỏi có ai dỗ nàng hay không ? Nàng còn đáng được dỗ, cả những lúc Hòa ở nhà, chớ đừng nói chuyện khi chàng đi vắng. Có, có người đủ khả năng an ủi nàng, nhưng nàng lại không dám nhờ, không dám để người ấy dỗ nàng. Và chính vì thế, nàng lại càng hận và càng thêm sầu để mà được vỗ-về hơn.
Những lúc ôm con như vậy, Thu nhìn nó trân trối, tìm thấy được Hòa trên gương mặt nó, và rất hối hận mà đã nghĩ vẩn vơ. Lan-Chi giúp nàng nhớ lại bổn phận nàng, bổn phận của người vợ Á-đông tiết hạnh, bổn phận của một bà mẹ không được phép làm đổ vỡ gia đình để bảo tồn hạnh phúc trọn vẹn cho con cái.
Thuở còn học ở Marie-Curie nàng đã cho nhiều phong tục của người Nhựt-Bổn là mọi rợ, chẳng hạn như tục vào đêm tân hôn, tân lang tặng tân giai nhân một lưỡi đoản đao nhỏ như lá lúa và ngắn một gang tay. Lưỡi đoản đao bén ngót ấy thầm khuyên nhủ người vợ rằng nếu rủi ro thất tiết thì chỉ có một giải pháp ấy thôi, chớ không còn con đường nào cho một người đờn bà biết bổn phận của mình cả.
Ngọn đoản đao Nhựt-Bổn đã bị thời gian xóa mất nơi trí nàng từ khi nàng rời mái học đường, nơi mà người thiếu niên, thiếu nữ nào cũng hăng say với những tư tưởng cực đoan của tuổi máu nóng cả.
Nhưng giờ đây, khi mà chính người Nhựt-Bổn cũng đã lần lần từ bỏ cái tục man rợ ấy, thì nàng lại thấy tất cả sự quan trọng của lời khuyên nhủ cụ thể ấy.
Trong một triệu người vợ, chưa chắc đã có một người gặp rủi ro. Nhưng hằng giờ, hằng phút đều có hằng trăm người đàn bà nghĩ vẩn vơ vì một hình ảnh nào đó đã thoáng hiện trong đời họ.
Và ngọn đoản đao lá liễu kia là một vị thần giữ cửa, một viên quan giám sát mà đôi mắt nghiêm khắc sẽ làm cho kẻ sắp tuột dốc phải hoảng sợ mà gượng lại cho vững bước đường đạo đức.
Hòa lên đường sáu ngày thì Thu nhận được của chồng một bưu thiếp đề địa điểm gởi là Ba-Ri.
Sau lưng bức ảnh in nhiều màu ấy, Hòa biên vắn tắt những lời sau đây :
Em thân yêu,
Ba-Ri là trạm chót của đường hàng không Đông-Nam-Á – Tây-Âu. Tới đây anh phải mượn ngay đường Bắc-Phi để ghé Bạc-Xơ-Lôn cho kịp ngày khai hội. Mệt lắm. Nhớ em và Lan-Chi lắm. Lo lắng về sức khỏe của em thật nhiều.
Hôn hai mẹ con một trăm cái.
Thu đọc lại bức thư hà tiện lời nầy từng chữ, tìm cách đọc giữa dòng, cố kiếm trong đó những ẩn ý mà chồng nàng không nói ra hết được vì khuôn khổ hẹp của tấm bưu thiếp.
Biết rằng Hòa bắt buộc phải vắn tắt như thế, Thu vẫn nghe mình hơi hờn chồng, vì bưu thiếp nhắc nhở tác phong của anh ấy, một người không chịu sống cho vợ con, tâm trí để ở đâu đâu, chỉ ừ hử qua loa với nàng lấy lệ thôi, trong câu chuyện hằng ngày giữa vợ chồng với nhau.
Nàng nhìn mãi bức thư xa và Hòa hiện lên qua mấy mươi dòng chữ viết vội vàng ấy, hiền từ, nhưng lạnh lẽo gần như là không có tình cảm.
Chàng là một công dân xứng đáng của quốc gia mà có thể của thế giới nữa, một người chồng làm tròn bổn phận ông chủ gia đình. Nhưng mà « con người không phải chỉ sống vì bánh mì ».
Đoạn sau của ý nghĩ trên đây của nàng là nhan một quyển tiểu thuyết đã làm cho cả Âu-Châu đều giựt mình, mấy năm trước đây.
Từ hơn một phần tư thế kỷ nay các phần tử tiến bộ của Âu-Châu đều gào thét đòi cơm áo và quả quyết rằng vật chất chi phối tất cả. Trong khi đó thì họ tiếp tục sống một đời sống tinh thần và tình cảm rất phong phú và đối với những kẻ có bánh mì mà thiếu đời sống tinh thần, tư tưởng phản động lại, thành hình lần lần và được cụ thể hóa bằng cái tác phẩm trên đây nó nói lên những cảm nghĩ thầm kín của nhiều người đối với nhân sinh quan trước kia.
«Con người, không phải chỉ sống vì bánh mì!» Nhứt là khi con người đó là một thiếu phụ trẻ đẹp ra đường là được hằng trăm người ngoái lại nhìn, trong số đó có cả đờn bà con gái. Con người, nhứt là đờn bà, nhứt là đờn bà đẹp, cần tình yêu như cây cỏ cần ánh sáng mặt trời. Đem một chậu cây cảnh vào nhà năm hôm liên tiếp thì thiếu sương nắng, cây cảnh vô phước ấy sẽ héo lá lần lần. Đem một nữ sinh vào một cuộc hôn nhơn theo lý trí, và chung sống với một người chồng chỉ biết có sách vở thì nữ sinh ấy chưa hóa ra bà già bốn năm sau ngày cưới thì cũng lạ lắm.
Thu lật tấm bưu thiếp qua và nhìn bức ảnh của một thành quách cổ thời phong kiến Âu-Châu. Nàng đã lỡ chuyến đi này trong đời nàng và có lẽ cho đến lúc nàng xuống mồ cũng không được xem tận mắt những cảnh nước non xa lạ mà nàng mơ ước từ lúc còn cắp sách đến trường.
Nhưng niềm ân hận hụt đi xa ấy không to, không xót bằng niềm ân hận không được yêu trong thời còn con gái và không dám yêu vào lúc gần cuối mùa yêu nầy.
«Hôn mẹ con một trăm cái!»
Thu bật cười. Quả Hòa đã hôn nàng nhiều lần mỗi hôm nhưng nàng biết chắc rằng trong khi làm cái công việc đó, chàng nghĩ đến sự nghiên cứu tìm tòi của chàng. Biết bao nhiêu lần nàng đã lắng nghe những cái hôn rất mạnh nhưng cũng rất lạnh của chàng. Chàng chỉ làm phận sự thôi, cho vợ khỏi buồn, cố ấn mạnh mũi chàng vào má vợ và ấn mạnh quá nên nàng thấy rõ sự cố ý của một cử động không có hồn.
Nàng không oán hận chồng. Hòa yêu nàng thật tình, nhưng hắn không có thì giờ yêu. Hắn đã trót say khoa học, thì không lỗi ở hắn cho lắm. Nếu bắt mọi đờn ông trên đời nầy phải để cả thì giờ nhàn rỗi của họ cho tình yêu thì chắc loài người sẽ không làm được vì không hưởng được nhiều sự nghiệp lớn.
Nàng chỉ tủi thân vì số phận thôi, và tự an ủi rằng phải có một hạng đờn bà bị hy sinh, hay tự động hy sinh như nàng để lo cho những người đờn ông như Hòa, có thế khoa học, văn học, mới tiến tới được. Âu cũng là phận sự một nữ công dân vậy.
Nhưng con ngưòi tình cảm nơi nàng thật bất khuất. Nó trưng ra nhiều bằng chứng không thể chối cãi được là nhiều nhà khoa học lỗi lạc trên thế giới đã yêu, mặc dầu họ còn bận hơn Hòa nhiều lắm. Họ đã sống như một người thường, tuy có làm việc mỗi ngày nhiều giờ hơn người thường thật đó. Họ vẫn đi xem hát, đi du lịch, họ vẫn chinh phục một người đờn bà trong một thời gian nào đó và sau hôn nhơn họ tiếp tục sống với người bạn đời của họ với những cuộc phiếm du tay đôi, những chuyến đi xa với cả gia đình. Mỗi đầu hôm, họ đã để ra vài tiếng đồng hồ mà đàm đạo với vợ họ về những vấn đề thấp sát mặt đất : vấn đề giá thị trường, vấn đề may mặc, vấn đề thủ tục xã giao.
Không, tại Hòa như vậy, chớ nghề nghiệp hắn nào có bắt buộc hắn ép mình vào một nếp sống khô cằn như thế bao giờ đâu !
– Má ơi, Lan-Chi nhớ ba lắm ! Chừng nào ba về má !
– Lan-Chi ngủ rồi thức dậy sáu chục lần như vậy thì ba về.
– Sáu chục lần là bao nhiêu má ?
– Là sáu chục lần.
– Nhiều hay ít má ?
– Sáu chục là nhiều.
– Nhưng Lan-Chi không biết nhiều đến bao nhiêu.
– Lan-Chi có một cái bánh cầm trên tay là một. Có hai cái bánh cầm hai tay là hai. Có sáu chục cái bánh thì cầm không hết, sắp ra đầy cả bàn mà cũng không đủ chỗ sắp.
– Như vậy sáu chục lần, nhiều quá má ơi !
– Ừ, nhiều quá.
Thu cũng chợt thấy là sáu mươi ngày nhiều quá, dài quá, và sự trông đợi lâu vô cùng.
– Lan-Chi giận ba lắm. Sao ba đi làm lâu về quá. Mọi khi trưa ba về, tối ba về.
– Ba không đi làm như mọi khi nữa. Ba đi xa lắm.
– Ba đi đâu má ?
– Ba đi... ơ... hơ, ba đi... ơ... hơ... ba đi học.
– Ba đi học trò hả má ?
Lan-Chi thường thấy những trẻ bé ôm cặp đi ngang qua nhà nó. Má bảo rằng những anh, chị ấy là học trò. Lan-Chi rất thích làm học trò như các anh chị đó, và chỉ biết có danh từ học trò thôi, mà không biết động từ đi học.
– Sao ba người lớn mà cũng đi học trò nữa má ?
– Ừ, người lớn cũng đi học trò.
– Sao mấy ông ở nhà bên kia không có đi học trò má ?
Thu ôm con mà hôn trơ trất. Nàng cười và đáp :
– Người lớn thì chỉ có ba là đi học trò thôi.
Bỗng nàng chú ý đặc biệt đến điều mà nàng vừa nói cho con nghe. Người lớn chỉ có Hòa và một số hiếm hoi vài người khác là học hỏi. Đành rằng hằng vạn người đã đi học thêm Ăng-Lê, hoặc khoa cứu cấp, hoặc một nghề phụ nào đó. Nhưng họ học có thời hạn một năm, hai năm, và có giờ giấc, chớ không miệt mài, không quyết học cho tới lúc bạc đầu như Hòa.
Hòa thuộc vào một hạng người riêng biệt trong xã hội, không sống như người thường. Lúc ưng lấy Hòa, nàng không ý thức về điều nầy, quên mất loại người riêng biệt này đi. Không thể nói hôn nhơn của nàng với một nhà bác học tập sự là một rủi ro mà nàng phải chịu. Nàng đã trọn quyền tự do chọn lựa, và sở dĩ chọn lầm một... siêu-nhân chỉ vì vô ý thức thôi.
«Nhưng mà, nàng nghĩ, theo lẽ phải thì Hòa phải báo trước cho mình biết sở thích của hắn, hoài bão của hắn, để nhắc cho mình nhớ đến loại người bị xã hội quên mất vì quá hiếm hoi, vì hàng ngũ của họ quá thưa thớt.
«Khi mà người ta theo hoặc định theo một nếp sống riêng biệt, không ăn khớp với nếp sống của mọi người chung quanh, người ta có bổn phận phải đặt rõ vấn đề cho người hôn phối tương lai xem xét.
«Mình không hề được xem xét trường hợp đặc-biệt của Hòa, thì giờ mình có quyền thắc mắc, có quyền trách móc Hòa nữa là khác. Và nếu không phải là đờn bà Á-Đông, mình có cả đến cái quyền đặt lại vấn đề. Quyền đây là quyền đối với phong tục, luân lý và lòng mình, chớ thật ra pháp luật vẫn cho mình cái quyền ấy, trọn vẹn hay một phần nào đó.
«Hòa có quyền sống theo sở thích chàng, nhưng không được phép bắt người khác phải theo chàng. Đành rằng trên đời nầy có những người đờn bà thích hi sinh, quên mình để lo cho những người chồng mà họ phục ngành hoạt động, nhưng mình không phải, không được hân hạnh làm những người đờn bà cao quí ấy, mình thấp lè tè với hoài bão sống một đời tầm thường của mình, thì lôi kéo mình vào một đời sống như vậy – cho dẫu là vô tình đi nữa – có phải là không tốt bụng lắm chăng ? »
– Má ơi má có nhớ ba như Lan-Chi vậy hay không má ?
Lan-Chi hỏi mẹ mà không đợi nàng trả lời, nó ôm mẹ mà hôn một cái thật mạnh và nói tiếp :
– Lan-Chi cưng má lắm. Lan-Chi cũng cưng ba lắm.
Thu hôn lại con cũng thật mạnh.
– Má cũng cưng Lan-Chi lắm.
– Má có cưng ba hôn má.
Thu hiểu rằng con muốn hỏi nàng có yêu thương cha nó hay không, nó lầm lẫn động từ cưng với động từ yêu thương.
– Có, má cưng ba lắm.
Nàng thành thật mà đáp như vậy. Nàng yêu Hòa, yêu nhiều lắm, và vừa xấu hổ sau lời đáp nầy, mà nhận ra rằng mình đã tìm đủ lý lẽ để mà trách chồng.
Lý lẽ của nàng rất vững, nhưng then chốt là ở cái điểm yêu chồng hay không. Yêu thì chồng thế nào nàng cũng theo được, lên thác, xuống ghềnh, qua đèo lặn suối, còn không yêu thì không còn vấn đề gì để mà thắc mắc nữa cả.
«Mình yêu chồng, Thu tự xác nhận điều ấy lại với chính nàng. Chồng mình đáng yêu lắm. Nhưng mà, trời ơi, mình cần sống đầy đủ về mọi mặt, vật chất lẫn tinh-thần.
«Cái khía cạnh tinh-thần ấy, trước đây mình chỉ thoáng thấy thôi, rồi nó mờ đi và mình quên mất nó trong mớ bổn phận phức-tạp của một người nội trợ, một người mẹ.
«Nhưng cuộc gặp gỡ năm nào đã ngẫu nhiên tô đậm lại ý thức mang máng của mình, và chung quy rủi ro của đời mình chính là cuộc gặp gỡ ấy chớ không phải hôn nhơn không hòa hợp lắm của mình với Hòa.
Thật là đường tơ kẽ tóc, sự thay đổi đường đi của mỗi cá nhân trong kiếp người. Nếu mình không gặp Quí, nếu đừng có trận giông tố, nếu vua Quang Trung không chết sớm, nếu người Pháp đến trễ vài mươi năm ?
Đời người, cuộc thế bị treo lơ lửng bằng một sợi chỉ mành là «Nếu».
« Và nếu mình chống lại được với sự quyến rũ! Ừ, mình phải chống lại, không thôi thì đổ vỡ cả. Lan-Chi, đứa con yêu quí của mình, nguồn an-ủi độc nhứt của mình, ngày sau lớn lên nó sẽ nghĩ thế nào về mẹ nó, một người đờn bà yếu đuối, kém hèn, không có can đảm hi sinh cho chồng cho con ? Ừ, mình phải nỗ lực, không thôi thì hỏng cả ».
Thu nằm nhà được mười hôm yên lành, sau khi chồng nàng lên đường.
Qua ngày thứ mười một, nàng ra Saigon, định mua sắm vài thứ... không cần thiết. Nàng ý thức rõ rệt rằng những món ấy không cần thiết nhưng không hiểu sao, cứ muốn đi mua sắm, và dự định mua sắm được nàng săm soi từ năm ngày nay, nó ám ảnh nàng ngày đêm, không sao yên tâm với nó được.
Ra tới chợ Bến-Thành, lòng nàng được giải thoát khỏi sự bồn chồn đi chợ ấy, nhưng tiềm thức của nàng lại bị một người khách lạ và vô hình len vào. Thu nghe mình cứ lo lo, như là có một sứ mạng gì phải làm xong hôm nay, sợ quên sứ mạng, nhưng lại không biết rõ nàng phải làm gì.
Nàng rảo quanh các hiệu ba-da nhỏ bằng chiếc khăn mù-xoa đặt ở bìa chợ, rồi băng qua Lê-Thánh-Tôn, đổ ra Lê-Lợi, tốn hơn một tiếng đồng hồ rồi mà chỉ mua được một cái gạt tàn thuốc. Hòa đi vắng rất lâu, nhà nàng chẳng tiếp khách đờn ông bao giờ vì Hòa rất ít giao thiệp, thì món này thật vô ích, nhưng lúc lựa chọn, nàng không ý thức rõ lắm là mình sắm cái gì.
Thu từ trước nhà thuốc Nguyễn-Văn-Cao, băng qua mặt chợ, rồi từ đó, băng qua nhà thuốc Kim-Quan.
Mười phút sau nàng bắt chợt nàng đứng nơi một cửa hiệu đồ sứ cũ ở dãy tiệm buôn trước ga xe lửa. Nàng ngạc nhiên hết sức, không biết mình đến đây để làm gì. Đáng lý gì, không còn mua sắm gì nữa, nàng đã lên xe mà về nhà rồi.
Nàng ngơ ngác đứng nhìn hành khách rộn rịp bên ga, nghĩ vơ vẩn đến những chuyến đi gần, nghĩ đến người đi xa, rồi liên tưởng đến người... can thiệp cho Hòa đi xa.
Nàng bỗng hoảng sợ vô cùng mà khám phá ra rằng nàng đã bất giác đi về hướng đường Lê-Lai là nơi mà Quí ở, và điều nầy còn đáng kinh khiếp hơn nữa là hôm nay, nàng đi ra đây rất trưa, tức là nếu có ghé thăm Quí thì Quí đã đi dạy học về tới nhà rồi.
Phải, đúng là tiềm thức nàng đã âm thầm xui nàng hành động trái với thói quen, trái với lẽ phải như thế. Hôm nay nàng không cần mua sắm gì mà vẫn ra Saigon, ra đây xong, lại sắm một món đồ mà chồng nàng không cần dùng, trái lại cái anh chàng hút thuốc như ống khói tàu là Quí rất cần, mua sắm xong lại không lên tắc xi hay không đi vào bến xe buýt vàng là thứ xe đưa về khu nàng ở mà lạc bước về hướng Lê-Lai này.
Thu bối rối quá khi bắt chợt được lòng nàng, bắt chợt được khuynh hướng vô giác nó đưa bước của nàng đến những nẻo đường mà nàng không muốn đi.
Không do dự, nàng vội bắt lại một chiếc tắc-xi rồi như kẻ đi bắt ghen, nàng hối thúc tài-xế :
– Xóm Cầu Mới, chạy cho mau !
Về tới nhà, Thu hổn hển đẩy cửa bước vào, như vừa chạy trốn một kẻ thù ác hiểm. Đóng cửa lại xong, nàng mới nghe đã thoát nanh vuốt của địch thủ vô hình.
Bé Chi đang chơi búp-bê, đứng lên reo :
– Má về....ê..
Rồi a lại ỏm mẹ hỏi lăng xăng :
– Má có mua kẹo cho Lan-Chi hôn má ? Má có gặp ba hôn má ? Má ơi, ở nhà chị Sáu ghẹo Lan-Chi má à !
Nàng cúi xuống bồng con lên, hôn nó thật mạnh, lòng hối hận vô cùng. Nàng không có mua quà gì cho con hết vì bận lo ra, có rảnh trí đâu để mà nghĩ đến chi tiết ấy. Nàng nói láo với con :
– Bữa nay má đi thầy thuốc nên không có mua gì được cho con. Mai mốt má sẽ mua nhiều thật nhiều để bù lại.
– Má có gặp ba hôn má ?
– Có, ba bận việc, sẽ về sau, ba gởi về Lan-Chi lu bù cái hôn đây.
Lan-Chi cười, để cho mẹ hôn mình rồi lại mét :
– Má ơi, chị Sáu ghẹo con, lêu lêu con, nói con nhớ ba.
– Đừng sợ. Con nhớ ba thì tốt chớ có xấu hổ gì đâu.
– Sao chỉ nói « mắc-cỡ », má ?
– Chỉ nói chơi. Không nhớ ba mới là đáng mắc-cỡ.
Thu đáp xong câu ấy, cứ nghe nó vang lên bên tai nàng, và nghe như đó là lời kẻ khác khiển trách nàng chớ không phải là lời của nàng nữa.
Nàng đã mắc-cỡ với chính nàng quá kể từ cái lúc mà nàng bắt gặp cái hình nộm của người đi thất thểu bơ vơ về hướng Lê-Lai. Đó là hình nộm của chính nàng mà tâm trí đã ra khỏi xác, chỉ còn lại trong ấy một chút xíu linh hồn nên nó yếu đuối quá mà hành động theo lời sai khiến của một tay phù thủy ẩn mặt.
Không khí ấm áp ở đây, những hình ảnh quen thuộc, hai gương mặt bầu bạn của con nàng và của con nhỏ ở đã giúp nàng lấy lại can đảm vừa suýt mất.
Thu đã bình tĩnh hẳn và yên lòng như một toán bại binh vào được trong thành trì kiên cố, kéo điếu kiều lên, bỏ đạo quân đuổi bắt lại ngoài hào xa.
Nàng thay y phục và lo đi làm cơm, làm những món ăn rắc rối y như là chồng nàng còn ở nhà. Bao nhiêu công việc dọn quét, vá may, Thu đã làm hết sạch rồi, giờ nàng chỉ có thể giết thì giờ bằng những món nấu phiền phức, những món bánh lạ thôi. Đọc sách cũng nguy hiểm lắm, vì đọc một lát là có thể buông sách để nghĩ vẩn vơ, còn cố gắng lắm thì tiếp tục đọc mà không hiểu gì, tâm trí vẫn phiêu lưu nơi khác như là ở không vậy.
Tuy nhiên chỉ độ một tiếng đồng hồ sau là người vợ hiền nầy đã phải hoảng sợ trở lại y như khi sáng.
Những rác rến bừa bãi quanh tâm trí nàng sao mà như là rác ma. Nàng lấy chổi quét nó đi, thì một lát sau, nó bò trở lại như cũ. Đó là những rác bẩn nó làm dơ cả căn buồng sạch sẽ thơm tho của lòng nàng.
Hễ hở tay chổi, bận nhồi bột hay thái thịt là chúng kéo đến, chẫm rãi nhưng chắc chắn. Nàng lại phải tảo thanh, cứ mười lăm phút một là đánh một trận quyết liệt, không bại, nhưng không bao giờ toàn thắng cả.
Thu nhớ lại quyển tiểu thuyết Hoa-Kỳ «Nanh trắng» của J. London mà nàng đã được đọc hồi còn ở nhà trường.
Chuyện kể đời một con chó, nhưng bắt đầu bằng một cảnh chiến đấu y hệt như cảnh chiến đấu của nàng hôm nay : một tay đánh bẫy kia – hay làm rừng gì đó, nàng đã quên mất – vào mùa đông, đưa xác của bạn từ trong rừng sâu về làng mạc.
Dọc đường, hắn bị một bầy chó sói đói đuổi theo, và hễ tối lại, dừng chơn hạ trại thì lũ chó nầy tràn đến vây lấy hắn, toan ăn thịt hắn. Hắn phải thức suốt đêm và trong nhiều đêm dài như vậy để dùng lửa trại mà đuổi xua chúng.
Hễ hắn vung lên một thanh củi, than đỏ bắn ra thì sói nới rộng vòng vây, nhưng năm phút sau là đâu trở vào đấy khiến hắn mệt mỏi vô cùng vì cuộc chiến đấu không ngừng này.
Kẻ băng rừng tuyết hễ ngủ quên là chết. Nàng cũng thế, hễ ngừng tay quét là rác bẩn sẽ tràn tới phủ ngập tâm hồn, và mãi như vậy cho đến tối. Thu uống một viên thuốc ngủ mới bình tĩnh lại được.
Loại thuốc ngủ này vừa có dược tánh dỗ giấc, vừa an thần, nên lúc chưa ngủ, người uống vẫn nghe được cảm giác bình yên thơ thới.
Nàng tránh được một đêm trằn trọc, phải vật lộn với những ý nghĩ không hay.
Sáng hôm sau, Thu thức dậy mệt nhọc vô cùng vì hậu quả của thuốc ngủ, và vì những cơn ác mộng của đêm rồi. Nàng thấy những gì, không còn nhớ cho hết, chỉ giữ được có một hình ảnh sau cùng thôi là đang đứng trên miệng một vực thẳm, nhìn xuống dưới thấy tối om. Nàng biết chắc hễ rơi xuống đó là nát xương, nhưng lại cứ muốn nhảy xuống đó.
Nàng phải uống rốc một ly cà-phê đậm đen mới xua được sự uể oải trong người. Những giọt cà-phê từ phin rịn xuống ly khi nãy, giờ như đang thấm vào các tế bào của nàng để đuổi bắt những con làm biếng bé tí ti ẩn úp trong đó.
Thu lo bữa ăn sáng cho con và cho nàng xong thì giao nhà và giao Lan-Chi cho con ở rồi xách giỏ đi chợ như thường bữa.
Nửa tiếng đồng hồ sau, về đến nơi, mới nắm chiếc hột xoài mà vặn thì đã nghe Lan-Chi nói to bên trong :
– Má ơi! Ba gởi thơ về.
Nàng vừa mở cánh cửa ra thì Lan-Chi cũng chạy ra tới đó, tay cầm một tấm bưu thiếp mà khoe :
– Má ơi ! Ba gởi thơ về cho Lan-Chi.
Nhà nầy không bao giờ nhận được thơ của ai cả, trừ những bưu kiện sách vở mà Hòa mua ở ngoại quốc. Lan-Chi thơ dại nhưng cũng rất thông minh mà đoán được ngay đó là thơ của cha nó.
Thu trao giỏ đồ ăn cho con nhỏ rồi rước lấy bưu thiếp mà xem. Đây là tấm bưu thiếp thứ nhì, chàng gởi về từ khi lên đường, vẫn vắn tắt mấy lời như bưu thiếp trước :
Em,
Anh đã tới Bạc-Xơ-Lôn hôm qua. Mệt lắm. Mai nầy đã khai hội rồi. Sẽ viết thư thật dài về cho em. Nhớ em và nhớ Lan-Chi lổm. Hôn hai mẹ con thật nhiều.
HÒA.
– Ba nhắn gì Lan-Chi đó má ?
– Ba nói nhớ Lan-Chi lắm.
– Ba nói với má hả ?
Nàng giựt mình mà chợt nhận thấy con thông minh quá sức. Nó chụp được ngay một chi tiết mong manh trong câu đáp của nàng và biết ngay cha nó nói với mẹ nó chớ không phải nói với nó.
Nàng cúi xuống ẵm con lên, đi vào buồng và nói láo:
– Không, ba nói với Lan-Chi. Ba viết: « Lan- Chi ơi, ba nhớ Lan-Chi nhiều lắm »
Lan-Chi giựt lấy bưu thiếp nhìn sững mấy dòng chữ rồi hỏi :
– Chỗ nào đâu má ?
Thu chỉ vào chữ Lan-Chi và nói :
– Đây.
– Phải rồi. Hồi nãy chị Sáu cũng chỉ chỗ nầy nói ba viết Lan-Chi ở đây.
Thu đặt con xuống giường để nó chơi với tấm bưu thiếp, đi thay y phục rồi xuống nhà bếp chỉ cho con nhỏ những công việc mà nó phải làm như là lặt rau, làm cá, trước khi nàng bắt tay vào việc.
Nàng trở lên buồng trên, xin con tấm bưu thiếp để nằm mà nhìn tuồng chữ của chồng.
Hòa viết chữ tốt, rõ ràng, nhưng thật thà không bay bướm, không ngoạn-mục lắm, y như là tánh tình và nếp sống của chàng.
Thu lẩm bẩm đọc lại một vài đoạn thư : « Mai nầy đã khai hội rồi ... » «... Sẽ viết thư thật dài về cho em. . . ».
Mai nầy đã khai hội rồi ! Mai nầy chàng sẽ lạc vào mê đạo khoa học và không còn biết có trời đất quanh chàng nữa thì bức thư thật dài báo trước đó, chỉ là ảo ảnh thôi.
Giờ đây mới thật là một mình ! Từ ngày chàng lên đường đến nay, Thu không nghe hoàn toàn cô đơn vì nàng biết rằng ở bên kia trời, chàng vẫn nghĩ đến nàng, qua muôn dặm trùng dương.
Giờ đây mới thật là một mình, khi mà chàng chơi vơi trong những cuộc thuyết trình, cũng như hồi còn ở nhà, chàng đã vùi đầu trong sách vở.
Một mình ! Trên đời nầy, không còn ai nghĩ đến nàng nữa cả ?
Thu vụt ngồi dậy như để nỗi loạn vì quá công phẫn cho phận nàng.
« Không, nàng kêu thầm lên trong bụng, không thể nào mà mình chịu được cảnh hẩm hiu nầy ! Tại sao chàng lại không nghĩ đến ta trong khi không giờ phút nào mà ta không nghĩ đến chàng ! »
Sự thật đã hiển nhiên ra đó là « Mai nầy », mai của ngày gởi thơ tức là chuyện đã xảy ra bốn ngày rồi, sự thật không chối cãi được là trong giây phút này đây, chồng đang say mỹ tửu khoa học của chàng, cơn say kéo dài hai ba tuần lễ, rồi sau đó chàng sẽ say trong hơn một tháng cơn say văn hóa ở Tây-Đức.
Thu ôm mặt mà khóc rồi nằm vật xuống giường. Lan-Chi lết lại gần mẹ, xoa bàn tav nhỏ xíu của nó lên tóc mẹ mà nói, giọng đả đởt mà Thu thường dùng để dỗ nó :
– Tội nghiệp má tui! Nín đi má rồi Lan-Chi cưng! Rồi Lan-Chi đi Saigon cho má đi theo.
Thu kéo tay con xuống mà hôn, và Lan-Chi cúi xuống sát tai mẹ mà nói nho nhỏ :
– Má đừng khóc chị Sáu chỉ lêu lêu mắc cỡ má đa. Lan-Chi khóc bị chỉ chế nhạo dữ lắm.
Tối hôm đó Thu không buồn uống thuốc ngủ nữa. Uống nhiều quá, hóa ra tự tử hay sao, mà uống kha khá cũng nguy vì nửa đêm nửa hôm có trộm đạo, hay con đau ốm gì thì làm sao. Bằng uống một hai viên không sao trốn được cô đơn cả.
Cơn lạnh của lòng nàng đêm nay, chỉ có một ngọn lửa là sưởi ấm được thôi. Đó là ngọn lửa tàn của một dĩ vãng gần, ngọn lửa ái ân mà chính nàng đã cố dập tắt trong cái đêm chìm đò trôi giạt trên hoang đảo Tân-Vinh.
Không, nàng không hoàn toàn trơ trọi, và trong không gian, có những âm ba tư tưởng phát ra từ một máy phát ba đặt trên một con phố kia trong đô thành.
Tâm trí nàng là chiếc máy thu ba ghi nhận những làn sóng đã phát ra ấy và nàng nghe mình được an ủi vô cùng, y như một chiếc tàu linh đinh trên đại dương giữa đêm tối, mặc dầu cách biệt loài người hằng ngàn hải lý, vẫn cảm nghe dính liền với lục địa bằng những làn âm của đường vô tuyến.
Các vô-tuyến-điện viên trên những chiếc tàu bơ vơ ngoài khơi, thích bắt nghe những làn sóng lưu lạc cho đỡ lạnh lòng. Thỉnh thoảng họ đánh đi làn sóng của họ, ghi lời thăm hỏi đến vài vô-tuyến-điện viên lạ, rồi thành quen về sau, và đêm đêm những người quen mà không thấy mặt ấy, trao nhau nỗi niềm của họ.
Thu muốn khối óc, trái tim nàng là một đài phát ba để có thể gởi đi những đợt sóng lòng đáp lại những đợt sóng của người kia mà nàng ghi được.
Nhưng thôi, những tiếng thì thầm đơn phương mà nàng lắng nghe trong đêm tối, cũng đã an ủi lắm rồi. Đêm nay, nàng không buồn chiến đấu nữa vì đã quá mệt mỏi để thủ thành từ sáng đến giờ mà cũng quá quạnh hiu trong thành kiên cố của nàng.
Địch thủ hãm thành cũng không phải là một kẻ thù ác độc mà phải sợ hắn tàn sát một khi hắn vượt khỏi điếu kiều.
Hắn đến chầm chậm, nhẹ nhàng bước vào thành, không, bước vào hồn nàng với gương mặt âu sầu của một người khách bị hất hủi phải chờ đợi từ lâu mới được tiếp một lần hôm nay. Hắn nói:
– Em Thu à! Tình trạng giữa đôi ta thật không ổn, ta phải dứt khoát mới được.
Hắn thật đáng ghét! Tại sao hắn cứ lải nhải đòi dứt khoát mãi như vậy? Còn biết phải dứt khoát thế nào? Thu chỉ muốn gặp mặt hắn để tưởng nhớ lại đêm lạnh trên sông. Chỉ có thế thôi.
Đáng ghét, nhưng hắn cũng dễ ưa, thật là mâu thuẫn. Hắn là một vùng đất man rợ và lắm đồi cao, rừng rậm.
Cánh đồng bằng hiền lành là Hòa tuy cũng đẹp với thảm cỏ non xanh tận chơn trời, với mái tranh quyện khói lam chiều, nhưng nó đều đều, bằng phẳng đến chán mắt.
Hắn là người anh hùng, là ông hoàng tử đẹp trai của giấc mơ thời con gái của nàng.
Nhưng hấp dẫn nhứt là hắn là một người phàm, một người thường, gần gũi nàng không biết bao nhiêu, chớ không phải đứng trên cao chót vót như siêu nhân Hòa mà nàng kính phục nhưng hơi sợ hãi ,vì sự cách biệt.
«Tại sao mình cứ lẫn tránh hắn ? Hắn có làm gì mình đâu ? Chưa lần nào hắn dám vô lễ hay sỗ sàng. Hắn chỉ nài nỉ yêu đương, mà không hề xúc phạm đến mình và mình đủ sức tự vệ kia mà ! »
Trong giây phút, Thu bỗng sống lại thời con gái của nàng mà nàng chưa sống qua trọn vẹn. Giấc mơ thiếu nữ bị hôn nhơn cắt đứt nửa chừng, giờ tiếp diễn trước mắt nàng. Đó là giấc mơ yêu, cố nhiên rồi.
CHÀNG, một thanh-niên chưa biết mặt, đã quen với nàng trong một cuộc gặp gỡ hay hay y như là trong một tiểu thuyết lãng mạn. Thu không tưởng tượng nổi cuộc gặp gỡ nào sôi nổi bằng chuyến quá giang xe trên đường Cổ-Chiêm – Rạch-Miễu, hồi hộp bằng cái lần chìm đò ấy, gay cấn bằng đêm lo sợ trên hoang đảo và ly kỳ bằng trò chơi cút bắt với tình yêu sau đó.
Trong giấc mơ, nàng chịu thua lý trí và một chiều lộng gió kia đôi bạn cầm tay nhau đi trên một con đường ngoại ô.
Thần tiên là những giấc mơ kỳ thú của đời thiếu nữ nó kéo dài cho đến rất lâu về sau trong đời mẹ hiền, vợ tốt... Không người đàn bà nào thú nhận đã nằm mơ trở lại những giấc mơ trinh nữ ấy, nhưng quả họ đã tiếp tục mơ.
Thành trì thế là đã mở cửa và CHÀNG đã vào thành. Viên tiểu tướng dũng khí hiên ngang ấy chỉ vỗ về bá tánh chớ không bạo hành. Hắn cũng chẳng toan cướp thành lần nào, nên nữ tướng giữ thành đã bớt sợ hãi và nàng cho phép nàng được chuẩn bị một cuộc viếng thăm đáp lễ sau nầy.
Bất giác Thu kéo mền lên đắp, mặc dầu trời nóng bức khiến nàng phải quạt Lan-Chi không ngừng tay.
Tự nhiên nàng nghe lạnh quá, vì sống trở lại mà không hay cái đêm ướt át trên đảo Tân-Vinh.
Đó là một hiện-tượng kỳ lạ chứng tỏ rằng tinh thần chi phối thể xác. Cách đây tám năm, nhiều tạp chí khoa học trên thế giới có đăng những quan sát kỳ lạ về ba viên phi công bị rơi máy bay trên băng giá của Bắc-cực. Họ sống trong bão tuyết hơn nửa tháng trời và khi được cứu thoát đưa về đất ấm, vào giữa mùa nực, họ cứ tìm lò sưởi điện để hơ ấm, từ năm nầy qua năm khác.
Thu không mắc phải chứng lạnh kinh niên như vậy mà chỉ nghe lạnh trong một buổi thôi, vì trong một buổi, sức tưởng tượng của nàng mạnh quá, nàng sống lại mãnh liệt quá khoảng đời ngắn ngủi mấy tháng trước kia.
Sáng hôm nay Thu không đi chợ. Đồ ăn cũ ngày hôm trước còn nhiều quá vì nàng đã làm quá nhiều để giết thì giờ.
Không đi chợ nhưng nàng ra khỏi nhà thật sớm. Nàng phải đi Chợ-Lớn để mua vài hộp thuốc tặng Quí.
Hòa rất ít hút thuốc. Mỗi sáng thức dậy, chàng chỉ hút một cối thuốc thật ngon rồi thôi, cho đến chiều tối ăn cơm xong mới làm một cối nữa, cối thứ nhì và cuối cùng trong ngày.
Nhưng chàng ít hút mà chỉ hút thuốc thật ngon thôi. Nàng đã đi với chồng mỗi tháng một bận vào các sạp thuốc lẻ, trước « Móng trời » bên kia đường, để mua thứ thuốc rời ngoại quốc mà Hòa rất ưa.
Thu đã tặng Quí mấy lần thuốc hộp đó và đã nói láo rất vụng rằng nàng tình cờ mà thấy họ bầy bán ngoài phố một loại thuốc lậu thuế mà phải sành lắm mới tìm được chỗ mua.
Mua thuốc xong, nàng bỗng do dự không muốn đến thăm bạn nữa. Quí sẽ nghĩ sao về nàng khi là chủ động trong vụ can thiệp cho Hòa xuất ngoại, hắn biết rằng Thu đến thăm hắn vì vắng chồng ?
« Hắn sẽ khinh rẻ mình hay không nè ? Nhưng chắc không, vì trước kia, Hòa ở nhà, mình cũng đã dám đến thăm hắn như thường. Nhưng mà cũng không thể đi thăm hắn được ! Hắn đã âm mưu cho mình đến, mình đến là hắn đắc thắng, là mình thua, thua vì đã trúng kế hắn. Nhưng không, mình chỉ vì đau ốm mà phải ở lại. Chính hắn mới suýt thua, vì hắn không dè mình quyết đi theo chồng từ đầu đến cuối. Không, hắn không thắng đâu. Hắn chỉ hưởng một sự may mắn bất ngờ, do cái rủi của mình thôi. Hắn là kẻ lố bịch đáng buồn cười, đã âm mưu một cách lỏng lẻo, thiếu khoa học »
Thu suy luận thế nào rồi rốt cuộc cũng kết luận rằng đi thăm Quì là phải.
Không hiểu sao, lần này gần tới nhà Quí nàng lại hồi hộp, lo sợ phải đụng đầu với một người đàn bà – không phải là khách – trong đó.
Có nhơn tình thì bất cứ lúc nào Quí cũng có thể có, nhưng trước đây nàng không lo sợ như bây giờ. Cố nhiên là không phải sợ xung đột giữa họ và nàng vì không thể có một cuộc xung đột như vậy được, mà sợ Quí không còn là người con trai rảnh rang nữa.
Nàng thử tưởng tượng một tình trạng như thế và nghe buồn vô hạn mà sẽ phải ra về sau vài phút thăm viếng xã giao, để rồi không bao giờ đến nữa.
Con đường Lê-Lai với những ngày mưa ngập lụt, với những cây dé ngựa bên này đường, với những mui xe lửa nhô lên khỏi đầu tường bên kia đường, bỗng nhiên trở thành ngậm ngùi kỳ lạ trước ý nghĩ rằng nàng phải vĩnh viễn xa nó từ đây. Và ngậm ngùi hơn nữa là ý nghĩ phải vĩnh biệt con người mà nàng muốn xa lánh.
Thu ứa nước mắt khi bước xuống xe buýt tại bến Bồn-Binh. Từ đó mà qua cửa Nam, mấy lần nàng muốn rẽ tay mặt để lại bến xe buýt vàng, làm như là chuyện tưởng tượng trên đây đã xảy ra rồi.
Trí thì muốn thế, nhưng chân cứ đưa nàng lạc bước sang phía ga xe lửa. Và mười lăm phút sau là nàng đã đến trước căn nhà mà phía trước, trên vỉa hè trồng một cây bàng chớ không phải cây dé ngựa như trên các quãng vỉa hè khác của con đường nầy.
Kỷ niệm đọc sách bấy giờ lại hiện ra, làm cho Thu càng buồn hơn. Tiểu thuyết về miền Bắc của nước ta hay nói đến những lá bàng rơi lác đác vào mùa đông, và cảnh biệt-ly, cảnh nhớ nhung thương tiếc nào trong các tiểu thuyết ấy cũng xảy ra trong một bầu trời xám xịt với: «Cơn gió thổi, lá bàng rơi lác đác» «Trong giây phút lạnh lùng tê tái ấy»...
Cửa nhà Quí mở và cứ bằng theo giờ khắc thì Thu biết là chàng chỉ mới về đến nhà thôi.
Quả thật thế, Quí chưa thay y phục và hình như là đợi ai, vì chàng đang ngồi sẵn trên ghế sa-lông, không làm gì cả, hay bận dòm ra đường.
Vì Thu từ đàng chợ Bến-Thành đi bộ lại, mà cửa nhà thì trổ trịch về hướng chợ Thái-Bình, nên Thu chỉ đi qua dưới cửa sổ chớ không có qua cửa lớn và mãi đến lúc nàng bước lên thềm, Quí mới chợt trông thấy nàng.
Chàng nhẩy nhổm lên rồi vừa chạy ra cửa vừa reo như Lan-Chi mừng nàng đi chợ về :
– A, em ! Em đã đến, thật đúng như anh dự đoán.
Thu cười bằng mắt một cách hóm hỉnh và hỏi :
– Sao anh lại dự đoán là em đến ?
– Ơ... hơ... ừ, tại linh tánh của anh báo trước như vậy, mời em vào.
Chàng chỉ mời vì quen miệng thôi, chớ Thu đã vào đến nơi rồi. Nàng đặt hai hộp Prince Albert lên mặt bàn. Quí nhìn hình dáng của hai hộp thuốc lộ ra dưới lớp giấy gói mỏng, đoán ngay được món quà nên tay rút bíp miệng nói :
– Để anh hút liền một cối rồi ta cùng sống lại đêm nhịn thuốc trên hoang đảo.
Ống cối của Hòa khác hẳn ống cối của Quí, và hai người sao mà họ mua bíp tài tình quá, chiếc bíp giống hệt họ, người nào của nấy, và cá tính mỗi người như được khắc vào trên bíp.
Ống cối của Hòa nhỏ và bọc da trông có vẻ đài các và sang trọng, yên ổn như người công chức cao cấp sống trong một biệt thự ấm. Trái lại, bíp của Quí to thấy mà phát sợ và đẻo ngay trong một khúc rễ cây Bruyère cằn cỗi sù sì, hình thù kỳ dị như đầu gậy trúc của các ông lão trong tranh Tàu.
Quí ngậm chiếc bíp khổng lồ và man rợ ấy một cách ngang tàng, chớ không ngậm hiền hậu như anh chàng mê sách.
Thu ngồi đó mà nhìn bạn hút thuốc và thấy cả khói của Quí cũng khác hẳn khói của Hòa, nó xông lên cuồng loạn chớ không vẽ trong không trung những vòng tròn đều đặn.
Quí lấy bíp ra rồi nói :
– Cám ơn em đã đến cho anh đỡ mong ngóng ngày đêm.
– Tại sao anh lại đoán được rằng em đến ?
Nàng lặp lại câu hỏi mà Quí đã đáp không ổn khi nãy.
– Anh đã nói rằng nhờ linh tánh.
– Anh nói láo. Em đến thăm anh thì đã đành, nhưng cũng để thử xem anh có can đảm thú tội hay chăng ?
Quí chưng hửng thật tình và hỏi :
– Thú tội ? Anh có tội gì ?
– Còn làm bộ ngạc nhiên ! Anh nguy hiểm lắm, và em tha thiết yêu cầu anh nên biết điều một chút, có phải chăng là chính anh đã vận động cho anh Hòa của em xuất ngoại ?
Thu cố gằn hai tiếng « của em » êm dịu ấy, vì nó cũng là lời thần chú mà nàng dùng để xua ma quỷ.
Quí kinh sợ đến cực độ, vội hỏi :
– Sao ? Hòa đã biết gì ?
– Anh ấy không biết gì cả, chỉ có em là biết thôi.
Quí nghe nhẹ cả người, bình tĩnh lại, mỉm cười mà rằng :
– Mấy thằng yêu là mấy thằng điên. Em nên thông cảm với cái điên của lũ đó. Nhưng sự thật anh không có vận động, anh chỉ...
– Anh chỉ can thiệp thôi. Nhưng can thiệp cũng là...
– Không, anh chỉ gợi ý cho ông Dương, ông ấy gợi ý với ông Viện-trưởng.
– Tức là.. hừ... kẻ thôi miên để sai khiến người khác đi giết người, vẫn có tội với người khuất mặt, với lương tâm mình chớ ?
– Nhưng mà nếu anh có vận động hay can thiệp gì đi nữa thì cũng để giúp anh ấy...
– Giúp, giúp phân vợ rẽ chồng người ta hay giúp cái gì ? Anh ngỡ làm như vậy anh sẽ cướp được vợ người ta sao ?
– Không, anh không có tưởng như vậy, cũng không định làm như vậy. Anh thú thật rằng anh chỉ muốn thấy mặt em thôi. Anh đoán hễ em buồn, chắc thế nào em cũng đến thăm anh một lần, và anh đoán đúng.
Thu cười rất dòn, rất dài và rất mai mỉa :
– Anh thật là khờ, anh không biết rằng em được đi theo chồng à ? Và đẩy Hòa đi, tức là đẩy em đi luôn với chồng em.
Quí giựt mình và như sực tỉnh, hoảng hốt nói :
– Ừ em nói đúng. Trời ơi, té ra em sắp đi theo anh Hòa ?
– Không, em ở lại.
Lần nầy chính Quí cười bằng cả mắt, cả mặt. Chàng cảm động nói :
– Cám ơn em lắm, cám ơn em đã....
– Nhưng anh đừng lầm tưởng rằng em ở lại vì anh. Em bị đau ốm thình lình mà phải ở lại đó thôi.
– Vậy à ?
– Ừ, và anh chỉ may mắn hưởng được cái rủi của Hòa, chớ không ai trúng kế anh đâu.
– Chỉ có kết quả cuối cùng là đáng kể, còn kết quả ấy do nguyên nhân nào mà ra, thật không cần lắm. Em đau ốm làm sao ? Đã đỡ chưa, còn anh Hòa đi từ bao lâu rồi ?
– Hình như là em đau gan. Bác sĩ cũng, chưa biết rõ, nhưng em đã mệt thình lình, chóng mặt rất thường và đau đớn trong bụng, hay nôn oẹ !
– Nhưng uống thuốc đã đỡ chưa ?
– Đỡ.
Thu không dám thú thật rằng nàng đã khỏi hẳn. Như bao nhiêu người khác, Quí sẽ ngỡ rằng nàng giả đò đau ốm để được ở lại. Hắn sẽ đắc thắng trọn vẹn, mà tự ái của nàng cũng sẽ bị thương.
– Còn Lan-Chi, vẫn mau lớn chớ ?
– Cảm ơn anh, cháu nó vẫn ăn chơi như thường.
– Lần sau có đi thăm anh, em nên cho Lan-Chi cùng đi.
Thu cũng hơi ngạc nhiên cho chính nàng. Tại sao nàng lại không dẫn con theo và nhứt là rất ngạc nhiên mà nghe Quí đòi hỏi Lan-Chi. Lan-Chi là bức tường ngăn cách hai người mà lần trước nàng đã dùng để tự vệ, sao Quí lại thích thấy bức tường ấy dựng lên trước mặt chàng ?
Quí xin lỗi bạn, đi vào buồng và trở ra với một bình thủy và hai cái tách. Thấy bạn rót nước trà nóng ở bình thủy ra, nàng cảm động hỏi:
– Té ra anh đã giữ cái nếp mà em đã xếp cho anh, nghĩa là uống nước ở nhà ?
– Ừ, từ ngày xa em thì như vậy. Nấu nước pha trà là một cuộc hành hương mà anh làm mỗi hôm với lòng sùng bái của anh, để tưởng nhớ nàng tiên trong bức tranh không chịu hiện ra nữa.
Chỉ buồn là anh ngồi uống nước một mình, và càng buồn hơn nữa là anh chế nước vào bình thủy chớ không vào bình tích như em đã làm. Cái nếp mà em đặt ra, anh đã làm sai một chút xíu đó, nên không giống hệt xưa được.
– Sao anh lại...
– Vì anh làm biếng nấu nước hai lần mỗi ngày như em đã căn dặn. Nấu một lần thì phải giữ nước trong bình thủy nó mới nóng bền.
Thu mỉm cười, lẩm bẩm hai tiếng « hành hương » và nói :
– Hành hương, anh nói lớn lối quá, thoạt mới nghe em cứ ngỡ...
-... Cứ ngỡ anh đi đền chùa nào hở ? Phải, anh đã nói là anh muốn sống những kỷ niệm bên cạnh cái bà tiên mà...
– Nếu anh có đi Bến-tre như em, thì mới thật là đi hành hương.
– Em có về dưới à ?
– Một tuần lễ trước khi đi. Ấy, em đã chuẩn bị để đi với anh Hòa, như em đã nói. Em về để từ giã cha mẹ em.
– Qua đò, em nghe như thế nào ?
– Em đi phà chớ có dám đi đò nữa đâu !
– Ừ, em nghe như thế nào ?
– Em nói không được.
Quí thấy là Thu đã trót lỡ lời và muốn đánh trống lấp chớ tình cảm nơi nàng rất dễ nói. Nếu không yêu, nàng cũng nhớ đến một câu chuyện ngồ ngộ, còn như yêu thì nàng đã ngậm ngùi thương tiếc buổi chiều mưa gió ấy.
Nơi chàng kia, mới thật là nói ra không được. Nơi chàng là những tình cảm hỗn độn thật khó phân tách và khó diễn ra bởi vì tình yêu của chàng như chạm phải một thứ đá hàn là tình trạng có chồng của Thu. Kỷ niệm về người xưa không trọn vẹn tốt đẹp, nỗi buồn không trọn vẹn đau thương như trường hợp một người yêu vắn số hay đi lấy chồng, Thu bây giờ không phải là Thu của chàng thì đã đành, mà Thu năm ấy rõ ra cũng không phải là Thu của chàng nốt.
Trở về với ý nghĩ đầu của Thu, chàng cãi :
– Có, anh có đi Bến-tre mấy lần, nhưng anh còn làm hơn thế là đi tàu Hắc-Thán mỗi ngày.
– Tàu Hắc-Thán ? Ở đâu vậy anh ?
– Hình như là em ít đi ra ngoài lắm thì phải. Tàu Hắc-Thán là chiếc tàu nhỏ biến thành du thuyền để chở khách đi dạo mát trên sông Bến-Nghé mỗi chiều.
Anh ghiền cảnh sông nước từ cái ngày ấy nên nếu không phải vào mùa mưa thì chiều nào anh cũng đi tàu ấy hết để tưởng nhớ lại buổi chiều nào....
– Như vậy anh nên đi vào mùa mưa chớ sao lại tránh mùa mưa ?
– Vì mùa mưa không ai đi, tàu không chạy. Anh thấy em nên đi ra ngoài nhiều hơn một chút, vì xem ra em không được khỏe mạnh lắm, cần phải đổi gió. Với lại để cho Lan-Chi nó vui, nó khỏe khoắn.
Sự thật thì Thu rất cần những thứ mà bạn nàng vừa kể đó, nhưng đã không được hưởng thì thôi vậy, nàng đã nhẫn nại chịu số phận từ lâu rồi.
Nhưng Quí lại vừa nhắc đến Lan-Chi. Nàng thấy rằng vô lý quá mà nhốt một đứa bé trong nhà từ ngày nầy qua ngày khác trong khi nó rất cần khoảng rộng, trời cao, cần hơn người lớn nhiều lắm.
– Khổ quá, nàng than, em cũng nhận là cần cho Lan-Chi đổi gió thường. Nhưng ba nó đi dạy về chiều nào cũng trễ, em sợ anh ấy mệt, không dám bắt anh ấy đưa con đi dạo mát nữa.
– Anh rất thích đưa trẻ con đi chơi. Nếu em thuê anh một tháng vài trăm, anh sẽ đến nhà em mỗi ngày để làm công việc ấy.
Thu cười xòa sau câu pha trò đó, và Quí lại đề nghị:
– Nói chơi với em vậy chớ em khỏi phải mướn, vì anh thích như vậy thì chính anh phải năn nỉ em để được đưa Lan-Chi đi. Hay là chiều nay em dẫn cháu xuống đây giao cho anh, nếu em thấy anh đến nhà em, không tiện cho em.
Thu làm thinh rất lâu rồi đáp :
– Em chỉ sợ Lan-Chi nó không chịu. Anh lạ, nó đâu có dám rời em mà theo anh.
– Nó quen với anh hôm đến đây lần đầu.
– Anh tưởng một đứa bé ba tuổi nhớ dai dữ vậy à?
– Hay là em đi với nó, vì như anh đã nói, chính em cũng rất cần không khí trong lành.
– Thật ra thì cũng bất tiện lắm.
– Anh hiểu em muốn nói cái gì. Nhưng như thế nầy : bến tàu đông đảo người ta thật. Nhưng em cứ đến đó. Nếu không gặp ai quen với em thì anh sẽ lại gần em mà đưa em đi. Bằng như gặp người quen, em ra ám hiệu, anh sẽ làm mặt lạ...
– Rắc rối quá! Em không muốn làm chuyện mờ ám, âm thầm như vậy.
– Hay là thế nầy nữa: Em cứ ra đó hồi năm giờ. Anh tới trước mặt em mà chào em, như là chào bao nhiêu người quen khác. Em cũng sẽ chào đáp lễ như là chào một bạn trai thường. Không thấy ai quen, em sẽ giới thiệu Lan-Chi với anh thì anh rủ nó đi thuyền. Bằng như thoáng thấy dáng người quen đâu đó thì thôi. Như vậy chính em khỏi làm điều gì mà em cho là tùng đảng với anh cả.
Thật ra rắc rối cũng chỉ vì có em, chớ nếu Lan-Chi đi với anh thì không có gì lôi thôi đáng ngại hết .
Quí nói rất đúng. Chàng thành thật mà nghĩ như vậy và cũng cố ý nói ra điều đó, làm như là chàng không cần Thu lắm. Quả Thu mắc cái kế nhỏ ấy, cái chiến lược « dụ khị » ấy nên không sợ hãi chàng nữa.
Nàng chỉ còn nghĩ đến con, đến nỗi buồn và nỗi tù túng của nó thôi. Lan-Chi như là một con chim bị nhốt trong lồng. Nhà thường đóng cửa và nó thích nhìn qua kẽ cửa để xem thiên hạ và xe cộ lướt qua trước nhà. Những lúc xong việc bếp núc, nàng trở lên nhà trên, bắt gặp con đang rình cuộc đời bên ngoài, nàng ứa nước mắt.
Những gia đình khá giả ở các thành phố của ta, không ai dạy mà họ nuôi nấng con cái y như người Âu là không cho chúng nó chạy rong ngoài đường. Nhưng cũng như người Âu, chiều lại họ đưa chúng nó ra ngoài. Lan-Chi thiếu cái phần sau đó, nên nó thèm đường phố, xe cộ lắm.
Thương con, nàng lại thương chính mình. Kể từ ngày lấy chồng đến nav, nàng cũng sống đời cá chậu chim lồng như vậy. Không ai cấm nàng đi ra, nhưng nàng không muốn đi, gái có chồng, đi dạo một mình còn thú vị gì!
Thu không sợ hãi Quí nữa vì chàng tỏ ra không cố nài nỉ được đưa nàng đi. Nhưng là gái thông minh, có thể Thu cũng đoán được, cũng đánh hơi được rằng đó chỉ là thủ đoạn của chàng thôi.
Có phải chăng là tiềm thức của nàng ngăn nàng đánh hơi cạm bẫy ấy?
Thương con và không sợ kẻ kia, có phải chăng hai thứ tình ấy chỉ là bức bình phong mà tiềm thức nàng đưa ra để che giấu sự thật sâu sắc hơn nhiều là lòng ham đi ra ngoài của nàng, nhứt là đi với ai kia ?
Quí đưa thêm một loạt lý lẽ nữa khiến cho Thu khỏi phải ngần ngại lâu thêm :
– Rồi em sẽ thấy nó đỏ da thắm thịt sau một tuần lễ đi hóng mát như vậy. Anh không nói ngoa đâu. Trẻ con ở thôn quê có ăn gì bổ dưỡng như trẻ con nhà có của ở thành thị đâu. Vậy mà chúng nó lớn như thổi, sởn sơ như lúa gặp mưa thuận gió hòa.
Quí rất sành tâm lý. Chàng giúp cho bạn vững lý do nhận lời bằng cách đồ đi đồ lại mãi nhu cầu của bé Lan-Chi. Chàng hỏi, làm như là Thu đã nhận lời rồi, cũng là để tránh cho bạn khỏi nói ra cái tiếng nhận lời ấy :
– Chiều nay em đợi anh ở đâu?
– Em cũng không biết đợi ở đâu cho tiện.
– Như thế nầy. Em đứng ở trước bồn bông mà trẻ con xích-đu với lại tuột đài ấy cho Lan-Chi xem các trò vui đó, hoặc chơi với chúng nó càng hay. Như vậy, em khỏi phải sốt ruột mà đợi anh.
– Anh tới trễ lắm hả ?
– Không, có lẽ anh sẽ tới sớm hơn em. Nhưng phòng hờ anh đến trễ vì một cản trở bất thình lình nào đó. Nếu trường hợp ấy xảy ra, em sẽ không phải đợi chờ. Đợi chờ là cái khổ dịch mà ai cũng sợ.
– Nhưng nếu vì lý do nào đó mà em không đến thì xin anh chớ nguyền rủa em nhé. Em không dám hứa chắc.
– Dầu sao anh cũng có mặt và bền chí đợi em cho đến mặt trời lặn. Tàu nó đi nhiều chuyến, đến tám giờ tối cũng còn đi.
– Không, em chỉ đi các chuyến sớm thôi, vì tám giờ rưỡi đã phải cho Lan-Chi ngủ rồi.
Thu đứng lên, đưa mắt soát qua một lượt rồi nói :
– Vải màn đã vàng hết, phải thay mới được. Lại thiếu một lấm ở cửa sổ bên trong nữa.
– Tấm ấy, anh giặt hơi mạnh tay một chút nên nó rách.
– Để em thay cho anh.
Nàng xin phép ra về. Quí đã có kinh nghiệm, không dám cầm cọng cũng như chàng đã cố tránh nói chuyện yêu đương từ nãy đến giờ. Chàng chỉ hơi tha thiết về chuyến phiếm du chiều nay thôi. Chàng dặn vói:
– Anh mong em nghĩ đến Lan Chi.

Bình Nguyên Lộc
Theo https://vietmessenger.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Bùi Việt Phương và những vần thơ lạ từ miền núi Bùi Việt Phương thuộc thế hệ 8X. Phương sinh ra và lớn lên ở miền núi, học xong khoa Ngữ...