Cuống rún chưa lìa 1
LỜI NÓI ĐẦU
Nhà Văn Bình Nguyên Lộc có cái tật thường khai thác một đề
tài bằng nhiều lối khác nhau. Thí dụ hai truyện ngắn "Qua lồi
cũ", trong tập "Nhốt gió", và "Cô nhơn tình ma đã
biến mất", trong tập "Diễm Phương" là hai đứa con song
sinh, nhưng lại khác nhau rất ra. Lại thí dụ truyện dài "Khi Từ Thức
về trần" và "Hồ phách thời gian" là hai tiểu thuyết
cùng đề tài, nhưng thật là khó thấy sự đồng cảm hứng của tác giả khi sáng tác
hai cốt truyện đó.Riêng đề tài yêu quê hương thì tác giả nầy viết đến mười bảy truyện ngắn, mỗi
truyện một vẻ, thoạt xem như là các truyện ấy chẳng có dòng họ gì với nhau hết.Năm 1966, vì thấy mãi lực của đại chúng ở Việt nam tương đối không cao, nên tác
giả đã chia đôi 17 truyện nầy, giao cho hai nhà xuất bản khác nhau, in thành
hai tập truyện khác tên. Nhà xuất bản "Thời mới" của nhà
văn Võ Phiến in tập "Tình đất", và nhà xuất bản "Lá Bối" (thuở
ẩy do người chủ trương của nhà xuất bản "Văn Nghệ" hôm nay,
trông coi, nhà nầy in tập "Cuống rún chưa lìa".Lần in tại hải ngoại nầy thì tác giả yêu cầu nhà xuất bản "Văn Nghệ"
nhập hai tập lại làm một, vì mãi lực của kiều bào hải ngoại cho phép các nhà xuất
bản in những cuốn sách khá dày hoặc rất dày.Quí bạn đọc của tác giả Bình Nguyên Lộc có thể sẽ ngạc nhiên mà thấy thiếu một
truyện, truyện "Kinh Tà bang". Truyện nầy nguyên là một bài hồi
ký mà chỗ ngồi của nó là tập "Nếu tôi nhớ kỹ" (hồi ký của
Bình Nguyên Lộc, kể chuyện từ năm nhà văn nầy lên sáu, cho đến ngày nay). Thuở
đó, thấy mình có thể không bao giờ đủ thì giờ đề" viết hồi ký, nên tác giả
đã biền bài đó ra thành truyện ngắn. Nhưng từ mấy tháng nay thì nhà văn nầy đã
khởi thảo tập hồi kỷ đó rồi, nên chi ông ấy rút truyện Kinh Tà bang ra để cho
nó trở lại lối văn hồi ký hầu bổ túc cho tác phẩm đang viết đó.Chỉ cỏ bấy nhiêu thay đổi ấy thôi, chớ tác giả Bình Nguyên Lộc không có thêm hoặc
bớt đi câu nào, chữ nào hết.Nhà xuất bản
CĂN BỆNH
BÍ MẬT CỦA NÀNG
Cư xá Valmante ngày... tháng... năm...
Anh T...
Những ngỡ không bao giờ còn viết thơ cho anh nữa! Chắc anh đã ngạc nhiên trước
sự im lặng của tôi dạo sau nầy, và chắc anh đã hờn tôi, nên tôi cũng chẳng được
thơ từ gì của anh.
Ngày nào chồng tôi vào nhà thương thăm tôi, tôi cũng hỏi có phong thơ nào mà bì
màu ngà, trên ấy có in riêng hai chữ N.Đ. hay chăng, chồng tôi lắc đầu. Anh biết,
chồng tôi là người Pháp thì anh ấy không có ghen xằng mà thủ tiêu thơ của bạn
trai của tôi đâu.
Chắc anh đã hơi đoán được cái gì rồi, khi nghe tôi nói đến mấy tiếng "nhà
thương".
Vâng, tôi vừa ốm khỏi anh ạ! Mà cả nước Pháp đều không biết tôi mắc bệnh gì,
cái mới nguy cho chớ!
Không rõ tôi đã hành động, ăn nói ra sao mà chồng tôi phải đưa tôi vào một bệnh
viện đặc biệt kia mà sau đó, tôi mới hay rằng đó là bệnh viện La Timone một nhà
thương điên to nhất của miền Nam nước Pháp do giáo sư khoa tâm bệnh B. làm giám
đốc.
Sau nhiều lần khám bệnh tôi bằng đủ các phương pháp tối tân, giáo sư B. cho rằng
tôi thuộc loại con bệnh không cần thuốc men, mà phải được chữa bằng trị liệu
tâm bệnh (Psychothérapie), bởi bệnh tâm trí có nhiều loại do nhiều nguyên nhân
gây ra.
Thật ra thì tôi không có điên anh T. à, bằng cớ là tôi còn nhớ tới anh và hỏi
thăm chồng tôi về thơ từ của anh. Tôi chỉ buồn bực, quạu quọ, cau có với chồng
tôi và có những lúc tôi ngồi đó mà như đi vắng, chồng tôi nói gì, tôi cũng chỉ ừ
hử lấy lệ mà thôi.
Ban đầu anh ấy tức giận lắm, nhưng sau anh ấy đoán rằng tôi mắc bệnh tâm trí
nên ảnh hành động theo chiều hướng tin tưởng của ảnh và quả giáo sư B. đã xác
nhận rằng tâm thần tôi không được bình thường.
Mỗi ngày tôi "bị" đàm thoại với giáo sư B. một tiếng đồng hồ. Đó là
thuốc của ông ấy đấy.
Giáo sư B. chọc cho tôi xì ra những nén tâm, những uẩn khúc của lòng tôi để
giúp tiềm thức tôi có cách tháo củi sổ lồng cho những ẩn ức trong nội tâm của
tôi.
Nhưng chính vị y sĩ lão thành, suối râu bạc phơ, sang giàu hiểu biết và kinh
nghiệm ấy lại suýt hóa điên vì ông ấy bí tì,chịu rằng không thể biết tôi mang nặng
những ẩn ức nào.
Biết rằng bệnh mà không được điều trị thì càng ngày nó càng tiến triển đến nguy
kịch; trong trường hợp tôi, có thể đến tình trạng điên loạn, thì còn gì là đời
tôi nên tôi nỗ lực để hợp tác với giáo sư B., không hề giấu chuyện lớn, chuyện
nhỏ nào cả.
Ông ấy lục lạo trong dĩ vãng của tôi, thám hiểm thuở thiếu thời và thơ ấu của
tôi, tìm biết cả cha, mẹ, ông bà, tam đại của tôi nữa, không có xó kẹt nào
trong quá khứ của đời tôi từ ba bốn thế hệ qua mà ông không bắt tôi tự phanh
phui ra, nhưng thật là không có gì cả: hiện tôi đang sống hạnh phúc với chồng
tôi mà những dĩ vãng xa hay gần mà tôi để lại nước nhà cũng đều không có gì cho
tôi phải xấu hổ thầm hoặc hối hận.
Giáo sư B. hồ nghi rằng tôi không thành thật, và đoán rằng tôi có một bí mật gì
lớn lắm mà quyết giấu, nên ông cho một vị bác sĩ trẻ tuổi, giỏi thôi miên, đưa
tôi vào một giấc ngủ nhơn tạo mà trong đó tôi phải hoàn toàn khuất phục uy quyền
của các ông ấy.
Thế mà tôi cũng không có "cung khai" ra cái gì hết, mặc dầu hai ổng
đã hỏi khéo léo tôi bằng trăm câu hỏi hóc búa trong khi tôi mơ màng dở tỉnh dở
say.
Tôi và chồng tôi lo sợ lắm, và tôi ngỏ ý muốn tìm bệnh viện cừ hơn và danh y
khác hơn.
Nhưng bạn hữu của chúng tôi bảo rằng tôi mà có lên Ba-lê, có đi Đức, đi Áo, quê
hương của Freud là ông tổ của khoa phân tâm học đi nữa, tôi cũng chỉ sẽ tìm ra
được một giáo sư B. II mà thôi, vì giáo sư B. là một tay cự phách trong khoa
tâm bệnh, khét tiếng ở khắp Âu châu và cả bên Mỹ nữa.
Thật là khổ cho tôi.
Giáo sư B. vừa ban bố ơn huệ, vừa bắt buộc vợ chồng tôi điều này là mỗi chiều
chồng tôi phải vào nhà thương để đưa tôi đi dạo phố, vì ông thầy thuốc già ấy
không còn biết làm gì nữa cả để giúp tôi.
Con phố mà tôi thích nhứt là con phố La Canebière đưa thẳng xuống bến tàu (bến
cũ) khung cảnh danh tiếng của ba vở kịch danh tiếng của nước Pháp: Marius, Fany
và César, cùng một tác giả, một đầu đề một câu chuyện.
Chồng tôi cứ tưởng tôi thích nơi đó vì đó là một con phố xưa, mang nhiều dấu vết
lịch sử và vang danh trong văn chương Pháp với không biết bao nhiêu là tác phẩm
nói đến nó, nhưng sự thật thì khác, mà mãi về sau, chúng tôi mới biết.
Chồng tôi muốn nói thạo tiếng Việt nên chúng tôi chỉ chuyện trò bằng tiếng Việt
mà thôi. Một chiều kia, chúng tôi rảo bước như thường lệ trên vỉa hè, và tôi hỏi
chồng tôi:
- À, anh có cho nhuộm lại chiếc áo bị bẩn rượu vang của em hay chưa?
Chồng tôi chưa kip mở miệng để thốt ra tiếng nào thì thình lình có một lão Tây
già ồ, già ghê đi, chỉ kém già hơn vị giáo sư đã chữa bệnh cho tôi mà thôi, lão
ta từ đâu không rõ, nhảy đến chận đường vợ chúng tôi mà nói bằng tiếng Pháp:
- Xin lỗi bà, bà làm ơn lặp lại câu mà bà vừa nói với ông.
Vợ chồng tôi kinh ngạc, trố mắt mà nhìn lão Tây già nầy, không rõ anh ấy nghĩ
gì chớ riêng tôi, tôi cho rằng lão ta cũng là thân chủ của bệnh viện La Timone,
bệnh lão ta tái phát mà người nhà lão ta chưa kịp đưa lão ta trở vào đó.
Chiều nay sao mà chồng tôi vui tính và dễ tính quá. Anh ấy nói:
- Em cứ thỏa mãn ông ấy đi.
Tôi y lời chồng, nói lại câu chuyện nhuộm áo bằng ngôn ngữ của mẹ tôi.
Lão ta nghe xong reo lên:
- Đúng rồi, bà nói nghe như hát. Đúng là bà ở xứ ấy mà đến đây.
Nói xong lão ta òa lên mà khóc rấm rứt rất lâu, rồi mới thổn thức giải thích:
- Tôi tin chắc rằng bà là người Việt nam. Cái lối nói nghe như nhạc ấy, tôi
không thể lầm với ngôn ngữ của dân tộc nào khác cả, mặc dầu vì lười, tôi không
có học tiếng của bà.
Chẳng nói giấu gì ông bà, tôi đã sống bên ấy suốt ba mươi năm, từ thuở thanh
xuân của tôi đến lúc tôi về hưu, vâng, tôi là giáo sư toán pháp ở Lycée
Chasseloup-Laubat. Về hưu, tôi vẫn ở lại đó để dạy tư, không phải vì còn ham hoạt
động mà vì tôi đã quá quen với những chơn trời ở bên ấy, đã thương mến những
chơn trời ấy rồi thì hồi hương, tôi lại nghe mình bỡ ngỡ, lạc hướng.
Nhưng rồi tôi vẫn phải hồi hương vì tôi đã hoảng hốt khi thấy quân đội Pháp triệt
thối. Không, tôi không phải là thực dân, nhưng vẫn bị mặc cảm vì một số đồng
bào của tôi quả đã tỏ ra không xứng đáng.
Từ ấy đến nay, trên mười năm rồi, tôi nhớ xứ Việt nam không nguôi, và ngôn ngữ
và giọng nói của bà mà tôi chợt nghe lúc đi qua đây khi nãy, như bỗng đưa lại
hương vị xa xôi của cái đất mà tôi không mong trở lại.
Trời, tôi bị xúc động không biết bao nhiêu, ông bà ơi!
Thình lình tôi nắm lấy tay chồng tôi rồi chạy đi, anh ấy trì lại thế nào cũng
không được với tôi.
Bấy giờ, kẻ sợ người điên là lão giáo sư già ấy, chớ không phải là tôi nữa, vì
trừ phi nổi cơn điên thình lình mới hành động một cách bất lịch sự với người có
tấm lòng như lão ấy, chớ còn một kẻ bình thường, tệ lắm cũng mời lão ta vào
quán giải khát để nói vài ba câu chuyện.
Chúng tôi chạy được một thôi đường thì tôi mệt lả người, dừng bước lại để thở hổn
hển. Chồng tôi mắng tôi:
- Em thật là điên. Lão ấy bị bỏ rơi như thế, anh nghe tội nghiệp lão quá. Sao
em lại sợ lão ta một cách vô lý như vậy?
- Không anh à! Có chuyện quan trọng.
Đến phiên chồng tôi ngỡ tôi điên, nên hơi lo lắng.
- Em nên bình tĩnh. Để anh gọi tắc xi đưa em về bệnh viện.
- Ừ, em phải về đó ngay để báo tin với giáo sư B. rằng em đã khỏi bệnh rồi.
Chồng tôi hơi khổ lòng mà thấy bệnh của vợ mình trở nặng thêm.
Khi tôi thấy mặt giáo sư B. tôi chạy a tới, ôm lão, khóc ra những giọt lệ sung
sướng mà rằng:
- Giáo sư ơi, con đã biết bệnh con rồi.
Ông lão ấy nhìn chồng tôi, nheo mắt mà cười hóm hỉnh, tỏ vẻ hiểu cái gì, rồi hỏi:
- Thế à? Có phải là con ghen bóng, ghen gió, và đã được chồng của con giải
thích, đã phá tan ngộ nhận của con hay không ?
- Không, thưa giáo sư, con chỉ sầu xứ mà thôi.
Ông lão râu tóc bạc phơ này đưa cả hai tay lên trời rồi reo lên:
- Chúa ơi! Lão thật ngốc quá ! Chỉ có thế mà lão không hề nghĩ đến. Đúng là như
vậy rồi. Theo hồ sơ thì bà có Pháp tịch, thế nên lão mới quên mất rằng bà gốc
người ngoại quốc.
- Nhưng thưa giáo sư, chồng tôi hỏi, sao lúc bị thôi miên, vợ tôi cũng không
cung khai ẩn ức đó?
- À, điều đó thì bà ấy nên tự phân tách lòng bả xem sao. Chắc bả sẽ giải thích
được điểm kỳ dị ấy.
Giáo sư B. bắt tôi ở lại thêm vài hôm vì người chưa dám chắc rằng tôi đã khám
phá ra sự thật.
Nhưng quả tôi vui và yêu đời trở lại, và rất bình thường trong mọi việc, nên ba
hôm sau, ông ấy cho tôi về, không quên căn dặn tôi trở lại khi nào tôi biết được
do đâu mà tôi giấu sự thật, cả lúc tôi bị thôi miên nữa.
Một tuần lễ qua, mà tôi chỉ tìm được có một sự thật thôi, nhưng là sự thật
khác.
Trên bước đường đi dạo mát với chồng tôi mỗi hôm, hai chơn tôi bất giác tiến về
phố La Canebière, vì con phố ấy đưa xuống bến tàu, mà bến tàu Marseille là nơi
gần quê hương của tôi nhất, nơi mà tàu bè nhổ neo để đi Viễn đông, nên tiềm thức
tôi xui tôi về nơi đó. Một tuần lễ sau nữa, tôi mới đi viếng giáo sư B.
- A, chào bà, ông ấy reo lên. Tôi trông vẻ tươi tắn trên gương mặt bà, tôi đoán
rằng bà đến để giải thích cái gì, chớ không phải để xin làm thân chủ của tôi.
- Thưa giáo sư, đúng như vậy.
- Nào, mời bà dạy thêm tôi một bí mật của khoa tâm bệnh mà tôi còn dốt.
- Không dám. Nhưng sự thật là như thế này, thưa giáo sư. Sở dĩ tôi đã giấu nhẹm
ẩn ức sầu xứ, nhớ nhà, không chịu cung khai ra trong giấc ngủ thôi miên là tại
chồng tôi...
- Trời ơi, sao mà chồng bà lại quá gắt gao đến đỗi cấm vợ nhớ nhà ?
- Thưa không, nếu anh ấy cấm thì đó mới thật là ẩn ức và tôi đã xì ra rồi, khi
tôi bi thôi miên. Nhưng anh ấy không hề ngăn cấm, trách cứ, mà lại thuyết phục
tôi.
Anh ấy thuyết phục giỏi đến thế nào mà cả tiềm thức tôi cũng tin rằng tôi không
sầu xứ, nhớ nhà, và ẩn ức phải bỏ tiềm thức, lùi vào trốn trong tâm để
(tréfonds) thế nên rất khó mà bắt được nó.
- Giỏi, ông ấy thuyết phục làm sao?
- Thật ra thì chẳng có gì. Nhơn một hôm tôi tâm sự rằng tôi nhớ quê hương lắm,
anh ấy hơi hơi ngạc nhiên rồi nói: "Em đã ưng lấy anh, đã nhập Pháp tịch,
đã bằng lòng theo anh sang đây thì anh ngỡ rằng em đã cân nhắc kỹ lưỡng rồi, mà
hễ chọn xong là dứt khoát".
Thưa giáo sư,chồng tôi nói không đúng về sự dứt khoát là không còn nhớ quê
hương nữa, nhưng vì tôi ngỡ anh ấy nói đúng nên cố gắng nhiều để tin chồng tôi
nên trong thâm tâm, tôi vẫn tin như vậy được. Chính vì thế mà ẩn ức bị đẩy vào
sâu hơn chăng?
Vị giáo sư già gục gật đầu, vừa vuốt chòm râu bạc,vừa suy nghĩ, rồi giây lâu,
ông nói:
- Có những tâm hồn cốt-mô-bô-líc (tĩnh từ Pháp của vị giáo sư già nầy, tôi xin
tạm dịch là tâm hồn đô thị và quốc tế), những người mà tâm hồn như vậy, họ rất
thoải mái như cá trong nước khi họ chạy từ thủ đô của quốc gia này đến thủ đô của
quốc gia khác, mỗi chỗ họ sống qua vài tháng, không gắn bó với đô thị nào hết,
hoặc người của đô thị nào hết nhưng lại rất ưa những người ấy trong một lúc, rồi
ra đi, không luyến lưu, cũng không để lại cái gì cả.
Trái lại, có những người trung thành đến trọn đời với những chân trời quen thuộc,
nghiện ngập mùi vị, màu sắc, âm thanh của nơi họ sanh trưởng, một vùng quê hay
một thành phố nhỏ. Bà thuộc hạng người thứ nhì, bà khó lòng mà dứt khoát.
Nhưng bà đã truy nã được ẩn ức của bà thì từ đây nỗi sầu xứ của bà chỉ là một nỗi
sầu xứ thôi, chớ không còn là một bệnh nữa.
Có những mối sầu không nguôi, nhưng người ta sống với những mối sầu ấy, vui với
mối sầu ấy, nói ra thì nghe hơi mâu thuẫn chớ quả con người đã vui được với những
mối sầu, những niềm đau mà người ta cất kỹ để được vuốt ve cho đến trọn đời...
chẳng hạn như một niềm đau vì tình.
Vị giáo sư già nầy nói tám tiếng sau cùng, sau một hồi im lặng, rồi ông ngó
mông vào khoảng không, vẻ mặt xa vắng vô cùng, khiến tôi không sao mà khỏi nghĩ
đến một cuộc dứt tình nào, cách đây mấy mươi năm của một sinh viên y khoa kia.
Lâu lắm, ông ấy mới nhớ lại rằng ông đang có khách. Ông cười mà rằng:
- Nhưng, cốt là khỏi bệnh, và chúc bạn vui mãi mãi với gia đình.
Ông đưa tay ra và tôi nghe hơi thương con người đã có một niềm đau ấy cũng như
tôi đã thương tôi vì không nguôi được với niềm sầu xứ của tôi.
Sướng nhé! Anh T. ơi, giờ tôi mới tìm lại được chính tôi, mới dám can đảm
"làm tôi", dám nhớ quê hương thả cửa.
Miền Nam của nước Pháp ve nhiều quá, và sở dĩ tôi mang bệnh có lẽ tại nhạc ve của
mùa nầy, nó gợi nhớ không thôi, xứ sở của ta.
Chồng tôi đưa tôi đi xem cây chuối độc nhứt còn sống được ở miền Nam nước Pháp.
Cây chuối nầy trồng cạnh cung điện của ông Hoàng xứ Monaco trên con đường đi từ
Nice đến Menton.
Cây chuối có chiếc gậy màu đưa tôi trong phút giây, về quê hương yêu mến ấy,
coi vậy mà không huyền diệu bằng cái ao rau muống của bà phán Như Ngọc ở Toulon
mà chồng tôi cũng đưa tôi đi xem sau đó.
Vừa trông thấy ao rau muống là nước mắt tôi chảy ròng ròng, nhứt là cạnh ao bà
phán lại trồng nào là ngò, rau om, rau răm mà cái mùi Việt nam của nó
"ngàn năm chưa dễ đã ai quên".
Anh T. nhà quê ơi, rất nhiều lần anh nói với tôi là anh không ưa Đà lạt, vì
phong cảnh Đà lạt không phải là phong cảnh Việt nam. Tôi đã chế giễu anh, nhưng
giờ, tôi mới thấy là anh hữu lý. Xin lỗi nhé người bạn trung thành với nước mắm
!
Anh à, đây là tâm sự cuối cùng, một thắc mắc lớn lao của tôi, xin anh nghiền ngẫm.
Không có tâm hồn "cốt-mô-bô-líc" tôi lại lấy chồng ngoại quốc nên niềm
đau của tôi khiến tôi thương không biết bao nhiêu những đứa con Việt nam của những
cặp vợ chồng sinh viên Việt nam, cả chồng lẫn vợ đều Việt.
Vì lẽ riêng gì của họ không rõ, họ không chịu về nước và những đứa con ấy sẽ
còn khổ hơn tôi không biết bao nhiêu, khi chúng lớn lên.
Chúng nó sẽ về đất mẹ, và đáng lý vì được toại nguyện, chúng sẽ nhớ không nguôi
và một cách ngược đời quê hương của người khác.
Vâng, đúng như vậy. Sách vở dạy chúng phải yêu nước Việt nam, nhưng lòng chúng
chỉ có thể yêu nước Pháp mà thôi. Trí và lòng chúng khó lòng mà đi đôi với nhau
được vì yếu tố chánh của tình yêu quê hương, không phải là ý thức vì dòng máu,
mà là tình gắn bó vào thuở thiếu thời với những chân trời quen thuộc, với màu sắc,
mùi vị, âm thanh mà tuổi thơ quen thấy, quen nếm, quen nghe.
Sẽ có hằng vạn người Việt nam mang tâm hồn Pháp, cũng như hiện đang có một phụ
nữ Pháp mang tâm hồn Việt nam là tôi. Thật là oái oăm cho thân phận con người !
Nhưng tôi chỉ là một, không đáng kể. Cái số vạn công dân Việt nam mang tâm hồn
Pháp ấy, sẽ là những công dân bỡ ngỡ, mà đáng ngại nhứt là họ sẽ là những phần
tử ưu tú của nước Việt nam ta. Họ là cháu nội, cháu ngoại của những nhà giàu hiện
nay, họ sẽ được đi học tới nơi tới chốn, sẽ là những chuyên viên cần thiết, nếu
ngày kia họ chiếu cố đến đất tổ của họ.
Không thể nào hình dung nổi một nước Việt nam mà cấp lãnh đạo lại có tâm hồn
ngoại quốc, không biết nước Việt nam ấy sẽ giống cái gì, chưa hề có tiền lệ
trong lịch sử thế giới.
Thân chào anh T. nhé, và xin gởi về xứ Đồng nai tất cả tấm lòng tôi.
CON TÁM CÙ LẦN
Mặc dầu nó cù lần, con tám Cù Lần là hy vọng cuối cùng của
tôi 1.
Từ hôm đầu năm tới bây giờ, tôi đã thay đổi người làm năm lần rồi. Tôi nghe nói
bên Âu Mỹ, công ăn việc làm nhiều lắm, nên người đi ở lấy rất mắc và chỉ có bực
triệu phú mới dám thuê người thôi, nên tôi cũng không khổ lắm mà phải làm một
mình đủ thứ việc trong nhà, ngặt trẻ con đông, tôi không làm sao mà quán xuyến
cho hết công việc.
Con Tám Cù Lần là đứa độc nhất không biết rằng ngoài gia đình tôi, còn rất nhiều
người hoạt động trong đủ thứ ngành, ngành nào cũng cần nhân công, cho đến mấy
ông thầu khoán mà cũng tuyển mộ phụ nữ để phụ với thợ nề, tuy họ trả lương
không cao hơn tôi, trên hai ngàn đồng mỗi tháng mà không cho ăn, ở, áo quần như
tôi, nhưng phụ nữ họ vẫn thích đi làm phu lương thấp hơn là đi ở. Họ không đá động
tới nhân phẩm, tới gì hết ráo, nhưng tôi biết rằng ai cũng sợ nội trợ cả, chính
các bà nội trợ là tôi đây mà còn sợ, huống hồ gì là người chưa có gia đình: làm
nội trợ rất tối tăm và rất buồn, chưa kể nhọc không tưởng tượng được.
Nếu như mấy năm trước thì tôi không thể nào nhận con Tám Cù Lần cả.
Các cháu cho nó cái tục danh ấy, và tục danh được trường sanh, vì tả rất đúng
con Tám.
Các bạn có bao giờ thấy con Cù Lần chưa? Tôi không có gặp nó trong rừng sâu như
đàn ông đã gặp mà chỉ thấy một con Cù Lần người ta bắt về nuôi mà thôi. Nó nhỏ
cỡ bằng con mèo, nhưng lông màu giống màu lông chó phèn. Đôi mắt nó lờ đờ và
như lim dim ngủ suốt ngày, có xô đuổi nó, nó cũng không buồn biết tới. Khi nào
cần xê dịch lắm, nó mới dời chỗ, mà nó phải bỏ ra một tiếng đồng hồ để đi lối một
thước tây. Ấy, con Tám là hình ảnh trung thành của con Cù Lần, có kêu gọi nó
thì phải đợi mười phút sau mới nghe nó lên tiếng, và đợi thêm mười lăm phút nữa
mới thấy mặt nó, mặc dầu nhà tôi, từ trước ra tới sau bếp chỉ dài có 15 thước
tây thôi.
Nó cũng chẳng biết làm gì hết ráo, trừ lặt rau và rửa chén. Vậy mà tôi quí nó lắm,
vì dù sao nó cũng đỡ tay cho tôi phần nào. Chẳng hạn, tôi dạy nó lau gạch trong
một tuần lễ thì nó đã lau sạch được nền nhà, một mình nó, khỏi phải kiểm soát nữa.
Giặt giụa thì hơi khó thật đó Nhưng chắc dở lắm nó cũng làm được sau một tháng
học tập. Sáu tháng nữa là tôi có thể nghỉ ngơi một ngày vài tiếng đồng hồ.
Người mình cứ tin rằng đi rừng mà gặp con Cù Lần thì ba năm làm ăn ngóc đầu
không lên, nhưng ngày mà một người bà con đưa con Cù Lần nầy tới đây, tôi sung
sướng vô cùng. Dĩ nhiên là ngày đó nó chưa mang tên Cù Lần nhưng tôi đã nghĩ
ngay đến danh từ Cù Lần lúc thấy mặt con bé thôn nữ quá chậm chạp này.
Bỗng dưng đùng một cái, cái hy vọng cuối cùng của tôi, một đêm kia, xin nghỉ việc.
Tôi choáng váng gần như là nghe ba các cháu tỏ ý muốn đoạn tuyệt với tôi. Năm đứa
con thơ, mà đứa lớn hơn hết mới có bảy tuổi, đứa bé hơn hết mới được có sáu
tháng thì các bạn tính coi.
Thật là tin sét đánh vì con tám Cù Lần không có tánh ngồi lê đôi mách, không ưa
đánh đôi đánh đọ với bạn đồng nghiệp của nó cùng khu phố - vả lại cũng còn leo
heo vài đứa thôi, đứa nào cũng tật nguyền cả - thì làm sao mà nó biết tin tức về
sinh kế ở đô thành hiện giờ mà muốn "thoát ly". Các bà nội trợ ở xóm
nầy, chắc không ai dụ dỗ nó làm gì, trái hẳn với thói phần đông của các bà, vì
ai thấy cái tướng Cù Lần của nó cũng phát ngán, đâu có chuyện quyến rủ một người
làm giỏi, hoặc kha khá.
- Mầy xin thôi thiệt sao Tám? Tôi gạn hỏi nó một cách ngớ ngẩn như vậy, và nó
thật thà đáp:
- Dạ thiệt cô à!
- Ai nặng nhẹ mầy, ai ăn hiếp ăn đáp mầy?
- Dạ, không có ai cô à.
Tôi nghĩ tới các cháu, khi hỏi câu trên. Chúng nó không ác, nhưng chúng nó có
thể vô tình làm phật lòng con bé hiền lành nầy.
- Mầy thôi để đi làm cho Huê kỳ hả?
Con Tám ngơ ngác nhìn tôi mà không đáp, và tôi hiểu ngay rằng không phải thế.
Không, nó không hề hay biết gì hết về sự đổi thay mấy tháng nay: công việc nhiều,
người làm ít. Nó thật thà, dốt nát, và không có đi đâu cả, trừ theo tôi đi chợ
rồi về.
- Chớ mầy thôi rồi đi đâu, làm gì?
- Dạ, cháu nhớ ốc gạo.
- Nhớ ốc gạo?
Bây giờ tới phiên tôi ngẩn ngơ nhìn nó. Con bé nầy nó trêu tôi sao mà? Ai lại
nhớ ốc gạo!
Kể về thú vật thì chính mắt tôi đã thấy những thằng bé chăn trâu, chăn bò, nhớ
trâu bò, khi chủ chúng nó bán những con vật ấy. Chính mắt tôi lại đã thấy những
bà cụ ở thôn quê sa nước mắt mỗi lần chú chệt mua heo xách cây cần vòng bằng
mây đến bắt chơn cho heo của các cụ té rồi trói gô lại khiêng đi. Người da trắng
xem chó là bạn thân, nhưng xứ ta, chó chỉ đứng vào hàng thứ ba trong nỗi nhớ niềm
thương của thiên hạ thôi. Và những loài vật được loài người thương nhớ, chỉ có
bốn loại ấy, trong xã hội ta. Tôi có nghe vài người nói nhớ gà, nhưng họ nói
nghe ra không tha thiết lắm. Nhưng ai lại nhớ ốc gạo bao giờ. Loài ốc gạo ở dưới
nước, nội cái đặc tính ấy của giống vật đó đủ chỉ rõ rằng ta không có lý do mà
nhớ nó. Nó có gần gũi như mèo, hay tệ lắm như chuột đâu. Con dơi coi vậy mà thỉnh
thoảng còn vào nhà thăm ta, chớ ốc gạo thì lạnh như nước rạch mà chúng sống
trong ấy!
- Theo pháp luật thì mầy với tao, cả hai phải báo với người kia hay trước mười
lăm ngày, nếu muốn thôi nhau, mầy có biết không? Tôi hỏi.
- Dạ không.
- Không thì nên biết đi. Tao có quyền cho mầy thôi việc ngay bây giờ, miễn là
phải trả công không cho mầy cái mười lăm ngày mà mầy được biết số phận, để đi
tìm việc khác, còn mầy thì không, bởi mầy có thể không có việc mà vẫn khỏi đói
nhờ 15 ngày lương đó, còn tao thì cỡ tao được nhận tiền bồi thường của mầy, tao
cũng bị thiệt hại bởi công việc bị ngưng trệ thình lình. Mầy hiểu không?
- Dạ hiểu.
- Vậy thì mười lăm ngày nữa mầy mới nghỉ việc được.
Tôi không thích giữ một người buồn, nhưng chưa tìm được người, biết sao!
Con Tám Cù Lần nhẫn nại chiu số phận, nhưng nó giống hệt một đứa con gái đau tương
tư.
Tôi đưa nó đi Thảo Cầm Viên, đi coi Cải lương, đi xem đèn màu Sài gòn ban đêm.
Không ăn thua gì cả. Nó mê những thứ ấy thì quả có mê thật đó, nhưng không
nguôi được mối tình ốc gạo của nó, khiến tôi đâm nghi rằng nó nói láo, chớ thật
ra là nó sầu tình, thằng nhơn tình của nó có lẽ nhắn nó về.
Hồi nó vô làm với tôi, nó nói rằng ở dưới không yên. Tôi tin rằng nó nói thật,
và vẫn còn tin. Như vậy sao nó lại cứ nằng nặc đòi về chỗ thiếu an ninh?
- Tại sao chị lại đòi về dưới ấy chi Tám? Thằng Công, thằng con lớn nhất của
tôi hỏi con Cù Lần như vậy.
- Vì tới mùa ốc gạo rồi.
- Tới mùa thì sao?
- Chị phải về đi xúc ốc gạo.
- Ốc gạo sống ở đâu chị?
- Ở dưới rạch.
- Làm sao mà xúc chị?
- Thì đợi nước ròng lấy rổ xuống dưới ấy mà xúc chớ.
- Xúc chi vậy chị?
- Xúc để bán.
- Bán bao nhiêu một con chị?
Tới đây, tôi sực nhớ ra là bà bán rượu lậu ngoài đầu ngõ tôi, bả bán ốc gạo luộc
làm đồ nhắm cho bợm nhậu, một đồng bạc có ba bốn con gì đó. Ba bốn con ốc gạo với
lại một chén nước mắm chanh nhỏ bằng cái vú cau, mà những một đồng bạc thì kể
ra cũng khá được tiền.
Tôi đợi nghe tới, xem con Cù Lần cho biết giá cả và số ốc gạo mà nó xúc được.
Nhưng nó chỉ bật cười mà không đáp.
Con tôi không hỏi lại, hỏi câu khác:
- Chị xúc một ngày được mấy con?
- Mấy con thì lấy gì mà ăn. Mỗi ngày chị xúc hàng chục rổ.
- Dữ vậy lận? Mà chị bán bao nhiêu một con chớ?
- Đâu có bán con, bán con gì được. Chị bán rổ.
- Bao nhiêu một rổ?
- Chừng ba đồng bạc.
Tôi ngạc nhiên quá. Như vậy, công nó làm,bọn trung gian ăn hết và nó chỉ kiếm
được khoảng ba bốn chục bạc mỗi ngày, đâu có bằng lương tháng có ăn ở và áo quần
của tôi.
Hơn thế, mùa ốc gạo kéo dài cao tay lắm là hai tháng mà thôi. Có đáng gì cho nó
bỏ một chỗ làm, một nơi tạm trú tốt trong lúc nó đi tìm an ninh?
- Hễ tới mùa ốc gạo là chị phải về hả? con tôi lại hỏi.
- Ừ.
- Sao vậy?
- Để bắt ốc.
Con Cù Lần trả lời sai vì nó đần, chớ không phải muốn đánh trống lấp đâu. Nó
không phân biệt được hai nghĩa khác nhau của hai câu hỏi: "Về chi vậy"
và "Tại sao tới mùa thì phải về".
Nhưng con tôi cũng khờ không kém, nên nó thỏa mãn được với câu trả lời ăn trớt
đó, và hỏi câu khác:
- Chị về đâu chị Tám?
- Về chợ Bưng.
- Chợ Bưng có vui không chị?
- Vui lắm !
- Vui bằng Sài gòn không chị?
- Vui hơn.
- Có xi-nê không chị?
Con Cù Lần không biết xi-nê là gì, nhưng đáp bừa:
- Có
- Chợ Bưng ở đâu chị?
Tôi nín thở, để nghe nó trả lời. Đó là cái chợ xép ở xó quê nào, làm gì mà có
xi-nê. Nhưng con Cù Lần không bao giờ nói láo, nên tôi tin rằng ở quê hương nó
có xi-nê, và đợi nghe coi nó cho biết ở đâu, để mình bớt dốt địa lý nước nhà, bởi
cái chợ có xi-nê ấy hẳn phải quan trọng lắm, tôi không có quyền không biết.
Con Cù Lần mù chữ. Nhưng tôi lại hình dung được rõ ràng cái chợ Bưng, qua lời tả
của nó, như là nó đã thấu đáo khoa tác văn, chương miêu tả. Nghe xong, tôi mới
hiểu vì sao mà nó nhớ ốc gạo.
- Nè, em biểu xe đò nó ngừng lại ga Tân hiệp nha.
- Ừ !
Thẳng Công không hề biết ga Tân hiệp ở đâu cả, nó cũng không hay rằng nhà ga ấy
đã được phá hủy rồi vì đường thiết lộ Sài gòn-Mỹ tho đã bị bỏ từ lâu, nay nhà
ga biến thành một địa danh. Nó cũng chẳng định đi chợ Bưng, nhưng nó nghe lời
chỉ nẻo như là nó muốn xuống dưới ấy một chuyến.
- Ừ!
- Đó, con đường đi chợ Bưng ở trước mặt ga Tân hiệp.
- Xuống xe ở đó rồi đi bộ sao?
- Chớ đâu có xe mà đi, mà có, đi cũng hổng được, vì là đường đất.
- Đi mỏi chân hôn chị?
- Hồi đó thì không, bây giờ thì mỏi.
- Bây giờ chị già rồi, như bà ngoại vậy hả?
Con Cù Lần cười ngất rồi đính chánh:
- Hổng phải. Hồi đó có xe lửa, họ đi buôn bán đông, đi đường chung với nhau vui
nên hổng biết mỏi. Bây giờ đường vắng đi ngán lắm. Mà có cái nầy, còn ngán hơn.
- Gì ?
- Ma!
- Ý, ẹ, ghê quá! Ma trong rừng hả?
- Đâu có. Xứ chị hổng có rừng. Chỉ có bưng mà thôi.
- Bưng là cái gì?
- Là đồng lầy.
- Ma ngoài đồng?
- Ừ, ma ngoài đồng, ma trên gò é. Con đường đất ấy đi ngang qua một cái gò, gò
cao, nên họ chôn người chết ở gò cho khỏi bị nước ngập.
- Ma nhiều hôn chị?
- Bao nhiêu cái mả thì bao nhiêu ma.
- Mà có mấy cái mả?
- Có cả trăm cái.
- Ý, ẹ !
- Đi ngang qua đó giấc hừng đông, giấc chạng vạng, và nhất là vào giờ đứng bóng
thì ai cũng phải chạy, và ai cũng bị nó rượt theo sau, nó rượt nà, tiếng chơn của
nó mình nghe đùi đụi.
Quả đúng như tôi đoán. Cứ theo lời con Cù Lần thì chợ Bưng chỉ là một cái chợ
xép, mười giờ đúng là tan chợ. Chợ cất bằng gỗ, lợp lá. Hai bên chợ leo heo vài
tiệm tạp hóa. Rồi thì nhà dân.
Nhưng con Cù Lần không ở tại chợ đâu. Nhà nó cất trong xóm trong, phải qua ba
con rạch mới tới xóm.
Thằng Công không đồng ý:
- Vậy mà chị nói vui bằng Sài gòn !
- Ừ, vui bằng.
- Em có thấy gì vui đâu?
- Em hổng biết chớ đi chợ vui lắm, đi ga cũng vui lắm.
- Vui cái khỉ khô.
- Vui chớ. Đi chợ hồi ba giờ khuya, đi qua nhà chị em bạn, hú họ, họ ra vầy
đoàn với mình, chín, mười chị, lại hổng vui sao?
- Sao lại phải đi chợ khuya?
- Đi chợ ngoài đường lộ, chớ có phải đi chợ Bưng đâu.
- Sao lại có chợ Bưng mà hổng đi?
- Ở đó thiếu đồ. Mỗi tháng phải đi chợ lớn ngoài đường lộ một lần. Khuya hai giờ,
thức dậy nấu cơm ăn, lại hổng vui sao?
- Ăn cơm sao lại vui?
- Nấu cơm vui. Muốn nấu cơm, phải nhúm lửa, mà lửa thì vui.
- Lửa vui?
- Ừ, ở dưới tối, nên hễ sáng là vui. Ở dưới lạnh, có lửa ấm thì vui. Em mà thấy
lửa chiều mưa thử coi.
- Lửa chiều mưa làm sao?
- Chiều mùa mưa, ai làm ngoài ruộng, hay đi đâu cũng về nhà hết rồi ăn cơm ở
nhà bếp, quanh lò lửa, đông đủ cả nhà, vui lắm.
- Đã ăn cơm mà còn nấu cái gì nữa?
- Ừ, ở dưới nhà quê luôn luôn nhúm lửa chớ không để tắt bếp như trên nầy. Mà hễ
lửa có là phải nấu cái gì, thí dụ luộc khoai.
Còn sang mùa Bấc thì lửa ngủ rơm cũng vui.
- Lại một thứ lửa nữa! Nhưng em hổng thấy gì vui hết.
- Vui lắm chớ. Nè, gặt rồi thì phơi rơm ngoài ruộng. Có khi phơi lúa nữa. Phải
ngủ ngoài ấy giữ lúa, giữ rơm. Gió Bấc lạnh, năm bảy chị em đốt rơm lên,vui
chơi, hò hát, vui lắm mà.
- Hông, lửa đâu có vui, thằng Công nhất đinh không nhận quan điểm của con Cù Lần.
- Vậy hả? Em hổng thấy là lửa vui sao?Vậy thì nước vui.
- Nước làm gì mà vui?
- Nó không có làm gì hết. Nó chỉ dâng lên tới thềm là vui, thấy như là mình
sung túc.
- Nước ở đâu mà dâng lên tới thềm?
- Ngoài đồng. Bờ nước cũng vui. Em hổng thấy cây bần mọc dựa rạch lúc chạng vạng
tối. Đôm đốm nó đậu nghẹt các lá cây, các nhánh cây, nó chớp cháy rồi tắt, buồn
ghê lắm!
- Buồn, sao chị nói là vui?
- Ừ buồn mà vui. Chị nghe vui mà được buồn.
- Chị nầy điên.
- Em hổng biết đâu.
Phải có nghe giọng con Cù Lần nói, mới thấy được lòng thương mến làng mạc của
nó, giọng nói còn quan trọng hơn là lời nói nhiều lắm. Lại còn những lúc im lặng
nữa. Ta học nhạc Tây phương, đã thấy những sự quan trọng của những chỗ im lặng,
thì những lúc con Cù Lần im lặng cũng quan trọng lắm. Tôi nghe và hình dung nó
đang nhìn xa về làng nó.
Thì ra nó chỉ nhớ nhà mà thôi, chớ không có nhớ ốc gạo khỉ khô gì hết. Nỗi nhớ
nhà nầy được mùa ốc gạo gợi lên, thành ray rứt quá, nó chịu không thấu, khi nó
thấy ốc gạo bán đầy các vỉa hè cho bợm nhậu nhắm rượu. Chắc không thể nào nó trở
lên đây nữa, sau mùa ốc gạo.
Tôi thấy trước rằng tôi sẽ bùi ngùi nhớ nó, nhớ cái vùng quê mà nó tả, bởi tôi
có ở thôn quê, tôi hiểu được nó và niềm thương nỗi nhớ của nó cũng cùng một loại
với niềm thương nỗi nhớ của tôi, thuở tôi rời làng lên đây. Con tôi không làm
sao mà hiểu được hết, vì chúng nó không biết cái tình nhớ xứ là gì. Đô thị
không phải là nơi mà người ta có thể nhớ được, huống chi đô thành Sài gòn thật
kém thơ mộng. Ngày mai, tôi phải cho gia đình ăn ốc gạo một bữa mới được, mặc dầu
món ăn ấy rất kém vệ sinh. Con Tám Cù Lần có thể nhớ nhiều kỷ niệm nữa, do ốc gạo
gợi ra, sẽ nói thêm cái gì. Mà tôi thì rất ưa nghe nó thật thà kể lể những chuyện
không đâu mà có mình nó với tôi là hiểu thôi.
Chú thích:
1. |
Lời một người nội trợ |
CHIÊU HỒN NƯỚC
Hai tay nhét vào túi quần. Hà nện mạnh gót giày trên vỉa hè đại
lộ Hàm Nghi, miệng ngâm nho nhỏ bài thơ của chính chàng, vừa đăng trên một số
báo Xuân năm nay:
Gầy gõ 1.
Đường đêm
Tiếng giày dạ khách.
Chập chờn
Chiếc bóng phong sương.
Tâm tư lê nặng phố phường,
Lầu hoa cửa khép
Trầm hương mơ hồ!
Bài thơ dài lắm, nhưng chàng chỉ ngâm tới đó rồi nín thinh để lắng nghe dư âm
giọng ngâm của chàng, giọng ngâm mà mấy năm trước đây, đêm nào cũng vang lên
trên làn sóng phát thanh của đài Sài gòn, thử xem nó còn được cái phong độ cũ
hay không.
Trăng gầy loáng áo
Nàng thơ...
Gặp nhau
Thêm mấy dại khờ hồn si.
Cầm bằng như gió bay đi
Giang hồ, mình lại xa gì với ta!
Em ngùi son phấn phôi pha,
Đời tôi nghệ sĩ tài hoa phong trần!
Thi sỉ đa cảm, đa tình thật! Tất cả những gì chàng ghi trong bài thơ nầy, đều
là chuyện
tưởng tượng cả: chàng không có gặp cô gái giang hồ đồng tâm nào đang ngậm ngùi
cho cảnh phấn lợt hương phai của nàng hết. Thế mà ngâm đến đây, chàng nghẹn
ngào mắt rưng rưng lệ.
Thoáng nhìn đã vội bâng khuâng.
Ngược xuôi, đôi kẻ rời chân ngậm ngùi!
Vắng đêm
Lọt nửa tiếng cười
Nhẹ tan trong gió,
Ai người chợt nghe?
Hà không còn ngâm tiếp được nữa. Chàng đã khóc mùi, thương không biết bao nhiêu
kẻ "cùng một lứa bên trời lận đận" mà chàng đã bịa ra trong bài thơ.
Chàng dừng chân lại trong lúc khóc để chậm khô nước mắt rồi tiếp tục rảo bước.
Một nỗi buồn mênh mông, xa vắng thấm vào đáy hồn chàng.
Thế mà chàng lại thích được buồn thật buồn như vậy. Đằng xa kia, chợ hăm chín Tết
vào lúc mười một giờ đêm vẫn cứ ồn ào, có lẽ còn ồn ào hơn lúc đầu hôm nhiều; để
rồi tan vào buổi cuối năm vài tiếng đồng hồ sau đó. Đêm mai, tối lại là không
còn gì nữa, vì ai cũng bận việc nhà cửa, sau khi rước ông bà về.
Chàng không về nhà mà chịu được, nhưng phải trốn cảnh náo nhiệt, thả bách bộ
trên con phố vắng vẻ nầy như chàng đã thường đi trong đêm khuya như vậy ở nhiều
phố khác.
Năm nay thi sĩ đã ba mươi tuổi rồi, nhưng chưa yêu thật sự bao giờ cả. Những mối
tình hời hợt qua đường, không gọi là yêu được. Chàng cứ mơ gặp một mối tình lớn,
một mối tình đáng kể như trong tình sử bất hủ của nhân loại, và kéo lê nỗi buồn
về đêm của chàng trên các đường phố vắng để nhìn khói hương trầm qua những cánh
cửa nửa khép của các lầu hoa mà chàng biết trong đó đang ẩn trú nhiều bậc giai
nhân cũng thèm yêu như chàng.
Tâm tư lặng lẽ phố phường
Lầu hoa cửa khép
Trầm hương mơ hồ.
Hà lắng nghe tiếng giày của chàng trong đêm vắng, nhìn bóng chàng đang chuồi
trên vỉa hè, bóng đen mà đèn đường đang kéo dài ra, trông ốm nhom và rất yếu đuối...
Gầy gõ
Đường đêm
Tiếng giày dạ khách.
Chập chờn
Chiếc bóng phong sương,
Đi thơ thẩn, chàng lạc bước tới góc bến Bạch đằng, bị gió sông lạnh thổi hắt
vào mặt, chàng mới hay.
Hà ngước lên nhìn. Bờ sông không còn một bóng người. Bờ sông Thủ thiêm đen thui
và bên phải của chàng, bến thương khẩu leo lét vài bóng đèn ngủ gục.
Bỗng tiếng giày của ai vang lên, và người ấy đi trên vỉa hè bờ sông, đã từ hướng
cầu quây cũ tiến đến đây. Tiếng giày ấy thưa nhưng lại dòn, nện mạnh lên gạch lề
đường nhưng nghe không nặng, người bộ hành ấy chắc còn trẻ, khỏe mạnh, nhứt là
đã quen đi giày từ lâu rồi.
A kia, đó là tiếng bước của phụ nữ nó có biệt sắc riêng của nó, biệt sắc ấy có
lẽ do cái phần diện tích đế giày đụng chạm với gạch nhỏ quá, nghe rõ là truy
nguyên được căn cước ngay.
Hà day lại thì thấy đó là một người đầm... mà không, đó là một người đàn bà Việt
mặc duýp se-rê màu ngà với chiếc bơ-lu-dông đỏ ở thân trên.
- Bò lạc giả! Hà nói thầm trong bụng như vậy vì thấy người ấy chỉ đi thong thả,
lang thang, không có ý đinh về đâu cả nên chàng nghĩ ngay rằng ả ta là một cô gái
ăn sương. Bò lạc giả là tiếng lóng của bọn ăn chơi chỉ hạng gái nầy, đã phân biệt
với bò lạc thật là những thiếu nữ ở tỉnh mới lên, còn bơ vơ chưa tìm được nơi
nương dựa.
Người đàn bà ấy dong dải cao, dáng điệu rất yêu kiều thanh lịch. Mặc dầu không
có ý gì, Hà cũng nhìn thử gương mặt xem ả ta sắc diện đẹp hay xấu.
Bấy giờ ả ta đã đi gần tới bên thi sĩ và Hà thấy đó là một thiếu phụ đã quá
xuân, trạc ba mươi, mặt hoa đã héo, mặc dầu giỏi hóa trang. Tuy nhiên dấu vết đẹp
xưa vẫn còn thấy bóng dáng lờ mờ trên đó.
Ả ta xăm xăm đi lại trước mặt Hà, chàng vừa toan lắc đầu để xua ả thì giật nẩy
mình mà nghe một câu tiếng Pháp rất đúng giọng đầm:
- Xin lỗi ông, ông có lửa hay không ?
Ả vừa hỏi vừa mở xắc lấy thuốc điếu, lấy cả hai điếu mời chàng. Thì ra đó là một
me Tây. Buồn cười, Hà móc hộp diêm ra và hỏi đùa cũng bằng tiếng Pháp:
- Có lẽ nhớ các ổng, nhìn bến tàu cho đỡ nhớ à? Thơ mộng lắm!
Chàng vừa đánh diêm trao lửa,vừa ngâm mấy câu thơ của Sa Giang Trần Tuấn Kiệt.
Rải rác mưa tro mờ bến Chương Dương
Ánh đèn đêm yên lặng chơi vơi buồn.
Tôi khép áo mưa, ngồi trên băng lạnh
Trông ngóng những con tàu tha hương.
- Không, người đàn bà miệng ngậm thuốc, chìa đầu điếu ra để đón lửa và đính
chính, không, tôi tìm cái khác.
- Khách à?
- Không có gì sai hơn. Nhục nhã thay cho kẻ nào nghĩ quấy.
Hà kinh ngạc đến cực độ. Một me tây, không thể nào biết nổi câu châm ngôn của
võ sĩ phái Jarretière hồi thời Trung cổ Pháp ấy, và nói ra rất đúng giọng
"Honni soit qui mal y pense".
Ngượng quá, chàng không biết làm sao chữa được sự lỡ lời nên ấp úng nói:
- Tôi xin lỗi bà...
- Không hề gì, nhiều người đã lầm rồi, chớ không riêng gì ông. Xin cám ơn chút
lửa nầy.
- Thưa bà, bỏ qua đi cho...
- Đồng ý.
- Và cho tôi hân hạnh được biết quí danh... của ông ở nhà.
- Tên tôi và tên của nhà tôi chắc không nói lên được điều gì bên tai ông. Tôi
đang buồn đi lang thang, mà xem ra ông cũng thế, thì ta cùng đi bách bộ một
vòng, có lẽ thú hơn.
- Có hân hạnh nào bằng.
- Và xin nói chuyện với nhau bằng tiếng Việt vậy.
- Càng thích hơn.
Họ băng qua đường để thả trên vỉa hè đá đỏ bên ấy. Người đàn bà hỏi:
- Anh không đi chợ Tết sao?
- Khi nãy có đi mấy vòng với lũ bạn, nhưng tôi lại trốn mà tách riêng ra.
- Tìm hứng hay tìm ai ?
- Không tìm gì cả? Đi bậy cho buồn vậy thôi !
- Quái lạ! Ai lại tìm buồn?
- Chớ chính bà không tìm buồn hay sao mà lại ở chốn nầy. À, khi nãy bà đã bảo rằng
bà đang "tìm cái khác". Nếu không phải là chuyện riêng tư, thì cái
khác ấy là cái gì?
- Em không biết nói ra có ích gì hay không. Đã trễ lắm rồi!
- Trễ lắm rồi? Tàu chạy rồi à?
- Không, không thế nào anh hiểu được đâu mà hỏi mất công.
Hà thích ghê, nghe câu chuyện có vẻ mơ hờ như là truyện trinh thám trong các
phim phóng đãng bí mật, toát mồ hôi lạnh. Nhưng không muốn quá tò mò, phần lại
nghi kỵ, cứ còn ngờ vực người đàn bà nầy là một gái ăn đêm, khôn khéo toan lừa
chàng vào tròng bằng một thủ đoạn siêu đẳng nào, Hà hướng câu chuyện sang nẻo
khác.
- Bà có lạnh không ?
- Bên ngoài thì không.
Chà, ả ta trường trải lắm đây và có học nữa. Nói như thế tức là ngầm bảo rằng ả
ta đang lạnh lòng lắm và cần người an ủi. Thằng nào lơ mơ thì chết với ca-líp nầy.
Đang buồn, cần bạn, nhưng bỗng đâm sợ, Hà toan từ giã con hồ ly nguy hiểm để
rút đi trước khi tai họa xảy tới. Chàng chợt thấy rằng cả hai đều đến trước vũ
trường Mỹ Phụng và cô ả đang quẹo lên Hai Bà Trưng.
- Sao lại quẹo, thưa bà?
- Em ở đường nầy, đằng kia.
- Vậy à, thì ra vô tình, tôi đã đưa bà về nhà, đã trót như vậy, tôi xin đưa bà
luôn tới cửa, có bất tiện cho bà không ?
- Không có gì, nếu việc đó chẳng làm nhọc ông.
Hà đoán người nầy có lẽ là nhơn tình dài hạn của một Pháp kiều vì phố Hai Bà
Trưng đầu dưới sông thuộc khu người Pháp ngày trước. Như vậy, không còn gì hay
ho nữa, và sở dĩ chàng đưa ả ta về nhà chỉ vì lịch sự thôi.
Chàng lặng lẽ đi bên cạnh người ấy, không nói, không rằng, nhưng ả ta lại nói :
- Anh có gia đình chớ?
- Vâng !
- Anh ở trong ngành hoạt động nào?
- Ơ hơ... tôi là tài tử.
- Với nghĩa nào? Cái tiếng Việt ấy có nhiều nghĩa lắm...
- Xin Bà hiểu theo nghĩa artiste.
- Vậy à? Thế thì em đã lầm...
- Bà ngỡ tôi là gì?
- Em không ngỡ là gì hết. Nhưng em đã lầm mà cả quyết rằng anh không thể hiểu
cái điều anh hỏi em. Chính chỉ có những người tài tử mới hiểu em được.
- Nhưng rất tiếc là đã trễ ?
Hà hỏi xong, cười to lên, có vẻ nhạo báng ả ta.
- Phải, rất tiếc là đã quá trễ.
Người đàn bà ấy lặp lại lời Hà một cách nghiêm trang như đã ngầm đính chánh ngộ
nhận của chàng rằng bà ta chỉ làm bộ bí mật vậy thôi, chớ thật ra thì không có
gì cả.
Bấy giờ Hà đã nghe mỏi chơn vì đã đi quá xa và quá mau, đường lại cứ dốc lên
mãi. Chàng chợt nhớ ra là người đàn bà nầy đi mau quá sức, chàng chưa thấy cả
đàn ông Việt nam nào mà đi mau đến thế. Chàng lại chợt nhận thấy họ đã đến đại
lộ Thống nhất rồi mà xem ra ả ta cứ còn muốn đi nữa.
- Hình như là bà ở xa lắm?
- Đằng kia.
- Xa như vậy lại chỉ đi bộ?
- Bên ấy, em chỉ đi bộ nên quen rồi.
- Bên nào, thưa bà?
- Bên Bọt-đô.
- Bà ở Pháp mới về?
- Em ở Pháp mới về.
- Nghĩa là...?
- Nghĩa là em có Pháp tịch, sống bên Pháp và về đây để... tìm cái đó.
Thế là đã rõ. Tác phong của người nầy là tác phong của một cô đầm: dám xin lửa
đàn ông ban đêm, đi lang thang một mình trên đường vắng, đi mau quá (theo nhịp
sống của Âu châu) và đi bộ giỏi quá (bên Âu châu, những người bậc trung đi bộ
trong thành phố hằng năm bảy cây số là thường).
Không còn gì lạ về con người của thiếu phụ nầy, chỉ còn một chút xíu là... cái
đó thôi.
Cái đó là cái gì mà ta tìm trong đêm tối, sợ rằng không ai hiểu cả, và đồ rằng
chàng hiểu, nhưng tiếc rằng là đã trễ ?
Hà rất hối hận đã chế giễu cái vụ "đã trễ ấy". Chàng lại lặng lẽ mà
đi, và giây lát, tò mò quá, chàng hỏi:
- Nhưng sao lại trễ thưa bà?
- Vì mai, em đã lên đường về Pháp, và có thể không bao giờ trở lại đây nữa.
Thiếu phụ đã dừng chân, đưa tay ra cho chàng bắt và nói bằng tiếng Pháp:
- Cảm ơn và vĩnh biệt !
Hà đã thừ người ra lúc nghe câu trước. Rất đa cảm, chàng hay ngậm ngùi trước mọi
cảnh chia ly, cho dẫu là với người mới quen sơ. Chàng cầm tay thiếu phụ nghẹn
ngào nói:
- Bà đi thật à? Tôi cứ ngỡ...
Thiếu phụ cười dòn dã:
- Anh cứ ngỡ gặp phải kỹ nữ me Tây?
- Xin lỗi bà, ai lại...
- Nầy, hay mời anh vào chơi giây lát. Đêm nay chắc tôi cũng không ngủ.
Hà xem lại thì đó là ngôi nhà chung cư Cửu long. Khi họ lên tới lầu, bà ấy đẩy
cửa một căn buồng hẹp té thì Hà ngạc nhiên hết sức mà thấy buồng trang hoàng
như một căn nhà bình dân với nào tranh gà, tranh lợn, tranh Tàu trên vách, đặc
biệt nhất là một bàn thờ tạm dọn trên chiếc bàn con với gần đủ đồ thờ, bình
hương, độc bình, đèn, nhang.
Thiếu phụ cười nói như để xin lỗi:
- Cục cựa không được. Nhưng không làm sao khác hơn. Đến ở mười hôm, không thể
mướn nhà.
- Té ra bà chỉ mới về đây thôi?
- Vâng, rồi mai lại đi.
- Sao bà vội thế ?
- Rồi anh sẽ hiểu.
Thiếu phụ trót nước trà từ bình thủy ra hai cái ly bằng lát-tích, thứ rẻ tiền,
mua trên vỉa hè hai bên chợ Bến thành. Nàng ngồi trên giường nhường chiếc ghế độc
nhất trong buồng cho khách và nói:
- Đáng lý vì ngày mồng một em mới đi, để được nghe tiếng pháo giao thừa, như hồi
năm 1958 mà em đã về một lần như vậy, nhưng nghe rằng năm nay cấm đốt pháo nên
em lấy vé có lại ngày ba mươi Tết.
- Té ra bà đã về đây một lần rồi?
- Vâng!
- Nhưng bà đã ra đi năm nào?
- Năm 1954.
Hà ngắm kỹ thì quả thiếu phụ nầy đã có một thời đẹp lắm. Hớp từ hớp trà nóng,
thiếu phụ cũng nhìn chàng ra nói:
- Anh là người khách đầu tiên và cuối cùng của em. Em mừng lắm.
- Hân hạnh cho tôi.
- Thành thật mà nói thì không có gì hân hạnh cho anh. Em chỉ mừng vì được trò
chuyện thân mật với một người Việt nam, chớ không vì cá nhân của anh đâu. Anh
đã mua sắm Tết chưa?
- Đã xong cả.
- Có bánh tét, dưa hấu chớ?
- Có. Các thứ hoa cũng đã mua xong. Tôi mua được một cành mai đẹp lắm.
- Mai thui...
- Không, một cành mai mà họ cắt ngang để bán.
Nhưng thiếu phụ không nghe nữa. Nàng nhìn vào khoảng không, rồi say sưa nói to
lên một mình: "Mai thui... ba chặt cành mai vào giữa tháng chạp, ba thui
cành ấy nơi bị chặt, ba chặt lá, rồi ba cặm trong độc bình có chứa nước...".
"Thế rồi hăm lăm hoa ra nụ và tối ba mươi nó âm thầm nở. Sáng mồng một là
bàn thờ vàng óng. Nó bền và đẹp hơn hoa nở sẵn trên cành bị cắt ngang, rồi... rồi
ba..."
Bà ta còn nói gì nữa, nhiều lắm, lầm thầm trong miệng rồi nghẹn ngào không tiếp
được. Lâu lắm bà ta chấm dứt trễ muộn câu nói nửa chừng ấy bằng một tiếng nấc.
Như là kẻ đóng trò, hay một con mẹ điên, thiếu phụ thình lình ngước lên nhìn
khách rồi cười dòn mà rằng:
- Em chưa già mà đã lú lẩn. Em có làm buồn lòng anh lắm không ?
- Không, thưa bà.
- Em đã ba mươi rồi. Không, em chỉ mới ba mươi thôi, nhưng già quá, lòng em héo
hắt, bằng cớ là em chỉ sống quay về dĩ vãng thôi. À, anh chắc còn trẻ lắm?
- Tôi cũng ba mươi.
- Tuổi sung sướng! Của anh và của người khác. Trời ơi, sao tôi lại già thế nầy!
Tôi chỉ tiếc thương dĩ vãng, không hưởng được những gì đang có trong lứa tuổi
tôi. A... ha... ha... em lại lẩn thẩn nữa, xin lỗi anh. Em cám ơn anh, đã đến,
đã vào đây. Có lẽ em sẽ nhớ anh trọn đời.
- Tôi tên là...
- Đừng, anh đừng nói tên. Anh là người Việt nam, bao nhiêu ấy là đủ lắm rồi. Em
đã gặp một thanh niên Việt nam, không, em đã gặp quê hương Việt nam vào một đêm
cuối năm, trong đời em.
- Nhưng, bà đi bên ấy làm gì, và về để tìm bà con hay...
- Ông có gan nghe câu chuyện không hay mà khá dài hay không ?
- Tôi đoán là hay.
- Đoạn đầu rất xoàng. Đoạn sau, chỉ hay đối với em thôi. Đoạn đầu rất cổ điển
mà báo chí sách vở ở đây nói đến khá nhiều rồi, về người khác mà trường hợp giống
trường hợp em. Năm đó em học ban Trung học Pháp Việt ở Sài gòn. Nhơn kỳ nghỉ
hè, em về quê, một làng hẻo lánh kia, rồi bị một nhóm quân nhân Pháp hiếp.
Sợ gia đình em thưa kiện, chúng nó phao vu em rồi bắt em đi. Ra tỉnh bị giam một
thời gian thì em được thả, nhưng có còn gì nữa đâu để mà quay về. Vừa lúc ấy
thì một sĩ quan Pháp phải lòng em và bao em.
Em bằng lòng theo nó, vì cũng chẳng thiết làm lại cuộc đời, và một năm sau, đạo
quân viễn chinh rút lui, em theo y về bên ấy và được y cưới luôn, rồi em xin
vào Pháp tịch.
Hai năm đầu em vui được với cảnh lạ, nhưng khi hay tin cha mẹ em qua đời, em bỗng
chạnh nhớ quê nhà.
Ban đầu chỉ là một nỗi nhớ nhung nhè nhẹ thôi. Nhưng càng ngày lòng sầu xứ càng
sâu đậm, em không chịu nổi nữa nên vào cuối năm 1958 ấy, em có dư chút ít, xin
thông hành với tư cách du khách về đây, cũng lúc cuối tháng chạp như năm nay.
Không thế nào mà anh tưởng tượng nổi sự thèm khát quê hương của một kẻ lìa xứ
vĩnh viễn không hy vọng trở về như em. Thèm như là thèm một món cá nướng chấm mắm
nêm, thèm hương bưởi, thèm tiếng chuông chùa ngân nga vào buổi hoàng hôn, thèm
cảnh cấy mạ vào đầu mùa lúa. Thèm chết đi được là vào lúc gần Tết, tức là khoảng
đầu năm dương lịch. Nhớ Tết như nhớ nhà, nhớ nước, bởi vì Tết là sum hợp gia
đình.
Em chỉ về cho đỡ ghiền vậy thôi, chớ bà con xa gần gì cũng chẳng còn ai, không
có lấy một mái tranh để mà vào. Mười hôm lưu lại đất nước nhà năm ấy đã làm cho
em thất vọng vô cùng, định không về nữa. Nhưng, rồi lại nhớ và năm nay lại về.
Hà chợt hiểu vì sao mà tranh Tàu bình dân lại treo vách buồng buyn-đin và người
thuê buồng lại dọn bàn thờ phiền phức như thế nầy: nàng muốn tạo lại không khí
gia đình đầm ấm mà về tới đây, nàng vẫn nghe thiếu.
Hà nghe nao nao buồn khi nhìn khói nhang mà chủ phòng đã đốt lên lúc nãy. Đêm
mai, nhà nhà sẽ ngát hương trầm, nhà nhà sẽ đoàn tụ, trong khi đó thì một người
sẽ bay trên vạn dặm trùng dương vì không còn lấy một mái tranh để mà vào, thèm
mái tranh quyện khói lam chiều ấy mà không bao giờ được hưởng.
- Thì ra cái đó là...
- ... là gì chính em cũng không nói ra cho đích xác được. Một vũng ao tù trong
thôn xóm chăng? Một chân trời quen thuộc? Một mùi cá nướng ? Một vài tiếng sáo
mục đồng? Hay là tất cả những thứ ấy nó họp lại để làm một linh hồn của quê cha
đất tổ mà em ngỡ từ bỏ được, nhưng không thể được.
Mỗi đêm, em đi lang thang như vậy qua hết phố nầy đến phố khác, lắng nghe những
tiếng thì thầm bí mật trong không, rình rập mãi một cái gì không biết, nó có thể
cho em thoáng thấy cái vô hình mà em tìm, nhưng không gặp.
Bơ vơ quá, đang sống trong thủ đô Việt nam mà em nghe rằng mình chỉ đi bên lề
nước Việt thôi, không làm sao mà len vào linh hồn của đất nước được.
- Cây cỏ, núi sông vẫn có linh hồn. Nhưng ta chỉ nắm tay được với linh hồn cảnh
vật qua trung gian của một linh hồn khác thôi, linh hồn người. Có lẽ bà tìm một
hồn bầu bạn mà không dè.
Thiếu phụ đặt vội ly trà lên nệm, nhìn sững Hà giây lâu rồi nói:
- Ừ, có lẽ đúng, anh nói có lẽ đúng.
- Linh hồn bầu bạn ấy là vật xúc tác của hai linh hồn khác, linh hồn đất nước
và linh hồn của chính ta.
- Anh nói có lẽ đúng. Thuở còn con gái, em mơ yêu. Ông Hoàng tử đẹp trai của em
là một thanh niên Việt nam, cố nhiên. Rồi rủi ro của số phận đã xô em vào tình
cảnh không hay. Giấc mơ thiếu nữ không bao giờ thỏa cả, em chưa được yêu lần
nào.
Trong giờ khắc năm tàn tháng lụn, chàng thi sĩ đa tình và trơ trọi nhìn lại người
đàn bà mà tấm lòng đi lang thang khắp bốn phương trời, đau xót khôn nguôi cái
đau mất gốc! Dấu vết hường nhan ngày xưa của nàng đang lặn hụp chìm nổi trong
niềm u uẩn triền miên, trong bóng ngày rơi rớt của buổi chiều tà, bóng nầy bỗng
đẹp rực rỡ lên, trong cái bừng dậy cuối cùng của tất cả những gì đang hấp hối.
- Thưa bà, tôi có thể là tâm hồn bầu bạn mà bà đang tìm hay không?
Thiếu phụ mắt sáng lên, môi mấp máy, nhưng rồi nàng lại châu mày mà rằng:
- Cám ơn anh đã có lòng. Nhưng xúc động hời hợt trong một phút của anh rồi
không đi đến đâu cả. Không thế nào em đủ thì giờ để đợi anh hỏi lại cặn kẽ lòng
anh. Đã trễ quá rồi như em đã nói, và anh đã chế giễu vì không tin.
Nhưng cám ơn, cám ơn không biết bao nhiêu. Trong đời em, đã có một lần em suýt
vớ được linh hồn đất nước. Có bị dòng đời lôi cuốn đi, một chút xíu may mắn ấy
cũng đủ sưởi ấm lòng em trên đường trôi giạt.
- Ngày mai bà đi?
- Vâng, cám ơn và vĩnh biệt!
- Nhưng bà có thể trở lại...
- Không, chồng em kiếm không được bao nhiêu tiền. Về nước là một xa xí phẩm.
Hồn nước Việt nam đã xuống lầu, ra phố, ngảnh lại nhìn qua cánh cửa sổ khép nửa
chừng, những sợi khói nhang trắng đục từ từ bay lên trần.
Hồn mất gốc mở toát cửa ra, lặng nhìn theo quê hương dần xa, trong khi nó sắp bị
cuốn vào dòng đời cuồn cuộn chảy.
Trong đêm lặng, bốn cánh tay giơ lên, vẫy tiễn đưa nhau.
Từ đó, đêm đêm Hà nện mạnh gót giày trên vỉa hè đại lộ Hàm nghi, dáo dác đón
trong gió lạnh, hồn người bạn một giờ nó như còn lẩn quất đâu đây:
Gầy gõ
Đường đêm
Tiếng giày dạ khách.
Chập chờn
Chiếc bóng phong sương.
Tâm tư lê nặng phố phường,
Lầu hoa cửa khép
Trầm hương mơ hồ !
Chàng hay ngước lên những cửa sổ khép sơ mà trong đó biết đâu lại không có một
kẻ đang tìm một linh hồn.
Giang hồ mình lại xa gì với ta
Em ngùi son phấn phôi pha,
Thoáng nhìn đã vội bâng khuâng
Ngược, xuôi đôi kẻ rời chân, ngậm ngùi!
Nhưng từ đó cảm xúc của chàng đã có duyên cớ thật. Nghẹn ngào và lệ thảm của
chàng không còn là cái nghẹn, là nước mắt tầm phào của một thi sĩ đa tình và
giàu tưởng tượng nữa.
1; |
Mượn thơ của Hà Liên Tư |
BÀ MỌI HÚ
Từ vùng Hố Nai, rời con đường thiên lý, mải miết đi về hướng
Tây, du khách phải qua rừng rậm, tuy chưa phải là rừng già, chớ cây cũng to và
có thú dữ. Rững nầy có lẽ hiện nay đồng bào di cư đã phá để làm củi.
Qua khỏi rừng thì một cánh đồng minh mông trải ra tới tận chân trời, và nơi đó,
cánh đồng được viền bằng một khu rừng chồi; sau rừng chồi là làng mạc rồi đến
con sông Ðồng Nai.
Cánh đồng không mông quạnh nầy gồm một phần ruộng rừng của dân làng, ngoài xa
kia, và phần lớn là đồng đế và lau lách. (Có một khu tên là Ðồng Lách).
Ruộng rừng vì đất khô quá, và vì nai phá lúa, canh gác không xuể nên thường bi
bỏ hoang, thành ra cả cánh đồng là một biển lau sậy bằng phẳng và buồn hiu.
Giữa cánh đồng, lạ lùng thay, một trái núi nổi lên, giống một hòn đảo nhỏ giữa
biển cả và nhứt là giống một cậu bé đi lạc, ngơ ngác nhìn quanh.
Nói "cậu bé" vì đó là một quả núi tí hon và chỉ cao độ bốn mươi thước
thôi. Còn nói "đi lạc" là vì những hòn núi rời, tách ra khỏi khối Trường
Sơn đi lang thang về phía Nam, chỉ tới mạn bắc tỉnh Biên Hòa là đừng chơn lái.
Cái anh chàng đi xa hơn hết là núi Chứa Chan đứng sừng sững đằng xa kia, xanh mờ
trên nền trời lam lợt. Nhưng anh ta cũng khá dềnh dàng để xứng đáng làm một phần
tử trong bầy Trường Sơn chớ có đâu mà lùn xịt và đi xa quá như chú núi nhỏ nầy.
Tuy nhỏ mà cũng có tên họ đàng hoàng, mặc dầu không được sách địa dư nào nói đến
cả. Ðó là núi Bà Mọi.
Mắt du khách đang khổ sở nhìn cánh đồng khô cỏ cháy thì rất sung sướng được nghỉ
ngơi trên cái xanh mát của hòn núi Bà Mọi nầy, vì cây cối mọc um sùm trên đó.
Một con đường mòn tương đối dễ lên, đưa tới chót núi và khi ra khỏi con đường tối
om ấy, nơi cây cối giao nhành khiến nó giống một hang núi, thì người ta ngạc
nhiên thấy trước mặt đứng lên một ngôi chùa cổ rêu phong.
Ấy, người Á Ðông ta tin rằng ở rừng núi, chùa chiền mới linh, nên mặc dầu tín đồ
ở tận mãi ngoài sông cách đó bảy tám cây số, các sư cũng tìm cách mang vôi gạch
đến đây để cất linh tự.
Ðỉnh núi bằng và sói soi không phải vì người ta đốn cây để cất chùa mà vì những
tảng đá xanh nổi ngổn ngang trên đó không cho thảo mộc sống được.
Trước sân chùa, sáu phiến đá lớn hơn hết họp lại thành một búp sen đá trông khá
giống hoa sen và khá đẹp, và trong lòng búp sen ấy nhú lên một trụ đá tròn, to
bằng bắp chơn. Hình như ai đó đã đẽo đá, cặm vào đó để ếm cái gì hoặc đề giả
làm nhị sen.
Sư trưởng là một người đàn ông còn trẻ, đầu không cạo trọc, ăn nói có vẻ có học
và không quê một chút nào. Chúng tôi đi thăm chùa ấy, thuộc làng Tân Ðịnh năm
1945, giữa mùa nực. Sự ân cần đón khách của sư trưởng đối với sự keo kiệt về nước
uống của ông ta khiến chúng tôi ngạc nhiên.
Ðoán biết nỗi khó chịu của chúng tôi, sư trưởng phân trần:
- Các anh tính, từ ngoài sông vào đây phải đi bảy cây số đường rừng, nên một
đôi nước lên được chùa nầy là trở thành quí như nước cam lồ của Phật.
- Ðoạn, chỉ vào nhị đá của búp sen, sư trưởng nói:
- Búp sen nầy ấp ủ một dòng nước thần nhưng từ ba trăm năm nay nó đã tắt chảy,
thành ra chúng tôi phải nhịn khát dữ lắm.
- Một dòng nước, thưa nhà sư? Tại sao trên núi cao lại có nước, còn ở dưới đồng
bằng...
- Ấy, như vậy là sự thường. Có lẽ mạch nước đang âm thầm chảy dưới đất thì tới
đây đất nhô lên thình lình, nên nó bị đưa lên cao. Khi đất nhô, đất bị nứt ra
nơi trên đầu, cái mạch như một huyết quản bị bể nơi ấy, xoi lỗ mội mà ra.
Chúng tôi ngạc nhiên hết sức vì sự giải thích của nhà sư rừng nhắc chúng tôi nhớ
lại những bài học về địa chất học ở nhà trường.
Chúng tôi nhìn kỹ nhà sư để tìm biết coi ông là người trong giới nào bước vào
làng Phật giữa rừng nầy.
Nhà sư vẫn thản nhiên, và như muốn đánh trống lảng, chỉ vào búp sen mà thêm:
- Các anh thấy sáu cái máng xối đây không? Quả thật thế, từ sau khe đá giữa sáu
phiến đá hợp thành búp sen, sáu đường nước giống như sáu sợi dây thòng xuống
chơn núi. Dấu nước chảy khuyết đất ngày xưa vẫn còn ràng ràng và những hòn đá
cuội giữa các mương bị lột trần đất như nằm lăn lóc đó mà chờ những giọt nước
mát không bao giờ chảy qua nữa.
Sáu đường mương lố dạng một quãng rồi mất hút trong cây cối xanh um, trừ cái
mương mà người ta dùng làm đường mòn lên núi. Chính do con đường nước cũ mà
chúng tói leo đến đây mà không ngờ.
- Ðó là sáu con suối từ cái mội nầy chảy xuống đề tưới lên cho mát đất bằng dưới
kia.
- Nhưng ai cắc cớ bịt mội bằng cục đá nầy?
Sư trưởng làm thinh, kéo chúng tôi ra phía sau chùa, chỉ vào một cái miếu đổ:
- Ðây là đền thờ Bà Mọi. Chính bà ấy đã làm tắt suối do.
Khi di cư vào Nam, cách đây trên ba trăm năm, đồng bào ta không phải gặp toàn
người Thủy Chơn Lạp như phần đông đã tưởng.
Ở miền Ðông Nam Việt, ta chạm phải người Mọi mà bây giờ người ta kêu là người
Sơn Cước, mặc dầu danh từ Mọi không có gì xấu hết và danh từ Sơn Cước chỉ là
danh từ tổng quát không phân biệt đúng bộ lạc nào trong đám Sơn Cước cả.
Ta phá rừng, và dân Mọi tìm đủ cách cản trở. Họ không tiếc đất với ta, vì đất
còn minh mông, họ cũng không xấu bụng với ta vì họ là những người có căn bản tốt.
Nhưng họ quyết giữ rừng, vì rừng với họ như nước với cá. Họ sống nhờ rừng vì rừng
là cái kho trữ các sinh vật nuôi họ. Họ thương rừng vì rừng là khung cảnh quen
thuộc của họ.
Ðám người khai phá khu rừng quanh hòn núi nhỏ ấy bị phá phách đủ thứ: nào là
mùa màng bị nhổ quăng đi, đi đường rừng bị phục kích bằng tên thuốc v.v...
Người ta rình mò dò dẫm mãi mới biết được kẻ phá hoại là một mụ Mọi già tóc tai
bồm xồm, trông rất ghê sợ.
Biết thế nhưng họ không làm gì được mụ ta vì động một cái là mụ biến mất vào rừng
sâu.
Người Việt ta chỉ còn một nước là lấn lần vào rừng bằng cách đốn cây, mong rằng
đồng bằng sẽ đuổi mụ ta đi nơi khác hoặc rồi mụ ta sẽ chết trước khi họ phá hết
rừng.
Rừng già bị gặm ngày một, chậm mà chắc chắn, mãi cho đến ngày kia thì vòng vây
đã siết chật quanh hòn núi như ở nhà quê người ta cạo trọc đầu con trẻ, chừa lại
chiếc bánh bèo.
Bấy giờ công tác phá hoại của Bà Mọi tăng lên gấp bội và mang một vẻ bối rối,
tuyệt vọng. Người Việt ta chỉ cười hề hề vì họ biết sức một cá nhơn không tài
nào phá hủy công việc của hàng ngàn người được.
Nhưng một sáng kia họ ngạc nhiên hết sức mà thấy sáu con suối chảy qua đất mới
khai khẩn hình như là cạn bớt đi.
Một người nói không ai tin, nhưng rồi nhiều người quan sát xác nhận điều đó nên
cả đoàn người di cư đều xúm nhau mà rình mực nước.
Nước suối cạn lần thật, y như là đất khô hút lần nó và mãi cho đến chiều hôm ấy
thì sáu dòng nước nhỏ cạn queo.
Sông cạn, núi mòn, đó là những hiện tượng họ nghe nói trong sách vở nhưng chưa
hề thấy bao giờ. Những người trẻ tuổi và đàn bà hốt hoảng lên, xem đó là một
thiên tai và tin rằng trời hại họ, hoặc thần đất, thần rừng phạt tội xúc phạm của
họ nên mới cướp mất nguồn sống của họ đi. Những người tuổi tác sáng suốt hơn một
chút nên thấy ngay rằng Bà Mọi đã nhúng tay vào vụ đó.
- Phải rồi, các người trẻ tuổi nghe có lý nên đồng reo lên. Chính đây là cái
ngón cuối cùng của mụ ta đề phá bọn mình.
Rồi họ rùng rùng rủ nhau lên núi để bắt Bà Mọi, chớ không đùa cợt công việc phá
hoại vô hiệu quả của bà ta như trước nữa.
Nhưng những ông lão ngăn họ lại:
- Các anh dại dột quá. Nếu mụ ta ngăn suối chảy được là mụ ta có pháp thuật chi
đó, nên mới yểm nước một cách hiệu nghiệm như vậy. Liệu các anh có đủ tài bắt một
người có pháp thuật chăng? Mà đừng nói chi là pháp thuật, nội trước cái tài trốn
chui trốn nhủi trong rừng của mụ ta, các anh cũng đã bó tay từ trước đến giờ rồi.
Bây giờ chỉ còn một cách là đốt hòn núi nầy, mụ ta có tài thánh ra cũng không
được. Với lại lá bùa, mụ ta giấu ở đâu mình cũng chẳng biết. Ngọn lửa sẽ đốt rụi
tất cả, kể cả lá bùa bí mật kia nữa.
Cả đoàn đồng hoan hô các ông lão, rồi họ vác rựa mà đốn rạp khu rừng mỏng còn
sót lại, viền quanh trái núi. Xong đâu đấy, họ nổi lửa lên mà đốt đống cây ấy.
Giữa mùa nắng, cây dầu cháy quanh làm mồi cho cả một đám rừng ngã rạp, lửa cháy
rần rần. Thú rừng nhỏ như chồn, thỏ, mang, mền, thoát thân chạy vọt ra ngoài đồng
trống, nhưng Bà Mọi thì mãi không thấy bóng hình.
Bà ta biền đi chăng? Cả đoàn người Việt di cư nơi vùng đó đã vây chặt quanh núi
mà đón mụ ta, vây chặt đến con thỏ cũng ra không lọt, thế mà không thấy tăm dạng
người đàn bà dị tướng: hai tai đeo hai ống tre và cổ đeo răng cọp kia.
Ðến chiều tối thì lửa đã cháy đến chơn núi. Ngọn lửa bắt đầu leo dốc, ở xa
trông thấy nó bò lần lên với những lưỡi lửa vói liếm đầu lá, rồi như níu vào ngọn
cây mà rướn mình lên.
Bóng đêm lần xuồng là cả một góc trời đỏ rực lên. Bóng dáng của đoàn người Việt
di cư nổi lên nền lửa rừng đêm, trông cổ quái như người tiền sử ăn lễ lửa vui vầy.
Lửa leo núi được vài giờ thì người ta nghe tiếng hú dài ghê rợn trên đỉnh núi nổi
lên.
Tiếng hú như kêu gọi một cách tuyệt vọng đồng bào sơn dã cha mụ đèn giải thoát
mụ ta. Nhưng mụ có lẽ là người độc nhất của cái sóc này mà dân cư tiêu rụi hết
từ lâu vì bệnh hoạn, nên tiếng kêu của mụ mất hút trong không khí, không có lấy
một tiếng vang nào vẳng lại.
Tiếng hú vang rền từng hồi, hấp hối, rồi lại nấc lên và rốt cuộc chết lần, tất
hẳn, trong ngọn lửa cao ngất trời đã bỏ lên tới đỉnh.
Hơi hú cuối cùng thê thảm quá khiến đoàn người Việt se thắt lòng lại, quặn đau
một niềm bất nhẫn. Những ông cụ già có học Nam sử đều rưng rưng lệ nhớ lại những
tiếng kêu thương khác của người Hời vong quốc âm thầm khóc điêu tàn của giống
nòi.
- Tranh sống! Trời ơi! Tranh sống ác liệt thay! Một ông lão lầm bầm như vậy rồi
nước mắt chan hòa.
Hai ngày sau, khi than đã tắt hét, người ta mò lên núi. Sáu dòng suối vẫn tắt
nghẹt khiến cho họ nghi là lá bùa bị đè dưới một tảng đá. Họ tìm quanh thì thấy
giữa búp sen, cấm ngập ngay mội nước, một cái nút bằng cây gồ.
Cây gồ là một thứ cây hễ thấm nước là nở ra, người Việt ta ngày xưa chưa biệt
chất cốt mìn, dùng để bắn đá núi. Họ khoét trong đá núi một hàng lỗ sâu rồi trồng
những nút ấy xuống đó. Họ tưới nước vài ngày là gồ nở mạnh và đẩy tét hai một tảng
đá lớn. (Cách đây vài mươi năm, dân làm đá ở Bửu Long, Biên Hòa, cũng còn dùng
phương pháp ấy).
Nút gờ nở lớn quá, họ cạy mãi để giải thoát mội nước mà không được.
Nước mội lại chứa nhiều chất đá vôi nên ngày lại ngày rỉ ra, tiết chất đá vôi,
chất nầy khô cứng lại và hóa thạch cái nút kia, nên càng không lay chuyển nó được.
Dân phá rừng đành phải cam chịu ruộng khô và để tưởng nhớ một người đàn bà oanh
liệt, đã bảo vệ quê hương đến hơi thở cuối cùng, họ cất miếu thờ Bà Mọi trên
núi và đặt tên núi là núi Bà Mọi.
- Còn ngôi chùa nầy, sư trưởng tiếp, thì chỉ mới dựng lên độ sáu mươi năm nay
thôi.
LỬA TẾT
Nỗi khổ của tôi bắt đầu từ hôm bíc-níc ấy. Tôi có mang theo
bánh mì, lạp xưởng và nước trà nóng đựng trong bình thủy, nên khỏi phải làm việc.
Chính anh Minh, ba của con bé Liên của chúng tôi, đã đòi hỏi như vậy, anh ấy
cho rằng ăn bánh mì tuy không ngon bằng ăn cơm nhưng anh ấy không muốn thấy tôi
cực nhọc cả trong ngày nghỉ cuối tuần nữa.
Chúng tôi câu cá tại bờ con rạch nhỏ, nơi mà chúng tôi cắm trại, trong khi bé
Liên đuổi bướm và bắt chuồn chuồn. Thật ra thì câu cá chỉ là cái cớ để vợ chồng
chúng tôi tắm nắng một cách nên thơ vậy thôi chớ hình như là cá nó thù, hoặc nhờm
chúng tôi hay sao ấy mà không bao giờ chúng nó cắn câu của vợ chồng tôi. Vả, nếu
may mắn (hay rủi ro?) mà được cá thì chắc anh Minh, anh ấy sẽ bối rối ghê lắm
vì một mặt anh ấy cưng vợ, một mặt anh ấy tiếc cá, cứ muốn bắt tôi kho hay
chiên gì đó.
Ấy, anh Minh hơi gàn gàn, nhưng tôi không dè mà anh ấy lại gàn đậm kể từ hôm
đó.
Chẳng, sau hai tiếng đồng hồ làm ông già sông Vị, anh ấy đâm chán và rủ tôi vào
xóm. Đi thì đi, bởi tôi cũng nghe da mặt nóng lắm rồi, má tôi rát rân lên vì bị
nắng đốt nhiều giờ rồi.
Trên con đường mòn ngoằn ngoèo đưa vào cái ấp lớn thoáng thấy đằng kia, chúng
tôi gặp một nếp nhà tranh vừa cất xong, chưa ở. Nhà trống trơn và cửa phên tre
dựng bên vách hông nhà, cho chúng tôi thấy rõ bên trong: Giữa gian nhà giữa,
trên nền đất, một lò lửa đã tàn lụn nhưng than còn ngún trên tro. Hai bên lò lửa
là một lu nước đầy gần tràn và một khạp gạo đầy nhóc.
Thuở bé tôi ở thôn quê, nên biết rằng đó là những món tượng trưng cho sự đầm ấm
và sung túc mà người ta bày ra giữa nhà mới, hăm bốn tiếng đồng hồ trước khi
vào ở, để cầu một đời ấm no và vui vẻ về sau.
Anh Minh say sưa nhìn bếp lửa và lu nước rồi nói, như nói một mình: "Ta có
danh từ nước lửa, danh từ ấy chỉ hai thứ thiên tai mà ta rất sợ. Nhưng...
Giây lát sau, tôi đi vào ấp với bên cạnh tôi, một người bạn đời thình lình mắc
bệnh á khẩu. Nếu không có bé Liên cái miệng tía lia, cả ba chúng tôi giống một
đoàn người đi đưa đám ma mà giữ lễ theo phép lịch sự Âu châu.
Tới đầu xóm, anh Minh nói bằng giọng ra lịnh:
- Từ rày có đi bíc-níc, nên mang gạo, mang nồi theo để thổi nấu, cấm nhặt em
cho gia đình ăn bánh mì, lạp xưởng hoặc bánh hỏi thịt quay.
Tôi cười mà rằng:
- Trước đây thì cấm thổi nấu, cho đến ăn cơm mo, cơm vắt, làm sẵn ở nhà, anh
cũng cấm. Giờ thì... trái hẳn lại. Nhưng không hề gì, em sẽ chiều ý anh.
Anh Minh không chịu vào xóm, đứng đó mà ngắm cái gì rất lâu không rõ, đoạn đưa
mẹ con chúng tôi trở về lều. Anh ấy đã vui tươi trở lại và không khí buổi ăn
trưa hôm ấy bình thường nếu không có cái lịnh mới nầy. Anh ấy hỏi:
- Thùng dầu lửa ở nhà đã hết rồi chớ? Anh nhớ hình như hôm qua em có dặn anh chở
chiếc thùng không lại cây xăng gần nhà để đong thêm mười tám lít?
- Đúng như vậy, và chiều nay, về Sài gòn, anh nhớ cho, kẻo mai không có dầu mà
nấu ăn.
- Không, không nấu bằng dầu lửa nữa. Chiều nay anh sẽ ghé vựa để mua một tạ
than đước với hai cái lò đất nung. Cho cái lò dầu lửa về hưu đi.
Tôi hơi lo. Chồng tôi chỉ làm việc vừa chừng thôi, không hề gặp rắc rối sinh kế
hay tình cảm nào, trong họ nhà chồng tôi cũng không nghe nói có người nào điên.
Nhưng sao lại có cái lịnh kỳ dị nầy? Than đước một tạ sáu trăm đồng, nấu chỉ có
một tháng là hết sạch. Trong cái thời gian ấy thì nấu đốt lò bằng dầu lửa, chỉ
phải tốn có trăm sáu thôi. Nhưng rồi anh Minh đi hái hoa dại cho mẹ con tôi,
nên tôi lại an lòng được vì một kẻ hóa điên thình lình, không hề nghĩ đến sự bộc
lộ tế nhị của tình thương yêu như thế đâu.
Chiều lại, chúng tôi về tới Sài gòn là đã sáu giờ rồi. Theo chương trình thì
chúng tôi đi ăn hiệu, nhưng anh Minh lại đổi chiến lược vào phút chót, có lẽ
vì... "lý do kỹ thuật" chăng? Anh bỏ mẹ con tôi tại một góc phố kia,
bảo gọi xích-lô đạp mà về nhà, còn anh ấy thì phóng xì-cút-tơ đi mua lò đất
nung và than đước. Thì ra cái vụ than đước nầy không phải là lời đùa đâu mà là
cả một kế hoạch nghiêm trang. Đã hơn sáu giờ rồi. Vào giờ nầy mà bắt vựa than họ
chở than tới nhà, mà phải chở tốc hành, không thôi tới nửa đêm, dễ thường chưa
có cơm mà ăn, thì họ sẽ tính tiền chở gấp ba cho mà coi!
Lại không có gì mà ăn nữa. Má tôi ở nhà, nhưng bà cụ chỉ cần một dĩa cá kho mặn
mà thôi. Rồi anh ấy lại kêu là nuốt không trôi! Vào giờ nầy, còn chợ búa đâu để
mà mua thịt, mua cá? Rõ khổ! Tôi không ngại phải nấu bữa ăn tối nầy. Đi ăn hiệu
là tại anh ấy bày đặt cho tốn tiền chớ tôi đã đề nghị từ lâu là làm sẵn vài món
ăn hồi trưa thứ bảy, chiều chúa nhựt về tới nhà, chỉ còn việc hâm lại cho nóng
mà thôi. Mà cũng không phải là tôi hâm nữa. Má tôi ăn cơm hơi sớm, ăn xong, bà
hâm giùm tôi là kịp lúc chúng tôi về đến nơi.
Anh Minh mới có băm hai tuổi mà đã gàn ra thì sống chung với anh ấy thêm hai ba
mươi năm nữa, tôi chịu sao thấu hở trời!
Kỳ lạ nhất là khi má tôi nghe tôi kể chuyện điên của "ông" rể gàn của
bà, đôi mắt bà lại sáng lên. Má tôi ở thôn quê không được yên, nên anh Minh anh
ấy rước bà lên đây từ ba năm nay. Chú rể quí ấy được má tôi cưng ghê lắm. Anh ấy
có nịnh má tôi chăng ? Hình như là không vì bà cũng chẳng còn tài sản gì để anh
ấy phải dùng thủ đoạn hầu hưởng một phần gia tài lớn hơn phần của người anh cả
của tôi. Biết vậy, nên tôi tủi thân lắm, buổi đầu mà má tôi lên đây. Má tôi
không cưng anh ấy vì sự nịnh nọt của anh ấy, thì tức là cưng anh ấy vì lòng
thương, mà lại thương anh ấy nhiều hơn là thương tôi nữa. Nói thì nói chớ tôi
cũng lo tắm rửa cho bé Liên, còn chính tôi thì tôi bỏ tắm chạy lại hiệu chạp
phô ở đầu phố để mua trứng vịt, hàm-yũ để phụ thêm với món cá kho muôn năm của
má tôi, cho mâm cơm ra vẻ một chút.
Giây lâu sau, xe ba bánh đưa than về và má tôi chạy ra cổng rước than như dân
đi tiếp rước quan to, hồi tiền chiến. Chính má tôi đốt lò, quạt than và vo cơm,
rồi bà không chịu rời nhà bếp nữa.
Bữa ăn hôm ấy, tôi không vui vì bị giá của tạ than đước ám ảnh. Tôi phân trần với
má tôi:
- Má coi ! Than mắc tiền bằng ba lần dầu lửa, vậy mà...
Anh Minh cười hề hề, chận lời tôi:
- Có lần em đã nói: "Thôi, em không học may áo đầm cho bé Liên đâu. Mình học
chăm thế nào cũng không giỏi bằng thợ mà họ may sẵn bày bán ở các hiệu, còn rẻ
hơn là chính mình may lấy nữa. Em đã nói sai."
Má tôi đã phụ họa theo:
- Ừ, con sai lầm. Đâu có phải như vậy.
- Ơ kìa, em nói chuyện than đước kia mà, mắc mớ gì đến áo đầm chớ?
- Than đước, tức là áo đầm đó.
- Ừ, cha con Liên nói có lý. Má tôi lại phụ họa theo anh ấy.
Má tôi đã già nên lẩm cẩm, thì còn nhịn được, chớ anh Minh mà nói chuyện tầm ruồng
như thế, là anh ấy sắp đi nhà thương Biên hòa rồi vậy. Tôi kinh ngạc, nhìn anh ấy
trừng trừng. Anh ấy lại cười hề hề mà rằng:
- May áo đầm, thật ra, không phải là may áo đầm.
Tôi sợ quá. Rõ ràng là anh Minh hóa điên. Nhưng tôi cũng hỏi:
- Chớ là gì?
- May áo đầm là một qui phạm.
- Qui phạm là gì?
- Là một kỷ luật mà ta cố theo, và kỷ luật ấy luyện cho ta vào cái nếp nội trợ.
- Chớ em không làm nội trợ à?
- Không, em chỉ làm nội trợ miễn cưỡng mà thôi. Em thích đi làm thu ngân viên
hơn. Em có óc công nhân, chớ không có óc nội trợ đâu. Ai lại không biết rằng học
chăm đến đâu cũng không giỏi bằng thợ, rằng ta hà tiện vải đến đâu, áo may cũng
không rẻ bằng áo mua, họ may hằng nghìn cái nên giá vốn rất hạ. Nhưng khi may
áo cho con, em sẽ để tấm lòng thương yêu con vào đó, em sẽ cố gắng và sẽ mến được
cái qui phạm may áo và ngày kia em được đưa vào nếp nội trợ, em làm nội trợ một
cách vui thích, nhớ công việc nội trợ như các cô đào nhớ đèn sân khấu mỗi đêm.
- Chồng con nó nói đúng đó con à. Má tôi ủng hộ anh chồng gàn của tôi và bỏ rơi
tôi.
Tôi giựt nẩy mình trước một điều vô cùng mới lạ mà tôi nghe chồng tôi nói lần đầu:
may áo, không phải là may áo, mà là một qui phạm nó luyện tính con người. Tôi
giựt mình vì đã có lần tôi đã chê nhà binh sao cứ bắt lính mới, tập đi ọt, đơ
mãi cho tốn thì giờ, và cậu tôi giải thích: "Đi ọt, đơ, thật ra không phải
là đi ọt, đơ. Đó là một qui phạm nó luyện cho các tân binh chịu đựng được kỷ luật
nghiêm khắc của nhà binh".
Nhưng dầu vậy tôi vẫn không chịu thua, cố cãi:
- Nhưng may áo đầm, sao lại là than đước được! Anh khéo nói điên!
Anh Minh lại cười, hề hề:
- Bởi vì than đước, thật ra không phải là than đước.
- Nữa, lại cái luận điệu đó nữa.
- Chớ sao, vì luận điệu đó tốt. Em có biết thành ngữ "Ăn lông ở lỗ"
hay không?
- Anh đi xa vấn đề quá rồi !
- Đâu có xa. Trước khi loài người "ở lỗ" họ rày đây mai đó. Họ không
có đời sống gia đình. Khi họ phát kiến ra LỬA rồi thì họ mới định cư lại, chưa
biết cất nhà thì họ tìm hang mà ở, lập gia đình, rồi đêm ngày nhen nhúm lửa
thiêng, đời đời kiếp kiếp nuôi nấng lửa để ấm hang, nuôi nấng tình gia đình để ấm
lòng. May áo và nhúm lửa là ý niệm gia đình, không may áo, không nhúm lửa,
không xong. Anh chợt nhớ ra sự thật ấy khi ta bắt gặp nếp nhà tranh mới cất và
chủ nhà nguyện cầu, thề bồi bằng nước, lửa và gạo, nguyện cầu được no ấm, thề bồi
nổ lực cho gia đình được no ấm.
- Nhưng, dầu lửa lại không là lửa à? Tôi lại cãi.
- Không. Em đã không thấy má đã dành đốt lò với em đó sao?
- Ừ, tao nhớ lửa lắm, thèm lửa lắm. Má tôi xác nhận.
Chồng tôi diễn thuyết:
- Lửa thiêng của gia đình, phải bốc khói, khói ấy phải quyện lấy mái tranh. Ta ở
thành phố, không thể mong hưởng những thứ ấy thì lửa, ít ra, cũng phải nổ lách
tách trong lò, và tiết ra mùi cây cỏ. Ở miền Nam ta, có người gọi dầu lửa là dầu
hôi, và quả nó hôi thật. Nhưng lửa thiêng của gia đình phải thơm, thơm mùi thảo
thụ. Dầu sao nhìn lửa than cũng vui mắt hơn, nghe nó có linh hồn hơn, nó gợi nhớ
sự sống hơn. Chiếc áo mà chính tay em may sẽ mang cái bản ngã của em, dầu nó
không được đẹp lắm, chớ không nặc danh như những chiếc áo khéo, mua ở hiệu. Chiếc
bánh phơ-lăng do chính tay em làm, có cháy khét đi nữa, cũng được hương vị của
tình thương của em đối với gia đình, chớ không vô hồn như bánh đết-se của các
hiệu ăn sang trọng.
Má tôi nói:- Tao thì tao thèm nấu bằng củi hơn. Khói củi thơm hơn khói than. Chiếc áo bà
ba nầy, tao đã may một tháng mới xong, nhưng...- ...nhưng nó quí ở chỗ nó mang nhãn hiệu "BÀ NGOẠI CỦA BÉ LIÊN"?
Tôi hỏi đùa.Má tôi và anh chồng gàn của tôi đồng cười xòa, rồi má tôi chẫm rãi tuyên truyền
cho tôi nghe:- Nè, củi mỗi thứ mỗi khác đó nhé. Củi bắp phơi khô để làm củi, thì ngọn lửa
xanh như lửa đèn cồn. Vỏ măng cụt phơi khô, chụm nó nổ lách tách y như than Cà
mau. Củi nhánh sao chết rụng trên vệ đường, nó cháy rụi tỏa ra cái mùi của thời
tiết gió bấc về. Còn mầy biết củi gì thơm ngát hay không? Đó là dăm tiện.- Dăm tiện là gì má? Chồng tôi hỏi.- Muốn làm những vật dụng tròn như kiểu chơn bàn, chơn ghế kia chẳng hạn, thợ
tiện họ đưa cây vào máy tiện, cây nó mới tròn trịa đều đặn được, chớ thợ mộc
tài nào mà trau giồi cho nó tròn. Các món đồ tiện, luôn luôn là vật dụng quí
nên được làm bằng đủ thứ gỗ quí: trắc, cẩm lai, huỳnh đàn, cho nên dăm tiện nó
thơm dữ lắm, thơm cái mùi hỗn hợp của đủ loại gỗ mắc tiền. Lửa củi đã thơm mà
hình thù của nó cũng hay lắm. Nó cháy lên, mình thấy được, chớ không vô hình
như lửa của các lò dầu lửa đâu. Nhìn ngọn lửa cũng ngộ, nhìn màu lửa còn ngộ
hơn. Mà hay nhứt là lửa củi không chết.Bé Liên ngơ ngác hỏi:- Lửa cũng chết nữa sao, bà ngoại?- Sao lại không? Lửa lò dầu, nấu xong bữa ăn là nó tắt liền, vì ta phải tắt nó,
kẻo hao dầu. Lửa củi đâu có như vậy. Nấu ăn xong thì người ta vùi củi dưới tro.
Tro xốp lắm, nên than củi âm ỉ cháy tối ngày sáng đêm, bước vô nhà bếp thì nghe
ấm liền, ấm thật sự, mà cũng ấm cúng nữa. Nhà bếp ở đây lạnh tanh từ đúng ngọ
cho tới năm giờ chiều, nhà nào cũng vậy. Bước vào các nhà bếp ở đây, nghe ơn ớn
nơi xương sống như là vô nhà hoang chết chủ!Tôi ao ước từ mấy năm nay một bộ lò điện mà anh Minh chưa đủ khả năng tài chánh
để thỏa mãn giấc mơ của tôi. Lò điện tiện và sạch hơn lò dầu lửa nhiều lắm.
Nhưng bỗng tôi nghe hết ham cái tiện nghi văn minh đó nữa.Tôi đã cười đùa chồng tôi vì anh Minh chỉ biết ra lệnh và nói lý thuyết. Má tôi
dốt lý thuyết nên bà chỉ tả mà thôi, và quả tôi bỗng nghe thoang thoảng mùi lửa
dăm tiện đâu đây, cái mùi vô cùng đặc biệt thường nghe thuở bé, hồi còn sống
trong làng.Má tôi lại nói:- Ở đây sao mà lạ quá, không có mùi gì hết, hay chỉ có hai thứ mùi, mùi nước
hoa và mùi ống cống. Mùi hay lắm. Mùi đất xông lên, sau đám mưa đầu mùa nè, mùi
bông bưởi, bông sao nè, mùi củi cây rù rì nè, mùi lúa chín nè, mùi rơm khô nè,
mùi phân chuồng nè, mùi rau, đậu tươi nè. Nói tới đây sao mà tao bắt nhớ nhà chịu
không thấu nữa ! Con Liên, chắc ngày sau, nó đi đâu ở cũng được, vì thành phố
không có cái gì làm cho nó nhớ hết.- Có chớ, bà ngoại ! Liên cãi.- Có cái gì? Má tôi hỏi.- Có kem nè, có xi-nê nè, có đèn màu nè!- Rồi cháu sẽ thấy rằng những thứ ấy không gợi nhớ đâu.- Chớ cái gì gợi nhớ hở bà ngoại?- Mùi vị khác kia, như mùi khói đống un lá chết vào mùa gió bấc mà người ta un
lên để hơ ấm, bởi vì mùi đó còn dính líu tới những cái khác nữa, mà nhiều thứ mới
họp lại thành một nỗi nhớ được.- Thứ nào với thứ nào bà ngoại?- Nhiều thứ lắm, bà không biết nói ra. à... ờ... thí dụ như lửa Tết, lửa đêm ba
mươi nấu bánh tét, quanh lò lửa lớn ấy có mặt đông đủ cả nhà, ai đi mần ăn xa ở
đâu, cũng phải về, đông đủ cả nhà mà đôi khi đông đủ cả họ nữa, vì có những bà
con nghèo, không gia đình, không nhà cửa, họ xin hưởng ké sự ấm cúng của bất cứ
người nào trong họ mà có được một bếp lửa.- Còn thứ gì nữa bà ngoại?- Còn lu bù thứ. Cả nhà họp mặt đông đủ thì vui, nấu nướng suốt đêm các món ăn
ngon, kể cho nhau nghe chuyện mần ăn của mình ở xa, nhắc lại chuyện ăn Tết ngày
xưa của ông bà tổ tiên. Đêm cuối năm gió lạnh lắm, mà quây quần quanh bếp lửa, ấm
ghê đi. Nhà có nhúm lửa, nghe như là sung túc, mà nhúm những bếp lửa lớn, nghe
càng sung túc hơn. Đó rồi thì ngày mai lại, lửa cháy trong bếp suốt ba ngày ba
đêm, không được hạ ngọn phút nào hết, cho nó vui. Ở làng, người ta cất nhà lớn,
nhưng cả nhà đều ở sau bếp, không phải sợ nhà trên mòn mà không dám ở, mà vì
nhà bếp vui hơn, mà vui hơn là nhờ lửa.Tôi cãi:- Nhưng ở đây, chật hẹp như vầy, dầu cho có ghiền khói, ghiền lửa như má, cũng
không làm sao mà...- Ừ, nhưng nấu than cũng tạm an ủi được phần nào.Chồng tôi nhìn tôi mà cười, đắc thắng.THÈM MÙI ĐẤTSau khi tường trình xong về công việc của Ban Trị Sự vừa mãn
nhiệm kỳ hôm nay, ngày cuối năm dương lịch 1964, ngày nhóm Đại Hội thường niên,
và trước khi bầu Ban Tri Sự mới, với lại trước khi ngồi vào bàn tiệc, cũng thường
niên, tổ chức ở sân nhà ông Hội Trưởng của "Hội Tương Tế tỉnh B" ông
Hội Trưởng cao niên, hiền lành, dễ thương của cái "đồng hương hội" ấy
than:- Bà con cô bác ơi, mấy năm nay Ban Trị Sự khổ sở nhứt, không phải vì vấn đề
tài chánh, thường là bài toán bể đầu đối với các hội nho nhỏ như ta, không có
cơ sở kinh tài, chỉ đứng vững tương đối và tạm bợ dựa vào tiền niên liễm của
anh chị em hội viên, mà khổ sở vì một chuyên lặt vặt mới kỳ cho chớ!Ông Hội Trướng nầy và Ban Tri Sự của hội cứ được bầu đi bầu lại mãi, nên ông biết
rõ mọi vấn đề như bất kỳ những người có trách nhiệm nào mà giữ chức vụ một cách
trường kỳ.- Về chuyên gì đó a... ông Hội Trưởng?Một vị hội viên cũng rất cao niên, người ủng hộ tài chánh cho đồng hương hội tỉnh
B hỏi như vậy. Ông nầy rất giàu có và nhứt là rất tốt bụng, lần nào hội túng tiền,
ông cũng giúp đỡ cho, nếu đó là một số tiền lớn thì ông cho mượn, bằng như hội
cần năm ba ngàn, ông luôn luôn tặng không.- Về cái nghĩa trang é mà! ông Hội Trưởng đáp.- Sao, nghĩa trang làm sao?Vị ủng hộ viên nầy cũng gần tới tuổi quay đầu về núi rồi nên ông rất chú tâm đến
cái nơi an nghỉ cuối cùng của ông trong một tương lai có lẽ rất gần đây. Ông
đoán rằng đây là vấn đề hàng rào dây kẽm gai, chớ không có gì lạ, nhưng vẫn tò
mò và nóng lòng biết đích xác ngay sự việc. Ban Trị Sự thấy cái hàng rào ấy rất
cần thiết để ngăn ngựa, bò, heo, chó xâm phạm nghĩa địa, nhưng nghe đâu như Ban
Trị Sự chưa gom đủ tiền để đúc trụ bê-tông và mua kẽm.Phía trong chợ ông Tạ có một khu nghĩa trang cho gần hai mươi tỉnh của miền
Nam. Non hai mươi nghĩa trang ấy nằm khít ranh với nhau. Tỉnh B quá gần Sài gòn
nên chi từ ngày thành phố nầy được thành lập cho tới năm ấy, người gốc tỉnh đó
không tậu nghĩa trang riêng, ai có kha khá tiền thì đưa xác người thân về quê,
không tốn kém bao nhiêu, ai nghèo lắm thì nằm đất ở nhà chùa ngoại ô nào đó.
Nhưng từ những năm có biến cố, việc đưa xác về quê rất bất tiện nên nghĩa trang
nầy mới được thành lập, sanh sau đẻ muộn hơn các nghĩa trang khác, nó nằm ở
biên khu, không được các nghĩa trang lân cận che chở cho ở tới ba mặt, thường bị
thú vật nhà của ngoại ô xa nầy phá quấy.- Thưa hiền hữu, ông Hội Trưởng đáp, nói cho đích xác ra, thì đó là vấn đề người
coi sóc nghĩa trang...- Vậy à? Tôi cứ tưởng... Còn hàng rào?- Hàng rào thì đã làm xong rồi. Người coi sóc nghĩa trang mới là bài toán bể đầu.
Năm rồi, Ban Trị Sự đã phải thay ba người, mà người cuối cùng cũng lại xin thôi
việc, vào dịp Tết ta tới đây, tức là sau hai tháng nữa là phải tìm cho được người
mới để thay cho y.Không ai ngạc nhiên hết. Đời bây giờ, công ăn việc làm quá nhiều, dân tộc ta có
đông đúc hơn xưa bao nhiêu, cái yếu tố người cũng cứ tương đối ít, ngoại nhân lại
trả lương cao lại rất khó lòng mà giữ công nhân, ngành hoạt động nào cũng mắc
phải nạn thiếu người hết. Phương chi khoản thù lao cho một người săn sóc các
nghĩa trang nho nhỏ, thật là ít oi thì đó là một chỗ làm không được hoan nghinh
bao giờ.Ông Phán Ty hỏi:- Tôi nghe nói hội nhà cho y độc quyền đào huyệt để y kiếm thêm chút đỉnh nuôi
vợ con, nghĩa là tương đối cũng đã đủ sống ra. Như vậy sao y còn...Ông Tham sự trẻ tuổi tên là Cần, không đợi ông Hội Trưởng trả lời, cãi lại với
người vừa có ý kiến:- Đủ sống nghĩa là chỉ đủ ăn cơm mà thôi. Y rất chánh đáng mà tham vọng được uống
cà-phê, được nhậu la-de như bao nhiêu công nhân khác. Vả lại người công nhân
nào thấy phu xích lô đạp kiếm mỗi tháng mười ngàn đồng 1 lại
không ham kiếm được tiền nhiều hơn với một nghề khác.- Thưa quí vi hội viên với lại bà con cô bác, không phải như vậy đâu, ông Hội
Trưởng đính chánh. Tất cả đều đòi thôi việc để về xứ.- À, cái đó thì hơi khó hiểu. Ông kỹ sư Minh nhận xét. Ngỡ họ thôi việc để đi
làm phu cho các hãng thầu Huê kỳ thì còn có lý do, chớ còn bỏ chỗ làm để trở về
những làng xa kém an ninh mà họ đã phải rời thì thật là kỳ. À, hình như ông Hội
Trưởng có cho biết là phải nông dân mới làm nghề đó được hả?Ông Hội Trưởng xác nhận:- Ừ, mà nhứt là phải là nông dân chơn ướt chơn ráo mới tới ở thành phố. Thứ nhứt,
chỉ có hạng người đó mới nhận một chỗ làm ít lương như vậy, trong khi chờ đợi
tìm được chỗ tốt hơn. Kế đó, họ là người không sợ ma. Quanh nghĩa địa là bụi rậm,
là chồi cây, là tre gai, là đồng trống, là bóng tối dày đặc về đêm, dân thợ ở
thành phố quen sống chen chút với nhau từ lâu ở những nơi sáng trưng đèn điện,
đâm ra nhát như trẻ con, sợ ma lắm, phương chi họ lại cất chòi gần ma thật sự,
chớ không phải là ma tưởng tượng. Khu nghĩa địa ấy còn có các nghĩa địa khác nữa,
như là nghĩa trang của người Ăng lê chẳng hạn, nếu có ma thì ma ở đó đông hằng
vạn chớ có phải là một hai con đâu.Cử tọa cười ồ lên, giây lát sau trận cười dứt, ông ủng hộ viên tài chánh hỏi:- Nhưng các nghĩa trang khác thì họ giải quyết vấn đề ấy cách nào?- Dạ thưa ông anh, họ không có vấn đề ấy như ta. Các nghĩa trang khác có đã lâu
đời rồi, khiến nghĩa trang đã được bốn thế hệ người chôn trong đó, ở lắm nghĩa
trang như nghĩa trang của tỉnh Sa đéc, người coi sóc nghĩa trang cha truyền con
nối, họ đâu có xin thôi, còn các nghĩa trang tương đối ít lâu đời hơn, thì cũng
đã cao niên lối bốn năm mươi tuổi, người coi sóc lại đã quá già, không tính
chuyện đổi nghề vào lúc họ bảy mươi nữa.- Họ có nói họ về xứ để làm gì hay không?- Ai cũng nói họ nhớ nhà.- Khung cảnh ở đó y hệt như ở nhà quê, cũng có tiếng gà gáy khuya, tiếng cu gù
trưa, tiếng chim hát sớm và chiều, thì tôi tưởng họ tạm quên được nỗi nhớ nhà sầu
xứ chớ?Người nói ra các ý nghĩ trên đây là một ông giáo sư về hưu, và câu nói của ông
có vẻ văn nghệ, tâm lý, triết lý lắm nên cả đại hội đồng đều đồng ý với ông, và
vì vậy mà họ càng ngạc nhiên hơn trước, cái nước liều không cần thiết lắm của mấy
anh coi sóc nghĩa trang tỉnh nhà trong mấy năm nay. Vâng, đã bỏ làng vì lý do bất
an ninh, lại quyết trở về làng trong khi tìm được một nơi không làm cho họ lạc
hướng lắm, và sự liều không cần phải liều.Chỉ có một vi bác sĩ trẻ tuổi là mỉm cười một cách bình thản. Người hội viên nầy
hẳn còn sống rất lâu, ông ta vào hội, chắc chỉ đã có đất mà chôn ông, chôn cha
gì đó thôi, chớ không phải vì ông ta chút nào.Cử tọa làm thinh hơi lâu nên người hội viên trẻ tuổi nầy mới dám có ý kiến. Ông
ta biết kính lão mà đây là một hội mà đa số hội viên là những ông cụ thất tuần.- Thưa ông Hội Trưởng, ông bác sĩ Xuân ấy nói, nếu ông Hội Trưởng cho phép, tôi
hy vọng sẽ thuyết phục người đó được.Ông Hội Trưởng cười hiền lành mà rằng:- Sao lại cho phép? Chính tôi phải yêu cầu bác sĩ giúp cho Ban Trị Sự thoát khỏi
cái nước bí nầy ấy chớ.- Với lại, bác sĩ Xuân thêm, dầu sao rồi tôi cũng cần được phép của ông Hội Trưởng
để thực hiện vài điều lặt vặt trong nghĩa đia.- Bác sĩ trọn quyền hành động.Vấn đề xem như đã được thông qua, người ta bầu Ban Trị Sự mới và vì Ban Trị Sự
cũ làm việc đắc lực trong nhiều nhiệm kỳ liên tiếp nên cuộc bỏ phiếu chỉ là một
thủ tục lấy lệ mà thôi.Thế rồi bao nhiêu người đồng hương ấy, thuộc đủ giai cấp, đủ nghề nghiệp, ngồi
lại bàn tiệc tất niên và từ đó cho đến khuya, chỉ còn tiếng cười nói, chớ không
ai nêu ra vấn đề rắc rối nào nữa hết.Không biết sau đó cái ông bác sĩ Xuân ấy đã gạt gẫm anh nông dân chất phác kia
thế nào mà rồi anh ta bằng lòng ở lại, không những không xin thôi nữa, mà là
năm ấy anh ta cũng không về quê ăn Tết như năm trước đó.Thường thì những chuyện làm điên đầu, không ai buồn xía vào làm gì, nếu có kẻ
đưa lưng ra gánh vác. Trong trường hợp nầy, kẻ ấy là Ban Trị Sự, mà Ban Trị Sự
đã không kêu than nữa thì họ an lòng rồi, hơn thế có nhớ tới vấn đề, họ cũng lờ
đi, sợ khui chuyện ra, mỗi người lại phải nghe than nữa thì mệt lắm, lại còn có
thể được yêu cầu đưa vai ra đỡ phụ thì càng mệt hơn.Mãi cho tới năm 1966, cũng trong một bữa tiệc thường niên vào dịp cuối năm, ông
ủng hộ viên vụt hỏi ông Hội Trưởng giữa hai ly rượu:- À, tôi chợt nhớ lại vụ người coi sóc nghĩa trang cho hội nhà. Bây giờ người ấy
là ai? Có đòi thôi việc vì nhớ nhà như bao nhiêu người trước hay không? Tôi cứ
bị cái chết của chính tôi ám ảnh tôi hoài nên tôi quên tất cả mọi chuyện khác.Ông Hội Trưởng bật cười:- Nhưng ông anh vẫn sống hoài để uống rượu với người đồng hương mỗi năm một lần.
Chúc ông anh sống thêm mười năm nữa.- Cám ơn ông Hội Trưởng. Dầu sao rồi tôi cũng theo ông theo bà ngày nào đây,
nên chi tôi lại ích kỷ, lo trong ấy bị bỏ bê.- Dạ, không những nghĩa trang không bị bỏ bê, lại còn đẹp hơn bao giờ hệt, đẹp
hơn tất cả nghĩa trang của mười mấy tỉnh khác.Ông kỹ sư Biện xác nhận sự kiện, phụ họa với ông Hội Trưởng, lại trách cứ người
trong hội:- Đúng là đẹp hơn các nghĩa trang khác nhiều lắm. Các nghĩa trang khác, cái nào
cũng u buồn, còn nghĩa trang nhà thì rực rỡ màu sắc, nhìn vô đó, ta cứ tưởng đó
là một vườn hoa. Bà con tệ lắm, ít có ai vô thăm nghĩa địa, trừ vài người hội
viên hiếm hoi nhà có tang ma.Ông ủng hộ viên tài chánh cười ha hả mà rằng:- Ai cũng sợ nghĩa địa nhắc nhở cái chuyến đi du lịch không được vui trong đời
con người nên nghĩa trang không bao giờ là chỗ ngoạn cảnh của ai được hết.Ông Hội Trưởng nói lên một sự kiện không hãnh diện cho lắm về các hội viên nói
riêng, về loài người nói chung.Sợ chết hình như là ơ... hơ... tuy rất tự nhiên, nhưng đồng thời cũng rất là
kém triết lý! Sao lại sợ một việc tự nhiên, không tránh được?Một ông thư ký về hưu nói nữa:- Có, các hội viên có vô trong ấy chớ sao không! Đó là những hội viên có mồ mả
người thân trong ấy. Chỉ phiền là họ đã hết hội viên rồi. Hễ họ hưởng xong cái
quyền lớn nhứt của một hội viên, nghĩa là lấy xong một chỗ nằm cho cha, mẹ, vợ,
con, rồi thì họ rút lui êm thắm, không đóng tiền nguyệt liễm nữa.Ông ủng hộ viên trở lại vấn đề người coi sóc nghĩa trang:- Nhưng tôi vẫn chưa biết vấn đề nhân công ấy đã được giải quyết một cách vĩnh
viễn chưa.- Thưa ông anh, đã giải quyết ổn thỏa xong từ năm ấy. Cũng vẫn cứ là người cũ.- Hay lắm, y hết nhớ nhà rồi hả?- Dạ!- Ông bác sĩ trẻ tuổi tên gì đó, ông ấy thuyết phục giỏi như Trương Nghi, Tô Tần.
Ông ấy đâu rồi? Bà con ta phải thưởng ông ấy mỗi người một ly rượu mới được.Mọi người đưa mắt sang khắp các bàn tiệc đó tìm kiếm con người có công ấy;
nhưng không ai tìm được người đó hết.Một người tư chức trẻ tuổi lên tiếng:- Ông Xuân ổng đã đi quân dịch từ hai năm nay rồi.- Vậy à? Chắc ông ấy ở tiền tuyến xa nên từ hai năm nay, nhớ ra thì ông ấy
không có mặt trong hai bữa tiệc cuối năm. Nhưng ông ấy đã nói làm sao mà rồi
người coi sóc nghĩa địa bằng lòng ở lại vậy a ông Hội Trưởng?- Thật ra. thì ông ấy không có nói gì hết với người đó, hay không có nói hơn một
câu ngắn.- Lạ! Chắc cái câu ấy là câu thần chú sao mà!- Cũng không phải vậy. Ông ấy can thiệp để tôi cho phép người đó trồng bông thọ
ngay trong nghĩa trang để bán ở các chợ Tết, qua trung gian các hàng bông hoa.
Đó là chuyện tết năm ấy. Sang Giêng lại, thì ông ấy lại can thiệp để tôi cho y
trồng đủ thứ bông hoa, nhứt là bông huệ, cần trồng trụ khá lớn cho cây huệ dựa.
Bây giờ thì y đã giàu ra, vì bông huệ bán rất được tiền, và nhờ vậy mà nghĩa
trang nhà cứ thơm tho, tươi tốt quanh năm.- Nhưng mà y làm nghề đó, choán chỗ lắm!- Thưa ông anh với lại bà con, không choán chỗ đâu. Nghĩa trang nhà còn mới, đất
trống còn nhiều. Vả lại, bông hoa mềm yếu, rất dễ nhổ bỏ đi mà không gây thiệt
hại nặng cho người trồng. Nói thí dụ mà nghe chớ bỗng dưng ta cần chỗ cho một
vài trăm huyệt mả, một cách thình lình, thì y cũng sẽ thỏa mãn ta được, vì bứng
bỏ bao nhiêu cây bông hoa trong cái diện tích cần ấy, không làm tốn hơn hai tiếng
đồng hồ, còn về thiệt hại vật chất và tài chánh thì y chỉ mất lời chớ đâu có bỏ
ra bao nhiêu vốn mà phải lỗ. Vả lại, theo tôi thì y cũng sẽ khỏi phải bứng cây
cho nhọc xác, cứ để vậy, phu đào huyệt giậm lên đó như giậm lên cỏ, có thể còn
sướng chơn hơn là giậm lên cỏ nữa.- Y khá lên như vậy hèn gì mà y vui lòng ở lại. Dầu sao ông bác sĩ ấy cũng giỏi,
chỉ giản dị có thế thôi, mà ta không nghĩ ra được.- Thưa bà con cô bác, sự thật thì không phải chỉ giản dị như vậy đâu. Đây là một
vấn đề triết lý về con người chớ không phải chuyện tiền bạc đâu.- To chuyện dữ vậy lận sao?- Dạ. Đó là chuyện lớn thật sự. Ban đầu tôi cũng ngỡ chỉ có như vậy, nhưng sau,
một hôm vui miệng, tôi hỏi ông bác sĩ Xuân, ổng nói ra sự thật, tôi mới biết đâu
là đâu.- Vậy sự thật có gì bí ẩn?- Quả thật, bây giờ kiếm được nhiều tiền rồi thì người coi sóc nghĩa trang đâm
ra mê tiền, ta mà có đuổi y đi, y cũng sẽ van nài để ở lại... vì tiền. Nhưng
năm ấy thì y không hề ham tiền, không hề xin thôi vì lương thấp. Y chỉ cần thứ
khác mà thôi.- Thứ gì?- Chính triết lý là ở đó và bí quyết của bác sĩ Xuân ở đó, chớ thật ra ông ấy
ăn nói rất dở, không thuyết phục được ai hết đâu.- Bây giờ thì bà con tôi rất nóng lòng biết cái chuyện ngộ nghĩnh và mới lạ đó.- Ông bác sĩ Xuân ấy cho tôi biết rằng có một ông bác sĩ ở đâu bên Tây bên Mỹ
gì đó tôi cũng không nhớ nữa, hình như tên là bác sĩ Soubiran. Ông bác sĩ
Soubiran ấy đã khám phá ra những điều sau đây là dân thợ ở các thành phố, mức sống
cao hơn nông dân nhiều, nhưng lại cứ yêu sách đòi tăng lương hoài, và có tăng tới
đâu họ vẫn không nghe được thỏa mãn. Lương đủ sống như ở Bắc Âu, họ vẫn đình
công đòi tăng lương. Không phải là họ thiếu thiện chí hoặc tham lam hơn thợ
nông nghiệp ở thôn quê đâu, mà thật sự họ nghe không có hạnh phúc, lương cao tới
đâu cũng không giúp họ có hạnh phúc được, nếu ta không tìm được lối ra thật
đúng.Cái lối ra thật đúng đó là tình yêu nghề của họ. Thợ thuyền, trước khi thành thợ,
là nông dân. Họ tới thành phố, không cơ quan nào hướng nghiệp cho họ hết, theo
khả năng và sở thích của họ, và họ thành thợ điện hay thợ sơn một cách rất là
tình cờ, rất là may rủi.Người thợ nông nghiệp thì không bao giờ mắc phải cái nạn "ép duyên"
đó. Họ yêu đất, yêu mùi đất và họ được yêu cho tới mãn kiếp.Đất có mùi thật sự, nhứt là đất mới xới, một mùi rất đặc biệt mà mũi họ quen ngửi
cho đến ghiền, thiếu thì họ nghe thèm. Họ thấy rằng họ hạnh phúc vì họ được thỏa
mãn tình cảm. Tình nhớ xứ, nhớ nhà gồm nhiều yếu tố, mà nỗi thèm mùi đất là một
yếu tố quan trọng. Nỗi thèm nầy có khi mãnh liệt như nỗi thèm mùi khói thuốc
phiện của những con thằn lằn, những con chuột lắt sống trong buồng của những kẻ
hút thuốc phiện, họ thèm và nhớ mùi đất y như là đào hát thèm và nhớ sân khấu,
vũ nữ thèm và nhớ đèn màu, và y như là cá thèm và nhớ nước. Cá nhớ nước không
phải là một hình ảnh đâu và đừng tưởng là cá không ở được ngoài nước.Ở các chợ, các hàng cá, luôn luôn để cá lóc trong các rổ thường, loại cá nầy sống
được ngoài nước nhiều tiếng đồng hồ liền, nhưng chúng cứ ngáp mãi, y như là ta
thèm một điếu thuốc, một tách cà phê.Vậy họ nhớ nhà, nhớ xứ là nhớ mùi đất ở phần lớn. Tạo điều kiện cho họ trồng trọt
được là họ tạm nguôi sầu,và lần lần quen được với môi trường mới.Và quả đúng y như vậy. Khi tôi gợi ý cho y gieo bông thọ để trồng bán Tết, thì
mắt y sáng lên và y tức tốc đi tìm bông giống liền. Hôm sau đó, y dang nắng mà
cuốc dở đất một cách sung sướng, chẳng khác nào ếch và ễnh ương mừng mưa mới.Ông Hội Trưởng kể xong, bao nhiêu thực khách chung bàn với ông, nhìn nhau, lặng
lẽ hỏi nhau điều ấy có đúng hay là không. Một hồi lâu, ông giáo Quyền cũng ngứa
miệng kể chuyện, nên ông bắt đầu thuật tích cũ trong gia đạo ông:- Tôi nhớ năm ấy, tôi đang dạy học ở Bến tre. Tôi cưới bà nhà tôi ở tỉnh ấy. Được
hai năm thì một cuộc thuyên chuyển đưa tôi lên Sài gòn. Bà nhà tôi chưa có con,
và ít công việc nên tối ngày bà ấy cứ ngồi bó gối mà buồn. Bà ấy cứ nài nỉ tôi
xin thuyên chuyển trở về tỉnh nhà của bà ấy.Chợt một bữa kia không biết nhờ gì gợi ý bà nhà tôi đi mua chậu, đi tìm đất, ra
đặt mấy cái chậu đất ấy ở sân trong, giữa nhà trên và nhà bếp. Bà nhà tôi trồng
rau răm, rau tần dài, hành hương, ớt, không mấy tháng mà sân trong không còn chỗ
để chơn nữa vì chậu cứ được sắm thêm hoài, thật là bất tiện. Thuở ấy rau cỏ có
bao nhiêu tiền đâu, đi chợ mua hai xu, cả nhà ăn cả ngày không hết mà hai xu chỉ
bằng hai đồng bạc ngày nay. Bà ấy lại không còn thì giờ nghỉ ngơi nữa, hễ sáng,
vừa bét mắt thì lo săn sóc ba chậu rau không đáng giá đó, trưa cũng vậy, chiều
cũng vậy. Vậy, mà kể từ ngày ấy, bà nhà tôi vui vẻ trở lại như hồi vợ chồng tôi
mới cưới nhau và không bao giờ tính chuyện đi đâu nữa hết, mãi cho tới bây giờ
mà tôi đã có cháu ngoại rồi.Sở dĩ tôi phải lùi ra ngoại ô xa mà ở, chỉ vì sau đó bà nhà tôi thèm trồng cây
lớn để được xới đất nhiều hơn là đất trong các chậu. Ngày nay thì sân nhà tôi
không thiếu gì hết, từ câychanh, cây khế, cho đến cây mít, cây me, nhứt là tôi có được hai cây dừa mà bà
nhà tôi nhứt quyết phải trồng, vì quê bà ấy là xứ dừa, trồng dừa cho đỡ thèm
hình bóng cây dừa.Ông ủng hộ viên tài chánh hỏi:- Nhưng ngày kia, nghĩa trang khá đầy rồi, không còn đất để trồng trọt nữa, ta
làm sao giữ được người ấy?- Ông anh chớ có lo. Nghĩa trang còn nhiều năm nữa mới đầy, bởi hội viên thất
tuần như ông anh mà cứ còn khỏe mạnh hoài thì làm sao nó đầy được. Như vậy, y đủ
thì giờ già để bằng lòng an phận với công việc của y là gìn giữ nghĩa địa.Chú thích:
1. |
Con số của năm 1964. |
CÂU DẦM
Viết theo một chuyện cổ tích của làng Tân uyên để tặng những
đứa con yêu mến của Tân Uyên đã xiêu bạt khắp mọi nơi sau mùa tiêu thổ 1945.
Tôi ưa đi câu, không phải để được cá bởi vì tôi nặng bóng vía lắm:
Cá không ăn câu, mồ cha con cá dại
Cần câu anh cầm, nghĩ lại con cá khôn.
Cũng không phải theo dấu của ông già sông Vị đợi chờ chúa Thánh rước về làm tướng
Tây kỳ.
Đi câu, đối với tôi là những giờ mà lòng được nhẹ bổng không buồn, không vui,
lâng lâng như đã thoát trần. Đi câu là những giờ rình một tăm cá hay lơ đãng
ngó theo bóng chim thằng chài xẹt mau như sao băng, hoặc xem "từng mây lơ
lửng trời xanh ngắt". Đó là những phút hồi hộp nhìn cái phao chìm lần...
chìm lần, nghe đầu cần câu nặng nặng. Rồi... roạch một cái, con cá gì đó đã sứt
mép còn lưỡi câu thì góa mồi, mồ hôi ngư ông nhỏ giọt... Đi câu là xem những
con sông, ngọn rạch, tựa hồ như những con đường biết đi, mang theo hình ảnh của
cả một sự sống, một cuộc đời hiếu động. Đi câu là vớt những trái tràm, những bụi
cây rù rì trôi từ trên nguồn về để nghe nó kể lể chuyện rừng xanh.
Tôi lại thích đi câu dầm. Vì vậy mỗi lần về quê, tôi về vào mùa mưa để đi câu dầm,
tìm lại những cảm giác đã sống qua ngày nào.
Phải nói cho các bạn nghe câu dầm là làm sao chớ. Có gì đâu: vài chục cần câu
tre ngắn, đâu cần uốn cong như cây cung, đuôi cần vạt nhọn, nhợ câu ngắn hơn cần
một chút, lưỡi thép hơi to.
Ở làng tôi người ta gọi đó là câu cắm, là vì cần câu được cắm dài theo bờ ruộng,
có người lại kêu là câu bủa, vì cần nhiều, bủa khắp đồng ruộng. Còn câu dầm của
họ thì lại là một cách khác nữa.
Nhưng tôi có cần gì nói trúng một tiếng nhà nghề của địa phương đâu. Câu dầm của
tôi là một cuộc đi câu ban đêm, những đêm mưa dầm, phải dầm mưa mà câu.
Ở đây, câu, đối với tôi cũng không phải là bắt cá bằng cần. Đi câu dầm là hứng
lấy những hột mưa nhọn hoắt, đón những ngọn gió lạnh quíu tay để được tận hưởng
trong tưởng tượng cái cảnh ấm êm, chăn gối nệm bông.
Bơ vơ trong bóng tối, thèm thuồng một ngọn đèn xa... Lắng nghe sự sống bí mật,
âm thầm của côn trùng trong cỏ, trong lau... Rùng rợn vì tiếng vạc não nùng như
tiếng một cô hồn đau khổ, và tiếng thì thầm của đêm tối, tiếng gió vi vu...
Đó là những thú lạ thường mà người kỳ khôi hay tìm kiếm. Nhưng điều nầy thích
hơn hết, là đi câu dầm thế nào cũng gặp ông Ba Sa.
Ông Ba Sa là một người thuộc về âm. Ban ngày không ai thấy
ông đâu hết, trừ khi ông giúp đám ma, nhà héo, đi cúng chùa, cúng đình. Những
lúc hội họp xóm làng như vậy, ông ít nói chuyện với ai, không hiểu vì thói quen
sống cô độc, hay vì lẽ gì khác.
Như một con cú ăn đêm, bạn bè với bóng tối, ông Ba chỉ ra khỏi nhà lúc đỏ đèn để
đi câu dầm, về mùa mưa. Còn trong những tháng nắng ruộng khô không biết ông làm
gì.
Đêm nào tôi cũng thấy ngọn đèn ông Ba leo lét đằng xa. Một khi kia nghe mình
hiu quạnh cô đơn quá, cần phải nói với ai một điều gì, hay ít ra cũng cần sự có
mặt một "hơi" người bên cạnh, tôi mò lần lại cái đóm đỏ, ẩn hiện như
đèn ma đằng kia.
Ông Ba cũng không tìm cách trốn tránh gì tôi, song cái miệng làm thinh của ông
thì không ai cạy nổi.
Nhưng tôi đã có những chiếc đũa phép, một điếu thuốc mời, rồi hai điếu, rồi ba,
rồi không còn biết là mấy điếu nữa. Trong những lúc như vậy mới biết hút thuốc
điếu là sướng.
Cái sức nóng nhỏ mọn của điếu thuốc như thấm nhuần khắp châu thân, nghe như đỡ
lạnh mình và lạnh lòng.
Khói thuốc xui người khép nép nhứt cũng phải cởi mở lòng. Lời qua, tiếng lại,
ban đầu còn cụt ngủn, xẳng lè lần lần thân mật, có bao nhiêu trút rót ra không
tiếc.
Một tiếng sét đằng xa vọng lại, tức thì ông Ba có chuyện Thiên Lôi, chuyện lưỡi
tầm sét để nói cho tôi nghe liền.
Ông Ba biết rất nhiều chuyện yêu ma, và ở đây, hoàn cảnh rất thích hợp để gợi sự
hãi hùng, rùng rợn.
Nào là chuyện thằng cha đi câu dầm, đêm kia gặp một bà già lạnh quíu, run rẩy
bên đường. Động lòng thương, anh ta cõng bà ấy về làng. Nhưng dọc đường nghe
càng lâu, càng nặng, nặng quá, đi không nổi. Anh ta ngó ngoái lại thì trời ơi,
đó là một cỗ hòm lâu đời, mục nát, hôi tanh...
Lại chuyện anh chàng đi soi ếch, nửa đường có thằng nhỏ xin theo xách giỏ.
Tới khuya, anh ta xem lại giỏ coi được nhiều hay ít... thấy máu chảy ròng ròng,
ếch thì con nào con nấy cũng mất đầu, anh ta hỏi lẩy thằng nhỏ:
- Bộ mầy ăn ếch sao mậy?- Ừ, tôi ăn.- Bộ mầy là ma sao mà...Anh chưa dứt tiếng thì trời bỗng chớp lòe, thấy miệng thằng nhỏ dính máu tèm
lem, túa lụa, còn lưỡi nó thì le ra dài tới rún...Áo tơi và nón trũm của chúng tôi không đủ che mưa, đỡ gió.
Chúng tôi lại hút thuốc cho ấm. Một điếu, rồi hai điếu... rồi ba, bốn, năm, sáu
điếu.- Cái thở 1. mà
tui 2. còn trai như cậu - một đêm kia ông Ba kể -
tôi có thèm câu cắm như vầy đâu. Cá ruộng, một năm có mấy tháng mà bán cũng
không bao nhiêu tiền. Hồi đó con sông Đồng nai của mình còn nhiều cá, mà cá lớn,
tôi chỉ đi câu xuồng. Một ngày, một đêm, kiếm mạt lắm cũng được năm quan tiền 3.Tôi cũng biết sát phạt quá, bắt vật trời sanh lắm thì mang tội, song nghèo thì
biết tính sao. Thôi thì tới đâu hay đó, nữa chết xuống dưới phải tội nào hay tội
nấy. Nhưng tôi "đã xuống dưới" trưởc khi chết, nên từ ấy những nay,
tôi dẹp cái nghề câu sông đi.Ông Ba rút một hơi thuốc dài, rồi cho khói ra lỗ mũi chầm chậm... Đoạn ông thuật
tiếp:Nước sông trước chợ lại vận thành xoáy khu ốc, như cố ý dừng lại trước một địa
thế linh thiêng. Bên kia sông, ngay chợ, khu rừng cấm Bình hưng trên hòn cù lao
Tân chánh, ngó giống tấm bình phong, hay cái tam quan trước chùa chiền. Rừng sầm
uất, cây cao, bóng mát đứng trên mé vực cao, nghiêm nghị rọi mình xuống sông
sâu. Nếu không có chợ, nhà, người đi ghe thương hồ qua đó không khỏi sởn tóc
gáy, vì cái vẻ linh thiêng, tịch minh của nó.Mấy ông hồi trước thuật rằng: ngay dưới miếng đất cất chợ có một cái hang ăn luồn
vô riết tới chùa Ông, tới chỗ cái hồ trên miệng có xây con cá hóa long, cậu biết
chớ?Một đêm kia, cái nhà sàn của chú Sang, cất dựa mé sông, bỗng đổ sụp. Bao nhiêu
của cải, vàng bạc đều đi tuốt hết, còn chủ nhà và vợ con thì, may quá, lội vào
bờ được. Chú Sang mướn thợ lặn, định mò vớt của lại. Nhưng cái anh thợ lặn ấy
tìm hoài không thấy dấu vết cái nhà, không lượm được lấy một mảnh ngói, một tấm
ván nhỏ. Anh ta gặp một miệng hang, ngó vô tối đen như mực. Hang thần được dân
làng biết từ đó.Đó, mấy ông thuật rằng trong hang đó có một cặp cá bóng tu lâu đời thành thần.
Hai vị thần nầy đã linh, lại hiền từ, nhơn đức hay phù hộ dân làng.Cậu thấy không, người trong làng mình phần nhiều có chữ, đất địa có "Mão
quan" rõ ràng.Trong khu rừng cấm trước chợ lại có cặp "cù" cũng tu lâu đời thành thần.
Nhưng đó là hai vị thần nhỏ, tướng của thần cá bóng.Thần Cù rất hung ác, tham lam...À! Quên cái nầy, mấy ông nói nhỏ cho nghe rằng Thần Cù là cặp rắn, lớn mà ngắn,
mồng đỏ, mỏ nhọn... Hễ năm nào dân làng không cúng hối lộ thì năm đó thế nào
cũng bị tai họa. Cái chợ hồi trước còn lợp tranh, cứ vài năm lại cháy một lần.
Đêm trước khi cháy chợ, dân làng nghe bên rừng tiếng gầm thét vang trời. Bởi vậy,
hằng năm làng có lập đàn làm chay trước chợ, để tế Thần Cù và luôn tiện bổ thí
cô hồn, các đảng 5.Mấy ông lại thuật rằng có lần kia, một người câu xuồng, bỏ neo tại bến Trâu,
núp dưới bóng một cây nhông. Chỗ ấy rậm rạp, đi thuyền trên sông không thấy được.
Khi đương câu, anh ta thấy giữa dòng sông nổi lên một con rùa lớn bằng cái nia.
Rùa ngó quanh quất rồi lặn xuống liền, nửa giờ sau, người đi câu được mục kích
một cảnh tượng hết sức lạ lùng. Nơi mà con rùa hiện lên hồi nãy, thấy có khói từ
dưới nước bay lên. Đó là khói hương trầm thơm ngây ngất, bay tản ra khắp mặt
sông. Rồi từ từ nổi lên hai vị thần, một vị nam, một vị nữ, ngồi đối diện trước
một bàn thạch. Hai vi thần nầy, đen hắc, đầu đội mão hình đuôi cá, xiêm y rực rỡ
những vảy cá ngũ sắc, những vỏ ốc xa cừ. Xem kỹ lại thì thấy thần đương đánh cờ.
Chừng đâu được tàn một điếu thuốc bỗng nghe vị nữ thần nói: "Ông nè, ở đây
nghe như có hơi phàm". Vị nam thần bèn ngước lên, nhìn quanh, dừng mắt lại
phía xuồng câu, nhìn chăm chỉ rồi châu mày, tỏ vẻ khó chịu. Người đi câu còn hoảng
sợ thì cả thần và bàn thạch đều chìm một cách mau lẹ.Một lát sau, nơi khúc sông ấy, máu trào lèn nhuộm đỏ khối nước và thây con rùa
ban nãy nổi lình bình. Các ông nói đó là một vụ trừng phạt tên lính dọ đường
không kỹ, để mắt tục dòm thấy cảnh thân mật của thần.Tôi chận ông Ba lại nói: "Tích nầy tới đây tôi đã biết, người nào ở Tân
uyên lại không rõ chuyện "Cặp Cá Bóng tu dưới chùa Ông" và chuyện
"Cặp Cù gáy cháy chợ". Nhưng rồi làm sao nữa?Ông Ba kể tiếp:- Có một khi đó, đương câu, tôi nghe nó rị cần mạnh quá, tôi biết là cá lớn ăn.
Cái thứ cá lớn thì không nên kéo lên liền: như vậy chỉ thêm đứt nhợ, gãy cần mà
thôi. Tôi cho xuồng chạy theo sức lôi kéo của nó.Nhưng nó mạnh quá, sợi nhợ căng thẳng muốn đứt ra, tôi phải vừa bơi phụ thêm, vừa
hớp nước sông phun cho cá nó mệt. Chạy theo doi Hàn, thì con cá đó đuối sức, thả
ngửa trên mặt nước. Con cá nó lớn gần bằng thằng nhỏ năm tuổi lận. Mà điều nầy
kỳ quá cậu, nó cứ nhìn tôi, hai mắt nhấp nhái như người ta ra hiệu. Tôi phát sợ
lên, bứt dây, rồi thả cho nó trôi đi. Nó mừng quýnh, ngó tôi lần chót rồi lặn mất.Lúc về ngang xoáy nước, xuồng tôi khi không vùng lật úp. Tôi tưởng phen đó chết
trôi rồi, vì chỗ nước vận, tài giỏi như rái cũng không lội nổi.Nhưng lạ quá, tôi bi nước rút xuống, chìm mà không ngộp, và lại chìm đứng, chớ
không đâm đầu xuống như người chết đuối.Đáy sông không có bùn, không có cát, mà lót toàn bằng đá ong. Tôi chưa hết sảng
sốt thì bỗng đâu một con cá he lớn như một con heo nái lội tới trước mặt, rồi...
lạ chưa, nói bằng tiếng người rằng: "Chúa tôi sai mời tráng sĩ vào
dinh". Dinh nào cà, tôi hỏi trong bụng như vậy, và càng hoảng sợ hơn nữa.
Nhưng tôi cũng cứ đi theo cá he...Làm sao mà tôi đi dưới nước không ngộp, cũng không bị nước cản, nhẹ nhàng,
thong thả như đi trên đất liền? Tôi theo cá he vào một cái hang lớn, rộng cỡ mười
người chun vô cũng lọt. Thôi tôi biết rồi, hang Thần Cá Bóng đây chớ gì.Bốn bề hang đều cẩn đá xanh. Hang sáng lờ mờ, xanh xanh như đêm có trăng, sâu
vô ước chừng khỏi chợ - quả thật lời truyền khẩu không sai, hang ăn sâu tới
chùa Ông - trong ấy tôi thấy một khoảng rộng sáng gần như ban ngày.Rõ ràng là một vương phủ. Dinh cất bằng đá cẩm thạch, cột chạm rồng cẩn ốc xà cừ,
ngói bằng vảy đồi mồi, lâu năm lên nước đẹp chưa từng thấy.Ngai của Thần Cá Bóng đặt ngay trước thềm bằng san hô và huyền ráp mối lại rất
khéo léo.Thần Cá Bóng ngự trên ngai, bên hữu có Thần Bà, bên tả một vi thần còn trẻ, đứng
chớ không ngồi. Vị thần trẻ nầy trên môi mang một vết thương còn mới ràng ràng.Trước sân, binh tôm, tướng cá hầu hạ đông không biết bao nhiêu mà kể. Còn hương
trầm thì phưởng phất thơm, nhạc thần vẳng nghe đâu đó.Tôi run sợ quỳ trước ngai thần, bỗng nghe thần phán: "Nầy! Người kia,
ngươi có biết rằng tội lỗi ngươi chồng chất đầy dẫy không ? Kẻ hầu hạ của ta đã
hao hớt nhiều, bao nhiêu binh tôm, tướng cá bị nhà ngươi câu gần hết. Ta đã tâu
với Long Vương và đã được phép xử ngươi. Ta định bắt ngươi xuống đây mà trị tội,
nhưng chưa kịp thì, may cho ngươi, hồi sớm đây con ta hóa cá đi du hồ, vướng phải
lưỡi câu của ngươi, và được ngươi tha cho. Vậy, ơn nầy đền tội ấy, nhưng ta khiến
ngươi từ bỏ cái nghề bất nhơn ấy đi".Nếu ngày mai ngươi còn léo hánh trên sông nữa thì đừng có mong được về với vợ
con.Tôi vưng vưng dạ dạ không ngớt thì Thần tiếp: "Muốn nhà ngươi khỏi thiệt hại
điều gì, ta ban cho ngươi một viên ngọc chan chan. Con chan chan sống không bao
lâu, nên không mấy con có ngọc, mà hễ có thì quí lắm. Nhà ngươi không được bán,
cũng không được khoe với ai. Để nó trong nhà làm của, tự nhiên làm ăn khá. Thôi
cho nhà ngươi về.Tôi lãnh lấy ngọc, cúi lạy tạ ơn Thần rồi theo cá ra khỏi động. Khi lên tới mặt
nước thì xuồng tôi đã đậu sẵn tại bến Trâu, khô queo như mới đẩy xuống sông vậy.Từ ngày ấy tôi bỏ nghề câu, xoay ra buôn bán. Mà quả thật như lời Thần đã dạy,
bán món nào lời món nấy, không bao lâu mà tôi cất được một cái nhà ngói khá lớn.
Còn con thì đứa nào đứa nấy cũng mập cùi cụi.Một ngày kia, buồn quá, tôi xách cần ra bờ sông giựt lòng tong chơi. Chiều về,
nghe trong mình bần thần rồi đau một trận đau vật tôi gần trót năm. Vợ con tôi
nối tiếp nhau mà chết.Cửa nhà, tôi bán sạch để chạy thuốc và lo việc tang ma. Còn hòn ngọc thì biến mất
đi lúc nào không biết.Nên chi bây giờ tôi chỉ đi câu cắm thôi. Bị một lần tởn tới già. Thứ cá rô, cá
lóc nầy là cá ruộng, có phải của thần đâu mà sợ.Tôi rợn người lên vì lạnh hay vì sợ? Bất giác tôi xách đèn rọi vào mặt ông Ba.
Qua những giọt mưa chảy rười rượi theo vành nón trũm, tôi thấy miếng ông già gặp
Thần Cá Bóng lẩm bẩm như nói thêm điều gì với ai.Chú thích:
1.
Thuở
2.
Tôi
3.
Tiền kẽm hồi
Tiền Pháp thuộc
4.
Ông đây là
ông Bổn Đâu Công, tức Mã Viện.
5.
Tục làm
chay chợ vẫn còn, cho tới năm 1945 (lời tác giả).
Chú thích:
1. |
Thuở |
2. |
Tôi |
3. |
Tiền kẽm hồi
Tiền Pháp thuộc |
4. |
Ông đây là
ông Bổn Đâu Công, tức Mã Viện. |
5. |
Tục làm
chay chợ vẫn còn, cho tới năm 1945 (lời tác giả). |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét