Đò dọc 1
Cả nhà bỗng giựt mình thức dậy giữa loạt súng đầu. Ông Nam
Thành nói: "Rồi, rồi!" rồi nhào đại xuống đất và hét thêm:
"Xuống bà, mau mau! Bây ơi, xuống đất mau mau!"
Bà Nam Thành mập tù lu, ột ệt ngồi dậy, bới đầu, bộ chậm rãi
như không việc gì, khiến ông sốt ruột nạt :
- Biểu xuống, còn ngồi đó, chết bây giờ !
- Làm gì mà chết !
Ầm... !
Cả dãy phố như rùng mình lên một cái, đất cát đâu trên ngói rớt
xuống trần kêu lộp độp, trần xi măng lại đổ xuống gạch kêu lạch cạch như ma ném
đá.
Bà Nam Thành ngã lăn trên nệm rồi la bải hãi :
- Chết rồi ông ơi !
- Ừ, nói không chết mà ! Thây kệ cứ ở trển mà la, rồi đạn nó
ăn, đừng than.
Bà Nam Thành cứ vừa la, vừa kéo mền trùm lại kín mít, làm như
trùm mền là chắc ăn lắm.
Nơi buồng trong nghe chào rào chộn rộn nghe lụi đụi dữ lắm, rồi
có tiếng cười, lại có tiếng khóc, cười và khóc đều do con gái cả.
Ông Nam Thành lại kêu :
- Con ơi, xuống đất nghen con !
- Dạ !
- Dạ !
- Dạ !
Có đến bốn tiếng dạ, mà toàn là giọng con gái.
Nhà có ba buồng. Buồng ngoài là một cái thảo bạt, cất thêm
mái hiên và cửa, vách, dùng tiếp khách. Ông bà Nam Thành ngủ ở buồng chánh, bầy
giờ biến thành buồng giữa, bốn cô con gái ngủ ở phòng trong cùng.
Bóng chong ba nến ở thảo bạt đục và nhỏ như y cái trứng gà,
đang soi mờ cái cảnh dị kỳ đó, một ông cụ nằm co dưới đất, một bà cụ nằm trùm mền
trên giường và bên trong bốn cô con gái ôm nhau cười và khóc.
Liên thinh vẫn nổ không dứt, từng chập điểm những tiếng nổ ầm
của tạc đạn, của bách kích đạn, giống như pháo tràn ngày Tết điểm pháo đại giữa
dòng.
Quả đạn bách kích nổ to hồi nảy, gần nhà, là một quả đạn lẻ
loi, còn thì nổ tương đối hơi xa cả.
Ông Nam Thành bò lẹ vào buồng trong, nhìn một đống người lù
bù tay chân và đầu rồi hỏi :
- Có đứa nào làm sao không ?
- Dạ không !
- Dạ có, ba à, con Quá nó khóc ba à !
Có tiếng cười rúc rích của hai ba cô gì đó, rồi nghe một cái
đụi.
- Ui cha ! Con dịch ! Ba ơi, nó đạp con té cái bịch đây nè.
- Đừng có giỡn mà các con ! Tao rầu chín ruột mà tụi bây còn
giỡn được !
Cái cô gái nói tiếng NÈ với chử r ngoài sau, hỏi to :
- Má sao mà la dữ vậy, ba ?
- Thì cái tật của má mầy, không biết hay sao mà còn hỏi. Nó nằm
đó mà la, chứ không làm gì hết, có thèm hạ thổ như mình đâu ! Thôi, rán chịu, đừng
có lên giường nghe các con !
Rồi ông bò trở ra. Bây giờ tiếng súng hơi lơi, bà Nam Thành
hé mền, thấy không có gì ghê sợ cả, nên đánh bạo tung hết mền rồi lết xuống gạch.
Ông Nam Thành bò tới nơi, hỏi đùa :
- Sao không nằm luôn ở trển ?
- Mấy đứa nhỏ có sao không ông ? Bà không đáp mà hỏi lại như
vậy.
- Chúng nó đánh lộn trong đó, chứ không sao cả !
- Chồng ngồng cái đầu mà sao như là con nít é ! Ông à, gì đó
vậy ông ?
- Họ đánh giặc chớ gì !
- Ai đánh với ai ? À, mà hồi nãy, ông nói gì mà "Rồi, rồi
!" ?
- Bà quên rằng hổm nay nó căn thẳng như dây đờn hay sao. Người
ta nín hơi lo cho dây đứt. Nay nó đứt là "rồi" chớ gì.
Bỗng liên thinh lại nổ hồi dữ dội, đạn bách kích pháo lại nổ ầm
ầm, hai ba quả nổ rất gần và trần lại đổ.
- Đâu như là bên bót Hoàng Hùng ! Bà Nam Thành nói.
- Không, độ ra thì là đằng trường Đức Trí.
- Ai đánh với ai vậy ông ? Liệu ta đánh Tây hay không ?
- Ai biết ! Mà bà hỏi điều đó làm chi ?
- Vì đó là việc chết sống của mình. Ông giỏi quá mà sao không
thấy ?
- Tôi thật không thấy, bà nói nghe thử.
- Nầy nhé ! Nếu ta đánh Tây thì cái thành Ô-Ma trước nhà mình
sẽ hóa ra bãi chiến trường, và xóm này sẽ nát cả.
- Ờ, Trời ơi !
Ông nam Thành kêu lên thế, rồi tái mặt đi. Vùa lúc ấy có tiếng
đông người chạy rần rần ngoài đường cái, tiếng la khóc om trời.
- Trời ơi ! Ta xung kích thàng Ô-Ma ! Ông Nam Thành kêu lên
và điếng cả người.
- Xí, vậy mà làm bộ giỏi, làm bộ gan ! Lính gì mà xung kích
người ta, lại khóc. Cho bằng đó là họ đi coi hát về khuya, bị trận đánh bắt chợt
giữa đường. Không nghe giọng đàn bà la đó à ?
Ầm... !
- Khổ quá ! Bà Nam Thành than. Thật là chạy ô mồ mắc ô mả. Ngỡ
lên đây bình yên được, nào dè...
- Chớ mười năm nay lại không bình yên à ? Phải ta còn ở dưới
thì liệu còn đầy đủ cả nhà như vầy hay không ?
- Lâu ngày không nghe tiếng súng, quên nó mất, nay nghe lại
thì sợ y hồi 45, má hớ, cô Hương nói.
- Em nhớ lại cái đêm họ đánh nhau ngoài vàm, em ghê quá, cô
Quá nói và bị một cái tấm tức muộn ngắt đôi câu nói của cô.
- Nói dóc, cô Hoa mắng em. Hồi đó mày có mười một tuổi, biết
gì ?
- Chớ chị lại lớn hơn ai. Chị mười ba tuổi, chớ bao nhiêu.
- Mà tao có dóc, có nói nhớ cái gì đâu.
- Tôi đố ông ai ăn ai chua ?
- Chưa có ăn, thua gì đâu. Lực lượng của đôi bên, lẽ nào chỉ
đánh vài giờ mà tiêu hết một bên được. Họ ngưng đó chớ.
- Vậy còn đánh nữa ? Ghê quá !
- Ghê cũng phải chịu, chớ biết sao. mà mình dại quá, sợ hãi
vô ích. Vách tường mấy mươi lớp chung quanh, đạn làm sao tới mình cho được.
- Sợ mọt-chê ấy chớ.
- Có trần thì đỡ lo.
- Trái phá thứ lớn, nổ bể nhà hay không ba ?
- Sao lại không. Nhưng nhà mình là nhà dân, chớ có phải là
pháo đài đâu mà họ dùng trái phá thứ lớn để bắn sập nhà mình.
Cả nhà mòn mỏi rồi ngủ quên luôn cho đến trưa trờ trưa trật mới
dậy.
° ° °
Nhà ông Nam Thành ở trong ngõ hẻm ba mươi căn đường Vỏ Tánh,
ngang hông thành Ô-Ma. Ông ở căn bìa hết và chuyên bán rương và va li da cho
quân nhân Pháp.
Trước kia ông là thầy giáo Hải, giáo làng, ở một xó hẻo lánh
trong tỉnh Bặc Liêu. Hai vợ chồng trôi giạt lên Sàigòn với bốn đứa con gái, một
gói áo quần cũ và hai bàn tay không.
Gia đình ở đậu nhà người bà con, tại căn nhà bây giờ. Nhờ cần
cù và may mắn, nhất là may mắn, hai vợ chồng dành dụm được chút ít, trong khi
người bà con nướng sạch cả của cải trong Kim Chung.
Thành ra không bao lâu, người bà con ấy nhường đứt luôn căn
nhà lại cho ông giáo Hải.
Người trong xóm phần đông là me Tây, thứ me hơi sang sang,
nên mới được các đức phu quân mướn phố gạch cho mà ở.
Ông giáo Hải quan sát nhận ra điều này, là những cô me Tây ấy
thường đổi chủ tùy theo sự thuyên chuyển của các đức phu quân.
Họ được giao tận tay cho người thừa kế, bên đi và bên lại,
rua nhau rất thân mật, gởi gắm cô nàng rất ân cần.
Vì vậy ông giáo nẩy ra sáng kiến bán rương da. Ông đến rương
của xưởng thợ người miền Bác, rồi bán lẻ tại đây mà ăn lời.
Môi giới là những cô me Tây ấy ; họ ăn chia với nhau và đồng
lòng cùng nhau mà đập các quân nhân dễ tính trong công việc mua sắm kia.
Những ngày khói lửa sau cái hôm hãi hùng ấy trải qua như một
cơn ác mộng. Rồi câu tục ngữ Pháp "Sau mưa thì nắng" sao mà nghe đúng
như bon.
Quả thế, sau mấy tháng sau đó, vợ chồng ông Nam Thành phát
tài lạ. Tây nó mua rương nhiều gấp ba mọi khi, mà không cần trả giá cho lắm.
Ông Nam Thành nhận thấy điều này nữa là bà me Tây nào tiển chồng
là trở về với chăn đơn gối chiếc chớ không có người hứng hoa rơi như trước nữa.
Ông không quen nghĩ xa, nên cứ làm ăn được ngày nào là mừng
ngày nấy thôi.
Vào tháng thứ ba, ông bán thôi không hở tay. Ông không ngạc
nhiên, vì có tin chánh thức là quân đội Pháp sẽ rút toàn diện.
Tuy chỉ tham gia khán chiến có một năm thôi, ông Nam Thành vẫn
ao ước độc lập và mong đợi sự triệt thối ấy từ hơn mười năm nay.
Bây giờ mộng ông đã thành sự thật thì còn gì thích bằng.
Thích hơn nữa là Tây ra mà tiền lại vô. Vô rất nhiều. Vui lắm ! Những trò sảy
ra chung quanh ông cũng rất khôu hài để tăng thơ thới nơi lòng ông. Các cô me
Tây làm mối ăn tiền đầu, mà mỗi lần đưa tay lấy tiền là khóc bù lu bù loa. Nào
là "Thằng chả đi luôn thì tụi em đây khổ bỏ mẹ". Nào là "Tiền
này là tiền vớt, tiền vát, nuốt thì nó nghẹn thì thương ai, mà không nuốt thì sẽ
không có mà nuốt nữa".
Một cô nói : "Mình đi chung một xuồng, ông Nam Thành hớ.
Hễ tụi em mà chìm, thì ông cũng chìm tuốt theo".
Nghe câu này ông Nam Thành giựt mình. Nhưng cái nguy xa lắn
sao được cái đắc thắng gần. Và qua cái tháng làm ăn rận rộ đó, ông mới thấy lời
ấy là đúng.
Hai vợ chồng ông Nam Thành ở lại ăn lần tiền lời kiếm được một
cách vội vàng kia.
Một năm qua...
° ° °
- Vỡ nợ rồi !
- Ai vỡ nợ ?
- Ông Đỗ Mạnh Tánh chớ ai.
- Tánh nào ?
- Bán thực phẩm cho nhà binh Pháp, đường Yersin đó mà.
- À, nhớ rồi, có bà vợ còn trẻ ấy à ?
- Ừ.
- Trời, sao mà mới có một năm...
- Thì ăn xài to, lại đổi nghề trong khi chưa sành trong ngành
hoạt động mới.
- Chỉ có mình là khôn. Ở không, nghĩ lẵm rẵm mà hay.
- Hay gì. Thì cũng chết như nhau. Người ta loi nhoi thì phải
lăng đùng ra mà chết. Còn mình nằm yên không cục cựa thì sẽ chết lần, chết mòn,
đằng nào cũng chết cả.
- Lạ quá, ngày xưa, không có quân đội Pháp, sao không ai chết.
Bây giờ có, mà hễ nó đi là áp nhau mà la làng.
- Có gì lạ đâu. Là tại mình ăn bám nó. Đứa nào không ăn bám
nó, vẫn sống nhăn. Hội Đồng Thời bên Rạch Giá, bây giờ chạy xe đò Sàigòn Bình
Đương đó, có chết đâu, tuy cũng mệt chút ít thôi.
- Không chết mà cũng mệt. Tại sao lạ vậy ?
- Là tại đời bây giờ cái gì cũng dính liền với nhau không thể
tách riêng được. Nầy nhé : Tây nó đi, thì các quán rượu đóng cửa. Nhân viên các
quán rượu ấy không có tiền ăn phở nữa. Anh hàng phở, vì thế hết xu để đi xe.
Các me Tây không may áo, không bỏ giặt ủi nữa thì hiệu may, hiệu giặt ngưng hoạt
đông, thợ may, thợ giặt không đi coi cải lương, cải lương sụt rờ sết, bào kép bớt
mua báo, báo ế vân... vân...
Thảm lắm ! Mấy năm trước hễ mình đón tắc xi là y như bên cạnh
mình cũng có người đang đón. Xe ngừng khi mình đứng dang nắng muốn rụt giò là
mình và họ tranh nhau mà lên xe, cãi lộn om trời. Ngày nay thì khác xa : bà đưa
tay ngoắt một cái là ba bốn chiếc tắc xi về lại, bác tài nào cũng quả quyết là
mình kêu họ trước. Thật là :
Thân này nếu sẻ làm tư được
- Sao hồi đó ông cứ vái cho nó đi. Phải nó không đi có phải
là...
- Bà đừng nói bậy. Nó phải đi thì dân ta mới ngóc đầu lên nổi.
Còn tụi ăn bám như mình, muốn khỏi chết thì đổi nghề, chớ có gì đâu. Khi một số
đông không ăn bám vào chổ nao được nữa, thì cố nhiên có rối loạn. Trật tự cũ bị
xáo trộn cả. Những phần tử bị hất ra đó, vì bản năng tự tồn sẽ cố tìm nẻo mà
chui rồi lần lần trở về lối sống cũ trước ngày ăn bám, và tình trạng sẽ ổn định
lại như xưa. Có điều là phải bỡ ngỡ khổ sở, khó khăn lúc mới bị xô ra, nhưng phải
cắn răng, mà chịu chớ kêu ca với ai, ai biểu mình ỷ lại làm chi.
- Ông nói nghe dễ ợt. Sao không giỏi đổi nghề thử coi !
- Thì đổi. Bà tưởng trong một năm nay, tôi yên phận nằm ỳ ở
đây sao. Tôi tính nát trí mà chưa ra đó chớ.
- Một măm mà vẫn không ra, thì ba năm nữa, chắc cũng chẳng ra
!
- Bà đừng có vội. Người ta no;i bôn ba không ra thời vận. Bà
thấy không, tụi tư Minh, sáu Chẩn, chạy theo Tây ra Cấp bây giờ cũng thiệt thối
về Sàigòn, mà còn méo mặt nữa chớ.
À, nói Cấp, tôi mới nhớ ra. Anh phán Tân ảnh rủ mình đi Cấp,
đi hết nội nhà, đi xe của ảnh.
- Ở ngoải mấy bửa ?
- Thì đi chiều thứ bảy, chiều chúa nhật trở về. Anh phải đi
làm sáng thứ hai.
- Thôi đi ông. Cái đó là đi dang nắng chớ phải đi nghỉ mát
đâu. Tối thứ bảy đi ra tới ngoải rồi chịu cái nhức đầu đi nắng xuốt đêm đó.
Sáng ra vừa hết phải chịu cơn nhức đầu bận về nữa. Mẹ con tôi ở nhà còn xướng
hơn.
- Nhưng tôi đã hứa lỡ rồi.
- Thì ông đi một mình.
Ba ngày sau, ông Nam Thành cọp xe đi Vũng Tàu, đến mười giờ
đêm sau mới về tới nhà. Sáng ông ngủ dậy rất trưa rồi loay hoay một hơi là tới
bữa ăn.
Chiếc bàn tròn xếp, kiểu cắc chú, được mở ra và đặt ngay giữa
nhà bếp, cạnh cái lò. Khói nấu cơm, vì thiếu lối thoát, còn un nghẹt nơi đó.
Cả nhà đều ngồi quanh bàn, trừ cô Hương, con gái lớn của ông
bà, còn bận chiên cá bông lăn bột, món ấy cô làm sau hết cho được nóng hổi lúc
ăn.
Mặt đỏ ựng nước mắt sống chảy ròng ròng vì cay khói, cô Hương
vừa vén tóc trán bằng cái tay, vừa cười nói với mấy cô em :
- Bữa nay tao mới hiểu tại sao bánh xèo mà người Huế gọi là
bánh khói.
- Vậy hà, cô Quá ngạc nhiên hỏi, họ kêu là bánh khói à ?
- Chớ sao.
- Tại sao vậy chị ? Cô Hoa hỏi.
- Tại bánh xèo phải ăn ngay lúc mới lấy ra khỏi chảo mới
ngon. Mà muốn ăn ngay, phải ngồi gần chảo, tức là phải ngồi gần khói. Ăn bánh
khói, tức là ăn bánh trong đám khói.
Ông Nam Thành cười ha hả :
- Con Hương nó bói ra ma. Tao thì nghĩ khác. Tao tưởng khói
là tiếng khoái, nói ngọng theo lối miền Trung. Bánh khói là bánh khoái, ăn
khoái miệng lắm.
- Thôi, con rồi thì đem lại ăn luôn con !
Bà Nam Thành sốt ruột con gái lớn của bà bao giờ cũng thiệt
thòi, nên thúc giục như vậy.
Cô Hương xúc cá bằng vá dẩy rồi vội vàng đe, lại đặt trên nệm
xà lách xon trong dĩa.
- Chế nước sốt vô, Hồng ! Cô bảo em gái kế như vậy rồi đi rửa
tay dính mỡ để ngồi vào bàn ăn.
Người miền Nam ta có nhiều lối đặt tên con rất ngộ nhgĩnh. Có
lối đặt liền với tên cha, hễ cha tên Sang thì con phải tên Trọng, cha tên Phú
thì con phải tên Quí, cha tên Sâm thì con phải tên Nhung.
Có lối đặt liền với nhau. Thí dụ bốn đứa thì đặt : Nết, Na, Đằm,
Thắm, năm đức thì đặt : Cửu, Hạn, Phùng, Cam, Võ.
Ông Nam Thành đặt tên con một cách đặt biệt hơn ai cả, ông dựa
theo năm chữ nhạc đầu trong điệu Bình bán vắn mà quyết định giọng của chữ tên của
con ông.
Hương, Hồng, Hoa, Quá, Thơm.
Ý ông muốn nói : cái hương của hoa Hồng thơm quá ! Mà nói bằng
điệu câu Bình bán vắn câu đầu.
Cứ theo ý chí đó thì ông mà có đặt như vầy cũng vẫn ổn.
Con, Cò, Ma, Ốm, Thay !
Hoặc :
Tao, Mày, Đi, Tắm, Chơi !
Vì bất kể như vậy, hay nói cho đúng ra, vì chỉ kể có giọng bằng,
trắc thôi, nên đứa nào xui nấy chịu. Đứa đó là cô con gái thứ năm, cô Quá.
Con gái mà tên Quá, trong khi con nhà khác tên là Lê Chi,
Bích Vân thì có tức hay không ? Cái cô Quá nầy khóc mãi vì cái tên kỳ cục của
cô.
Được cái là em cô, con Thơm, chết ngay hồi ba tuổi, cô Quá
thành con gái út, được cưng dữ lắm nên cô tự an ủi phần nào.
Là con gái lớn, quán xuyến cả việc nhà, nên Hương ngồi gần bếp
để bới cơm và rội thức ăn.
Con cả trong gia đình nào cũng thế, không đẹp lắm, lại hơi thật
thà, nếu không đần, tương đối với mấy đứa sau.
Cô Hương năm nay hăm tám, trông hiền hậu quá sức, lù đù như
gái quê, và an phận như bất kỳ cô gái luống tuổi nào.
Gương mặt cô chỉ dể thương thôi. Còn thân hình cô thì hơi đẫy
đà. Người ta nói con gái lỡ thời hay phát phì thình lình hoặc đột ngột gầy khô
đét khi qua khỏi mức tuổi nào đó. Họ cắt nghĩa sự dư, thiếu th.t ấy như vầy :
trong cơ thể, sự mất thăng bằng do nội hạch (nhứt là hạch sanh dục) bạo động hoạc
quá lười. Có lẽ đúng chăng ?
Kế Hương là cô Hồng, hăm sáu tuổi. Hồng đẹp nhứt nhà, nhứt
xóm, và có lẽ cô hạng giữa gái Sàigòn.
Người con gái hăm bốn là cô Hoa đã bước gần tới lằn mứt cuối
cùng của sự trổ mã. Cô này cũng đẹp, nhưng không quyến rũ bằng cô Hồng kia. Cô
Hồng đã nở toàn diện trong sự bừng dậy của nhan sắc một thiếu phụ. Phải, đàn bà
còn trẻ khi nào cũng đẹp hơn con gái đương thì. Có ai mê con gái mà tan nhà nát
cửa kkhông ? Không, chỉ có đàn bà mới làm hại đàn ông được.
Hồng, Hoa rồi đến Quá. Nơi cô Quá, sắc đẹp còn ngập ngừng, những
đường cong còn dò dẫm chưa quyết dừng lại nơi đâu cả.
Có thể là cô sẽ đẹp, mà cũng có thể không đẹp bao nhiêu. Sự
trổ mã của cô chưa nói lên cái tiếng cuối cùng của nó. Tuy đã hăm hai, cô còn
trẻ con cả tính tình lẫn thể chất.
Ba chị em kia đều là gái tân, còn cô Hồng đã viễn du một chuyến
trong cuộc phiêu lưu mạo hiễm trên đường tình.
Một sự so le nỗi bật lên giữa vợ chồng ông Nam Thành. Bà thì
cao trộm, và phục phịch như bao gạo chỉ xanh. Ông lại len lén thấp, và ốm như
người nghiền á phiện. Phải chăng sự lấn lướt của bà vợ là nguyên nhơn của việc
đẻ toàn con gái ?
- Sớm mai, con đi trên đường Tự Do, thấy buồn quá, cô Quá bắn
phát súng đầu tiên như thường lệ. Nội nhà chỉ có cô là nói nhiều hơn cả.
- Đường đó là đường Tây buôn bán. Tây nó cuốn gói hết thì tự
nhiên là đường phải buồn. Tiếng vang đầu tiên phát ra từ miệng cô Hoa, một cái
miệng ba hoa thứ nhì trong gia đình.
Mà ba ná à, con thấy anh Viết đứng chụp hình dạo trên đó, trước
nhà hát Tây 1.
- Thiệt vậy hả ? Bà Nam Thành ngạc nhiên hỏi. Trời ơi, sao xuống
lẹ dữ vậy ? Mà ai lại đường đường một anh thầu khoán mà...
- Bà lầm, cuốc đời giống hệt như đi xe ô tô buýt. Đi ô tô
buýt mà đeo được bàn đạp để đến nơi là chúa lắm rồi. Còn biết bao nhiêu người
đeo không được phải ở lại vỉa hè, dưới trận mưa ! Kiếm được một nghề, dầu nhỏ mọn,
để mà sống, là giỏi lắm đó, đừng có chê.
Cô Hoa cười dòn mà rằng :
- Nhà mình mấy năm trước đi xe ô tô buýt đời, ngồi ghế có nệm.
Bây giờ đứng bàn đạp, mà chỉ đứng một chơn thôi.
- Ba so sánh hay lắm, cô Quá khen. Cuộc sống giống hệt đi ô
tô buýt về mọi mặt. Lên tại bến thì lấn nhau không còn biết xấu hổ gì cả, miễn
tìm được ghế ! Phần đông đi tới đích, mà có ngường cũng xuống dọc đường, đó là
những kẻ suy sụp hay bị tử thần rước sớm.
Trên xe cũng có những may mắn, hên xui. Có lần con đứng gần một
bà cụ. Chỉ đứng bậy vậy thôi, không mong mỏi gì. Thế mà qua hai trạm thì bà cụ xuống
xe, con được ghế, thích quá, thích như ông ba Công nhờ có người trước chết mà
được bầu thũ quĩ hội ái hữu Bặc Liêu, mặc sức lấy tiền quĩ mà chơi hụi.
Cô Hồng nảy giờ làm thinh, xen vào một nhận xét :
- Nhưng có khác là xe ô tô buýt, có đờn ông nịnh đầm, còn
trên cuộc tranh sống thì không.
- Nịnh gì ? Bây giờ có ai thèm nịnh đầm nữa đâu. Họ nói mình
đòi nữ quyền tức là tự xét bằng họ rồi, nên họ không thèm nịnh mình nữa.
Cả bốn cô gái đều cười xòa.
Trận cười chấm dứt chuyện đời, nên ông Nam Thành khởi đầu câu
chuyện khác.
- Hôm nay tôi đi trên đường Biênh Hòa tôi thấy chuyện này
đáng chú ý lắm là ở làng Xuân Trường, dựa hai bên đường, nhà mới, cất lên rất
nhiều, trông vui hết sức.
- Yên giặc rồi dân trở về sứ cũ à ?
- Không, chổ đó ngày xưa, hồi tiền chiến, không có nhà. Hỏi
ra thì mới hay dân mới là những kẻ suy sụp như mình, lùi về vườn để thủ.
- Sao họ không về làng họ, lại chọn chỗ đó ?
- Chắc làng họ đang bị nạn cướp bóc như làng mình. Còn tại
sao họ chọn làng đó mà không chọn làng khác thì tôi thật bí.Có lẽ ở các làng
khác cũng có, mà mình ít đi đâu nên không thấy. Nhưng luôn luôn, họ chọn gần đường
cho được an ninh. Trông ngộ quá. Một nếp nhà con con, xinh xắn, vén khéo, giữa
một miếng vườn mới lập, cây còn non như cuộc đời chớm nở. Nó trẻ và mạnh làm
sao !
- Nhưng chủ nhà lại vào buổi xế chiều. Cô Hoa nói.
- Ừ đúng ! Luôn luôn như vậy. Chỉ có mấy ông già bà cả mới trồng
cây ; thanh niên, thiếu nữ nóng tánh lắm, hưởng thì thích mà trồng thì không đủ
chí bền.
- Chưa chắc thích hưởng đâu ba. Quá cãi. Con tưởng tượng về
vườn chắc buồn lắm.
- Nên thơ lắm chớ buồn gì, cô Hồng đa cảm và hay mơ mộng cãi
như vậy.
- Nên chơ đối với bọn về chơi vài bữa. Còn về ở luôn để cuốc
đất thì nên... thở là đúng hơn. Cô Hoa thông minh một cách thực tế, thấy rất
đúng, và ranh mãnh nói câu đó.
- Chết chưa, ông Nam Thành than, tao định lui về vườn mà tụi
bây nghĩ như vậy cả thì làm sao.
Bây giờ cô gái lớn mới xen vô :
- Đâu có nghĩ như vậy cả, ba ! Con với con Hồng thì tán
thành. Cọng thêm vào ba, má là mình được đa số rồi. Cho con Hoa và con Quá hỏng
giò !
- Ờ, tán thành ! nữa rồi chị đào mương nghen ! Tụi em chỉ làm
thơ thôi.
- Thôi không cà rỡn nữa. Bác Phán Tâm, lúc đi xe qua vùng đó,
có mách ba một cuộc đất hai mẫu, cách Thủ Đức bốn cây số ngàn...
Bà Nam Thành chận hỏi :
- Tính đi từ Sàigòn lên thì khỏi Thủ Đức hay chưa tới Thủ Đức
?
- Khỏi.
- Cũng được. Nếu chưa tới thì khổ, vì đất phía dưới ngập nước,
mà lại nước mặn nữa chớ, y như dưới xứ của mình.
- Nghe đâu họ bán có bảy chục ngàn.
- Đất không mà mắc dữ vậy sao ?
- Đất bây giờ có giá. Vả lại đó là đất tốt.
- Tôi không hiểu sao ông chẳng tính chuyện về xứ.
- Dưới mình còn cướp bóc nhiều lắm.
- Còn ở đó cũng là chổ khỉ ho cò gáy chớ hơn gì.
- Không, miền đông khác dưới ta nhiều. Ở miền Đông, không có
xó kẹt nào mà xe đò không vô tới. Việc tiếp tế dễ dàng hơn, dân ít quê hơn, và
nhứt là tương đối an ninh hơn.
- Vả lại ta sẽ ở dựa con đường thiên lý, con đường quan trọng
nhứt Việt Nam thì bà biết ta sẽ được yên ổn đến bực nào.
Cô Quá gõ đũa vào chén, đánh nhịp mà hát :
Ai đi lên trên con đường thiên lý sương sa mờ 2
- Im cái mồm ! Bà Nam Thành mắng con bằng giọng và lối nói miền
Bắc. Gần đi lấy chồng rồi mà còn trẻ con !
- Gần đâu mà gần, má. Chị Hai hăm tám rồi mà còn chưa lấy chồng,
con mới có hăm hai hè !
Gia đình ông Nam Thành rất cởi mở về việc chồng con của con
cái. Bà mẹ ưa nói đùa về vụ đó nên mấy cô con gái quen tai không mắc cỡ nữa và
lấy đó làm đầu đề câu chuyện nhiều khi.
Hương bị cô em gái nói mỉa mà không mích lòng, vì cô thấy nó
không ác ý. Cô cũng rập nhau mà cười với mấy em cô.
Cô điểm mặt Quá mà nói :
- Về trển, bắt mày nhịn xi nê cho mày ngáp chơi.
Cô Quá chụp cô Hoa mà trả thù :
- Chị Hoa mới là ngáp chớ, em có ghiền ngồi tiệm kem như chị
đâu.
Ông Nam Thành làm thinh mà ăn, để cho con pha trò giây lâu mới
hỏi vợ :
- Bà nghĩ làm sao ?
- Thì quyền ở ông.
- Nhưng bà thích theo tôi hay không chớ ?
- Ở đâu quen đó. Thích thì tôi không thích mà theo thì tôi
theo. Xóm đó đông hay không ?
- Nhà lân cận ở cách đất ấy cỡ hú một tiếng dài mới nghe.
- Uý trời ! Vậy thì sợ chết !
- Có tôi mà còn sợ cái gì. Tôi chỉ lo bà nhớ tay xệp ở đây mà
buồn mà thôi.
- Ông nói như tôi là tay cờ bạc. Buồn, đánh chơi chút ít, chớ
hồi ở dưới Bặc Liêu tôi lại không chăn vịt, không làm lụng sao ?
- Tôi tính như vầy. Mình sang căn nhà nầy, ít lắm cũng được bốn
mươi ngàn. Lại hốt mấy đầu hụi chót. Mua đất xong, còn tiền đủ ăn trong năm đầu.
Năm đó ta trồng cây. Nhưng lại trồng xen hàng bông và nuôi gà
để kiếm tiền xấp thời đặng ăn năm sau.
- Không cất nhà sao ?
- Cất chớ ! Tôi quên nói rõ : Mua đất và cất nhà, cất nhà chỉ
tốn độ hai mươi ngàn là nhà rộng chán.
- Sao rẻ dữ vậy ?
- Ở nhà quê vật liệu và nhơn công nới hơn ở đây. Vả lại mình
biết thu xếp.
- Té ra ba nói thật à ? cô Hoa nói.
- Chớ nãy giờ con ngỡ ba, má nói cà rỡn hay sao ? Sách có chữ
: Tọa thực sơn băng...
Cô Quá cười khúc khích, liếc các chị cô mà phê nho nhỏ :
- Ổng xổ nho rồi đó !
Cô Hương nối lờ cha bằng một vế chữ nôm :
-... ngồi ăn núi cũng lở.
Rồi cả nhà cùng cười. Được trớn, cô tiếp :
- Vì vậy ba mới đem mình về gần núi Châu Thới cho nó mau lở
thêm chơi.
- Gần núi thật hả ba ?
- Cũng còn xa. Mà đi bộ tới đó chưa mõi chơn lắm.
- Sướng a, tụi mình sẽ đi suối Lồ Ồ mỗi ngày.
- Cô nào cũng có phậv sự cả. Ông Nam Thành chận phấn khởi của
con lại. Chúa nhựt mới đi chơi.
- Về nhà quê rồi mà còn theo thời dụng biểu phiền phức như ở
đây sao ba ?
- Tại sao lại bỏ, nếu thời dụng biểu là cần ?
--------------------------------
Lúc xảy ra câu chuyện, chưa có Quốc hội. |
|
Điệu hát thạnh hành hồi tiền chiến. |
Hốt chót ba đầu hụi lớn xong là ông Nam Thành đi vắng nhà
luôn. Ban đầu thỉnh thoảng bỏ cơm sau rồi hai ba hôm ông mới về : ông lo cất
nhà để đưa gia quyến lên.
Trong khi đó thì bà Nam Thành tìm người sang nhà, dứt khoát
những dính líu tiền bạc nho nhỏ và bán bớt những vật dụng mà ở nhà quê không
dùng.
Cả nhà gom y phục trắng và màu để nhuộm đen. Bà Nam Thành nói
:
- Làm lụng thì phải ăn mặc đồ đen cho nó đở tốn sà bông. Với
lại mình phải làm cho giống người chung quanh. Nếu không, khó mà giao thiệp, mà
trộm cướp nó thấy mình sang trọng thì nguy.
- Mình mà sang trọng với ai ?
- Ậy, ở đây mình chỉ xoàng thôi. Nhưng về quê thì các cô sẽ
thấy. Các cô nỗi rõ lên như công chúa ấy.
Phe phụ nữ không ai háo hức lui về vườn cả, nhưng ai cũng chuẩn
bị ráo riết, nhẫn nại chịu số phận và cố làm cho tròn phận sự. Cảm động thay
người đàn bà !
Thỉnh thoảng ông Nam Thành về qua nhà, thấy vợ con buồn buồn,
ông an ủi :
- Người ta nói : "Tấn về nội, thối về ngoại". Đồng
quê là quê ngoại đó. Đó là nơi ẩn náu tuyệt diệu khi ta thất vận. Có làm là có
ăn, không sợ đói bao giờ.
- Chớ ở đây mình làm cũng được vậy ba, cô Quá cãi.
- Mình làm cái gì ? Không lẽ ba đi làm phu cho các xưởng xây
cất, hay làm lon ton. Về trển thì ba cuốc đất đó, mà coi nó còn được hơn : sĩ,
nông, công, thương, nông đứng đến hàng thứ nhì.
Còn các con, đi bán thuốc điếu không được, bán chè đậu cũng
không. Thì về nuôi heo là phải. Trong nhà, làm cực nhọc lem luốc gì cũng chẳng
ai biết.
Tình thế bốn chị em quả khó xoay xở. Cả bốn đều có học nửa chừng
trung học và đã sống theo lối khá giả từ thuở giờ. Bây giờ dễ gì mà dám đẩy một
chiếc xe nước mía ! Đi làm vẫn được đó, nhưng ông Nam Thành nhắm sức học của
con mình, cỡ đi làm thì lương chỉ đủ tiền son phấn và áo dài thôi, nên nhứt quyết
không cho bốn cô tìm việc.
Ông ít băn khoăn về gánh nặng bốn cái thùng giạ nầy vì ông tưởng
rồi chồng nó sẽ rước con ông đi. Nhưng mãi không thấy ai gắm ghé gì cả, cho đến
bây giờ thì vợ chồng con cái phải lo cho bổn thân về sau vậy.
Quá cứ chui đầu vào các rạp chiếu bóng. Xem cho ngấy ra để nhịn
thèm về sau. Còn Hoa thì lẽ cố nhiên, ăn kem hết hiệu nầy đến hiệu khác. Cô Hồng
chỉ ngồi đó mà buồn, hay đi thơ thẩn ở các ngả đường vắng. Người chị cả tự
nhiên như không tình cảm, lo thu xếp không ngớt tay.
Nhưng cả bốn chị em đều thích Bằng đến chơi. Bằng là người
anh họ của bốn chị em nhà nầy. Hắn nhỏ hơn Hương một tuổi, nhưng trông già dặn,
đáng mặt người anh lắm.
Gia đình nào chỉ có toàn con gái không mà thôi, thì rất cần một
đứa cháu trai như vậy. Nó sẽ đưa em nó đi chỗ nầy chỗ nọ, những nơi tuổi trẻ giải
trí mà người lớn không hạp, không muốn bước chơn tới, cha mẹ, vì thế không đưa
con mình đi được.
Hồi mấy chị em mới lên Sàigòn, còn nhà quê đặc, đã nhờ anh Bằng
nầy rửa sạch mùi ruộng bùn lầy cho. Cho mãi đến ngày nay họ cũng còn nhờ cậy Bằng
đưa vào những nơi họ không dám đến. Nói họ là nói Hương với Hồng ấy, chớ còn
Hoa và Quá thì nơi đâu hai cô cũng dám lăn vào. Hai cô đã tổ chức đánh lộn với
con trai tại vườn Tao đàn, hồi còn đi học, đã dám vác ve chai chọi lính Lê
Dương thì có gì mà hai cô không dám. Còn điều nầy nữa, tuy cả nhà không ai nói
ra, là họ hy vọng nơi một cuộc mai mối của người cháu, người anh họ ấy.
Bằng có rất nhiều bạn trai, thỉnh thoảng có rủ vài đứa đến
chơi nhà. Thì một khi kia, lẽ nào lại không có một đứa si tình một trong bốn
cô.
Bằng cũng thích đưa bốn cô em họ đi dạo. Bốn cô nầy cũng khá
đông bạn gái. Bằng thích gặp bạn của các cô. Cả đôi bên đều có lợi.
Nay lui về quê, họ càng hy vọng nơi người anh ấy, rất sợ gãy
mất cây cầu liên lạc, nên càng niềm nở với Bằng lúc anh nầy đến chơi, khẩn khoản
nài nỉ anh ít ra mỗi tuần cũng lên trên ấy một chuyến.
Hôm Bằng hay tin họ sắp dọn nhà, chàng chưng hửng, rồi buồn
buồn hỏi :
- Các cô đi đành à ?
- Không đành cũng phải đành. Anh tính coi còn biết làm sao !
Nè chúa nựt nào anh cũng lên nghen ! Tụi em cho ăn trái cây thì phải biết.
- Nói dóc. Cây chưa trồng, lấy đâu àm ăn.
Cả bọn cười xòa.
° ° °
Bạn hữu của Hương và Hồng phần đông đã có chồng. Một vài cô
đã góa chồng. Đôi cô lại thay chồng hai bận rồi. Cô nào cũng tay bồng tay dắt cả.
Thế nên hai cô chỉ đi từ giã những bạn còn độc thân thôi. Những người nầy, tuy
không nói ra, vẫn ái ngại cho hai cô lắm.
Còn Hoa và Quá thì trao đổi ảnh không ngớt tay. Có bao nhiêu
tiền đi chụp ảnh cả, rồi để tặng bạn, rồi xin ảnh bạn dán vào tập. Họ làm thơ nữa,
trong đó có lá thư, lá vàng rụng rất nhiều, mưa rơi cũng lắm, còn nói gì nước mắt
cũng đằm đìa.
Hôm ấy ông Nam Thành về lần chót rồi tuyên bố :
- Xong cả rồi, mốt ta đi !
- Vậy hả ! Ba cô con gái sau, mặc dầu dư biết sẽ có ngày ấy,
vẫn rụng rời khi nghe tin dọn nhà. Ba cô cứ mong ông cụ chuận bị chậm thật chậm,
càng chậm càng hay. Họ lại mơ hão một chuyện bất ngờ xảy ra để ông cụ đổi ý.
Giây lâu Quá hỏi :
- Nhà đẹp không ba ?
- Đẹp... nghĩa là đẹp theo sằn dã ấy. Hễ qua khỏi Thủ Đức, tụi
bây thấy nếp nhà nào xinh xắn muốn vào đó mà ở thì đó là nhà của mình.
Ông cụ tuy vừ nói vừ cười, nhưng vẫn nghiêm trang chớ không
cà rỡn. Cái cười đó là cười thích ý về cônng trình của mình.
- Thì xe ngừng ở đâu, là nhà ở đó, như vậy còn đoán trước sao
được ? Bà Nam Thành nói.
- Không, tôi sẽ cho xe chạy lố một đoạn đường, để mẹ con đoán
chơi. Đoán được thì là tôi thành công, bằng không thì cũng mặc. Rồi tôi sẽ cho
xe lui lại ngay nhà.
Ông Nam Thành đi mướn xe cam nhông. Bà thì cho người sang nhà
hay tin để mốt họ lại nhận nhà.
Ngày hôm đó, và hôm sau, không ai đi đâu nữa cả. Họ muốn,
trong hai ngày cuối cùng, khắn khít với căn nhà mà họ chiếm trong mười năm, căn
nhà đã thấy bốn cô gái lớn lên, căn nhà mà trên vách còn những ngắn đo bề cao hằng
năm của ba cô gái sau.
Chơn trời chung quanh thật không có gì quyến rủ, tuy nhiên nó
quen mắt quá nên họ cũng nao nao buồn phải rời cảnh quen thuộc đó : trước mặt
là một dãy phố tồi tàn. Ngõ hẻm ở giữa hai dãy nhà thì lổm chổm đá và loang lổ
những ổ gà nước đọng, một hàng trụ, mấy nghĩa địa nhà thờ Cầu Kho. Đầu mgoài là
phố Võ Tánh và bên kia phố là hàng rào song sắt của thành Ô Ma.
Cô Hương lớn lên ở nhà quê, và như cha mẹ, xem chổ ấy là nơi
tạm trú. Lui về quê cô chỉ thấy thích.
Ba cô sau đã quen mất nông thôn, xem ngõ hẻm là quê hương của
họ, nhứt là cô Quá là kẻ lên đây lúc còn thơ ấu lắm. Quá và cả Hoa nữa, tuy nói
tia lia vẫ héo hon lòng.
Sàigòn là nơi cô để lại mối tình đầu, nên chi cô Hồng ngậm
ngùi hơn ai cả. Mặc dầu mối tình đã tan vỡ mà người cô yêu vẫn còn ở đô thành,
thì đô thành đối với cô là một chổ thiêng liêng.
° ° °
Để cho đở tốn, hôm ấy nội nhà theo cam nhông chớ không mướn
xe riêng.
Người Sàigòn dọn nhà đi giữa sự thờ ơ của hàng xóm. Ở với
nhau không bao lâu, tới lui nhau rất ít, thì đi đâu nào ai thiết tha đến mình !
Nhờ thế họ lên xe mà khỏi bận bịu người. Cảnh thì cứ ngậm
câm, không nghẹn lời giã bạn được, nên họ chia tay với cảnh dễ dàng.
Qua khỏi chợ Thủ Đức, ông Nam Thành nói :
- Coi chừng, mẹ con rán mà dòm để đoán nhà.
- Bên trái hay bên mặt, ông ?
- Biết đâu, cứ xem cả hai bên.
- Hứ, làm bộ bí mật hoài. Nhà tranh chớ bộ lầu đài gì sao mà
trịnh trọng dữ vậy.
Họ chia ra hai phe để nhìn hai bên lộ.
- Đây nè, Hoa reo lên.
Người ta xem lại thì đó chỉ là một ngôi nhà gạch củ, Quá véo
chị một cái đau điếng.
Bà Nam Thành than :
- Mỏi cổ lắm ông ơi, ông báo hại mẹ con tôi làm chi vầy nè.
Anh tài xế và hai anh phu khiêng đều cười ngất mà thấy ông chủ
nhà có ý dấu kỳ dị như vậy.
- Đây nè !
- Lần nầy, chính cô Hương ít nói kia la lên.
Họ day qua phía tả thì thấy một nếp nhà tranh có gác, kiến
trúc rất kỳ lạ. Nhưng quả thật xinh lắm. Chung quanh nhà trồng được vài cây
bông huỳnh, vài bụi cỏ huệ. Vì cuộc đất hơi to nên chỉ mới làm hàng rào ở mặt
tiền thôi, mà đó là một hàng rào tượng trưng, dài độ bốn mươi thước, cố ý làm
trước, để trổ cửa ngõ.
Rồi mấy mẹ con lại nhìn người gia trưởng thì thấy ông nầy cười
chúm chím. Lúc bấy giờ xe đã chạy qua khỏi đó mấy trăm thước rồi.
Ông Nam Thành biểu xe ngừng và de lại.
Nếu vợ con ông mà biết được những dự bị của ông Nam Thành thì
họ sẽ cảm động biết bao nhiêu !
Ông Nam Thành tản cư lên Sàigòn với hai bàn tay không như ta
đã thấy. Nhưng ông lại ôm theo một chồng báo P.H. cũ. Báo ấy có dành riêng cho
hội Ánh Sáng là hội bài trừ nhà hang chuột ở Hànội hồi tiền chiến, mỗi tuần một
trang. Trong trang đó, mỗi tuần kiến trúc sư V.Đ.D đều có vẽ một kiểu nhà tre lợp
tranh, rất tiện và khá đẹp.
Ông Nam Thành yêu báo, hay yêu kiểu nhà ? Có lẽ cả hai. Và có
lẽ ông đã nưng niu cái mộng về quê cất nhà Ánh Sáng từ mười mấy năm nay.
Thấy rõ là ông đã làm công việc tạo tập nầy với cả tấm lòng
ông.
Ông Nam Thành đã tự ý sửa đổi rất nhiều, và nếu nhà kiến trúc
sư vẽ họa đồ trông thấy cái nhà lai căn nầy, chắc ông bất bình lắm. Nhưng phần
chánh vẫn còn được kính nể và ông Nam Thành có nhiều lý do để xúc phạm kiểu mẩu
như vậy.
Trước hết là cái nóc. Ông không lợp mỏng như người mình thường
làm hay như họa đồ chỉ vẽ, mà lợp thật dày theo lối Nhật Bổn, dày đến bốn tấc.
Bạc ngàn tiền tranh nằm trên đó. Như thế mười lăm năm sau, nóc ấy dễ cũng chưa
hề hấm gì.
Ban đầu ông Nam Thành định làm vách đất tô xi măng rồi quét
nước vôi để trông cho sáng sủa. Nhưng nghĩ lại vách đất hầm quá, phải tốn rất
nhiều cửa sổ. Nên rốt cuộc ông làm vách trỉ long mốt, gần với kiểu mẫu hơn (họa
đồ vẽ phên tre).
Nhà gỗ có gác, hai căn, một căn sâu tám thước, còn một căn chỉ
sâu bốn thước thôi, thành ra nhà mang hình thước nách, cái phần hủng vô của cây
thước nách ấy ngó về hướng đông. Vào buổi xế, chỗ ấy rợp bóng mát.
Theo hình thể đó thì nhà ngăn ra được sáu buồng, ba buồng dưới
và ba buồng trên.
Ông bà Nam Thành chiếm buồng trên bên hướng tây, ông bà hy
sinh, nhường hai buồng hướng đông cho bốn cô con gái ; ba buồng dưới thì dùng một
làm phòng tiếp khách, một làm phòng ăn, còn một để trống phòng lúc có bạn hữu ở
lại nhiều ngày.
Nhà bếp và nhà bắc cầu đều cất cột tre, lớp tôn ngừa hỏa hoạn.
Ông Nam Thành có làm một việc châu đáo nầy mà ở nhà quê ta, không mấy ai để tâm
đến là sau nhà bếp, ông thêm hai cái chòi con, một để tắm rửa, và một xa hơn,
là cầu xí.
Phu khiêng bàn ghế vào nhà chỉ tốn có nửa giờ thôi. Nhưng gia
đình phải mất trọn ngày để sắp đặt mọi thứ lặt vặt.
Không lần nào mà sáu người ấy đồng ý với nhau về vị trí một bức
tranh hay một chiếc bàn con. Họ cãi nhau về mặt thẫm mỹ, mặt tiện lợi, mặt tình
cảm, nhiều cuộc tranh luận sôi nổi quá, muốn chấm dứt phải mượn đến lối bỏ thăm
đưa tay lên. Ngặt nhà có sáu người, số chẵn, khó lòng mà lấy được đa số khi ý
kiến chia hai đều.
Ông Nam Thành khôn ưa xử dụng quyền gia trưởng trong các việc
lặt vặt, thành ra nền dân chủ trong gia đình ông gây rối loạn liên miên.
Người ta cãi nhau, người ta giận hờn, nhưng vui lắm vì sự dao
động vô tội ấy giúp đỡ chán cái mặt nước phẳng của nhà quê.
Trong buổi dọn nhà nầy gia đình mới hiểu công dụng của những
tấm bố nhà binh Pháp loại ra mà ông Nam Thành đà mua dưới chợ Dân Sanh hôm nọ.
Vách trỉ long mốt luôn luôn bị gió lò. Vào thu và bấc, mấy tấm
bố nầy buông xuống sát vách bên trong, sẽ giúp cho nhà thêm ấm.
Và giỏ cần xé chai không kia là khí giới tối tân mà ông chủ
nhà kỳ dị nầy đã nghĩ ra.
- Ở đây không khỏi có cướp, ông Nam Thành nói. Nhứt là bọn họ
đồn mình ở chợ về thì cướp nó càng thêm hơn nữa. Mình nghèo mình biết, nhưng
chúng nó ngỡ dân Sàigòn nào cũng nứt đồ đổ vách. Chai nầy ta sẽ đổ đầy nước vào
rồi đem lên gác. Cướp nó đến, mỗi người năm bảy chai, chọi cho bể đầu chúng nó
ta mới thôi.
- Ghê quá, cô Hồng nói, nó giận nó bắn chết còn gì ba ?
- Nếu chúng lẹ tay, chỉ bắn chết một mạng trong nhà ta thôi.
Rồi chúng sẽ bể đầu mà rút lui.
- Thành ra mình phải hy sinh một mạng ?
- Chớ sao ! Ở chỗ dữ tợn phải như thế mới sống còn cho.
- Thôi, ai chọi cướp trước thì trọi, con đợi chúng nó rút lui
mới chọi với theo. Quá cười và tỏ thái độ ấy. Nhưng chắc cô ta sẽ làm thật như
vậy, khi có cướp đến.
Suốt ngày hôm đó họ ăn bánh mì thịt quay mua ở dưới Sàigòn vì
họ đã tiên liệu sẽ bận, không làm bếp được. Mà quả như vậy.
Đến xế chiều, ông Nam Thành mới chịu dùng quyền chỉ huy để
phân công cho mọi người :
- Công việc nhà, tôi sắp đặt một lần nầy thôi, rồi bà phải kiểm
soát việc thi hành mỗi ngày, để tôi rảnh tay, rảnh trí mà lo vườn tược. Con Ba,
con Tư, con Năm, ba đứa biết đi xe máy thì thay phiên nhau mà đi chợ. Đừng đi mỗi
ngày mất công. Mình ăn khô, ăm mắm thì cứ hai ba bữa đi một lần.
Những thứ lặt vặt như tiêu, muối, hành, tỏi thì trử cho kha
khá, để muốn dùng lúc nào sẵn có trong nhà lúc nấy. Thí dụ nửa đêm thèm cháo
gà, trưa trưa họ có bán ếch mập thì ta đủ mọi thứ cần dùng.
- Ông thì lo món nhậu của ông trước.
- Ở nhà quê phải vậy. Có nhậu mới có tới lui với xóm giềng được.
À, thay phiên nhau đi chợ, rồi về thay phiên nhau mà giặt gịa...
- Bàn ủi điện má bán rồi, còn đâu mà...
- Má mầy bán là phải, ở đây lấy đâu ra điện. Mà không cần mặc
đồ ủi nữa. Có muốn làm dáng thì ủi điện lấy...
- Ủi điện ?
- Phải, ủi điện, mà là điện trời, nghĩa là vuốt cho thẳng, xếp
tử tế rồi để dưới gối nằm đè lên đó, thì nó sẽ láng như là...
Cả nhà cười ngả nghiêng ngả ngửa.
Ông Nam Thành lại tiếp :
- Thay phiên nhau giặt gịa rồi áp nhau mà làm vườn...
- Đi chợ rồi nghỉ, giặt gịa rồi nghỉ, làm vườn rồi nghỉ, rửa
chén rồi nghỉ, cho heo ăn rồi nghỉ, phải không ba ? Cô Hoa ranh mãnh hỏi cha
như vậy.
- Đúng !
- Ứ hự !
- Còn chị hai, ba ?
- Con hai làm bếp. Nên nói rõ chi tiết. Làm vườn gồm có những
việc sau đây : nhổ cỏ, kéo nước tưới cây, bắt sâu, cho heo, cho gà ăn...
v...v...
- ba trộn lộn chăn nuôi và trồng trọt. Đó là hai khoa khác
nhau. Con học ở trường họ dạy như vậy.
- Hay là con ba biệt phái chăn nuôi. Hai đứa kia làm vườn,
ông Nam Thành đề nghị sau lời cãi lý của Hoa.
- Không đâu, con muốn chăn nuôi hè !
- Con cũng vậy !
- Nữa nè, thôi thì bỏ thăm.
- Ừ, oẳn tù tì, đứa nào thắng là được chăn nuôi.
- Thôi đừng cà rỡn nữa. Phận sự của bốn đứa bây đã rõ rồi đó.
Còn bà, bà kiểm soát, nhắc nhở chúng nó, và xuất phát tiền bạc.
- Còn ông ?
- Tôi ấy à ? Tôi thì tôi làm tất cả các công việc còn lại
chưa ai nhận lãnh.
- Đâu còn công việc gì ba, Hoa cãi.
- Ba ăn gian quá ! Quá phàn nàn.
- Sao lại không còn ? Tiếp khách nè, đi thăm xóm giềng nè...
- Nhậu nè, bà Nam Thànnh vừa xỉa thuốc sống, vừa tiếp lời chồng,
và bốn cô con gái đều cười rộ lên.
- Nói chơi vậy chớ ba sẽ làm tất cả công việc nặng mà mẹ con
bây làm không nổi. Nội hai việc sau đây, thử hỏi đứa nào dám đãm đương không ?
Đó là việc canh ăn trộm và coi chừng ma cho bây ngủ.
Cô Quá ý ạ một tiếng rồi nhảy vô ngồi giữa gia quyến mắt liếc
ra vách. Qua trỉ long mốt, hoàng hôn xuống ngập đồng vắng. Đây là buổi chiều đầu
tiên mà bốn cô con gái sống ở thôn quê. Lòng họ bỗng nghe buồn minh mông quá,
khiến họ kinh ngạc cho số phận họ, mới hồi sáng còn ở chốn phồn hoa đô hội, rồi
chớp mắt một cái thì bây giờ đã ngồi giữa cảnh đìu hiu, cô quạnh nầy, và không
biết về sau sẽ ra sao.
Ông Nam Thành có sắm một cây đèn măng sông, mua săng, mua rượu
đủ cả. Nhưng ông nói thắp đèn sáng quá sợ người ta để ý ngỡ gia đình giàu có dư
dả lắm, rồi trộm cướp nó mò tới. Nên chi họ thắp đèm dầu hôi.
Cô Hương đã có ở nhà quê, nên không thấy mình lạc hướng bao
nhiêu trong cảnh quạnh quẽ nầy. Nhưng ba cô khác vì rời thôn xóm lúc còn bé quá,
nên nghe bỡ ngỡ lạ kỳ.
Cây đèn vặn ngọn lên cao thì un khói, còn hạ thấp ngọn ánh
sáng vàng vàng cũng phủ lên buồng khách một màu dơ dáy, ủ rũ và bệnh hoạn.
Những con sâu con trùng gì không biết, ở đâu ngoài cỏ nội bay
ùa vào đâm đầu vô ống khói rồi chết thiêu rơi rơi xuống đầy mặt bàn. Có một mớ
lại rơi ngay trong ống khói đèn và lớp xác sâu cứ càng lúc càng dày lên.
Ông Nam Thành lượm lên một xác sâu xanh rồi nói :
- Thứ nầy tên là con phù du...
- Vậy hả ba ? Té ra con phù du có thật à ?
- Sao lại không thật.
Rồi ông ngâm :
Đời người như kiếp phù du,
Sớm còn tối mất công phu lỡ làng.
- Chà, ba thi sĩ quá !
Thêm hứng, ông Nam Thành hạ ngọn đèn xuống đoạn lại ngâm :
Canh khuya thắp chút dầu dư,
Tim loan cháy lụn, sầu tư một mình.
Cô Quá vỗ tay khen :
- Hay quá ! Ba dạy con câu hát nhà quê đi ba.
- Tụi bây ở chợ, không nghe ai hát ru con nên dốt về câu hát
lắm. Về đây rán mà banh lỗ tai ra để nghe mà học.
- Học làm gì, bà Nam Thành cà rỡn, mấy đứa nầy nữa chúng nó
ru con bằng âm nhạc hò lờ, lúa vàng, và hò dô ta ấy mà !
Cô Hồng cứ ngó ngoáy ra sau lưng mà nói :
- Vách hở như vầy, ghê quá !
- Cho nên ở nhà quê, ngủ phải tắt đèn, nếu chong đèn ăn trộm
nó thấy rõ bên trong hết.
- Nhưng không chong đèn thì tối hù, lại còn ghê hơn nữa, bà
Nam Thành bàn rộng sau lo sợ của Hồng.
- Kín cổng cao vách như vầy mà còn sợ thì ở đây sao được, ông
Nam Thành nói.
- Ăn trộm nó dòm vô, nó thấy cái gì ba ?
- Thì nó thấy mình nằm đâu, ngủ hay thức, tủ áo để chỗ nào, tủ
tiền kê xó nào ấy mà. Ngày xưa nghe bà nội bây nói lại, trộm còn giỏi hơn nữa.
Nó gắn một cây đèn cầy cháy lên lưng một con cua, rồi nó thả con cua vào nhà,
qua hạ cửa. Con cua bò qua lại trong nhà, soi sáng cả mọi vật. Lắm khi không cần
đèn, chúng vẫn thấy rõ trong bóng tối như giữa ban ngày. Đi đứng thì chúng dùng
một que tre thật nhỏ và thật dài mà quơ trước mắt. Que đụng phải cột, báo chúng
biết để tránh mà không khua động gì hết, cho chủ nhà đừng giựt mình thức dậy.
Chúng lại hốt gạo cất sẵn trong túi mà ném tứ tung ra. Gạo chạm
phải đồ đồng, đồ thau, kêu leng keng nho nhỏ, dẫn dắt chúng lại chỗ cất đồ quí
đó. Ấy ngày xưa, trong nhà dân, chỉ có đồ đồng, đồ thau, là quí giá thôi.
Ánh đèn dầu phóng đại lên vách trỉ sáu bóng người. Quá đưa
cánh tay lên hươi thử và lấy làm thích mà thấy bóng cánh tay nàng giống đầu một
con vịt quây mỏ lại để rỉa lông.
- Đừng giỡn với bóng, khuya ngủ, nó dồi chết bây giờ. Ba Nam
Thành mắn con gái út.
- Bà khéo dị đoan hoài. Bóng sao lại dồi người ?
Cô Hồng đứng lên đi lại đi văng lấy chiếc gối dài, ôm gối vào
mình như ẵm con, rồi ngắm thử bóng mình trên vách.
Như hội ý, cô Hoa hát :
" Ai đời còn nhớ chăng "
Xóm Nam Xương có một nàng.
Lòng son muôn đời muôn kiếp mang xuống tuyền đài.
Câm uất ôi buồn ôi đến bao nguôi.
Ông cụ cũng cảm xúc về chuyện cổ tích mà lũ con ông vừa gợi
lên, nên ngâm bài thơ Lê thánh Tông :
" Nghi ngút đầu gành tỏa khói hương,
Miếu ai như miếu vợ chàng Trương "
Câu chuyện đã đến lúc nặng nề khó thở. Mà không khí cũng khó
thở thật. Bầu trời giống như một nồi xúp de bị nung nhiều giờ, áp lực mạnh vô
cùng mà không ai xả xúc báp cho xì bớt hơi.
Lúc ấy vào cuối tháng tư, tại hóa chuyển mình một cách đau đớn
để bước sang mùa khác, nhưng bước còn do dự ngập ngừng nên vạn vật dưới đây bị
đè dẹp dí xuống.
Không bảo nhau, cả nhà đông đứng lên, đi ra ngoài.
Mặc dầu nực, trời không mây. Sân sáng sao, trông mờ mờ như hừng
đông. Vài con đôm đóm nở trước mùa, xẹt qua lại trên không trung thành những lằn
nhỏ dài như những mũi kim vàng. Đèn nhà ai le lói đằng xa và xa nữa rừng mờ đen
trên chân trời trong hơn một tí.
Trên vòm trời, sao dầy đặc như dề cơm cháy. Đó là muôn ngàn
đâu cây đinh bằng vàng đóng trên một tấm trần đen.
Thỉnh thoảng một cây đinh long ra, rơi đi đâu không biết.
- Sao băng ! Bà Nam Thành nắm tay chồng, hồi hộp nói bằng giọng
run run.
- Không có gì đâu mà sợ. Mỗi đêm hằng trăm ngôi sao xẹt đi
như vậy là thường.
Trong khi đó thì bốn cô con gái đều ngó về hướng nam. Một vầng
ánh sáng bừng lên ở chơn trời hướng đó, như mặt nhựt sắp lú lên vào buổi bình
minh.
Đó là ánh sáng đô thành mà mới hôm qua đây họ còn sống lộn
trong đó. Mới hôm qua nầy ? Ừ ! Nhưng sao mà nghe như lâu quá rồi, nghe như xa
lắm rồi. Nỗi nhớ xứ, nhớ nhà minh mông như là họ đã lìa khỏi quê cha đất tổ.
Quặn quẹo là khúc đường từ nhà đổ xuống chợ Thủ Đức và quặn
quẹo là lòng của bốn ả nhớ nhà. Lòng quặn quẹo và ruột quặn đau niềm ly biệt
cái nơi mà họ xem như nơi chôn nhau của họ.
Cô Quá không sao xóa được nơi trí cô hình ảnh các rạp chiếu
bóng hực hỡ đèn màu. Nóng bức lại nhắc nhở cô Hoa các tiệm kem mà nơi đó, giờ
này, bạn hữu cô đang ngồi chấm chút thứ tuyết ngọt kia.
Riêng cô Hồng thì ngậm ngùi hơi ai cả. Cô không chỉ để lại
Saigòn một căn nhà không cá tánh, một lũ bạn ít tình cảm hay một cuộc sống quay
cuồng, mà là một mối tình đầu, hơn thế, một mối ttình đau thương không nguôi.
Như hiểu ý con, ông Nam Thành nói cho khuây dạ chúng nó :
- Các con biết ! Ngày xưa không ai nhớ Sàigòn cả, vì lúc đó
không có dân Sàigòn.
- Không có dân Sàigòn, thưa ba ? Cô Hương ngạc nhiên hỏi.
- Nghĩa là có, nhưng không phải dân Sàigòn chánh hiệu. Sàigòn
ngày xưa chỉ gồm có hai thư dân : thương gia và công chức. Công chức toàn là
người các tỉnh lên. Họ về tỉnh cưới vợ, khi muốn lập gia đình. Đẻ con ra, họ
cho về tỉnh ỡ quê ngoại, quê nội. Cả Sàigòn đều đổ xô nhau mà nhớ tỉnh. Hễ Tết
một cái là Sàigòn trống trơn. Về ông về bà hết kia mà !
Vả Sàigòn lúc đó cũng chưa có đặc tính gì để họ lưu luyến,
cho đến đỗi ca dao về Sàigòn cũng rất hiếm hoi, đếm được trên đầu mười ngón
tay.
Số phận của các thành phố mới là như thế. Không có dân chánh
gốc để làm cốt trụ, không có nhân cách riêng để quyến rủ người ta.
- Ba chưa nói đến hạng thứ hai là thương gia.
- Ờ thường dân ấy à ? Bọn nầy là ngoại nhân cả. Cũng có vài
thương nhân Việt Nam, nhưng họ là hạng người ít tình cảm, đâu cũng là quê, là
nhà được tuốt.
Phải qua nhiều thế hệ người, một thành phố mới trở thành được
một quê cũ có người nhớ, có người thương. Có lẽ Sàigòn ngày nay đã đến tuổi già
dặn của một chốn định cư lâu đời rồi.
Bây giờ đèn pha xe hơi từ Sàigòn lên và từ Biên Hòa xuống soi
thủng bóng đêm trên đường. Tia đèn bắt tréo nhau như những lưỡi gươm dài mà mấy
tay hiệp sĩ dạ khách khổng lồ nào đang so kiếm giữa đêm trường.
Xa xa tiếng chó sủa dài. Lần nầy ông Nam Thành giựt nẩy mình,
dáo dác nghe ngóng, rồi tần ngần rất lâu ông nói :
- Nghe chó sủa sao mà nhớ nhà quá !
- Tôi cũng vậy. bà Nam Thành đồng tâm với chồng.
Nhưng hai ông bà lại nhớ một làng xa dưới Bắc Liêu chớ không
phải nhớ Sàigòn.
Suốt đêm ấy cả nhà không ai ngủ được hết.
Con chó con mà bà Nma Thành xin dưới Ô Ma, kêu cẳng cẳng từ đầu
hôm tới sáng. Nó nhớ ổ, nhớ mẹ nó. Thỉnh thoảng từ trên gác, bà Nam Thành hét
xuống :
- Chó nà ! Nín đi hôn ?
Nó im giây lát, rồi kêu cẳng cẳng trở lại như củ.
Ông Nam Thành bỗng phát minh ra một điều nầy, nói to lên rồi
cả nhà áp nhau trò truyện từ giường của mỗi người.
Ông Nam Thành nói :
- Thấy rõ là nuôi chó ở nhà quê rất cần. Không có nó, lúc nào
mình ngủ quên thì nguy. Và vì thế thấy rõ việc nuôi chó ở các thành phố là xa
xí. Món xa xí ấy lại có hại. Nó cắn người đi đường, báo hại người ta phải đi
tiêm thuốc mất ngày giờ không biết bao nhiêu. Đó là nói trường hợp bắt được chủ
nó đền bồi tổn phí. Mà khó bắt biết bao ! Ai làm chứng cho mình là chó ông A
chó ông B cắn mình.
Tôi mà có quyền trong chánh phủ, tôi đánh thuế chó ở các
thành phố cho thật nặng, nặng hơn cả hột xoàn và rượu huýt ky, tôi cho kiểm tra
chó kỹ lưỡng, mỗi năm nội Sàigòn, thâu không dưới trăm triệu bạc.
Cô Hồng vốn đa cảm, bỗng nhớ lại bầy chó bẹc dê trong xóm mà
các me Tây khi lui về vườn, bỏ rơi lại. Lũ chó nầy thành chó đói cả, và rất
sung sướng được ăn cơm người ta bố thí cho.
- Hồi trước thịt bò mà nó chê, bây giờ bữa nào mà có chút nước
cá kho, lũ nó thích quá xá.
- Có một con, sáng nào cũng đi tiệm cà phê cả. Ở đó nó ăn vỏ
bánh bao no nê. Mà họ cũng kỳ, tiền đâu mà vứt xuống đất cho mấy con chó vô ích
đó ăn cho uổng ?
Cô Quá sợ trộm, lại sợ ma, chạy qua giường cô Hoa mà nằm. Bực
bội quá, Hoa thét lên, rồi Quá gây lại, không ai chợp mắt được cả.
Người đi đường và những nhà lân-cận rất ngạc nhiên mà thấy
người "nhà lầu mới", tên họ dùng để gọi nhà ông Nam Thành, mãi đến
lúc mặt trời mọc hai sào rồi mà chưa thức dậy.
Thói quen ở chợ họ chưa bỏ được và đêm thức sáng trắng vừa
qua đã dìm họ vào một cuộc mòn-thiếp đi, vào lúc hừng đông.
Ông Nam Thành là người dậy đầu tiên. Ông lấy củi gõ vào cột
tre nhà bếp ba hồi ba dùi theo lối đánh trống ở nhà quê.
Bà Nam Thành và các cô con gái đang mơ màng, nghe tiếng mõ
tre ngạc nhiên hết sức. Tỉnh dậy họ vẫn còn ngơ ngác mà thấy mình nằm giữa một
cái buồng mà nắng chui vào tứ phía. Giây lát sau họ mới tỉnh hẳn và buồn cười lắm.
Họ nghe ông gia trưởng đứng dưới sân kêu với lên:
- Đàn bà hư, con gái hư, thức dậy mà làm ăn chớ nằm hoài đó
sao?
Bà Nam Thành vừa bới đầu vừa ra chiếc thang bắc tại góc hủng
thước nách nhà, trong khi bốn cô con gái còn chần chờ ở lại: cô Hương lo xếp mền
mùng cho cha mẹ và cho mình, cô Hồng cô Hoa thì tập thể thao còn cô Quá thì vật
vựa và rên hì-hì những tiếng rên sung sướng.
Thang gác bắc đứng sững, các bực thang lại nhỏ xíu khiến bà
Nam Thành sợ hãi, đứng đó mà ngó xuống không biết làm sao.
Ông Nam Thành vào tới nơi, dòm lên rồi la:
- Bà xuống thang kiểu đó thì té gãy cổ. Phải quay mặt vô
trong, đưa lưng ra ngoài y như hồi leo lên, vén ống quần cao một chút kẻo nó vướng.
Như vậy, nhưng bước lui chứ không phải bước tới đâu! Coi chừng!
Bà Nam Thành làm y theo như lời chồng dặn, bà mập quá khiến
chiếc thang mỏng manh kêu lên răng rắc.
Mỗi lần thang kêu như vậy, bà kinh hãi dừng bước mà la.
Xuống tới đất, bà nói:
- Thôi đi ông, tối nay tôi ngủ dưới này.
- Rồi nó quen đi chớ.
- Sao ông làm thang gì mà quá là thang của đài mô-tô bay vậy?
Ông Nam Thành cười ha hả, nhớ lại lần đưa vợ đi xem mô-tô bay
năm ngoái. Bà Nam Thành leo lên đài được nửa thang thì không dám tiến nữa, cũng
chẳng dám lùi. Kịp chuyến xe phát chạy. Cả đài rung chuyển như con tàu say sóng
làm bà hoảng vía la mã-tà om trời.
Bốn cô con gái cũng lục tục leo xuống tới nơi.
Ông Nam Thành ra lịnh:
- Rửa mặt đi rồi một đứa đi chợ, một đứa cho heo cho gà ăn, một
đứa kéo nước còn một đứa ra cửa ngõ treo tấm bảng này.
Tay ông Nam Thành cầm một cái qiai dây kẽm, treo một tấm tôn
hình chữ nhựt.
Cô Quá chạy lại giựt băng trên tay cha, lật ngửa ra cho mọi
người xem. Bảng nền đen, trên viết nét trắng ba chữ sau đây: THÁI-HUYỀN TRANG.
- Huyền Trang? Bộ ông là Huyền Trang đi thỉnh kinh ở Tây Trúc
đó à? Bà Nam Thành hỏi.
- Huyên Trang chớ không phải Huyền Trang.
Mà sao ông lại họ Thái?
- Dốt ơi là dốt. Trang là cái trang trại trong đó có nếp nhà
tranh. Trang ấy tên là trang Thái-Huyên, hiểu chưa?
- Chưa, cô Hoa đáp hớt mẹ. Thái-Huyên là gì ba?
- Thái là hái. Còn Huyên là một thứ thảo mộc tượng trưng cho
sự thanh nhàn, không lo nghĩ. Thái Huyên trang là cái trại mà nơi đó ta hái được,
hưởng được sự thanh nhàn.
- Ông già chữ nho quá sá ta! Cô Quá khen mỉa. Nhưng cây Huyên
nói nôm na là cây gì ba?
- Là cây kim châm. Mẹ con bây xào lăn thịt gà mỗi bữa bằng
bún tàu, nấm mèo, kim châm, quên rồi sao?
- Ba bây sắp thành đồ gàn rồi đó, bà Nam Thành pha trò. Thấy
không ai cười, cô Hoa nhắc đến công việc nhà:
Tụi mình oẳn tù tì theo lời giao kết, đặng đi cho heo ăn chớ!
Nhưng Quá chưa chịu thôi về vụ tấm bảng kia. Cô chế nhạo cha:
- Ba làm như nhà mình là biệt thự ở Sài Gòn, có để nào là biệt
thự Tố Nga, biệt thự Quỳnh Hoa, villa Eldo-rado…Sao ba không treo bảng:
attention chien méchant 1?
- Chó mình còn nhỏ xíu ai sợ, vả lại ở nhà quê chẳng ai thèm
sợ chó. Chó mà rượt họ là họ đá cho mà gãy mõm.
Cô Hương ít nói, lại đề nghị một câu khiến cả nhà cười lăn
chiêng.
- Họ không sợ chó thì mình đề: attention trích méchant
Quả thế, bà Nam Thành đã xin con chó con, lại còn mua thêm một
con trích. Chó giữ ăn trộm còn trích thì hăm dọa trẻ con cùng heo gà hàng xóm.
Chim trích dữ lắm, thấy chó, heo, gà và con nít lạ là nó mổ chạy tét.
- Hè! Oẳn tù tì hè! Cô Hoa lại nhắc.
- Nhỏ em dữ hôn!
Bà Nam Thành mắng yêu con và cười hiền lành.
- Ra cái gì, ra cái này!
Cô Quá thắng nên được chăn nuôi.
Chỉ mới đem về có một con heo hai tháng thôi mà từ sớm đến giờ
nó đã hét nghe điếc cả tai. Ba con gà mái vừa mặc áo là còn nhốt trong giỏ được
lôi ra buộc ở cột tre nhà bếp.
Quá vừa vãi gạo cho gà vừa nói:
- Trưa nay em chọi nó gãy giò, làm thịt để bớt công nuôi
Trong khi cô Hồng đem xe đạp ra để đi chợ bữa đầu thì cô Hoa
gánh thùng đi lại giếng, Hương lót tót theo em vì chưa có công việc gì làm cả.
Bà Nam Thành đón bắp nấu trên đường mua đặng ăn sáng cho đỡ tốn
tiền chớ không nấu nướng gì.
Cuộc đất này nguyên trước kia có người ở nên có đào giếng.
Quanh miệng giếng, thành gạch đã đóng rêu xanh lơ. Ông Nam Thành lúc cất nhà có
trồng trụ hai bên miệng giếng: một cây ví ngang bằng gỗ căm xe, lăn mình trên đầu
trụ bằng hai cái bạc đạn xe hơi cũ, mani-quen cũng bằng sắt cũ, ông lượm đâu đó
rồi mướn thợ rèn đập lại.
Bà Nam Thành mua bắp xong trở vào đó dòm xuống giếng rồi kinh
hãi kêu lên:
- Trời ơi, nó sâu bắt ngán. Con coi chừng, rủi ro thì khốn!
Hai cô con gái cũng dòm theo. Cô Hoa tuy sợ nhưng ngỡ giếng
là phải sâu như vậy, vì cô chưa thấy giếng lần nào. Cô Hồng có ở nhà quê Hậu
Giang, quen thấy giếng cạn nên nay cũng hoảng lắm.
Hoa lấy cái thùng trên miệng giếng rồi quăng đại xuống. Sợi
dây dừa tháo ra mau lẹ vì sức trì của cái thùng, mani-quen thì quay lia lịa.
Giây lâu thùng xuống đụng mặt nước, kêu lên một cái đùng. Bà
Nam Thành nói:
- Mầy cầm dây mà thòng xuống lần lần, chớ làm như vậy, nội một
ngày là thùng bể nát.
Vừa lúc ấy ông Nam Thành đến. Bà Nam Thành hát điệu ru con:
Lấy chồng về miệt Tân-Ninh
Kéo dây giếng ba mươi sải, thất kinh ông bà
Hai cô gái nghe câu hát kỳ lạ cười ngất lên.
- Tân-Ninh là ở đâu, ông biết không ông? Bà hát xong hỏi chồng
như vậy.
- Cách đây không xa lắm. Hôm cất nhà, người trong xóm có rủ
tôi đi Tân-Ninh ăn thịt nhím một bữa. Đó là một làng rừng, ở tại biên giối mấy
tỉnh Biên Hoà, Gia Định, Bình Dương. Đất ở đó cao và khô ráo, các giếng nước đều
sâu thăm thẳm thiệt đó.
- Gả con Quá về đó cho nó khóc thất kinh ông bà chơi.
Câu nói đùa không đâu của Hương bỗng không hiểu sao, làm cho
bà Nam Thành buồn vô hạn. Bà nhìn lại hai đứa con gái đang có mặt rồi lòng
thương con của bà như lộ ra hết nơi hai mắt của bà bấy giờ như muốn ứa lệ.
° ° °
Cô Hồng đạp xe máy về đến cửa ngõ, bóp chuông kêu om lên. Con
chó mới nuôi mà đã biết chủ, chạy ra ngoắt đuôi một cách vụng dại, rồi nhảy bổ
lên cào quần áo cô gái đi chợ về.
Cô Hồng cầm tờ nhựt báo TIN-SƯƠNG phất phất lên rồi nói lớn:
- Xe hơi đụng trước nhà mình ở Ô-Ma!
Thấy báo, cả nhà mừng như gặp lại Sài Gòn. Hôm qua đến nay họ
như bị cách biệt với thế giới bằng một bức tường khoảng không. Họ đói tin tức mọi
nơi, nhứt là tin Sài Gòn nhưng lại quên mất báo. Sáng kiến của Hồng đem tươi
sáng và hy vọng trở lại lòng họ.
Ông Nam Thành giựt lấy tờ báo trên tay con, rồi banh ra đọc
ngay giữa sân, trong nắng sớm.
Kháng chiến An-giê-ri tăng gia hoạt động vô cùng mãnh liệt. Hội
nghị Cô-lôm-bô ắp khai mạc.
- Thôi mà ông, xem có ai giựt hụi hay không mà!
Bà Nam Thành van nài vì chán tin thế giới.
Quá thì chạy ra trước mặt cha để đọc trang tư, đọc các quảng
cáo của rạp chiếu bóng.
Cô Hồng nói:
- Hôm nay khởi đăng "DƯỚI BÓNG TRĂNG THU" tiểu thuyết
tình cảm của Bích Sơn, mùi tuyệt diệu.
Nhưng ông Nam Thành nhứt định chiếm độc quyền số TINH SƯƠNG ấy,
đọc mê tin thế giới ở trang đầu, vừa đọc thầm vừa gật đầu như hài lòng lắm.
Chán nản, bà Nam Thành với lấy giỏ đồ ăn rồi bốn mẹ con cùng
ra sau nhà bếp, cô Hồng dắt xe đạp đi sau hết.
Ông Nam Thành khi đốn cây tạp để dọn đất đã soạn được một đống
củi to để ngoài sân sau. Củi đã chẻ nhỏ rồi, mấy mẹ con dùng rất tiện và thầm
cám ơn ông gia trưởng chu đáo hết sức.
Bà Nam Thành phê bình giỏ thực phẩm:
- Đồ ăn ở đây nới hơn ở Sài Gòn nhiều lắm. Mà con ba cũng
khéo mua, chỉ phiền có một việc là chợ xa quá, qua mùa mưa sẽ khổ.
- Còn cái khác nữa chớ má: khúc đường gần chợ thì quanh co
như ruột vịt. Mình đương đi bỗng đâu một chiếc xe cam-nhông lù lù hiện ra thấy
hết hồn. À, có hồ tắm tụi bây ơi, mặc sức mà lội vì không có ma nào tắm hết.
- Xí! đừng có mong tắm. Ba mầy có cho đâu. Về nhà quê, con
gái mà đưa đùi đưa ngực ra họ cười cho mà thúi cái đầu.
Cô Quá trề môi, ẹo cổ, nhõng nhẽo như lúc bé mẹ cấm ăn quà.
- Vậy chớ họ xây hồ tắm làm gì?
- Làm gì mặc họ. Họ xây cho đờn ông con trai chúng nó tắm, chớ
có xây cho bây đâu.
° ° °
Cái gì lần đầu và lần chót người ta cũng làm cho trịnh trọng
ra cả. Mà nghĩ cũng phải: công việc làm ra trong hai lần đó mang tính cách kỷ
niệm và vĩnh biệt.
Bữa ăn hôm nay là bữa ăn đầu tiên tại Thái Huyên trang. Hôm
nay họ chỉ ăn bánh mì thịt quay thôi.
Ông Nam Thành nói:
- Coi thì không có gì lạ nhưng mười năm sau, hai mươi năm sau
trong một lúc buồn vui nào đó, các con bỗng nhớ lại bữa cơm đầu tiên nầy với tất
cả mùi vị, màu sắc của các thức ăn, nhớ cả giọng nói của người thân yêu quanh
bàn thì các con sẽ bùi ngùi không biết bao nhiêu. Lầu đài ký ức là một lầu đài
kiên cố nhứt, không thời gian hay mưa nắng nào tàn phá nổi. Mà nó lại xinh đẹp
làm sao, càng cũ càng đẹp ra, qua lớp bụi thời gian, cái gì cũng sẽ hiện lên với
muôn màu rực rỡ.
Chỉ có Hương và Hồng là chú ý đến bài diễn văn văn hoa của
ông gia trưởng.
Cô Hoa cằn nhằn:
- Má bán làm gì cái radio. Phải đem lên đây thì giờ nầy mình
nghe ca có phải là thú không?
- Trên nầy làm gì có điện mà mầy trách tao bán máy.
- Không cần điện, sửa lại chạy pin cũng được. Ông Nam Thành cắt
nghĩa.
- Vậy hà, ai mà biết đâu.
- Từ sớm đến giờ, bà có đếm thử cây tôi trồng chưa?
- Có nhưng mà trồng mỗi thứ vài cây thì thất sách lắm.
- Sao vậy?
- Bạn hàng họ lên, không lẽ họ chỉ mua có vài thúng sa-cô-chê
rồi về. Bạn hàng sa-cô-chê nào có mua bưởi, mua xoài đâu. Bưởi cũng có vài cây,
xoài cũng vậy mà bạn hàng của những thứ sau nầy lại không mua sa-cô-chê.
- Nhưng trồng độc một thứ lại sợ tiêu thụ không kịp. Tôi chỉ
tính bán tại chợ Thủ Đức thôi, không cần bạn hàng xa. Còn về phần hàng bông,
rau cải để sống xắp-thời bây giờ thì giao cho bà đó.
- Ba à, sao dưới mỗi gốc cây ba đào lỗ làm chi sâu dữ vậy?
- Bây quét nhà, quét sân có rác cứ đổ xuống đó. Đã tốt cây lại
chắc gốc, trồng như vậy trúng cách lắm đó.
Hương nói:
- Thích quá, có sẵn một cây mít thật sai, một cây me cũng sai
và một cây chanh rất mỏng vỏ.
- Cây mít có lợi nhiều thứ, rồi ba sẽ nuôi dê bằng lá mít. Dê
đẻ nhiều lại cho sữa tươi rất bổ.
- Ông tính rào miếng đất nầy lại hay không?
- Không rào sao được. Nhưng rào bằng gạch thì ta không đủ tiền.
Rào bằng gỗ cũng mất đi hai vạn bạc. Để rồi tôi trồng xương rồng, rẻ nhứt mà lại
chắc nhứt, không con gì vô lọt hết. Phía trước mặt tiền không sợ trâu bò tuôn
phá, mình sẽ trồng bông bụp coi cho đẹp.
Phần con Hương thì phải vẽ họa đồ vườn hoa nhỏ. Nó có óc thẩm
mỹ lắm, rồi ngoài việc làm bếp, nó trồng bông hoa chưng dọn nhà cửa.
° ° °
Trưa quê đã buồn mà trưa ở đây lại buồn gấp mấy lần ở xóm
làng. Nhà hàng xóm ở xa quá, tiếng gà gáy trưa, tiếng cối đá xay bột vẳng đưa lại,
mơ mơ màng màng như là từ dĩ vãng xa xưa đưa tới.
Heo gà, chó nhà cũng chưa đông đúc cho dân số Thái Huyên
trang được sầm uất hầu đỡ tẻ lạnh.
Cây cối còn lùn bân mặc sức cho nắng đổ xuống vườn, cái thứ nắng
hè buồn một nỗi buồn tẻ và chết như nỗi buồn nơi sa mạc.
Cho đến cả xe cộ ngoài đường cũng a tùng để tăng thêm cái buồn
trưa nắng. Bao nhi êu xe nh à, xe du lịch rộn rịp trên đường Thiên Lý khi sáng
bây giờ đã rút lui đi đâu mất hết. Chỉ còn những chiếc cam-nhông tiền sử hổn hển
kéo những rờ-mọt gỗ, khúc gỗ nào cũng như một thây người vừa bị lột da và những
bành sao su sống phết vôi trắng chói lòa lên dưới nắng hè.
Con đường nhựa không đen nữa mà tím sẫm xuống như một băng lụa
vắt ngang vòng hoa tang bằng cườm trong các đám phúng điếu.
Người trong trang Thái Huyên nghe là lạ trong người là mặc dầu
trời nắng gay gắt và nóng hầm, họ vẫn không thấy buồn ngủ.
Giấc ngủ trưa của họ trong mười năm nay không sai chạy bữa
nào, sau bữa ăn đúng ngọ nhưng hôm qua bận dọn nhà quên buồn ngủ thì không nói
gì, còn hôm nay đã rảnh rang rồi sao mà…
Không ai buồn lên gác cả. Gia đình tụ họp nơi buồng tiếp
khách, ngồi lặng thinh nhìn cam-nhông mui lá dài nhoằng, uể oải bò như con trâu
già mệt nhọc kéo xe rơm khô, tuy chở nhẹ vẫn không muốn bước.
- Rồi phải bày ra công việc gì để làm vào giờ trưa mới được,
ông Nam Thành nói: ngồi không như vầy mà nhơi những nỗi buồn xa ở đâu đâu ấy, hại
lắm.
- Chừng cây lớn có trái, chắc làm không hở ay đâu ba.
- Hay là các con làm mứt? Bà Nam Thành thử đề nghị: me,
chanh, không thiếu gì. Làm mứt để dành ăn tráng miệng mỗi bữa, với lại để đãi
khách. Vườn nhà chưa có món gì ăn được, có khách xa đến lấy gì làm vui miệng
người ta.
- Phải rồi, mình hứa đãi anh Bằng trái cây, không lẽ lại cho ảnh
ăn me chua.
Tên Bằng bỗng làm cho cả nhà phấn khởi lên. Bằng sẽ đem hương
vị Sài Gòn đến, mà mứt là sẽ đưa bạn hữu anh ta tới chơi. Bằng mà cả nhà đều đặt
hết hy vọng vào, Bằng ấy phải được săn sóc.
Không rủ nhau, cả bốn đều chạy túa ra vườn để thọc me và hái
chanh.
° ° °
Con chim manh manh
Nó đậu cành chanh
Tôi vác miểng sành
Tôi chọi chết giãy
Tôi làm bảy mâm
Tôi dưng ông ăn
Ông hỏi chim gì
Tôi nói manh manh
Nó đậu cành chanh
Tôi vác…
Ông Nam Thành bày ra tục ăn cơm tốt thật sớm để tránh cho các
con ông cái khổ rửa chén dưới ánh đèn lu mà ngọn đèn cứ xao xuyến trước gió, chực
tắt lúc nào không biết chừng.
Sàn nước rửa chén đặt giữa trời, qua mùa mưa những trận đầu
hôm sẽ làm cho khổ dịch rửa chén càng khổ thêm.
Tục nầy có lợi trông thấy là chiều chiều như chiều nay chẳng
hạn, cả nhà được rảnh rang ra ngồi hóng mát ngoài sân.
Cô Hương nhớ cảnh hái me, hái chanh rất vui hồi trưa nên hát
lên bài hát nhà quê trên đây.
Hát dứt bài, cô đố các cô em gái:
- Tao đố tụi bây hát được hát được một bài hát khác mà có
tánh cách như vậy?
- Là tánh cách làm sao?
- Là câu chót nối trở lại câu đầu, liên hồi bất tận hát được
hoài không bao giờ dứt cả.
- À, đó là cái vòng lẩn quẩn.
- Em hát được, Quá nói mà mắt ranh mãnh nhìn chị.
- Thì hát đi.
- Nè:
Bậu lỡ thời như ớt chín cây
Ớt chín cây người ta còn hái
Bậu lỡ thời như nhái lột da
Nhái lột da người ta còn bắt
Bậu lỡ thời như giặc Hà Tiên
Giặc Hà Tiên người ta còn đánh
Bậu lỡ thời như bánh trôi sông
Bánh trôi sông người ta còn vớt
Bậu lỡ thời như ớt chín cây
Ớt chín cây nguời ta còn hái
Bậu lỡ thời như…
Lần thứ nhì, Quá mỉa cảnh muộn chồng của các chị cô, bằng bài
hát ám chỉ ấy.
- Cái cô út nầy, bà Nam Thành nói, cô đừng có kiêu ngạo người
ta, lo thân cô thì hơn.
Người miền Nam ta thường dùng sai tĩnh từ kiêu ngạo. Ý bà Nam
Thành muốn nói: chế nhạo hoặc nhạo báng.
Đã bảo gia đình nầy rất cởi mở về việc chồng con. Bà Nam
Thành vô ý thức nhưng hay lỡ lời, còn ông thì hiểu rõ sự cởi mở ấy rất có lợi,
ông ví nó như một cái súc-báp giúp con ông thoát khỏi bịnh đè nén, bịnh dồn ép
tình cảm rất nguy hại nên ông ngầm khuyến khích sự bộc lộ tâm tình.
Ba chị lớn là kẻ luống tuổi không bao giờ hờn giận cô em út cả.
Họ cũng chẳng thèm đếm xỉa đến những lời đùa cợt của cô ta.
Nhưng chiều hôm nay, trong cảnh hoang vu của Thái Huyên trang
đứng lẻ loi trơ trọi giữa cánh đồng, họ bỗng bị ý nghĩ mà Quá vừa gợi ra làm họ
khó chịu. Bâng khuâng mà họ cố dẹp được lúc ở thành náo nhiệt, ồn ào bây giờ lại
dâng tràn lên.
Trên con đường nhựa dài chạy ngang trước nhà, các loại xe hơi
nối đuôi nhau mà bò, càng xa càng thấy chúng nó bò chậm như rùa. Để đổi vui
không khí, ông Nam Thành chỉ đám xe xuống mà nói:
- Xe nầy ở Vũng Tàu về, xe nầy từ Nha Trang vô, chắc cũng có
xe Huế chớ!
- Sao ông biết rõ như vậy? bà hỏi.
- Không cần thầy bói cũng đoán được. Hỏi vậy chớ còn xe ở đâu
mà xuống đây nữa, nếu không ở các chỗ đó? Ta ở dựa đường Thiên Lý mà!
Rồi ông lại chỉ đám xe lên:
- Bọn này là bọn Sài Gòn, chiều đi chơi mát hoặc đi Biên Hòa ăn
cháo cá cũng nên.
Bốn cô con gái đều làm thinh, cả cô út lắm lời cũng nín lặng.
Những cặp vợ chồng trẻ trên xe, xui họ nghĩ vẩn vơ về nhiều
việc. Những tên nơi chốn mà người cha vừa thốt ra gợi trong trí họ những cảnh
nước non xa lạ mà tiếng gọi như văng vẳng đâu đây. Tiếng gọi ấy nghe mang mang
giống giống một thứ tiếng gọi khác réo rắc hơn trong giọng than vãn của gió chiều,
đó là tiếng gọi của tình yêu, không rõ rệt lắm, như bị gió loãng đi vì người gọi
chưa biết là ai.
Con đường Thiên Lý nối lại nhiều nơi xa xôi, nối lại những tấm
lòng từ chân trời Hải Vân đến góc bể Cà Mau, con đường đưa lên đưa xuống những
chàng thanh niên mà lòng còn bơ vơ chưa cắm sào nơi đâu cả, con đường thờ ơ ấy
chỉ là một chuyến đò dọc thôi. Khách qua đò không bao giờ ghé bến hết. Không,
không làm sao mà một chàng trai nào bỗng dưng ghé lại xóm này, cả đến người yêu
bạc nghĩa của Hồng cũng không dè người lý tưởng một lúc của anh ta nay lại lùi
về đây để nhơi mãi sự tàn rụng không nguôi của một mối tình thơ mộng.
" Tháng năm chưa nằm đã sáng" Lời tục ấy muốn nói
ngày của vụ cuối mùa nắng dài lắm. Tuy thế, đêm cũng đã xuống rồi.
Có bàn tay bí mật nào đã thắp cháy từng vì sao trên trời. Đầu
rừng xa, trăng lưỡi liềm leo lét buồn soi.
Đèn pha xe hơi như những sợi dây đõi to, cột dính chiếc xe
trước với một dọc xe sau rồi cả đoàn như được độc một chiếc đầu kéo đi.
Ông Nam Thành vừa toan bảo vợ con vào nhà bỗng nghe Quá kêu
lên một tiếng kinh dị, rồi tiếp theo đó những tiếng la oái oái của cô nàng và
cô nàng nhảy lung tung như đạp phải ổ kiến lửa.
Chưa ai hiểu gì thì Hồng lại kêu la y như vậy và cũng nhảy
lăng-ba như bị chuột chun ống quần.
Việc khủng khiếp bây giờ lại chụp lấy Hoa. Hoa nhào càn dưới
đất như bỗng bị phong xù, thân thể co quắp rồi quằn quại, rồi lăn lộn.
Ông bà Nam Thành đứng chết sững không kịp tìm xem cái gì, bởi
vì ông bà quýnh quíu vì ba cô con gái khi không bỗng nổi cơn lên một lượt.
Bây giờ đến phiên cô con gái lớn la nhưng cô ta chỉ la có một
tiếng "ý" ngắn ngủn rồi cười ngất.
- Gì đó con, bà Nam Thành bớt sợ trước cái bình tĩnh ấy nên mới
hỏi được câu nầy. Vả ba cô con gái kia đã thôi kêu la, thôi nhảy múa rồi.
- Con chàng hiu má à!
- Vậy hả? Hú hồn hú vía. Tao với ba mầy thật quýnh quáng
không biết đâu mà rờ.
- Trời ơi! Hoa kêu, nó nhảy lên cổ con, thình lình nghe lành
lạnh, mềm mềm uơn ướt ai mà không hoảng.
- Tao mới thất kinh chớ! Tao thấy nó từ cổ con Quá nhảy qua cổ
mầy. Nó ốm nhách, trắng đờ, mà hai con mắt trõm lơ như ma, tao vừa muốn chạy
thì nó nhảy qua ôm cổ tao rồi.
- Hèn chi mà họ nói chàng hiu hót cổ, bây giờ em mới hiểu. Chỉ
có chị hai là gan, chị ấy thì chàng hiu hay chàng nào chỉ cũng không sợ hết. Chị
sợ chàng rể không chị hai?
- Con mắc dịch nói bậy hoài!
- Ai mà khéo đặt tên cho con ấy, đã con mà lại là chàng.
- Người miền Bắc thì kêu nó là con chẫu chuộc, nghe ít ghê
hơn tên của ta, tiếng chàng hiu gợi hình dáng một con người mà là người ma, ghê
quá!
- Mà tiếng miền nào hay hơn?
- Cũng như nhau hết nhưng thường thì danh từ miền bắc hữu lý
hơn. Thí dụ người con đầu thì kêu là con cả. Như tao, tụi bây phải kêu là chị cả
mới hợp lý cho, chớ sao lại kêu là chị hai. Chị hai? vậy còn chị một ở đâu?
Ông Nam Thành xen vô:
- Ta kêu đứa con đầu là thứ hai không phải ta không có lý. Ở
miền Nam, trong làng có những ông hương chức gọi là hương cả. Thử tưởng tượng một
nông dân gọi con đầu của y trước mặt vị hương cả rằng: " Thằng cả ơi, mầy
đi ví gà coi" thì có phải là mích lòng ông hương cả không?
- Nhưng thưa ba, ở trường hợp khác miền Bắc lại vô lý. Thí dụ
ngày đầu trong tuần, tại sao họ không kêu đó là ngày thứ cả lại kêu là ngày thứ
hai?
Ông Nam Thành bí lối nên hối:
- Thôi vô nhà!
Cả Thái Huyên trang đều vâng lời vị thủ lãnh của họ.
° ° °
Kề điếu thuốc vô đầu trên của chiếc ống khói đèn, ông Nam
Thành bập, bập đoạn lấy thuốc ra rồi ngâm:
Canh khuya thắp dĩa dầu đầy
Dĩa dầu vơi hết, nước mắt nầy không vơi
- Cây đèn sao lại kêu bằng dĩa, ba? Quá hỏi.
Ông Nam Thành không đáp liền câu hỏi ấy mà nói:
- Ở nhà quê mà nhát như thỏ đế vậy không được đâu, các con phải
tập tánh lại. Cái gì mà mới bị con chàng hiu đeo cổ một cái là la bài hãi như bị
cướp bẻ họng.
Thuở ba với má con mới cưới nhau, còn ở nhà thờ dưới làng. Tối
lại thắp một dĩa dầu mù u. Cọng bấc ngâm trong dầu để lòi một đầu ra làm tim.
Đèn lù mù mà nhà chỉ có hai vợ chồng trẻ, hiu quạnh quá.
Hôm nào bên cạnh có đám ma là má bây nạnh ba vô nhà trước để
lên nhang đèn. Rồi ba lại nạnh má, ai cũng giả làm biếng chớ không chịu thú nhận
là mình không dám vào đó, vào cái nhà thấp chũm và tối om ấy, trong khi bên
hàng xóm vừa có người chết.
- Thành ra ba cũng nhát…
Ừ, ba nhát mà ba cố làm gan mới ở được nơi đó cho đến khi nhà
thờ sập.
--------------------------------
coi chừng chó dữ. |
Những lúc rỗi việc, Hoa và Quá thích đi thám hiểm vùng quanh
nhà. Lập vườn mới ngoài việc kéo nước tưới cây, chưa có công việc nhiều. Heo gà
cũng chỉ mới lưa thưa vài mươi con thôi nên họ có rất nhiều giờ rảnh rang.
Xóm trên đông được bốn nhà tranh và hai nhà ngói, trừ bác lò
rèn ra còn là nông dân cả. Xóm dưới toàn nhà ngói không thôi, nhà chỉ nho nhỏ
thôi, bên trong chưng dọn rất đơn sơ trống trải. Xóm trong rất sầm uất, đâu
trên hai mươi nhà, tranh ngói lẫn lộn.
Họ đọc tiểu thuyết thì thấy tả nhà quê rất nên thơ nhưng có lẽ
đây là vùng khô khan hay sao không biết mà hai chị em tìm mãi không gặp hồn thơ
đâu cả.
Nhà phần đông không thèm rào lại, ranh giới vườn không có nên
khó phân biệt đâu là đâu.
Các chủ nhà không thích hoa kiểng nên sân nào cũng trống trơn
phơi bày một bãi cát trắng, vào lúc nắng trưa trông mệt mắt như đứng trong sa mạc.
Họ có trồng chút ít cây mà toàn là thứ cây buồn: mít, mãng cầu
và ổi. Các loại cây ấy không buồn được một cách thơ mộng như liễu rủ bên hồ mà
buồn một nỗi buồn cằn cỗi, nghèo nàn. Ba loại cây ấy ưa đất khô, nên hình dáng
nó cũng khô khan.
Gà, heo không có chuồng. Chúng đào ao khắp nơi, bươi tung lên
tất cả các đống rác, những vựa phân bò.
Người ta, trai thì thân thể không nở nang như lực sỹ điền
kinh, gái thì cũng rất khác xa hình ảnh các cô thôn nữ yêu kiều trong tiểu thuyết.
Thật ra, tất cả những cái ấy đều mang thơ nhưng đó là những
bài thơ vận trắc, khổ độc, những bài thơ tả thực không cần thi vị hoá cái gì hết.
Những bài thơ ấy có vẻ đẹp riêng của nó, cả đến những dơ bẩn,
những cảnh xơ-rơ, héo xào cũng đẹp được.
Nhưng lạc hướng biết bao, tưởng tượng một đàng mà thực tế lại
một ngả!
Bữa nào có Hương đi theo thì cô ta giảng giải:
- Đồng quê ở đây khác xa đồng quê Tiền Giang và Hậu Giang,
hai nơi đó cũng khác nhau khá bộn.
Ở đây đồng bằng nhưng lại là đồng khô cỏ cháy nên không đẹp
hùng mạnh, huyền bí và man rợ như núi rừng, cũng chẳng đẹp vẻ đẹp tối lạc sinh
của đất phì nhiêu dưới kia.
Nhưng nếu biết tìm tòi, có mắt thẩm mỹ chắc cũng sẽ gặp nét
thơ riêng của nó, người ở đây định cư trước dưới ta hàng trăm năm, phong tục và
lòng người dễ thường đã thuần hơn, giàu truyền thống hơn.
Chị có vào ở vài ngày trong một làng dựa sông Đồng Nai trên
Biên Hoà. Cảnh đẹp hơn dưới mình, người rất văn vật và nhứt là lòng người, chí
người rất Việt Nam chớ không phải là tao loạn tâm hồn Cao Miên, Ấn Độ, Trung
Hoa như ở vài làng dưới ta là cái ngã ba văn hoá Hoa-Ấn.
Không hưởng thơ mộng được, mấy chị em đành thưởng thức đỡ những
cảnh tuy vậy cũng hay hay đối với mắt chợ của họ. Thí dụ cảnh mất gà ở nhà thím
tư Phạn.
Chiều nào thím tư cũng đứng chận ở cửa ngõ sau nhà để đón gà
về.
Thím ta trong lúc ấy trông giống như một ông tướng điễm binh,
còn đàn gà là một đạo binh hùng mạnh điều động đi qua.
Dẫn đầu là một tướng quân trống tơ, mặt còn khờ khạo nhưng ra
vẻ ta đây lắm. Trống tơ nịnh đầm số dách, gà mái nào cũng đầy ứ bầu diều rồi mà
anh ta vẫn cứ đi vài bước, mổ vài cái rồi kêu mời đám phi tần cung nữ theo sau
anh ta.
Đám phi tần gồm toàn gái tơ son trẻ, xem rất ỷ lại vào ông
chúa dẫn đầu kia.
Kế đến là những mẹ gà bận bịu đàn con dại, bước từng bước một
e dè nghe ngóng. Thỉnh thoảng các từ mẫu ấy báo động lên bằng một tiếng còi: có
ót-ót. Thế là đám trẻ thơ lẹ như chớp chui vào những nơi trú ẩn thiên nhiên gần
đó: bụi tre, chòm cỏ, gốc xương rồng.
Sau đàn hàng không…gà hạm ấy, đến những chú gà tơ mới mặc áo
lá, chưa thoả mãn một ngày nô đùa nên chần chờ lọt lại đằng sau, vừa về ổ vừa
rượt nhau đánh nhau túi bụi.
Đi hậu tập là một lão tướng trống già oai phong lẫm liệt,
dũng khí đằng đằng, đuôi dài chấm đất, mồng đỏ như hoa bản hạ.
Y giáp lão tướng là một cuộc múa rối màu sắc, vì lão ta vỗ
cánh thì thú vật trong cả sân nhà đều khiếp vía.
Lão đi chầm chậm, mỗi lần dở chân lên là y như Quan Vân Trường
đá giáp bằng hia, cái cựa dài và bén của lão trông ghê rợn như thanh long đao của
Quan Vũ.
Thím tư đếm từng con gà một, thím thuộc lòng hình dáng, chi
tiết trong thân thể và đặc tánh của mỗi con.
Chiều hôm ấy, thím lo lắng mà thấy con gà trống tơ màu bắp
chuối không về. Thím bền chí đứng đợi một hồi rất lâu, đến chạng vạng mới chịu
đóng cửa sau lại.
Thím tư uống nước xong, ra sân tằng hắng vài tiếng rồi người
ta nghe như là ai mở rađiô, thao thao bất tuyệt:
" Xóm trên, xóm dưới, xóm ngoài, xóm trong mở lỗ tai mà
nghe đây nè: gà của tao còn ràng ràng hồi trưa mà quân nào đã ăn tươi nuốt sống
rồi…
…Mẹ! giường thờ chiếu trải tiên nhơn cha bây, bây có thèm thịt
thèm cá thì nuôi lấy mà ăn chứ làm chi như vầy, ông bà ông vải bây ngồi trên
giường thờ sao cho yên nè!
…Mẹ! Cao tằng cố tổ tiên nhơn cha bây, cả kiếng họ mẹ bây,
ránmà ngoáy lỗ tai để nghe tao chửi…
…Quân tham lam bây ăn thịt gà mắc xương nghẹt họng bây, bây
ăn rồi bây ngã ra giãy tê tê rồi chết toi, chết dịch…
Vân…vân… và…vân…vân…
Mấy chị em ngạc nhiên hết sức mà nhận ra tự vựng chửi rủa của
ta rất giàu và âm nhạc chửi rất phong phú nhịp điệu.
Quả thế, thím tư chửi bằng giọng khi bổng khi trầm, khi bổng
thì như diều lên, khi trầm thì như tiếng xe lửa Biên Hòa mà họ nghe xa xa về
đêm. Thím chửi có nhịp có nhàng, có tiếng ngân dài, có tiếng dừng tức.
Sự can thiệp của chú tư mới ngộ nghĩnh hơn nữa:
- Thôi mà, rầy tai quá mà! Biểu nín cho nó mọc lông nó chết
cho rồi.
- Nó nào mà mọc lông? Thím tư hỏi.
- Thì quân ăn cắp gà chớ ai. Hễ mình không chửi thì chúng nó
ăn thịt gà xong là mọc lông lá cùng mình. Gặp trường hợp như vậy chúng nó sẽ
tìm đến lạy xin mình chửi giùm cho một tiếng, chỉ có một tiếng nhỏ thôi cho
lông nó rụng đi.
Cả mấy chị em đều cắm đầu chạy để giấu trận cười có thể mích
lòng người ta, chó trong xóm sủa theo mấy chị em inh ỏi.
Bốn chị em đều vỏn vẹn chỉ có một người bạn. Đó là người bạn
trai ở xóm trong tên là anh Xòn.
Xòn ở mướn cho một nhà trồng thuốc hút, anh ta tướng tá vạm vỡ,
mình mẩy tay chơn đầy những u nần. Đó là những bắp thịt nở theo hướng của lao lực
chớ không phải theo chiều của sự luyện tập có nghiên cứu.
Ban đầu, Hoa để ý đến Xòn trước nhứt. Hoa tinh nghịch nhứt
nhà và luôn luôn tìm thấy ngay mọi khía cạnh hài hước của bất kỳ việc gì.
Bốn chị em vào xóm chơi, người lớn xem các cô như thường. Trẻ
con thì chạy theo sau gót họ vì màu áo đẹp của họ và cũng vì kẹo mà thỉnh thoảng
họ mang theo phát cho chúng.
Anh Xòn khác thường hơn cả, núp sau gốc me mà dòm.
Hoa làm bộ như không thấy, đi lần lại chỗ núp rồi hú một tiếng,
cô chụp lấy đầu gian nhơn mà hô:
- Nó đây rồi! Nó đây rồi!
Thiên hạ nghe la, ngỡ anh Xòn đã ăn cắp gì đàng Thái Huyên
trang, bu tới hỏi thăm.Xòn tái xanh mặt, chối leo lẻo:
- Tôi không có, tôi oan mà!
- Anh không có gì? Hoa hỏi.
- Tôi không làm gì hết.
- Không có, sao tôi lại chụp anh?
Lý luận kỳ cục của Hoa thế mà làm cho Xòn đưới lý. Cả người
chung quanh cũng nghe là cô hỏi vặn hữu lý lắm.
Thấy mình không thể thoát, anh Xòn oà lên khóc như trẻ con.
- Thôi đi mầy, Hương mắng em, mày ác làm chi tội nghiệp người
ta.
Quá bước lại kéo tay anh thợ tưới thuốc mà rằng:
- Thôi tha anh lần nầy đó.
Xòn đột ngột cười khan, nước mắt nước mũi còn chàm ngoàm.
Cả xóm không ai hiểu sao cả, đoán rằng Xòn quả có gian thật.
Từ đó ngày nào họ cũng đi thăm anh Xòn, đi thường nhứt là cô
Hoa.
Hoa theo Xòn ra mấy đám thuốc xem anh ta kéo cần vọt. Vùng
đó, cánh đồng sau xóm ở xa trông mường tượng như một hải cảng chi chít cột buồm.
Cần vọt giống cột buồm mà chiếc buồm xếp xong, máng nghiêng trên đầu cột.
Xòn kéo nước giếng nhưng kéo xuống chớ không kéo lên. Cần vọt
là một hệ thống đòn bẩy mà điểm tựa là đầu cột, sức mạnh là sợi dây treo thùng
và đối lực là phiến đá treo ở sau đuôi đòn.
Sức mạnh trong cần vọt có được là nhờ sự trì sợi dây xuống
cho thùng múc nước. Công việc chỉ có thế, rồi người kéo cứ để cho phiến đá làm
công việc còn lại.
Hoa rắn mặt đeo vào phiến đá. Cỡ Xòn rán sức một chút là trì
dây xuống được ngay và Hoa sẽ bị dỡ hỏng lên trời. Chính nàng muốn được như thế
để nghe như là đi máy bay.
Nhưng Xòn không bao giờ dám cố sức mà trì cả, Hoa biểu thế
nào anh cũng chẳng nghe.
Hoa hỏi:
- Anh Xòn tại sao anh sợ tôi dữ vậy?
Xòn chỉ cười hì hì như bao giờ, anh ta không hề cắt nghĩa được
cái gì cả, phương chi cái đó lại là câu hỏi khó của một người con gái mà anh thấy
đẹp như tiên.
Hương thường mắng em:
- Mầy nhiễm Trống mái 1 rồi
hả? Con gái dầu sao cũng phải nết na một chút chớ!
Thật ra thì không phải vậy. Cô Hiền trong nước Việt Nam có lẽ
chỉ có một, hay không bao giờ có cả. Hoa thấy anh Xòn lù khù, theo phá chơi vậy
thôi, chưa bao giờ cô nghĩ đến cái đẹp về thân thể của Xòn.
Cái nghề con gái không chồng thì nó trẻ rất lâu và cũng trẻ
con rất lâu.
° ° °
Quá nhảy lên cỏ một cái thật lẹ, rồi day mặt ra đường sừng sộ
hét:
- Người ta đã nhảy lên lề rồi mà còn muốn cán người ta à?
Người tài xế như nghe lời phản đối ấy, cúi đầu chào bốn chị
em một cái, vừa chào vừa mỉm cười như nói:
- Biết rồi, các cô là gái Sài Gòn mà! Bảnh lắm mà, lỡ một
chút cũng làm dữ.
Thỉnh thoảng chiều chiều bốn chị em lại dắt nhau đi trên đường
nhựa, khi thì xuôi về hướng Thủ Đức, lúc lại ngược lên hướng Biên Hoà.
Trên đường xe qua lại ai cũng lấy làm kỳ, sao ở xó quê lại có
gái xem ra người tỉnh thành. Họ mặc bà ba thì tức là người trong xóm chớ nào phải
người Thủ Đức lên.
Họ đi dạo mát nhưng riêng Hoa, cô lại có mục đích thứ nhì nữa
là gặp Quờn con của hương cả Quan.
Quờn là một công tử nhà quê, hạng người mẫu.
Vì ở gần thành phố quá, mặc dầu thành phố ấy chỉ là một quận
lỵ, công tử Quờn lại mang thêm một cố tật dĩ nhiên là muốn thành người thành thị.
Thành không được, Quờn lai căn một cách dị hợm với những bộ
pi-da-ma màu hường, màu xanh lá cây mà cậu mặc mãi từ sáng đến tối, từ trong buồng
ra đến quận lỵ.
Nếu anh Xòn nhìn các cô Thái Huyên trang như một con trùng si
tình một ngôi sao trên trời thì công tử Quờn có thái độ của một con gà lôi trống
tò vè mấy con công mái trong sân nhà.
Từ ngày xóm tiếp nhận nữ khách mới thì cậu xức nước hoa chế tạo
ở chợ lớn và nhét mù xoa nhỏ có thêu chéo xanh xanh đỏ đỏ trên miệng túi
pi-da-ma.
Cậu diện thêm một cây đàn băng cầm, cứ chiều chiều xách nó ra
đường, không khảy vì chưa biết chơi nhưng cắt nghĩa lu bù về nhạc cụ ấy với đám
trẻ con bu quanh cậu.
Lần đầu chạm mặt, cô Hoa rắn mặt của chúng ta nghĩ ngay đến
việc biến công tử thành nạn nhơn của tánh nghịch ngợm của cô.
Anh Xòn là người cô mến nên cô đùa anh ta, cô cũng chỉ đùa hiền
hiền chơi vậy thôi. Đến như gã pi-da-ma hường này thì cô quyết không tha.
Trong cái lần đầu ấy, thấy Quờn liếc lén mấy chị em, Hoa tấn
công ngay:
- Chào cậu hai, đi dạo mát với mấy chị em tôi chơi, cậu.
Họ thấy nhau lâu rồi, nhưng mới trao lời đây là lần thứ nhứt.
Được nói chuyện với các cô có lẽ là cái mộng to thứ nhì trong
đời cậu Quờn (Cái mộng to thứ nhứt là được yêu một trong bốn cô) nhưng mộng ấy
không bao giờ Quờn dám biến nó thành sự thật. Nay cô Hoa nổ súng thình lình, cậu
chưa kịp chuẩn bị gì cả thì biết có thái độ và lời lẽ nào. Vả lại cậu xửng vửng
vì lời mời mọc này mà cậu nghe ngược ngạo quá.
Quờn đứng chết sững và ngậm câm, còn hai cô Hoa và Quá thì rũ
ra cười, cô Quá cười no rồi nói:
- Hay là cậu mặc áo hường rồi chê áo đen của chị em tôi mà
không muốn đi chăng?
Hương véo em rồi kéo cả bọn đi thẳng, qua khỏi đó một đỗi,
người chị cả nói:
- Mình tới xứ lạ không nên mích lòng người địa phương.
- Đáo xứ tùy dân, nếu có ba ở đây ba sẽ đọc câu chữ nho đó.
- Không nên mích lòng bất kỳ ai, huống chi người ta là QUAN
QUỜN chớ phải dân dã chi đâu. Quá lại tiếp lời răn của người chị cả…nhưng lại
chơi chữ ở đoạn sau.
Hồng nói:
- Làng Linh Chiểu này ngày xưa chắc có một vị hương chức hay
một ông cai tổng gì đó tên là Quyền.
- Sao chị biết?
- Nếu không, ông cả quan ổng đâu có kiêng cữ chữ Quyền mà đặt
tên cậu ấy trại ra là Quờn.
Bốn chị em đã đi gần tới nhà ông cả quan.
Mọi khi sau lần sượng trân lần đầu, Quờn bỏ chạy khi thoáng
thấy mấy chị em đàng xa. Lần này cậu ta bận gỡ chiếc gai dính vào dép Nhựt Bổn
mới mua nên không thấy bọn Thái Huyên trang đến.
Chừng nghe động, đay lại đã trễ quá rồi không cút kịp nữa.
Quờn mặc pi-da-ma bằng vải ú màu xanh lá cây, đầu chải
brillantine chợ lớn sực nức mùi chanh, cổ đeo dây chuyền vàng khè, tay nặng trĩu
nào lắc vàng, cà rá vàng và đồng hồ cũng bằng vàng.
Anh công tử vườn chào bốn cô theo lối kẻ dốt, nghĩa là hất
hàm lên như muốn hỏi:
- Ê, đi đâu đó?
Cô Hoa nói:
- Lạ quá, cậu hai! Cũng thời một nước một non mà chúng tôi
thì cúi đầu xuống để chào, còn cậu thì lại hất đầu lên. Không biết lối chào nào
trúng cách đó cậu?
Quờn không thấy là bị hỏi vặn, tự nhiên đáp:
- Dân chào quan, nữ chào nam thì cúi đầu là phải, còn ngoài
ra…
- Vậy chị em tôi phải cúi đầu đến hai lần vì cậu vừa là nam vừa
là quan, hay con quan cũng thế.
- Tía tôi đã từ chức rồi.
- Từ thì từ, cái gốc quan vẫn còn chớ.
Cậu Quớn sung sướng quá khi nghe cô gái còn nhận mình là con
…quan, mặc dầu cha cậu chỉ là quan trong xóm thôi.
- Độ rày cậu làm gì, cậu hai? Hoa lại hỏi.
- Cũng hổng cần làm gì. À, tôi có tự túc một bầy gà Huê Kỳ,
coi bộ tương lai quá khứ.
Cả bốn chị em đều ngạc nhiên, không hiểu cậu ta nói cái gì mà
lại tự túc gà và có tương lai quá khứ?
- Tự túc là gì cậu? Hương hỏi thật tình.
- Tự túc là nuôi chớ là gì.
- Vậy hả, còn tương lai quá khứ?
- Tương lai là tương lai còn quá khứ là quá sá, tiếng mới mà.
Tôi nghe họ nói hay quá nên tôi bắt chước dùng theo. Đời bây giờ họ bầy ra nhiều
tiếng mới hay lắm. Thí dụ phạm tội họ nói phạm vi, thù vặt họ nói cá nhân, nghe
hay quá khứ.
Hoa và Quá núp sau lưng hai chị mà cười đến chảy nước mắt. Cô
Quá, mặt mày còn đỏ rần bước ra khỏi chỗ núp nói:
- Hôm nay cậu mặc đồ xanh, trông đẹp trai quá khứ nhưng cậu lại
phạm vi về đôi dép. Dép phải quai đỏ nó mới ăn với màu xanh nầy. Tôi tình thiệt
nói ngay, cậu đừng có cá nhân tôi nhé.
- Tôi người quân tử mà, ai lại cá nhân cô.
Cả bọn Thái Huyên trang thấy trò đùa đã kéo dài quá rồi nên
chào cậu công tử để đi nữa.
- Hôm nào rảnh mời cậu lại nhà chơi, nếu cậu không cá nhân
thì cậu sẽ lại.
° ° °
Con gái xóm thuốc làng Linh Chiểu là những chị phụ nữ an phận.
Họ không dám muốn được như những cô Thái Hyên trang nên không cô nào đua đòi bắt
chước ăn mặc từ ngày các cô lên đây.
Họ cũng chẳng lân la để học ăn học nói, học những điệu bộ thị
thành. Đó là những người bằng lòng số mạng và không mơ một cuộc đời khác hơn là
cuộc đời họ thấy từ lúc lọt lòng.
Phụ nữ ở những làng khô cháy, nghèo khổ vẫn thế đấy. Họ cằn cỗi
cả ngoài mặt lẫn trong lòng và sống co lại trong gia đình, ít dám giao thiệp.
Thành thử bốn cô Thái Huyên trang không thể có bạn gái được.
Các cô tìm đến họ, họ vẫn vui vẻ đón tiếp các cô nhưng rồi thôi, cảm tình của họ
đối với các cô không dài hơn cuộc gặp gỡ ngoài mương thuốc, trên bờ tre.
Cảnh đồng khô cỏ cháy nầy lại bị tiết cuối mùa nực cộng với
lòng người hàng xóm thờ ơ làm cho nó trở nên buồn một cách tuyệt vọng.
Trò vui độc nhứt của các cô là xem lũ kên kên vào lúc chạng vạng.
Thỉnh thoảng trong làng có một con trâu chết và chủ nó len
lén vứt xác nó ra đồng. Kên kên đáp xuống xơi thịt thúi ấy rồi say mồi, không
buồn bay lên nữa.
Vài anh dân làng rắn mặt đợi quá chiều, lấy nùi giẻ cột vào
chơn của mấy chú ăn thây ma nầy, rồi tẩm dầu hôi mấy nùi giẻ ấy. Xong đâu đấy họ
đánh diêm lên mà đốt giẻ.
Kên kên bị lửa đốt kinh hoảng bay cuồng loạn, mang theo mỗi
chú một cục lửa đỏ lòm trong bầu trời đen của đêm vừa xuống.
° ° °
Dân làng Linh Chiểu cứ lặng lẽ làm nghề thuốc, xe hơi cứ lướt
qua trên đường Thiên lý mà không bao giờ ghé lại và bốn cô gái Thái Huyên trang
cứ lặng lẽ đợi chờ một việc gì nó không bao giờ xảy ra cả.
Hôm ấy là chúa nhựt thứ ba từ ngày dọn nhà lên đây.
Cũng như hai chúa nhựt trước, Hương, Hồng, Hoa, Quá nhìn mãi
đám xe đạp, xe gắnmáy, xe xi-cut-tơ của những thanh niên thiếu nữ trốn thị
thành đi tìm mát , lũ lượt nối đuôi nhau qua trước nhà. Họ như mang theo hương
vị Sài Gòn mà các cô vẫn nhớ chưa nguôi. Tuổi trẻ lại gợi nhớ tình yêu mà các
cô thấy mình đang thiếu thốn. Nhìn xe, các cô bồn chồn mong ngóng một người, một
người có thể đưa đến vài tia nắng ấm trong cảnh lạnh lẽo này, người đó là Bằng.
Sao đã ba tuần rồi mà không thấy Bằng lên chơi? Thì ra, người
ta quên kẻ đi vắng mau lẹ quá. Nếu kẻ ấy qua thế giới bên kia, không mong trở lại
nữa thì người ta sẽ quên họ chóng đến bực nào?
Bốn cô tủi thân quá, nghe như mình bị cả thế gian bỏ quên. Thế
gian cứ vui chơi, thương yêu không biết rằng nơi một xó quê kia có những người
còn trẻ, còn ham vui đang vào tuổi thương yêu bỗng vì gia thế phải lùi về ở ẩn
như một công chức mãn kỳ phục vụ và không biết bao giờ ra khỏi chốn nầy.
Bằng đi mô-bi-let nên hễ mỗi lần nghe tiếng động cơ nhỏ nào nổ
là bốn cô ngóng cổ lên mà dòm ra đường.
Họ mừng hụt đến sáu lần và có một bận họ suýt chạy ra cửa ngõ
vì người cưỡi mô-bi-let ấy sao mà giống Bằng quá.
- Hay là anh Bằng tìm nhà không được, rồi chạy luôn lên Biên
Hoà hoặc lên Lồ Ồ, Châu Thới. Cô Quá đặt nghi vấn như vậy
- Ừ, Hoa họa theo, có thể lắm.
- Không đâu, cái anh đó thì xó nào ảnh tìm cũng ra hết, Hương
cãi thế vì cô bình tĩnh được hơn ba em của cô. Chắc ảnh bận việc gì.
- Anh đó mà bận việc gì! Ảnh bận với các cô em của ảnh. Nhưng
nếu thế ảnh lại phải đưa họ đi ra đồng ngày chúa nhựt, mà đi đâu cho hơn lên
đây?
Bỗng Hoa kêu rú lên rồi nhảy xuống đất một cái đụi, bỏ chơn
không mà chạy ra sân.
Họ mải bàn cãi mà quên để ý lắng nghe tiếng xe, quên dòm
khách ra đồng quê ngày chúa nhựt nên Bằng lên tới cửa mà chỉ có một cô thấy
thôi.
Ba cô kia cũng chạy theo cô Hoa, kêu la như em nhỏ.
- Anh Bằng lên ê, anh Bằng lên!
- Hoan hô anh Bằng!
- Đả đảo anh Bằng lên trễ!
Bằng đẩy xe vào sân và ứng khẩu hai câu thơ lục bát:
Nghìn trùng Thiên lý bên đường
Thái Huyên trang ấy dễ thương quá trời
- Hay!
- Để em chép.
- Đọc tiếp đi anh.
- Muốn có thơ ra thì phải có rượu vào. Có nước dừa không?
- Nhà không có trồng dừa nhưng chị Hồng có mua trữ sẵn buổi
đi chợ hôm qua.
- Vậy có nước dừa vào, thơ mới ra tiếp được.
Quá giựt xe người anh rồi thót lên cho chạy vòng vòng trong
sân , len lỏi qua mấy cây bưởi, mấy cây vú sữa mới đặt xuống đất vài tuần.
Con trích đang đi thơ thẩn thấy khách lạ, làm thinh chạy bay
tới mổ vào ống quyển khách. Bằng không để ý dưới chơn, bị mổ đau la oái oái rồi
nhảy tréo một bên. Ba chị em cười ngất. Bằng phản đối:
- Sao không để bảng " Attention trich méchant"
ngoài cửa.
Ba chị em lại cười lấy làm ngộ nghĩnh vì ý nghĩ của họ hôm
trước, nay được Bằng lập lại y hệt.
Bằng vào nhà chào dì dượng rồi thoát ra ngoài ngay để xem cảnh
nhà. Cả bốn chị em đều theo chàng như một đoàn hộ tống đắc lực.
Thấy cảnh khô cháy, không có lấy một bóng cây nhỏ cho con mắt
nghỉ ngơi, người con trai đi tìm mát nầy hơi thất vọng than rằng:
- Còn lâu lắm ở đây mới được. Hiện giờ chỉ có đá banh hoặc rượt
bắt nhau mới hợp. À, còn trái cây đâu các cô?
- Khách chỉ có một người thì trái cây mua ở chợ ăn cũng đủ no
nê rồi, cần gì trái vườn.
Hoa biết Bằng hỏi mỉa mấy chị em, ám chỉ lời hứa đãi trái cây
của các cô hôm tháng trước nên đáp thế. Lối đáp của cô lại sẽ giúp cô biết được
vì sao Bằng chỉ đi chơi có một mình thôi, trái với thói quen của anh ta là hay
tùng tam tụ ngũ.
Quả thế, Bằng cắt nghĩa:
- Cũng may là hai thằng ấy gãy giò hết, không thôi phải trơ mặt
ra mà ngó bọn đó. Chúng tôi đi ba mạng, qua khỏi cầu Băng Ky xuống dốc, lại đường
quanh mà thằng Kỳ với lại thằng Hưng nó cho chạy thả máy. Chúng nó văng vô một
cái trại cưa ở giữa dốc, chắc phải hai tháng nhà thương mới lành xương được.
Tôi gởi chúng nó theo xe quen về nhà thương Bà Chiểu rồi lên đây một mình. Bị vậy
mà tới hơi trễ.
Hai cô gái nhỏ thất vọng ngay khi thấy Bằng đến một mình. Giờ
nghe Bằng kể câu chuyện tai nạn xe, họ càng tủi thân thêm.
Lùi về xó quên này, họ chỉ mong có khách đến chơi, bất kỳ ai
để không khí đỡ phẳng lỳ. Nhưng mỗi một lần khách đến, họ lại bị gãy cẳng dọc
đường.
- Sài Gòn có gì lạ, anh? Quá hỏi.
- Thì cũng đại nhạc hội, đại siêu phẩm xanh xanh đỏ đỏ chớ có
gì đâu. Còn ở đây có lạ hơn không?
- Có cậu hai Quờn mặc bi-da-ma hường, ôm đờn băng cầm suốt
ngày và có anh Xòn lần nào thấy em là cố chui trốn bất kỳ ở kẽ rào nào.
- Thành ra không ở đâu có gì giựt gân cả. Thế này thì còn biết
chạy đi đâu cho đỡ buồn nè?
- Anh buồn lắm hả? Anh bạn gái nhiều lắm mà.
- Bạn gái chán bỏ mẹ, mà bạn trai lại càng chán hơn.
Đó là luận điệu của kẻ giàu sang đâm chán tiền bạc. Riêng các
cô, các cô thấy bạn gái rất dễ thương, mà bạn trai lại càng thích hơn.
Cô Hồng bỗng nhớ sực ra rằng mình chưa kéo nước tưới cây nên
hốt hoảng nói: "ý chết!" rồi bỏ chạy mất.
Cô Hương cũng đứng lên nói là đi lo cơm nước.
Bằng và hai cô còn lại thấy hơi buồn nên đi lần ra giếng là
nơi họ thấy Hồng xách thùng tới đó.
Bằng hỏi:
- Các cô làm lụng túi bụi như vầy sao còn kêu buồn?
- Ấy, nhờ có công việc suốt ngày nên chỉ buồn vừa thôi. Nếu bị
ở không, chắc tụi em trốn mà trở về dưới hết.
- Sao hồi ở dưới, cũng ở không mà không buồn?
- Dưới ấy ồn quá còn buồn sao được. Cảnh vật chung quanh ta
thật là ảnh hưởng mạnh đến tâm trí ta anh à. Ở đây dầu mỗi ngày mỗi có án mạng,
mỗi đêm mỗi có xi-nê cũng vẫn buồn như thường.
- Lạ quá!
- Lạ gì mà lạ. Chính anh, anh cũng kêu buồn kia mà.
- Tôi thì khác, tôi buồn vì tôi sầu tình.
Quá cười dòn như nhạc ngựa.
- Còn em, em buồn vì không có tình để mà sầu.
Quá nói nửa đùa nửa thật nhưng nếu ai biết tâm sự của mấy chị
em của cô thì đó là một thú nhận chua chát.
Bằng cũng cười rồi kết luận:
- Thành ra mối sầu của tôi là niềm vui…
- Không phải vậy. Nhưng thà là sầu như chị Hồng chứ còn trống
không như chị Hương thì chết được chớ không phải chơi đâu.
- Nhưng sao tôi thấy cô Hương rất bình thản. Chỉ có hai cô là
kêu buồn liền miệng.
- Bình thản à? Có lẽ buồn quá hóa chai chăng? Còn em kêu là
kêu giùm chị ấy,không biết chị Hoa thì kêu dùm ai.
- Tao kêu dùm mầy đó, con bé nhiều chuyện.
Bằng lên chơi không mang theo gì mới lạ cả. Nhưng chiều lại
anh ra về, cả nhà buồn hiu. Cả đến thức ăn trong trã tiên liệu cho ba bốn người
khách ăn bữa cơm trưa, cũng buồn vì chỉ được có mỗi một ông khách rờ đến.
Sáu người tiễn Bằng một đỗi xa trên đường nhựa rồi bốn cô gái
nhìn mãi theo chiếc mô-bi-let nó đem người anh họ của các cô về một nơi mà các
cô nhớ đến nỗi héo hon gan ruột.
--------------------------------
Tiểu thuyết của Khái Hưng. |
Ánh trăng tráng ngà.
Có cây da to.
Có thằng Cuội già.
Ôm một mối mơ.
Gần hai mươi đứa trẻ vừa trai vừa gái, đứa nào cũng rất hôi
mùi mồ hôi muối và khét nắng, rập nhau mà hát giữa sân bài hát do bốn cô Thái -
huyên - trang dạy chúng từ một tuần lễ nay.
Vì bà thầy nhạc cũng không giỏi lắm, nên chúng hát sai bét.
Tuy thế mẹ chúng và chị chúng, đang ngồi với các cô tại thềm nhà cũng thấy làm
hay vô cùng.
Phụ nữ ở đây nghèo khổ quá, bận tay bận chơn suốt ngày nên
không hề vui chơi việc gì cả. Ngồi lê đôi- mách là tật cổ truyền của đờn bà mà
họ cũng từ bỏ được thì biết đời họ khô - khan đến bực nào.
Bốn chị em thương- lượng với các người nghèo nhứt xóm để họ
cho con em đến học chữ với các cô một tuần năm buổi, trừ thứ bảy và chủ nhựt.
Thật ra làm việc đó, các cô chỉ vụ- lợi thôi, để cho công việc
chiếm hết thì giờ cho khỏi buồn ấy mà! Chớ các cô không có lý tưởng gì ráo,
không có một băn khoăn xã hội nào cả.
Nhưng dạy được mười hai đứa khá thông minh các cô lần lần thấy
thú- vị thật tình trong việc phá ngu mười hai bộ óc, chớ không phải vừa dạy, vừa
nghĩ vơ vẩn đâu đâu như những hôm đầu nữa.
Thứ nhứt là biến đổi những đứa con gái đầu bù và ăn nói thô
-lỗ ra những em bé gái biết chải gỡ vén khéo và thuộc một nhúm lễ phép sơ - đẳng.
Thỉnh thoảng các cô nài nỉ một số đờn bà và con gái lớn đến
nhà chơi vào những đêm trăng như đêm nay cùng chỉ cốt đỡ buồn. Cái trò hợp ca
là để quyến -rủ họ đến cho thường và cho đông.
Ánh trăng sáng ngà thật. Trời trong và sâu thăm thẳm khiến cảnh
ở đây lại càng trống - trải trơ - trọi thêm. Nếu trăng núp sau tàu dừa, hoặc rớt
dưới sông rồi tan vỡ ra từng mảnh thì còn ngắm được, còn thưởng - thức được vẻ
thơ - mộng của nó. Đằng nầy đến không có lấy một sợi mây mỏng vắt ngang qua cái
mặt tròn vo kia thì trông bầu trời và cảnh đất trơ -trẽn đến bực nào.
Cuội ơi, ta nói cho cuội nghe.
Ở trên cung trăng mãi làm chi.
. . . . . . . . . . . .
Có con dế mèn.
Suốt đêm canh thâu.
Hát xẩm không tiền.
Nên nghèo xác - xơ.
Thím hai Nếp ngẫm - nghĩ nói to:
- Ngày xưa hồi còn nhỏ dại, chúng tôi đêm trăng thi chơi nhảy
chán chậu, chơi u bắt mọi, vui lắm. Không hiểu sao từ hơn hai mươi năm nay, trẻ
con không chơi các trò chơi ấy nữa. Thành ra tối tối trong xóm buồn hết sức.
- Trò chơi nào lâu đời quá cũng dể chán, cho nên...
- . . . Cho nên trẻ con nó bỏ? Hoa nói hớt câu nói của người
chị cả của cô. Nhưng nàng tiếp: bỏ cái nầy, phải tìm cái khác thay vào chớ.
- Thì mày giỏi tìm đi. Trẻ con nó đang buồn đó, không riêng
gì trẻ con ở đây, mà cả khắp nước kìa.
- Thách hả ? Được, em sẽ tìm, và sẽ tìm ra.
Cô Hoa quả quyết điều đó rồi bỗng thấy cái rỗng không của những
ngày quê của cô hết đáng sợ nữa. Cô thoáng thấy sẽ có một cái gì để đeo đuổi
theo.
Ba cô khác thì chưa gặp may mắn đó.
° ° °
Sau ba bốn ngày nóng bức, gió nồm thổi dữ. Trái sao trái dầu
có cánh ở đâu bay tới như mưa, quay tròn như con vụ trên không trung rồi rơi xuống
đầy sân.
Không khí buồn tẻ ở Thái - huyên- trang nhờ thế, đỡ lạt phần
nào.
Chiều chiều bốn cô con gái đợi gió. Hễ gió nỗi lên là họ vui
như các thứ quả có cánh ấy là những bức tâm - thơ của người xứ xa gởi đến.
Trái sao, trái dầu bay đẹp mà rơi cũng đẹp. Nhưng trái trác
bay trông lại buồn cười. Cánh của thứ trái ấy không chia ra hai nhánh, hoặc bốn
nhánh mà lại bao quanh tròn cả trái. Trái trác, nếu gió to thì bay cuồng loạn lộn
nhào, còn nếu gió nhẹ, thì bay như dĩa bay mà các cô thấy trong chiếu bóng.
Thú nhứt là rượt bông lồng mức. Bên kia đường , một cây lồng
mức già trụi lá đứng đó bồi thêm vài vệt buồn vào cảnh khô hạn ở Xóm Thuốc nầy.
Trái lồng mức tròn mà dài như trái đậu bắp. Chiều chiều, vỏ cứng
như vỏ sô của trái ấy nổ tách ra làm hai rồi thả ra muôn ngàn cái bông trắng,
bay như tuyết đổ.
Bông gồm một hột vàng nhỏ như hột lúa, trên đầu hột lòng trắng,
mọc tua tủa ra, lông mịn như tơ, mà cong như lông mi, dùng làm cánh dưa hột
vàng về những nơi xa lạ.
Nhiều bông quá nặng, cánh chở không nổi, sa xuống trên sàn,
nhưng vẫn bay là là ngang đầu người chớ không chịu rơi xuống đất.
Các cô rượt bắt mớ bông ấy, ai bắt được một chiếc thì sung sướng
vô cùng. Chỉ vò mớ lông trắng mịn giữa hai ngón tay cũng đủ vui vẻ một buổi chiều
trống rỗng.
Cái thú thứ nhì là xem trẻ trong xóm giành nhau mà lượm xoài
non, trái nhỏ bằng ngón tay cái: Ở nhà quê ít bánh hàng nên thứ gì trẻ nhỏ cũng
thích ăn: me non, dái mít, xoài non, và những trận lượm xoài thì hào hứng như
cuộc tranh sống thật sự.
Người gia - trưởng Thái - huyên - trang thấy con vui thì mừng,
nhưng không vui được với con.
Trong bữa cơm chiều nào ông cũng nói:
- Cảnh ở dây khác dưới mình nhiều quá. Mỗi mùa có màun sắc,
có mùi vị riêng của nó. Nhưng màu sắc , mùi vị nầy không giống màu sắc mùi vị ở
quê ta. Nhớ nhà quá đi thôi.
Ông Nam Thành dùng tiếng mình, 1 nhưng
ông quên rằng chỉ có ông là nhớ nhà. Con ông lớn lên ở Saigon, nếu có nhớ thì
nhớ đô - thành.
Nếu chúng không bận bịu với đô - thành vì ở đó thiếu cảnh đẹp
thì chúng vui với cảnh ở đây là hợp lý, không thể kéo chúng vào phe nhớ quê hậu
- giang được.
° ° °
Cả nhà nghe như có một cái nắp đậy lên đầu họ trong những
ngày đầu mùa. Nắp ấy ban đầu vô hình, sau rồi hiện ra thành một tốp mây đen.
Những trận mưa đầu mùa ồ ạt như bão tố, đã đánh vỡ được cái nắp
kia, khiến họ nghe giải thoát.
Cô Hồng nghe nhẹ người hơn ai cả vì khổ dịch kéo nước tưới
cây khỏi phải làm nữa.
Ông Nam Thành thì bận túi bụi sửa lại chuồng heo, chuồng gà dựng
sơ sịa hôm còn nắng.
Hai cô con gái sau thì lo ngại nhiệm - vụ của hai cô từ đây
biến thành khổ - dịch; nuôi heo, nuôi gà trong mùa mưa là một công việc cực nhọc:
cho heo ăn phải bị ướt át, gà lăn ra chết toi vào lúc đầu mùa mưa nầy thì nội
cái việc đào lỗ chôn xác để tránh sự truyền nhiểm cũng đủ hụt hơi rồi.
Trời mưa liên tiếp mỗi ngày cho đến suốt tuần lễ mà chưa
thôi, làm như là nước đọng cả nửa năm nhiều quá, bây giờ đổ xuống được là nó cứ
đổ tràn trề.
Thôi, từ giã rượt bông lồng, từ giã đi thăm anh Xòn, thăm cậu
hai Quờn, và đi dạo mỗi chiều trên đường nhựa.
Bốn chị em ngồi đó mà nhìn mưa xa chạy về như ai kéo màn trắng
đến. Mưa trắng xóa, xóa mờ cả chơn trời, cả cánh đồng trống trước nhà, cả những
đoàn xe hơi cứ nối đuôi nhau mà chạy.
° ° °
Mùa mưa buồn nhưng lại giúp bốn chị em tìm được thêm bạn mới.
Chiều hôm ấy cô Hồng mắc mưa ở xóm trên. Không muốn làm rộn
ai, cô chạy vào lò rèn của thợ Hổ là nơi gần như là công cộng: người đi lỡ đường
ghé lại đó nghỉ chơn, những ông già rỗi rãi trong xóm, đến đó để đánh cờ tướng,
trẻ nhỏ bán quà vặt cũng hay lân la nơi đó để tìm khách hàng.
Cô Hồng chạy vào tới lò thì giọt tranh đã to bằng ngón tay út
rồi. Để tránh tạt, cô vào đứng giữa lò, gần bếp lửa.
Ông thợ Hổ không thể dừng tay vì sắt đang đỏ, vừa tiếp tục đập
vừa nói:
- Coi vậy mà không sao, cô ba cứ đứng yên đó.
Nhưng những đóm lửa bay tua tủa ra khiến Hồng sợ hãi nhảy lui
ra ngoài, bị tạt ướt cả ống quần.
- Hay là cô lên ghế ống thụt mà ngồi, ông tư Hổ đề nghị.
Sau bếp lửa đứng lên hai ống bễ to tướng. Một thằng bé con ngồi
trên một con ngựa cao đặt sau đó, thụt mãi không thôi.
Ông bễ thở khò khè như mệt hổn hển, mỗi lần nó thở ra một cái
là than trong bếp lại đỏ tươi lên.
Mừng được nơi ngồi yên chỗ, Hồng chạy ra sau bếp rồi trèo lên
ngựa mà ngồi chung với thằng bé. Mặt ngựa khá dài để hai người ngồi mà người nầy
không ngăn trở công việc làm của người kia.
Bây giờ thoát khỏi lửa. Hồng sung sướng mà nhìn nó, nhận thấy
nó đẹp lắm! Thằng bé mỏi tay lơi thụt, than lu mờ, tư Hổ nạt nó, nó vội thụt
lia lịa, than hồng lên, xem trong trẻo lạ. Những thanh sắt đã nướng, đỏ lần lần
như lửa đã rửa được cái đen đúa dơ dáy của nó. Đẹp nhứt cố nhiên là mưa lửa bắn
ra mỗi lần búa nện xuống đe. Giò ông tư Hổ bộ bằng sắt sao ấy, mà lửa văng vào
đó tới tấp, ông vẫn đứng yên mà đập sắt.
Ở đây có cái mùi ngồ ngộ như mùi hơi đất xông lên sau trận
mưa đầu mùa. Đó là mùi sắt đỏ trui trong nước lạnh, nghe khen khét một cách thật
dễ chịu.
Ấm lạ! Mặc dầu gió vào tứ phía, bụi mưa bay khắp nhà, Hồng
cũng nghe thấy ấm, nhứt là ấm trong lòng cô, giữa sự xúm xít nầy, ông chủ lò
rèn, hai ông lão đánh cờ, ba nông dân trai tráng, và hai đứa con gái bán bánh
ít trần, bánh cam.
Bỗng trời chớp một cái rồi tiếp liền theo một tiếng sét nổ
long trời.
Thằng bé thụt ống lửa, giựt mình ngừng tay lại. Ông tư Hổ
không mắng nó như mấy lần trước, mà trái lại chính ông cũng thôi đập.
Ông gỡ kiếng ra, ngó ra cánh đồng trước nhà rồi nói:
- Có quỉ núp đâu gần đây...
Hai ông lão đánh cờ cũng vừa xong một ván, ngửng mặt lên và một
ông bắt chuyện.
- Nói quỉ, tôi mới nhớ lại một lần đi ghe. Ghe chúng tôi mắc
mưa từ lúc mới chun vào kinh tắt để băng qua sông Saigon. Khi tới Vàm Nông sắp
đặt đổ ra sông lớn thì...
Rồi mỗi người có mặt ở đó, người nào cũng sẵn một câu chuyện
yêu, tinh, ma, quỉ, một câu chuyện lưỡi tầm sét để mà kể lại.
Ông tư Hổ kể chuyện linh động hơn hết, có cả đối thoại của
nhân vật trong truyện mà ông nhái giọng nghe rất là sống.
Ông lại nhớ cả chuyện xưa tích cũ trong làng, chuyện dắp con
đường Thiên lý trước nhà và lịch sử phát triển của chợ Thủ Đức.
Trời bớt hột lần lần, khách lần lượt rút đi.
- Thôi, thụt mầy!
Tư Hổ vừa đeo kiếng trở vào, vừa ra lịnh cho thằng bé tiếp việc.
Nhưng Hồng đã giành lấy hai cây thụt, ngồi xích vào giữa rồi ra tay thử.
Lạ quá, thằng bé còn nhỏ thế, mà nó thụt coi nhẹ hều, còn cô,
sao cô ráng hết sức mà nhấn không nổi.
Ống bễ dưới tay cô giống như người nghẹt mũi, ống nầy kêu một
cái khè khó khăn mệt nhọc, thì ống kia còn hịt hịt như bị bít hơi.
Cô gái Thái Huyên trang cười ngất rồi giao cây thụt lại cho
thằng bé nó cũng đang bành miệng ra mà cười. Cô từ giả ông Tư, ra về dưới mưa
thưa, đinh ninh sẽ trở lại đó lúc nào trời chuyển mưa. Ông tư là cái kho tàng
trử tích hay chuyện lạ, không tới lui với ông, lấy gì giải trí trong mùa nầy?
Từ đó, xế trưa nào, không chị thì em, các cô Thái Huyên trang
đều có mặt ở lò rèn để hưởng một buổi đụt mưa ấm cúng.
Cuộc đời phẳng lặng của mấy chị em thêm được những buổi vui
ngắn ngủi và phù du như đốm lửa ở mặt đe văng ra, bừng cháy trông rất xôm, mà
chết đi cũng mau lẹ vô cùng.
Như vào mùa đông ở các xứ miền Bắc, ở xứ ta người trong gia
đình xúm xít lại gần nhau trong mùa mưa.
Nhứt là vào những buổi đầu hôm, dưới ngọn đèn un khói, họ
quây quần quanh người gia trưởng để bàn chuyện tương lai, để nhắc kỷ niệm cũ, để
nghe kể chuyện đời xửa đời xưa.
Hồn muôn thế hệ qua như phảng phất hiện về đây đó, rồi truyền
thống của gia đình, của dân tộc được hồn ma xưa bí mật thổi nó vào tâm hồn người
đời nay đang có mặt bên đèn.
Ngoài kia, mưa rơi trên tàu chuối, mưa tạt vào phên tre, mưa
rao điệu ai cho ãnh ương hòa tấu bản nhạc buồn...
Bà Nam Thành nhìn từng đứa con của bà rồi thoáng ái ngại nhận
thấy rằng ở đây không phải chỗ của chúng nó. Chỗ của chúng phải vui tươi trẻ
trung, sinh động hơn cái không khí ủ rủ nầy.
- Ông à, tôi có chuyện muốn bàn với ông.
- Ừ, thì cứ nói đi.
- Lên gác hãy nói.
- Như vậy gọi tôi bây giờ làm gì.
- Để ông lên gác.
- Bà buồn ngủ mà sợ ma không dám lên một mình thì cứ thú thật
để tôi đưa lên, đừng có kiếm chuyện.
Bà Nam Thành cười hơi rung rinh cái nây. Bà cố cười cái cười
thú tội, làm bộ như mặc nhận lời đoán của chồng là đúng, hầu lên gác tự nhiên
cho khỏi băn khoăn về câu chuyện mà bà muốn giữ kín.
Bà nhả trầu, súc miệng, doạn pha trò với mỗi đứa con một câu
rồi mới theo ông mà lên lầu.
- Chuyện gì mà bí mật dữ vậy, ông Nam Thành hỏi một khi lên đến
nơi.
- Bữa nay yên xong mọi việc tôi mới rảnh trí để nhớ lại chuyện
nhà...
Bà nín một lát lâu, dường như không biết bắt đầu nơi đâu câu
chuyện của bà. Rồi dột ngột, bà hỏi chồng:
- Ông có bao giờ nghĩ đến việc chồng con của con hay không?;
Ông Nam Thành ngạc nhiên quá, ông đã đoán nhiều chuyện mà bà
Nam Thành sắp nói, trừ chuyện nầy. Giây lâu ông mới đáp:
- Không, à ...ơ... nghĩa là có...mà ít khi lắm.Mấy năm trước
bận buôn bán, rồi bận lo nghĩ về túng thiếu, bây giờ thì say thú làm vườn. Sao,
có gì lạ ?
- Không có gì lạ tôi mới lo. Ông thử tưởng tượng thử coi làm
sao con mình lấy chồng được.
- Thì sớm muộn gì cũng có người đến hỏi chúng nó chớ.
- Nếu mình còn ở Saigon thì như vậy. Nhưng lại đây là khác rồi.
- Khác làm sao?
- Muốn gã lấy chồng, phải giao thiệp. Các mối giao thiệp ấy lại
phải lâu ngay chầy tháng. Mình rời quê, mất cả quen lớn ở dưới. Lên Saigon , vì
là thành phố lớn lại vì mình chưa vững. Vì vậy con Hương phải chịu lỡ thời. Nó
rủi là phải rời quê giữa lúc đương thi, rồi sống trong chỗ thờ ơ cho đến ngày
nay nên đã hăm tám rồi mà còn cô độc một thân.
- Cũng tội nghiệp cho con Hương thật đó. Nhưng ba đứa sau thì
khỏi lo. Rồi giao thiệp ở đây.
- Ông nói niếc sao chớ! Giao thiệp ở đây? Ông định gả con ông
cho ai?
- Thì gả cho con nhà nào đồng địa vị với mình.
- Thí dụ ông cụ Hương cả Quan? Xứng hay không?
- Ừ, thí dụ ông ấy. Xứng sui gia lắm.
- Nhưng liệu con mình chịu ưng cậu công tử nhà quê ấy hay
không?
- Sao lại không. Nó cũng khá trai, lại có học đến lớp nhứt,
và là con một của một nhà giàu có nữa, thì tại sao con mình lại không ưng nó?
- Ông lầm. Tôi thấy giai cấp nào lấy giai cấp nào cũng có thể
tốt đôi cả. Thí dụ con ông chủ hãng cưới con gái bác thợ trong xưởng của cha
anh ta. Mà đến con gái ông đốc tơ ưng thầy phạm nhe cũng đã xảy ra rồi mà họ đều
ăn ở hòa thuận với nhau được. Nói giai cấp nầy, không thể lấy giai cấp kia, là
xúi dại người ta.
Nhưng có hai giai cấp không thể lấy nhau được mà không ai ngờ:
giai cấp chợ và giai cấp quê.
- Chợ và quê là giai cấp à?
- Không đúng lắm. Nhưng tôi nói như vậy cho dễ phân biệt.
- Hừ, tại sao có chuyện lạ như vậy? Ông huyện Bỉ không cưới
con gái hương sư Sen đó à? Ngày xưa người ta chỉ cưới gái quê thôi, còn gái chợ
thì a ... lê...
- Phải, ngày xưa thì như vậy. Ông Huyện Bỉ cũng là người ngày
xưa. Bây giờ ông ta đã Đốc phủ rồi kia mà. Ngày xưa không có đời sống đô thị,
người ở chợ chẳng khác người ở đồng áng bao nhiêu. Nay thì khác. Tôi đã nghe từ
lâu chúng
nó nói chuyện nhiều lắm rồi về vấn đề chợ và quê đó.
Vả lại ông chỉ nêu ra thí dụ một chiều thôi: trai chợ cưới
gái quê, mà không chỉ được gái chợ nào lại ưng trai quê. Gái quê khác trai quê
nhiều, như xưa khác nay.
Con gái không có đời sống bên ngoài, ở nhà mà lo nội trợ thì
quê hay chợ cũng như nhau. Ông nghĩ thử một anh chồng con Hoa hay con Quá mà mặc
bi da ma hường đi ngoài đường, không biết nghiêng mình thi lễ thì coi được hay
không?
Ông Nam Thành nín lặng, trầm ngâm rất lâu. Những điều vợ ông
vừa nói ra, thật chưa bao giờ ông nghĩ đến. Lý lẽ mới lạ của bà, ông nghe lại
đúng, thế mới chết. Định bụng là vợ ông sắp kết luận để buộc ông cái tội đày
con về quê, ông đùa cho khỏ lấp:
- Thành ra có con gái đến tuổi lấy chồng, không nên lui đi vườn.
- Lui thì lui, nhưng phải để chúng nó ở lại thành phố.
- Để chúng nó một mình vậy nè.
- Có mẹ chúng nó lo.
- Ha ... ha... Té ra bà muốn về dưới. Nhớ tay bài rồi hả?
Bà Nam Thành cũng được, nhưng bà lại lập nghiêm mà rằng:
- Tôi nói là nói thật chớ không phải giỡn đâu. Cũng chẳng nhớ
tay bài hay hụi h gì hết. Tôi thề theo ông trọn đời, ông đâu tôi đó. Nhưng bài
toán gả con nan giải kia, ông nên liệu , kẻo tội nghiệp con.
Ông Nam Thành thở dài mà làm thinh.
--------------------------------
Tiếng địa phương miền Nam , mình có nghĩa là chúng ta. |
Ệch... ệch... ệch
- Đó, thằng cha đút đầu vô lu mà la đó! Quá nói dứt câu thì cả
nhà cười rộ lên.
Gốc me sau nhà có cái lỗ hẻ. Một con ãnh ương, không biết vì
sao lại bỏ ao vũng chui vào đó mà ở. Nó ở đó ko biết được mấy năm rồi mà bây giờ
cây lớn thêm một chút, lỗ hẻ khép lại hẹp miệng hơn năm xưa, thành thử nó ra
không được nữa.
Tối tối, sau một trận mưa, nó kêu lẻ loi, giọng ồ ề như một
người đút đầu vào cái thùng hay cái lu, quả như lời cô Quá nói.
Ãnh ương sống lẻ, kêu nghe buồn thảm như tuyệt vọng trước bản
hợp ca của đồng loại nó ở ngoài ao xa kia.
Ệch... ệch... ệch... Con vật ở tù, cứ kêu đều đều như vậy.
Cô Hồng lấy hai tiếng kêu của lũ ãnh ương xa mà làm lời để
hát theo điệu Hòn vọng phu:
UỀNH OANG UỀNH OANG, UẾNH... UÊNH OÀNG...
- Thôi mầy, buồn quá rồi, mầy còn hát điệu đó làm chi?
Trận mưa đầu hôm ngớt đã lâu, nhưng không dứt hẳn. Đám mưa dầm
nầy nghe chừng sẽ dai dẳng suốt đêm.
Trên đường, xe thưa như trên một thôn lộ. Cả nhà nhìn qua khe
trỉ long mốt tìm những tia đèn pha hiếm hoi đêm nay, vì hiếm hoi nên họ nghe
nhơ nhớ cái ánh sáng mà những ngày khác họ xem là thường.
Bỗng một ngọn đèn rọi chĩa thẳng vào nhà. Bấy giờ họ mới để ý
rằng tiếng xe chạy mau lắm. Rồi thình lình nghe đánh rầm một tiếng như có mấy
mươi chiếc thùng không đổ ngã một lượt.
Lưỡi kiếm đèn pha đang thọc qua khe vách bỗng quật lên trời,
rồi thôi, không còn nghe, không còn thấy gì nữa.
- Ngay ngoài sân mình! Bà Nam Thành kêu lên, giọng run run.
Ông Nam Thành làm thinh, kéo hộc tủ lấy ra cây đèn pin rồi sắp
sửa chạy ra ngoài. Bốn cô con gái cũng bỏ guốc định chạy theo ông.
Bà Nam Thành mếu máo nói:
- Đừng có đi, tôi sợ lắm ông ơi!
Vừa nói bà vừa níu áo ông lại. Ông Nam Thành gạt tay bà, nhảy
phóc ra cửa. Bốn cô con gái chạy theo cha bén gót.
Từ thềm nhà ra tới đường, xa độ một trăm thước. Tia đèn pin
ngắn quá soi không tới ngoài ấy. Tuy vậy họ cũng thoáng thấy một đống đen ngòm
nằm trên sân, cách lề đường đâu lối năm sáu thước.
Những hột mưa thưa rơi trong ánh đèn, bắt đầu trở nhặt như hối
thúc họ ra đường cho mau. Cả năm người đều có cảm giác đó, nên tự nhiên họ vén ống
quần lên để mau bước trên đất sân úng nước.
Bấy giờ chiếc xe hơi đã hiện rõ lên, một chiếc xe sơn đen nằm
đưa bốn bánh lên trời.
Ông Nam Thành chạy chớ không đi nữa, bốn cô gái cũng làm y
theo cha. Còn lối năm sáu thước nữa là đến nơi, ông Nam Thành rọi đèn xuống đất,
quanh xe, nhưng ông không thấy người văng ra ngoài. Ông chạy vòng qua hông xe
bên kia và cũng rọi dưới đất như vậy: không có ai cả.
Bây giờ họ đã đến sát chiếc xe lật ấy rồi.
- Còn kẹt trong xe, cô Quá la lên khi đèn rọi vào trong đó.
Họ cúi dòm qua cửa kiếng thì thấy một người đàn ông nằm co lại
như kẻ ăn xin ngủ ở vỉa hè một đêm lạnh.
Ông Nam Thành mở cửa xe, nhưng không mở được. Ông thử cả bốn
cửa, nhưng đều thất bại.
- Nó kẹt thế nào không biết mà mở không ra. Bây giờ làm sao!
Ông hỏi bông lông và chỉ có sự im lặng đáp lời ông thôi. Họ sốt
ruột mà đứng nhìn, bất lực trước mấy cánh cửa cứ khư khư đóng giữ nạn nhân.
Bỗng cô Hoa la lên:
- Phải rồi, chạy kêu bác thợ rèn.
- Thợ rèn để làm gì? Ông Nam Thành hỏi.
- Bác ta có búa lớn, phá cửa, đập kiếng được.
- Ừ phải, đứa nào chạy đi kêu. Nhưng không, đừng đi một đứa.
Phải chạy đi ba đứa cho có bạn, còn một đứa thì ra đường đón xe, bất kỳ xe nào
cũng bắt lại cả.
Ba cô Hồng, Hoa, Quá chạy lên lò rèn, còn cô Hương thì chạy
ra đường. Ông Nam Thành ở lại một mình, đứng suy nghĩ về việc phải làm: đưa
ngay nạn nhân xuống Thủ Đức xin cấp cứu tạm, một mặt cho cảnh sát dưới đó hay,
đoạn về nhà thay quần áo khô, trùm lại cho ấm, và uống một viên thuốc ngừa cảm.
Ông đã ướt như chuột té mương và bắt đầu lập cập dưới gió từng
cơn thổi đến.
- Sao mà chúng nó đi lâu quá như vầy nè? Ông nóng nảy lẩm bẩm
và nhìn ra đường thì thấy một chiếc xe chạy qua. Hương đưa tay nhưng xe cứ chạy
luôn. Một chiếc xe khác đến, Hương cũng đưa tay, nhưng xe nầy cũng chạy luôn.
Rồi ông bận nhìn đám đi lò rèn về, nên không để tâm đến việc
đón xe nữa. Ông soi đèn cho họ dễ đi và kêu hỏi với:
- Có hay không?
- Dạ có, ba à.
Bọn nầy chạy chớ không đi. Ông Tư Hổ vác búa đập đe đi trước,
theo sau ông là ba cô gái và một người đàn ông ở xóm trên.
Ông Nam Thành nói:
- Nó kẹt chốt hay kẹt gì đó tôi không biết. Đâu anh đập bậy
thử vài vố xem sao.
Tư Hổ không nói không rằng, giương hết thần lực mà đập búa
vào cửa xe. Tiếng búa sắt chạm vào thùng xe kêu ầm ầm, ông thợ thử đập cả nơi bốn
tay vặn ở bốn cửa mà vẫn vô hiệu quả.
- Thôi đập cửa kiếng, đập bể nát bỏ. Ông Nam Thành bảo như vậy.
- Nó văng miểng trúng người ở trỏng làm sao? Bác thợ rèn cãi.
- Không, đó là thứ kiếng riêng, miểng không bén đâu.
Bác thợ đập một vố là tấm kiếng cửa trước bể nát ra. Miểng kiếng
rơi đầy trên mình nạn nhơn, khiến bác ta hoảng, nhưng nghe ông Nam Thành quả
quyết là không sao, nên bác ta cũng đỡ sợ đôi phần.
Ông Nam Thành xem kỹ lại thì thất vọng lắm. Khung cửa kiếng hẹp
quá không thể lôi ra ngoài người đang nằm co trong đó.
Ông thò tay vào trong, thử mở cửa thì may quá, mở được.
Nạn nhơn không bị thương tích chỗ nào hết. Hắn nằm chèo queo
bên trong chiếc mui lật ngửa, nệm xe hơi xuống đùi hắn.
Vừa lúc đó cô Hương trở lại nói:
- Khổ quá ba à, con đón sáu chiếc xe mà chiếc nào cũng không
chịu ngừng hết.
Bác thợ rèn cắt nghĩa thái độ của những chiếc xe xấu bụng ấy:
- Đường vắng quá, trời lại mưa, nên họ sợ.
Ông Nam Thành làm thinh, khom xuống rồi nắm vai nạn nhơn mà
kéo. Nhưng ông kéo không nổi, nên đứng thẳng lên rồi day lại nhìn ông Tư Hổ.
- Đâu anh kéo thử coi.
Tư Hổ làm thinh mà thi hành lời yêu cầu của ông chủ Thái
huyên trang. Bác thợ rèn, tuy đã già mà còn mạnh lắm. Bác ta kéo trông như người
ta kéo cái gối dài ra khỏi áo gối.
Khi đầu và vai của nạn nhơn ra khỏi cửa xe, ông Nam Thành đỡ
lấy, để ông Tư Hổ kéo tiếp phần còn ở trong ra. Bốn cô gái ở Thái huyên trang
và cái anh đến với ông Tư ở xóm trên cũng áp lại mà phụ đỡ khúc giữa, từ từ lôi
nó ra ngoài.
Chiếc đèn pin được chận cái bấm, nằm một mình dưới đất ướt mà
soi cái cảnh kỳ dị nầy: bảy người khiêng một người dưới mưa đã nặng hột.
- Khổ, đón xe không được, bây giờ mới biết làm sao đây?
Ông Nam Thành lại hỏi bông lông như vậy.
- Hay là đem người ta vào đỡ trong nhà mình, ba, cô Quá nói.
Bắt người bịnh dầm mưa không tốt đâu.
- Ừ, đem thì đem.
Rồi họ khiêng luôn người lạ mặt vào nhà.
Bà Nam Thành thấy hai chiếc giày của người được khiêng ló vào
trước thì khiếp đảm, kêu rú lên.
- Đừng có la! Ông Nam Thành quát. Xe lật cũng sợ, bây giờ thấy
người ta, cũng sợ nữa. Sao mà dạn quá như vậy không biết!
Họ khiêng người bịnh đã ướt mem vào tuốt trong phòng để dành
cho khách xa ngủ lại đó, và đặt y nằm trên chiếc đi văng giữa buồng.
Ông Nam Thành hối Hương lấy đèn măng sông thắp lên cho sáng.
Nhờ đèn giản dị khỏi phải bôm nên không mấy chốc mà ánh sáng vàng mét của cây
đèn dầu bị ánh sáng xanh của đèn măng sông đuổi mất.
Nạn nhơn là một thanh niên độ hăm sáu hăm bảy tuổi, mặc sơ mi
trắng banh ngực, xăn tay, quần si bíc kin cũng trắng, cả đôi giày da cũng trắng
tuốt, đế cờ rôm mê.
Mặt mũi y khá khôi ngô, mặc dầu đang trắng bạch chảng. Nhưng
không biết y có khoẻ mạnh, đẹp trai hay không vì y nằm, khó lòng mà biết được.
Thật y không bị vết thương nằm trên người của y cả. Nếu không
thấy da mặt khác thường của y thì ngỡ y ngủ.
- Còn nóng hổi, ông Nam Thành nói, nên tôi mới dám nghe lời
con Quá đem va vào đây. À, anh kia, anh có biết cỡi xe máy hay không ? Ông Nam
Thành hỏi người đờn ông xóm trên như vậy.
- Tôi thật không thạo thứ đó đa, người ấy đáp.
Ông Nam Thành chắc lưỡi, mặt có vẻ thất vọng.
- Chi vậy ba, cô Hoa hỏi. Con đi có được không?
- Con gái đi đêm làm chi.
- Đi đâu đó ba? Hương hỏi.
- Đi Thủ Đức chớ đi đâu. Đặng cho cảnh sát hay, rồi giao của
nợ nầy cho họ. Để va chết ở đây đêm nay thì khổ cho mình. Va mà chết thì chắc
chắn má bây sẽ bỏ nhà nầy mà đi.
Bỗng cả nhà nín lặng, nhìn trừng trừng vào nạn nhơn. Hắn cục
cựa cái đầu, rồi giây lâu, rên hừ hừ.
Họ hồi hộp đợi xem sự thể ra sao. Hắn sẽ hấp hối, hay tỉnh lại?
Ông Nam Thành lo lắng lắm, chỉ sợ hắn hấp hối trước khi cảnh sát đến.
Nhưng kia, hắn đã mở mắt ra, ngơ ngác nhìn chung quanh hắn.
Đôi mắt tuy mệt đừ nhưng đầy vẻ thông minh và lanh lợi. Đôi mắt ấy thầm lặng hỏi
thăm về sự có mặt của hắn ở một chỗ lạ hoắc nầy đối với hắn.
Bây giờ, mặt hắn bớt trắng dờ lần lần, và càng lúc càng ửng
lên màu hồng hào của tuổi thanh xuân.
- Tôi sao lại ở đây bà con? Hắn hỏi ra tiếng.
- Thầy nên yên mà nghỉ, đừng hỏi lôi thôi, đừng cử động gì hết,
có khát nước hay không?
- Khát lắm!
Ông Nam Thành mừng quýnh lên. Không bị chảy máu mà khát nước
là dấu hiệu tốt, ông nghĩ thế.
Thanh niên uống xong nửa tách nước trà nóng do ông NamThành đổ
cho rồi toan ngồi dậy.
- Ý đừng! Ý đừng...
Tất cả những người có mặt đều kêu lên như vậy. Nhưng vô ích,
hắn có ngồi được đâu. Hắn nằm trở xuống rồi rên siết, mặt nhăn nhó dữ dội.
- Cái cẳng, hắn nói.
- Chắc gãy. Phải mà, xe lật đến mấy tua...
- Vậy hả, thưa ông? Té ra tôi bị tai nạn xe hơi? Phải rồi,
tôi nhớ ra rồi.
- Nhưng thầy nên yên mà nghỉ.
- Té ra ông và bà con đây đã cứu tôi? Nhà của ai đây, thưa
ông?
- Không cần gì cái vặt ấy. Thầy tạm nằm đây, rồi sáng chúng
tôi đưa thầy đi nhà thương. Thầy còn nghe gì khác trong người hay không?
- Thưa không. Bây giờ tôi khỏe nhiều, chỉ trừ đau đớn lắm ở cẳng.
- Cho dẫu gãy cả hai chân cũng không hề gì, miễn là đầu, ngực,
bụng của thầy êm là tốt. Thầy nghe ba chỗ đó không sao chớ?
- Thưa không.
- Tôi thì không đủ sức dầm mưa thêm. Hai người nầy lại không
biết đi xe đạp. Mấy đứa con gái tôi, tôi ngại sai chúng đi lúc tối tăm và mưa
gió như vầy. Vả lại thấy thầy cũng không việc gì lắm nên thôi, để sáng hãy hay.
Bây giờ các con thay phiên nhau mà canh chừng thầy đây cho đến
hừng đông, nghe chưa.
Ông Nam Thành day qua nói với mấy cô con gái của ông như vậy,
đoạn dặn dò người bịnh vài tiếng nữa rồi lui ra.
Bà Nam Thành rút vào ngồi bó gối trong góc buồng tiếp khách.
Thấy mặt ông bà hỏi:
- Làm sao đó ông? Chết hay sống?
- Chết đâu mà chết, tôi dại gì khiêng thây ma vào đây.
- Tôi sợ quá!
- Bây giờ nó đã tỉnh rồi, coi bộ không sao.
- Sao ông không gởi người ta đi?
- Bắt xe không được.
Ông Nam Thành đi thay quần áo khô rồi trở lại phòng bịnh ứng
lập. Con ông cũng đã thay y phục xong và có mặt đông đủ nơi đó, đang đứng nhìn
người khách dị kỳ của họ, hắn hỏi lăng xăng mà không ai đáp cả.
- Thầy nên nghỉ! Ông Nam Thành xẵng giọng khi bước vào nghe
khách hỏi chuyện.
Người thanh niên sợ hãi nín khe. Trong những lúc nguy biến
hay bối rối, thì ông Nam Thành tỏ ra quyết định lẹ làng và cương quyết chớ
không phải nhu nhược như ngày thường. Ông ra lịnh:
- Bây giờ đã hơn mười giờ rồi. Mỗi đứa gác non hai tiếng đồng
hồ cho đến hừng đông. Con Quá gác trước, rồi cứ theo thứ tự chị em mà đổi phiên
gác với nhau. Có gì lạ thì kêu ba.
Đoạn nhìn người bịnh giây lâu, và an lòng vì màu hồng trên da
mặt hắn đã tươi lắm rồi, ông mỉm cười mà rằng:
- Chúc thầy qua một đêm khó khăn được bình yên.
Rồi ông trở bước, ba cô con gái lớn cũng lặng lẽ theo cha.
Hai người ở lại trong phòng, nghe ông Nam Thành hỏi:
- Bình xăng đầy hay không?
- Dạ thưa đầy.
- Tốt, đèn cháy được suốt đêm nay.
Liền sau khi cha và mấy chị ra đi, cô Quá nghe khó chịu ngay.
Cô không nhát trai, cũng chẳng sợ ma, sợ xác chết. Nhưng kẻ nầy đến đây đột ngột
quá, cô chưa quen cũng không lạ, mà muốn làm quen cũng khó khăn, vì cần phải để
cho người ta nghỉ kia mà.
Cô Quá bưng chiếc ghế một, đặt trên đầu đi văng, cách xa người
bịnh độ một thước năm, rồi ngồi xuống để tránh thấy nhau trong cái im lặng quá
bỡ ngỡ kia.
Người bịnh chắc cũng đang cùng tâm trạng nên cũng nín thinh.
Một lát lâu, hắn gọi nho nhỏ:
- Cô ơi!
- Gì đó ông?
- Cô còn ở đó à?
- Phải, tôi vẫn ở đây, theo lời ba tôi căn dặn, ông có cần gì
hay không?
- Thưa không. À, tôi có cần một việc... tôi cần nói với cô
vài điều.
- Tốt hơn là ông nên nghỉ yên. Có gì, sau sẽ nói.
- Nhưng nếu tôi chết nội đêm nay thì biết bao giờ mới nói được,
thưa cô?
Quá hoảng hốt trước lời nầy, nên hỏi lăng xăng:
- Làm sao, ông nghe trong mình thế nào mà nói những điều
không hay đó?
Thanh niên cười ra tiếng:
- Thưa cô, tôi không nghe làm sao cả. Trái lại, tôi nghe khoẻ
khoắn như vừa ngủ dậy. Nhưng biết đâu đó không phải là sự bừng dậy của ngọn đèn
sắp tàn.
Quá lo lắng hết sức, bước mau lại trước mặt người bịnh mà
nhìn chàng ta. Không, nàng không tìm ra sự thay đổi nào trên gương mặt tươi tỉnh
ấy cả.
Hai người nhìn nhau rất lâu, không biết họ nghĩ gì trong bụng
họ. Rốt cuộc, để đánh tan cái nín lặng khó thoát ấy, bịnh nhơn nói:
- Thưa cô, tôi là Long, hoạ sĩ, gia đình nào đã cứu tôi, tôi
rất mong được biết.
- Gia đình Thái huyên trang, nhưng không quan hệ gì điều đó,
ông cứ nghỉ yên.
Có tiếng đồng hồ reo trên gác, rồi tiếng chơn người bước xuống
thang lầu. Cô Quá nói:
- Chị tôi xuống thay phiên cho tôi.
- Vậy à? Làm phiền cả nhà không biết bao nhiêu.
Cô Hoa đã vào phòng. Bịnh nhơn nói:
- Tôi không sao cả, quí cô cứ nghỉ đi. Đã dầm mưa cứu tôi,
bây giờ lại...
- Không hề gì, ông cứ nghỉ yên là hơn.
Bịnh nhơn và cô Quá đều buồn cười vì họ nghe lại những lời đã
nói rồi hồi nãy.
- Thôi, chào ông tôi đi ngủ đây. Cô Quá nói rồi xây lưng thật
lẹ để giấu cái cười mà cô không giữ được bởi ai cũng lập lại mãi mãi một tiếng
" nghỉ " ấy.
Đến phiên cô Hoa khó chịu. Thấy chiếc ghế mà em cô đặt trên đầu
giường, cô đi lại đó mà ngồi liền, trong bụng cười thầm khi nghĩ rằng chắc em
cô cũng đã khó chịu như cô nên mới tìm chỗ kín mà ngồi.
Giây lâu người bịnh kêu:
- Cô ơi!
- Có tôi đây. Ông cần uống nước hay không?
- Cám ơn cô, tôi không khát. Tôi tưởng cô nên nghỉ là hơn,
tôi không sao cả mà!
- Không hề gì, ông cứ an lòng mà nghỉ.
- Cô à!
- Dạ
- Thái huyên trang là tên của ông cụ phải không cô?
- Té ra em tôi đã cho ông biết về nhà nầy rồi. Bậy quá, nó
nên để ông tĩnh dưỡng. Không, Thái huyên trang là tên trại nầy, ba tôi đặt ra hồi
dọn về đây.
- Vậy à. Tên trại đẹp quá! Tôi đoán là trước kia ông cụ bà cụ
và quí cô ở Saigon, có phải không?
- Đúng, ông đoán đúng. Ông bằng theo dấu vết gì mà đoán như vậy?
- Người Saigon có vẻ gì riêng biệt khác hẳn người mọi nơi,
tôi không nói ra được cái biệt sắc ấy mà vẫn cảm thấy là như vậy.
- Thưa, ông nín mà nghỉ, nói nhiều có hại cho sức khoẻ của
ông.
- Tôi không sao cả thưa cô. Tôi nghe kỹ trong người của tôi,
nên mới dám quả quyết như vậy. Thưa cô còn bà cụ đâu?
- Má tôi suýt ngất đi khi khiêng ông vào mà lúc ấy thì ông
cũng đang bất tỉnh, nên ông không thấy má tôi.
- Vậy hả. Trời, tôi làm khổ cả nhà.
- Không hề gì.
Anh bịnh nhơn lắm lời, không còn gì để hỏi nên đành làm thinh
giây lát. Anh ta muốn thấy mặt cô nữ khán hộ ứng dụng nầy lắm, nên tìm cớ và mừng
rỡ mà tìm được.
- Thưa cô, phiền cô cho tôi miếng nước.
Hoa vội vã đi rót nước và lấy muỗng cà phê thọc vào đó, đem lại
cho người bịnh. Nhưng anh ta nói:
- Không cần, thưa cô, tôi bưng lấy mà uống được. Tôi ngóc đầu
lên rất dễ dàng, đây cô coi.
Anh ta ngóc đầu dậy, đưa tay đỡ lấy tách nước, vừa hớp chầm
chậm vừa nhìn cô nữ khán hộ.
Bốn mắt gặp nhau, nhưng đôi mắt của người dừng bên giường chạy
trốn liền, không hiểu vì lẽ gì.
- Thưa cô, tôi là Long, hoạ sĩ.
- Hân hạnh được biết quí danh.
Long nghe tâm trí mình lạ quá. Hồi nãy nhìn Quá, chàng thấy
cô ta khá đẹp, và bóng sắc của cô ấy tăng thêm cảm tình của chàng đối với người
nghĩa.
Nhưng bây giờ nhìn Hoa, chàng thấy Hoa mới là đẹp, còn Quá
thì còn trẻ con lắm, thân thể nở nang chưa đầy đủ.
" Con mắt hoạ sĩ của mình nhìn sai đến thế à? Chàng nghĩ
thầm".
Sự nẩy nở của dung nhan cô Hoa đã định cư lại một chỗ rồi. Nó
đã rõ rệt hẳn, mà cái bước dừng lại ấy, lại nằm đúng chỗ mức đẹp.
Long không đến nỗi yêu vội vàng bất cứ người con gái nào
chàng mới gặp. Nhưng dầu sao, cảm tình của chàng đối với cô Quá, vẫn có. Bây giờ
chàng nghe như cảm tình ấy vừa giảm bớt đi nên khó chịu, mắc cỡ như mình vừa phản
bội một người yêu.
Bị nhìn kỹ nên Hoa cũng khó chịu lắm. Nàng nói cho có chuyện,
và rất mừng mà tìm được ra một câu cần phải nói:
- Còn tôi là Hoa, con gái thứ tư nhà nầy. Em tôi hồi nãy tên
là Quá.
Hoa nói tên cô em ra, vì cô biết chắc chắn là nó đã giấu tên
nó bằng sự không xưng ra, giấu cái tên mà nó không bằng lòng tí nào cả.
- Hân hạnh được biết cô và được biết tên cô. À, cô Quá thứ mấy,
cô?
- Thứ năm, nó là út. Nhưng ông cứ gọi tên chúng tôi.
- Phải, nếu quí cô cho phép.
Lại có tiếng đồng hồ reo, và y như hồi nãy, có tiếng chơn người
bước xuống thang gác, và Hoa cũng nói:
- Chị tôi xuống thay phiên cho tôi.
- Vậy hả, trời ơi, tôi làm phiền cả nhà.
Long ngượng miệng mà phải lặp lại lời đã nói rồi nhưng không
thể không nói điều đó.
Hồng vào nhẹ như một cái bóng, và đi ngay lại chiếc ghế đầu
giường, nên Long không hay. Chàng hơi buồn mà nghe Hoa nói:
- Thôi chào ông, tôi đi nghỉ đây, chúc ông ngủ yên.
Chàng nhìn theo cô nữ khán hộ và thưởng thức tướng đi khá uyển
chuyển của cô, rồi cứ trông về hướng cửa mà đợi người thay thế đến. Nhưng sao
lâu quá mà người ấy không thấy vào.
Long buồn cười cho mình. Đã bảo người ta nghỉ, đừng có canh
gác nhọc thân, rồi bây giờ lại bứt rứt khi không thấy dáng người ta.
Mỏi quá, chàng nhắm mắt lại để tưởng tượng mặt mũi của cô chị
thứ ba nầy. Chàng hình dung một cô gái rất xấu xí để khỏi phải thất vọng. Nhưng
không thể được. Cô ấy cứ hiện ra, xinh đẹp trong trí tưởng tượng của chàng.
Nhưng xinh đẹp đến mức nào thì thật là không rõ rệt.
Bỗng chàng nghe thốn nơi chơn, thốn như có ai siết hai khớp
xương của chàng lại bằng kẹp bàn. Long cắn răng rên lên một tiếng nhỏ.
Hồng đang ngồi nhìn sâu bọ đổ xô vào ngọn đèn măng sông, nghe
rên, đứng lên rồi đi lại trước giường người bịnh.
Nghe động, Long mở mắt ra và kinh ngạc hết sức. Chàng không
dè giữa mấy chị em, nhan sắc lại quá chênh lệch như thế được.
Hồi nãy nhìn Hoa, chàng thấy cô Quá bớt đẹp. Nhưng bây giờ
nhìn cô nầy, hai cô trước bỗng như không còn nữa.
Ngày trước Hồng là một cô gái đẹp. Cô ấy đã thành đờn bà. Sắc
đẹp kia, nhờ thế được nâng lên đến quá mức chót. Con gái chỉ đẹp thôi, còn đẹp
lộng lẫy, đẹp mê hồn chính là đờn bà vậy.
Mặc dầu gần gũi phụ nữ rất nhiều, Long bỗng thấy bối rối
trong lòng và ngoài mặt. Chàng chào cô nữ khán hộ thứ ba một cách vụng về và ấp
úng nói:
- Tôi làm phiền cả nhà... làm phiền cô quá!
- Không hề gì. Ông có sao không?
- Cám ơn cô, tôi nghe khoẻ khoắn như không. Thưa cô, tôi là
Long, hoạ sĩ, tôi...
- Hân hạnh, còn tôi là Hồng, con gái thứ ba nhà nầy.
- Thưa cô, cô có anh hay em trai nào không?
- Không, ba má tôi chỉ có mấy chị em tôi thôi.
Long rất lấy làm kỳ cho gia đình Thái huyên trang nầy. Đẻ
toàn con gái. Con gái đang đến tuổi gả chồng, lại kêu nhau về cái xó hẻo lánh nầy.
- Thưa cô, đây có phải là gần Thủ Đức không?
- Phải, còn năm cây số nữa tới chợ.
- Tôi nhớ lại ghê quá! Tôi chạy có mau đâu, chỉ năm mươi cây
số một giờ thôi. Nhưng đường trơn như mỡ, tôi tránh một người chạy sì cút tơ rồi
xe trợt bánh đâm luôn vào lề đường.
- Xe nó lật một bận hay mấy bận không biết, chỉ thấy nó nằm
ngửa nơi sân chúng tôi. Nhưng ông nên nín mà nghỉ thì tốt hơn.
- Không hề gì. May quá phải không cô, là trên lề đường không
có trồng cây. Nếu có, thì xe tôi chắc là đã xếp lại như cây đờn ắt cọt đê ông,
và tôi đã bị ép như mía ở các xe nước mía.
- Ông nói nghe ghê quá.
Hồng mỉm cười, Long thấy hai hàm răng của cô sao mà trắng và
đều đặn lạ. Giọng của Hồng nhẹ và êm, không đả đớt như giọng đờn bà mình hạc
xương mai, cũng không thô như giọng đàn bà thường.
- Mà đến hai lần may mắn đó, thưa cô. Nếu tôi đâm đầu vào một
khu vườn khác thì có đâu được biết cô... biết gia đình Thái huyên trang.
- Thôi, ông nín để nghỉ.
- Có những điều tôi cần nói đêm nay, không thôi không bao giờ
có dịp nói nữa. Tôi đã được dịp nghĩ nhiều về sự tình cờ, và tôi tin là sự tình
cờ nào cũng do trời xui ra cả.
Cô Hồng châu mày, bực mình vì ông khách đã bắt đầu khó chịu.
Cô bước lại ghế ở đầu giường, vừa đi vừa nói:
- Tốt hơn là ông nên nín để nghỉ.
Thấy vẻ mặt bất bình của cô gái, Long giựt mình và hối hận đã
nói nhiều quá.
Thế là hết! Nãy giờ được nói nhiều với người không đẹp, bây
giờ gặp giai nhân, giai nhân lại giận mình thì có chết hay không?
Long nhắm mắt lại, chiếu lại trên màn ảnh tưởng tượng cảnh
người con gái đẹp ngoe nguẩy bỏ đi. Trời, người đẹp thì làm gì cũng đẹp, khóc đẹp
mà giận lại càng đẹp hơn.
- Cô ơi, Long kêu người nữ khán hộ thứ ba, sau khi nín im một
lúc rất lâu.
- Có việc gì, ông?
- Nếu tôi chết đêm nay, phiền cô nói lại với má tôi rằng tôi
thương má tôi lắm.
Hồng cũng hoảng sợ như em cô hồi nãy, chạy lại hỏi:
- Làm sao, ông nghe trong mình thế nào?
- Tôi không nghe gì lạ cả, nhưng biết đâu.
- Để tôi mời ba tôi xuống.
- Xin cô tha cho. Làm phiền cụ mà chi. Ông cụ cũng chẳng cứu
tôi sống lại được, nếu tôi phải chết. Cô à...
Hồng không đáp tiếng gọi, nàng rối trí vì sự hăm doạ của bịnh
nhơn.
- Cô à, má tôi, một người đàn bà hiền từ, chỉ có một mình tôi
là con thôi. Chắc má tôi khổ lắm...
Long đã toại nguyện, gạt được người đẹp đến bên giường. Nhưng
chàng không tìm ra được gì để nói cho hay.
- Tôi có món nầy, xin cô làm ơn trao lại dùm cho má tôi.
Long vừa nói vừa nhăn mặt thò tay ra túi quần sau để rút bóp.
Chàng lấy trong một ngăn ra một chiếc lắc bằng bạch kim, trên mặt có khắc hai
chữ H và L tréo nhau, đoạn trao của ấy cho Hồng mà rằng:
- Đây là món quà tôi tặng người yêu tôi. Nàng đã phụ tôi một
cách công khai, và gọi tôi lên Biên Hoà để trao trả vật kỷ niệm này, chiều hôm
nay...
... Cô ôi, tôi đau còn hơn là cái đau chơn bây giờ. Tôi muốn
má tôi để chung món nầy với các di vật khác của tôi...
Long nghẹn ngào thật sự, mặc dầu chàng nói láo. Chàng biết chắc
chàng không việc gì, nhưng kêu chết để thảm kịch hoá giây phút nầy hầu có thể
đưa ra một câu chuyện cảm động. Chàng lại hết đau vì món quà bị trả lại. Vụ ấy
xảy ra đã hơn một năm rồi.
Quả cô Hồng bị mắc bẫy. Trời ơi, một người bạn đồng cảnh ngộ
với cô đây mà! Long chỉ muốn gây thương hại nơi lòng cô gái mà chàng đoán là đa
cảm. Chàng không dè mưu chàng có hiệu quả đến thế vì chàng đánh trúng ngay tim
của một người bị tình phụ như chàng.
Cô Hồng mủi lòng đến khoé mắt hơi ửng đỏ. Cô cầm chiếc lắc mà
mân mê, nghĩ đến cái oái oăm của cuộc đời: một thiếu nữ bị tình phụ trong khi ấy
thì một thiếu nữ khác lại phụ tình. Thì ra trong cái trò tình ái, các tay chơi
không ăn rơ với nhau, nên mới sanh ra những cuộc lỏn chỏn mãi mãi.
Bỗng chuông đồng hồ báo thức lại reo lên
- Chị tôi xuống thay cho tôi đó.
Long đã quá mệt vì từ đầu hôm đến giờ chàng không có ngủ phút
nào hết. Chàng không buồn cười được trước cái cảnh cứ tái diễn lại mãi nầy.
Lúc Hồng từ giã ra đi và Hương đến, chàng đã thiếp rồi.
Số phận cô Hương là số phận bị bỏ quên, bất cứ ở đâu và lúc
nào. Nãy giờ người ta nói chuyện với nhau không đủ thì giờ mà nói cho hết. Đến
lượt cô thì kẻ đối thoại đã thiếp đi.
Nhưng cô thấy đó là tự nhiên, vì ít tình cảm, ít mơ mộng lăng
nhăng, lại cũng vì không dè nãy giờ con bịnh đã trò chuyện với mấy em của cô.
Tiếng còi xe lửa Biên Hoà hú lên sau xóm cùng một lượt với gà
gáy hiệp sau.
Long choàng thức giấc và nhớ sực lại là có một cô nữ khán hộ
thứ tư trong phòng nầy.
- Cô ơi, chàng gọi nho nhỏ, không chắc lắm rằng người ấy còn ở
đây.
- Chi đó ông? Ông khoẻ hay không?
- Cám ơn cô, đã sáng rồi phải không cô?
- Phải, và ba tôi vừa xuống Thủ Đức.
- Tôi làm phiền cả nhà, làm phiền ông cụ quá. Không bao giờ
tôi quên ơn Thái huyên trang nầy. Thưa cô, tôi là Long, Hồ Văn Long, hoạ sĩ.
- Hân hạnh, còn tôi là Hương con gái lớn nhà nầy.
Hương vừa nói vừa đi lại bên giường người bịnh, rồi hỏi:
- Đã sáng rồi, ông ở một mình có được không?
- Thưa được. Cô cứ lo công việc nhà đi.
Long không thất vọng cũng không thấy Hương là xấu xí. Chàng
không cần ai nữa cả, từ khi gặp Hồng.
Cô Hương đi ra, thế là vãn hát. Cô chỉ diễn được có một cảnh
gần như câm lặng, không có gì gay cấn hết. Đến khi cô vào hậu trường, diễn viên
còn lại và cả khán giả nữa, không ai tiếc hết.
° ° °
Các nhân viên cảnh sát đứng trước chiếc xe mà vẽ bản đồ. Người
trong xóm cũng bu lại mà xem chiếc ô tô giống như con bọ rầy bị ai đá té nhào nằm
ngửa đưa bốn cẳng lên trời.
Ông Tư Hổ rất kiêu hãnh và nhắc lại vai trò ông thủ đêm vừa
qua. Đó là việc quan trọng nhứt trong đời ông, nên ông không quên, không kể sót
một tiểu tiết nào cả.
Rồi cảnh sát vào nhà. Điều tra xong, họ hỏi Long:
- Bây giờ ông muốn nằm nhà thương nào? Chúng tôi chỉ có thể gửi
ông xuống nhà thương Thủ Đức thôi. Ở đó người ta sẽ đưa đi nơi khác, tuỳ theo kết
quả khám bịnh cho ông. Còn như ông thích nhà thương nào khác, thì ông tự đi lấy.
Coi bộ không sao mà, phải không?
- Phải, tôi không việc gì cả. Thôi chuyện đó xin để tôi tính
với ông chủ nhà nầy.
- Tốt lắm. Thôi! Chào ông! Cũng may, xe là xe của ông, lại chỉ
có một mình ông là bị thương xoàng, nếu không, cuộc điều tra sẽ phải rắc rối,
phiền phức hơn.
Cảnh sát ra nhưng cả nhà còn đông đủ, Long nhìn bà Nam Thành
mà khi nãy chàng đã chào, rồi hỏi:
- Thưa bà, không biết bà có phải là bà chủ Thái huyên trang?
- Phải, chính tôi đây.
- Kính chào bà...
Từ lúc tỉnh hẳn và được biết rằng chủ nhà có con tuổi bằng tuổi
mình, Long thấy phải kêu ông bà Nam Thành bằng cụ. Nhưng người Nam của thế hệ
ông Nam Thành không hiểu tiếng cụ ấy, nên Long đành phải kêu họ bằng ông bà.
Im lặng giây lát, chàng nói:
- Tôi đã làm phiền ông bà với lại quí cô đây nhiều quá. Ơn cứu
tôi, tôi không hề dám quên. Mà cái ơn săn sóc tôi đêm nay, tôi cũng sẽ nhớ mãi
mãi. Bây giờ tôi...
- Hề gì, ông Nam Thành chặn nói. Ai ở vào chỗ tôi cũng làm
như vậy. "Ai" đó là kể cả thầy nữa.
- Ông dạy như vậy, chớ ông có bổn phận nào mà để tôi nằm lại
đây đêm nay.
Ông Nam Thành cười ha hả rồi thật thà giải thích cử chỉ tử tế
của ông.
- Thật ra là tại xe nó không chịu ngừng khi chúng tôi đón để
đưa thầy đi. Lòng tốt của chúng tôi chỉ do đó mà phải có.
Long cũng cười:
- Nhưng ông có thể giao tôi cho làng xóm, nghĩa là nhà chức
trách trong xóm nầy, rồi phủi tay.
- Nói rửa tay thì đúng hơn. Đêm qua mưa dầm lầy lội quá, rờ tới
đâu là dính đất ướt tới đó.
Cả nhà đều cười xoà, Long xin tiếp câu bỏ dở hồi nãy.
- Bây giờ tôi xin phiền ông bà và quí cô thêm một việc nữa,
là đón giùm tôi một chiếc xe không báo cỗ, bao nhiêu tiền cũng được, rồi cho
người khiêng tôi ra xe để nó đưa tôi về nhà.
- Ý, rồi dọc đường thầy có việc gì, xe nó hoảng, nó liệng thầy
vô bụi thì sao. Vả lại thầy gãy cẳng, gãy xương, về nhà rồi ai băng bó cho thầy?
- Thưa ông, tôi nghe trong người của tôi khoẻ khoắn lắm. Còn
gãy xương thì chưa chắc!
Cô Hương có theo học một khoá nữ y tá cứu cấp, bước lại gần
giường của Long mà nói:
- Hễ gãy xương thì không khi nào giở chơn lên được hết. Ông
đau nơi chơn nào?
- Chơn mặt, thưa cô.
- Vậy ông rán giở chơn mặt lên coi.
Long làm y theo lời của Hương. Nhưng chàng chưa nhúc nhích được
chút nào mà đã nghe đau như bị cắt ruột. Chàng bậm môi lại, rồi cắn lấy môi, mặt
nhăn như ruột của một trái ba lông bị một đứa bé nghịch nắm mà vò lại.
Cẳng Long từ từ giở lên khỏi mặt chiếc đi văng bằng gỗ, giở hỏng
lên độ năm phân, Long kêu ư... ư... ư..., chỉ nghe nho nhỏ thôi, nhưng đó là những
tiếng kêu la to bị đè nén.
- Rán lên, Hương xẵng giọng mà giục. Rán lên nữa!
Tiếng ư...ư của Long cứ kéo dài ra, người ta có cảm giác
chàng chỉ rặn ra tiếng đó mà không dám thở.
Cả nhà nghe nằng nặng nơi ngực họ, y như là chính họ đang chịu
đau đớn.
Cẳng chàng lại giở lên cao thêm được năm phân nữa.
- Để yên như vậy một lát thử xem. Hương nói như ra lịnh.
- Nhưng thầy ấy đau lắm rồi đó con! Bà Nam Thành sợ hãi nói.
Tiếng ư... ư... vẫn còn kéo dài, nhưng mỗi lần và chơn của
Long có mòi muốn hạ xuống. Hương bất kể lời mẹ, và đau đớn của Long, quát:
- Bảo để yên mà!
Tiếng ư... ư... lại vang lên, lần nầy to hơn trước nhiều. Mọi
người đều mồ hôi nhỏ giọt.
Thấy rõ là cô Hương lòng dạ sắt đá. Cá tánh của cô như thế,
cô học nghề ấy là hợp lắm. Trông cô oai vệ như một ông tướng ngoài mặt trận, khiến
cả cha mẹ cô cũng không còn dám mở miệng ra để phản đối nữa.
Long chịu cực hình ấy lâu gần một phút đồng hồ. Bấy giờ mặt
Hương dịu hiền lại, và cô cười rồi nhỏ nhẹ nói:
- Ông để xuống được rồi.
Vừa nói cô vừa thò hai cánh tay vào mà đỡ chơn Long để tránh
giùm chàng một sự buông rơi vì quá mừng rỡ và vì không còn sức để hạ chân từ từ
nữa. Sự buông rơi nầy cũng sẽ đau đớn không thua gì sự cất lên hồi nãy.
Hương mỉm cười với Long một cái để ngầm xin lỗi nạn nhân của
cô, rồi day lại nói với cả nhà.
- Xương không thể nào gãy khi mà chơn giở lên được lâu như vậy.
Cái nầy chỉ là trặc thôi, trặc xương hay trặc gân gì đó không rõ.
- Nếu như vậy thì khỏi cần bó bột phải không con? Ông Nam
Thành hỏi.
- Dạ thưa khỏi.
- Mà chắc phải hết?
- Nhưng muốn mắn cho đúng cách cũng phải nhờ thầy thuốc,
Hương nói.
- Cái đó còn tuỳ! Ông Nam Thành không tin đốc tơ lắm, nên cãi
như vậy; danh từ thầy thuốc mà con ông vừa dùng, ông hiểu là đốctơ, vì cả nhà
đã quen dùng như vậy.
Bây giờ, chỉ còn đợi ông Nam Thành đáp lời yêu cầu của Long
thôi, ngoài ra không ai còn gì để nói nữa.
Nhưng ông Nam Thành vẫn đứng đó làm thinh. Lâu lắm ông mới hỏi
khách:
- Ai trông đợi thầy ở nhà... hừ... hừ... nghĩa là tôi muốn hỏi
những ai là người lo lắng về sức khoẻ và số mạng của thầy?
- Thưa trên đời, hiện giờ tôi chỉ còn mẹ tôi thôi.
- Bà cụ ở đâu?
- Thưa ở Saigon.
Ông Nam Thành lại làm thinh. Nhưng im lặng của ông lần nầy
không kéo dài.
- Hay là thầy ở luôn đây có được không, ở đến khi nào đi được
hãy về, tôi sẽ tin cho bà cụ biết tai nạn đêm rồi, và nơi tĩnh dưỡng của thầy?
Tất cả những người có mặt đều ngạc nhiên, Long thì không bao
giờ nghĩ đến một sự tốt bụng quá như vậy. Bốn cô gái vốn biết ý cha không thích
bị quấy rầy, nên không hiểu được thái độ của cha hôm nay. Bà Nam Thành ban đầu
chẳng những lấy làm lạ mà thôi, lại còn tức tràn hông khi nghe ông Nam Thành
đưa vai mà gánh một gánh giữa đàng.
Nhưng bà nghe như là hiểu thấu thâm ý của chồng, nên dịu giận
được. " Để rồi xem sao", bà tự bảo như vậy.
Long ngạc nhiên và hốt hoảng nói:
- Ý chết, thưa ông, tôi còn làm sao dám làm phiền ông bà với
lại quí cô đây lâu thêm nữa, bấy nhiêu đây đã là lạm dụng lòng tốt của Thái
huyên trang lắm rồi...
- Cái đó tuỳ ý thầy thích ở hay không thích ở. Còn phiền cho
tôi thì thầy đừng lo. Có ai bắt buộc tôi đâu. Nếu tôi khi không mà đeo phiền,
là tôi có lợi chớ không phải làm ơn cho thầy đâu.
- Phiền gì mà phiền. Bà Nam Thành nói. Chúng tôi chỉ lo thầy
chết thôi. Nỗi lo lắng của chúng tôi đêm rồi có nặng thật đó. Mà đã qua rồi.
Bây giờ thầy không chết nữa... bà nói tới đoạn nầy thì tất cả mọi người có mặt
đều cười xoà... không chết nữa thì tiếp thầy như tiếp một người khách thường,
có gì đâu.
- Tất cả cực khổ vì tôi, bốn cô đây phải gánh lấy hết, tôi rất...
Bốn cô gái thấy câu chuyện gần ngã ngũ hay hay như trong tiểu
thuyết, cũng muốn nó ngã hẳn ra như vậy, nhưng ngại nên không đưa ý kiến ra.
Bây giờ nghe khách sắp nói, cả bốn cô đều chận lời khách:
- Ông đừng ngại. Chị hai tôi cần thực hành những điều đã học
được, còn tôi thì...
- Chúng tôi tới bốn chị em, chia sớt nhau công việc, sẽ không
nhọc lắm đâu.
- Ông không chịu nằm nhà thương, về nhà làm khổ bà cụ biết
bao.
- Ông không chịu cũng không được nữa. Hương nói. Ông bị thiểu
số rồi đó.
Long chỉ cười, cái cười giống hệt như sự nín lặng của cô con
gái kia khi cha mẹ cô ấy hỏi cô bằng lòng lấy chồng hay không.
- Ông chịu rồi chớ? Không, hẳn là ông chịu rồi. Quá nói lia lịa,
không để cho khách kịp đáp. Rồi bốn cô vụt chạy biến mất như một đàn chim sẻ.
Long nằm đó, như vừa qua một giấc mộng. Câu chuyện thật là
oái oăm. Đêm hôm qua, chàng đi một vòng Biên Hoà có chút việc, đã chạy ngang
đây mà không thèm ngó vào. Đùng một cái - Ừ thật là đùng một cái - chàng đâm đầu
vào sân người ta, báo người ta thức suốt đêm, rồi bây giờ trở thành bạn của cả
nhà.
Chuyện hơi giống câu chuyện của những tiểu thuyết tình lãng mạn,
một cô gái cứu một cậu trai thọ nạn, rồi hai đứa yêu nhau, lấy nhau. Nhưng ở
đây có tới bốn cô gái, thì...
° ° °
Lẽ cố nhiên là Hương gánh phần cực nhất. Thường ngày, mỗi
sáng nhà ăn khoai, ăn xôi, hoặc cơm, cháo. Hôm nay có khách quý, Hương phải
nhúm lửa để nấu nước chế cà phê đãi khách.
Cô nữ khán hộ chánh hiệu con nai ấy vì vậy không có mặt được
trong buổi đại hội y học thảo luận về cách điều trị con bịnh.
Bà Nam Thành bảo Hồng vô xóm trong mời ông thầy hai Sửu là
ông thầy thuốc Nam biết giải ngài và mắn xương.
Ông Nam Thành ngăn:
- Đừng, đừng có báo hại người ta rồi mình mang khổ lây. Tôi
thấy lang băm nó mắn, nhiều khi lọi xương người ta luôn suốt đời.
- Chớ làm sao bây giờ? Không lẽ để người ta...
- Xuỵt, nói nhỏ nhỏ, bà quên rằng ở đây không có vách gạch, ở
buồng đầu mà nói chuyện thì ở buồng cuối nhà nghe không sót một tiếng.
Hồng nói:
- Loài người trước khi có bọn lang giết người, chắc họ để tự
nhiên những bịnh tật nho nhỏ. Không nghe sách vở xưa nào nói ai trặc chơn mà
mang tật luôn vì đã để tự nhiên, không săn sóc; con nghĩ, cứ để vậy, vài bữa
ông ấy sẽ đi được.
Ông Nam Thành nhìn con mà ngạc nhiên trước lý luận sáng tỏ ấy.
- Ừ, ông nói, sau một hồi suy nghĩ, hay là cứ để vậy. Nhưng
phải làm cái gì cho ông ta đỡ đau.
- Cái đó dễ ợt, chị hai con là bà lang tây rất dốt. Nhưng ít
ra chị cũng biết một vài thứ thuốc thoa bóp cho dịu sự đau đớn.
- Tốt lắm. Thôi thì tụi bây thoả thuận với nhau mà phân công
để săn sóc ông ấy. À, ba quên mất...
Nói chưa hết câu, ông vội vàng bước qua phòng bịnh.
Hương bưng cà phê lên, cũng vừa bước vào buồng. Thấy vậy, ông
Nam Thành kêu với ra ngoài:
- Quá ơi!
- Dạ!
- Đi lấy con vịt, mau nó con.
- Để ở đâu ba?
- Ai mà biết. Hôm dọn nhà mẹ con bây có bỏ quên dưới Saigon
hay không?
Nghe bà Nam Thành nói nho nhỏ:
- Thì cất chung với chén bát trong tủ đồ sứ ở buồng ăn, chớ ở
đâu mà om sòm lên như vậy. Con gái hư, không sợ người ta cười cho.
Long nghe thì biết gia đình nầy dọn lên đây không lâu. Cô
Hương đặt tách cà phê lên một chiếc bàn con đã được ai kéo lại sát đi văng.
- Mời ông uống cà phê sáng. Nhà hết cả sữa, ông tạm dùng đỡ
cà phê đen vậy.
- Tôi chỉ dùng cà phê đen thôi, Long nói, để hưởng trọn mùi
cà phê. Nếu tôi nói nữa thì thành ra khách sáo. Vả tôi đã nhận ở đây, mà còn ngại
thì hoá ra giả dối, nhưng quả thật tôi làm phiền cả nhà.
- Hãy khoan, ông Nam Thành không thèm chú ý đến thắc mắc của
khách nữa, mà chỉ lo ngăn khách dùng bữa sáng thôi. Hãy khoan, đợi con vịt đã.
Ông nói vừa dứt lời thì Quá đã bước vào, tay cầm một con vịt
bằng sứ trắng.
Long ngạc nhiên lắm, ít có gia đình Việt Nam nào biết dùng
món đồ ấy. Chỉ có nhà thương to và vài họ được Âu hoá mới sắm nó thôi.
Đít vịt khoét lỗ rộng để đổ nước vào, mỏ vịt khoét lỗ nhỏ để
nước rịn vào miệng những bịnh nhơn không ngồi dậy được.
Quá sang cà phê qua con vịt sứ rồi trao cho Long:
- Cám ơn cô hai và cô.
Nói xong chàng đưa vịt lên, mút mỏ nó như trẻ con mút nóm vú
không mà chơi.
- Kỷ niệm của một me tây đó. Ông Nam Thành vừa nói vừa cười.
Ông tây ấy ổng bị thương nặng, nằm nhà thương đến năm sáu tháng, rồi về Tây
luôn. Nhưng thầy khỏi lo; tôi đã trụng nước sôi rồi mới dùng, không có vi trùng
đâu.
- Cháu không sợ vi trùng lắm đâu.
Long giựt mình mà nghe mình xưng cháu. Tiếng cháu tự nhiên mà
vọt ra, chàng không hề định trước, nói xong, nghe dư âm nó, mới biết là mình đã
lỡ lời.
Chàng thuộc vào một gia đình giàu có lâu đời, lịch sự quen rồi,
nên nay nói lỡ một tiếng là sợ hãi lắm.
Nhưng những người có mặt hình như thấy điều ấy là thường nên
chàng xét nét mà không bắt gặp phản động nhỏ nào trên gương mặt của ba người.
- Cà phê ngon quá! Chàng khen để quên lo sợ của mình chớ thật
đó là cà phê cắc chú, khá hơn cà phê các tiệm nước một chút xíu vì đây là tách
đầu.
Ông Nam Thành nói:
- Tôi cần biết tên với lại địa chỉ của bà cụ để đi báo tin
ngay.
- Thưa ông, không cần đi lắm. Tôi viết thơ ông gửi dùm tôi
cũng được rồi.
- Nhưng thầy đi không về thì bà cụ lo lắng lắm.
- Thưa, mà tôi quen rồi, tôi thì đi vắng luôn, và đi không có
hẹn giờ nào, ngày nào về cả.
- Thôi cũng được. Nhưng như vầy thì thầy nên nghỉ cho khoẻ
cái đã, rồi viết thơ cũng chẳng muộn.
Trong khi đó thì cô Quá đã trở vào với hai bức tranh lồng kiếng
không khuôn mà vì vách trĩ khó treo thứ đó nên từ lúc dọn nhà đến nay, họ cất
luôn.
Hoa lại mang về một bó hoa mà cô hái ở xóm trên. Chỉ là hoa
giấy tím thôi, nhưng căn buồng cũng tươi nét lên hơn trước nhiều.
Ông Nam Thành ra hiệu cho các con lui bước rồi chính ông cũng
đi ra, giây lâu ông trở lại với một bộ đồ mát của ông. Đóng cửa cẩn thận rồi
ông nói:
- Bây giờ tôi giúp ông đây!
Hôm ấy cô Hồng đi chợ. Bà thầy lang khỏi phải làm bếp một bữa
để rảnh tay mà khám bịnh kẻ bị nạn.
Long bị bầm thịt nơi sau ót, lòng bàn tay trái trầy rướm máu
mà không ai thấy, chính chàng cũng không hay. Chơn trái của họa sĩ cũng trầy rướm
máu nơi bắp chuối, chơn mặt thì bầm tím gần một chục nơi. Có chỗ lại sưng lên
và đỏ như da trẻ sơ sanh.
Cô Hương có mang đến nhiều lọ thuốc, để trên bàn, cô chon một
lọ mà Long nhìn thấy chữ đề trên nhãn là " Baume adoucissant ".
Chàng mỉm cười thầm : " Ngỡ gì, thứ ấy để thoa cho em nhỏ
thì được, người lớn thì cần quái gì ".
Chàng nói với cô nữ khán hộ:
- Cô bảo đúng lắm.Xương tôi không gãy. Tôi nhớ có đọc sách về
cấp cứu, trong đó người ta cũng dạy như vậy.
- Nhưng trặc cũng có lắm khi có hại.Mà ba tôi lại muốn để tự
nhiên cho ông khỏi. Thoa thuốc nầy cho êm vậy thôi. Ông có muốn mời đốc-tơ hay
không?
- Tôi nghĩ không cần.Nếu không khỏi, hãy mời không chết chóc
gì mà vội.
Cô Hương thoa bằng cục bông gòn tẩm thuốc, đoạn dùng cục gòn ấy
mà đánh lên những nơi cô tưởng là cần.
Long méo miệng vì đau mà không dám nói gì cả.Cô Hương thoa
đánh một lát mới dừng tay, và bấy gìơ Long nghe như được giải thoát khỏi một khổ
hình.
Chàng nhìn kỹ thiếu nữ thì thấy cô ta không xấu xí lắm như
chàng đã in trí, lại có thể nói là dễ coi nữa. Người con gái đầu lòng nầy bị
các em của cô lấn nước, nên phải chịu lép vế trước mặt họ. Nếu không có sự so
sánh gần, thì người ta có thể cho cô là đẹp được.
- Thưa cô, cô có biết bó bột hay không ? Không tìm ra đầu đề
câu chuyện, Long hỏi về nghề chuyên môn của nữ khán hộ tài tử nầy,
- Bó bột là công việc rất dễ. Khó là biết kéo làm sao cho hai
khúc xương gãy nằm lại ngay đường nhau và ráp làm sao cho hai đầu gãy ăn khớp với
nhau. Việc đó tôi chưa thử lần nào, nên không tự tin lắm.
- Cô chắc tôi không bị gãy xương chứ?
- Chắc một trăm phần trăm.
- Cô lành nghề lắm. Việc nào biết chắc là dám quả quyết, còn
việc nào ngờ là cô thú ngay. Cô học ngành này làm chi vậy cô?
Hương ngẩn người ra. Học nghề ấy làm chi, cô không thể cắt
nghĩa với Long được. Đối với hạng người khác cô bảo là để giúp ích khi nào người
ta cần đến mình.Nhưng lý lẽ cao thượng ấy không thể đưa ra được trước câu hỏi của
chàng thanh niên nầy mà nàng đoán là thông minh và sẽ tế nhị nhận được giả dối
của nàng.
Thật mỉa mai quá, rõ ràng nàng đang giúp ích khi Long cần được
săn sóc. Nhưng cái rõ-ràng ấy lại không thật, không phải mục đích chánh nên
không thể dùng nó mà đáp lời hỏi.
Giây lâu nàng đáp bừa, còn giả dối hơn nữa, nhưng nghe ổn
hơn.
- Tôi học để tìm chỗ làm. Nhưng không ai dùng, người ta chỉ
tuyển xung mấy chị đỗ đầu học khóa thôi, thành ra…
Con gái ngày nay cũng vẫn đợi chồng như con gái ngày xưa.
Nhưng họ không ngồi đó mà đợi. Những người nghèo thì bươn chải tìm phương sống.
Những người khá giả thì làm một cái gì để khỏi nghe trống rỗng quanh mình, miễn
là hành động được, đi ra ngoài được, có dịp phiêu lưu nho nhỏ cho đỡ buồn chán.
Long cũng biết rõ tâm trạng con gái thế hệ chàng, nhưng chàng
thử hỏi vậy thôi.
Chàng hài lòng với câu đáp của Hương, vì xem ra gia đình nầy
không khá giả bao nhiêu, con cái cần phải đi làm.
Bấy giờ, cô Hoa bước vào, mỉm cười với bịnh nhân và hỏi
- Bà lang băm của nhà tôi có làm cho ông đau lắm không?
- Thưa không, tôi nghe đỡ nhiều.
- Không đau, nhưng chắc ông ấy nhăn mặt vì dễ chịu, Hương cười
nói.
- Bà lang băm nầy lại là tay nhổ răng cừ khôi, Hoa đùa chị với
khách, ngày sau ông có nhức răng thì cứ lên đây. Bả sẽ lấy chỉ cột răng ông vào
một chiếc ghế, đoạn ý hà một tiếng, nói là có ma, hay có chó điên gì kia, thế
là ông hoảng, nhảy một cái thì răng rụng ngay.
Cả ba đều cười xòa, đoạn Long nói:
-Cô Hoa ơi, cô làm ơn cho tôi một tờ giấy với lại một cây bút
chì cũng được. Tôi muốn viết thơ cho má tôi.
- Kìa, trên đầu nằm ông đó.
Long quay đầu ngược lên thì quả thấy trên bàn con có giấy bút
và sách báo mà cô nào đã đem vào lúc nào chàng không hay!
- Châu đáo quá! Các cô thật là…
- Thôi, chị em tôi ra, để ông yên mà viết.
° ° °
Không quen ở nhà trống trải, Long thấy nắng bên ngoài chói
lòa quá. Ánh sáng sớm lại chĩa xiên qua vách trĩ long mốt, đâm vào buồng ăn kế
cận như là cuộc xâm nhập của khách không biết đều.
Không quen thì nghe khó chịu, chớ chàng vẫn biết trống trải
như vậy là hạp vệ sinh; chàng lại nhận thấy cả vẻ đẹp của tấm vách trĩ lọc ánh
nắng ấy nữa. Bức tranh nắng lò khe vách, là một bức tranh đẹp đang được thai
nghén trong trí chàng kể từ phút nầy.
Long quan sát căn buồng, thấy nét đạm bạc của nó rồi thương
gia đình nầy không biết bao nhiêu. Đó là những người hiền lành, không tham vọng
lớn và nhờ vậy không ganh tị với đời, tốt bụng và sẵn sàng.
Hai bức tranh lồng kính không khung là tranh Kiều, phụ bản của
một biệt ẩn ngoại quốc, có lần bán tràn lan trên vỉa hè Saigon.
Bàn ghế toàn là bàn ghế Ngã Bảy cả. Chiếc lọ dùng cắm hoa là
lọ sành Lái Thiêu.
Tuy nhiên, nhà nầy có khiếu thẩm mỹ. Nếu không họ đã treo
tranh sơn mài xanh xanh đỏ đỏ có gắn chiếc thuyền bằng ngà vào đó, họ đã sắm lọ
rẻ tiền của Nhựt Bổn rồi.
Long với tay lấy báo xuống xem qua : vài tờ báo hằng ngày
quen biết, một tờ tuần báo chánh trị. Chỉ có một quyển sách thôi: quyển "
Trại Bồ Tùng Linh ". Nhà nầy thật là biết điệu. Đọc " Trại Bồ Tùng
Linh " ở đây phải chỗ vô cùng.
Long lật vài trang đầu và vài trang cuối sách để xem coi lần
tái bản nầy có thêm bớt gì lạ không. Chàng nhớ lại cảm giác rờn rợn mà chàng đã
có, khi đọc truyện nầy lần đầu cách đây mười mấy năm. Đó là một nỗi ghê rợn dễ
ưa hơn là cái kinh sợ êm đềm nơi trẻ con khi chúng nghe kể chuyện ma.
Bỗng Long rợn người lên thật. Hay là mình lạc vào động hồ ly,
chàng tự hỏi thầm. Câu chuyện kỳ quặc quá để có thể là một câu chuyện thật.
Càng đáng sợ hãi hơn là ở đây có đến sáu con hồ ly…
° ° °
Hoa bưng vào phòng bịnh một chiếc mâm gỗ mít tròn, mượn của
hàng xóm. Các gia đình miền Nam ở chợ không dùng mâm nữa từ mấy mươi năm nay rồi,
nên Thái huyên trang có cần đến món đồ ấy là phải đi mượn.
Trên mâm, một tô gì lên hơi nghi ngút tỏa mùi thơm bắt đói bụng
ra, mùi hành tây chiên, Long đánh hơi nghe biết như vậy.
Hoa đặt mâm xuống bàn và nói:
- Chị Hồng tôi ngại ông còn yếu, ăn cơm không tiêu hóa nổi
nên nấu cháo.
- Cô Hồng nghĩ đúng lắm. Mà tôi cũng thích cháo lắm. Nhưng mà
ăn rắc rối như vầy, chỉ khổ cho nhà.
- Có gì đâu mà rắc rối, ông.
- Thì phải lo thêm một món ăn, thêm bao nhiêu là công việc. Cứ
cho tôi ăn cơm theo nhà, hẳn giản dị hơn.
- Không hề gì, bây giờ tôi đút cho ông ăn nhé?
- Ý chết! Trời, phiền phức quá như vậy, tôi ngại lắm. Như thế
nầy, cô để mâm lên ngực tôi, chêm mền cho nó đứng lúc lắc, rồi tôi múc mà ăn lấy.
- Tùy ý ông.
Khi chiếc mâm đã được kè vững vàng. Long cầm muỗng nhưng vẫn
chưa khởi ăn.
- Cháo gan, cô Hoa nói, nếu ông không ăn ngay thì gan sẽ
chín, hết ngon đi.
- Cháo gan chín thì hết ngon thật đó. Nhưng chín thêm một
chút xíu trong cháo hết sôi, sẽ không hỏng lắm đâu cô. Tôi có đọc sách thuốc về
người Tàu, nên ngại ăn nóng lắm.
Tò mò, cô Hoa hỏi:
- Sách thuốc gì mà về người Tàu?
- Đó là một quyển hồi ký của một vị y sĩ Pháp đã ở bên Tàu
trên hai mươi năm.
Ông ấy bảo người Triều Châu ưa mắc chứng ung thư nơi cuống họng.
Ông ta đã ra công nghiên cứu trên mười năm để tìm ra nguyên do coi tại sao bịnh
ung thư thường phát nơi cuống họng trong xứ Triều Châu thì ông tìm ra được
nguyên do như sau đây: Người Triều Châu rất thích ăn nóng, lắm khi họ múc cháo
đang sôi trên bếp mà ăn ngay và bảo rằng sách thuốc của họ dạy rằng ăn nóng thì
tốt. Cuống họng của họ vì thế mỗi ngày bị cháy một chút cho đến vào một tuổi
kia thì họ bị ung thư.
Hoa cười dọn rồi nói:
- Nhưng lâu lắm ông mới ăn cháo gan một lần, làm gì đến cháy
cuống họng được.
Long cũng cười xòa, khi chợt nhận ra mình đã lo sợ vô lối.
Chàng múc một muỗng cháo, cẩn thận giữ cho muỗng nằm ngửa một
cách thật thăng bằng rồi từ từ hạ muỗng xuống ngang miệng. Muỗng đầu ấy chàng
múc rất may mắn vì trong đó có đủ cả: thịt bằm, gan sống, hành ta, và hành tây
chiên.
Tối hôm qua, Long chưa ăn gì. Đau đớn quá, nên quên đói. Tách
và phê khi sáng dường như đánh thức sức đói của chàng nên giờ ăn cháo nghe ngon
lạ. Mà cháo cũng nấu khéo thật, nên chàng khen:
- Cô Hồng quả là người nấu bếp tài tình.
- Chị hai tôi kia mới là tài. Tụi tôi đứa nào cũng chỉ xoàng
xoàng thôi.
- Không, tôi khen thật tình chứ không phải vì lịch sự. Nếu
xoàng mà được khéo như vầy, thì nhà nầy là quán quân nấu cơm trong nước.
Long ép hai hàm răng lại, miếng gan chín sơ lớp bọc mỏng ở
ngoài, bể ra, và nước gan ngọt rỉ trên lưỡi chàng khiến chàng không muốn nuốt
mà cứ để yên đó đặng ngậm mà nghe cái vị gan sống tuyệt diệu kia.
Cô Hoa ra ngoài khi Long ăn gần xong. Cô trở vô với cái tách
nước trà nóng.
- Ba tôi bày vẽ con vịt, nhưng ông đã tự ăn cháo được thì chắc
ông cũng uống nước được và không cần con vịt phải không ông? Dùng vịt xem ra có
vẻ…
- Ừ, có vẻ bịnh hoạn quá, tôi thích nghiêng tách mà uống hơn.
Bấy giờ cô Quá vào, tay cầm một chiếc khăn lông nhỏ khổ.
- Để ông lau mồ hôi, cô nói. Ăn cháo nóng, thế nào cũng đổ mồ
hôi.
Hai cô con gái chưa ra thì ông Nam Thành đã vô.
- Sao, thầy nghe đỡ hay chưa?
- Thưa ông, đỡ nhiều lắm.
- Thầy có gì thì gọi chúng tôi. Thầy lắc cái chuông nhỏ nầy
thì có người tới.
Ông Nam Thành vừa nói vừa đưa ra một chiếc lục lạc chớ không
phải chuông, và thêm:
- Thôi, thầy nghỉ trưa.
Cả ba người đều lặng lẽ đi ra. Long thấy mình được săn sóc
châu đáo quá, nên hơi khó chịu. Nếu người ở Thái huyên trang lơ là hơn, chắc
chàng cũng sẽ khó chịu. Nhưng sự vừa chứng không thể có được, người ta tống cổ
chàng đi ngay, hay người ta quấn quít quanh chàng để làm cho chàng dễ chịu,
không thể khác hơn được.
° ° °
Thái huyên trang ăn cơm trưa bữa đó ở sau bếp chớ không phải
tại buồng ăn như mọi ngày.
Ông Nam Thành tiên liệu rằng vợ con ông thế nào cũng nói đến
khách, nên ông muốn họ ngồi xa khách, e câu chuyện thấu tai Long chăng.
Nhưng cả nhà không ai nói đến người bị tai nạn xe hơi cả. Họ đồng
lòng tẩy chay ông ta, đồng lòng làm reo im lặng suốt bữa.
Ông Nam Thành thấy sáng kiến của mình làm khổ vợ con, nên
không dám nhắc tới nó, sợ bà nổi xung lên bất tử. Bà Nam Thành không tha thiết
tới khách nhiều nên chỉ bàn rộng về vụ giựt hụi mà bà thấy đăng trong báo khi
sáng.
Bốn cô con gái thì cố nhiên tránh đả động đến một thanh niên
vào hạng Long, mặc dầu họ rất cởi mở về việc chồng con. Họ chỉ cởi mở khi bàn tổng
quát về ái tình, về hôn nhơn thôi. Nói đến riêng một người, họ vẫn ngại như thường.
Gã tình nhơn, người vị hôn phu tưởng tượng là kẻ vô hình, là của chung, không gợi
nghi ngờ nào được. Một thanh niên bằng xương bằng thịt có thể gây xuyên tạc, và
ngộ nhận.
Lúc bữa ăn sắp tàn, ông Nam Thành hốt hoảng:
- Chết, không biết thầy ấy có đưa thơ cho ba chưa, nếu có, ba
để đâu, ba quên mất rồi.
Tất cả những gì bị đè nén, như được dở nắp cho bung lên.
- Quên thì thủng thẳng sẽ kiếm, làm gì mà sợ hãi dữ vậy, bà
Nam Thành cằn rằn.
- Chưa ba à, con thấy ông ấy chưa viết thơ, Quá nói.
- Coi bộ thi sĩ dữ, Hoa bàn. Cầm bút đặt lên giấy, rồi lại
nghĩ chuyện khác, quẹt bậy bạ lên đó.
- Sao mày biết là bậy bạ, Hương hỏi, người ta là họa sĩ, chắc
người ta gặp hứng nên phải vẽ phác ra liền đó chớ.
- À, ông ấy thế nào?
Cả nhà cười rộ sau câu hỏi của Hồng. Cô bé hôm nay vùi đầu
vào bếp mãi đến bữa ăn trưa, nên không rõ bịnh tình của khách ra sao.
- Khen chị dữ lắm đó. Quá vừa nói vừa cười. Nói chị nấu cháo
khéo số dách, tặng chị chức vô địch về ngành hỏa đầu quân.
Câu nói đùa của Quá là vị cứu tinh của bốn chị em. Từ đây, họ
dám nói đến người đó, một người đã biến thành đối tượng của sự cười đùa của họ,
và vì thế, hóa ra vô công phạt.
- Tao vái trời cho chúa nhựt này anh Bằng lên chơi. Hồng nói,
để ảnh trả thù dùm tao. Mầy đừng có làm phách.
Gì chớ về môn đùa các cô em họ về vụ đó, thì Bằng là tay có
nanh vuốt. Cả bốn cô em đến sợ anh ta, nên Hồng mới dọa thế.
- Biệt cửa sợ đó, Quá thách.
- Ừ, để rồi xem.
Họ vừa ăn cơm xong là trời phủ mây đen ngòm. Quá vội vã đi lấy
vải bố để che vách nơi buồng bịnh. Bấy giờ Long đã thiếp ngủ, nên nàng làm việc
thật nhẹ rồi rút êm ra ngoài.
° ° °
Trời mưa cho đến ba giờ trưa mới dứt hột. Quá cất đồ len
đương đan dở chừng vào bị, rồi bước qua phòng bịnh.
- Ông có lạnh lắm không? Nàng hỏi vì thấy Long đã thức.
- Thưa không, còn trái lại nữa. Mưa đầu mùa mà cô.
- Nhà cửa, vách, lôi thôi quá, tôi cứ lo gió vào nhiều.
- Tôi còn mong cho nó vào thường hơn nữa cô à.
Cô Quá nói " Gió vào nhiều" và ý cô muốn chỉ về lượng.
Nhưng Long lại nói " Nó vào thường" Tiếng Nó và tiếng Thường có thể
hiểu về sự năng vào của ai đó. Không rõ Long có cố ý nói hai nghĩa hay không,
nhưng Quá thì hiểu cả nghĩa đen lẫn nghĩa ngầm của tiếng " thường" ấy.
Nàng bối rối lên và bỗng dưng đâm ra hổ thẹn. Lần đầu tiên cô
gái rắn mắc và kỳ khôi ấy mắc cỡ trước một người con trai.
Đã sống nhiều, tuy năm nay chàng mới có hăm bảy tuổi thôi,
Long thấy là hiểu ngay. Chàng hối hận lắm khi nhớ ra tiếng Thường của mình quá
mờ ớ, quá phân hai, nên cô gái thơ kia mới ngộ nhận như vậy.
Chàng không yêu Quá, cũng không xem được nàng là một cô gái
thường ; trong gia đình nầy, người nào, chàng thấy cũng đáng kính nể cả, nên
chi chàng không thể để cô bé hiểu lầm mình như vậy mãi.
Chàng cố tìm một lời đính chánh khéo, nhưng tìm hoài mà không
ra. Khi người ta quýnh lên, người ta vội vàng và rất dễ sai lầm tai hại. Long
nóng nảy muốn phá tan ngộ nhận ngay mà vì bí quá nên nghĩ rằng chàng phải nhấn
mạnh về chỗ bé bỏng của cô gái, cho cô ta bị tự ti mặc cảm không còn nghĩ mình
được yêu nữa.
- Cô Út à, chàng hỏi, năm nay cô được bao nhiêu tuổi.
Không ai vô lễ đi hỏi tuổi một cô gái, Long nghĩ rằng Quá biết
như vậy. Chàng lại kêu cô bằng cô Út để cho cô ta nghe mình còn bé lắm nên mới
bị gọi và bị hỏi thế.
Nhưng Quá không hiểu và thấy đó là một bước tiến đến sự thân
mật của Long, nên đáp:
- Dạ, em hăm hai.
Cô xưng em, chớ không phải xưng tôi như trước và như các chị
của cô nữa.
Long hoảng sợ hết sức. Vô tình chàng đã xui cho Quá hiểu lầm
thêm, một sự hiểu lầm có thể gieo tai hại không biết đến đâu mà lường.
May sao, giữa lúc chàng đang khó nghĩ thì Hoa vào, tay cầm
đèn tọa đăng thắp dầu hôi. Nàng nói:
- Ba tôi nghĩ thắp đèn măng xông như đêm rồi chắc ông chói mắt.
Vả lại ông cần đèn chong sáng đêm, mà măng xong chong sáng đêm lại bất tiện. Vậy
xin ông bằng lòng với cây đèn dầu nầy.
- Dạ được, đèn dầu hôi là quí lắm rồi. Tôi có ở nhà quê một
lúc, họ không thắp đèn gì hết mới là khổ chớ.
- Nhưng như vầy ông không đọc sách ban đêm được nữa.
- Tôi không dám đọc sách ban đêm đâu cô.
- Sao vậy?
- " TRẠI BỒ TÙNG LINH" mà quí cô cho mượn, đọc ban
ngày cũng đã rởn óc rồi, đọc ban đêm, chắc tôi phải la làng.
Cả ba đều cười xòa, rồi hai cô gái lui ra.
° ° °
Thế là một chiếc đò dọc đã ghé bến, trên giòng Thiên lý.
Các cô Thái huyên trang đã tuyệt vọng từ mấy tháng nay, lại
càng tuyệt vọng hơn từ hôm xa lộ Saigon – Biên Hòa được khởi công.
Xa lộ ấy sẽ xuyên tạc con đường Thiên lý, đưa sự quan trọng
qua hết bên kia, và khúc đường trước nhà sẽ cô quạnh như một con đường làng.
Nhưng người trai mong đợi đã đến trước ngay khúc đường của họ
bị mồ côi, đến trong một trường hợp kỳ dị, gần như họ ước trong mơ.
Hôm đầu các cô bị xúc động mạnh trước tai nạn nên chỉ nhớ đến
sự ghê gớm của vụ lật xe thôi. Bây giờ ác mộng đã qua, các cô lắng nghe tình cảm
mình xem nó thế nào khi giấc mơ hão hằng ngày đã được thực hiện.
Cô Hương vỡ mộng ngay từ lúc cô săn sóc lần đầu cho người
khách trẻ tuổi. Không, cô không còn son trẻ nữa để có thể bị được lôi cuốn
trong những cuộc phiêu lưu tình ái hay tình cảm nào. Người mong đợi còn trẻ, dường
như là trẻ hơn cô, khó lòng mà bảo yêu cô được, cô biết thế.
Cô Hồng tuy mong gặp lại người tình cũ, chớ không phải mong
hão một tao nhơn mặc khách nào, nhưng vậy, cô vẫn nghe lòng xao xuyến khi người
nầy đến.
Y đến, rồi y lại thố lộ niềm riêng, nào là bị tình phụ
..v..v.. khiến cho Hồng như bị y nắm con dao đang cặm trong tim cô mà lay động.
Cô nghe niềm đau cũ đang tạm êm dịu bỗng thức dậy mà hành hạ cô.
Tuy nhiên cô không ân hận đã đón tiếp người khách bất ngờ ấy.
Đau khổ dầu sao cũng vẫn dễ chịu hơn là cái trống rỗng của những ngày tháng bằng
phẳng, không thấy tăm dạng hy vọng nào cả.
Cô Hoa thường được người ta khen là gái có bản lãnh nên cô
hay lập dị để tỏ ra ta đây quả thật có bản lãnh.
Vụ nầy là một đầu đề cho cô đùa. Cô bảo đó là một cuốn tiểu thuyết
mà kết cuộc sẽ không hay ho gì đâu. Đứa nào dại, nhảy vô làm nhơn vật cho tiểu
thuyết ấy, sẽ khổ cho mà xem.
Cô chế nhạo Long là một thanh niên nhiễm tiểu thuyết, làm bộ
lãng mạn để thơ mộng hóa mọi việc, nói thì châu mày, làm thinh cũng châu mày, luôn
luôn ra vẻ nghĩ ngợi đâu đâu.
Tóm lại cô làm như ta đây không mảy may bị chuyện ấy làm xúc
động, và ta sẽ mất uy tín đi, nếu ta để tâm đến một chàng thanh niên mới đến
trong đời ta.
Cô Quá, trái lại nghe lòng xao xuyến lạ kỳ. Cô gái nầy, lúc
còn ở thành, chưa biết yêu. Cô chỉ mới bắt đầu bâng khuâng từ khi dọn về Thái
huyên trang thôi, bâng khuâng trước những đám mây chiều, trước trận bay của
trái sao, trái dầu, trướ giọt tranh xoi cát bên thềm hay đánh nhạc lên một cái
chén bể vứt ngoài sân.
Người khách đến giữa lúc tình yêu của cô mới lố dạng, còn đi
bơ vơ như một con thuyền không bến. Có phải đây là bến trong hay không, con
thuyền tự hỏi, rồi ngập ngừng muốn cặm sào.
Bà lang băm Hương nhờ tổ đãi hay sao không rõ mà qua ngày thứ
nhì, con bịnh đã ngồi dậy được một mình.
Sáng hôm ấy Long giựt mình thức dậy khi nghe con gà trống tơ ở
nhà gáy lên. Chàng buồn cười lắm vì cái giọng bể như giọng con trai mười bảy của
nó, muốn cố gắng cho thanh, cho oai, nhưng càng cố càng nghe khàn khàn và vụng
về. Vui vẻ trong lòng, Long quên rằng mình đau ốm. Chàng ngồi dậy như không bị
trặc chơn bao giờ cả, và lạ quá, ngồi được như thường, không còn nghe đau đớn nữa.
Ngồi xong, người họa sĩ trẻ tuổi nầy sực nhớ lại mọi việc và
mừng rỡ vô cùng. Có trặc chưn gãy giò mới biết đi đứng được là sướng. Suốt ngày
hôm qua, Long nghe bực bội vô cùng. Chàng nghe quanh chàng người ta sống, và
chàng thèm sống biết bao! Cái ánh nắng mà ngày thường chàng xem như không có,
nay sao mà quyến rũ lạ thường. Ngoài kia có lá rụng, có chuồn chuồn bay, có chó
chạy, thế mà chàng phải nằm ì ở đây, không cục cựa được mà cũng chẳng nhìn những
con vật ấy cục cựa được thì có khổ hay không?
Bây giờ thì sướng rồi đấy nhé! Chàng thò chơn xuống đất để
tìm guốc dép, nhưng chạm phải đất lạnh teo.
- À!
Long à một tiếng dài rồi nhớ thêm ra là đêm ấy mình đi giầy.
Chắc chủ nhà cất giầy mình đâu đó, mà không cho mượn guốc dép gì cả, vì không
ai tiên đoán được hôm nay mình khỏi bịnh.
Long chấm những ngón chơn của chàng lên nền đất nện láng, cho
nó làm quen với cái lạnh.
Giây lâu, liệu chừng cỡ bước xuống hẳn chắc không nghe ghê
chơn nữa, chàng hạ hết hai bàn chơn xuống. Chàng vừa chống chơn để cất mình lên
khỏi mặt đi văng thì nghe đau như ai bẻ gãy xương chàng.
Long thả rơi mình trở xuống đi văng, cắn răng mà chịu, giây
lát mới nghe bớt đau. Chàng lẩm bẩm:
- Chưa được!Chưa được! Nhưng cũng đỡ khổ, có thể ngồi mà ăn uống.
Long cử động thử hai chơn thì không nghe gì nữa cả. Chàng đập
hai bàn chơn lại với nhau để phủi bụi rồi rút chơn lên đi văng, ngồi xếp bằng lại.
Phát động cử chỉ ấy, Long buồn cười hết sức nhớ lại từ ngữ
" Rửa chân cạn" của nông dân, và thấy lối nói của họ bóng bẩy một
cách linh động.
Long ngồi nghe gà gáy rán những chập cuối cùng, nghe xe lửa
hú đằng xa, và nghe tiếng xe bò lạch cạch, lụp cụp trên đường nhựa.
Một lát sau, những chuyến xe đò đầu tiên trong ngày chạy
ngang qua, nhắc lại lần nữa tai nạn của chàng.
Long bắt đầu băn khoăn. Ngày hôm qua chàng phải nằm luôn, để
cho người ta dâng cơm và nước thì còn coi được. Hôm nay đã ngồi dậy được nhưng
vì chưa thể đi đứng nên phải ngồi mà ngó họ phục dịch mình như săn sóc đứa bé
ba tháng, nó sẽ khó chịu cho mình biết bao!
Nghĩ tới đó, Long nằm xuống và quyết định giả đò chưa đỡ bớt
để khỏi chịu cái ái ngại vừa thoáng thấy.
Ngày hôm đó những gì xảy ra hôm trước vẫn diễn lại y hệt: cà
phê sáng, đánh dầu, thoa bóp, báo sáng, cơm trưa, nói chuyện với vài người
nhà..v..v..
Long ngạc nhiên lắm mà không thấy bóng cô Hồng. Chàng nghe
nói rằng hôm qua tới phiên cô ấy làm bếp . Nghĩa là hôm nay tới phiên người
khác. Cớ sao cô ta không vào đây.
Hôm nay chỉ có hai người săn sóc chàng: bà lang băm, lẽ cố
nhiên vì không ai đủ khả năng thay thế cho bà, và cô Quá bưng cơm bưng nước
vào.
Cô Hoa có lẽ đã tới phiên làm bếp nên không thấy dạng.
Muốn gặp mặt lại người đã gây tiếng sét trong lòng chàng,
Long định hỏi tin cô ấy mà không dám. Chàng sốt ruột lắm không phải vì ngỡ cô ấy
đau ốm hay bị tai nạn gì, mà vì chàng cho rằng cô ta thờ ơ với chàng nên không
buồn đến. Chàng sốt ruột muốn gặp mặt cô ta, nói qua nói lại vài lời để đoán ý
nghĩ của cô.
Ngoài cái nôn nao, Long lại thấy thất vọng như một đứa bé được
nuông chiều, cha me bận một tí, quên cậu một tí là cậu nũng nịu ngay. Hôm qua
người ta ra vào tấp nập, chàng ngại lắm.Hôm nay người ta ra vào vừa phải chàng
lại nghe tủi thân. Một con bịnh thì hai người săn sóc là đủ lắm rồi, còn đòi hỏi
gì thêm? Thế mà...
Mãi cho đến xế chiều, Hương vào thoa thuốc lần thứ nhì, Long
mới dám đánh bạo hỏi:
- Thưa cô hôm nay ai làm bếp?
- Em Hoa tôi.
- Hèn chi tôi ăn nghe khác.
- Khác làm sao được, Hương cười mà cãi lại như vậy. Hôm qua
ông chỉ ăn cháo. Bữa cơm hôm nay, cho dẫu ai nấu, ông cũng không thể nghe khác.
Long giựt mình. Thì ra khi con người ta giả dối thì con người
ta ló đuôi cùng khắp thân thể, không giấu được, mặc dầu khéo léo bao nhiêu.
Nhưng chàng cũng cãi bướng.
- Nghe thấy được chớ. Bằng cớ là tôi đã nghe thấy.
Hương tánh thật thà, không nghi kỵ nên bỏ qua rồi hỏi:
- Thế em Hoa tôi nấu có khéo hay không ông?
- Khéo lắm, mỗi người một vẻ, nhưng ai cũng có đặc điểm
riêng. Tôi chỉ ăn được món ăn của mẹ tôi nấu thôi, chị bếp ở nhà tôi chỉ được lặt
rau, rửa chén là cùng. Quí cô là những người thứ nhứt, ngoài mẹ tôi, nấu ăn tôi
ăn thấy ngon.
- Ông có khen quá lời hay không?
- Không, thật đó... à cô Hồng hôm nay chắc rảnh?
- Dạ nó rảnh... nghĩa là nó khỏi làm bếp một ngày, nhưng cũng
phải làm công việc khác.
- Nhà nhiều công việc lắm sao cô?
- Không nhiều, cũng chẳng ít: cho heo, cho gà ăn, hái rau bán
chợ, săn sóc cây trồng v. v..
- Nhưng cô Út vẫn vào đây được?
Ý Long muốn hỏi: "Bận thì ai cũng bận cả, sao người lại
vào được, người thì không".
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét