Thứ Bảy, 30 tháng 9, 2023

Ái ân thâu ngắn cho dài tiếc thương 1

Ái ân thâu ngắn cho dài tiếc thương 1

Quí xem đồng hồ thì thấy mới có bốn giờ chiều, nhưng bức trần mây thấp lè-tè che kín vòm trời cứ cho chàng cái cảm giác rằng sắp tối đến nơi.
Vả đường cũng xa, dạo này chạy xe đêm qua những cánh đồng vắng minh mông, không được vững bụng lắm, nên chàng vội vã sửa soạn ra đi.
Chàng rời bắc Cổ-Chiên, ở bên này hồi bốn giờ hai mươi, phỏng định lên tới bến đò Rạch-Miễu chậm lắm là năm giờ hai mươi ; qua đò mà có tốn bốn mươi phút cũng chẳng sao, vì như thế tám giờ tối, đã về tới Saigon rồi.
Quí không thích mắc mưa trên xe vì hai cây chổi quét nước nơi tấm kính gió đã hỏng, nên chi chàng cho xe chạy khá mau, mặc dầu đường hẹp lắm.
Độ mười lăm phút qua. Đến một nơi nào đó không rõ, bỗng từ một gốc dừa già trồng ở vệ đường, xuất hiện một bóng người mặc toàn đen. Người ấy đưa tay vẫy xe. « Còn xa quá – Quí nghĩ – chắc họ lầm xe mình với xe lô ». Nghĩ vừa xong ý đó thì xe chàng lướt tới đủ gần nơi ấy để chàng thấy kẻ bắt xe chàng là một người đàn bà.
Cứ vài giây qua là chàng biết thêm được một điều: đó là một thiếu nữ đẹp, ăn mặc sành như người ở các thành phố lớn.
Xe chàng đã đến gần người ấy, để cô ta biết chắc rằng đó là xe nhà. Nhưng chàng ngạc nhiên lắm mà cứ thấy người khách đón xe tiếp tục đưa tay ra.
Trong giây phút, Quí phát sợ lên. Nỗi sợ tiền kiếp của loài người trong những chiều sấm chớp, từ đời tiền sử còn truyền lại đến ngày nay trong huyết mạch của Quí, hợp lại với nỗi sợ vì tình trạng bất an hiện nay trên những truông vắng, xui chàng làm lơ, trông về đàng trước và cho xe chạy luôn.
Nhưng nghĩ sao không biết, chàng bỗng hãm xe lại thình lình, và vì xe bị thắng gấp nên người tài xế đang ngủ gục ở băng sau, chúi nhủi tới trước, đập mũi vào lưng băng chàng ngồi. Anh ta giựt mình rồi khủng khiếp, kêu lớn lên : « Chết rồi, trời ơi ! »
Quí cười ngất hỏi :
– Có sao không anh Chín?
– Lỗ mũi suýt ăn trầu và đầu suýt bịt khăn đỏ. Gì đó cậu ?
Quí không đáp, chàng bận de xe lại, vừa de vừa nhìn qua khung kính sau. Thiếu nữ áo đen bươn bả chạy tới. Gió chuyển mưa thổi mạnh, dán sát tà áo trước của nàng vào người nàng, trong khi tà áo sau lưng bay phấp phới.
Nàng chạy tới, xe lui lại và hai người gặp nhau giữa quãng đường một trăm thước mà Quí đã chạy lố qua.
Thiếu nữ thở hổn hển, mặt ửng đỏ vì mệt, nói gần không ra hơi:
– Thưa ông, em cần lên Bến-Tre ngay, nhưng sợ không còn xe đò, nên xin phiền ông cho em xin quá giang.
Quí hối hận đã sợ tầm phào một thiếu nữ xinh đẹp và yếu đuối như thế, nên mau miệng nói:
– Rất vui lòng, mời cô lên.
Chàng mở cửa trước ra, nhưng thiếu nữ đã quày quả toan chạy đi, nói vói lại:
– Thưa ông, cho phép em đi lấy hành lý, em gởi đằng quán kia.
– Cô ơi, cô khỏi phải nhọc công nữa, mời cô cứ lên, tôi de xe lại mau hơn là cô chạy bộ.
Thiếu nữ chạy được bốn bước, vừa qua khỏi đuôi chiếc xe đỏ của Quí thì dừng lại. Trong khi ấy thì xe cũng đã de đến nơi nàng đứng.
– Mời cô lên.
Không e ngại, nàng vén áo bước lên xe và đóng cửa lại. Quí tiếp tục cho xe lùi đến trước cái quán xép dựng lên sau gốc dừa. Đó là một nếp nhà lá hai căn cất trên đất trầm thủy nên có lót ván bằng tre đập thành vạn. Quán bán chút ít hàng tạp hoá: thuốc giấy, dầu hôi, giấy vàng bạc, đèn dội, đèn cầy và nước ngọt với lại dừa tươi.
Chung quanh quán, xa trong kia, lơ thơ vài nếp nhà lá khác và một bờ đất bên hông quán đưa vào trong xa nữa, đến một hòn đảo dừa giữa ruộng minh mông.
Quán vắng teo. Hai vợ chồng người chủ quán bó gối trên một bộ ngựa mỏng, trong khi năm sáu đứa con nhỏ của họ đang chơi gì trên sàn tre không rõ.
Cô gái xuống xe, chạy vào quán, lấy chiếc va-ly nhỏ để trên bàn và nói :
– Cám ơn anh Tư, chị Tư. Anh chị ở lại mạnh giỏi nha.
– Cô đi mạnh giỏi, lâu lâu về chơi.
– Dạ.
Mãi đến lúc sang số bốn, Quí mới tìm được câu chuyện để nói với người khách quá giang:
– Thưa cô, chắc cô cũng ở gần đâu đằng quán ?
– Dạ, nhà ba má em ở trong xóm, giữa cái đảo dừa mà ông thấy ở đàng xa.
– Sao cô lên tỉnh tối như vậy ?
– Thưa, em về Saigon. Nhưng lên được trên Bến-Tre là chắc chắn có xe luôn luôn. Xe Cổ-Chiên, em sợ trời tối mà mưa, không có khách, họ không lên, nên mới phiền ông như vầy. Em cần về Saigon ngay nội đêm nay.
Quí không tìm được gi nữa cả để hỏi người ngồi cạnh chàng. Chàng là một thanh niên lịch sự, không thích tò mò về đời riêng của người khác, và không thích tán một cô gái đang chịu ơn chàng, cho dẫu là một cái ơn nhỏ mọn thôi. Như vậy còn biết nói gì nữa bây giờ !
Mưa đầu mùa, chuyển dữ, hầm hè cho người ta lo, nhưng không rơi được. Gió nhiều quá, nhứt là vì xe chạy mau, nên Quí thoáng thấy mái tóc dài của cô gái bay tỏa ra sau, còn tóc con trước mặt nàng thì phất phơ và xơ rơ trên trán nàng.
Xe chạy vùn vụt, vì Quí muốn về Saigon sớm, mà cũng vì có cô gái đẹp đang ngồi bên cạnh. Không phải để lấy le với mỹ nhân đâu mà chàng cứ đạp ga để gia tăng tốc độ. Nhưng khi một thanh niên ngồi gần một cô gái đẹp thì hắn đâm ra nghĩ vẩn vơ, nhứt là trên một chuyến viễn du chung, gần như là chỉ có độc hai người thôi.
Hắn nghe phấn khởi, nghe như hắn bay bổng lên vì tưởng tượng nhiều quá, và tự nhiên là hắn chạy mau mà không hay.
Quí đã thấy đại để là cô gái ấy đẹp lắm, nhưng chưa kịp ngắm kỹ cô ta. Chàng nhớ đến những cuộc kỳ ngộ trong tiểu thuyết, trong phim ảnh và mơ một cuộc phiêu lưu kỳ thú trên đường ình với con người gặp gỡ bất ngờ này.
Chàng lại đoán cảm nghĩ của cô gái về chàng.
«Chắc cô ta ngỡ mình bảnh lắm vì mình đi xe nhà, lại có tài xế ngồi sau mới là sang nữa chớ! Nhưng mình có bảnh trai hay không nè ? Chắc cô ta không cảm tình với mình, nên chỉ trả lời thôi, mà không nói gì cả»
Lâu lắm chàng mới tìm thêm được một câu :
– Tôi cũng về Saigon, nếu cô thấy không bất tiện cho cô, tôi xin đưa cô về luôn trên ấy, khỏi mất công sang xe.
Họ đã gần vào tỉnh lỵ Bến-Tre và Quí nghĩ đến cuộc chia tay sắp tới nên hoảng hốt, cố tìm mới nói được điều ấy.
Cô gái làm thinh suy nghĩ một lát rồi đáp:
– Chỉ sợ phiền ông lắm thôi.
– Không phiền gì đâu. Tôi không có ghé đâu cả, cũng không phải rước ai dọc đường.
– Như vậy em xin cám ơn lòng tốt của ông nhiều.
– Không dám.
Họ đã qua khỏi châu thành, nhắm bến đò Rạch-Miễu mà thẳng tiến.
Bỗng Quí giựt mình khi chợt thấy tấm lắc ghi tên và địa chỉ chủ xe. Chiếc Aronde này, chàng mượn của bạn. Anh bạn tử tế quá, cho luôn tài xế đi theo, để đỡ đần tay chơn chàng.
Chàng không bị tự ti mặc cảm về cái nghèo của chàng, nhưng đã trót bị người ta ngỡ là mình giàu thì khó lòng có can đảm chịu đựng một sự thất vọng của người ta.
Tấm lắc đề : Trần-Công-Minh, Thầu-khoán, 178 Phan-Thanh-Giản. Bây giờ nàng có thế ngỡ Quí là Trần-Công-Minh. Nhưng hôm nào đó, có thể nàng sẽ ghé qua địa chỉ này mà nàng cố nhớ, để thăm đáp lễ, chừng ấy nàng sẽ biết tất cả sự thật thì không hay chút nào.
Cũng may là chiếc lắc gắn bên phía tay lái, và nét chữ sơn đỏ đã tróc nước sơn trên một nền đồng đã đóng ten thì có thể nàng ngồi xa không đọc được.
Hôm ấy là ngày chúa nhựt, nên người Saigon về thăm xứ sở, trở lên rất đông. Họ tới bến đò thì phải đậu sau hơn hai mươi lăm chiếc xe đò và xe nhà.
Cả ba người trên xe đều sốt ruột trông thấy. Họ xuống xe và Quí nói với người khách quá giang :
– Ta đi ra mé sông cho mát, với lại để kiếm món gì uống cho đỡ khát.
Đoạn day ra sau, chàng mời người tài xế của bạn mà chàng có bổn phận trọng đãi:
– Đi uống nước anh Chín.
Anh Chín vâng dạ nhưng vẫn đứng đó, đợi hai người đi một đỗi đường rồi mới chẫm rãi bước theo. Thật anh ta «Điệu» hết sức.
Bấy giờ, băng ngang đường, sang vỉa hè bên trái, họ đi thong dong như người nhàn rỗi đi dạo phố, Quí mới có dịp quan sát cô gái áo đen. Chàng lịch sự nên nãy giờ không dám nhìn cô ấy kỹ, chớ không phải vì bận lái xe. Giờ, họ đi qua nhiều quán ăn, quán giải khát và Quí, đi bên phải của nàng, tức là đi phía ngoài đường, làm bộ dòm bên trái của chàng để chọn quán, hầu có dịp ngắm người đẹp.
Cô gái mặc một bộ đồ lụa nhơn tạo nặng mình, đen một mầu đen sậm như tang phục của đầm. Đành rằng cô ta đánh phấn, đánh khéo lắm, nhưng người ta biết được rằng dưới lớp phấn mỏng, nước da của cô cũng trắng mịn màng.
Chưa bao giờ Quí thấy được ba món đẹp của mặt người, nằm gần nhau mà hòa hợp với nhau đến thế : đôi mắt mà tròng đen y màu với sắc áo, cái mũi nho nhỏ và cao, nhưng cao dìu dịu chớ không nhô lên đột ngột như mũi phụ nữ Âu-châu, và cái miệng he hé mỉm cười khi chàng nói đùa một câu, cái miệng ấy có thể an ủi ngay bất kỳ gã sầu tình sâu đậm nào.
Câu nói đùa của chàng như thế nầy :
– Tôi biết cô sốt ruột lắm và muốn nhảy lên mấy chiếc xe đò đậu đằng trước, để về Saigon, nhưng cô trót nhận lời đi xe tôi rồi, cô ngại không muốn bước ngang như vậy.
Cô gái mỉm cười và nói :
– Ông sành tâm lý như vậy, em không chối mất công. Nhưng nếu tự ông, ông bảo em đi xe đò để mau tới nơi hơn thì em lại mang ơn ông một lần nữa.
– Tôi rất muốn cô được về sớm, nhưng lại không thích giải thoát cô ra khỏi lời hứa. Thành ra tôi chỉ làm thinh, tùy cô liệu định.
Cô gái lại mỉm cười, ở đây gần bờ sông nên gió càng mạnh hơn trên đồng gấp bội. Vì thiên hạ đông như vào ngày hội, nên cô gái cố nắm vạt áo cho khỏi bị gió thổi tốc lên, trong một dáng điệu giữ gìn rất khả ái.
Thiếu nữ y phục đen như vừa tắm với cả áo quần dưới sông mới lên hay vừa mắc một trận mưa to, áo quần dính vào da thịt và Quí đã mấy phen mắc cỡ với khách chờ đò vì đã mấy phen nhìn cô ta ngây ngất.
Những chiếc áo dài phụ nữ có gắn một sợi dây thun bên trong áo, chỗ eo ếch, đã giúp họ có eo một cách nhân tạo và nam phái thất vọng lắm mà gặp rất nhiều eo bằng dây thun như vậy.
Thỉnh thoảng gặp một cái eo tương tự như eo con kiến vàng thì không người đàn ông con trai nào mà dửng dưng được cả.
Người tài xế đi theo họ nhưng đã chừa một quãng cách khá xa giữa họ và hắn, ngạc nhiên lắm mà thấy sao họ đã qua khỏi cái quán cuối cùng tức là cái quán đầu bến, mà không chịu vào nơi giải khát nào cả.
Quí chỉ chiếc xe đầu đoàn, một chiếc xe đò và nói :
– Nếu tôi là cô, thì tôi rất thèm chiếc xe nầy. Nó được ưu tiên chạy nhứt và trừ phi xe quân sự, không xe nào giành nổi với nó quyền xuống trước dưới chiếc phà máy kia cả.
Phà máy từ bên kia Mỹ-Tho qua, còn chạy giữa sông và Quí chỉ tay ra ngoài ấy. Bỗng thấy hành khách chen nhau đi ra cầu bắc, Quí sực nhớ lại một điều, rồi mừng rỡ hết sức, chàng nói với cô gái áo đen :
– Hay là ta đi đò nhỏ theo họ để qua bên Mỹ trước, tìm cái gì ăn tối. Anh tài xế đợi năm bảy chuyến phà sau thì qua đó rước ta ở đây không có món gì ăn ngon cả, mà ta thì không thể nhịn đói tới chín mười giờ đêm.
– Tùy ông, hay là như thế cũng hay.
Quí vừa móc túi quần sau lấy bóp phơi, vừa day lại gọi người tài xế. Khi anh ta chạy đến nơi, Quí trao cho anh ta một trăm bạc và nói :
– Tôi đi đò nhỏ, đưa cô này qua trước bên kia, anh cầm lấy tiền này mà ở lại ăn cơm, rồi tới phiên xe ta qua phà thì anh đưa xe qua bên ấy sau.
– Dạ.
– Qua tới Mỹ, anh tìm tôi tại vườn hoa Lạc-Hồng, dài theo bờ sông, anh biết chớ?
– Dạ.
– Thôi, tôi đi đây anh Chín nhé. Nào mời cô xuống đò.
Hai người mau bước đi theo bọn hành khách khi nãy kẻo lại trễ đò nhỏ nữa. Bến đò Rạch-Miễu đặc biệt hơn các bắc Mỹ-Thuận và Bassac ở chỗ có vô số đò máy nhỏ. Tuy nhiên, đò nầy chỉ tương đối nhỏ hơn phà, chớ cũng khá to và chỉ đủ hành khách nó mới chạy.
Chiếc đò máy họ xuống cũng giống như bao nhiêu chiếc đò máy khác với hai dãy băng gỗ đặt dài hai bên, hành khách chia đều ngồi đối diện với nhau.
Không khí trong khoang đò bị một ngày nắng nung đốt và bị trận chuyển mưa đầu mùa dai dẳng này đè xuống, nên nóng hầm quá, mặc dầu gió bên ngoài thổi vù vù.
Day qua hỏi người bạn dọc đường, đang ngồi bên cạnh chàng, Quí thấy cô ta đang nhìn mặt sông mà châu mày.
– Cô khát lắm hay không? Tôi sợ trễ đò, phải đợi lâu, nên không kịp mời cô uống nước.
Day vào trong, cô gái cười đáp :
– Em khát lắm, nhưng nãy giờ bận lo uống nước sông nên đã hết khát rồi.
Bấy giờ đò đã len lỏi ra khỏi khóm đậu và đổ ra sông rộng mênh mông. Bất giác Quí nhớ đến danh từ «Ba đào» mà chuyện Tàu thường nói đến trong những đoạn mà nhân vật trong chuyện phải qua hai đại giang Hoàng-Hà và Dương-Tử.
Gió chiều, hơn thế, giông chuyển mưa trên sông Cửu-Long, luôn luôn xới lên những con sóng dễ sợ đối với ghe thuyền. Đò máy chỉ là một chiếc thuyền nhỏ có gắn máy, nên nó bị nhồi như chiếc vú cau trong thau nước mà một đứa bé nghịch đã quậy tay để gây một trận phong ba nhân tạo.
Khách qua đò toàn là người địa phương đi buôn bán, hoặc đi thăm bà con qua lại hai bờ sông mỗi ngày, nên họ quen đi, cứ vui vẻ nói cười và không ai tỏ ra lo ngại cả.
Thỉnh thoảng một chị đàn hà nói bâng quơ một mình :
– Sóng lớn quá!
Và không có tiếng vang nào phụ họa lại với chị ta hết.
Khúc sông Cửu-Long nơi đó lớn như ngoài cửa, và nếu không có đảo giữa sông thì có thể bảo là bắc Rạch-Miễu rộng hơn cả bắc Bassac nữa.
Bấy giờ sấm vang rền tứ phía và nhìn qua cửa đò, họ thấy những lằn sét dài vẽ những chữ «Chi» ghê rợn lên nền trời của hai hướng Tây-Bắc và Đông-Nam.
Trận mưa đầu mùa, âm ĩ chuyển từ hơn mười ngày nay thình lình đổ xuống dữ dội. Hai bờ sông bị xóa hẳn, ban đầu bức màn trắng đục còn mong mỏng, và người trên đò còn trông thấy lờ mờ cây cối xanh hóa đen, nhưng bức màn ấy dầy lần lên và như là từ bờ sông bay ra đò, trên đò chỉ còn trông xa được độ mươi lăm thước thôi.
Cây mưa to và đột ngột ấy chẳng những không làm tắt được ngọn gió mà trái lại như chọc cho giông thôi mãnh liệt và cuồng loạn hơn.
Quí là người miền Đông, ít có dịp qua sông lớn nên đã bắt đầu sợ hãi, mặc dầu chàng cố trấn tĩnh cho khỏi xấu hổ với người đẹp bên cạnh. Nhưng mà người đẹp, tuy là người địa phương, cũng khiếp sợ, và hơn chàng, nàng đã để lộ sự kinh khủng ra nơi đôi mắt của nàng.
Phà và đò máy từ bên Mỹ qua thì thường chạy bọc đầu trên của cù-lao giữa sông, nhưng hôm nay từ bên Rạch-Miễu qua Mỹ thì đò này lại chạy bọc đầu dưới.
Không biết trông thấy gì trong một cái chớp nhoáng mà anh tài công phụ la hoảng lên :
– Bậy rồi, ta đâm vào cù-lao, lấy tay lái lại, rẽ bên mặt để xuôi hướng Nam.
Xuôi hướng Nam tức là chạy xuống đầu dưới của cù-lao. Có lẽ anh tài công cũng đã thấy dạng bờ cù-lao mà họ đâm vào, nên anh ta lẹ làng lái mũi qua tay mặt.
Nhưng anh ta đã lẹ tay quá khiến đò trở mũi gấp, nghiêng triền một bên. Bấy giờ những chị đàn bà xem sóng gió không ra gì khi nãy lại kinh hoàng lên. Họ kêu la như đò đã chìm, rồi áp nhau mà chạy qua cái phía nào cao của chiếc đò, không nghĩ rằng đò mà chìm thì đứng bên cao hay đứng bên thấp gì cũng sẽ rơi xuống sông tuốt.
Đó là bản năng tự tồn của con người, quyết cứu vãn một tình thế nguy ngập bằng cách lập lại thăng bằng đã mất của chiếc đò.
Thăng bằng ấy tự nó lập lại lấy nó, vì đò tuy day mũi gấp cũng không đến đỗi nghiêng tới cái mức phải lật, và quả thăng bằng tự lập lại, nhưng tất cả hành khách đều đổ dồn lại có một bên, và cộng thêm vào đó cái áp lực của sức chạy của họ, nên chi bấy giờ đò lại nghiêng qua phía bên kia. Lại một phen hốt hoảng nữa và thiên hạ lại chạy trở về phía mà một số người đã và thiên hạ lại chạy trở về phía mà một số người đã rời bỏ ban nãy.
Đàn bà, trẻ con kêu khóc rùm lên, và hai anh tài công với lại cả Quí nữa, phải hét đến rát cả cổ họng :
– Đứng yên, chạy thì chết !
– Ai ở đâu ở đó !
– Phải bình tĩnh !
Cô gái áo đen tương đối bình tĩnh hơn những người khác, nhưng nàng níu lấy tay Quí và giữ chặt cứng trong tay nàng.
Nếu như hồi ngồi trên xe, hay lúc đi trên bến đò mà nàng làm thế thì chắc Quí đã sung sướng như được trúng số độc đắc. Giờ đây, chàng không nghe sao cả khi chợt ý thức về cái sức trì của cô gái nơi tay chàng.
Bao nhiêu mạng người sẽ chết nếu rủi ro xảy ra tai nạn, chính bản thân chàng, chàng cũng chẳng biết rằng mình sẽ cứu nó được hay không. Sông thì rộng, sóng gió lại to, và nếu đò lật thì tất cả đều bị lúng túng trong khoang hầm, khó lòng thoát ra được để mà lội.
Thiên hạ cứ chạy qua chạy lại như trò chơi cút bắt với cái chết, như là sợ thần sóng chụp họ nên chạy lên phía cao để tránh. Hai anh tài công hốt hoảng không giữ tay lái nữa, mà cũng chẳng quát tháo được nữa. Chỉ còn có Quí là còn cố bình tĩnh được :
– Chết bây giờ ! – Chàng hét thật to trong tiếng ầm ì của mưa, gió, sấm, chớp và khóc la. – Ai còn chạy bậy nữa, tôi đập một cây chết bây giờ !
Chàng vừa nói vừa cúi xuống gỡ một tấm ván sạp cầm nơi tay, hùng hổ cho hách dịch để dọa nạt người ta. Nhưng không ai xem chàng vào đâu cả, và cảnh hỗn loạn diễn ra một cách tuyệt vọng.
– Chết rồi, trời ơi !
Nhưng không chết, hay nói đúng ra, chưa chết. Cả đò chỉ kêu hoảng lên khi nó nghiêng quá độ, và vì thế mà phản ứng của họ chớp nhoáng và mạnh lắm, phản ứng làm trái lại luật thiên nhiên của trọng lực, mong lập lại thăng bằng cho chiếc đò. Vì thế mà đò lại nghiêng qua bên kia, và lần này không sức nặng nào xô nó trở lại được nữa cả vì nó đã nghiêng thật quá độ.
– Trời ơi, chết rồi !
Khung cửa đò phía bên chỗ Quí và cô gái đứng đã úp lên mặt nước, cả đò đều té lăn cù và Quí thoáng thấy hai đứa bé lọt xuống sông, sụp chân qua mấy cái cửa ấy.
– Chết rồi, ông ơi !
Quí cũng té nằm và bị cô gái áo đen ngã chận lên người chàng. Bấy giờ nàng mới kêu và ôm chặt lấy Quí.
Quí vừa gỡ tay nàng ra, vừa xô nàng xuống vừa nói, giọng xẵng :
– Buông tôi!
Rồi chàng lồm cồm ngồi dậy và lẹ như chớp, đứng lên. Chàng ngước mắt nhìn lên trên, giờ trên đầu chàng không phải là mui đò nữa mà là mấy mảnh trời vuông và xám xịt trông thấy qua mấy khung cửa.
Như con vượn, chàng vừa nhảy lên vừa vói tay níu lấy một cây khung cửa rồi rút mình lên. Chàng hành động lẹ hơn những lời nói ra để tả những hành động của chàng. Thế mà bấy giờ nước đã tràn vào khoang đò và ngập tới ống quyển của những hành khách đã đứng dậy được.
Nhiều hành khách sụp chơn nơi các khung cửa bấy giờ nằm ẩn dưới đáy nước và chìm luôn sau một tiếng kêu thất thanh. Họ lún xuống nước và khi đầu họ sắp chìm, sau hết, nghe khua một tiếng « úp » ngắn. Nước lấp kín ngay kẻ chìm và nơi đó không còn dấu vết nào cả. Những kẻ chưa hụt chơn không quan tâm đến cái chết thê thảm quanh họ vì họ cũng sắp chịu một số phận tương tợ như vậy.
Bấy giờ Quí đã ngồi trên hông đò, biến thành một tấm ván bằng mặt với mặt phẳng nằm ngang của đất, của nước, của mọi thứ vững chãi trên đời. Chàng thò đầu vào cửa, thòng xuống một cánh tay, nhìn cô gái áo đen đã đứng lên được từ nãy giờ, và kêu :
– Nhảy lên, nắm lấy tay tôi!
Cô gái tuân y theo lịnh chàng. Suýt một chút là nàng nắm hụt cánh tay thòng như một cái rễ cây đa ấy.
Quí, một tay phải vịn trên nầy kẻo ngã, nên chỉ rút được tay kia thôi chớ không thể giúp cô gái bằng cách nắm tay cô mà kéo lên.
Cô ấy cố rút mình lên để có thể dùng thêm một tay nữa. Khi hai tay cô nắm được cái cổ tay của Quí thì chàng hết lo, cứ cố mà rút tay chàng lên.
Cô gái không nặng, nhưng tại cái thế bất tiện, nên chàng phải nhọc sức quá. Bấy giờ chiếc đò vừa chìm xuống ngang hông, vừa lật úp lại, và khi nãy nó chìm chậm bao nhiêu thì càng giây, tốc độ chìm càng tăng bấy nhiêu. Hông đò nơi Quí ngồi đã dốc xuống, và chàng ngồi trong một thế chúi mũi tới.
Chàng hì hục với hòn đá treo nơi tay, sốt ruột vô cùng mà thấy sao hòn đá ấy lâu ra khỏi miệng giếng quá. Nhưng rốt cuộc chàng cũng kéo nó lên được.
Cô gái buông bớt một tay để níu be đò cho Quí đỡ nặng và bấy giờ, phụ lực với sự kéo rút của Quí, chính nàng cũng cố rút mình lên. Đò sắp lật úp, Quí bối rối hỏi :
– Cô biết lội không ?
– Biết.
– Ta nhảy nè! Ngồi đây nguy lắm. Đò nó chìm, nó rút ta theo mấy phút ta mới trồi lên được.
Khi cả hai cùng phóng ra ngoài kia, Quí thoáng thấy có mấy người cũng vừa thoát được theo lối của chàng.
Mưa không ngớt và sóng lớn đánh úp vào mặt của hai người đang lội song song với nhau. Quí mở miệng hỏi cô gái một câu, nói mới hai ba tiếng đã bị nước ùa vào đầy mồm.
– Cô biết... cù-lao... ở hướng.. nào không ?
– Kh..ô...ông
– Phải lội vô... cù.. lao... mới... được, vì đò... đã... xa.. bến... quá... không.. mong trở lại...Rạch-Miễu....
– Làm... sao !
– Cứ... lội... tới... đâu... hay đó...
Quanh họ, nhiều người khác cũng đang lội. Đò đã chìm hẳn, nhiều tấm ván nổi lên mặt nước và sau đó mấy mươi giây, một số hành khách cũng nổi lên. Có lẽ họ thoát được nhờ sự may mắn bất ngờ nào giúp họ tự nhiên lọt ra khỏi khoang hầm, qua các lỗ cửa.
Quanh họ là một bức tường trắng dày mịt, không ai còn biết phương hướng nào cả. Hai chị đàn bà giành nhau một cái thùng thiếc. Nhưng thùng chòng chành như cái trứng vịt nên cái chị giành được loay hoay một lát thì thùng đã vuột khỏi tay chị ta. Chỉ có một tấm ván mà đến bốn người níu, trong khi nhiều tấm ván khác trôi lềnh bềnh mà không ai buồn mó đến.
Quí với tay chụp được một ván sạp ngắn và gọi cô gái :
– Cô vịn lấy cho đỡ mệt.
Họ tiếp tục lội một hơi nữa và Quí nói :
– Phải liều cô à. Ta nhắm... đại một hướng nào đó mà... đâm... vào, dầu...sao cũng... tới được... nơi nào đó, chớ.. xàng quây.. mãi như vầy, sẽ chết đuối mất...
– Em nhắm... mắt theo ông.
Quí chưa quyết định. Có lẽ chàng cố nhớ lại những vị trí và phương hướng thay đổi liên tiếp từ khi anh tài công bẻ mũi thuyền ra để tránh đâm vào cù-lao, hầu nhận định vị trí và phương hướng hiện tại, tuy không chắc nhận đúng lắm, mà còn hơn là nhắm mắt tiến càn.
Đoạn chàng bảo người bạn đồng cảnh ngộ :
– Lội tới hướng kia !
Một lát sau, họ không còn thấy được ai nữa cả. Mỗi người, mỗi nhóm người bị một bức màn trắng bọc quanh họ, ngăn cách họ với người khác, với nhóm khác. Như thế, ai đuối sức thì chết, không mong trong bờ hay biết để tổ chức cuộc cứu vớt.
Mưa cứ nặng hột, gió cứ vùn vụt thổi, sóng cứ nhảy bổ lên đầu lên mặt họ. Họ lội như vậy không biết trong bao lâu, nhưng cả hai người đều nghe như là thiên vạn kỷ đã qua.
Nếu họ lội ngược trở lại bến đò Rạch-Miễu, tuy xa nhưng còn có nơi để mà tới, chớ như họ mà lội về hướng nguồn hay về hướng biển thì cái chết kể như nắm chắc trong tay : họ sẽ đuối sức trước khi mưa tạnh, nghĩa là trước khi người trong bờ hay biết tai nạn để đâm thuyền ra cứu họ. Lại có thể gặp phà nó đụng vào đầu mà nát óc.
Nghĩ đến những cái không may Quí tuyệt vọng hết sức. Trong giây phút, chàng sống tốc hành đời sống bình thường của chàng trên bờ, tại Saigon ; công việc mà chàng yêu mến phải bỏ dở, hạn hữu chàng sẽ ngậm ngùi thương tiếc chàng, cha mẹ chàng, hai bụi tre già ấy, phải khóc măng non.
Trong những trường hợp như vầy, người đẹp bên cạnh thật không có nghĩa gì cả. Tuy nhiên không vì thế mà Quí quên mỹ nhân được, vì cô ta vừa kêu :
– Ông ơi ! Em mệt quá !
– Cô ráng lên, một chút xíu nữa là đến nơi.
Đến đâu ? Quí cũng chẳng biết. Chàng nói thế để nuôi nấng hy vọng mà tăng cường ý chí của cô ta thôi.
– Ông ơi, em đã đuối lắm rồi !
– Cô nên cố gắng, một lát nữa thôi mà !
Bỗng Quí mừng như vừa bắt được vàng, kêu rú lên :
– Ta đi trúng đường, thoát rồi đây !
– Vậy à ?
– Ừ, cô xem sóng thì biết. Gió từ hướng đông-nam thổi vào và sóng cũng chạy đến chụp ta, từ hướng ấy, mà ta đang lội theo một đường thẳng góc với chiều hướng của sóng gió, tức là ta lội theo hướng tây-bắc, tức là ta đang đâm vào cù-lao, chắc chắn như vậy, không thể lầm được.
– Vậy thì may-mắn quá. Nhưng thật là uổng, em không hưởng được may mắn ấy. Em sắp buông tấm ván đây.
– Bậy nào, cô nên ráng lên chớ !
– Em... em thở... không ra... hơi nữa...
Quí chụp lấy tay nàng trong một cử động theo bản năng, chàng bỗng ý thức rõ lại là sẽ không cứu bạn được, bởi chính chàng cũng mệt lả, không mong đèo thêm một người vào thân.
Cô gái không la hoảng đâu vì cô vừa buông thật sự tấm ván ấy. Quí khủng khiếp mà thấy cô ta bỏ cuộc và nghe nặng lắm nơi tay chàng ; cô gái buông trôi và sắp chìm, có lẽ đã chìm rồi nếu Quí không nắm lấy cô.
– Thoát rồi !
Chàng reo lên, vì chân vừa đụng phải bùn non dưới đáy nước. Sức lực tàn lụn của cô gái bỗng dưng bừng dậy, và mỉa mai thay, bấy giờ, cô ta lại cố bám vào tấm ván và cố lội.
Nửa phút đồng hồ sau, họ đã đứng lên, nước tới bụng họ.
– Chơn em bị chôn trong bùn có lẽ sâu đến hai tấc tây.
– Tôi cũng vậy. Nhưng mệt quá nghỉ cái đã, rồi hãy lội vào, chớ không đi được trong bùn đâu.
Bấy giờ họ mới thấy rặng cây cối trong bờ lờ mờ qua bức màn mưa trắng xóa.
– Ở đây là đâu ông ?
– Chắc chắn là bờ cù-lao. Ta đang đứng trên bãi bùn của bờ ấy, và nước đang ròng. Nếu nước lớn mà ta đứng cạn như vầy thì chỗ ấy phải gần sát bờ, đưa tay là chạm cây cối ở bờ rồi : cù-lao chỗ này đất thấp, nước lớn bò vào xa trong đất.
Họ nghỉ độ một phút đồng hồ và cả hai, kỳ lạ thay, bấy giờ hết sợ, mới bắt đầu nghe lạnh, cô gái rùng mình mấy lượt và đánh bồ-cạp, hai hàm răng chạm nhau, cô ta cố giữ, cắn chặt lại nhưng không được.
– Nào ta lội vô bờ thôi cô.
Nhưng nàng không rút chân ra khỏi bùn được, vì hai cẳng đã mỏi rụng không còn sức lực nữa để làm cái cử động ấy.
Quí ngả mình trên nước và nắm lấy cô gái nơi nách mà xô tới. Chàng không có chỗ dựa nen không bứng gốc cô ta lên được.
Cả hai cùng lội độ một phút nữa thì nước đã cạn quá, phải đứng lên.
Bấy giờ họ bắt đầu đi, nặng nề như có hai trái chì treo nơi hai bàn chơn họ. Mực nước từ bụng họ hạ lần tới vế, tới đầu gối, tới ống quyển.
Sóng từ ngoài xa đổ xô nhau chạy vào bờ, rượt theo họ mà cứ vượt họ mãi vì sóng chạy mau mà họ thì đi chậm quá.
Họ đi từng bước, từng bước, nặng nề vì đuối sức và nhứt là vì bùn rị chơn họ lại mãi. Khi mà cơn nguy đã qua khỏi, bao nhiêu tàn lực mà con người gom góp lại để cố gắng thoát hiểm, bỗng dưng bỏ họ mà đi. Cô gái xem chừng cứ muốn ngã, mà chính Quí cũng không vững bao nhiêu.
Họ bước càng phút càng chậm và bấy giờ họ đã tới mé nước rồi. Tuy nhiên chơn họ vẫn cứ chôn dưới bùn đến hơn hai tấc. Mỗi lần họ rút chơn ra là nghe một tiếng «pho...óc» tựa như tiếng táp mống của một con cá lóc khổng lồ nào.
– Em đuối lả rồi ông ơi!
Cô gái nói xong câu đó thì thân hình cô ta xiêu xiêu như một cây trụ chôn không được sâu, bị gió thổi mạnh, xô nó ngã từ từ xuống.
Quí vội vã đưa tay ra đỡ và cô gái rơi trên hai cánh tay cứng rắn của chàng bấy giờ đã run rẫy vì lạnh và vì mệt.
Hình như là cô ta đã ngất đi lúc xỉu xuống, nhưng Quí không kiểm soát được điều ấy. Chàng bối rối, dừng bước lại để thở dốc một hơi.
Bấy giờ, chàng mới nghe cuống họng của chàng nóng bỏng và miệng chàng khô cạn, mặc dầu lúc lội, chàng đã bị uống nước khá nhiều, mỗi lần hả miệng ra để nói.
Trong một cuộc nỗ lực vô biên, Quí ẵm ngửa cô gái lên, chàng toan bước đi, nhưng lần nầy sức nặng của chàng được nhơn cho hai lần nên chơn chàng bị lún sâu hơn khi nãy, chàng cố giựt nhưng cảm nghe như có ai níu mà rị xuống.
Bước đi mấy bước, chàng cứ muốn vứt cục nợ trên tay xuống bùn cho rồi, vì nghe khó lòng mà tiến thêm được nữa.
Nếu như bãi sông là một bãi cát, và nước đang ròng thì hành động như vậy, không có nghĩa là bỏ rơi người mắc nạn. Nhưng bãi lại là bãi bùn, mà nước thì đã bắt đầu lớn lên, độ nửa tiếng đồng hồ nữa, khi mà chàng chưa lấy sức lại được, nó sẽ bò tới đây để chôn lấp người bất tỉnh.
Mưa đã dứt, nhưng hoàng hôn lại đổ xuống thay thế cho nước mưa. Chàng đứng lại thở dốc rồi lại khệ nệ bước.
Chơn của người bất tỉnh rơi lòng thòng, cày lên bùn non rất láng mặt, đào lên hai luống cày cạn, tạo nên một lực cản trở phụ thêm vào sức cản của bùn, vào cái mệt của người lâm nạn.
Một bước, hai bước, ba bước ! Chỉ còn độ mười thước nữa là tới đất cứng, nhưng Quí thấy cái quãng đường ấy sao mà xa thăm thẳm, như là không bao giờ chàng sẽ tới nơi được cả.
Một bước, hai bước, ba bước ! Cô gái trên tay chàng giống như bằng bông gòn, thứ bông gòn hút nước và càng giây càng hút lấy sự ẩm ướt nơi đây hay sao mà cứ càng giây cô ta càng nặng hơn lên.
Mốt bước, hai bước, ba bước, bốn... bước... năm, bãi bùn đã hết với mấy cái rễ bần, gốc bần nằm trên đất khô – khô chỉ là một lối nói, để đối chọi với bùn, chớ đám mưa vừa rồi đã làm ướt tất cả mọi vật.
Quí tiến lên hai bước nữa rồi đặt cô gái nằm cạnh gốc cây bần đầu tiên mà chàng gặp. Chàng nhẹ cả người.
Bấy giờ chàng mới có thì giờ để xây lưng ra sông. Ghe thuyền đông nghẹt ngoài giữa dòng. Chắc bờ bên kia đã hay biết tai nạn và đã tổ chức cuộc cứu vớt từ lâu rồi mà chàng không thấy.
Bờ bên kia đã bị xóa nhòa trong hơi sương chiều và Quí thấy vài ánh đèn leo lét trong làn sương trắng đó.
Chàng không buồn kêu gọi thử, vì biết không ai nghe, kêu rát cổ cũng chỉ hoài hơi thôi. Lặng lẽ chàng nhìn đêm, bấy giờ xuống mau lẹ trông thấy và trùm bóng tối lên đám ghe thuyền ngoài kia. Mặt sông còn giữ được chút ít ánh sáng, và đèn bên kia bờ đã tỏ rạng lên.
– Ông ơi !
Quí giựt mình nhớ đến người bất tỉnh bên cạnh chàng. Chàng day lại thì thấy lờ mờ cô ấy đang lồm cồm ngồi dậy.
– Cô nghe đỡ chưa ?
– Dạ, đã đỡ, nhưng khát quá và lạnh quá ! Đây là đâu ông ?
– Cù lao Rồng, đầu dưới. Cô đã nhớ ra tại nạn rồi chớ?
– Dạ nhớ, ta trôi dạt vào đây hả ông ?
– Ừ.
– Thật là hú vía!
Quí bước lên một bước là đã đứng sát cô gái rồi. Nàng cũng đứng dậy và hỏi :
– Làm thế nào ông ? Tìm nhà ai nghỉ đã, em vẫn còn mệt lắm, nhứt là lạnh vô cùng.
– Cô đi với tôi vào đây.
Ở đây trông ra ngoài sông thì còn thấy được bóng dáng người và cây cỏ, nhưng nhìn vào giữa đảo thì nó tối om như trong hang núi.
Quí tiến lên, chẫm rãi bước, và cô gái nối gót theo chàng. Lau sậy mọc cao khỏi đầu gối họ và những cành cây chĩa ngang, bị Quí vẹt qua, quất mạnh trở lại khi chàng qua khỏi nơi đó và đập lên người cô gái.
Bị quất roi đầu, nàng hốt hoảng kêu thét lên khiến Quí cũng hoảng sợ ngỡ nàng lại mắc phải tai nạn gì thình lình. Khi biết duyên cớ, chàng nói :
– Xin lỗi cô, tôi vô ý thật. Đau lắm hay không cô ?
– Dạ không việc gì, em chỉ phải một phen giựt mình vì bị quất thình lình.
– Ốp !
Tới phiên Quí kêu lên vì trán chàng chạm phải thân một cây gì đó không biết. Chàng đứng lại xoa trán và hít hà giây lát đoạn rẽ sang tay trái, không quên nói cho cô gái biết để rẽ theo chàng.
– Cô có nghe dưới chân gì lạ không ?
– A, ông hỏi em mới nhớ ra, thì ra nãy giờ em đi chơn không.
– Vậy à ? Tôi cũng quên mất điều đó.
Đôi guốc của nàng hẳn đã rời khỏi chơn nàng lúc đò lật và nàng ngã lăn cù.
Quí xót xa hỏi :
– Cô lạnh chơn lắm không ? Cô phải lấy giày của tôi mà đi mới được.
Từ phút gặp gỡ đến giờ, Quí mới nghe cô gái cười một lần. Tiếc là không lấy được hai hàm răng của cô ta. Cô gái cười ngất rồi nói :
– Em xỏ chân vào giày ông thì như trẻ con mới tập đi, xỏ chân vào giày của papa. Nó rộng thình, em làm sao đi được.
Quí bỗng nghe bao nhiêu mệt nhọc của chàng tiêu tan cả. Người đẹp ấy có vẻ lạnh lùng hết sức từ lúc đón xe quá giang đến lúc đò sắp chìm. Chàng đã mơ một giấc mộng thần tiên mà trong đó chàng và nàng cùng nhau viễn du trên một chuyến yêu đương kỳ thú, nhưng sự thật, với thái độ thờ ơ của nàng, đã làm cho chàng thất vọng nhiều.
Thế là người đẹp đã cười! Nhứt tiếu thiên kim ấy, chàng không trông thấy được trong bóng đêm dày mịt, nhưng chính nhờ thế mà hóa hay vì tưởng tượng giúp vào, cái cười vô hình nở ra, có duyên hơn tất cả cái cười nào ở thế gian này. Và phải chăng cái cười là sự biểu lộ cảm tình ?
– Ừ, cô đi chơn không và như vậy, chắc đã thấy rõ hơn sự thay đổi của mặt đất.
– Phải, đất ở đây ráo hơn những nơi ta đã qua.
– Có lẽ nơi đây là khu đất gò nằm giữa hòn đảo nầy.
– Sao chưa thấy bóng đèn nhà ai cả vậy ông ?
– Không, cù-lao nầy không có người ở.
– Không có người. – Cô gái sợ hãi kêu lên – có phải đây là cù-lao Rồng, nơi có trại cùi hay không ?
– Không, đây là cù-lao Tân-Vinh. Thật ra cù-lao gồm ba đảo, các đảo dính liền nhau bằng bãi bùn hẹp khi nước ròng. Các bãi bùn ấy biến thành những cái lạch con khá cạn khi nước lớn. Ở xa mà nhìn vào thì khối cây xanh của mấy đảo trông như dính liền với nhau, khiến người ta cứ ngỡ chỉ có một hòn đảo thôi, và thường gọi chung cả ba là cù-lao Rồng.
Đảo bên kia mới thật là cù-lao Rồng, đất khô ráo hơn, ở được. Từ khi trại cùi bị dẹp bỏ thì đồng bào ra đó ở rất đông ; họ không ở được chỗ ta đang đứng, vì đất thịt trồng trọt được nơi đây ít quá.
Chắc là cô gái kinh sợ lắm, không phải sợ bóng đêm, vì đã có Quí bên cạnh, hoặc sợ không nơi ẩn núp vì nếu trời có mưa thì tương đối vẫn ít ướt và lạnh hơn dưới sông khi chiều, vì ở đây có hàng cây che mưa, có thân cây che gió.
Bằng vào tiếng kêu của cô, Quí đoán biết nỗi hãi hùng nơi cô và hơn thế, biết rõ sự kinh sợ ấy thuộc loại nào : đêm khuya thân gái yếu đuối, trên một hoang đảo với một thanh niên mạnh khỏe, nàng đẹp mà đạo đức của chàng không rõ ra sao.
«Tôi như hiểu được cô. Nhưng tôi là người có giáo dục, cô cứ an lòng mà tín nhiệm nơi tôi»
Quí dừng bước lại, chàng bận xem địa thế nên không quan tâm nữa đến nỗi lo sợ của cô gái kia.
Qua ánh sáng lờ mờ của mặt nước sông, bóng thân cây nổi lên, đen thui; chàng nhận ra ở đây là một khoảng trống, hẹp, bằng một nền nhà lá nhỏ. Đất không có lau sậy mọc, cũng không có lá ủ giữ nước mưa lại làm ẩm ướt hoài nơi đó.
– Ta nghỉ nơi đây cô nhé !
Cô gái chỉ làm thinh, và Quí nghe rằng cô ta đoán đã đến hồi quyết liệt nên có lẽ đang thủ thế cũng nên.
Nhưng mặc kệ chớ, làm sao mà mở lòng, mở dạ chàng ra cho cô ta thấy được chất tốt bên trong của chàng. Chàng ngồi xuống đất, nhưng cô gái không ngồi theo.
Bấy giờ cô ta là một thân cây, như bao nhiêu thân cây khác, và hình bóng của cô ta in lên nền sáng của nước sông. Đó là một thân cây đặc biệt, không suôn đuồn đuột như bao thân cây khác, mà có chỗ no chỗ đói, chỗ cong, chỗ eo như là một cây cảnh non bộ được bàn tay của một nhà nho uốn nắn nhiều năm, mỹ thuật một cách lạ kỳ.
Y phục của cô gái bị ướt, dính sát vào người cọ, nên bây giờ pho tượng đồng đen ấy tuyệt-mỹ như một pho tượng đá của các đền đài cổ La-Hy.
« Cô ta sợ là phải, – Quí nghĩ. – Mình đang mệt, đang đói, đang lạnh, thế mà máu nóng trong người suýt sôi lên đây. »
Nghĩ thế, chàng thôi tức giận kẻ đã dám nghi ngờ đạo đức của chàng, một thanh niên đứng đắn, được bạn hữu khen là người gương mẫu.
– Cô ơi... cô à !
– Dạ !
– Sợi dây nịt của tôi nhỏ xíu, cô có thể dùng làm dây cột được, xin cô cứ lấy mà trói hai tay tôi lại, chớ nếu cô cứ sợ, cứ thủ thế như vầy mãi thì khổ cho cô quá, mà chính tôi đây cũng xót xa, không an dạ được.
Cô gái bật cười, cười dòn một chuỗi cười rất dài:
– Sao ông biết em sợ ông ?
– Tôi đoán biết.
– Ông là nhà tiên tri chắc ? Hồi chiều ông đã đoán biết em thèm xe đò. Chỉ phiền là ông không đoán được tai nạn mà ta vừa thoát.
Cả hai cười xòa và Quí thấy cô gái ngồi xuống.
Chàng hỏi :
– Cô có ân hận lắm không mà đã không đi xe đò? Nếu định sang xe, cô đã không đi đò nhỏ và đã đợi chuyến phà đang chạy gần tới bến.
– Không, em không ân hận gì hết.
– Cám ơn cô. Nếu cô ân hận thì tôi đây cũng bị ân hận đè nặng lên lương tâm vì đã gián tiếp nài nỉ cô tiếp tục đi xe tôi.
Chắc cô gái đang sờ soạng tay lên mặt đất nên cô ta kêu :
– Trời, cỏ ướt mem.
– Cố nhiên là cỏ phải ướt. Y phục ta ướt, ta ngồi lên cỏ, không nghe sao cả. Chắc cô sờ tay lên đó nên mới hay.
– Dạ, em nhờm cái gì ươn ướt, mềm mềm. Gốc là dân ruộng, em lại rất sợ phải đi trong bùn. Khi chiều, nếu không có cái chết rượt theo sau lưng, chắc không thế nào em qua được bãi bùn non ở bờ sông.
Quí thò tay lục soát các túi của chàng, túi sơ mi và ba túi quần. Chàng rút ra một chiếc bóp phơi, rảy một cái thật mạnh cho nước đọng trong đó văng ra, đoạn đặt nó lên cỏ. Như thế nó mau khô hơn là nằm trong túi áo ướt.
Chàng lại rút ra một cái túi bằng chất nhựa mà tục thường gọi là lầm là nylon. Trong túi ấy chàng để ống điếu, quẹt máy và hộp thuốc rời Prince Albert mua lậu ở Chợ-Lớn ngày hôm kia. Quí hy vọng chất nhựa ấy bảo vệ được các món đồ và chàng sẽ được hút vài bíp ngon lành.
Nhưng tất cả ba món đều ướt mem. Chàng bật hộp quẹt máy mấy mươi lần, lửa đá có lóe lên, nhưng lửa tim không cháy.
Thất vọng, chàng lại mò kiếm cái bóp và đặt ba món nầy kề chiếc bóp da.
– Cô ơi !
– Dạ.
– Như cô đã thấy, không còn hy vọng đốt lửa. Tôi định bẻ nhánh khô, đốt lên một đống un cho cỏ hơ ấm, nhưng cái bật lửa lại không chịu cháy.
Chàng nín lặng một hồi, ngần ngừ rất lâu rồi tiếp :
– Tôi nói điều này táo tợn quá, nhưng ta đang ở trong một tình thế đặc biệt, không thể cư xử như lúc bình thường, xin cô biết cho.
Mặc dầu đã rao Nam mấy câu, chàng cứ ngần ngừ. Một hồi lâu nữa, chàng mới nói được cái điều khó nói ấy :
– Nếu cô mặc y phục ướt suốt đêm nay thì sẽ nguy cho sức khỏe của cô. Nhơn đêm tăm tối, tôi nghĩ cô nên thay ra, vắt cho thật ráo rồi phơi trên nhánh cây. Gió sẽ thổi khô áo quần cô sau vài tiếng đồng hồ, và ngủ trong y phục tương đối ấm ấy, cô đỡ lo hậu quả tai hại của cái lạnh ẩm.
Cô gái làm thinh không đáp, cũng chẳng rục rịch. Cô nhớ lại ngay bóng dáng của Quí mà cô đã thấy lúc vừa tỉnh dậy ngoài bờ sông. Chàng đẹp một vẻ đẹp thể thao, đứng vững như một gốc cổ thụ. Nhưng đó là chuyện khác. Điều đáng chú ý là người khác thấy được chàng và chàng sẽ thấy được cô ta. Ngoài bãi thì thế, mà ngay cả ở đây, nàng lại chẳng đang thấy bóng dáng của cây cối..
– Thưa ông...
– Sao cô ?
– Em nghe nói người sơn cước họ không hề cần tới diêm quẹt mà vẫn làm ra lửa được.
– Đúng như vậy. Theo nguyên tắc thì cứ cọ hai khúc cây lại với nhau hoặc xoay mãi một mũi nhọn trong một lỗ cây vừa cái mũi đó, thì sự cọ xát sẽ gây sức nóng, đến nổi nảy lửa, nhưng ...
Quí bật cười một hơi rồi hỏi :
– Năm ngoái cô có xem chiếu bóng chớ ?
– Dạ có.
– Cô nhớ có thấy, trong một kỳ họp bạn ở Trảng-Bom, à phim thời sự ấy mà, hướng đạo sinh Việt-Nam ta đã trổ tài làm lửa theo lối người sơn cước ?
Cô gái bỗng sực nhớ lại đoạn phim ấy và rũ ra mà cười.
– Cái ông xướng-ngôn-viên bình phim, ông ấy trào phúng cũng giỏi. Khi các hướng đạo sinh ta thất bại, tìm hộp diêm để đánh lửa thì ông ấy nói: «Tuy thế, đánh diêm lên vẫn chóng có lửa hơn là cọ xát hai khúc cây».
Hai người cười một hồi rồi Quí thú nhận :
– Tôi còn dở hơn hướng đạo sinh nhiều, nên xin chịu thua trước.
Bấy giờ trên nền trời đen thui, sao mọc dài như sạn trắng trải sân nhà giàu, ảnh sáng yếu ớt của bầy sao giúp họ trông thấy tương đối rõ hơn khi nãy.
– Hình như là trời nóng bức thì phải, ông có nghe như vậy hay không?
– Ừ, mưa đầu mùa, dữ dội như vậy, nhưng được cái là hễ tạnh thì tạnh hẳn, không rỉ rả dầm dề như mưa thu miền Nam, rồi không khí nóng hầm trở lại như lúc mới chuyển mưa.
– Và em nghe y phục em đang khô lần.
– Của tôi cũng vậy. Cô có nghe đói lắm không?
– Chưa, vì em đang còn mệt. Có lẽ càng về khuya khi mệt tan lần càng nghe đói. Ông nè, trại cùi thiết lập ở đây, chắc quanh đây có nhiều mả người cùi, ghê quá.
– Cô sợ ma lắm không?
– Không, em chỉ sợ hơi đất của các chỗ nê địa nó mang lên theo vi trùng cùi...
Quí cười hề hề :
– Hơi đất không mang theo được vi trùng, vả lại trại cùi ở đảo bên kia, gọi là cù-lao Rồng, mà cũng đã dẹp từ lâu rồi. Cô có biết vì sao mà trại cùi ở đây được dẹp đi không ? Ngày xưa người Pháp đã tính dời trại đi nơi khác vì người trong bờ hay chèo xuồng ra đây bán chác quà bánh và các thứ hàng hóa lặt vặt và mang vi trùng theo họ vào đất liền. Hơn thế nhiều chị hàng rong dưới xuồng lại tư tình với người cùi, rồi sanh con đẻ cháu, bịnh cùi càng ngày càng lan rộng.
Chợt sau chiến tranh, giới bác học các nước tiền tiến khám phá ra bịnh cùi là thứ bịnh tuy truyền nhiễm nhưng ít lây hơn tất cả mọi bịnh truyền nhiễm khác, và nếu loài người còn tiếp tục cô lập người cùi thì chỉ vì ghê tởm họ thôi, chớ không phải vì sợ vi trùng nữa. Tại sao vi trùng lao phổi, ba trăm lần dễ truyền nhiễm hơn vi trùng cùi, ta lại không tập trung người lao ? Và có phải chăng ghê tởm họ thì vừa vô nhàn đạo, vừa nguy cho xã hội, bởi họ bị mặc cảm, họ thương mến vợ con, sợ bị nhốt nên trốn mãi không dám ló mặt ra để điều trị, thành ra vi trùng được giấu giếm nuôi nấng mãi trong nhiều gia đình, tai hại không biết bao nhiêu mà kể.
Vì vậy mà ta trả tự do lại cho người cùi bằng cách dẹp trại nầy luôn.
Sự mệt mỏi thấm lần vào cơ thể họ và cả hai cùng nghe thèm nằm một lượt. Quí nói :
– Cô thích ngồi dựa gốc cây hay không, chớ tôi thì chỉ muốn nằm thôi. Dựa gốc cây nguy hơn vì có thể rắn trên ấy bò xuống.
– Trời ơi!
Cô gái kêu rú lên.
– Gì thế cô ?
– Không có gì hết, em nghe ông nói đến rắn em giựt mình sợ hãi vậy thôi. Và ngồi đây cũng nguy lắm ông ơi.
– Coi vậy mà không sao, rắn nghe động thì tránh đi. Còn như ta ngủ quên, nó nghe im nó cũng chẳng làm gì ta.
Chàng vừa nói vừa ngả lưng xuống đất, nằm ngửa nhìn trời, đưa cả hai cánh tay lên làm gối.
– Ừ.
Quí thấy nàng cũng nằm xuống, bấy giờ hai người không trông thấy dạng nhau nữa vì họ đã thấp quá rồi.
– Ở đây đất cát.
Nghe tiếng cô gái Quí đoán biết cô ta không nằm ngửa như chàng, mà nằm nghiêng và gối đầu thật cao bằng tay chống. Cô không nằm song song với chàng mà nằm đâu chơn, chơn nàng cách xa chơn chàng độ hai thước tây. Đó là lối nằm thủ thế, có biến thì người nằm sẽ ngồi dậy mau lẹ hơn là nằm ngửa.
Quí nghe sự mệt mỏi như chầm chậm len vào các thớ thịt, các tế bào của chàng. Chàng theo dõi được cả bước đi lần của nó, nhứt là trong cánh tay và chả vai bên phải, hai bộ phận làm việc nhiều nhứt lúc phải kéo cô gái ra khỏi khoang hầm.
– Cô ơi, cô đã ngủ chưa ?
– Dạ chưa, em không biết mệt mỏi nhiều thì khó ngủ hay dễ ngủ. Mỗi người nói một khác về vấn đề nầy.
– Mệt nhiều thì dễ ngủ, nhưng mỏi quá lại khó ngủ. Tôi thì tôi nghe như ai đập ai dần lên bả vai tôi, không sao nhắm mắt được cả.
– Em cám ơn ông hết sức, đã khó nhọc kéo em lên, lúc tàu vừa lật ngang. Nếu không có ông thì...
– Thì đã có người khác. Và nếu tôi không cứu cô, tôi cũng đã cứu người khác.
– Có những người đáng thương hơn em, đáng sống hơn em nhiều.
– Cô khiêm nhượng, nhưng cũng có thể cô nghĩ đúng. Nhưng tôi không thể chọn lựa. Trong các tai nạn như thế, người ta lo cho người nào gần gũi hơn hết, hoặc quen biết nhiều hơn hết hay là cảm tình nhiều hơn hết, chỉ có thế thôi. Tôi không ân hận đã hành động như vậy, và tin rằng tôi hành động đúng. Những bài toán trường hợp lương tâm mà người ta hay đố nhau chơi để biết khi chìm đò, giữa nhiều người, ta phải cứu ai, những bài toán ấy ngớ ngẩn và ngu muội lắm.
Hai người lại làm thinh. Giây lát Quí gọi :
– Cô ơi !...
– Dạ !
– Tôi quên tự giới thiệu với cô. Tôi là...
– Không, không, em van ông, ông đừng cho em biết ông là ai.
– Sao lạ vậy ?
– Khó nói lắm ? Em chỉ biết khẩn khoản xin quyết điều ấy thôi.
Quí ngạc nhiên hết sức, làm thinh để suy nghĩ.
«Có lẽ nàng sợ ta xưng danh tánh, nghề nghiệp rồi tò mò hỏi nàng về căn cước của nàng mà nàng muốn giấu. Lạ quá cho cô gái này. Cô ta kín đáo hết sức. À, nhưng tại mình lịch sự, không tò mò, và có ai khảo đâu mà nàng lại xưng».
Sự thật thì không phải thế. Đó là một thái độ khôn ngoan và kinh nghiệm hết sức của thiếu nữ trầm lặng này.
Nếu thanh niên kia mà có dở trò gì và nếu rủi ro nàng không tự vệ được thì dầu sao nàng cũng có thể bảo toàn tánh mạng bằng cách giả đò ưng thuận vào phút chót.
Còn như mà hắn bị lộ tung tích, ắt hẳn phải sợ một vụ đầu cáo về sau, và chắc chắn hắn phải thủ tiêu nàng, ngay sau trò chó má bỉ ổi của hắn, để không còn nguyên cáo nữa.
Biết bao nhiêu đàn bà con gái bị thủ tiêu sau khi bị cưỡng hiếp chỉ vì trót biết căn cước của kẻ hiếp dâm họ, và trót dại khoe rằng mình biết thế, để hăm dọa những kẻ kia.
Vì đoán sai ý của người bạn đồng thuyền, nên Quí dè dặt, không hỏi gì cô ta cả. Nhưng chắc cũng có thể phần nào, vì cô gái không bao giờ nói đến mình, chỉ cái tên của cô mà thôi, cô cũng không thèm cho ân nhân của cô được hân hạnh biết đến.
– Ông ơi !
– Sao cô ?
– Hồi chiều em ngất đi vào lúc nào ?
– Lúc ta đi lên đến bãi bùn.
– Em ngã xuống bùn à ? Nhờm quá !
– Không. Tôi đã đỡ cô khi thấy cô xiêu xiêu sắp té.
– Và sau khi em ngã trên tay ông, ông ẵm em lên đất khô chắc ?
– Ừ
– Ngày mai, ông giúp em vô đất liền, em sẽ đội ơn ông ngàn ngày. Nhưng em xin về Saigon bằng xe đò...
Quí cười khà nói :
– Cô sợ xe tôi, nhưng đã muộn rồi, anh tài xế ngỡ ta chết, đã về tuốt Saigon rồi.
Cô gái không chú ý tới lời chàng, nói tiếp:
– Em van xin ông một điều là đừng có cho báo chí biết rằng ông đã cứu em trong nhiều trường hợp, và ta đã qua đây một đêm dài.
– Vâng, tôi hiểu. Báo họ sẽ tò mò tìm biết căn cước cô gái áo đen, và rất nguy hại cho danh dự cô, nhứt là về sau, khi cô đến tuổi lấy chồng.
– Ông hiểu cho như vậy, em rất cám ơn ông.
Họ lại làm thinh, và Quí nghe thích thú lắm mà được giữ chung một bí mật với người đẹp. Sự tùng đảng giữa một đôi trai gái bao giờ cũng khiến một trong hai người nghĩ vẩn vơ, nếu không nghĩ quấy.
Chàng nghe hơi yêu cô gái nầy, chớ không chỉ có cảm tình như từ lúc thấy mặt đến giờ. Và vì đã bắt đầu yêu, chàng không cưỡng được tánh tò mò, ra khỏi sự dè dặt của chàng :
– Cô học trường nào ?
Cô gái không đáp và để đánh trống lấp, cô hỏi :
– Em ngất đi có lâu hay không ông ?
– Khá lâu. Nhưng mặc dầu có cách, tôi cũng không muốn đánh thức cô dậy ngay.
Cô gái sợ hãi vô cùng, vì tiết lộ nầy. « Tại sao hắn để cho mình bất tỉnh lâu ? » Muốn gợi chuyện để đoán biết những gì xảy ra trong lúc tri giác của nàng đi vắng, nàng hỏi, giong khiêu khích :
– Tại sao ông lại không giúp em tỉnh lại ngay nếu ông biết cách.
– Tôi thú thật điều nầy, xin cô đừng cười chê hay khinh bỉ tôi. Tôi chỉ là người thôi, chớ không phải một thánh nhơn...
Cô gái bỗng vụt lồm cồm ngồi dậy theo bản năng tự vệ để thủ thế, chống lại một xúc phạm mà nàng đã bị rồi. Câu nói nửa chừng của Quí cho nàng đoán hiểu như vậy, và bản năng khiến nàng tự vệ muộn màng.
Quí hiểu tâm trạng cô ta, nên vội nói tiếp ngay:
– ... Cô có xem phim « Địa-ngục-môn » chớ ?
– Có, – cô gái đáp bằng một giọng xẵng và đượm nhiều nóng nảy muốn nghe tiếp.
– Cái anh tướng trẻ ấy đã dùng một cách độc nhứt giữa đường là phun nước lên mặt người thiếu phụ giả làm người hoàng tộc để trốn, nhử cho giặc rượt theo và ngất giữa đường.
Những giọt nước ấy rất công hiệu, giúp người ngất xỉu tỉnh lại. Nhưng làm công việc ấy, anh ta lại bị con quỷ trong người anh xui dục, vì đã nhìn quá gần một gương mặt đẹp, nên anh ta đã xúc phạm đến thiếu phụ ấy bằng cách giả vờ mớm nước cho cô ta để cắn vào môi cô ta.
Tôi không muốn ngã như anh tướng trẻ trong phim, nên mới để cô yên trong giấc ngủ của cô.
Cô gái nghe nhẹ cả người. Thì ra không có tai họa nào xảy ra hết khi cô hôn mê. Nhưng thú nhận của Quí lại làm cho cô ta lo.
« Hắn thú thật rằng hắn chỉ là người với tất cả yếu hèn của con người, của xác thịt, thì hắn có thể bị lửa dục xui hắn làm liều »
Nghĩ thế cô gái không dám nằm trở lại.
– Cô có khinh sự yếu hèn của tôi không ?
– Dạ, không. Trái lại nữa. Ồng đã chiến đấu với nội tâm ông, và ông đã thắng. Em cũng đoán được phần nào con người ông qua vài câu chuyện ban chiều.
Quần của Quí bằng Spiking hút nước rất nhiều và rất lâu khô. Chàng ngứa ngáy khó chịu, rất thèm cởi ra và phơi dưới giỏ. Nhưng lại ngại không dám làm công việc ấy. Cho dẫu không thấy nhau, người kia cũng đoán biết chàng làm gì, và cho dẫu không thấy nhau người ta cũng tưởng tượng và như thấy rõ bên kia. Như thế là công khai xúc phạm tu sỉ của người kia rồi.
Nghĩ tới đó, chàng nhận ra rằng cô gái nầy là một con người đặc biệt chớ không phải tầm thường. Cô ta đã tế nhận khi nãy những điều mà chàng chỉ mới khám phá ra đây thôi, nên cô ta đã không hoan nghênh đề nghị phơi áo của chàng.
Quí mò kiếm những đồ vật để dưới đất khi nãy. Chàng thử bật hộp quẹt máy, nhưng lửa đá cứ xẹt mà tim không bắt cháy. Chàng mở nắp dưới ra, thổi mạnh vào cục gòn tẩm xăng xong, lại bật nữa. Nhưng vẫn không làm lửa cháy được.
Tức giận, chàng ném mạnh cái bật lửa xuống đất và bất giác nói to lên một mình :
– Thèm muốn chết đi !
Cô gái hiểu là chàng thèm một điếu thuốc. Nhưng dầu sao cô ta cũng lo sợ vì động từ « thèm » ấy, bởi hắn cũng có thể thèm thứ khác, dữ dội như thèm thuốc bíp.
Quí lẩm bẩm ngâm theo giọng miền Bắc câu ca dao gợi thèm ấy :
Nhớ ai như nhớ thuốc lào,
Đã chôn điếu xuống, lại đào điếu lên.
Để lái ý nghĩ của Quí qua hướng khác, bắt hắn nhớ lai một cái khổ thứ nhì, nó có thể hành hạ con người cho con người quên tất cả mọi thứ, cô gái nói :
– Em, em chỉ thèm một tô mì. Hay giờ mà có phở thì tuyệt. Ông thường ăn khuya lắm không ?
– Cũng thường. Giấc nầy dễ đã một giờ khuya rồi đây. Ở Saigon, vào giấc này phải đi xa lắm mới tìm được một món ăn ngon. Cô nhắc, tôi lại thèm chết đi thỏi. Tôi nhớ hiệu phở khuya trước quán Anh-Vũ quá !
– Ông có ăn bánh cuốn khuya không ?
– Có chớ ! Mà không hàng nào ngon bằng hàng bánh cuốn bày ngay dưới đất, trên vỉa hè của một ngõ hẻm phố.....
– ... Phố Phan-Đình-Phùng.
– À, té ra cô cũng thích hàng bánh cuốn đó.
Quí lấy làm kỳ dị cho cô gái nầy. Tại sao con gái lại thích đi ăn bánh cuốn nửa đêm nó chỉ là hàng quà của khách ta bà ? Hay là...
Không, chàng không dám đi sâu vào cái ý nghĩ kỳ quái vừa nẩy ra nơi trí chàng. Có rất nhiều chi tiết đính chánh lập tức ý nghĩ của chàng, tác phong của cô gái là tác phong một thiếu nữ nhà lành.
– Dạ, bánh cuốn hàng đó ngon, mà không khí quanh đó cũng hay hay.
– Cô thi sĩ lắm. Ngồi ngay dưới đất nhìn ngọn lửa bập bùng, đợi từng cuốn bánh nóng hổi, và nghe bên cạnh mình những thực khách khác hít hà vì cay ớt cùng đủ chảy nước miếng đầy miệng, và chính nhờ vậy mà đến lúc được ăn, nghe ngon không biết bao nhiêu.
Cô báo hại, tôi thèm muốn chết đi và bỗng dưng nghe đói quá sức. Tôi xấu chứng đói lắm cô à. Phải thức khuya làm việc, tôi đói run vào khoảng một giờ đêm và nếu không có gì ăn, tôi không sao nhắm mắt được, và phải thức trắng cho tới gần sáng thì dậy đi uống cà phê luôn.
À, còn cái giấc cà phê cắc-chú hồi năm giờ sáng đó nữa ! Cũng thích lắm ! Nó có biệt sắc riêng mà không ai tìm thấy nơi đâu cả ! Ý a, tôi nghe như văng vẳng đâu đây tiếng của hai con dao Tàu nặng nề mà anh thợ xíu mại bầm thịt liên tu bất tận trên thớt, tạo nên một điệu nhạc gỗ hay hơn cả nhạc trống bongo nữa.
Quí say sưa nói đến món ăn, khiến cô gái tức cười mà rằng :
– Ông làm em cứ nhớ anh chàng khổng lồ đi tìm vàng chung với chủ hề Charlot trong phim « Đổ xô tìm vàng ». Đến khi đói quá, anh ta sảng sốt trông gà hóa quốc và trông chú Charlot hóa ra con gà béo tốt mà anh ta muốn thịt ngay vì thèm quá.
Quí bật cười, nói để chữa thẹn :
– Con người yếu hèn lắm cô à ! Biết bao nhiêu thảm kịch nhuốc nhơ đã xảy trong giới hàng hải quốc tế từ xưa đến nay. Những khi tàu hỏng giữa bể khơi, trôi nổi bình bồng từ tháng này qua tháng khác, những chuyến đắm tàu, thủy thủ trôi dạt lên hoang đảo, hoặc năm ba anh thoát thân trên một chiếc xuồng nhỏ với một ít lương thực, những khi ấy thì họ giết nhau vì một miếng bánh mì, vì một chén nước uống là chuyện thường xảy ra.
Người ta kể rằng đôi khi họ còn ăn thịt lẫn nhau nữa là khác.
Thật là xấu hổ quá cho con vật tự xưng là khôn ngoan nhứt trong các loài vật, biết phân biệt thiện và ác, biết đạo đức, nhưng đến lúc cùng, lại hành động y như con vật.
– Không phải ai cũng thế cả ông à. Có những người đức hạnh cao cho đến đôi họ vượt được tất cả mọi thử thách, và luôn luôn thắng sự hèn yếu của thể chất.
– Cũng có. Nhưng đến mức nào con người còn chiến thắng, đến mức nào họ phải đầu hàng, chớ không phải họ cứ thắng hay cứ bại đâu.
– Ý ôi, trời ơi ! Chết tôi rồi !
Thình lình cô gái kêu lên như vậy, khiến Quí hết cả hồn vía, ngỡ nàng bị rắn cắn.
– Sao... sao... đó... gì đó... cô ?
Cô gái tiếp tục kêu mà không đáp. Quí bối rối quá, mò kiếm hộp quẹt máy. Chàng quẹt lên, nhưng nó vẫn không cháy. Túng thế chàng bước lại gần thiếu nữ, mong ánh sáng khi chớp khi tắt của đá lửa bị cọ giúp chàng thấy được chút gì.
Quả chàng thấy được. Cô gái nằm yên như không có gì xảy ra cả, mà miệng lại cứ kêu luôn.
– Cô làm sao ? Cô ráng nói một lời cho tôi biết ?
– Ông ơi, em bị vọp bẻ !
– Trời! Tôi cứ lo thầm cho chuyện nầy xảy ra, và quả không khỏi. Phải mà, cô bị ngâm nước, bị dội nước hàng giờ, rồi lại nằm trong y phục ướt gần suốt đêm, bị vọp bẻ là dĩ nhiên.
– Ôi, trời ơi !
Quí đã đứng dậy, chạy chung quanh cô gái, quýnh quíu như gà mắc đẻ, sốt ruột lắm, nhưng không biết phải làm sao. Giây lát chàng đánh bạo hỏi :
– Tôi xin cô cho phép tôi giúp cô nhé.
Thiếu nữ không trả lời, cứ hít hà. Quí đoán biết nàng đang cắn răng chịu đựng cho khỏi kêu, như những người đàn bà chuyển bụng mà tốt nết.
– Trời ơi !
Chàng nghe đau như chính chàng bị vọp bẻ, và không hiểu vì sao chàng lại táo tợn đến thế, dám ngồi xuống bên cạnh thiếu nữ rồi thoa bóp cho nàng ở bắp chơn.
Người bịnh chắc đỡ lắm, và cũng lỡ rồi, huống chi hồi chiều nàng đã ngả trong tay chàng và được chàng ẵm trên tay rất lâu thì đã sao... nên làm thinh không phản đối.
Các bắp thịt ở bắp chuối của cô gái săn cứng lại và chạy đi chớ không đứng yên một chỗ. Chỉ bấy giờ Quí mới thấy hai tiếng «chuột rút» của miền Bắc là đúng.
Y như là có một con chuột to dưới da người, nó tìm cách thoát thân vì bị chụp dưới một tấm bố.
Chàng thoa bóp hết chơn nầy qua chơn khác một hồi thì các bắp thịt có mòi mềm trở lại. Tay chàng lần xuống bàn chơn và nghe như là vừa chạm phải chơn người chết vì nó lạnh như bị ướp nước đá !
Hai bàn chơn của cô gái không phẳng mặt nữa, mà giống hai chiếc gương lõm vì gân co rút bên trong. Những ngón chơn của nàng, nhứt là ngón chơn cái quắp lại như đi bấm vào đất cho khỏi trợt.
Quí không thể bẻ ngay ra tức khắc mà con bịnh chịu đựng nổi sự đau đớn, nên chi chàng bóp mạnh nhưng chỉ bẻ từ từ thôi.
Một lát sau, hai bàn chơn thiếu nữ mềm dịu trở lại như thường và Quí nghe trong tay chàng thịt chơn đã ấm. Hai bàn chơn ấy dịu quá và hai gót chơn rất non, khiến người thanh niên hăm sáu tuổi này trong giây phút không ngăn được một ý quấy xẹt qua trí óc chàng một cách chớp nhoáng.
– Hai bàn tay em cũng rất cứng từ lâu rồi ông ơi !
Quí bỏ chơn, ngồi xịch lên mấy bước để hơ ấm và nhồi mềm các bắp thịt của hai bàn tay mắc nạn, như đã giúp cho hai bàn chơn.
Tay chàng khá mỏi vì một anh tẩm quất chuyên nghiệp cũng không làm việc nhiều thế trong một buổi săn sóc một khách hàng.
Nhưng chàng lại không muốn ngừng tay vì chàng nghe không có cảm giác nào thần tiên cho bằng cuộc tao phùng của bốn bàn tay nầy.
Thiếu nữ nói :
– Cám ơn ông, cứ làm phiền ông hoài, em ngại quá.
Nàng vừa nói vừa rứt tay ra khỏi sự nặn nọt của chàng thanh niên mà nàng sợ và đã ngồi thủ thế từ lâu, nhưng vì bị vọp bẻ thình lình nên phải ngã xuống.
Bấy giờ nàng lại lồm cồm ngồi dậy rồi dang ra xa. Quí hiểu ý, cũng lùi lại chỗ cũ của chàng, vừa lùi vừa hỏi :
– Chắc cô đã nghe đỡ nhiều ?
– Dạ, đã khỏi hẳn.
– Trẻ con ở nhà quê ham nước lắm. Chúng tắm sông suốt mấy tiếng đồng hồ liền mà không chịu lên.
Vì thế thỉnh thoảng lại có một đứa bị vọp bẻ thình lình như vậy và chìm luôn. Dân quê ta rất ngạc nhiên sao trẻ con lội giỏi lại chết đuối trong cạn, và họ cố cắt nghĩa những tai nạn khó hiểu ấy bằng con ma-da, loại ma dưới nước chuyên kéo cẳng người tắm sông và lôi hô tuốt xuống tận đáy.
– Em cũng thường nghe nói đến ma-da, nhưng không biết cắt nghĩa thế nào. Ông giải thích nghe hữu lý lắm. Nếu như lúc đò chìm, em mà bị vọp bẻ thì chắc đã bị ma-da-vọp rút rồi. Thật hú vía.
Cả hai cùng cười. Quí nói :
– Lạ quá, về chỗ cũ mới biết nơi đó ẩm hơn chỗ khác. Cô nên về chỗ cũ cho đỡ lạnh.
Cô gái nghe lời chàng, vả lại chàng đã dang xa rồi, nên không phải sợ nữa.
– Quả thật nghe ấm hơn. Thú quá !
Giọng nói của thiếu nữ chàng nghe bấy giờ cũng ấm lắm. Đó là cái ẩm tưởng tượng, vì tình yêu vừa chớm nơi lòng chàng. Chàng nói, giọng buồn bã vô cùng :
– Còn có vài tiếng đồng hồ nữa thôi là cô sẽ lên đường về Saigon rồi không bao giờ ta còn gặp lại nhau nữa.
Không một tiếng vang đáp lại câu nói tầm thường mà thốt ra bằng một giọng lâm ly thống thiết thật tình của Quí.
Chàng nín lặng, lắng nghe tiếng dế, tiếng trùng, tiếng vạc kêu sương, để ghi lại tất cả những gì nghe thấy, cảm nghĩ, trong lúc này, để về sau, trong lúc vui buồn nào đó, chàng sẽ cho những cảm giác đêm nay sống lại vài giây.
Và lâu lắm, chàng đánh bạo hỏi thẳng lên một câu mà tánh kiêu ngạo của chàng ngăn chàng nói ra từ đầu hôm đến giờ.
– Cô ơi !
– Dạ.
– Chắc không bao giờ ta còn gặp lại nhau nữa, sau đêm nay, phải không cô ?
– Rất có thể là như vậy. Nhưng em vẫn tự hỏi ta có nên gặp lại nhau nữa hay không? Ơn của ông, em ghi tận đáy lòng em, vì không mong đáp nghĩa bằng gì được cả. Như vậy tái ngộ có ích gì hay không ?
– Ừ, có ích gì hay chăng ? Nếu đặt câu hỏi thì tự nhiên thấy là không ích gì hết. Thêm một người quen hay bớt một người quen, thật không ảnh hưởng đến cuộc sống của ta mảy may nào. Nhưng tôi thấy ở đời lắm khi ta lại rất cần những thứ xem như là không cần, chẳng hạn như một mối giao thiệp, lần đầu chỉ là tình cờ gặp gỡ, nhưng rồi...
– Gì mà vẳng nghe như gà gáy ? – Thiếu nữ đánh trống lấp bằng câu ấy.
Quí lắng tai và kinh sợ hết sức mà nghe quả đó là tiếng gà gáy hiệp đầu bên hai đảo kế cận :
– Phải, gà bên cù-lao Thái-Sơn và cù-lao Rồng gáy !
Thiếu nữ không cho chàng nghĩ vẩn vơ, hỏi :
– Bên ấy đông dân lắm phải không ông ?
– Hình như thế. Nghe đâu như hòn Thái-Sơn chia ra đến chín ấp, vì nó dài đến 10 cây số, còn hòn cù-lao Rồng thưa dân hơn mà cũng gồm được bốn ấp.
– Ông là người địa phương ?
– Không, tôi gốc ở miền Đông.
– Nhưng sao ông biết rõ vùng này hơn em là người ở đây ?
Quí không thèm đáp nữa. Chàng huýt gió lên những câu nhạc dạo, điệu Việt-Nam, do chàng ứng khẩu tùy hứng. Câu nhạc dạo hôm nay buồn thấm thía, và chưa bao giờ chàng nghĩ ra được một điệu hay đến thế. Bạn hữu chàng thường bảo là giọng huýt gió những câu nhạc buồn của chàng trầm và ấm như tiếng tiêu.
Cô gái cứ phá đám :
– Họ nói rắn gọi nhau bằng tiếng huýt gió. Ông huýt gió, sợ e chúng nó đến chăng ?
Quí bất kể, cứ tiếp tục ứng khẩu tùy hứng, mãi cho đến khi cô gái phải năn nỉ :
– Em van lạy ông, đừng có huýt gió nữa.
– Cô sợ rắn lắm à?
– Không, nhưng em sợ buồn lắm.
– Cô có buồn đâu mà sợ nó. Chính tôi đây mới buồn chớ!
– Nhưng em sẽ bị lây nỗi buồn của ông.
– Giá thử buồn giây lát cũng không sao mà, còn thú vị nữa là khác.
– Nhưng đêm nay em không thích buồn.
– Sao vậy cô?
– Vì buồn đêm nay, em có thể sẽ buồn mãi mãi.
Quí không hiểu cô ta muốn nói gì, vả bận lo trời mau sáng nên không hỏi nữa, sợ mất thì giờ không tận ghi nhận được những phút không bao giờ tìm lại được nầy đây.
Mặc dầu không phải là một tay ăn chơi, Quí cũng khá kinh nghiệm về gái. Như vậy, không phải hễ cứ gặp một cô gái đẹp là chàng yêu ngay hay mơ mộng vẩn vơ như một gã trai tơ.
Nhưng mà thiếu nữ này đặc biệt quá, chớ không phải chỉ đẹp không mà thôi. Hơn thế, hơn một tiếng đồng hồ săn sóc cho cô ta, chàng không sao khỏi bị xúc động vì sự gần gũi quá thân mật ấy.
Bấy giờ sao trên trời tắt dần từng cái một, những cái chưa rụng đã mờ đi, chỉ còn sao mai là sáng chói thôi.
Gà bên kia đảo đã gáy chập hai.
Bên cầu điểm điểm hạt mưa
ơ... ơ... ờ.. còn nặng gánh canh vừa gáy tan.
Quí ngâm nho nhỏ hai câu thơ của Tản-Đà, nhưng thay chữ TÌNH ở đầu câu thứ nhì bằng ba tiếng ơ... ơ... ờ.., rồi không cầm giữ được nữa chàng nghẹn ngào nói :
– Cô à !
– Dạ.
– Cô có biết tiếng Pháp hay không ?
– Dạ biết.
– Cô có đọc truyện ngắn Pháp «Những vì sao» hay không ?
– Dạ có.
– Cái anh chăn cừu, khi thấy sao trên trời lần lượt tắt, nỗi tuyệt vọng của anh ta không biết có bờ bến nào hay không ?
– Ông nè !
– Sao cô ?
– Trên đời khi ta đi suông sẻ gần mút con đường nào, em nghĩ ta nên mừng mà đi nốt quãng đường còn lại, mong không bao giờ gặp chướng ngại, gai góc vào giờ chót mà uổng công vạn dặm đăng trình, có phải như vậy hay không ông ?
– Phải, cô nói chí lý, rất là chí lý !
– Chắc ông hiểu em nhiều ?
– Vâng, và tôi rất sung sướng mà nhận ra rằng cô cũng đã hiểu tôi.
– Vâng, em cũng hiểu ông nhiều.
– Như vậy là đủ cho tôi lắm rồi cô à. Tôi không dám mong hơn nữa.
Trời hừng sáng, rồi kế đó, rạng đông tô đậm màu son Tàu lên đầu rừng dừa nước mọc ở mũi cù-lao hướng Đông, tức hướng trông ra biển.
Bóng của cây cối càng lúc càng lợt màu và họ đã trông thấy được nhau, cả hai đều ngồi yên như tượng đá.
Cô gái khi ban chiều, chỉ nghiêm trang và lãnh đạm, nhưng giờ sao cô ta lại buồn vô hạn, khi mà cô sắp trở về với bạn hữu của cô ta ?
Quí không dám nhìn cô ta, và lo gom góp bóp phơi, ống bíp cho vào túi, đoạn đứng lên. Chàng tập thể dục theo lối Thụy-Điển một hơi và day lại thì thấy thiếu nữ đang nghiêng má trên bàn tay lật ngửa, cùi chỏ chống lên đầu gối của nàng.
– Ta đi thôi cô à.
Chàng xây lưng liền và tin chắc cô gái cũng đứng lên để theo chàng. Đi được một đổi, Quí ngạc nhiên lắm mà không nghe tiếng bước khua lá chết, sau chàng. Chàng day lại thì lạ quá, cô gái vẫn ngồi yên đàng kia, trong dáng điệu mà chàng đã thấy.
– Cô có sao không ?
Thiếu nữ không đáp, uể oải đứng lên rồi lững thững theo chàng. Khi họ ra tới cái chỗ mà cô gái tỉnh dậy chiều hôm qua thì thấy nước đã lên tới đó.
Mặt sông buổi sáng phẳng lặng như gương, khác hẳn với sự giao động chiều hôm trước, sự giận dữ của hà-bá nó đã cướp đi không biết bao nhiêu là sinh mạng.
Ngoài kia ghe thuyền đã tấp nập và đò máy, phà, đã qua lại như là mười hai tiếng đồng hồ trước đây, không có tai nạn chết người nào xảy ra cả.
– Nước lớn đầy «mà». – Quí nói.
– Vâng, nước lớn đầy «mà». May là gặp lúc nước «kém» ! Nếu như trong ngày «rong», chắc cả đảo đều ngập.
– Để tôi gọi thuyền cho cô về trước.
– Chớ ông không về à ?
– Tôi đi chuyến khác. Ta không nên cùng đi, vì chính cô đã yêu cầu như thế kia mà.
– Em chỉ xin không đi chung xe với ông thôi chớ.
– Xe tôi, anh tài xế, chắc đã đưa nó về Saigon rồi để loan tin rằng tôi đã chết chìm. Nhưng đi chung xuồng vào bờ, thì chắc cũng phải đi chung chuyến xe đò rồi.
Thiếu nữ không phản đối, cũng chẳng tán thành. Quí đưa hai tay lên miệng làm ống loa rồi hú một tiếng rất to và kéo dài ra, tưởng như không bao giờ dứt.
Cô gái nhìn trân trối người thanh niên trong cái thế đứng vững như tượng đá trồng trên bệ xi-măng ấy và nhìn trân trối cái cổ của hắn to phồng lên lúc hắn lấy hơi để hú.
Ngoài kia ghe thuyền thờ ơ đi qua. Họ không có phận sự gì cả đối với người trong đảo mà họ không dè rằng đó là hai kẻ sống sót của tai nạn hôm qua.
Mãi đến hơn một tiếng đồng đồ sau mới có xuồng nhỏ bơi gần qua đó, Quí gọi họ ghé lại.
Nhờ nước lớn đầy «mà» nên xuồng chĩa mũi đâm vào đến sát chân họ được.
– Đưa giùm bà con tôi qua chợ Mỹ, anh nhé, chúng tôi sẽ tạ ơn anh.
– Dạ được. Nhưng sao lại...
– Chúng tôi bị chìm đò chiều hôm qua, trôi dạt vào đây và kẹt ở đây suốt đêm rồi.
– Mời thầy cô xuống.
Quí đưa tay ra, ra hiệu mời cô gái. Cô ta nhìn Quí mà không rục rịch cũng chẳng nói được gì. Bốn mắt gặp nhau, và cả hai người đều như muốn ký gởi vào lòng kẻ đối diện những cảm nghĩ câm lặng của mình, và Quí ngạc nhiên hết sức mà thấy vẻ đắm đuối của đôi mắt nàng nó khác hẳn sự lãnh đạm, sự dè-dặt và giữ gìn của nàng đêm rồi.
Lâu lắm, cô gái mới nghẹn ngào nói bằng tiếng Pháp :
– Em nhớ mãi đến suốt đời em, những gì đã xảy ra từ chiều hôm qua đến giờ... Xin vĩnh biệt...
– Vĩnh biệt!
Thiếu nữ bước xuống xuồng, và xuồng chòng chành dưới sức nặng của người khách mới, vì cô ta chỉ đứng một bên thôi, cô gái dang tay ra như con chim chắp cánh để lấy thăng bằng, và khi cả xuồng lẫn người đều vững bộ rồi, nàng ngẩng lên, tươi cười nói, cũng cứ bằng tiếng Pháp :
– Giờ hết sợ ông như đêm rồi, em xin ông cho em biết quí danh, quí nghiệp và địa chỉ.
Đêm rồi Quí ngỡ nàng tránh phải trao đổi căn cước nên không chịu biết về chàng. Giờ cái tiếng « sợ » của cô gái bỗng giúp chàng thấy ngay sự thật của tâm trạng nàng lúc cả hai còn ở trên đảo giữa đêm tăm tối.
Chàng thừ người ra và chợt nhận thấy cô gái thông minh hết sức. Tuy nhiên, chàng còn ngần ngừ, không muốn nói.
– Em xin ông...
– Tôi là Quí, tức họa sĩ Đằng-Phương, 456 đường Lê-Lai, Saigon. 4-5-6 ba số lớn lần lên liên tiếp, dễ nhớ lắm !
Xuồng từ từ tách bến, và cô gái trố mắt nhìn chàng, như là ngạc nhiên lắm mà vừa biết được một điều quan trọng bất ngờ.
Chiếc xuồng nhỏ quá nên cứ chòng chành, mặc dầu mặt sông phẳng lặng như tờ. Cô gái chỉ muốn đứng thôi, nhưng vẫn phải ngồi xuống. Bấy giờ xuồng trở mũi ra hướng biển, nằm song song với cù-lao. Cô gái ban đầu day mặt qua bên trái nàng để nhìn người đứng trong bờ, nhưng giây lâu, xuồng đi khỏi đó rất xa, nàng phải xây cả người lại cho khỏi mỏi cô vì mãi ngoái ra sau lưng.
Quí tay vịn thân một cây bần, tay thọc vào túi quần, thấy cô gái vẫy tay, chàng cũng đưa tay lên vẫy lại. Dáng người áo đen nhỏ dần, và một khi kia một chiếc mu-xoa trắng bay phấp phới ở đầu tay nàng trong gió. Chiếc mu-xoa ấy không biết thiếu nữ đã cất ở đâu mà còn giữ được đến bây giờ, qua bao nhiêu chìm nổi.
Xuồng đã bọc đầu cù-lao phía nam, và cô gái đã khuất dạng. Quí còn đứng đó rất lâu, mới gọi xuồng khác để xin vào bờ.
Một tiếng đồng hồ sau đó, chàng qua tới Mỹ và biết chiếc Aronde đỏ mượn của bạn đã về Saigon chớ không đợi người mà anh tài xế ngỡ đã chết chìm, chàng đáp xe đò về thủ đô.

—>Xem tiếp
TAI NẠN THẢM KHỐC
Ở BẮC RẠCH-MIỄU
18 người mất tích, trong đó có một hoạ sĩ danh tiếng.
RẠCH-MIỄU- Chiều hôm kia một tai nạn thảm khốc xảy ra trên sông Cửu-Long ngay trước thành phố tỉnh lỵ Định-Tường.
Một chiếc đò máy nhỏ, đưa hành khách địa phương qua lại Rạch-Miễu và Mỹ-Tho, đã chìm vào khoảng sáu giờ chiều, trong một trận mưa to gió lớn đầu mùa.
Hình như có đến 18 hành khách mất tích, chưa biết sống chết thế nào, vì sau trận mưa, trong bờ (phía bên Rạch-Miễu) hay được tai nạn ghe thuyền tư nhơn tự động chèo ra cứu vớt các nạn nhơn rồi đưa những người sống sót về đâu không ai rõ để mà kiểm soát.
Hai người tài công chánh và tài công phụ của chiếc đò máy ấy cũng ở trong số người mất tích nên không ai biết nguyên nhơn vì sao xảy ra tai nạn nầy.
Theo lời một thương gia trẻ tuổi ở Saigon thì họa sĩ Đằng-Phương mà ai cũng biết tiếng, cũng đã quá giang chuyến đò ấy chiều hôm đó, và mãi đến nay chưa thấy mặt ở Saigon.
Bổn báo đang theo dõi vụ nầy để loan báo thêm những chi tiết lượm lặt được.
Quí về Saigon ngày hôm qua, chắc là một lượt với người thông tín viên địa phương, y đã mang tin nầy lên cho báo chí thủ đô. Chàng không thèm đi đâu cả, cốt để đùa bạn hữu chơi.
Nhưng hôm nay thấy cái tít năm cột ở trang nhứt tờ nhựt báo Hừng-Đông, chàng giựt mình.
« Bậy lắm, – chàng nghĩ, – thằng Quang nó đã hay tin đâu hôm kia, do anh Chín tài xế đánh xe không về cho biết chuyện chẳng lành. Chắc nó đã báo động các tờ báo quen ngay từ đêm đó ; nó có thể đã cho họ biết sự hiện hữu của một chiếc va-ly đựng y phục phụ nữ trên xe, và của một cô gái chung chuyến đò với mình.
«Báo chí họ tò mò và giỏi xí gạt để lấy tin, chắc là thằng Quang mắc bẫy và đã tiết lộ tất cả. Cô gái áo đen sẽ ngộ nhận, ngỡ chính mình cho tin đó, hóa ra như mình không giữ lời hứa»
Chàng bối rối, đọc vội vàng hết bài báo thì nghe nhẹ cả người. Thì ra báo chí không biết sự thật về cái đêm kỳ dị của chàng, hay họ chưa biết.
«Nhưng phải đi thăm Quang ngay mới được để dặn dò nó, kẻo lại có tờ báo khôn hơn, tìm nó mà gài bẫy thì phiền lắm».
Nghĩ xong, chàng tức tốc gọi tắc-xi đến nhà thằng bạn đã cho mượn xe hơi.
Thấy Quí lù lù từ ngoài sân tiến vào, Quang và vợ hắn mừng quýnh lên :
– Trời ơi, ma chết đuối hiện hồn về. – Quang reo lên mà pha trò như vậy.
– Làm vợ chồng tôi hết cả hồn vía. – Vợ Quang nói.
– Anh chị lo làm gì mất công. Bề nào chiếc xe cũng còn là đủ rồi.
– Anh mắc dịch, bộ ai coi của hơn người sao chớ.
– Nếu không nghĩ đến nỗi đau ruột của chị, tôi đã đi chầu bà Thủy với chiếc xe rồi. Tôi mà cố sống, chỉ để bảo vệ chiếc xe đỏ của chị thôi.
– Quí. Kể chuyện nghe coi nào !
– Dài lắm. Để tôi viết ra thành một thiên phóng sự hồi ký rồi chị hãy xem.
– May cho anh lắm đó nha. Anh mà có vợ thì anh chết với cái va-ly trong xe. Tụi tôi ngỡ anh đã đi thăm Hà-Bá nên mở va-ly ra xem mới hay đó là va-ly phụ nữ, toàn y phục con gái không mà thôi.
– Nếu tôi có vợ, anh Quang đã thủ tiêu chiếc va-ly ấy để cứu tôi.
– Nàng đâu rồi ?
– Chị đừng có ý đổ tội cho tôi. Hỏi anh Chín thì biết. Nàng đón xe dọc đường, xin quá giang, chớ nào tôi có chở gái đi chơi bằng xe chị đâu.
– Tao hồ nghi mày đã tổ chức nhận chìm xuồng để thủ tiêu nàng hầu đoạt chiếc va-ly tài vật đó.
Cả ba cười xòa, rồi Quí dặn :
– Nói chơi chớ anh chị không nên tiết lộ điều đó. Coi chừng nhà báo, chúng nó đánh hơi được mùi gì, chúng nó đeo riết anh thì sẽ đỗ tùm lum ra.
– Biết rồi. Ai mà ác đến đỗi làm cho anh phải ế vợ về sau.
Quí xin chiếc va-ly rồi về nhà nằm, không dám bước chơn ra khỏi cửa, sợ người đẹp đến đòi lại mà không gặp thì uổng chẳng biết bao nhiêu.
Lúc nào cần ra ngoài ăn cơm, uống cà phê, thì chàng dán danh thiếp nơi cánh cửa, biên mấy chữ trên đó cẩn thận : « Đằng-Phương sẽ về nhà vào khoảng X giờ ».
Trong suốt một tuần lễ, không bữa ăn nào, chàng ăn no bụng cả, và vì ăn vội nên tức bụng mãi, rất khó chịu.
Những khi nằm nhà, bạn hữu chàng rất ngạc nhiên mà thấy chàng giật nẩy mình mỗi lúc nghe tiếng bất kỳ một loại xe nào ngừng lối trước nhà chàng. Chàng dáo dác trông ra ngoài, lắng tai nghe ngóng, rồi mãi không thấy bóng ai, chàng sốt ruột chạy ra cửa mà dòm, rồi lần nào cũng thất vọng.
Nhiều phóng viên đến thăm chàng mong biết chi tiết về vụ chìm đò, mà đến nay, mười hai xác chết đã được vớt lên, trong đó có đến sáu xác trẻ em, còn thì toàn là xác phụ nữ cả, nhưng chàng chối đã là nạn nhân trong tai nạn ấy, cho rằng cái tin ban đầu về chàng, chỉ là tin vịt thôi.
Nhưng bọn làm báo tinh khôn quá sức. Họ đoán thấy một ẩn tình gì trong đó nên chàng càng chối, họ càng đặt ra nhiều nghi vấn rất là giựt gân mà trong đó tên tuổi chàng luôn luôn được nêu lên sau những tiếng «Phải chăng» và trước nhiều dấu hỏi thật lớn.
Thật là phiền và nhứt là rất tốn tiền. Chàng làm bộ thưởng công anh Chín tài xế và toa rập với Quang để đưa anh ta đi an trí một nơi, nói là cho nghỉ mát, kẻo báo chí mà chụp được anh ta thì họ sẽ làm rùm beng lên.
Nhưng cô gái áo đen vẫn không thấy tăm dạng. «Hay là nàng đau ốm nặng sau trận ngâm nước, dầm mưa, mặc áo ướt nằm ngoài sương suốt đêm đến bị vọp bẻ hàng giờ ! »
Phải, rất có thể là như vậy. Nhưng chàng bền chí đợi thêm một tuần nữa, mà vẫn không thấy cô ta cho dấu hiệu rằng cô ta hiện đang sống trên đời nầy. Nếu phải đi đâu xa, hay bận gì, cô ta cũng có thể viết đến chàng một bức thư ngắn, nhờ giữ giùm nàng chiếc va-ly đó chớ !
Quí đã tò mò, nhưng chàng không xấu hổ với lương tâm chàng. Chàng nghe yêu thiếu nữ quá sức đến đỗi tưởng tượng rằng nàng cũng đã yêu chàng và chàng có quyền dòm ngó đến đồ đạc của nàng. Vì thế mà chàng đã lục nát chiếc va-ly ấy.
Va-ly chỉ đựng những y phục mát, mặc ngủ như bi-da-ma, hay mặc đi dạo xóm được như những bộ bà ba ngắn. Chỉ có một chiếc áo dài đen trong đó, chiếc thứ nhì ngoài chiếc áo nàng mặc trên người để đi đường. Ngoài ra thì son, phấn, một lọ nước hoa nhỏ, vài chiếc mu-xoa, vài chiếc khăn mặt, một quyển tiểu thuyết tình, tiếng Pháp, dài hơn ba trăm trang.
Chàng trổ tài trinh thám, qui nạp và diễn dịch để rút ra từ cuộc lục soát ấy những kết luận sau đây : Cô con gái, nhà khá giả, có thể bảo là con nhà giàu, có học cỡ Trung-Học Pháp sấp lên, về nghỉ hè ở quê nhà và trở lên Saigon để tựu trường. Cô ta thuộc một gia đình có nền nếp, không se sua ở một nơi mà chung quanh ai cũng lam lũ, nên chỉ mang về quê toàn y phục cũ, phần lớn màu đen và màu sậm tối, tuy nhiên lối may và phẩm chất của hàng, lụa, vải, chứng tỏ nàng sành ăn mặc và có tiền.
Hết tuần lễ thứ nhì, Quí sốt ruột quá. Chàng chạy đi tìm một vị bác-sĩ quen biết để hỏi thăm về hậu quả của một trận cảm hàn. Bác-sĩ đưa cả hai tay lên trời mà rằng :
– Chỉ có trời mà biết. Nạn nhân có thể sốt hai ba ngày, nhức đầu sổ mũi rồi khỏi. Nhưng cũng có thể bị sưng phổi, rồi thì hàng trăm biến chứng khác xen vào. Vả lại khi con người ương yếu thì bao nhiêu vi trùng, bịnh tật, vốn rình sẵn đâu đó để phục kích, thừa cơ thuận lợi mà nhào vô, tôi còn biết sao nữa mà nói.
Anh muốn biết chắc nạn nhân đau ốm lâu lắm là mấy mươi ngày à ? Có thể đến mấy tháng cũng cứ được.
– Nhưng anh chỉ kể các trường hợp thường thôi mà đừng đả động vài trường hợp đặc biệt để bi thảm hóa vấn đề.
– Vâng, nạn nhơn già hay trẻ ?
– Hai mươi tuổi.
– Vậy hắn chỉ sổ mũi ba hôm là khỏi. Nếu hắn là một cây rượu mạnh cừ khôi thì rượu sẽ bịnh thay cho hắn, chớ hắn không sao cả.
Những chỉ dẫn của nhà chuyên môn quen biết và đáng tín nhiệm nầy càng làm cho Quí tuyệt vọng thêm.
Thế là nàng đã tự ý không đến chớ không vì trở ngại vật chất nào cả. Nàng không đến ? Nàng không đến thì thôi ! Chưa có một dính líu tình cảm cỏn con nào giữa hai người, trừ giấc mơ yêu của chàng trên xe, trừ sự xúc động của chàng lúc thoa bóp cho người bị chứng vọp bẻ và trừ những giây phút ngậm ngùi khi xuồng tách bến. Quả nàng đã trông lại, nàng đã vẫy khăn. Nhưng đó không phải là một lưu luyến đáng kể, mà chỉ là một cử chỉ lịch sự đối với người mà nàng đã thọ ơn.
Nàng đã thọ ơn ! Quí hơi hờn con người đó, mặc dầu chàng nhận rằng những gì chàng đã làm hôm ấy đều là chuyện tự nhiên, chớ chàng không hành động vì lòng tốt riêng đối với cô gái. Mà có vì thế chăng nữa, cũng chẳng ai yêu cầu chàng thi ân để rồi đòi báo đáp ; vả lại giáo dục và thiện căn nơi chàng cũng đã cho chàng cái quan niệm đúng là đừng nghĩ đến việc được báo ân.
Tuy nhiên, chàng cứ hờn, hơi hơi nghĩ rằng đó là con người bạc bẽo. Hờn dỗi như vậy hết hai ba hôm, chàng mới thấy mình vô lý, tức cười cho mình, rồi càng sầu hơn bao giờ cả.
Chàng thử phân tách xem tại làm sao mà chàng lại si tình một cô gái không hề tỏ chút cảm tình đặc biệt nào với chàng cả. Phải, con trai có thể yêu bất kỳ cô gái đẹp nào, nhưng họ chỉ si khi nào đã thấy được hay ngỡ thấy được dấu hiệu tương cảm cho dẫu là rất kín đáo – hoặc thấy được những khuyến khích rõ rệt nó dẫn họ đi sâu vào tình yêu cho đến si mê. Nhưng luôn luôn họ dừng bước trước lằn mức thờ ơ.
Cứ cố khám phá lòng mình ngày nầy qua ngày khác, rốt cuộc Quí chịu là không biết vì sao mà bỗng dưng chàng lại lẩn thẩn như vậy.
Thật là cay cho chàng. Chàng thân với rất nhiều bạn gái, quen sơ với rất nhiều gia đình có con gái, bao nhiêu người đẹp đó chưa làm gợn được tấm lòng bình thản của chàng, và bao nhiêu người đẹp xa lạ khác, thấy hằng bữa trên các hè phố đô thành cũng chưa hề bắt chàng nghĩ ngợi lâu hơn hai phút đồng hồ.
Phải chăng là con đường quê, tốc độ chạy xe của chàng, cuộc gặp gỡ bất ngờ, tất cả những thứ ấy là bao nhiêu yếu tố xui chàng tưởng tượng nhiều quả, rồi mơ nhiều quá, đến đỗi yêu một cách nông cạn và tình yêu ấy bị cái đêm trên đảo, bị sự đụng chạm về xác thịt cứ đào sâu thêm ?
Nhưng mà không cần lắm, những lý do nó xui chàng yêu ! Chỉ biết rằng chàng đang yêu nhiều, đang si, và đang khổ.
Lắm đêm đã sắp sửa đi ngủ tức là khuya rồi, mà Quí còn nghe như ai gõ cửa đằng trước. Chàng vội vã chạy ra thì không có ai hết : một khách đi đêm đã nện guốc hơi mạnh trên mặt đường, chỉ có thế thôi.
Chàng thơ thẩn trở vào, đứng nhìn trân trối chiếc va-ly đặt trên mặt của chiếc bàn ăn không bao giờ dùng đến, rồi không cưỡng được với ý muốn, chàng mở va-ly ra, cầm lên một chiếc áo và ngắm chiếc áo ấy rất lâu. Chàng đưa áo vào sát mặt rồi hít một hơi rất dài. Bỗng xấu hổ quá, không biết là với bóng mình hay với ai, chàng thồn lẹ chiếc áo trở vào va-ly, đậy va-ly lại cẩn thận, để bôi xóa dấu lục soát của chàng kẻo người nhìn nhận của gởi sẽ đoán biết rồi cười cho.
Hôm ấy là ngày thứ hăm mốt sau tai nạn trên sông Cửu-Long. Bốn tờ báo hàng ngày lớn nhứt ở thủ đô đều có đăng nơi trang tư lời nhắn sau đây :
NHẮN TIN THẬT GẤP
VỚI
NGƯỜI GỞI VA-LY
NẾU KHÔNG ĐẾN NHẬN
THÌ NGƯỜI GIỮ
SẼ TỰ-TỬ !
Mặc dầu viết dưới hình thức nhắn tin, nhưng đăng to quá, đến bốn cột, chữ lớn, nên ai cũng ngỡ đó là một lối quảng cáo giựt gân cho một thứ hàng hóa mới nào.
Chính Quí cũng đã phải gạt các ty quản lý, bảo rằng chàng lăng-xê một cuốn phim Việt-Nam vừa quay xong, không thôi họ không nhận đăng một lời rao có vẻ bí mật như thế, sợ phải bị liên lụy vì hành vi của một bọn lưu manh nào.
Chàng định rằng cô gái, dầu có thờ ơ với quảng cáo bao nhiêu, cũng bị lời rao to lớn nầy nhảy lên mắt cô ta.
Đăng báo xong lời nhắn nhủ nầy, Quí bền chí đợi ba hôm. Trường Mỹ-Nghệ mà chàng dạy môn mỹ thuật thuần túy đã khai giảng từ mười ngày rồi. Hôm nào, dạy học xong, chàng cũng thót lên xe xì-cút-tơ dông tuốt về nhà một nước, mở cửa và thất vọng không thấy mảnh giấy con nào, nhét qua lá sách cửa rơi vào trong. Trong giấy có mấy dòng chữ đại loai như thế nầy : « Em có đến, tiếc không gặp. Tối nay sẽ trở lại. Ký tên : người suýt chết đuối dưới Rạch-Miễu. » Hoặc : « Em van anh, khoan chết, đợi gặp mặt em rồi hẵng hay. »
Ba hôm qua, độc giả các bảo hàng ngày lại được đọc một quãng cảo mới.
NHẮN TIN THẬT GẤP
VỚI
NGƯỜI SUÝT CHẾT ĐUỐI
NẾU KHÔNG NHẬN VA-LY
NGƯỜI GIỮ SẼ TIẾT-LỘ
TẤT CẢ CHO BÁO-CHÍ BIẾT.
Quí đã đổi chiến lược « Ừ, nàng không sợ ta chết thì phải sợ ế chồng vậy ! Sự hăm dọa trước, có tánh cách tiêu cực và thụ động, hăm dọa tự hủy mình thì ai mà thèm sợ làm gì, vì ai đã yêu ta đâu, ta chết mặc xác ta chớ ! Chí như hăm dọa nầy thì phải biết ! Ta mà cho tài liệu báo chí viết một thiên điều tra nguyên tử về một đêm trắng của một họa sĩ với cô gái áo đen bí mật, gốc ở làng X... trên một hoang đảo, thì tiêu cả đời con gái của nàng. Các tay viết phóng sự ly-kỳ-hóa mọi việc tài lắm ! Ho sẽ nói đến một thiên tình-sử thơ mộng, bi đát, não nùng thì chết chớ chẳng chơi đâu nhé ! »
Quí bằng lòng chàng lắm. Chàng đã nghĩ gần ngót tháng mới ra mưu mẹo nầy : hai cái quảng cáo kỳ dị, không có giải thích bởi quảng cáo sau nào nữa cả, và chỉ có hai người là hiểu với nhau thôi.
Và huyền diệu thay, cái quảng cáo thứ nhì của chàng linh nghiệm như một nén hương mà học trò tiên trong truyện Tàu đốt lên để gọi sư tổ hạ san.
Hôm ấy đi dạy về, vừa qua khỏi bến xe Tây-Ninh thì chàng bỗng nghe muốn ngộp thở. Nhà chàng ở mãi đằng ngã ba Nguyễn-văn-Tráng, thế mà chàng đã rình nhà chàng ngay từ ngã ba Phan-văn-Hùm, và hôm ấy thì người trông đợi hiện ra.
Chàng tin chắc là nàng, vì người ấy mặc đen, và đứng sát cửa chàng, tay nắm hột xoài, có lẽ để gọi cửa.
Quí đạp ga rút tới, và qua ngã ba một cách mù quáng, suýt bị một chiếc xe hơi từ trên Võ-Tánh đổ xuống, đâm vào hông chàng.
Cô gái xây lưng ra để đi về thì thấy Quí cho xe leo lề.
– May mắn quá !
Hai người không chào nhau nhưng cùng cười và đồng nói một lượt câu trên đây, như là hợp ca. Nói xong họ thấy sự trùng ý đó buồn cười quá, nên lại cười nữa.
Quí cuống lên, tìm chìa khóa cửa mãi mà không được. Rốt cuộc thì ra nó chỉ nằm dưới chiếc khăn mu-xoa độn túi quần. Tay mở cửa, miệng chàng mời :
– Mời cô vào. Cô chờ tôi có lâu lắm không ?
– Em chỉ mới đến thôi.
Hai người vào nhà, Quí chỉ một chiếc ghế rồi bước lại mở cửa sổ phía trước, xong lại đi mở cây quạt máy đứng.
Chàng vừa ngồi xuống vừa nói :
– Thế là tôi biết chắc được hai điều. Điều thứ nhứt: cô mặc kệ tôi chết. Điều thứ nhì cô rất sợ tôi không kín miệng. Được, tôi sẽ lợi dụng bí mật mà tôi cầm giữ, để tống tiền cô.
Cô gái cười nói :
– Em có sợ ông chết chớ sao không. Nhưng em biết chắc ông không chết vì chiếc va-ly, nên đã nín luôn. Còn bí mật thì em vẫn tin ông là người lịch sự.
– Nhưng sao cô lại vội vàng đến ngay sau lần nhắn tin thứ nhì ?
– Vì nghe buồn cười quá. Em thấy sự liều lĩnh của ông hay hay nên không thể không đến được.
– Thành ra tôi nói sai bét hết.
Họ giống như đôi bạn đã thân nhau từ lâu rồi vì thế mà họ chỉ chào nhau ngoài cửa bằng cái cười. Việc nhắn tin trên báo bằng lời thảm kịch hóa, và sự ra mặt của cô gái giúp cho họ hiểu lòng nhau phần nào rồi, nên tự nhiên, họ không nghe còn xa lạ như trong đêm tối trên cù-lao Tân-Vinh nữa.
– Sau đêm đó rồi cô có đau ốm gì nữa hay không ?
– Dạ, em chỉ sổ mũi có mấy hôm ?
– Lão bác-sĩ ấy thật tài.
– Bác-sĩ nào mà xem mạch người vô hình được đó ông ?
Quí cười nói :
– Không thấy cô đến đòi va-ly, tôi định bụng rằng cô bịnh nặng vì quá lạnh, mới đi hỏi thăm một ông bác-sĩ quen về nỗi nguy mà một nạn nhân trong trường hợp cô có thể phải gặp.
Cô gái đã tắt ngay cái mỉm cười trên môi, và môi trên của cô hơi mấp máy vì cảm động.
– Nhà tôi không có nước uống, không biết lấy gì đãi cô, xin cô thông cảm.
– Ông ở một mình à ?
– Vâng, và tôi ăn cơm ở các hiệu ăn trong thành phố.
Qua bức màn ngăn cái buồng sâu và độc nhứt nầy làm hai, thiếu nữ thấy một chiếc giường ngủ bên trong, đang rung rinh, vì màn bị gió lay, và sau bếp, không thấy bóng ai cả, không thấy khói lửa gì hết.
Bấy giờ nàng mới mở xắc lấy ra một hộp thuốc rời Prince Albert thứ dẹp, đặt lên bàn khiến Quí ngạc nhiên lắm. Nàng cười nói :
– Khi sáng em thấy món nầy, nhớ lại đêm đó ông phải nhịn vì không lửa, nên mua tặng ông hút chơi. Xin ông hút một điếu thử xem để ta nhớ lại cơn ác mộng và hưởng cái thú còn được sống.
– Một ý rất hay !
Khen xong, chàng rút chiếc bíp ở túi sơ-mi ra, khui hộp thuốc rồi thồn vào ống cối một nhúm thuốc thật to.
Quí ngả lưng lên cái ghế dựa, kéo một hơi dài. Khói Prince Albert thơm ngát tỏa ra khắp gian phòng hẹp. Chàng lim dim đôi mắt để sống lại đêm nào và để tận hưởng vị thuốc ngon.
Cô gái ban đầu nhìn người hút thuốc, rồi theo dõi khói thuốc trắng bay lên trần, nhưng rồi mắt cô phiêu lưu vào một thế giới xa vắng nào.
Lâu lắm cả hai mới trở về thực tại, Quí hỏi :
– Sao đêm ấy, trong đêm tối mà cô biết tôi hút Prince Albert ?
– Em có biết đâu điều đó. Chỉ biết rằng ông hút bíp và nghe người ta nói Prince Albert ngon nhứt nên mới mua.
– Cô tình cờ mà thấy họ bày bán ?
– Vâng.
Quí thấy ngay rằng cô ta đã nói láo một cách mạnh miệng vì dốt thời sự.
Tại thủ đô, chỉ có hai hàng thuốc bán Prince Albert thôi, nhưng họ giấu đút chớ không bày ra vì đó là hàng lậu thuế. Cô gái chắc đã nhờ ai mua giùm đó thôi mà không dè rằng loại thuốc nầy rất hiếm.
Chàng nhìn lại cô gái. Quả thật gương mặt cô kiêu hãnh lắm. Nhưng nào có xấu hổ gì sự săn sóc một người quen, một người ơn, mà phải che giấu sự thật của lòng nàng? Chàng băn khoăn tự hỏi điều đó rồi không đáp được.
Thiếu nữ xem lại đồng hồ tay rồi nói :
– Em xin phép ông...
– Ủa, còn sớm mà sao cô vội thế ? Chưa nói được gì với nhau kia mà !
– Ông cho khi khác vậy.
– À, để tôi mang va-ly ra cho cô.
– Thưa ông... hay là... vâng, ông cho em xin lại.
Quí có cảm giác rõ rệt rằng cô gái không muốn lấy chiếc va-ly đó, định gởi lại đây luôn, hay bỏ hẳn. Nhưng rồi cô ta không dám hành động như thế và rốt cuộc miễn cưỡng nhận vì nếu không nhận thì khả nghi quá.
Bỗng nhiên Quí đâm sợ, tự hỏi có điều gì bí ẩn, lương lẹo, không minh bạch về chiếc va-ly nầy. Nếu đã không lục soát, chắc chàng còn sợ hơn, vì đoán rằng nó có thể chứa đồ quốc cấm hay chứa những bằng chứng gây liên lụy nào.
Khi xách va-ly từ trong buồng đi ra, chàng nhìn kỹ lại cô gái. Không, cô ta vẫn hiền từ, không có vẻ gì là một tay buôn lậu, một tay cách mạng hay một tay sát nhơn cả.
– Hôm nào cô trở lại ?
– Em chưa biết chắc được.
– Tôi rất mong cô. Tôi có ở nhà, buổi sáng từ 10 giờ rưỡi đến mười hai giờ rưỡi, buổi chiều từ hai giờ rưỡi, tức là liền ngay sau giấc ngủ trưa, đến bốn giờ chiều. Còn đêm thì tôi hoàn toàn rảnh rang.
Thiếu nữ đưa tay ra để nhận va-ly, nhưng chàng nói :
– Để tôi xách ra xe cho cô.
Trên vỉa hè, nàng bắt một chiếc xe tắc-xi, rồi mỉm cười nói với Quí :
– Em mặc nguyên bộ y phục hôm nọ.
– Cám ơn cô lắm. Tôi đã thấy điều ấy ngay từ phút đầu và sung sướng mà gặp lại người mắc nạn, không thay đổi chút xíu nào hết.
Thiếu nữ bước lên xe, chàng trao va-ly theo, đóng cửa lại. Nàng không nói địa chỉ, mà bảo người tài xế cứ chạy tới. Đoạn mỉm cười cúi đầu chào vị ân nhân. Hắn nói :
– Rất mong cô.

– Em mặc nguyên bộ y phục hôm nọ.
Câu nói nầy cứ văng vẳng bên tai Quí mãi, nó đeo đuổi chàng trong bữa ăn, trong giấc ngủ, trong giờ dạy học, trong các buổi họp bạn.
Không, nàng chắc phải có nhiều áo đẹp ngoài chiếc áo đen dùng để về quê nầy. Nhưng nàng vẫn mặc nó trong thành phố, một buổi đi thăm bạn trai, vì phải chăng nàng biết chắc rằng người bạn trai ấy đã ghi hình ảnh nàng trong trí hắn với tất cả mọi thứ phụ thuộc khác trong đó có chiếc áo đen nầy, và tránh cho chàng cảm giác khó chịu đã gặp lại một thiếu nữ khác, cho dẫu là chỉ khác một tí thôi.
Đó là lời nói tràn ứa cảm tình đầu tiên và duy nhứt của cô gái mà chàng được nghe. Nó êm như tiếng ru của một bà mẹ thuở chàng còn thơ ấu, nó dịu như là một bàn tay bọc nhung xoa ngực chàng.
Cuộc đời bấy giờ thật đáng yêu, chớ không ủ dột như chiều mưa gió nọ tại bến đò Rạch-Miễu nữa.
Quí cứ săm soi hộp Prince Albert như đã săm soi chiếc áo bà-ba trong va ly. Cô gái khéo léo quá trong việc xử thế. Cô ta tặng quà một cách trôi chảy, không làm sao mà từ chối được. Cô chỉ tặng một món nho nhỏ độ năm chục bạc, nhưng trình bày khác đi, thành ra người nhận quà không thấy rằng mình nhận quà: đó là một buổi hút thuốc chung, để cùng sống lại một dĩ vãng gần.
Một ngày qua đi, hai ngày trôi, ba ngày tàn, bốn ngày lụn, cô gái áo đen không thấy trở lại. Quí nghĩ rằng lịch sự lắm thì thiệt thân. Nếu chàng cứ tò mò, một sự tò mò vô tội, hỏi nhà cô ta thì đã tìm thăm cô ta được rồi.
Một tuần lễ, hai tuần lễ.... ủa, sao mà lạ như thế nầy ? Chàng đã trót yêu, đã trót si, cô ta đến nuôi nấng sự si mê ấy rồi bặt luôn như một lương-y bốc thuốc hồi dương cho một con bịnh hấp hối, con bịnh tỉnh lại thì ông thầy chạy te.
Sao tàn nhẫn thế ? Sao không để con bịnh tắt nghỉ luôn có phải là nhơn đạo hơn là kéo dài những ngày đau đớn của nó ?
Chàng muốn đăng báo kêu gọi một lần nữa, nhưng lối ấy tốn tiền quá sức, vả cũng chẳng biết dùng luận cứ nào khác khi mà sự hăm dọa không áp dụng được nữa.
Sáng hôm sau tờ nhựt báo « Đường Mới » đăng nơi trang nhứt cái tin một cột sau đây trên bức ảnh của chàng :
MỘT HỌA-SĨ TÀI HOA
ĐANG HẤP HỐI ĐẰNG-PHƯƠNG
Khó mong thoát khỏi tay tử thần.
SAIGON.- Họa-sĩ tên tuổi Đằng-Phương, sau một tuần lễ lâm binh đang hấp hối trên giường tại một nơi kia, xa nhà ông.
Các vị lương-y điều trị cho ông đều đồng thanh bảo rằng ông mắc phải chứng loạn tâm.
Nhưng Đằng-Phương đã từ chối lời van nài bạn hữu ông, xin ông cởi mở tâm tư để họ tìm phương giải thoát tiềm thức của ông.
Bài báo nầy, Quí đã phải hối lộ cho người bạn làm thơ ký tòa soạn cho báo Đường-Mới một tách cà-phê đen nó mới chịu loan tin vịt ấy ra.
Chàng yêu cầu nó nói là chàng nằm một nơi xa, rồi đóng cửa lại mà trốn, kẻo lũ bạn khác nó kéo đến thăm thì đổ bể hết ráo.
Nén hương gọi sư tổ hạ san, vẫn còn linh nghiệm, cô gái áo đen gõ cửa vào một buổi xế chiều chúa nhựt và con bịnh hấp hối, chạy bán sống bán chết từ trong buồng ra để tiếp khách.
« Cô gái áo đen » chỉ còn là cái tên tượng trưng. Lần nầy cô ta mặc toàn trắng, màu trắng trinh nữ của học trò con gái, vừa thấy là nghe thơm ngay mùi trong sạch.
Họ càng hiểu lòng nhau hơn, và chỉ cười thay cho tiếng chào hỏi. Cô gái hóm hỉnh nói :
– Em sắp sửa mua tràng hoa, nhưng anh đã hiện hồn về, thì tức là đã chôn cất xong, trễ quá rồi thì thôi vậy.
Quí đứng chết trân vì lối xưng hô chàng mong ước mà không dám xin ấy thình lình lại được cô khách tự nhiên dùng.
– Em..Có ... lý ... nào ...mà ...
– Có lý nào mà anh chận cửa, không tránh cho em vào.
Quí sực nhớ lại điều nầy, bật cười, rồi bước lùi ra sau.
– Lần nầy, vì sao mà em đến ? – Chàng hỏi thế khi cả hai đều an vị.
– Vì anh tha thiết kêu gọi em.
– Em biết đó là tin vịt à ?
– Không cần là thánh cũng biết ngay.
– À, em tên gì chớ? Hôm nay anh mới dám hỏi tên em lần đầu.
– Lan-Chi.
– Lan-Chi ! Tên đẹp quá. Nhưng sao em lại không đến, cứ để anh gọi mãi, tốn tiền quá ?
– Khổ, em cũng sốt ruột cho các lần lãng phí của anh lắm. Từ nay, chắc em phải đến thường hơn, không thôi anh vỡ nợ mất.
Quí cười sung sướng và nói :
– Nhưng lần thứ ba nầy chỉ tốn có một tách cà-phê thôi. Loại bài như vậy, hoặc phải mua hằng vạn bạc hoặc xin bằng tình bạn, chớ không thể vài trăm, vài ngàn mà được.
– Sao em không thấy dụng cụ vẽ vời tại đây ?
– Anh không vẽ nữa từ mấy năm nay. Vì không đủ ăn, nên anh đi dạy người khác... vẽ.
– Anh dạy ai mà đủ sống ?
– Dạy học trò trong trường Mỹ-Nghệ Gia-Định,

– Sao mà em nghe họ nói tranh của các họa sĩ hữu danh như anh, bán đến năm sáu chục ngàn một bức.
– Phải, nhưng không ai mua.
– Tại bán mắc quá à ?
– Không phải. Bên Âu-Mỹ người ta bán đến hằng triệu một bức mà vẫn có người dành nhau mua cho kỳ được.
– Tại nhà giàu ta không biết thưởng thức tranh à ?
– Ừ, nhưng nhà giàu Âu-Mỹ cũng không biết thưởng thức tranh. Nhà giàu họ mua tranh, chỉ để tỏ ra họ không phải trọc phú thôi, bởi vì văn nghệ thơm hơn tiền.
– Vậy thì tại sao anh lại ế hàng ?
– Vì nhà giàu ta chưa biết rằng văn nghệ làm sang con người như nhà giàu Âu-Mỹ đã biết. Hiện nay họ chỉ mới tới trình độ thấy xe hơi nhà lầu làm sang con người thôi. Anh phỏng đoán thì năm mươi năm nữa nhà giàu ta mới thấy như nhà giàu Âu-Mỹ. Trong khi chờ đợi, anh cất tranh vào kho hết.
– Kho anh ở đâu ?
– Đằng hiệu cầm đồ.
Lan-Chi cười dòn mà rằng :
– Nghèo như vậy lại không lo, cứ đăng quảng cáo mãi cho tốn tiền.
– Nếu em bặt tin nữa thì anh sẽ lại phải nhịn thuốc, nhịn cà phê và có thể phải nhịn cơm vì quảng cáo mắc tiền quá sức.
– Anh nên biết điều một chút, sở dĩ em không đến, thì chắc chắn là có lý do gì đó.
– Cố nhiên.
– Như vậy, anh nên ráng chịu. Anh làm phiền em quá.
– Anh xin lỗi em. Nhưng nếu em thờ ơ với anh, thì anh đã nhẫn nại chịu số phận. Đằng nầy, em lại...
– Thì em đã thờ ơ.
– Phải, nhưng anh giận sự thờ ơ đó, làm ồn lên, và em đã hết thờ ơ mà đến lần đầu.
Cô gái giựt mình, mặt lộ vẻ hối hận lắm. Cô hối hận đã đến lần đó, khiến anh chàng nầy lại hy vọng hơn lên, và có thể liều mạng hơn lên.
Chàng tiếp :
– Như vậy sự thờ ơ buổi đầu của em không thật. Chính vì thế mà anh càng tò mò muốn biết vì sao mà em phải giả đò lạnh lạt với anh.
– Anh có biết tò mò xấu lắm không ?
– Biết nhưng không xấu trong trường hợp của anh.
– Sao anh lại được hưởng trường hợp đặc biệt?
– Vì sự bỏ chiếc va-ly, làm cho anh hồ nghi. Anh kêu gọi em, để hết sự hồ nghi nó làm cho anh khó chịu lắm. Em đến, em lại làm cho anh hồ nghi hơn là đã do dự không muốn nhận của lại.
– Sao anh không gọi công an bắt em ?
– Chỉ mới hồ nghi, sao lại bắt. Nhưng anh đã hết hồ nghi rồi. Giờ thì anh cứ muốn gặp em vì lẽ khác.
– Lẽ gì ?
– Vì anh mến em, mà em thì không ghét anh, tự nhiên anh muốn được quen nhiều với em.
– Bằng giá đó ?
– Ừ, hơi mắc tiền một chút, nhưng không hề gì. Anh mà khám phá ra ổ buôn á-phiện lậu của em thì số tiền thưởng của Nha Quan Thuế sẽ bù vào tất cả tổn phí mà anh đã chịu.
Cả hai cười xòa.
Rồi Lan-Chi hỏi chàng về hội họa. Nàng không hiểu nhiều về môn nghệ thuật nầy, nhưng rất muốn hiểu, không vì nghệ thuật mà vì kẻ sáng tạo. Thấy rõ là nàng chú ý đến đời sống của chàng.
– Năm kia, em có đi xem triển lãm tranh của anh, nhớ đã có thấy mặt anh một lần, khiến hôm gặp nhau trên đường, em nghe ngờ ngợ, và khi đứng trên xuồng, chia tay nhau anh nói tên, em mới chợt nhớ lại.
Anh cỏ bức tranh gì, đề tên là cảnh « Sông nước » nhưng lại không thấy sông nước đâu cả trong đó.
– Chỉ gợi ý thôi.
– Em không hiểu gì hết ; nhưng nghe họ khen hay, em cũng tin là hay. Giờ quen với anh, em càng tin hơn.
Quí có nhiều bạn gái, có cả nhơn tình đẹp nữa. Nhưng chàng không yêu họ được, không yêu họ lâu dài được, vì họ chỉ biết con người của chàng mà không quan tâm đến hoạt động của chàng, mà chàng thì rất cần một người bạn gái bổ túc cho chàng, tức là biết thưởng thức cái đẹp mà chàng tạo ra. Những mỹ nhân không hiểu tâm hồn chàng qua tác phẩm của chàng, bị chàng xem như những hình nộm. Không hơn không kém.
Những cô gái đẹp biết thưởng thức nghệ thuật có lẽ không đến đỗi khan hiếm, và chàng đã gặp họ trên đời. Nhưng số chàng rủi ro lắm là luôn luôn có những chuyện lặt vặt nó ngăn chàng quen thân với họ, rồi bận việc, chàng không đủ thời giờ nối lại những mối sơ giao bỏ dở đó.
Lần nầy thì may mắn vô cùng. Lan-Chi tuy không hiểu hội họa bao nhiêu, vẫn là người đang tìm tòi để hiểu và nàng là người chàng tìm kiếm vậy.
Dứt câu chuyện mỹ thuật, nàng hỏi :
– Em bỏ bộ đồ đen, anh thấy sao ?
Quí sung sướng vô cùng mà nhận thấy, qua câu hỏi đó, sự lo lắng của người con gái đối với ý kiến của chàng về nhan sắc nàng. Nàng muốn được đẹp trước mắt chàng, như đã cố ý cho chàng xem lại người chàng mơ, lúc đến đây lần đầu trong bộ đồ đen chìm đò.
– Em mặc đen hay trắng gì cũng đẹp tuốt.
– Nhưng chắc anh thích gặp lại cô gái áo đen hơn. .
– Cố nhiên, nhưng không lẽ bắt em dùng màu tang chế mãi. Hay là như thế nầy : thỉnh thoảng em mặc lại bộ y phục ấy một lần, và anh cũng mặc lại bộ Âu-phục chìm đò hôm nọ. Ta sẽ gặp nhau nơi công viên nào đó, một đêm mưa, để tạo lại phần nào không khí trên đảo Tân-Vinh.
– Chuyện đó thì hơi khó.
Lan-Chi đánh trống lấp, lái câu chuyện qua hướng khác :
– Nhà anh trống trước, trống sau cả. Cửa sổ cửa lớn gì cũng phải treo màn cho nó kín đáo, ấm cúng. Tường phải được trang-trí bằng chính tranh của anh, chớ sao mà để trơ mặt phấn của nó ra như tường khách-sạn vậy. Rõ là thợ rèn không dao ăn trầu. Lần sau em đem màn đến cho anh, nhưng mà em muốn thấy tranh trên tường đa nghen.
Lan-Chi nói ra như lệnh, nhưng Quí không nghe mích lòng, trái lại chàng sung sướng không biết bao nhiêu mà nhận thấy trong sư hách dịch đó tâm-hồn của một người bạn chớ không phải là một người quen thường, lạnh lùng với chàng nữa, hơn thế, một người bạn rất thân, thân ghê lắm nên mới tự thấy mình có quyền đối với chủ nhà.
Lan-Chi xin về, Quí tiếc quá, thiết tha mời :
– Chiều nay, em đi ăn cơm với anh có được hay không ?
– Cô em khó lắm, với lại ba má em đã gởi gấm em với cô em kỹ quá, em không có cớ để vắng nhà lâu.
– Chừng nào em đến nữa ?
– Bữa kia. Anh phải có tranh, nếu không, anh sẽ biết em !
– Vâng lịnh.
Lần nầy, họ bịn rịn hai lâu thiếu nữ mới ra khỏi nhà được. Nhưng nàng ngăn Quí đưa ra tận đường bằng một giọng quyết liệt, khiến Quí đành phải y theo lời nàng. Chàng đứng nơi cửa, nhìn bạn lên xe, vẫy tay đáp lại cái mỉm cười của Lan-Chi. Con đường Lê-Lai buồn lắm bỗng đẹp rực rỡ lên và cho đến cả những mui xe lửa xám xịt thấy qua đầu tường, bên kia đường, cũng đẹp như mui xe Huê-Kỳ.
Lan-Chi đúng hẹn. Nàng đến với hai bức màn cửa sổ bằng vải ni-lông trổ hoa và hai bức màn cửa lớn bằng voan.
– Bây giờ thì anh chỉ còn treo lên thôi.
– Ừ, để anh mua dây kẽm rồi anh treo.
Lan-Chi đưa cả hai tay lên và kêu :
– Trời ! Ai lại treo màn bằng dây kẽm ! Anh phải gọi thợ mộc, đặt họ bốn cái hộp, trong hộp có đà ngang. Treo bằng dây kẽm, vài bữa, giây nó giãn ra, màn sẽ oằn, coi sao được.
– Rắc rối lắm.
– Anh lười, nhưng cả đời anh, chỉ phải mất công gọi thợ mộc có một lần, hay hai lần gì đó, anh lại không có can đảm làm à ? Đâu nào, tranh ra sao ?
Tường của buồng khách, Quí treo hai bức tranh dầu thật to của chàng. Tranh cũ bán không được, chàng gởi ở nhà bạn, mới lấy về hôm qua. Lan-Chi đứng ngắm một hơi rồi nói :
Rằng hay thì thật là hay,
Xem ra thì, ngỡ người say vẽ hình.
Đôi bạn cười xòa với nhau. Đoạn nàng lại mở cái gói to đặt dưới gạch nãy giờ. Quí rất đổi ngạc nhiên mà thấy nào là than đước, ấm nhôm và bình, chén.
Lan-Chi xách ấm và mang cả than đi xuống bếp. Nàng nhúm lửa lên trong cái hỏa lò đổ mà có lẽ người thuê nhà trước Quí đã bỏ lại, rồi đi rửa ấm, múc nước để nấu.
Trong khi đó, Quí cũng tiếp tay với bạn, rửa bình và chén. Chàng có cái cảm-giác hay hay và êm dịu lòng quả rằng đây là đôi vợ chồng mới cưới và mới dọn nhà, bận rộn tíu tít.
Họ trở lên nhà trên và Lan-Chi hỏi :
– Anh uống nước chứa trong cái hồ xi-măng ấy à ?
– Không, lúc nào khát anh nhịn cho tới giờ ra ngoài gặp bạn.
– Từ rày, anh nên uống nước ở nhà. Cái bếp lạnh, anh không thấy là hoang vắng sao ?
– Thấy, nhưng anh đợi một người vào đây, để làm cho nó ấm cúng ra.
– Người ấy chừng nào vào ?
– Chưa biết, thỉnh thoảng nàng hiện ra, dọn dẹp, trang hoàng nhà cửa, nấu nướng y như mỹ nhân trong tranh của chuyện « Bích-Câu Kỳ-Ngộ ». Anh quyết rình và hôm nào đó, anh sẽ chụp được nàng trước khi nàng chun trở vào trốn trong bức tranh.
Lan-Chi cười nói :
– Anh đừng có hăm dọa mà nàng sợ không dám xuất hiện nữa.
– Anh mời em vào buồng trong xem bức tranh anh mới phác họa. Trong đó, không thể treo tranh cũ được.
Lan-Chi bước theo Quí và tới cửa buồng, nàng nhìn theo ngón tay của bạn thì thấy nơi tường ở đầu giường của chủ nhà, treo một khung vải bố mà trên đó họa sĩ mới chấm phá những nét đơn sơ để xây dựng một cảnh mà Lan-Chi thoáng thấy đó là cảnh về đêm trên hoang đảo, và một đôi nam nữ đang đối bóng giữa cây lá um tùm.
Quí nói :
– Cô gái ấy trốn trong tranh nầy.
– Anh chưa vẽ cô ta cho rõ ra.
– Anh không vẽ, vì họ đang ngồi trong bóng tối. Nhưng có lẽ anh sẽ xóa luôn cái dáng mờ của nàng. Anh chỉ muốn nhìn nàng tận mắt, hay là nhìn hình bóng của nàng trong trí nhớ. Không bức tượng, bức vẽ, bức ảnh nào thay thế được hình bóng ấy cà, trừ phi con người thật, bằng xương bằng thịt của nàng.
Bỗng Lan-Chi hốt hoảng kêu lên :
– Ý chết, chắc nước sôi.
Rồi nàng chạy ra buồng khách, mở lấy gói trà, đoạn đi xuống bếp châm nước. Xong đâu đó, nàng bưng hai chén trà lên mời bạn và giao kết :
– Lần sau em đến, chính anh phải mời nước. Nếu anh sợ nhúm lửa bẩn tay thì sắm rê-sô. Vỏ dừa nầy giữ nóng được cả ngày thì sáng châm một bình, chiều châm một bình là đủ rồi.
– Vâng lịnh. Em còn sai khiến gì nữa ?
– Hoàn thành bức tranh trong buồng. Vẽ thêm một bức nữa về cảnh anh đứng trên bờ tiễn xuồng em tách bến.
– Anh thấy phải có một cảnh thứ ba nữa, vẽ anh cùng em đi trên đường phố Saigon, hoặc cảnh « bên anh đọc sách, bên nàng vá may » trong nhà nầy.
– Không làm sao có cảnh ấy được cả.
– Anh ao ước được uống mãi trà do em pha.
– Em rất tiếc.
– Em nè, chắc em đã hiểu lòng anh, mặc dầu anh chưa hề nói gì với em cả. Như vậy anh khỏi phải bày tỏ gì nữa hết, mà đi ngay vào một vấn đề đã đặt ra rồi giữa chúng ta. Anh không hiểu sao em lại có thái độ như vậy. Em từ chối một cách máy móc chớ không chờ đắn đo, suy nghĩ.
– Tình bạn không đủ cho anh hay sao ? Chính anh chỉ đòi có bấy nhiêu đó, lúc em đến đây lần đầu.
– Đúng, nhưng tình cảm cũng tiến triển như sự việc vậy, chớ nó có đứng yên một nơi đâu.
– Tình cảm của anh tiến triển mau lẹ quá. Em mới đến đây lần thứ ba.
– Em bắt bí anh cho vui vậy chớ em dư biết rằng anh gặp em cách đây non hai tháng rồi kia mà.
– Thôi anh cho khi khác.
Lan-Chi đứng lên xin phép về, và Quí khẩn khoản van nài.
– Xin em xem xét lại thỉnh nguyện của anh.
– Anh muốn được tình bạn hay mất cả ?
Quí sợ hãi, không dám nài nỉ thêm gì.
Ba hôm sau, Lan-Chi lại đến. Nàng cũng mặc trắng như hôm trước. Quí khen :
– Em thật có tướng học trò. Em học ở đâu ?
– Tướng học trò như giò ăn cắp phải không ?
Lan-Chi đánh trống lấp rất tài. Lần nào muốn lẩn tránh một câu đáp khó là nàng pha trò một tiếng, thế là cả hai cười xòa rồi câu chuyện tự nhiên bị hướng đi qua chiều khác.
Nàng mở xắc ra, lấy một hộp thuốc Prince Albert dẹp, quà tặng bạn mà nàng không nói ra, và Quí cứ tự nhiên nhận và không nói cám ơn.
Lấy thuốc ra, Lan-Chi đã làm xáo trộn mọi vật trong xắc, nên nàng đổ tất cả lên bàn để sắp trở vào cho có thứ tự : son phấn, gương con, tiền lẻ ; chiếc khăn mu-xoa gói cái gì không to, nhưng xem ra nặng lắm.
Lan-Chi tự xem có quyền thu dọn nơi nhà nầy thì Quí cũng tự ban cho chàng cái quyền nhỏ là để mắt tới vật dụng của nàng từ xắc lọt ra. Chàng đưa tay lấy cái gói bằng khăn mu-xoa ấy và mở xem rồi kinh ngạc, ngồi thừ ra rất lâu.
Lan-Chi hơi bối rối, nhưng trấn tĩnh được ngay. Bỏ gói trở vào xắc, nàng bình tĩnh hỏi:
– Hộp thuốc hôm nọ, anh hút hết chưa?
Quí không đáp. Chàng vừa khám phá được một điều kỳ dị hết sức. Chiếc khăn mu-xoa gói một chiếc chìa khóa cửa. Nếu thế thì Lan-Chi sống độc thân rồi chớ không phải ở trọ nhà người cô «rất khó tánh» như nàng đã nói.
Các cụ không bao giờ khóa cửa bỏ nhà đi đâu cả. Nếu không con cháu thì các cụ có lão bộc để trông coi nhà cửa, chớ đóng cửa bên ngoài là một điều mà các cụ rất kiêng. Còn như bà cụ nầy có không tin dị đoan đi nữa thì chính bà giữ chìa khóa chớ không phải Lan-Chi.
« Có những bí mật gì trong đời nàng, – Quí băn khoăn tự hỏi điều đó, – hay là nàng... ? » Chàng khủng khiếp vì một ý nghĩ ghê gớm vừa lóe ra như một tia điện nơi trí chàng. Nhưng chàng thấy ý nghĩ ấy vô lý hết sức nên vội xua nó đi ngay.
Chàng mong gặp bạn, giờ gặp thì nên vui. Những phút giây sung sướng ngắn ngủi quá, sao lại làm cho vẩn đục đi.
Vậy họ đàm đạo, pha trò, và cả hai cười vang nhà, chàng quên tất cả mọi băn khoăn vì cái chìa khóa bí mật, nàng quên băn khoăn vì bí mật bị bắt gặp và nhứt là vì vẻ băn khoăn của kẻ khám phá.
Giây lâu, Lan-Chi vào buồng trong để xem lại bức họa vẽ dở chừng. Quí không có bôi thêm cọ dầu nào lên đó cả, và chàng giải thích :
– Đó là bản đàn chưa dứt. Anh đợi xem nó ngã ngũ ra sao.
Lan-Chi lục soát y phục của bạn, rồi lấy kim chỉ nàng mang theo để tra lại những nút áo sơ-mi long sắp đứt.
– Lan-Chi à, anh muốn mời em tối nay đi xem chiếu bóng.
– Đi ăn cơm ban ngày còn không được, làm sao mà em dám đi xi-nê.
– Nhưng đêm nay bà cô đi vắng.
– Sao anh biết ?
– Anh thấy chiếc chìa khóa. Chắc bà cô giao nhà cho em. A, nhà không có tôi tớ sao em ?
Lan-Chi bối rối quá, một lát lâu mới nói được :
– Đó là chìa khóa tù.
Lần đầu tiên, thiếu nữ thông minh ấy mất khôn. Nàng đã nói một điều vô lý hết sức vì trên đời nầy, không có cải tủ nào mà khóa bằng chìa khóa cửa cả.
Để bạn ngồi trên mép giường với công việc của nàng, Quí thọc hai tay vào túi quần, đi từ trong ra ngoài, rồi từ ngoài vào tuốt nhà bếp. Chàng bước mau lắm, vì trí chàng đang sôi nổi những chiến lược sắp dùng để biết đích xác tình cảm của bạn đối với chàng. Chỉ có điều ấy là đáng kể, bao nhiêu thứ khác như là sự quá dè dặt của nàng, đời sống có vẻ bí mật của nàng đều hoàn toàn phụ thuộc.
Bỗng chàng mỉm cười, dừng bước lại trước chiếc giường và nói :
– Em Lan-Chi ơi, anh xin báo tin mừng của anh cho em hay. Tuần tới, anh cưới vợ, em sẽ tặng anh quà gì ?
Lan-Chi rụng rời, đâm nhằm mũi kim vào đầu ngón tay. Nàng vừa xuýt xoa, vừa nặn máu ra. Một hột máu đỏ rịn trên da hồng của đầu ngón bị bóp chặt, cho nàng cái cảm giác rằng tim nàng cũng đang rịn máu vì cũng đang bị ai bóp trong ấy.
Ngước lên, nàng gượng cười hỏi, giọng nghẹn ngào :
– Tuần tới à, ngày nào ?
– Tối thứ bảy. Nay là thứ sáu. Đúng chín ngày nữa. Anh cô đơn quá, như em đã thấy.
– Cố nhiên là sẽ có quà. Nhưng em giữ bí mật cho đến ngày chót cũng như anh đã giữ bí mật hôn nhơn của anh cho tới bữa nay.
Lan-Chi không nói gì nữa, vội vàng làm nốt công việc rồi đứng lên xin phép về. Lần nầy Quí không cầm giữ bạn nữa, chàng cũng không lo đã làm khổ ai, vì chàng rất sung sướng mà đã biết được điều chàng muốn biết. Bây giờ chỉ còn nghiên cứu xem phải hành động ra sao.
Tuần sau đó, Lan-Chi không đến. Quí chờ mãi rồi đâm lo. « Bậy thật, chàng nghĩ, có thể nàng buồn và tuyệt giao luôn cũng nên. Như thế thì thật bặt tăm chim cá, không làm sao mà đính chánh cái tin thử lòng của mình được ».
Quí sốt ruột mười lần hơn hồi mới về Saigon. Hồi ấy, chàng chưa yêu nhiều, và nàng còn thờ ơ ; mất nàng, bất quá chàng chỉ buồn một tháng là cùng. Giờ thì chàng đã len sâu quá vào mê đạo của ái tình, không làm sao mà tìm lối ra được nữa.
Đến trưa thứ sáu tuần sau đó, tức một ngày trước cái ngày cưới mà chàng đã báo với bạn, trong lúc Quí đang nằm gác tay lên trán mà tuyệt vọng thì Lan-Chi gõ cửa ngoài thềm.
Thường thì nàng đi thẳng vào mà không lên tiếng, sự dè dặt hôm nay của Lan-Chi khiến Quí ngỡ là khách nào ấy. Chàng uể oải ngồi dậy, chẫm rãi bước ra ngoài.
– Ồ Lan-Chi!
Lan-Chi buồn vô hạn, đứng nơi khung cửa, hỏi bạn bằng mắt « Nhà đã có người mới chưa, em vào được chớ ? » Để đáp lại câu hỏi thầm lặng ấy, Quí nói lớn :
– Em cứ vào tự do như mọi lần đi chớ, sao lại đứng đó.
Lan-Chi lặng lẽ bước vào buồng khách, đặt lên bàn một bọc gói bằng giấy hồng. Nàng nói :
– Sao không thấy trang hoàng nhà cửa. Gia quyến anh không có ai đến à ?
– Hãy khoan tò mò về chuyện đám cưới cà rỡn đó. Em cho xem quà thử coi ý nghĩa thế nào.
Lan-Chi lặng lẽ mở gói. Nàng làm cẩn thận lắm, khiến Quí ngỡ món quà là một món đồ bằng thủy tinh. Nhưng khi tờ giấy hồng được banh ra thì, người họa sĩ trẻ tuổi nầy ngạc nhiên hết sức mà thấy một món quà lạ lùng nhứt mà chưa có đám cưới nào nhận được. Đó là một bộ đồ kẹp sách đứng trên bàn, gồm hai pho tượng bằng sứ nhiều màu.
Đây là món quà đắt giá vì người tặng chắc chắn đã phải đặt làm riêng theo một đề tài chỉ định. Nước men lại nhuộm đến bốn màu, kể cả màu đen là màu rất hiếm trong công nghệ đồ sứ.
Một pho tượng tạc hình một cô gái mặc đen ngồi trên cỏ xanh, lưng dựa vào một gốc cây cằn cỗi màu xám. Gốc cấy ấy phía đỡ lưng của cô gái thì tròn, nhưng phía bên kia thì bằng mặt để ôm sát vào hông quyển sách đứng.
Pho tượng thứ nhì tạc một thanh niên Âu-phục màu sô-cô-la, cũng ngồi trên cỏ xanh, dựa lưng vào gốc cây xám.
Màu da của cả hai người đều hồng pha vàng.
Trên một món đồ sứ mà nhiều máu xen lẫn với nhau như thế thì món đồ ấy rất khó thực hiện và cố nhiên phải mắc tiền.
– Trời, sao em lại xài to như thế nầy ?
– Bao nhiêu tiền cũng không xứng với kỷ niệm ngàn đời mà cả anh lẫn em đều cùng giữ. Để bộ đồ nầy trên bàn, anh sẽ nhớ chuyện cũ mỗi ngày, nhưng người khác không sao biết được ẩn ý giấu trong khối cao lanh nung nầy.
– Anh thích ghê món quà nầy, nhưng rất sốt ruột mà nhớ đến số tiền em phải xuất ra. Cũng tại anh nói láo, báo hại em tốn tiền quá sức, anh ngại lắm.
Lan-Chi hơi hy vọng, và vẻ buồn trên gương mặt của nàng tan dần. Tuy nhiên nàng vẫn chưa dám mừng vội. Quí tiếp :
– Anh xin lỗi em đã đùa một cách dại dột.
Muốn thật chắc ý, Lan-Chi hỏi :
– Anh đùa về gì ?
– Cái tin đám cưới ấy, tin vịt một trăm phần trăm.
Lan-Chi tài giỏi cho đến đâu cũng không che được sự biến đổi trên mặt nàng, Quí biết rằng đó là một cô gái rất kiêu ngạo, nhưng kiêu hãnh nào cũng phải nhường bước cho một nỗi mừng to lớn và bất ngờ nó đột ngột đến sau một tuần lễ tuyệt vọng của nàng.
Quí thấy rằng hôm nay đã phải lúc cần nói ra lời những gì mà hai người đã ngầm hiểu với nhau từ lâu. Vấn đề phải được đặt ra rõ rệt, và Lan-Chi phải trả lời dứt khoát, không thể kéo dài sự úp mở lâu hơn.
– Em Lan-Chi, em đã cho anh tình bạn. Anh đã đứng đắn trong tình bạn đó. Nhưng em dư biết tình cảm của anh đối với em khác. Từ bấy lâu nay, em đã đoan trang mà dè dặt một cách chánh đáng. Nhưng nay, anh xin quyết em, anh van nài em cho anh biết rõ tình cảm của em đối với anh thuộc loại nào.
– Thì đã rõ ràng như ban ngày. Ta là bạn với nhau...
– Cố nhiên là như vậy. Nhưng anh đinh ninh rằng tình bạn giữa đôi ta chỉ là cái phòng chờ, để ta đứng đó mà đợi hầu bước vào một thế giới khác.
– Tình bạn không đủ cho anh hay sao ?
– Tình bạn cũng quí lắm em à, và được một người bạn gái như em, anh đã hoàn toàn thỏa mãn trong thứ tình đó. Nhưng mà anh đã yêu em, anh xin trắng trợn nói ra động từ đó mà có lẽ em đã vừa sợ, vừa chờ đợi từ lâu.
– Và chắc anh cũng đoán biết, tuy không biết rõ lắm, rằng em không thể bước xa hơn được nữa chớ ?
– Quả anh thấy như vậy. Nhưng anh ngờ rằng trở lực nó ngăn cản em, không là chướng ngại lớn lắm. Anh muốn biết rõ những lý do chận ngỏ, đón truông em, để ta cùng nhau nghiên cứu lối ra.
– Không, anh không thể nào biết được tình cảnh của em.
– Lan-Chi ơi, anh đã yêu em, mà nếu anh không lầm thì em cũng đã... cũng đã...
– Không, anh lầm. Em chỉ xem anh là một người bạn tốt.
Quí tức mình, rồi nổi giận, nói lớn :
– Em đừng có chối, vô ích. Về mặt ngoài thì như thế. Nhưng em không thể dối lòng em và dối lòng anh được. Ta nhìn mặt nhau, mắt đi thẳng vào mắt thử xem em còn nói thầm như thế được nữa hay không với anh.
– Không, anh đừng cố ý gán cho em một tình cảm mà em không hề có.
– Có, em đã có tình cảm ấy với anh, em đã... YÊU anh.
Quí run rẩy cả người, la lớn lên, nhấn mạnh tiếng YÊU đó và đánh nhịp nó bằng một cái đấm của nắm tay lên đùi chàng và một cái dậm chơn lên gạch thật mạnh.
Lan-Chi cũng nổi giận xô ghế kêu một cái rột, đứng lên hét :
– Anh nói bậy !
Người họa-sĩ si-tình nhảy một cái là ra tới cửa.
Chàng đóng cửa lại một cái rầm, đứng chận nơi đó và nói gằn từng tiếng :
– Em không được đi. Em phải nhìn nhận những điều anh nói, anh mới để cho em thoát khỏi chốn nầy. Thoát khỏi rồi, em cũng chưa yên thân đâu, vì lát nữa đây, anh sẽ đi theo em bén gót. Anh sẽ làm khổ em đến cùng, bất cứ ở đâu, nhứt là ở nhà bà cô của em.
Lan-Chi thả rơi mình trở xuống ghế rồi ôm mặt mà khóc òa. Nước mắt của nàng tưới tắt ngay cơn thịnh nộ của người con trai liều mạng và táo tợn. Chàng hối hận hết sức và rất xấu hổ mà đã cỏ một tác phong du-côn như vậy.
Đứng nhìn bạn khóc đến run rẩy cả người, Quí xót đau vô hạn, và lại càng yêu hơn con người đã làm chàng khổ và đã khổ vì chàng.
Tuy nhiên, chàng không dám can thiệp, chỉ đứng đó mà xót xa thôi. Lan-Chi khóc, khóc rất nhiều, và rất lâu. Nhưng nguồn lệ dồi dào nào cũng có hạn, nên đến một lúc kia nàng chỉ còn thổn thức thôi.
Quí bước tới đứng sát bên cạnh bạn, lặng nhìn đầu và lưng khom của nàng chốc chốc bị những cái tấm tức, tấm tưởi đẩy dội lên.
Giây lâu, chàng quì gối trên gạch và ngước mặt lên, nói nho nhỏ:
– Lan-Chi ơi, tha lỗi cho anh nhé.
Lan-Chi ngồi thẳng lên rút khăn tay lau mắt và nói :
– Anh đã làm phiền em nhiều lần rồi, giờ anh lại còn làm khổ em nữa.
– Anh xin lỗi em, anh hóa điên rồi, nhưng điên vì em, thì em cũng nên rộng lượng... Em nè, anh yêu em, em yêu anh, thì sao ta lại không dám yêu nhau...
Lan-Chi nhẹ đặt một bàn tay lên tóc Quí rồi lại khóc. Lần nầy nàng chỉ khóc thút thít thôi. Quí cầm lấy tay nàng và nói :
– Em ơi, anh đã tìm được người bạn của đời anh, nếu em hất hủi anh, thì anh phải chết, chớ không sống sót lại được với mối tình khôn thỏa nầy.
Lan-Chi khóc mùi mẫn, cúi xuống hôn lên tóc bạn rồi nói :
– Anh, ngày sau dầu có thế nào, anh cũng nên nhớ cho rằng trong giây phút nầy đây, em đã yêu anh, và cái hôn nầy là một cái hôn thật, tự đáy lòng em muốn như vậy.
– Em, tại sao em lại nói mấy tiếng «Ngày sau dầu có thế nào...» làm cho anh lo sợ hết sức.
Chàng vừa nói vừa siết chặt tay bạn lại, và đưa nó lên môi chàng. Bỗng Lan-Chi giựt tay lại thình lình, đứng lên mà rằng :
– Không, xin anh đứng đắn.
Quí ngạc nhiên lắm và thất vọng, chàng té ngồi lên gạch mà ấp úng :
– Sao.. sao... em lại có... phản ứng bất ngờ như vậy ?
– Em đã ngây dại, tự quên mình trong một giây. Không, đã hết rồi.
– Trời ơi, Lan-Chi ơi, em cứ dẫn dắt anh ngày một đi tới thêm một bước, rồi bỏ rơi anh một cách đột ngột, sao em tàn nhẫn vậy ?
– Em đã quên mình, em hối hận lắm. Nhưng đã hết rồi, xin anh biết cho.
Mặt Lan-Chi lộ vẻ sợ hãi trông thấy. Khi nãy bị nhốt trong nhà, nàng không tỏ ra hoảng hốt chút nào, nhưng giờ thì sự kinh khủng nơi nàng thật là rõ rệt. Nàng sợ chính lòng nàng, chớ không phải sợ người con trai liều lĩnh.
– Em Lan-Chi, em nỡ nào...
– Không, anh phải tự mãn với tình bạn giữa đôi ta, nhưng tình bạn ấy từ đây, cũng phải hạn chế, chớ không còn được thân mật như trước nữa. Em không thể đến đây được nữa.
– Trời ơi, vậy là chết anh rồi...
– Anh là một người nguy hiểm.
– Anh đã xin lỗi em và cắt nghĩa hành động ngông cuồng của anh hồi nãy. Anh chỉ làm thế trong một phút điên trí thôi, chớ rồi con người biết điều của anh cũng sẽ thắng...
– Không phải vì lẽ đó. Khi nãy, anh đóng cửa, em có sợ anh đâu. Nhưng anh si mê một cách dại dột vì một mối tình mà em quả quyết rằng không thể được, thì anh có thể làm liều, em đoán trước sao được những gì sẽ xảy ra để mà đề phòng. Anh lại có thể, vì sự đeo đuổi dai dẳng em mà đẩy em vào những nẻo em không muốn đi.
– Em, hay là... hay là... anh bằng lòng với tình bạn, không dám đòi hỏi van xin gì nữa, miễn là thỉnh thoảng em đến đây thăm anh như trước.
– Đã trễ quá rồi, em đã sợ anh rồi. Nhưng em không làm bức quá đâu, có điều là anh phải chịu những điều kiện sau đây, không thì mất cả.
– Xin em trình bày thử điều kiện của em.
– Em cho anh biết sở của em làm việc. Khi nào tưởng nhớ đến em, anh tới đó, đứng xa mà nhìn em lúc em tới sở và lúc em ra về. Nhưng mà anh không được lại gần để nói với em điều gì. Nếu anh bội ước, làm liều thì liệu đấy, em sẽ làm mặt lạ, và mắng anh giữa công chúng thì anh chịu lấy. Em không hăm dọa như thế cho anh sợ đâu. Em thề quyết sẽ có thái độ đó, nếu anh bội ước.
Quí thở dài. Nếu không nhận thì mất cả ! Và mặc dầu hiệp ước bất bình đẳng rõ rệt, chàng vẫn buộc lòng phải ký tên và cam kết tôn trọng những điều khoản trong đó, rồi sau hẵng hay.
Tuy nhiên, chàng vẫn cố tự vệ ở điểm then chốt:
– Được. Nhưng ngộ em cho anh một địa chỉ giả để thoát khỏi nơi đây rồi biệt dạng nữa thì sao ?
– Nếu em bất lương như vậy thì còn đâu xứng đáng với tình yêu to lớn của anh. Vả lại, muốn thoát khỏi đây, không khó lắm như anh ngỡ đâu, một là em đủ bản lĩnh thoát thân, hai là anh không dám, chắc chắn như vậy, anh không dám tự bôi lọ anh. Tuy nhiên, em vẫn cho thấy bảo đảm.
Lan-Chi nói rồi mở xắc lấy trong đó ra tờ chứng minh nghề nghiệp của nàng. Quí đọc sơ thì biết rằng một hiệu buôn tơ lụa ở đường Tự-Do đã nhận trong đó rằng cô Cao-thị-Thu là người bán hàng của «bổn hiệu».
– Nhưng đây là chứng-minh-thư cho cô Cao-thị-Thu kia mà.
– Cao-thị-Thu chính là em đó.
Quí phì cười rồi nói :
– Cô muốn bảo cô tên gì cũng được cả. Nhưng chỉ có trời mà dám tin.
Lan-Chi lại mở xắc và lấy thẻ căn cước bọc nhựa của nàng giao cho Quí. Chàng nhìn bức ảnh thì quả đó là ảnh Lan-Chi và đọc tên người thì cũng quả là Cao-thị-Thu.
Quí thừ người ra rất lâu vì sự biến hóa bất ngờ nầy. Khi mà người ta yêu, người ta chẳng những ấp yêu hình ảnh người phụ nữ thương mến, mà người ta lại còn ấp yêu cả tên họ, nơi ăn chốn ở của người đó nữa.
Chàng đã viết tên Lan-Chi lên sách vở chàng, lên bàn viết chàng, lên gối chăn của chàng, nhứt là đã viết hai chữ dịu dàng có nghĩa là « cành lan » ấy vào trí óc, vào tim chàng, hơn thế đã dùng mũi nhọn của lưỡi dao con chó thép già, bén ngót, để khắc sâu nó vào nơi ấy.
Quí nhìn lại thiếu nữ đang đứng trước mặt chàng và có cảm giác rằng nàng vừa thiếu mất một cái gì. Thật là khó chịu. Nếu chàng mất hẳn Lan-Chi thì nỗi buồn của chàng sẽ trọn vẹn. Nó to lớn thật nhưng cô đọng lại thành một khối, rõ rệt là nỗi buồn mất bạn. Chí như cái trò biến hóa tên tuổi nầy thì không ổn chút nào. Chàng không buồn được vì nàng còn đây, nhưng vẫn không hoàn toàn vui lòng vì quả nàng đã bị sứt mẻ phần nào.
Tên Thu vẫn đẹp không kém tên Lan-Chi chút nào, nhưng chàng đã trót khắc cốt ghi xương cái tên giả ấy thì khó lòng mà đưa tình cảm của chàng qua một cái tên khác được.
Có sự hội ý, sự liên tưởng giữa tên người và hình bóng người. Hễ nghĩ đến một người nào là ta thốt thầm lên « Em Kiều-Vân, Em Mộng-Nguyệt », hễ nghĩ đến tên Bích-Thủy, Tường-Vân là một gương mặt, một thân hình nổi lên trên bức màn đen của trí tưởng. Hai thứ ấy đã hỗ tương tạo nên tình cảm của ta và hễ nó sứt mẻ là tình sứt mẻ.
– Trời ơi, – chàng kêu than, – lẽ ra từ bao lâu nay, em đã ru ngủ anh bằng một cái tên giả.
– Dè dặt như vậy mà còn khổ với anh. Thôi, em xin phép anh và vĩnh biệt.
– Anh không bao giờ hết hy vọng cả.

Lúc đầu số nhà của hiệu buôn tơ lụa mà chàng cẩn thận ghi vào sổ tay, không nói lên gì cả. Nhưng Quí xem đi xem lại xem số ấy mấy lần thì nghe hơi mừng mừng, cảm giác rằng nó gần gũi một cái gì quen thuộc lắm.
Tối hôm đó, sau giờ các hiệu buôn đóng cửa nghỉ việc, chàng đi soát qua một lần thì thấy rằng quả hiệu buôn nằm đối diện với hiệu buôn đồ cổ của một người Trung-Hoa, có con trai hay lui tới chàng để trao đổi tem bưu-điện vì hai người là hai tay sưu-tầm cò.
Thế là đã giải quyết được một bài toán nho nhỏ. Chàng khỏi phải đứng trên vỉa hè mà rình mỗi sáng sớm nàng đến sở, mỗi đầu hôm nàng ra về... Những ngày mưa dầm mà rình như vậy thì phải biết cái khổ đến đâu, chưa kể cảnh sát công an họ dòm thấy hành động kỳ lạ ấy, họ theo dõi thì phiền không biết bao nhiêu.
Chàng sắm một chiếc ống dòm, rồi ngày nào cũng mang tập tem đến cho người hạn trẻ Trung-Hoa xem, và gói tem cũ rời cho hắn tùy thích chọn lựa.
Trong lúc hắn say với những mảnh giấy con con xanh, đỏ ấy thì Quí chĩa ống dòm qua bên kia đường để ngắm người yêu đã biến thành một ảo ảnh huyền hoặc chỉ đứng xa mà trông thôi chớ không mong với tới.
Lan-Chi – không, Thu – Thu không còn là cô nữ sinh đơn sơ trong bộ y phục trắng hay đen nữa. Nàng ăn mặc và điểm trang thật lộng lẫy khiến Quí kinh ngạc khi bóng nàng xuất hiện ra trên mặt kính tròn viễn vọng của ống dòm.
Chủ hiệu buôn hình như là người Trung-Hoa vì những cô bán hàng khác toàn là thiếu nữ Trung-Hoa. Tất cả đều trẻ, đẹp và duyên dáng, nhưng chỉ một mình Lan-Chi – à quên Thu – chỉ một mình Thu là được khách hàng bu quanh nhiều nhứt. Nàng làm việc không hở tay, trả lời không hở miệng, và sao mà nàng vui tươi thế, nụ cười nở mãi trên môi, chớ không nghiêm trang đến buồn hiu như lúc còn qua lại với chàng.
Quí khổ nhứt là mỗi khi có khách đàn ông đến cái hiệu chỉ buôn tơ lụa cho phụ nữ này thôi, nhưng lắm bà lại dẫn ông đi theo.
Mặc dầu có kỳ đà bên cạnh, các ông cũng cứ lăn xả vào để hỏi thăm cô bán hàng điều này điều nọ, làm như là các ông sành tơ lụa lắm, hoặc làm như vợ các ông ngốc lắm, sắp bị cô hàng cho vào tròng đến nơi.
Cứ nhìn vẻ mặt mất hồn của các ông, Quí nghĩ rằng cô Thu mà có đưa da trâu ra để khoe rằng đó là lụa tốt, chắc các ông cũng không ngần ngại gật đầu và xỉa tiền.
Mấy thằng cha ấy thật đáng ghét ! Vợ đùm, con đề thì còn nước non gì nữa mà không chịu đi. Con trai nheo nhẻo như chàng mà còn bị hất hủi nữa là.
Nhưng sao Thu lại cứ nói cười với mấy thằng cha ấy, và thỉnh thoảng một vài thằng nói cái gì không rõ, nàng rũ ra mà cười khiến Quí cứ muốn nhảy qua bên ấy, nện cho mấy thằng đó một trận nên thân. Thật là những «tù» mặt đáng ghét.
Có chỗ ẩn trú, Quí vẫn thích đứng trên vỉa hè, vào giấc đầu hôm, lúc hiệu buôn sắp đóng cửa vào khoảng tám giờ. Sự hồi hộp thú vị lắm, hồi hộp ngóng trông cái giây mà người yêu ra khỏi hiệu để chống lại sự thèm khát chạy theo nàng. Sự chống cự với một sức mạnh vô hình, khó khăn và hào hứng vô cùng.
Hồi hộp nhứt là khi nào trông thấy một thằng trẻ đẹp tình cờ qua đó ; trái tim chàng bấy giờ đập thình thịch trong lồng ngực của chàng, chờ đợi như thằng đó sẽ xáp lại gần nàng rồi hai đứa cười cợt với nhau, đoạn dắt tay nhau mà đi đâu không rõ. Nhưng nó đi luôn, và hai người quả xa lạ với nhau. Đó cũng là một phút sung sướng vô biên của chàng.
Thu ra khỏi hiệu buôn thì nghiêm trang trở lại như bao giờ. Một nỗi buồn nhè nhẹ thoáng hiện trên mặt nàng, và luôn luôn nàng lên xe tắc-xi để đi ngay chớ không bao giờ chần chờ nán lại để xem cái gì cả.
Rình bạn từ hiệu đồ cổ, ban đầu chàng còn làm cho gã mê cò (tem) thấy hay hay. Nhưng chàng lộ lẫy quá khiến mãi rồi hắn đâm sợ. Hắn trách :
– Thì ít lắm anh cũng phải núp sau cái ché nầy, hay sau bức bình phong cẩn ốc, kẻo người ta sanh nghi thì khổ tôi.
Quí rình ngày đêm như vậy trong hai tháng trường thì đâm chán, mặc dầu hôm nào bận việc quá, không đến đây hành hương được thì chàng ăn không ngon, ngủ không yên.
Đã nhiều lần, chàng muốn xé hiệp ước, cái hiệp ước mà chàng đã dại dột ký. Lương thiện quá là dại, là thiệt thân, và cố lì lắm khi lại được việc. Cố nhiên không thể cố lì với bất cứ cô nào, nhưng Thu đã yêu chàng, đã hôn lên tóc chàng một lần, thì hành động mạnh tay một chút, nàng sẽ ngã, mặc dầu trở lực nào đi nữa.
Suy luận sáng suốt như thế, Quí vẫn không dám làm liều. Căn bản lương thiện, giáo dục nhà chàng, và nhứt là tình yêu to lớn của chàng ngăn chàng liều mạng như vậy. Chàng mà liều mạng thì Thu sẽ khổ không biết bao nhiêu. Chàng yêu Thu quá để có thể làm khổ nàng.
Nhưng không dám liều, trải qua ngày tháng để xem tháng ngày qua, và để rình người một cách khả ố như thế này thì thật là vô lý.
Chỉ có hai con đường : một là hành động để được hay để mất, cả hai trường hợp đều tốt, được thì thích, mất thì đau, nhưng được dứt khoát với sự mơ hình tưởng bóng rất khó chịu dó. Hai là nhẫn nại chịu thua, rút lui trở về với lòng thanh thản của chàng lúc trước khi yêu.
Chưa chắc gì sự thỏa mãn trong mối tình nầy sẽ bền vững, chưa chắc gì một cuộc đổ vỡ sẽ không xảy ra đối với con người bí mật và rắc rối tình cảm như thế. Như vậy khi vỡ mộng, chàng sẽ đau biết bao nhiêu.
Chi bằng chấm dứt nơi đây cuộc yêu đương không thể được này. Niềm ái ân phù du (chỉ một cái hôn lên tóc thôi) mà được thâu ngắn thì nỗi tiếc thương sẽ kéo dài vô tận.
Trọn đời chàng, chàng sẽ ấp yêu giấc mơ thần tiên này, chàng sẽ sung sướng mãi mãi với một phút yêu đương ngắn ngủi ấy mà dư hương, dư vị mong manh không bao giờ phai cả.
Đúng hai tháng tám ngày thì Quí bỏ cuộc, không héo lánh đến đường Tự-Do nữa.

Quí thò tay vào lỗ ghi-sê, đặt lên tấm bản đồ một tờ giấy một trăm, và hai đồng bạc lẻ, rồi chỉ vào con số bìa thuộc hàng ghế chót của dãy ghế giữa rạp.
Cô bán vé lẹ tay như chớp, máy móc đánh hai chữ X vào hai ô trống rồi lẹ hơn nữa, cô ta xé liền hai vé, lật úp lại, toan ghi số ghế lên đó.
– Xin lỗi, một vé thôi !
Cô ấy khựng lại một giây, ngước lên nhìn chàng một cái rồi mỉm cười, cô nói:
– Cũng lại ông nữa ! Mà tôi cũng ngốc lắm, nếu muốn lấy hai vé, ông đã đưa bốn đồng bạc lẻ.
Lần nầy là lần thứ hai mươi sáu mà cô bán vé của rạp xi-nê này xé vé lầm như vậy, và lần nào cô ta cũng ngước lên nhìn người khán giả kỳ dị nhứt thủ đô ấy. Đi xem chiếu bóng xuất đêm, không ai đi một mình cả. Thường thì người ta đi một nam, một nữ, tệ lắm cũng cặp với một đực rựa khác, chớ có đâu lại cứ đơn thân độc mã như thế này. Cô ấy quá quen tay xé vé cặp mà không bao giờ lầm hết, nên cứ xé hai vé một lượt, quên nghĩ đến một kẻ lẻ loi.
Cô bán vé tò mò quan sát thêm người khán giả cu-ky này mà cô ta đã biết mặt ở mấy lần xé lầm buổi đầu. Quí vội vã lấy vé và tiền thối rồi xây lưng thật lẹ, như là sợ cô ta đọc được trên mặt chàng tâm tư thầm kín của chàng.
Khi qua khỏi hàng rào sắt, bước lên mấy bực thang, Quí bỗng cảm nghe cái gì kỳ lạ lắm nơi lòng chàng, khiến chàng rất khó chịu vì không biết cái ấy thuộc loại nào. Nỗi khó chịu đó đuổi theo chàng mãi cho đến lúc chàng ngồi lại xong mà vẫn còn nghe không an lòng được.
Quí rất ưa hàng ghế chót, trên cao hết. Ngồi trên đỉnh, đầu gần chạm trần rạp, chàng ít bị ai quấy rầy vì ít khi rạp đầy nhóc vào xuất đêm.
Ở đó mà nhìn xuống thì lại được quan sát tất cả mọi kiểu mẫu người, việc mà vì nghề nghiệp, chàng rất thích làm.
Thỉnh thoảng chàng mới bị một cặp nhân tình làm rộn chàng, vì họ cũng tìm đến nơi vắng vẻ mà chàng trú ẩn, để thong thả mà rù rì với nhau.
Hai tiếng «nhân tình» bỗng giúp chàng tìm được tánh chất của khó chịu của chàng khi nãy. Khi nãy chàng đã cảm thông được với cô bán vé về nỗi cô độc của chàng. Cô ta âm thầm nghĩ như vậy, chàng ngầm hiểu được cô ta nghĩ như vậy, nên bỗng dưng chàng cảm thấy mình cô độc, tình trạng chàng mà chàng đã phải chịu từ lâu mà không nghĩ đến, giờ mới nhận thức được, nhờ sự gợi ý câm lặng của cô kia.
Giờ thì chàng chỉ còn buồn thôi chớ hết khó chịu nữa rồi, vì đã tìm ra duyên cớ của tình cảm lén lút ấy.
Chàng đưa mắt nhìn xuống nhơn-gian dưới kia, như một vị tiên đứng trên núi để nhìn trần. Hàng ghế nào cũng do đồng số nam và nữ chiếm. Chỉ có đêm hôm nay chàng mới nhận thấy điều ấy và bấy giờ chàng mới sực nhớ lại rằng dạo trước, khi chưa tìm lên ngồi trên đỉnh, hàng ghế nào ở dưới kia mà có mặt chàng là rạp thiệt mất một vé. Số là chàng đã vô tình phá đám thiên hạ, làm cho lẻ ghế của người ta.
Bỗng dưới kia, hai cái đầu giao vào nhau. Quí trông thấy cảnh ấy, lấy làm đau cho sự cô đơn của mình, rồi tủi thân hết sức, chàng đứng lên, do dự giây lát, đoạn bước xuống thang để ra hành lang ngoài, rồi ra khỏi rạp luôn.
Ra tới đường, Quí càng nghe quạnh hiu hơn. Từ ngày xa Thu, chàng sống đơn chiếc như vậy với nỗi buồn về đêm của chàng, không người bạn trai nào an ủi được cả.
Chàng đoán thấy nhiều bí mật trong đời Thu và càng mê Thu hơn vì thích khám phá những bí mật dễ quyến rũ đó.
Nhưng chàng cũng thoáng thấy rằng mối tình của chàng sẽ đổ vỡ sau cuộc khám phá và như vậy chàng sẽ phải đau lắm. Nên chi chàng đã nhứt quyết thâu ngắn cuộc ái ân để cho nỗi tiếc thương Thu kéo dài được mãi cho đến ngày chàng đầu bạc răng long.
Chàng sẽ ấp yêu dĩ vãng, sống với mớ kỷ niệm của ba tháng gần Thu, sống với hình bóng Thu, tưởng tượng như họ còn dan díu nhau y hệt như ngày cuối cùng mà Thu đã hôn chàng.
Mối tình giữa Thu và chàng sẽ trường cửu biết bao, và đó là con trăng không bao giờ tà, đóa hoa không bao giờ tàn vậy.
Quí đi bộ lang thang trên một thôi đường rồi nhảy lên một chiếc tắc-xi bảo chạy vô Đa-kao. Đinh ninh rằng về nhà chắc phải nằm hút thuốc sáng đêm đến ran cả phổi, càng định tới cái phòng trà của ngoại ô ấy, phòng trà Tứ Sơn, mà chàng thích đến vì ở đó không ai biết chàng cả. Chàng có muốn giải trí bằng lối đó. Những nơi khác, họ biết chàng, rồi đôi khi cao hứng, họ ca tặng chàng một bản nhạc, rồi, nghe lời tặng, thính giả day lại nhìn, người cảm tình, kẻ mỉa mai oán ghét, khiến chàng sợ hãi quá.
Vén bức màn đỏ che cửa ngoài lên, Quí đưa mắt tìm một xó hẻo lánh đặng ẩn thân thì bỗng bắt gặp bốn thằng bạn đang vầy bàn ở sau cùng hết, tức là ở sát cửa vào.
– Ê, ngồi luôn đây bồ !
Quí lặng lẽ ngồi xuống, không bắt tay ai cả vì họ quen nhau quá sức thân. Bọn này chắc cũng mới vào, mới ngồi lại, nên trước mặt chúng, chưa có món uống nào cả.
Một cô ca-sĩ mà chàng biết mặt và quen tên, cô Mỹ-Từ, có vẻ có quyền hành ở dây, từ phía bục nhạc đi ra quầy tiền để nói gì với thu-ngâu-viên không rõ. Cô ta chợt thấy mặt một thằng quen trong bọn họ, nên nhìn nó mà cười. Nó cười đáp và nói :
– Cô chủ nè, xin giới thiệu với cô, họa sĩ Đằng-Phương.
Quầy thâu tiền đặt cách bàn họ chỉ độ hai thước thôi, và thằng ấy nói to muốn bể trà thất lận, thế mà cô chủ không nghe. Tuy nhiên cô vẫn cứ cười như là câu chuyện của nó hay lắm, và giây lát sau, cô ta bước qua đó, vì xã giao.
Quí rất sung sướng mà thấy cô ta không nghe câu giới thiệu. Thế là thoát, và ở đây vẫn cứ không ai biết chàng cả. Nhưng chàng cũng sung sướng vì lẽ khác. Từ thủa giờ chàng đã khổ nhiều lần vì bị thằng bạn ấy giới thiệu với những người không cần biết chàng. Tội nghiệp, nó thích chàng lắm và ngỡ cả thế gian ai cũng đồng sở thích với nó và cứ giới thiệu tưới lên. Trong nhiều bữa tiệc, chàng bị nó giới thiệu như vậy với nhiều phụ nữ xinh đẹp và họ đã ngơ ngác nhìn chàng vì cái tên của chàng không nói lên được ý gì trong trí họ cả ; những dịp ấy chàng tủi thân hết sức. Người đời và những cô gái đẹp không cần cóc gì văn nghệ mà cũng cứ giàu sang được và đẹp được như thường, và mặc dầu đã nổi tiếng, chàng thường bị họ xem như là một thứ trái cây bên Nam-Dương quần đảo mới được nhập cảng, tên trái cây nghe lạ hoắc.
Chàng đã năn nỉ nó đứng có tạo dịp cho chàng phải chịu khổ hình như vậy nữa, nhưng chứng nào nó vẫn tật nấy, và lần nầy nó lại lôi chàng lên đoạn đầu đài. Nó lặp lại :
– Cô chủ nè, xin giới thiệu cô, họa sĩ Đằng-Phương.

Cô ấy hơi ngạc nhiên, rồi mỉm cười đưa tay cho chàng bắt và hỏi :
– Có phải Đằng-Phương, tác-giả bức tranh « Mối tình cặn » hay không ?
Thằng mắc dịch mừng rỡ, xác nhận :
– Chính nó đấy!
Cô ấy ngồi lại với họ, không biết bao lâu, vì Quí bận tủi thân, day đi nơi khác. Có mỗi một lần không bị một mỹ nhân yêu văn nghệ ngơ ngác tròn xoe mắt mà nhìn chàng như nhìn con quái vật lạ không biết trời sanh ra để làm gì, thì lần ấy chàng lại bị mặc cảm không dám nhìn cô ca sĩ chủ nhân. Hôm ấy đầu chàng bù như bùi nhùi, râu năm ngày chưa cạo, y phục ba ngày chưa thay, và bơ phờ hốc hác vì những đêm dài nhớ Thu không ngủ được.
Cô ấy khi nãy đã ngạc nhiên, có lẽ cô ta lấy làm lạ sao mà con người cô tưởng tượng khác, lại luộm thuộm đến như thế. Bị mặc cảm, chàng day đi nơi khác, không dám nói chuyện với người đẹp như mấy thằng kia, và chính kể từ lúc day đi ấy mà chàng nghĩ vẩn vơ, không rõ khách bàn của họ ngồi đó được bao lâu.
Quí bật cười khan một mình. Thật là mỉa mai cho số phận. Trong đời chàng, y như là hễ lần nào chàng gặp một phụ nữ biết, hoặc thích hoạt động của chàng thì luôn luôn có một trở ngại nào nó ngăn chàng làm quen, hoặc quen thân với họ. Mà ác lắm là chàng chỉ thích phụ nữ loại đó thôi, không thích giao thiệp với loại khác bao giờ cả.
Còn nhớ cách đây hơn hai năm, ngày gặp gỡ Thu chàng đã hồi hộp hết sức mà rình xem có một biến cố nho nhỏ gì nó phải luôn luôn xảy ra để ngăn chàng quen nhiều với cô gái thích văn nghệ ấy như bao lần khác hay không. Đó là định mạng, chàng chưa tránh được bao giờ.
Nhưng may quá, lần ấy không có gì xảy ra, hay có, đó là mối tình giữa hai người. Thu là cô gái yêu văn nghệ độc nhứt trên đời mà chàng yêu và không gặp chướng ngại. Nhưng mà rồi cũng chẳng được. Mặc cảm hôm nay giúp chàng thấy rõ điểm đó và bỗng nhiên, Thu trở nên quí báu vô ngần, như là một viên ngọc hiếm hoi, không sao tìm được viên thứ nhì.
Lòng Quí xôn xao kỳ lạ. Chàng muốn đứng lên, chạy bay đi tìm Thu, Thu mà có hất hủi chàng, chàng cũng mặc, dám lạy lục Thu để khỏi cô đơn.
Thu đẹp lắm kia, đẹp hơn cả cô ca sĩ xinh đẹp này. Bất giác chàng quay lại nhìn người chủ nhân biến thành khách của họ để mà so sánh và cũng vừa đúng y lúc ấy, người đẹp đã đứng dậy và đang xây lưng rời chỗ đó, chàng chỉ trông thấy được cái lưng eo của cô ấy trong ánh đèn mờ thôi.
Đó là hình ảnh cuối cùng của Thu mà chàng còn giữ trong trí. Hôm ấy vào hồi mười giờ sáng. Thu cũng đã xây lưng lại rồi bước ra khỏi cửa. Thu không sành ăn diện lắm như những cô ca-sĩ, nên chi cái lưng eo của nàng là cái eo thiên tạo.
Chàng nhớ rõ đã nghe Thu khóc, lúc xây lưng mà đi, và lòng chàng đã quặn đau như ai nắm ngũ tạng của chàng mà vặn.
Lòng Quí xôn xao kỳ lạ. Chàng muốn chạy bay đi, nhưng nghĩ lại vô lý hết sức. Từ hai năm nay, cứ đến ngày mồng chín tháng tư, ngày họ gặp nhau là chàng viết cho Thu một bức thơ thăm hỏi để kỷ niệm ngày quan trọng ấy. Chỉ có thế thôi chớ chàng tuyệt đối, tránh đến sở Thu. Khi nào bắt buộc phải đi ngang qua sở Thu làm việc, thì chàng đi thật mau và nhìn qua phía đối diện. Thế mà nay lại muốn...
Mặc dầu vậy, Quí cũng đứng lên vì chàng nghe bứt rứt quá, không thể ngồi yên được.
Trà thất nằm tại góc đại lộ Đinh-Tiên-Hoàng và hông nhà đưa ra một con phố vắng hoe, phố Tự-Đức, vách hông được thay bằng mành sắt và phủ màn. Bấy giờ thính giả nhiều người hút thuốc quá nên khỏi un xanh cả phòng trà, làm cho Quí ngộp thở.
Chàng bước lại sát mành sắt, giở màn lên để cầu cứu với gió bên ngoài và để cảnh lặng của con phố vắng làm êm dịu lòng chàng phần nào.
Nhìn ánh đèn đường vàng khè, Quí thấy trong ấy cái lưng ong của cô chủ trà thất, rồi hình ảnh còn mới ràng ràng đó bị một hình ảnh khác in chồng lên: cái lưng kiến vàng của Thu.
Nhớ quá, nhớ chết đi được lận. Ngày thường chàng vẫn nhớ Thu từng giờ, từng buổi, nhưng chưa bao giờ bứt rứt bằng đêm nay mà nhiều điều kiện khách quan đã nhắc nhở đến Thu, nhứt là nhắc nhở cho chàng nhớ lại rằng số chàng chỉ phải yêu Thu thôi chớ không mong tìm nơi kẻ khác một tâm hồn bạn được.
Cái nhớ của ngày thường là nỗi tiếc thương nhè nhẹ một người bạn tình mà chàng xem như đã chết rồi, thứ tình cảm dễ chịu ấy chính chàng đã cố tạo ra khi dứt với Thu, và đã được thỏa mãn.
Nhưng nỗi nhớ đêm nay là sự háo hức cuồng loạn của một người con trai mà trong lòng một ý muốn như đang bị đun sôi lên.
Xỏ năm ngón tay vào lỗ lưới sắt, chàng co mạnh những ngón mềm chỉ quen cầm bút, cầm cọ của chàng lại, muốn bóp nát ngướu vật cứng ấy cho đã cái cơn dục vọng của chàng, không thôi chàng sẽ đâm đầu ra đường để chạy đi tìm Thu mất.
Lưới sắt nhuyễn sợi, cắn vào thịt chàng đau như bị tra tấn. Nhưng sự đau đớn, thình tình không còn cảm thấy nữa, và Quí không cảm thấy cả đến sự đang có, đang sống của chàng. Tất cả thần trí chàng đều đổ dồn vào một ảo ảnh. Mà không, không phải một ảo ảnh, đó là một sự xuất hiện...
Thu, rõ ràng là Thu, chàng không sao lầm lẫn nàng với một cô gái khác được.
Quí đứng chết sững trong mấy mươi giây, rồi hành động theo lòng bồn chồn của chàng, chàng giựt năm ngón tay ra thật mạnh và thật lẹ, rồi vụt nhảy ra ngoài, quên khoác tấm màn.
Bấy giờ Quí như con cá mắc lưới, hoảng hốt cố nhoi mình tới, và càng nhoi, lưới càng căng thẳng thêm. Chàng loay hoay với tấm vải đỏ đó, trông rất buồn cười, và nếu không có bạn hữu chàng làm cho người ta khỏi nghi, thì chắc thiên hạ đã đổ xô ra để bắt một kẻ gian đang cố tẩu thoát.
Khi con cá thoát khỏi lưới, nó đâm bổ ra vỉa hè. Bấy giờ gió mát bên ngoài làm cho nguội bớt dục vọng đang sôi sùng sục nơi lòng nó, và lý trí của nó mới có dịp lấp ló để can thiệp vào nhiệt tình của nó.
«Thật là ngỡ ngàng, nếu nàng làm ngơ, giả đò không biết mình là ai ? Mình sẽ tủi thân biết bao mà bị một gáo nước lạnh như vậy dội lên đầu. Hay tệ hơn, nàng sẽ mắng cho mình một trận, rồi thiên hạ ngỡ mình tán gái không nên thân thì lại phải xấu hổ đến không dám nhìn mặt mấy thằng ngồi trong kia, thế nào chúng nó cũng dòm theo để rình xem mình làm cái trò gì mà chạy như giông như gió ấy ».
Chàng chậm bước lại như người chẫm rãi đi dạo mát, cố nhìn đây, nhìn đó để tránh bị Thu bắt gặp chàng đang chĩa hai tia mắt vào nàng. Nhưng không thể được ; chàng đang ăn tươi nuốt sống Thu bằng mắt, và nhịp bước của chàng không ăn khớp với nhịp tim, nhịp ý của chàng chút nào, khiến chàng khó chịu quá, phải chống trả với một sức mạnh vô hình nó đang từ sau lưng chàng, xô chàng tới.
Quí lo sợ Thu không trông thấy chàng. Nếu trường hợp đó xảy ra, thì thật chàng không biết phải hành động làm sao cho tự ái khỏi bị thương.
Nhưng Thu đã thấy. Nàng thình tình dừng bước lại, ngạc nhiên giây lát rồi mỉm cười gọi : «Anh». Quí chỉ nhìn đôi môi mấp máy của nàng và đoán rằng nàng gọi thế thôi, chớ hai người còn xa nhau lắm, không thể gọi khẽ mà nghe được.
Quí chỉ trông đợi có bấy nhiêu đó thôi, hay chỉ trông đợi ít hơn cũng nên, chỉ trông cho Thu không làm mặt lạ để nhảy bổ đến và vồ lấy nàng. Tuy nghĩ thế chớ chàng vẫn lịch sự được, chỉ mau bước tiến đến gần người bạn cũ rồi nói như một kẻ đuối sức thì thầm :
– Em !
Mà quả chàng đuối sức thật : hai năm thương nhớ, một tiếng đồng hồ lòng nhớ ấy bị nung nấu lên và những xúc động mạnh từ lúc vừa thoáng thấy bóng người cũ, tất cả những thứ ấy làm hao mòn sức lực chàng và bây giờ chàng giống như một bong bóng cao su bị xì hơi sau nhiều hồi căng thẳng, nên không nói tiếp gì được nữa.
Vả nói gì bây giờ ? Thu cũng thế, còn biết nói gì với chàng bây giờ ? Hỏi thăm sức khoẻ nhau chăng ? Không, họ đã quá quen nhau rồi, đâu có thể khách sáo với nhau được. Nói lên nỗi nhớ niềm thương của chàng chăng? Không, tự ái không cho phép chàng dại dột như vậy.
Còn Thu ? Trách móc chàng à ? Không, chính nàng đã muốn có sự chia ly ấy thì không lý gì ngày nay, tái ngộ nơi đây, nàng lại khóc. Quí bỗng lại nhớ đến những giọt lệ cố giấu của Thu hôm hai người chia tay với nhau. Thu quay mặt đi nơi khác nhưng chàng nghe được mấy tiếng hít mũi nho nhỏ của nàng.
Chi tiết ấy làm cho chàng muốn nói lên câu :
– Xin lỗi em, anh đã làm cho em...
Nhưng chàng nín kịp, chưa chắc vì Thu đã đau khổ lắm mà khóc. Chẳng qua là hạch nuớc mắt của phụ nữ làm việc dễ dàng, chỉ có thế thôi.
– Em có gấp đi lắm hay không?
– Không anh à. Nhưng anh nên lánh mặt, không thì nguy cho em.
– Sao lại nguy ?
– Chồng em đi tới đây bây giờ !
Quí bỗng nghe mặt đường mềm như bằng bún và nó sắp lún đến nơi. Trời ơi, thì ra chàng đã vĩnh viễn mất một người bạn tình mà chàng tiếp tục mơ suốt thời xa cách !
Chàng đã yêu Thu quá mức, cứ sợ rồi không yêu được như lúc đầu nữa mà uổng ; nhưng trong khi trai gái Nhựt ở trong trường họp đó thì họ kéo nhau lên đỉnh núi Phú-Sĩ để cùng nhau nhảy vào miệng hỏa diệm sơn ấy cho tình họ muôn thuở không phai, thì chàng, nhát gan hơn, chỉ dám xa Thu thôi chỉ dám thâu ngắn cuộc ái ân để cho nỗi tiếc thương kéo dài đến ngày chàng mãn kiếp, để cho mối tình to lớn của chàng không bao giờ tàn với sự tồn tại miên trường của Thu nơi lòng chàng.
Nhưng từ đây, Thu không còn là Thu của ngày chàng si mê nữa. Thu là của người khác rồi. Thì hẳn là như vậy, chớ Thu làm sao mà chịu được cảnh cô đơn cho tới già. Nhưng thà là chàng đừng biết, trí và lòng cứ giữ nguyên vẹn hình ảnh cô gái hai mươi chỉ yêu riêng một mình chàng thôi.
Chàng đâm ra hối hận đã muốn gặp Thu, và gặp Thu, đã xáp lại gần, đã hỏi về đời nàng, và đã biết về đời nàng.
Tần ngần một lúc lâu, chàng hỏi người bạn cũ :
– Hạnh phúc chớ ?
– Cũng khá hạnh phúc.
Bỗng dưng chàng nổi ghen lên. Khá hạnh phúc không có nghĩa là nàng được yêu đơn phương mà chính nàng cũng yêu « thằng ấy » nữa. Cái hân hạnh đó, chàng vẫn được hưởng, hưởng trước « thằng ấy » nữa kia, nhưng không hưởng nhiều lắm, vì Thu yêu chàng chỉ có hạn thôi, và nàng chỉ chịu thân mật với chàng có mỗi một lần thôi.
Thế nó yêu « thằng ấy » bằng yêu mình, hay yêu hắn nhiều hơn ? Quí tự hỏi như vậy rồi dịu cơn giận lại, vì còn chỗ nghi vấn đó và Thu có thể yêu chồng ít hơn yêu chàng.
Giọng Thu van lơn cầu khẩn :
– Xin anh dang ra cho, chồng em sắp đi tới kia. Em sẽ đến thăm anh.
Mặc dầu là một gã cố lì, Quí vẫn hành động, vẫn phản ứng theo bản năng của con người có giáo dục. Chàng bước lui lên vỉa hè, và nhìn xuống dưới kia, dài theo con đường Tự-Đức đổ dốc xuống Rạch-Bông.
Trên đường không có bóng người qua, thì trong hai người đàn ông đang trò chuyện trước một biệt thự kia, chắc chắn là có chồng của Thu.
Anh này ắt hẳn là người tay dắt một đứa bé gái độ lên ba. Hắn nói vừa xong câu cuối cùng và đã xây lưng đi, chắc khi ra cổng, hắn cùng đi với vợ hắn. Nhưng chủ nhà tiễn theo, cứ nói chuyện mãi không thôi, khiến vợ hắn nghe chán tai, lửng thửng đi trước.
Thu làm như không có gặp ai hết, cứ chẫm rãi đi tới và khi tới đầu đưòng, tức khi gặp ngã ba đại lộ Đinh-Tiên-Hoàng, nàng dừng bước lại, không phải để đợi chồng mà có lẽ muốn băng qua đường mà chưa băng qua được vì xe cộ quá đông.
Hai cha con của anh chồng mau bước đuổi theo và khi hắn đến gần, Quí suýt kêu lên một tiếng.
Đó là Hòa, giảng nghiệm viên của trường Khoa-học đại-học. Quí không quen với hắn, nhưng được biết hắn vì đã gặp vài lần ở vài nơi. Sau khi đỗ bằng cử nhân khoa-học, hắn xin trở vào đại-học làm giảng-nghiệm-viên, người chuyên giúp các sinh viên thí nghiệm, chớ không chịu đi dạy học như các ông cử khác. Hắn có tham vọng ở gần sách vở và giáo sư để tìm tòi thêm hầu thi tiến sĩ.
Hòa theo kịp vợ, ẵm con lên, rồi dìu vợ băng qua đường. Quí nhìn theo họ, lòng quặn thắt đau. Nếu có kẻ nào trên đời này được diễm phúc nắm tay người con gái kiều diễm gặp tai nạn ở bến đò Rạch-Miễu năm xưa, thì kẻ đó phải là người thanh niên đã xoa bóp cô ta lúc cô ta bị vọp bẻ trong một đêm tăm tối kia, thì kẻ ấy phải là người thanh niên được cô ta cúi xuống hôn lên trán, vừa hôn vừa rơi lệ sung sướng, vừa nói : «Ngày sau dầu có thế nào, anh cũng nên nhớ rằng trong giây phút nầy đây cái hôn của em là cái hôn thật đó nhé ».
Quí nghe như mùi thơm của da thịt nàng hôm ấy còn phảng phất đâu đây, nghe như sự nồng ấm của cái hôn hôm ấy còn lưu lại nơi trán chàng và văng vẳng đâu đây lời trách móc : «Đừng có trẻ con, tối nay em đến mà ! » khi nào chàng năn nỉ nàng ở lại cho thật lâu.
Chàng đã không thèm tìm Thu nữa, quyết thu hẹp cuộc tình duyên, chỉ giữ bấy nhiêu ân ái ngắn ngủi ấy thôi để được tiếc thương trọn kiếp, còn hơn là đeo đuổi dò la để rồi khám phá ra những điều nó làm vỡ ảo ảnh mong manh mà chàng say ngắm. Nhưng vẫn không được trọn vẹn hưởng giấc mơ kéo dài từ hai năm nay, giấc mơ thần tiên mà chàng muốn nuôi nấng trọn đời chàng.
Họ đi vào con phố hẹp thẳng góc với đại lộ, phía bên kia, con phố chạy dài bên hông trường tiểu học Đa-Kao cũng vẫn tên là Tự-Đức và Quí suy luận đoán rằng họ ở gần đâu đó nên mới đi bộ như vậy.
– Em sẽ đến thăm anh.
Quý lặp lại lời của Thu rồi cười gằn : « Hừ, con bé tinh quái và xảo trá có một không hai. Hễ mỗi lần gặp nguy là nó vuốt ve mình bằng vài nhượng bộ cỏn con có vẻ ưng thuận hiến thân lắm, và một lời hứa suông để rồi sai hẹn «Em sẽ đến thăm anh !» Cũng như là câu : «Tối nay em đến nhé» của năm ấy. Đáng giận thật, đáng nguyền rủa con người tàn nhẫn ấy. Thà là nó đừng tỏ cảm tình gì với mình, cứ thờ ơ như lúc đầu, thì mình đâu có dại mà đi sâu mãi vào tình yêu cho đau khổ mãi thế này ! ».
Nhưng nỗi đau khổ vì không được yêu của Quí thế mà dễ chịu lắm đó. Những ngậm ngùi thương tiếc đã thơ-mộng-hóa mấy năm xuân tươi của chàng, còn thú gấp mười bọn trai tơ mơ người trong mộng.
Chí như cơn bừng tỉnh trước sự thật phũ phàng này thì nó làm cho chàng khó chịu biết bao nhiêu ! Chàng cứ nghe làm sao ấy, không thể nói ra được. Chàng nghe tâm hồn như bị một ngọn cuồng phong thổi mạnh qua, làm cho nó ngơ ngác vì bị lạc hướng, chàng chới với trong một mớ tình cảm hỗn độn, thất vọng pha trộn với căm tức, hờn ghen, buồn không được mà vui cùng chẳng xong.
«Hừ, em sẽ đến thăm anh !» Mặc dầu quyết quên em, anh vẫn đợi em từ hai năm nay, và em ơi, bây giờ thì em đã chết hẳn rồi, nơi lòng anh, chết không trơn tru tròn trịa cho anh thờ phượng em trong hồn anh, mà lại chết để oán để thù lại nơi lòng này. Hừ, em sẽ đến thăm anh ! Còn gì nữa đâu giữa em và anh. Từ đây, em là kẻ xa lạ, anh chỉ còn tiếc thương giấc mộng, chớ chẳng tiếc thương em ».
Quí lẩm nhẩm những điều đó, rồi đi thẳng trên vỉa hè đại lộ về phía thành Ông Dem, mặc kệ mấy thằng bạn trong trà thất, chúng nó đã quen với những vụ đột biến mất của chàng rồi.
Sáng hôm sau đi dạy về, Quí ghé qua nhà sách Xuân-Thu và cà rà trước mấy quầy chưng sách thật lâu, thành thử chàng về đến nhà thì đã gần mười một giờ rưỡi.
Một thiếu phụ đứng với con nàng, trước nhà chàng. Có lẽ nàng đến đã lâu lắm, theo lệ ngày xưa mà chàng rời lớp là vội vàng phóng xe về đây cho bạn khỏi mỏi chon chờ ngoài cửa.
Quí làm bộ không trông thấy họ, mặc dầu Thu không thay đổi tí nào, có phần đẹp hơn lúc trước chút đỉnh, và mặc dầu có con bé mà chàng đã thấy đêm rồi với cha nó.
Chàng thò chìa khóa vào lỗ khóa, mở cửa bước vào, và toan đóng cửa lại ngay, nhưng không hiểu sao, chàng cứ để vậy, rồi lại ghế xa-lông mà ngồi ; tiềm thức chàng sai khiến chàng phải sẵn sàng tiếp khách.
Thiếu phụ dè dặt gõ cửa chớ không tự do vào như xưa.
– Ai đó, cứ vô.
Khi thấy mặt người khách mà chàng không muốn tiếp ló ra nơi khung cửa, chàng hỏi :
– Thưa bà, bà tìm nhà ai ?
Thu hóm hỉnh mỉm cười và đáp :
– Em tìm người anh hùng ở bến đò Rạch-Miễu.
Quí châu mày, thấy rằng nhắc lại chuyện xưa, tức là khiêu khích. Chàng đương đầu lại :
– Thưa bà, người đó đã quên tất cả chuyện cũ rồi, và không thích nghe ai nhắc lại cả.
– Không ai nhắc cái gì hết. Em chỉ giữ lời hứa với anh đêm rồi thôi.
– Hừ, lời hứa. Khỏi, khỏi, khỏi, tôi đã hiểu rồi.
– Không, anh không hiểu gì cả, bằng cớ là anh giận em.
– Đâu nào, mời bà ngồi, để xem tôi còn mù quáng về điều gì, mặc dầu đêm rồi, tôi đã sáng mắt ra.
Thu ngồi lên ghế, đẩy con tới và nói :
– Chào bác đi Lan-Chi.
Quí thừ người ra. Thì ra con bé tên là Lan-Chi và cái tên Lan-Chi ấy, không phải Thu đã bịa ra để gạt chàng. Có lẽ nàng yêu mến tên đó mà tiếc không mang được nó, và về sau lấy mà đặt cho con.
– Chào bác !
Quí rất là không ưa người giảng-nghiệm-viên đã phỗng tay trên chàng, và cố nhiên, không ưa đứa bé này. Nhưng nó ngây dại quá, cứ tròn xoe đôi mắt mà nhìn người chủ nhà lạ mà nó chưa gặp lần nào, đôi mắt đen láy giống hệt mắt của mẹ nó, khiến chàng không sao không cảm tình với nó. Chàng đưa tay ra nói :
– Cháu, lại đây.
Bé Lan-Chi ngoan ngoãn bước tới bắt tay người làm quen với nó, rồi đứng gọn vào giữa hai đầu gối chàng, xây lưng ra mà nhìn mẹ.
Thu hỏi:
– Anh đoán tuổi Lan-Chi xem.
– Chắc cháu lên ba.
– Đúng y như vậy. Và ta xa nhau đã hai năm rồi. Thế nghĩa là em có cháu lên một, lúc ta gặp nhau.
Sự thật sáng lóe bỗng trong giây phút bừng chói lên trước mắt Quí khiến chàng như bị say ánh sáng, lảo đảo muốn ngã. Thì ra chàng đã ngỡ Thu là trinh nữ, và đã đặt lầm tình yêu vào một thiếu phụ đã có chồng con.
Giấc mộng thần tiên của chàng bị tan vỡ hôm qua, chỉ nửa chừng thôi, chính giờ đây nó mới là tan hẳn.
Chàng ôm đầu câm lặng rất lâu, rồi ngẩng lên thở dài mà rằng :
– Tôi xin lỗi bà, tôi đã làm cho bà khổ nhiều lắm. Nhưng xin bà biết cho, lúc ấy tôi làm thế nào biết được rằng bà đã có chồng, có con.
– Không, anh cứ xưng hô với em như xưa. Dầu sao ta cũng đã là bạn thân nhau trong một thời gian.
– Cám ơn bà, nếu bà cho phép thế thì quí hóa lắm !
– Em ngỡ anh đoán mà hiểu, không dè anh cứ mù quáng và quấy rầy em.
– Anh mù quáng vì tình yêu, em à. Nhưng muốn đoán cũng phải có dấu hiệu gì, đằng nầy tuyệt nhiên anh không nắm được yếu tố nào cả. Anh chỉ ngỡ em đã trót yêu ai, và hôm qua nầy, biết một phần sự thật anh cũng còn ngỡ rằng lúc ấy em còn con gái và chỉ mới được Hòa đi hỏi thôi.
– Anh cũng biết Hòa ?
– Biết nhưng không được quen với anh ấy.
– Tại anh không tinh ý chớ còn có biết bao nhiêu là dấu hiệu chứng tỏ rằng em có chồng.
– Những dấu hiệu nào ?
– Chiếc va-ly chẳng hạn. Anh đã nhận thấy được rằng em có ý không muốn nhận va-ly thì sao anh không suy luận để tìm nguyên do sự phủ nhận quyền sở hữu của em ? Anh nhớ hay không, em đã yêu cầu anh đừng tiết lộ việc ta ngủ trên đảo hoang hôm đó.
– Nhớ. Nhưng anh đoán rằng em sợ mang tiếng rồi phải ế chồng. .
– Anh đoán cũng rất có lý. Nhưng lời đoán ấy thấy là sai khi xảy ra vụ em hoang mang vì chiếc va-ly. Em nhận va-ly, thiên hạ ở ngoài nào ai biết để mà bàn ra nói vào. Sở dĩ em không muốn nhận chỉ vì sợ người nhà em biết thôi. Mà người em sợ, chỉ có thể là chồng em, chớ bà cô em dầu biết em sống chung trên đảo với anh một đêm cũng chẳng sao.
Số là em kể với chồng em rằng em được ghe thương hồ cứu thoát. Như vậy, chiếc va-ly hẳn là phải mất, vì cố nhiên là em giấu việc quá giang xe anh và gởi va-ly trên đó. Va-ly đã mất thì va-ly nào mà mang về nhà mấy hôm sau, nguyên vẹn, không hề thấm nước, lấm bùn gì cả.
– Phải, rõ ràng cũng như ban ngày. Thế mà anh đã ngốc quá.
– Chiếc va-ly ấy rồi em giả đò bỏ quên trên xe tắc-xi đấy, để phi tang.
Quí cười hà hà :
– Anh tài xế tắc-xi hôm ấy phát tài.
– Chưa hết dấu hiệu đâu. Còn cái chìa khóa cửa.
– Ừ, cái chìa khóa ?
– Anh cũng khá tinh, đoán ngay được phần nào sự thật rằng em sống một mình.
– Nầy em, anh xin lỗi em. Bắt gặp chìa khóa ấy, anh đoán em sống một mình. Mà con gái xinh đẹp đến thế đó mà tự do sống một mình thì cô gái ấy chỉ là... Anh hồ nghi như vậy nên có ý khinh rẻ em phần nào, mặc dầu vẫn còn yêu. Nên chi anh đã thô lỗ, kém lịch sự lúc bắt được cái chìa khóa.
– Hôm đó chồng em đi công tác ở Huế bốn ngày. Em phải gởi bé Lan-Chi cho người bà con ở gần đó, rồi khóa cửa đi làm.
– Nhưng mà, tại sao em lại không chịu cho anh biết sự thật.
Thu làm thinh, mân mê tà áo và lâu lắm mới nói khe khẽ, mắt nhìn hai mũi giày của nàng đang châu đầu với nhau như đôi nhân tình âu yếm nhau :
– Vì em thấy rõ là anh hiểu lầm và yêu em lắm.
Quí sực nhớ đến người chứng tí hon, nên lè lưỡi rồi chỉ vào nó. Nó đưa lưng vào người chàng nên không thấy cử chỉ ấy được. Thu mỉm cười nói :
– Anh đừng lo. Cháu nó mới lên ba. Nó sẽ quên mất hết, nếu nó thông minh có hiểu lõm bõm được điều gì đi nữa.
– Nếu anh hiểu lầm và yêu em thì em càng nên đính chánh ngay chớ sao lại...
– Sự hiểu lầm của anh vuốt ve tự ái của một thiếu phụ có chồng hơn ba năm rồi (em lấy chồng hồi 17 tuổi), nàng rất sung sướng mà hay rằng mình còn trẻ đẹp và hay rằng còn được con trai si mê. Vì thế mà em để vậy để được hưởng sự ngộ nhận đó mãi. Hơn thế, một bức ảnh đẹp của ta, ta nỡ lòng nào hủy đi, phương chi bức ảnh đẹp vẽ em nơi lòng một thanh niên nghệ sĩ như anh, em nỡ nào xóa đi bằng một lời đính chánh, vả lại.... em... em... em... cũng....
Quí nghe sung sướng hơn cả cái lần đầu tiên và cuối cùng, cái lần độc nhất được Thu hôn lên trán. « Vả lại em cũng... », chàng hiểu ngay mấy tiếng mà Thu bỏ dở, không can đảm thốt ra ấy, « .. em cũng yêu anh » chớ còn gì nữa mà phải hỏi lại mất công.
Bao nhiêu đó, đủ cho chàng lắm rồi và niềm đau thầm lặng từ hai năm nay, nỗi thất vọng từ đêm rồi, được bù lại, bù quá mức, bằng sự sung sướng này.
Thì ra Thu đã yêu chàng, và vừa thú nhận tình của nàng. Bất giác chàng cúi xuống hôn lên tóc bé Lan-Chi, rồi bế nó lên đặt nó ngồi trên vế chàng và hôn nó trơ trất nơi hai má nò.
Chàng cắn nhẹ cổ tay bé, ngậm trong miệng chàng và hỏi:
– Lan-Chi có thương cậu hay không?
Bé Chi nhìn mẹ để hỏi ý kiến :
– Sao má, Lan-Chi thương cậu hôn ?
– Thương hay không, tùy lòng con, chớ hỏi má sao được.
– Con không quen với cậu.
– A, má hiểu con rồi. Con không quen nên chưa thương nhưng mà con muốn thương phải không?
– Dạ phải.
Quí hăm dọa :
– Không thương, cậu cắn một cái thì đứt thịt.
Nói rồi chàng cắn nhẹ vào thịt mềm và thơm của bé, khiến bé nghe buồn buồn, nhột nhột khó chịu. Bé cười dòn lên rồi giựt tay ra.
– Anh thì cứ như thế. Bắt ép tình thương của người ta mãi. – Thu vừa nói vừa cười.
Quí cũng cười mà rằng :
– Bắt ép thế mà vẫn chưa bao giờ toại nguyện.
Thu đứng lên và nói với con :
– Lan-Chi xin phép cậu đi về, đi con.
Quí nhìn đồng hồ tay thì thấy đã mười hai giờ rưỡi rồi nên không dám lưu khách. Chàng hỏi nho nhỏ người bạn cũ :
– Sao từ nãy giờ em lại dám nói to những điều mà em vừa nói ? Em không sợ một cô ở trong buồng nghe à ?
Thu cười mà rằng :
– Em theo dõi anh từng ngày, nên biết anh còn độc thân. Để rồi em sẽ đến thăm anh.
– Cảm ơn em.
Giờ thì Quí tin rằng nàng sẽ đến.
Quí nghe thử lòng mình xem thế nào, sau cuộc hội kiến nầy :
Không, chàng không tin nữa nơi quan niệm của một thằng bạn nổi tiếng là đểu giả. Nó bảo rằng không có gì thú bằng yêu một thiếu nữ có chồng, bởi nàng có đủ tất cả quyến rủ của một trái cấm. Và khi yêu được rồi, sự thích thú càng tăng vì sự chùn lén dễ mê say hơn là công khai dắt nhau đi chơi phố.
Quí chưa hề thèm muốn người đàn bà có chồng nào, nên chàng không có ý kiến gì hết, giờ chàng mới thấy rằng quan niệm của thằng ấy sai.
Chàng nghe Thu xa lạ hơn bao giờ cả và người con gái mà chàng ấp yêu hình ảnh từ bấy lâu nay chỉ là một người không có thật, còn cô khách khi sáng không phải là người đó.
Con người không có thật đó đã mất hút trong thời gian và trong không gian, chàng còn yêu nàng y như trong buổi đầu, mà có lẽ còn yêu nhiều hơn chỉ vì nàng không còn nữa. Nhưng con người bằng xương bằng thịt mà chàng đã tiếp khi sáng là của người khác.
Quí rất trọng quyền sở hữu về tài sản mà cả về tình yêu nữa, nhờ thế mà từ thuở giờ, chàng chưa lần nào có ý quấy về một người đàn bà có chồng.
Nàng đã chết. Không, chàng không hối hận gì cả. Chàng có đeo đuổi theo để khám phá ra sự thật giết người nầy đâu, giết nàng mà cũng giết chàng nữa. Chỉ sự tình cờ mới là thủ phạm. Thế là rủi ro cho số phận, sự tình cờ tai hại ấy đã vén bức màn bí mật mà sau đó nàng ẩn núp để tránh ánh sáng nguy hiểm, và chỉ trong vài giây thôi là nàng tiêu tan thành hơi thành khói dưới mắt chàng.
Nàng đã chết! Chàng chỉ muốn cho dài thương tiếc mà cũng chẳng ôm được mối tiếc thương quá hai năm.
Nàng đã chết! Không, không thể nào để cho nàng chết như thế được mà không tìm phương giải cứu nàng.
Trong một phút đau xót và tuyệt vọng, Quí vụt ngồi dậy, nổi loạn định chống với số mạng nó làm đổ vỡ cả một đời tình cảm của chàng.
Nói một đời tình cảm không phải là nói quá : người nghệ sĩ thường sống với mộng, mộng đẹp hay mộng đau thương ; họ vui sướng mà mơ đến một người, mà họ cũng vui sướng được mà ôm ấp niềm đau của một cuộc phụ bạc. Nhưng họ chết cả tâm hồn khi người mà họ mơ, người mà họ căm hận không còn xứng đáng giấc mơ, xứng đáng mối hờn của họ.
« Không, không thể để cho nàng chết. Nàng không phải chỉ là một cô gái đẹp mà ta ước muốn. Nàng đã yêu ta, mà tình yêu nơi nàng có còn hay không chớ ? Nếu còn thì nàng không thể chết.
Biết nàng có chồng, ta chỉ tuyệt vọng vì nghĩ rằng nàng đã thuộc hẳn về người khác. Nhưng chi tiết lại đính chánh ý nghĩ của ta : là nàng có chồng trước khi yêu ta, tức là đã thuộc về người khác mà vẫn không thuộc hoàn toàn.
Người mà ta yêu và yêu ta, không phải cô gái trong trắng mà là người đàn bà một con. Và người đàn bà ấy trước sau vẫn vậy, không hề thay đổi tình trạng, tức nhiên không hề thay đổi tấm lòng.
Không, cô gái bến đò không chết vì nàng không có, vì ta không biết nàng. Ta chỉ biết người đàn bà nầy, mà người đàn bà này vẫn cứ là người đàn bà này, và tình nàng đối với ta không hề bị tình cảm hay tình yêu nào khác biến chất đi được cả» .
Quí lần theo tư tưởng của chàng như lần theo một sợi dây, và bất giác chàng nhảy xuống khỏi giường trong cơn mừng rỡ vì bắt được sự thật nơi đầu dây đó: là người trinh nữ không có, hoặc có mà chàng không quen biết, chàng chỉ yêu người đàn bà nầy thôi và nàng thì không thay đổi!
Quí đi qua đi lại, phấn khởi và hăng hái lạ kỳ. Chàng muốn chạy đi tìm ngay Thu và va đầu vào một bức tường, nên dội ngược trở lại. Bức tường ấy là sự không biết nhà của nàng, và điều đó bỗng nhắc nhở chàng một sự thật chát chúa mà trong cuộc suy luận mê man, chàng đã quên mất: Thu là gái có chồng.
Sự thật nầy lại là một bức tường khác mà vừa đụng phải, chàng bị đánh bật lại và té ngửa trên giường.
Hòa đã mua được một bên của một ngôi biệt thự song lập cất cho các công chức cao cấp. Chàng trả góp mỗi tháng một định kỳ rất nhẹ nên khoản chi phí về tiền thuê nhà dưới Đa-Kao được sung vào quỹ ăn mặc.
Từ ngày ngân sách gia đình được dồi dào thêm, Thu khỏi phải đi bán hàng cho hiệu tơ lụa của người Trung-Hoa trên đường Tự-Do nữa. Nàng ở nhà lo nội trợ, nhất là làm bếp để chồng được ăn những bữa ăn ngon mà tôi tớ không sao làm được.
Nhưng hôm ấy nàng đã cho Hòa ăn còn tệ hơn là thuở nàng đi làm, chị bếp thật dở.
Trước khi đến thăm Quí, nàng đã mua bánh hỏi thịt quay, rồi về trễ quá không kịp nấu nước để hấp bánh lại thành thử trong bữa ăn, Hòa trợn trạo nuốt bánh khô, nghe nó khác thường, không dẻo như mọi khi, nhưng chẳng rõ sao mà như vậy.
Chàng chỉ hơi ngạc nhiên mà thấy vợ có những phút như là đi vắng, với cái nhìn rất xa, và những câu đáp ngớ ngẩn khi chàng hỏi điều gì.
– Em sao vậy? – Hòa lo lắng cho sức khỏe của vợ.
– Em nghe khó chịu trong người.
– Từ ngày em bị tai nạn ở bến đò Rạch-Miễu, sức khỏe của em khiến anh phải băn khoăn nhiều bận. Trước đó, em không bao giờ đau ốm gì cả.
– Em đã chịu lạnh hơn mười hai tiếng đồng hồ...
– Ừ, và hậu quả cứ dây dưa mãi. Nhưng anh còn một mối lo nầy nữa. Hình như là em cứ bị sự kinh sợ ám ảnh hoài, thỉnh thoảng em giựt nẩy mình, dáo dác nghe ngóng, thỉnh thoảng em nhìn xa trong không gian. Những lúc đó thì em như không có mặt bên cạnh anh.
Lần lần em đã quên được, đã thanh thản lại được như bình thường, nhưng hôm nay, em lại thẫn thờ như kẻ mất hồn, trong khi người em nghe khó chịu. Nếu sự ương yếu của thể chất mà kéo theo sự ương yếu của tinh thần, cả hai đều do một nguyên nhơn, một kỷ niệm ghê sợ thì đó là điều đáng ngại lắm. Em nghe như thế nào ? Nói rõ cho anh liệu ?
Thu hồi hộp lắng nghe chồng nói, không biết chàng định đi đến đâu. Chừng Hòa nói xong, nàng mới hết lo và rất sung sướng mà hưởng cái cảm giác nhẹ nhõm của người vừa thoát được một tai nạn.
Năm kia cứ mỗi lần đi thăm Quí trở về là nàng sợ hãi cứ tưởng như là Hòa biết được cuộc gian du ấy. Mà hễ sợ thì không còn tự nhiên được, và Hòa hay xét nét nàng chính vì sự mất tự nhiên ấy. Bị xét nét, nàng càng sợ hãi thêm, làm như là chồng đọc được trong đáy lòng nàng vậy.
Nhiều khi, nàng muốn thú thật mọi việc cho chồng rõ, nhưng rốt cuộc không bao giờ có can đảm thực hiện quyết định. Nàng biết chắc rằng hễ thú thật xong, là khỏi còn bị nỗi sợ hãi nào dày vò, kể cả nỗi sợ hãi phải ngã, nó thêm vào sự lo âu cho bí mật đêm trên cù-lao Tân-Vinh bị chồng khám phá.
Hòa mà biết sự thật thì nàng sẽ không dám đến thăm Quí nữa, bỏi thế nào Hòa cũng đưa nàng đi «đền ơn đáp nghĩa người ta», đúng theo thói quen xử thế của chàng.
Biết được nàng có chồng thì một là Quí rút lui, hai là hắn sẽ cố lì, mà hắn cố lì khi biết sự thật rồi thì chắc chắn nàng sẽ khinh ghét và khiếp sợ hắn mà lánh mặt luôn.
Như thế nỗi nguy có thể ngã, tự nhiên sẽ ngăn đón được không sai. Thu là gái đoan trang và lấy chồng rồi, nàng là một người vợ quyết trọn tiết với người chồng mà nàng yêu.
Chưa bao giờ một ý nghĩ không hay lai vãng đến bên trí nàng, kể cả trong cái đêm nằm gần một thanh niên đẹp trai là Quí.
Nhưng sau đó, sự hăm dọa của anh chàng liều mạng đã lôi kéo nàng đến nhà hắn, rồi sự ngộ nhận và mối tình của hắn đã làm xao xuyến đời tình cảm trầm lặng của nàng.
Thu đã hoảng sợ mà thấy lòng mình có thể nghiêng như thế và cố chống lại cuộc bắt đầu lỗi đạo. Nhưng tình thế khách quan và chủ quan đã không giúp nàng lại cứ xô đẩy nàng càng ngày càng bước vào nẻo nguy hiểm.
Cũng may là đến phút quyết liệt, nàng đã gượng đứng vững lên được khi suýt ngã, và cũng may là không hiểu sao tự nhiên rồi người con trai gieo họa ấy lại buông tha nàng mà không đeo đuổi theo để làm khổ nàng nữa.
Từ ấy đến nay hình ảnh chàng thanh niên đã phai mờ lần nơi trí nàng. Nàng bình thản trở lại để sống đời người vợ hiền, nuôi con, lo việc nội trợ
Những chiều mưa gió, thỉnh thoảng nàng cũng ngậm ngùi nhớ đến người họa sĩ mà sự tình cờ đã đặt trên đường đời nàng, và hơi hơi tiếc thương mối tình vừa hoài thai của nàng mà bị nàng bóp chết. Mối tình đó là sự tiếp nối với giấc mộng tình bâng quơ của thời con gái của nàng, cũng như của vạn, triệu người con gái khác, giấc mộng tình đẹp như chuyện thần tiên, cho nên dầu cho có lấy được người chồng vừa ý cũng không bao giờ thỏa cả.
Nhưng nó chỉ đẹp khi ẩn hiện sau một lớp bụi thời gian thôi, hoặc khi ẩn hiện trong mớ ảo ảnh khác của cuộc đời thôi. Chí như cuộc tái ngộ đêm rồi thì là một tai họa lớn, bao nhiêu thi vị tiêu tan đâu cả vì sợ hãi đã phá hoại cả trên thực tế.
Âm thầm theo dõi Quí, nàng biết Quí vẫn còn sống độc thân, vẫn mang một nỗi sầu bí mật mà bạn hữu chàng không sao biết được nguyên do. Thu tin chắc Quí còn yêu nàng nên mới sợ hãi chớ không phải sợ chồng bắt gặp nói chuyện với một thanh niên lạ ngoài phố.
Nàng không thể không đến thăm người bạn cũ để phân trần cho hắn hết ngộ nhận rằng nàng lấy chồng sau khi yêu hắn.
Có những điểm mà con người không thể để bạn hiểu lầm về họ, cho dẫu là một trong hai người sắp chết đến nơi, hoặc cả hai đều đang hấp hối và chính vì sự chết gần kề, nên họ càng cần xóa ngộ nhận.
Nàng không thích để Quí mang một hình ảnh xấu về nàng hay về tâm hồn nàng mà sự hiểu lầm nơi chàng, không sao không biến nàng ra một kẻ khốn nạn, đáng khinh bỉ.
Nhưng hễ nàng tìm đến nhà Quí thì cuộc phiêu lưu tình cảm ngày xưa sẽ tái diễn.
-... Nói rõ cho anh liệu ?
Thu cảm động đến rưng rưng nước mắt mà thấy chồng nàng tốt quá đối với một người vợ không xứng đáng như nàng. Nàng mỉm cười, trấn an chồng :
– Không, em không sao cả anh à, hồi sáng đến giờ hơi bần thần, có lẽ nó muốn cảm, thế thôi. Anh ăn đỡ bữa thịt quay bánh hỏi khô nầy...
– Em đừng lo đến cái vặt ấy, cứ...
– Má làm bộ, cho ba cưng. Ê, mắc cỡ ê !
Hai vợ chồng cười xòa, và không khí bữa ăn gần tàn, đã bớt nặng nề.
Bé Lan-Chi có lần sốt nhẹ. Bé Hà, chị em nhà cô nhà cậu với nó đến thăm, không được nó chơi với, nên đã tức giận mà nói như vậy. Nay nó áp dụng lời ấy với má nó..
Lan-Chi ngồi trên một chiếc ghế cao, ở đầu bàn, ăn bánh ngọt, vì tương ớt cay quá nó ăn bánh hỏi không được.
Ba nói :
– Má đâu có làm bộ, nếu má làm bộ thì má đã khóc như Lan-Chi chớ.
– Kìa, má khóc kìa.
Hòa nhìn theo ngón tay con chỉ và thấy mắt mũi Thu đều đỏ cả. Nàng mỉm cười với chồng và nói :
– Em bị thằng ớt đánh đau quá !
– Em ăn ớt như con nhồng, không chảy nước mắt sao được.
Sau giấc ngủ trưa, người nội trợ bảo là bần thần nầy lại làm việc tợn hơn bao giờ cả, nàng moi móc tất cả những công việc gì không cần thiết lắm và bị hoãn lại từ lâu để làm cho xong hết nội bữa xế ấy. Nàng muốn công việc bận rộn ngăn trí nàng nghĩ vẩn vơ.
Sau bữa cơm tối, nàng lại cho con nhỏ ở đi xem chiếu bóng và tự rửa lấy chén bát. Lúc dỗ Lan-Chi ngủ được rồi thì nàng đã mệt nhoài.
Hòa xem sách trên chiếc ghế bành, miệng ngậm bíp y như Quí. Ghế nầy đặt trong buồng ngủ, chớ không phải ở buồng tiếp khách. Khi nào Hòa nằm trên đó thì hắn không muốn ai quấy rầy hắn cả, có bạn thân đến, cũng phải nói láo là hắn đi vắng.
Qua bức màn tuyn, Thu nhận thấy Hòa trông nghiêng, cũng đẹp trai không kém Quí chút nào, hai người chỉ khác nhau ở chỗ Quí có vẻ ngang tàng còn Hòa thì hiền từ, khiêm tốn.
Họ yêu nhau lúc Thu đang theo học lớp Seconde trường Marie Curie, và Hòa vừa đỗ cử-nhơn. Ba tháng sau đó, chàng xin được một chơn giảng-nghiệm-viên trong Khoa-học Đại-học và cưới Thu liền.
Nhưng phải hiểu rõ nghĩa tiếng «yêu » trong trường hợp của đôi trai gái nầy. Họ gặp nhau nơi nhà một người bạn chung, được giới thiệu với nhau, rồi thôi, Hòa không hề tìm cách gặp nàng lần thứ nhì. Nhưng mà rồi họ cũng tái ngộ, do sự tình cờ.
Lần gặp mặt thứ tư nhằm ngày Hòa đỗ cái chứng chỉ thứ tư, chứng chỉ vi-phân-toán, tức là lấy được cử nhơn vật-lý-học toàn phần.
Hôm ấy Hòa vui vẻ lắm, và lần đầu tiên, chàng nói chuyện nhiều với Thu, và xin phép được gặp lại nàng.

Bình Nguyên Lộc
Theo https://vietmessenger.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Bùi Việt Phương và những vần thơ lạ từ miền núi Bùi Việt Phương thuộc thế hệ 8X. Phương sinh ra và lớn lên ở miền núi, học xong khoa Ngữ...