Thứ Năm, 29 tháng 8, 2024

Những vật liệu kiến tạo thế giới tượng trưng trong thơ Bích Khê

Những vật liệu kiến tạo thế giới
tượng trưng trong thơ Bích Khê

Từ lâu đã có nhiều người nghiên cứu về thơ Bích Khê, một trong những hiện tượng độc đáo của nền thi ca Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX. Cứ tưởng “đỉnh núi lạ” Bích Khê không còn gì để nói nữa, nhưng khi đọc luận văn Thế giới tượng trưng trong thơ Bích Khê của Thạc sĩ Phạm Thị Như Thúy, tức nhà thơ Doãn Thúy Như, thì tôi thật bất ngờ với những khám phá mới.
Có lẽ cũng là người làm thơ nên Phạm Thị Như Thúy dễ thấu cảm cái hay cái đẹp và phát hiện ra những khác lạ của thơ Bích Khê, từ ngôn ngữ, thi ảnh, cấu trúc đến các thủ pháp nghệ thuật. Tôi đặc biệt thích thú với phần “Những vật liệu kiến tạo thế giới tượng trưng trong thơ Bích Khê” với những nhận biết bằng ngũ quan, trực giác và cách đọc liên văn bản. Không chỉ bằng cảm thụ thẩm mỹ mà Phạm Thị Như Thúy còn cho thấy một tư duy khoa học trong việc khám phá, phân tích, nhận định với những dẫn chứng minh xác, lý luận thuyết phục và thể hiện bằng thứ văn phong giản dị, sinh động và chặt chẽ.
Có thể nói những khám phá trên là một đóng góp đáng quý của Phạm Thị Như Thúy đối với quá trình nghiên cứu thơ Bích Khê nói riêng và nền thi ca Việt Nam hiện đại nói chung. Mà thi ca là một trong những gốc rễ của văn hóa. Người biết cảm nhận, phân tích được cái hay cái đẹp của thi ca cũng chính là người có khả năng thẩm thấu về văn hóa bằng tư duy lý luận khoa học và tinh thần nhân văn. Tôi mong Phạm Thị Như Thúy dành nhiều thời gian nghiên cứu về văn học, nhất là thơ đương đại, đồng thời sớm “nâng cấp” luận văn Thế giới tượng trưng trong thơ Bích Khê trở thành công trình hoàn thiện hơn, giá trị hơn để công bố tác phẩm rộng rãi đến bạn đọc qua con đường xuất bản sách.
Những vật liệu được nhận biết bằng ngũ quan  
Bước vào thế giới tượng trưng của thơ Bích Khê, ta như lạc vào một cõi trời kỳ ảo luôn vang lên bản giao hưởng tuyệt vời của hương thơm, sắc màu và giai điệu. Có điều đó bởi những vật liệu kiến tạo thế giới tượng trưng trong thơ Bích Khê trước hết là những vật liệu có thể nhận biết được bằng ngũ quan.
Sắc màu huyền diệu và hương thơm thanh khiết
Trong tập Tinh huyết, các bài như: Mộng cầm ca, Đôi mắt, Xuân tượng trưng, Duy tân thể hiện khá rõ quan niệm thẩm mỹ thơ của Bích Khê:
Hỡi lời ca man dại
Điệu nhạc thở hơi rừng
Đêm nay xuân đã lại
Thuần túy và Tượng trưng”
(Xuân Tượng trưng)
Đường kiến trúc nhịp nhàng theo điệu mới
Của lời thơ lóng đẹp – Hạt châu trong
Hạt châu trong ngời nhỏ giọt vô lòng
Tràn âm hưởng như chiều thu sóng nắng…
… Ta nhịp nhàng ý nhị nhịp theo Ta
Lời nối lời bố thí lộc tinh hoa
Của âm điệu, mơ màng run lẩy bẩy,
Một hỗn hợp đẹp xô bồ say dậy
Bằng cảm tình, bằng hình ảnh yêu thương
Và mới mẻ – trên viễn cổ Đông phương!
 (Ai có nghe sức tiềm tàng bí mật?)
Thơ lõa thể! Giai nhân tuần trăng mật,
Nữ thần ơi! Ta nô lệ bên người!…
(Duy tân)
Quách Tấn đã nhận định: “Tinh huyết mang nhiều sắc thái của Tây phương, còn Tinh hoa chứa nhiều khí vị của Đông phương”. Cái “sắc thái của Tây phương” đã kết hợp một cách hài hòa với “khí vị của Đông phương” để sinh ra một tiếng thơ đặc biệt “Của âm điệu, mơ màng run lẩy bẩy/ Một hỗn hợp đẹp xô bồ say dậy” mà trong đó có sự phối màu tuyệt diệu với đủ các gam màu:
– Trăng gây vàng, vàng gây lên sắc trắng
– Vàng sao nằm im trên hoa gầy
– Vàng rơi! Vàng rơi: Thu mênh mông                 
– Lam nhung ô! màu lưng chừng trời;
Xanh nhung ô! màu phơi nơi nơi.
– Ô trời hôm nay sao mà xanh?
Ngọc trăng xây vàng trên muôn cành…
– Khung trắng trời mây trắng lạ thường
Với đôi dòng suối sữa trắng như tinh
– Buồn lưu cây đào xin hơi xuân
Buồn sang cây tùng thăm đông quân
Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! Vàng rơi: Thu mênh mông.
(Tỳ bà)
Sẽ không có sự phối màu tuyệt diệu đó nếu không có ánh sáng, hay nói cách khác, ánh sáng đã tạo nên sự phối màu tuyệt diệu đó. Và thế là trong những câu thơ của Bích Khê luôn tràn ngập ánh sáng: ánh sáng phát ra từ bàn tay búp sen của giai nhân đi trong chiêm bao ẻo lả, biến thành cái nhìn ảo giác chỉ có trong tưởng tượng huyền diệu:
Tay búp sen kẻ lên vàng óng ả
Những đường thêu kim tuyến rúng đêm huyền.
(Đồ mi hoa)
Ánh sáng phát ra từ:
Ôi! cặp mắt của người trong tựa ngọc
Sáng như gươm và chấp chóa kim cương!
Hai mắt ấy chói hào quang sáng ngợp
Dẫn hồn ta vào thế giới thiêng liêng.
(Cặp mắt)
Ánh sáng tràn ra từ bước chân thiếu nữ, đẹp như chuyện thần tiên:
Nàng bước tới như sông trăng chảy ngọc
Như nắng thơm hớp đặc cả nguồn hương
(Nàng bước tới…)
Và ngay cả khi “chàng Lãng Tử” u buồn thì ánh sáng vẫn bừng lên:
Đây chàng Lãng Tử buồn rơi lệ
Miệng cứng hào quang chảy tợ vàng…
(Sầu lãng tử)
Có thể nói, ánh sáng là một phần đặc biệt quan trọng trong tư duy nghệ thuật của Bích Khê và không gian thơ của Bích khê luôn ngập tràn ánh sáng “Cả không gian là bể sáng trà lan”. Ánh sáng như là có phép nhiệm màu đã khiến những câu thơ của Bích Khê luôn lấp lánh, lung linh, ngời sắc, kể cả khi màn đêm bao phủ, ánh sáng cũng không hề bị triệt tiêu mà thật ám ảnh:
Đêm u huyền ngủ mơ trên mái tóc.
Một chút trăng say đọng ở làn môi.
(Tranh lõa thể)
Thậm chí, ngay cả khi tâm tư Bích Khê ở trong trạng thái tĩnh lặng nhất, lòng lắm nỗi bất an, nhiều băn khoăn bởi những nỗi buồn mông lung, xa vắng
Nơi đây: làng cũ buồn thu quạnh
Anh có khi nào trở lại chưa?
Ngày đi chậm lắm. Giòng sông biếc
Hừng sáng trong trời sợi sợi mưa.
(Làng em)
Song nỗi buồn ấy cũng không giam cầm được tâm hồn nhà thơ mà trong những bước chuyển của mùa thu cô quạnh vẫn hừng sáng ánh biếc của dòng sông bí ẩn, mênh mang, lan tỏa… Hai câu thơ: Ngày đi chậm lắm. Giồng sông biếc – Hừng sáng trong trời sợi sợi mưa là những câu thơ tả cảnh tả tình tuyệt bút của đóa hoa thần diệu thơ Bích Khê. Đó chính bởi Bích Khê luôn hướng thơ mình về phía ánh sáng – thứ ánh sáng khởi nguồn của sự sống.
Thế giới tượng trưng trong thơ Bích Khê không chỉ đa dạng, phong phú về sắc màu mà điều quan trọng là cái thế giới muôn vàn sắc màu đó ngào ngạt hương thơm.
Đây bát ngát và thơm như sữa lúa;
Nhựa đương lên: sức mạnh của lòng thương;
Mùi tô hợp quyện trong tơ trăng lụa;
Đây dạ lan hương, đây đỉnh trầm hương;
Đây bát ngát và thơm như sữa lúa;
Hồn xạ hương phơ phất ở trong sương.
(Mộng cầm ca)
Những bài thơ như Nàng bước tới, Nhạc, Xuân tượng trưng, Châu… tràn ngập những hình ảnh nhạc thơm, nắng thơm, khí trời thơm, hoa thơm, cỏ thơm, nụ cười:
Nàng bước tới như sông trăng chảy ngọc
Như nắng thơm hớp đặc cả nguồn hương
Là nơi đây đoàn tụ nhạc mười phương
Ứ thành xuân cho niên hoa bất tuyệt.
(Nàng bước tới)
Trăng gây vàng, vàng gây nên sắc trắng
Của gương hồ im lặng tợ bài thơ.
Chân nhịp nhàng, lòng nghe hương nằng nặng
Đây bài thơ không tiếng của đêm tơ.
Trăng gây vàng, vàng gây lên sắc trắng
Của hồn thu đi lạc ở trong mơ…
(Mộng cầm ca)
Một mùi hương rất đặc biệt là Hương thơm của da thịt của người con gái Nàng là hương hay nhan sắc lên hương, Hương da thịt còn thơm hơn chất xạ (Lõa thể), một mùi thơm quyến rũ: Tôi uống trọn cặp môi hường thơm phức (Chân):
Có cặp lông mày phớt ráng đêm
Dậy như men rượu gợi mơ thèm
Có gì uyển chuyển trên da thịt
Nức một đường thơm một điệu êm
(Châu)
Hay:
Gió thiệt đa tình hôn mặt hoa
Thơm tho da thịt bắt say ngà
(Hiện hình)
Những cặp môi cười gươm sắc lẹm
Chóa lên không khí dội hương vang.
(Mộng lạ)
Điều đặc biệt là, mùi hương ấy vang xa chứ không bay xa: dội hương vang. Đây lại là một kiểu tư duy lạ của Bích Khê. Không chỉ có vậy, lời nói cũng nức ra hơi hương, mỗi cái liếc yêu cũng phảng phất mùi hương, đến cả hồn tôi cũng như đỉnh hương… Có thể nói, thiên nhiên, vũ trụ mở ra trước mắt Bích Khê, đâu đâu cũng ngây ngất mùi hương.
 Song, cái chết cũng có mùi thơm thì quả là chỉ có ở thế giới tượng trưng trong thơ Bích Khê: thế giới của Sọ người, Nấm mộ
Ôi khối mộng của hồn thơ chếnh choáng!
Ôi buồng xuân hơ hớ cánh đào sương!
Ôi bình vàng! ôi chén ngọc đầy hương!
Ôi hồ nguyệt đọng nhiều trăng lấp loáng!
Ôi thần tình! Người chứa một trời thương.
(Sọ người) 
Một đêm vàng – một đêm vàng âm điệu
Đầy nhựa thơm, xanh mịt ngàn phi lau
Mộng ngời lên bay đến một bến tàu –
Biển ngọc bích, thuyền buồm say sóng dịu;
Hương ngọt ngào, ánh sáng chớp mau mau.
(Nấm mộ)
Nhạc điệu du dương
Đặc điểm nổi bật của thơ tượng trưng là đề cao tính nhạc. Thơ phải gắn chặt với âm nhạc, phải gợi chứ không vẽ các đường nét, hình thể. Nghĩa là thơ không cần có hình tượng rõ nét, và được quan niệm như một bản hòa âm huyền ảo. Mỗi từ trong thơ phải gắn liền với một nốt nhạc. Mỗi bài thơ phải là một bản nhạc. Với Bích Khê, điệu nhạc của những vần thơ, những lời ca man dại được thi sĩ rút tỉa ra từ chính thiên nhiên:
Hỡi lời ca man dại
Điệu nhạc thở hơi rừng
(Xuân tượng trưng)
Bích Khê đặc biệt đam mê âm nhạc và âm nhạc đã trở thành nét chủ đạo trong bản giao hưởng thơ tuyệt vời của ông. Âm nhạc với những biến tấu kỳ ảo của nó đã tạo nên một giọng điệu riêng trong thơ Bích Khê. Âm nhạc, với Bích Khê, không chỉ nghe bằng thính giác mà còn có thể cảm nhận bằng mọi giác quan. Sự tương giao cảm giác này là một sáng tạo độc đáo của thơ Bích Khê. Bằng thơ, Bích Khê đã đưa người đọc đến với một không gian âm nhạc giàu có với những giai điệu lung linh, với những biến hóa kỳ ảo. Giai điệu ấy có thể là hương thơm, là màu sắc:
Ô! Nắng vàng thơm… rung rinh điệu ngọc,
Những cánh hồng đơm, – những cánh hồng đơm…      
Nhạc gây hoa mộng, nhạc ngát trong mây
Nhạc lên cung hường, nhạc vô đào động,
Ô nàng tiên nương! – hớp nhạc đầy hương.
(Nhạc)
Là đường nét với những điệu ca thần diệu vẳng đưa lên qua hình ảnh cung thiềm vắt vẻo cài lên mây (Nghê thường) bay bổng, lãng mạn và tình tứ với cái hé môi quyến rũ của người con gái có đôi môi mọng ngọt:
Nường hé môi ra. Bay điệu nhạc
Mát như xuân và ngọt tợ hương.
(Hiện hình)
Đó là giai điệu của tình yêu với những cung bậc khác nhau của cảm giác được diễn tả thật tinh tế:
Cây đàn yêu đương làm bằng thơ
Dây đàn yêu đương run trong mơ
(Tỳ bà)
Tại sao hầu như bài thơ nào của Bích Khê cũng có tiếng nhạc? Bởi cả thiên nhiên đầy ắp nhạc: Nhạc thiên nhiên nhạc đầy pha lê (Lên Kim Tinh). Giai điệu của âm nhạc là hơi thở, là nhịp đập của con tim nhà thơ Bích Khê và với sự nhạy cảm tuyệt vời, nhà thơ đã sáng tạo nên những giai điệu đẹp cho thơ, làm nên những hình ảnh mới lạ độc đáo, làm nên âm nhạc – thơ mang tên Bích Khê:
Ròng âm nhạc của lòng trai ấp mái
Người họa điệu với thiên nhiên ân ái
(Duy tân)
Cái độc đáo trong tư duy nghệ thuật của Bích Khê là khi ông lấy một hình ảnh vừa cụ thể vừa trừu tượng lòng trai ấp mái nói về một hình ảnh cũng vừa cụ thể vừa trừu tượng là âm nhạc, để rồi từ đó đọc ra bản hòa ca tuyệt diệu của cuộc sống: Người họa điệu với thiên nhiên ân ái:
Thơ bay; thơ bay vô bàn tay ngà,
Thơ ngà ngà say! thơ ngà ngà say!
Nàng ơi đừng động… có nhạc trong giây
Nhạc gây hoa mộng, nhạc ngát trong mây,
Nhạc lên cung hường, nhạc vô đào động,
Ô nàng tiên nương! Hớp nhạc đầy hương
(Nhạc)
Những vật liệu kiến tạo thế giới tượng trưng trong thơ Bích Khê được thể hiện ở những vật liệu được nhận biết bằng ngũ quan thể hiện rõ ở những câu thơ tương hợp. Câu thơ tương hợp là loại hình câu thơ hàm chứa nhiều phạm trù khác nhau của cuộc sống. Loại hình câu thơ này là kết quả của quá trình ảnh hưởng thuyết tương hợp của chủ nghĩa tượng trưng. Trước hết là câu thơ thể hiện sự tương hợp giữa các giác quan, chẳng hạn như trong câu thơ: Cây du dương lâu đài song sóng. Để viết được câu thơ này, Bích Khê đã sử dụng cả thị giác và thính giác: vừa thấy lại vừa nghe, thấy cây giống lâu đài song sóng, nghe cây phát nhạc du dương. Vì vậy mà cái được biểu đạt của khái niệm “cây” có khả năng đánh thức cùng một lúc thị giác và thính giác người đọc.
Trong bài thơ Tranh lõa thể, Bích Khê viết:
Dáng tầm xuân uốn trong tranh Tố Nữ,
Ô tiên nương! nàng lại ngự nơi nầy?
Nàng ở mô? Xiêm áo bỏ đâu đây?
Đến triển lãm cả tấm thân
Nàng là tuyết hay da nàng tuyết điểm
Nàng là hương hay nhan sắc lên hương?
(Tranh lõa thể)
Đó là sự tương hợp giữa các giác quan – cả thị giác, thính giác, vị giác, xúc giác, khứu giác – cũng chính là sự tương hợp giữa các đối tượng của chúng. Do đó mà âm thanh, màu sắc, hương thơm, cơ thể… có thể hòa hợp trong một thực thể. Đối tượng phản ảnh của thơ ca được hiện lên nhiều chiều, nhiều sắc thái, câu thơ lúc đó trở nên sống động và quá trình tri giác nghệ thuật cũng trở nên phong phú và hấp dẫn.
Trong phần tìm hiểu những vật liệu kiến tạo thế giới tượng trưng trong thơ Bích Khê được nhận biết bằng ngũ quan, luận văn có chia ra làm hai mục sắc màu – âm thanh và nhạc điệu, song sự phân chia đó chỉ là tương đối bởi cả ba vật liệu kiến tạo nên thế giới tượng trưng trong thơ Bích Khê được nhận biết bằng ngũ quan đó luôn quấn quýt, đan xen, kết hợp với nhau, thậm chí hòa tan vào nhau mà thành hình tượng thơ tượng trưng của Bích Khê:
Tiếng ngọc, màu trăng quấn quýt nường
Phút giây người lộ mỏng như sương.
– Nường tan ra nhạc? – tan ra nhạc!
Khung trắng trời mây trắng lạ thường!
(Hiện hình)
Hầu như các nhà nghiên cứu đều nhận xét, tính nhạc là điểm nổi bật trong thơ Bích Khê, ở khắp các trang thơ Bích Khê đều vang lên những giai điệu phong phú đến không ngờ. Về tính nhạc trong thơ Bích Khê, luận văn sẽ trở lại ở mục 1 của chương 3 với sự tìm hiểu kỹ hơn về một quan niệm mới của Bích Khê về nhạc của thơ, trong thơ.
Bằng cái nhìn của mỹ cảm tượng trưng và có cả siêu thực, Bích Khê nhìn cuộc đời, con người và thi ca ở phía không hiện hữu và ở đó Bích Khê đã gặp Nàng Thơ của mình. Hình tượng cuộc đời thơm như sữa lúa với muôn sắc màu khoái lạc và những hương thơm thanh khiết, con người chứa một trời thương với tình yêu cuộc sống và tình yêu nghệ thuật, thi ca những rung động truyền thần với đường kiến trúc nhịp nhàng theo điệu mới và những lời thơ lóng đẹp hạt châu trong hiện lên lung linh, kỳ ảo qua tư duy nghệ thuật tinh tế và giàu sức tưởng tượng của nhà thơ. Có được như vậy là bởi Bích Khê đã tích hợp được những tinh túy của tư duy nghệ thuật phương Tây hiện đại và nền tảng tư duy nghệ thuật phương Đông truyền thống Và mới mẻ – trên cổ viện phương Đông!.
Bích Khê chủ động mở rộng biên độ của thơ, đưa cả âm nhạc, hội họa, kiến trúc, vũ điệu… vào trong thơ, khiến thơ ông không chỉ là thơ mà còn là nhạc điệu, bức tranh, lâu đài…; ngôn ngữ không chỉ là ngôn ngữ, mà còn là âm thanh, màu sắc đường nét của hội họa.
Ròng âm nhạc của lòng trai ấp mái
Hỡi hội họa đến muôn đời nức nở
Đường kiến trúc nhịp nhàng theo điệu mới
Của lời thơ lóng đẹp. Hạt châu trong…
Ngôn ngữ lúc này không chỉ là một phương tiện mà trở thành cứu cánh của thơ nhờ vẻ đẹp của sự giao thoa của các loại hình nghệ thuật. Như vậy, có thể nói, tiềm năng tượng trưng của những vật liệu được nhận biết bằng ngũ quan để kiến tạo thế giới tượng trưng trong thơ Bích Khê là vô cùng rộng mở, có thể tới vô hạn.
Điều cần lưu ý về cái “sự học” ở Bích Khê là: sách vở và kiến thức đông tây cổ kim tất nhiên là có, và rất nhiều, nhưng đến một lúc nào đó, cái khối tri thức khổng lồ đó, đã ẩn mình nhường chỗ cho một linh giác lạ thường, làm bừng nở ra những bông ánh sáng – đó là những đóa hoa thần dị – thơ Bích Khê.
Những vật liệu được nhận biết bằng trực giác
Xác – thịt – linh – hồn
Vai trò chủ đạo trong nhận thức và sáng tác nghệ thuật của chủ nghĩa tượng trưng là trực giác – đó là sự bừng ngộ thần bí, với sự khải thị, với trạng thái kích động cao. Và lần đầu tiên trong lịch sử thơ ca, chủ nghĩa tượng trưng đã “thơ hóa” cả cái xấu và cái ác – đó là tập thơ Những bông hoa ác của nhà thơ tượng trưng Pháp Baudelaire.
Chủ nghĩa tượng trưng xem thế giới hữu hình chỉ là hình ảnh, là cái bóng, là tượng trưng cho một thế giới mà ta không nhìn thấy được. Cái thế giới không nhìn thấy được đó mới chính là bản thể của thế giới. Cho nên, nhà thơ phải đến với cuộc sống bằng trực giác vì chỉ có trực giác mới tìm ra cái bí ẩn nằm sau thế giới hữu hình, mới nhìn thấy thế giới đích thực là cái thế giới bí ẩn nằm sau thế giới hữu hình không nhìn thấy ấy.
Nói về khả năng trực giác của Bích Khê, Hàn Mặc Tử trong Lời tựa Tinh huyết đã viết: “Trực giác của thi sĩ mạnh quá đến nỗi thấy nhan sắc lên hương, thấy cả sóng nghê thường đương nao nao gợn, và so sánh hai hàng nước mắt trong trắng của nàng là hai chiếc đũa ngọc. Và thấy mái tóc u huyền xinh như một mùa thu mươn mướt, thi nhân bảo đấy là đêm đang ngủ mơ…”. Nói về khả năng trực giác của một nhà thơ cũng có nghĩa là nhà thơ ấy đã thể hiện mình trong sự tương giao với thiên nhiên, vũ trụ như thế nào? Bài thơ Hiện hình  trong Tinh huyết của Bích Khê thể hiện rõ sự tương giao giữa “con người tượng trưng” của Bích Khê và thế giới.
Thơ Bích Khê rất hay nói đến xác thịt của con người, đến nỗi người ta có thể nói tới một thứ “ngôn ngữ thân xác” trong thơ ông. Xác thịt ở đây không phải là xác thịt trần tục mà là xác thịt có dáng dấp của một cái biểu đạt. Và chính bởi vậy, nó đã trở thành một trong những nguồn vật liệu thiết yếu kiến trúc nên thế giới tượng trưng của Bích Khê. Dĩ nhiên, để không nhìn xác thịt chỉ là xác thịt, người ta phải có con mắt riêng, như Bích Khê. Xác thịt, theo con mắt đó, là xác – thịt – linh – hồn. Nhờ vật liệu này, Bích Khê dễ dàng thể hiện được những tương giao.
Trong Hiện hình, trước tiên là sự tương giao giữa vũ trụ và con người  Gió đa tình hôn, Gió đi chới với, mặt hoa thơm tho mùi thịt, người thiếu nữ hiện trong trăng, da thịt ý tuyết băng, mát như xuân, người lộ mỏng như sương, khung trắng trời mây trắng.
Tiếp đó là sự tương giao giữa các giác quan: thơm tho mùi thịt, da thịt phô bày, ngọt tợ hương, rào rạt nỗi cảm thương.
Rồi đến sự tương giao về màu sắc: khung trắng, khăn hồng, màu trăng, mây trắng…
Nhưng tới đây, ta cũng chỉ mới thấy sự tương hợp này bằng trực cảm. Nếu bằng trực giác thì ta sẽ tìm ra sự tương ứng khó lòng mà phân biệt rạch ròi. Đó là một sự tương giao tổng thể. Tương giao giữa thiên nhiên, con người, thơ, họa và nhạc, hương, vị… và cả mọi giác quan:
– Gió đi chới với trong khung trắng
Lộ nửa vần thơ nửa điệu ca
– Nàng hé môi ra. Bay điệu nhạc
Mát như xuân mà ngọt tợ hương,
– Rào rạt như nỗi cảm thương
Tiếng nhạc màu trăng quấn quýt nường
- Nàng tan ra nhạc? Tan ra nhạc!
Khung trắng trời mây trắng lạ thường…
Đó là sự tương giao chồng chéo, quấn quýt với nhau không dễ tách bạch.
Sự hòa điệu
Theo con mắt trần tục, khó có thể quan niệm được rằng sự hòa điệu là một vật liệu kiến tạo nên thế giới tượng trưng của Bích Khê. Nhưng nếu hiểu rằng thơ ca nói riêng, nghệ thuật nói chung chỉ là một thế giới giả tưởng và mối liên hệ giữa các sự vật trong thế giới đó không hề mang tính tất yếu, một khi các sự vật đó bị đánh đồng với “nguyên mẫu” vốn tồn tại trong thế giới khách quan, thì ta dễ dàng chấp nhận: hòa điệu cũng là một vật liệu – một vật liệu chỉ có thể được nhận biết bằng trực giác.
Các nhà nghiên cứu thơ Bích Khê dường như đều gặp nhau ở nhận định: thơ tượng trưng của Bích Khê gợi lên sự tương ứng giữa hương thơm, màu sắc, âm thanh. Ở những bài thơ như Mộng cầm ca, Tỳ bà, Nhạc, Thi vị, Hiện hình… khó có thể tách bạch đâu là hương thơm, màu sắc, âm thanh bởi tất cả đã tạo nên một sự hòa hợp, tương ứng dệt nên những hình ảnh, điệp ngữ, liên tưởng trùng phức đầy ám gợi và mê hoặc:
Cả không gian là bể sáng tràn lan…
(Đồ mi hoa)
Đường kiến trúc nhịp nhàng theo điệu mới
Của lời thơ lóng đẹp. Hạt châu trong.
(Duy tân)
Nguyên lý chi phối bút pháp cách tân trong thơ Bích Khê là đi tìm “cái thống nhất của hỗn độn”. Bích Khê đã điều khiển những con chữ một cách tài tình, đưa ngôn ngữ thơ đến cuộc hôn phối thần kỳ, cuộc hòa điệu ngoạn mục với những bộ môn nghệ thuật khác.
Quan niệm về thơ, Bích Khê cho rằng, thơ phải là nhạc, là họa, là điêu khắc, là nhiếp ảnh, là vũ đạo, là tổ hợp của nhiều lĩnh vực nghệ thuật. Thơ phải là một hỗn độn đẹp xô bồ say dậy. Duy tân là bài thơ Bích Khê nói lên đầy đủ nhất ý tưởng ấy của ông. Bích Khê không muốn thơ chỉ là tiếng nói một chiều của cảm xúc, ông muốn thơ phải mang đến cho người đọc những rung động thẩm mỹ đa chiều.
Nếu như ở bài Hiện hình, sự tương giao tổng thể kia dựa trên cái phông nền là màu trắng thì ở bài Tỳ bà là màu vàng, và hiệu quả nghệ thuật của màu vàng xem ra còn mạnh hơn. Bích Khê, bằng trực giác của mình như là đã quên đi mọi hình ảnh cụ thể sinh động của thiên nhiên mùa thu mà đi vào phía tiềm ẩn của mùa thu tượng trưng để tiến đến sự hiển hiện một biểu tượng “vàng” trực giác bằng ý niệm:
Ô! hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! Vàng rơi! Thu mênh mông
Ta không hề thấy ở đây một hình ảnh cụ thể nào của mùa thu trong thiên nhiên nhưng tâm trí thì như đang bay lượn trong mùa thu tượng trưng ngợp vàng, mênh mang… bởi chỉ có hình ảnh “cây ngô đồng”, nhưng cái cây ấy đã bị bao trùm bởi nỗi buồn vương như là đã xóa nhòa mất chính nó, chỉ còn có ý niệm “buồn”. Và Vàng rơi! Vàng rơi! chính là trực giác tượng trưng chỉ biết có “Vàng”. Vàng rơi và rơi liên tục, cấp tập từ hư không những vàng là vàng, và vì thế nên thu mênh mông trở thành thu mơ hồ trong ý niệm – mùa thu trong thiên nhiên đã trở thành mùa thu tượng trưng:
Vàng sao nằm im trên hoa gầy
Tương tư người xưa thôi qua đây
Ôi ! nàng năm xưa quên lời thề
Hoa vừa đưa hương gây đê mê
Tôi qua tim nàng vay du dương
Tôi mang lên lầu lên cung Thương
Tôi không bao giờ thôi yêu nàng
Tình tang tôi nghe như tình lang
Yêu nàng bao nhiêu trong lòng tôi
Yêu nàng bao nhiêu trên đôi môi
Đâu tìm Đào Nguyên cho xa xôi
Đào Nguyên trong lòng nàng đây thôi
Buồn lưu cây đào xin hơi xuân
Buồn sang cây tùng thăm đông quân
Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! Vàng rơi: Thu mênh mông
(Tỳ bà)
Không chỉ ở hai bài thơ Hiện hình và Tỳ bà vừa dẫn trên ta mới thấy tiềm năng tượng trưng của những vật liệu chỉ được nhận biết bằng trực giác. Ở nhiều bài khác, loại vật liệu này cũng được Bích Khê sử dụng rất có hiệu quả. Nói đến chúng thực chất cũng là nói đến sức mạnh của trực giác trong thơ, cụ thể ở đây là sức mạnh của trực giác trong hoạt động làm thơ của Bích Khê. Nếu không có một khả năng trực giác mạnh mẽ không thể sáng tạo được những câu thơ giàu nhạc tính và cũng lung linh sắc màu, vô cùng sống động như trong bài Nghê thường:
Ô trời hôm nay sao mà xanh!
Ngọc trăng xây vàng trên muôn cành,
Nhung mây tê ngời sao kim cương,
Dạ lan tê ngời say men hương;
Lầu ai ánh gì như lưu ly?
Nụ cười ai trắng như hoa lê?
Thủy tinh ai để lòng gương hồ?
Không gian xà cừ hay san hô?
Và khi năng lực trực giác mạnh mẽ đó của Bích Khê gặp được chân lý ngời ra như lưỡi kiếm, khi tình yêu của Bích Khê xô dồn sang cực điểm thì thơ của chàng sẽ tỏa hào quang trong cái cảnh tượng thần tiên Và hào quang khiêu vũ với hào quang:
Nàng! nàng! nàng! không có nữa châu thân
Xác là mộng mà tình là tuyệt đích
Hỡi không gian! hãy tan ra tiếng địch
Của lòng yêu ca ngợi tuyệt vời cao
Hỡi trần gian! hãy chết ngột trong sao
Cho chân lý ngời ra như lưỡi kiếm
Cho tình ta xô dồn sang cực điểm
Và hào quang khiêu vũ với hào quang…
(Nàng bước tới)
Nhà nghiên cứu Phạm Thị Như Thúy (Doãn Thụy Như)
Những vật liệu được nhận ra nhờ cách đọc liên văn bản
Đọc Bích Khê, ai cũng dễ dàng nhận thấy rằng ông là người có sức đọc rất ghê và có vốn văn hóa thơ thâm hậu. Ông am hiểu thơ Đường, thơ trữ tình cổ điển Việt Nam và dĩ nhiên là rất “thạo” thơ Pháp thuộc các trường phái lãng mạn, tượng trưng và siêu thực… Vì lẽ đó, theo cách đọc liên văn bản, ta nhận ra trong thơ ông rất nhiều vật liệu được “chuyển về” từ thơ Đường, Truyện Kiều, Chinh phụ ngâm, thơ Hồ Xuân Hương, thơ Baudelaire, Verlaine, Mallarmé… Ở phần viết dưới đây, chúng tôi chỉ xin nói về các vật liệu lấy từ thơ tượng trưng và thơ siêu thực Pháp.
Vật liệu lấy từ thơ tượng trưng Pháp
Khi các nhà thơ của Phong trào Thơ mới Việt Nam (1932 – 1945) còn chưa hết say đắm với chủ nghĩa lãng mạn thì chủ nghĩa tượng trưng phương Tây đã gần đi hết con đường của nó. Tuy nhiên, do nhận thức nhạy bén với những trào lưu hiện đại của nghệ thuật phương Tây, Bích Khê đã nhanh chóng tiếp cận và học hỏi được rất nhiều ở chủ nghĩa tượng trưng, trong khi vẫn còn một chân đứng trên chủ nghĩa lãng mạn.
Bích Khê gọi Baudelaire là “vua thi sĩ”, vì ông đã học được bao nhiêu mùi thi vị ở tác giả Những bông hoa ác:
Có những mùi hương mát như da thịt trẻ con
Êm nhẹ như tiếng sáo, xanh mướt như cỏ non
Và những mùi hương oanh liệt, phong phú và trụy lạc
– Tỏa khắp không gian như những cái vô hạn, vô cùng
Như nhựa thơm, như xạ, như hương trầm
Hát ca những khoái lạc của tinh thần và thể xác
(Bản dịch của Vũ Đình Liên)
Và Bích Khê muốn phà hơi lên cho mùi thi vị đó từ Baudelaire truyền nhiễm thấu trần ai (Ăn mày). Sự ảnh hưởng từ Baudelaire đến Bích Khê là rất rõ.
Hàn Mặc Tử gọi Bích Khê là “thi sĩ thần linh”. Ông cho rằng thơ Bích Khê ở tập Tinh huyết có ba tính cách: 1) Thơ tượng trưng, 2) Thơ huyền diệu, và 3) Thơ trụy lạc. Nhận xét về thơ trụy lạc của bạn mình. Hàn Mặc Tử viết: “Ở địa hạt dâm cuồng này, ta thấy thi sĩ Bích Khê hoàn toàn là Baudelaire. Vì trong tác phẩm chàng, gợi dục tình thì ít, mà làm cho người ta ghê rợn đến gớm guốc cái cảnh trần truồng khả ố thì nhiều”.
Mai Bá Ẩn nhận xét khá chính xác về thơ tượng trưng của Bích Khê: “Tính chất uẩn khúc, huyền ảo, siêu thực trong thơ tượng trưng đã được Bích Khê thể hiện qua hàng loạt các bài thơ trong tập thơ Tinh huyết (Duy Tân, Tranh loã thể, Giờ trút linh hồn). Có thể nói “hình ảnh Rimbaud, cú pháp Mallarmé, kiến trúc và triết lý của Valéry” đã tạo dựng cho Bích khê một thứ “thơ vàng ròng” đậm tính tượng trưng… Ba yếu tố tượng trưng, huyền diệu, trụy lạc của tập thơ Tinh huyết đã làm cho Bích Khê trở thành một cây bút khác hẳn với khuynh hướng lãng mạn”.
Vật liệu lấy từ thơ siêu thực Pháp
Bích Khê không chỉ học được ở thơ tượng trưng mà còn tiếp thu được nhiều cái mới trong thơ siêu thực, lối thơ chỉ tin cậy ở trực giác. Chủ nghĩa siêu thực là một trào lưu văn học và nghệ thuật ở thế kỷ XX, bắt đầu ở Paris và được nhà thơ người Pháp Breton viết tuyên ngôn vào năm 1924. Chủ nghĩa siêu thực cố gắng diễn tả tiềm thức bằng các trình bày các vật thể và sự việc như được thấy trong những giấc mơ. Siêu thực là một khuynh hướng nghệ thuật lớn bao trùm nhiều loại hình của nghệ thuật. Bắt đầu từ thơ, siêu thực lan tới hội họa rồi tiếp đến điện ảnh, tiểu thuyết. Thuật ngữ chủ nghĩa siêu thực được nhà thơ Apollinaire dùng trong tác phẩm của mình vào năm 1917. Sau tuyên ngôn năm 1924, thuật ngữ này được sử dụng rộng rãi trong văn học và nghệ thuật. Những nguyên tắc mỹ học của chủ nghĩa siêu thực là: hướng về thế giới vô thức của con người – đó là một lĩnh vực vô hạn đối với sự sáng tạo nghệ thuật. Đề cao cái ngẫu hứng, những cái xuất hiện lướt qua trong đầu, không qua sự kiểm soát của lý trí. Vứt bỏ sự phân tích logic, chỉ tin cậy ở trực giác, giấc mơ, ảo giác, ở những linh cảm bản năng và sự tiên tri. Hướng tới sự hồn nhiên trong suy nghĩ như trẻ thơ, tới trạng thái mê sảng, tới những ảo giác mộc mạc của người nguyên thủy và nền nghệ thuật cổ sơ của họ. Chủ nghĩa siêu thực chủ trương thơ ca phải được tuôn trào tự do, không cần tuân thủ các quy định về câu cú, đề cao sự liên tưởng tự do. Về cơ bản, chủ nghĩa siêu thực chống sự tầm thường của chủ nghĩa hiện thực.
Giữa các nhà thơ tượng trưng và các nhà thơ siêu thực tương đồng với nhau ở điểm chính là thơ không tả cảnh, tả tình, thơ phải khám phá nội tâm, diễn đạt những tác động vô hình vào tâm trạng. Thơ siêu thực đi sâu phản ảnh tiếng nói của thâm tâm (vô thức, tiềm thức và ý thức). Vì thế, việc Bích Khê đi nhanh từ tượng trưng sang siêu thực không những không gặp trở ngại gì mà rất thuận đường!
Nhà phê bình văn học Thụy Khuê đã nhận xét: Thơ Bích Khê là sự giao lưu giữa thơ cổ và thơ hiện đại, trong một kiến trúc nghệ thuật âm nhạc và hội họa. Đặc biệt trong lối tạo hình, ông đã sử dụng một phương pháp mới, lúc ấy chưa thịnh hành ở Việt Nam: phương pháp cắt dán (collage). Hình ảnh trong thơ Bích Khê là sự cát dán lắp ghép, hình ảnh trong thơ Hàn Mặc Tử là tưởng tượng, vì vậy khi nhìn bề ngoài có vẻ giống nhau nhưng thật ra rất khác: thơ Bích Khê “mới” hơn Hàn Mặc Tử, vì Bích Khê tiếp nhận thêm được những kiến thức siêu thực, mà Hàn Mặc Tử chưa kịp tiếp thu, đã mất (23).
Phong cách siêu thực trong thơ Bích Khê xảy ra ở cả mức độ chữ, lẫn câu: Bích Khê không chỉ để hai hình ảnh khác nhau cạnh nhau, mà còn để hai câu thơ hoàn toàn khác nhau cạnh nhau, như: Vàng sao nằm im trên hoa gầy/ Tương tư người xưa thôi qua đây. Câu trên là một câu mô tả sự khăng khít xác thịt: Vàng sao nằm im trên hoa gầy. Câu dưới: Tương tư người xưa thôi qua đây, mô tả sự tan vỡ, nói đúng ra là, vừa đang yêu: tương tư vừa tan vỡ: người xưa thôi qua đây. Bích Khê đã đảo lộn trật tự thời gian sống, để tạo một nghịch cảnh, nghịch
(23) C.Đơ-li-nhi, M.Rut-xơ-lô (1998), Văn học Pháp (Trịnh Thu Hồng, Đỗ Phương Mai dịch), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
lý mới: thường thì người ta tương tư, rồi khăng khít và sau cùng mới lìa nhau, đằng này, người ta khăng khít trước, rồi mới tương tư, rồi xa nhau.
Cũng theo Thụy Khê, Tỳ bà là một trong những bài thơ đầu tiên của Việt Nam có cấu trúc gián đoạn: Bích Khê dán những chữ không liên lạc gì với nhau cạnh nhau, dán những câu không liên lạc với nhau lại gần nhau, để tạo ra những hình ảnh hoàn toàn siêu thực: tay – đêm, giăng – mền, trăng – đan, mây – nhung, thuyền – hồn…
Nàng ơi! Tay đêm đang giăng mền
Trăng đan qua cành muôn tay êm
Mây nhung phơi màu thu trên trời
Sương lam phơi màu thu muôn nơi
Cây đàn yêu đương làm bằng thơ
Dây đàn yêu đương run trong mơ
Hồn về trên môi kêu: em ơi
Thuyền hồn không đi lên chơi vơi
Thu ôm muôn hồn chơi phiêu diêu
Sao tôi không màng kêu: em yêu
Trăng nay không nàng như trăng thiu
Đêm nay không nàng như đêm hiu.
(Tỳ bà)
Mỗi câu thơ của Bích Khê là một sự đứt đoạn: Bích Khê là nhà thơ tiên phong, đã đi trước thời đại, thể hiện sự đứt đoạn trong không gian và trong tâm hồn. Sự đứt đoạn của đời sống là một trong những khám phá của nghệ thuật hiện đại trong toàn bộ thơ, văn, nhạc, họa, từ đầu thế kỷ XX. Bởi mỗi ý nghĩ của chúng ta là một đứt đoạn, mỗi hình ảnh chúng ta nhìn thấy trong đời sống là một đứt đoạn.
Sự tiếp nhận, học hỏi ở chủ nghĩa tượng trưng rồi tiếp theo là chủ nghĩa siêu thực của Bích Khê đã là yếu tố quan trọng hàng đầu để thơ Bích Khê có những đột phá hoàn toàn mới trong khát vọng “Duy tân” thơ của mình và đã trở thành “một đỉnh núi lạ” của thời kỳ Thơ mới 1930 – 1945, và điều quan trọng hơn: Bích Khê là nhà thơ đi trước thời đại. Đó chính là điều mà nhà phê bình Hoài Thanh còn nhiều băn khoăn khi phê bình thơ Bích Khê và ông đã phải thừa nhận rằng đọc thơ Bích Khê một lần coi như chưa đọc. Tuy nhiên, Hoài Thanh cũng đã trích được một đoạn trong bài Tranh lõa thể để gọi đó là “những câu thơ hay vào bực nhất trong thơ Việt Nam”:
Dáng tầm xuân uốn trong tranh Tố nữ
Ồ tiên nương! Nàng lại ngự nơi này?
Nàng ở mô? Xiêm áo bỏ đâu đây?
Đến triển lãm cả tấm thân kiều diễm.
Nàng là tuyết hay da nàng tuyết điểm?
Nàng là hương hay nhan sắc lên hương?
Mắt ngời châu rung ánh sáng nghê thường;
Lệ tích lại sắp tuôn hàng đũa ngọc
Đêm u huyền ngủ mơ trên mái tóc
Vài chút trăng say đọng ở làn môi.
Điều cần lưu ý về cái “sự học” ở Bích Khê là: sách vở và kiến thức đông tây cổ kim tất nhiên là có, và rất nhiều, nhưng đến một lúc nào đó, cái khối tri thức khổng lồ đó, đã ẩn mình nhường chỗ cho một linh giác lạ thường, làm bừng nở ra những bông ánh sáng – đó là những đóa hoa thần dị – thơ Bích Khê.
15/12/2019
Phạm Thị Như Thúy
Theo https://vanhocsaigon.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Đi về phía mặt trời

Đi về phía mặt trời LỜI GIỚI THIỆU Mặt trời phía trước. Ánh sáng như nguồn sống cho số phận người đàn bà khi rơi vào ngã rẽ không mong đợi...