“Cho tôi ly nữa”… Một mảnh chân dung tinh thần tự họa của Nguyễn Bính
Nếu như “Chân quê” được xem như là một tuyên ngôn nghệ
thuật của Nguyễn Bính, thì trên một ý nghĩa nào đó, cũng có thể xem “Cho
tôi ly nữa” như một mảnh chân dung tinh thần tự họa của ông. Dù chỉ một mảnh,
nó cũng giúp ta phần nào nhận biết tính cách cùng lý tưởng sống,
lý tưởng thẩm mỹ của tác giả “Tâm hồn tôi”. Vậy hãy xem cái chân dung tinh thần
ấy được Nguyễn Bính khắc họa trong thơ ra sao? Cũng rất thú vị nếu ta
thử so thơ ông và cuộc đời ông sau này với cái mảnh chân dung tinh thần tự họa ở
tuổi mười tám đôi mươi ấy.
Cho tôi ly nữa
Chả biết là yêu hay chả yêu
Tình cô bán rượu sớm, trưa, chiều
Tôi ưa say lắm, nhưng nghèo lắm
Có được bao nhiêu mua bấy nhiêu
Cô bán cho tôi ly rượu nhỏ
Của người ẩn sĩ trốn giàu sang
Tôi say mơ thấy trăm vườn cúc
Một sáng mùa xuân mở cánh vàng
Hãy chuốc cho tôi ly rượu nữa
Của người cuồng sĩ ghét công danh
Tôi say mơ thấy đời đen trắng
Bụi đỏ… Ai người đôi mắt xanh
Hãy chuốc cho tôi ly nhỏ nữa
Của người thi sĩ trọ Tràng Yên
Tôi say mơ thấy vì tiên trích
Vua gọi mà không chịu xuống thuyền
Cho tôi ly nữa, thêm ly nữa
Uống thực say rồi nhớ cố nhân
Rồi nếu tiền tôi không đủ trả
Lo gì, tôi có áo mùa xuân
Đừng lo, cô nhé, tôi giàu lắm
Này áo khinh cừu, ngựa ngũ hoa
Mất hết ngàn vàng tôi lại có
Cho tôi ly nữa để tôi ca.
Bài thơ “Cho tôi ly nữa” được đăng trên báo “Tiểu thuyết
thứ Năm”, sau in trong tập “Tâm hồn tôi” (nhà in Lê Cường -1940) – tập thơ
được Tự Lực văn đoàn trao giải khuyến khích năm 1937. Không biết rõ bài thơ ra
đời trong trường hợp nào, ở đâu, song có lẽ được viết vào năm Nguyễn Bính khoảng
dưới hai mươi tuổi. Bài thơ này đã hé mở ra một mạch thơ mới – mạch bi tráng
xen bi phẫn, bên cạnh mạch chủ đạo đồng quê, tình quê trong sáng song có phảng
phất ít nhiều bi lụy. Mạch này sẽ ngày một mở rộng, nhấn đậm thêm, kể từ ngày
ông hành phương Nam, và nhất là khi lăn lóc đã dư mười mấy tỉnh.
Nhà thơ Nguyễn Bính (1918-1966) qua nét vẽ của họa sĩ Tạ Tỵ
“Cho tôi ly nữa”, như tên của bài thơ, đã tự nói lên rằng tác
giả uống rượu và… say rượu. Thơ về rượu cổ kim, đông tây, có đến cả rừng. Biết
bao thi sĩ đã say rượu, nát rượu, thân bại danh hoại vì rượu, song số bất tử nhờ
rượu cũng không ít. Lý Bạch, vị chủ soái của Đường thi, trong cơn chếnh choáng
đã bất chấp tất cả khi tuyên ngôn rằng “Cổ lai thánh hiền giai tịch mịch/
Duy hữu ẩm giả lưu kỳ danh”. Nguyễn Bính không phải là Lý Bạch, song trong
trên bước giang hồ rượu đã giúp ông giải sầu, và hơn thế đã là “bà đỡ” để ông
cho ra những vần thơ cảm hoài, bi thống. Trong số thơ rượu hoặc có mùi rượu,
thì “Cho tôi ly nữa”, là bài thơ rất đáng lưu ý, vì nó thuộc lọai “thi ngôn
chí”, tức là thơ để bày tỏ chí hướng, hoài bão, lý tưởng của nhà thơ. Đồng thời,
bài thơ này cũng cho thấy con nhà Nho cũ Nguyễn Bính đã thông thuộc
và vận dụng “điển tích Tàu” nhuần nhuyễn và đặc sắc như thế nào.
Bài thơ bắt đầu bằng: “Chẳng biết là yêu hay chẳng yêu/
Tình cô bán rượu sáng trưa chiều”. Tác giả như lúng túng, không gọi rõ ra được
tình cảm của mình với “cô bán rượu” nên mới nói là “yêu hay chẳng yêu”.
Người đọc băn khoăn không rõ là “sáng trưa chiều” có quan hệ như thế nào với
“tình cô bán rượu”. Hay là ông hay ra quán, la cà nơi quán, cả người uống cũng
như người bán đã nhẵn mặt nhau rồi, nên cũng chả cần nói rõ ra nữa? Hay là ông
“cắm” quán nhiều nay khó nói, nên cứ phải bâng quơ thế? Hoặc là ông và cô bán
rượu có tình ý với nhau nhưng rồi men tình nay đã nhạt? Theo người viết hiểu,
thì cô hàng rượu chỉ là một cô “ước lệ”, đại diện cho rất nhiều cô hàng rượu mà
ông đã gặp, đã uống trên bước giang hồ. Nguyễn Bính mượn hình ảnh cô để giãi
bày tâm trạng mình, giống như ông đã từng trải lòng với các cô lái đò nơi
bến sông quê, hay cô hái mơ chùa Hương, cô hàng xóm cạnh
nhà… Nhưng rồi đến hai câu tiếp “Tôi ưa say lắm song nghèo lắm” thì
rõ là ông trần tình hoàn cảnh mình: ưa say, thích uống, song tiền ít. Vậy thì
ông sẽ uống theo kiểu của ông “Có được bao nhiêu mua bấy nhiêu”. Uống không chỉ
để say, để quên đời mà là đủ để mình ở giữa khoảng say và tỉnh, là lơ tơ…
“mơ”, nói một cách văn vẻ là để thăng hoa. Do vậy, ly rượu ở bài thơ này không
phải là ly rượu mừng, cũng không phải là ly rượu tiễn, mà là ly rượu… mơ.
Cuộc “độc ẩm” mở ra bằng “Cô bán cho tôi ly rượu nhỏ”, và
cuộc “độc thoại” bằng thơ cũng bắt đầu khi ông nâng ly lên.
Ly đầu tiên là “của người ẩn sĩ trốn giầu sang”
… để “Tôi say mơ thấy trăm vườn cúc/ Một sáng mùa xuân mở
cánh vàng”. Hai từ “ẩn sĩ”, cùng “vườn cúc”, mà trăm vườn cúc, gợi cho ta
điều gì đây? Ở nước Tàu xưa, thì cúc là biểu tượng cho khí tiết thanh cao, lánh
mùi giầu sang, danh vọng của người quân tử, giống như tùng, trúc, mai vậy.
Cúc “lá không rụng khỏi cành, hoa không lìa khỏi thân” (diệp bất ly
chi, hoa vô lạc địa) và nhất là chịu được sương gió (cúc ngạo hàn sương). Luận
về hoa cúc, người ta thường nhắc nhớ đến Đào Tiềm, nhà thơ đời Tấn, tự Uyên Minh.
Ông tính tình phóng khoáng, không cầu cạnh lợi danh. Khi ông đang đảm nhậm chức
tri huyện ở Bành Trạch (người đương thời thường gọi ông là Đào Bành Trạch) vào
dịp cuối năm, có quan đốc bưu về kiểm tra công việc, bọn tiểu lại ở đó khuyên
ông nên ăn mặc chỉnh tề, buộc dây đai để ra tiếp. Ông bèn than rằng: “Ta há vì
năm đấu gạo mà cong lưng vòng tay thờ bọn tiểu nhân nơi ngõ xóm sao?”. Nói rồi,
nội trong ngày đó ông trả ấn từ quan hướng về làng cũ. Trên đường về ông hoàn
thành bài thơ nổi tiếng ‘‘Quy khứ lai từ’’ (Hãy về đi thôi), trong đó có hai
câu: “Tam kính tựu hoang/ Tùng cúc do tồn” (Đường ra lối nhỏ vườn
hoang/ Chen nhau tùng cúc xếp hàng đợi đây).
Đào Tiềm mê cúc, thích trồng cúc. Cứ đến ngày Trùng Dương
(ngày lễ hoa cúc 9-9), ông cùng bạn bè uống rượu, thưởng hoa, ngâm vịnh “hái
cúc dưới giậu đông, thơ thới nhìn núi Nam” (Thái cúc đông ly hạ, du nhiên
kiến Nam sơn). Có rượu mới có thơ. Lần đó, nhằm ngày Trùng Dương, ông dạo ngắm
hoa mà vì nhà nghèo không có rượu, nên ông vặt tạm hoa cúc cho lên mồm nhai
nhưng chỉ thấy vị đắng, không ra thơ, song thấy tâm hồn bỗng nhiên trở lên thơ
thới. Đang lúc buồn thì có người đem đến một bình rượu, bảo là thứ sử Giang
Châu là Vương Hoằng gửi tặng. Mừng rỡ, Đào Tiềm mở bình uống cho đến say mềm và
thơ theo rượu hòa vị cúc tuôn ra. Bắt chước ông, người ta cho thêm hoa cúc vào
trong rượu vừa để trị liệu, vừa để hưởng cái thú thanh tao của “Thu ẩm
hoàng hoa tửu”. Sau Đào Tiềm, nhiều nhà thơ Đường-Tống cũng tụng ca vẻ đẹp
hoa cúc. Vi Ứng Vật có hẳn một bài thơ “Hiệu ứng Đào Bành Trạch” (Bắt chước Đào
Bành Trạch), trong đó có những câu: “Tận túy mao thiềm hạ/ Nhất sinh khởi
tại đa” (Thềm tranh cụng chén mà say/ Sá chi thế sự đời nay chẳng màng).
“Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào” là câu thơ của
Nguyễn Khuyến trong bài “Thu vịnh” viết tại vườn Bùi, làng Yên Đổ, quê ông. Ông
“thẹn” vì đã “quy khứ” muộn hơn Uyên Minh (Đào Tiềm từ quan ở tuổi 41, khi ông
mới nhậm chức được tám tháng), còn mình thì cáo quan về vườn Bùi chốn cũ khi
đã lụ khụ. Vậy nên, nhân hứng đến khi chợt nhìn thấy mấy
chùm trước dậu hoa năm ngoái, ông đã toan cất bút nhưng rồi lại thôi.
Nguyễn Bính không có tâm trạng “thẹn” của Nguyễn Khuyến, bởi ông chẳng những
chưa từng làm quan, mà còn mơ làm quan (dẫu chỉ là làm quan trong thơ), ấy là …
quan Trạng: “Quan trạng đi chín lọng vàng/ Cờ thêu tám chữ qua làng Trang
Nghiêm”. Nhưng rồi ông sớm vỡ mộng “Chua xót lòng tôi mơ ước mãi/ Áo
bào nguyệt bạch, ngựa kim ô”. Điều thú vị là trong bài thơ “Con nhà nho
cũ” viết sau bài “Cho tôi ly nữa ít lâu”, Nguyễn Bính trách khéo Bùi Hạnh Cẩn “Cẩn
giờ không lập công danh/ Cẩn giờ lại giống Uyên Minh họ Bùi”. Chả là Bùi Hạnh
Cẩn anh họ Nguyễn Bính đã hẹn ước cùng tác giả con nhà Nho cũ làm một
chuyến hành phương Nam, nhưng mới đến xứ Thanh, thì chẳng hiểu vì lý do gì, đã
“cài số lùi” “Cắm sào sông Mã xứ Thanh/ Tôi buồn khi biết đò anh quay về”.
Cũng ở bài thơ này, Nguyễn Binh đã bộc lộ rõ quan điểm của
mình về cái gọi là “giầu sang”: “Nhà ta quý chữ như vàng/ Coi tài hơn cả
giàu sang ở đời”. Giàu sang, tức là có nhiều của cải, tiền bạc, lên xe, xuống
ngựa, thì dễ làm con người tha hóa, vì theo quan điểm của nhà Nho thì có “thanh
bần” mới “lạc đạo”. Chỉ có người giầu “chữ” của Thánh hiền, nói lời “nhân”, làm
điều “nghĩa” mới thực sự được coi là giầu sang. Văn hào H. Balzac, sống ở thời
“tư bản tiền văn minh” còn cực đoan hơn, khi viết rằng: ”Đằng sau mọi gia sản kếch sù
là một tội ác”. Nguyễn Bính, do nỗi lo cơm áo “ghì sát đất” (ý văn Nam Cao),
nên ông rất nhậy cảm với cái sự giầu nghèo. Hơn một lần, ông đã bóng gió, cạnh
khóe cái tính thực dụng của người đời: “Người ta đi lấy cái giầu sang/
Quên cả keo sơn cả đá vàng”; “Người ta đi kiếm giầu sang cả/ Mình chỉ mơ hoài
chuyện viển vông”; “ Người giam chí lớn vòng cơm áo/ Ta trí thân vào
nợ nước mây”. Có lúc phẫn chí, không dằn lòng được, ông đã cao giọng
“mắng” thế gian phàm tục rằng “Đã coi đồng bạc như non Thái/ Lại học
đòi theo thói Mạnh thường”; “Trói vo hồn lại ba đồng bạc/ Bán rẻ đời đi nửa
đấu lương”.
Nguyễn Bính “trốn giàu sang” hay “mơ giàu sang” mà không được?
Chắc sẽ có người đặt vấn đề thế. Thật khó nói. Song, cái chua xót xen cái ngạo
nghễ với đời, coi thường (chứ không dám coi khinh) đồng tiền ở Nguyễn Bính thì
đã rõ “Làm thơ mang bán cho thiên hạ/ Thiên hạ đem thơ đọ với tiền”. Chua
xót vì “Tắm trong một cái biển tiền người ta”, song ông vẫn thầm mừng cho
mình may mà “Biển tiền ôi biển bao la/ Mình không bẩn được vẫn là tay
không”. Ông còn tự ý thức rằng một khi mình đã không phụng sự cái giầu sang,
quỵ lụy đồng tiền, mà phụng sự cái “viển vông” (cái không thể quy ra tiền),
thì:“Em biết giàu sang đâu đến lượt/ Nợ đời nặng quá gỡ sao xong?”. Có một
lần, thông qua lời giối giăng với đứa con gái mới chào đời chưa từng biết mặt,
Nguyễn Bính còn tự đay nghiến cho cái kiếp thi sĩ “oan nghiệt” của mình “Nhất
kiêng đừng lấy chồng thi sĩ/ Nghèo lắm ư con, bạc lắm con”.
Vâng, thưa nhà thơ, đúng là “Châu ngọc làm sao hái
được nhiều/ Tôi là thi sĩ của thương yêu”. Muốn mình không “bẩn” được thì
phải chịu kiếp nghèo khổ. Nói như ai đó “đời phải cùng thì thơ mới hay”. Vậy đời
Nguyễn Bính có cùng không? “Hỡi ơi! Trời đất vô cùng rộng/ Nào biết tìm
đâu một mái nhà?/ Có như mắt Tịch xanh mà uổng/ Đất khách cùng đường ta
khóc ta”. Nguyễn Bính hay khóc, có lúc “không đau mà khóc”, nhất là trong chuyện
tình ái, song giọt nước mắt trong một “Đêm mưa đất khách” nơi tận cùng đất
phương Nam này, thì không phải như vậy.
Như vậy, mơ trăm vườn cúc của Nguyễn Bính là mơ được
thấy mình là một ẩn sĩ, sống thanh cao, lánh đời phàm tục như Đào Uyên Minh.
Thì cứ để ông mơ, có ai đánh thuế giấc mơ đâu!
Ly rượu thứ hai là “của người cuồng sĩ gét công danh”
Ly rượu này dành để “Tôi say mơ thấy đời đen trắng/ Bụi
đỏ ai người đôi mắt xanh”. “Mắt xanh” gợi nhớ đến Nguyễn Tịch, tự Tự Tông,
ở đầu đời Tấn, người rất hay uống rượu và giỏi đàn, thơ. Ông là loại người sống
ngạo nghễ, hào sảng, cuồng phóng. Giai thoại kể rằng, biết một nơi nọ có người
cất rượu rất ngon, trữ tới 300 hũ, ông liền xin vào làm một chức quan nhỏ ở nơi
ấy để được “nếm” chúng. Nguyễn Tịch hay say, có lần say liền hai tháng liền, đến
nỗi vua Tấn muốn nói chuyện với ông mà không được. Người đương thời cho ông là
“cuồng túy”, hay người bị bệnh “si”. Song, cũng chính nhờ rượu, và cả mượn rượu,
mà ông tránh được nhiều tai họa bảo toàn được tính mạng của mình ở cái thời nhiễu
nhương, loạn lạc.
Chán chốn quan trường, sau một thời gian ngắn chấp chính,
Nguyễn Tịch cáo quan rồi đi ngao sơn du thủy, kết bạn với những người cùng sở
thích, đồng chí hướng, làm nên nhóm “Trúc lâm thất hiền” (bảy người hiền ở rừng
trúc). Nhóm này chủ trương sống ẩn dật, tiêu dao, thả hồn vào rượu trà,
đàn hát, ngâm vịnh, lánh xa những ồn ào, lao xao nơi nhân gian, cũng như những
gian trá, lươn lẹo chốn cung đình. Thơ Nguyễn Tịch, cũng như con người
ông, tự nhiên, ít gia công mài dũa, nhưng rất phóng khoáng và thâm hậu. Sách Tấn
thư chép “Tịch giỏi văn chương, làm Vịnh hoài thi hơn 80
bài, thế gian rất trọng vọng”.
Nguyễn Tịch hay rượu, song lưu danh với đời không phải vì rượu
(về khoản này ông thua xa Lưu Linh, bạn ông, tác giả của “Tửu đức tụng”), mà ở
cách ứng xử không giống ai. Tương truyền, ông có con mắt nhìn người rất khác
thường. Khi tiếp chuyện, nếu khách là hạng quân tử, hoặc là người mình ưa, ông
nhìn bằng con mắt có tròng xanh (thanh nhãn). Khách là kẻ tiểu nhân tầm thường,
hoặc là người mình ghét, thì nhìn bằng con mắt có tròng trắng (bạch nhãn). Người
đời sau dùng chữ “mắt xanh” như là một điển tích để chỉ sự tinh tường trong
nhìn người, đánh giá người và tùy người mà biểu lộ sự thiện cảm.
“Tôi say mơ thấy đời đen trắng/ Bụi đỏ ai người con mắt xanh” là
Nguyễn Bính nhắc đến điển tích này với ý xiển dương sự yêu gét rạch ròi của
Nguyễn Tịch, chê trách sự “vô minh”, à uôm của người đời. Giữa sòng đời bát
nháo, trắng đen, vàng thau lẫn lộn nhà thơ đang sống, thì tìm đâu cho thấy một
người có đôi mắt xanh như Nguyễn Tịch. Một biến thái khác của “mắt xanh” là “mắt
Tịch”, còn được Nguyễn Bính tái hiện không chỉ một lần trong thơ “Hỡi
ơi mắt Tịch xanh mà uổng”; “Tri kỷ không ai, mắt Tịch cuồng”.
Nguyễn Tịch coi thường công danh, thích sống ngoài vòng cương
tỏa thì đã hẳn. Còn Nguyễn Bính ở tuổi mười tám đôi mươi “tay trắng” thì đã có
gì đâu để mà “gét công danh”. Cứ “lấy trong ý tứ mà suy” thì ông bỏ
quê lên tỉnh, ngoài chuyện “kiếm ăn” độ nhật thì cũng mong tìm kiếm chút danh,
chút lợi, chút tình. Ít nhiều ông có tơ tưởng đến việc gây dựng một “cơ đồ” nào
đó, thì đấy “Con dan díu nợ giang hồ/ Một mai cứ tưởng cơ đồ làm nên”. Thậm
chí ông còn có lần gần xa, bóng gió đến một sự nghiệp nữa, khi tự hỏi mình “Xuân
sang xao xuyến lòng tôi quá/ Tôi đã xây tròn sự nghiệp chưa?”. Vậy đó là
“sự nghiệp” gì? Nếu để ý thì cái sự nghiệp mà Nguyễn Bính mơ “xây tròn” ấy
không phải là danh lợi như người thường, mà như có lần ông đã manh nha tiết lộ,
đó là “thi nghiệp”: “Sao chẳng về đây lục tứ thơ/ Hỡi ơi, hồn biển rộng
không bờ/ Chùm hoa sự nghiệp thơm muôn thuở/ Thiên hạ bao nhiêu kẻ đợi chờ?” (Sao
chẳng về đây).
Nói về “công danh”, nếu nhìn với đôi mắt của người thường,
thì với cuộc đời 49 năm của mình (ông sinh năm 1917), Nguyễn Bính là người thất
bại toàn tập: mộng ước không thành, công danh lỡ dở, tình duyên lỡ làng. Trong
thơ, ông cũng đã từng thú nhận “sòng đời thua nhẵn cả thơ ngây”, “Sòng
đời thua đến trắng hai tay”, thậm chí còn bi đát nữa “Tay trắng bạn bè đều
tránh mặt/ Sa cơ thân thích cũng khinh thường”; “Chỉ tổ tài cao, trời đất
ghét/ Một thân oan khổ có trăm đường” (Xuân vẫn tha hương). Cái cơ đồ mà
ông cứ tưởng một mai làm nên, cái sự nghiệp mà ông muốn xây tròn ấy,
xem ra chẳng đâu vào đâu, chẳng cái gì ra cái gì. Song, nếu lấy đôi mắt
xanh kiểu Nguyễn Tịch mà nhìn, thì cái chùm hoa sự nghiệp… thơ, mà
ông may mắn hái được, cái hương thơm đặc biệt tỏa ra từ nó dù không muôn thuở,
thiết tưởng cũng sẽ còn lan tỏa lâu dài với đời.
… Của người thi sĩ trọ Tràng Yên là ly rượu thứ ba
Với ly rượu này “Tôi say mơ thấy vì tiên trích/ Vua gọi
mà không chạy xuống thuyền”. Vì “tiên trích” ở đây đich thị là Lý Bạch, vì
“Trích Tiên nhân”, hay “Lý Trích tiên” (ông Tiên bị giáng, bị đày xuống trần
gian) là những danh xưng mà người đời dành cho Lý Bạch. Nói “thi sĩ trọ Tràng
Yên” là ám chỉ Lý Bạch chỉ tạt qua Tràng An, kinh đô của nhà Đường một thời
gian rồi đi. Cũng có thể liên tưởng đến việc chính tác giả hiện đang tá túc
trên gác trọ nào đó ở Hà thành, cái vùng đất được giới sính chữ nghĩa, sùng bái
nước Tàu cổ xưa, xem như một Tràng An của Việt Nam!
“Vua gọi mà không chịu xuống thuyền” là câu trích trong
bài thơ “Ẩm trung bát tiên ca” (bài ca 8 vị Tiên đang uống rượu) của Đỗ Phủ.
Nguyên văn bốn câu dành cho Lý Bạch là “Tuý trung vãng vãng ái đào thiền/
Lý Bạch nhất đấu thi bách thiên/ Trường An thị thượng tửu gia miên/ Thiên tử hô
lai bất thướng thuyền” (Lý Bạch một chén, thơ trăm thiên/ Ngủ lỳ quán rượu
chợ Trường Yên/ Vua cho gọi tới, chẳng lên thuyền/ Còn nói: “Làng say, ta là
tiên”). Ngoài Lý Bạch, bảy “vị tiên” khác, được Đỗ Phủ đưa vào bài tụng ca của
mình, là Hạ Tri Chương, Thôi Tông Chi, Vương Tiến, Tô Tấn, Trương Húc, Tiêu Toại,
Lý Thích Chi, đều là những tên tuổi đang lừng danh ở Trường An, mà Lý Bạch đã từng
kết bạn.
Xuất xứ của câu thơ “Vua gọi mà không chạy xuống thuyền”,
không nằm trong bối cảnh của “giai nhân – thi sĩ” đơn thuần, mà là câu chuyện về
thi sĩ – giai nhân trong mối tương quan với quyền lực ở chốn cung đình: Đường
Minh Hoàng ngồi trên thuyền cùng với người đẹp Dương Quý Phi, một trong “tứ đại
mỹ nhân”, mà vẻ đẹp được ví như hoa mẫu đơn – quốc hoa của nước Tàu. Quý Phi muốn
Lý Bạch đến làm thơ ca ngợi mình, nên để chiều lòng người đẹp, Đường Minh Hoàng
cho gọi Lý Bạch đến thuyền. Nhưng Lý Bạch lúc đó đang say rượu và không chịu
lên thuyền… Lý Bạch say thật hay ông giả say, không rõ. Song, dù sao, Lý Bạch
sau đó cũng có ba bài “Thanh bình điệu” ca tụng sắc đẹp Dương Quý Phi, trong đó
có câu “Vân tưởng y thường, hoa tưởng dung/ Xuân phong phất hạm, lộ
hoa nùng” (Mây hay xiêm áo, hoa hay mặt/ Sương điểm hoa, lất phất gió
xuân”. Nhưng cũng vì ba bài thơ này, đúng hơn là hai câu ở Thanh Bình
điệu 2 “Tá vấn Hán cung thuỳ đắc tự/ Khả liên Phi Yến ỷ tân trang” (Hỏi
ai Cung Hán mà hơn, được!/ Phi Yến e còn cậy tuổi xuân) mà Lý Bạch sau đó bị
“thất sủng”. Số là, Cao Lực Sĩ, một hoạn quan đang được vua Huyền Tông đặc biệt
tin dùng, trước đó ông này bị Lý Bạch làm nhục bằng tích “tháo giầy, mài mực”
đã lợi dụng hai câu thơ nói trên mà dèm rằng, Lý Bạch có ý so sánh Dương Quý
Phi với nàng Phi Yến – một phi tần nổi tiếng dâm loạn và bị thất sủng thời nhà
Hán. Từ đó, Lý Bạch bị Dương Quý Phi thù, mà người đẹp thù, thì “trẫm” cũng
không thể không… ghét. Không được nhà vua cất nhắc, ông bỏ kinh đô đi ngao du
sơn thuỷ. Cũng nhờ sự thất sủng này, mà Lý Bạch bảo toàn được khí tiết, và người
đời mới được được thấy một loạt những bài thơ với sắc thái tiêu dao, ngạo
nghễ, phóng dật, sau khi ông rời Trường An.
Mơ thấy vì tiên trích, là Nguyễn Bính đâu dám mơ thành một
Lý Bạch thứ hai, mà mơ mình cũng là một thi sĩ có cái tiết tháo kiểu Lý Bạch. Có
giai thoại, do bạn bè ông kể lại, rằng: Nguyễn Bính không nhận 12 cây
vàng (tương đương 1.000 đồng Đông Dương), là số tiền treo giải cho nhà thơ
“chân quê”, hoặc nếu ai thuyết phục được nhà thơ bỏ Việt Minh về với Chính phủ
“Nam kỳ tự trị” do Trần Văn Thinh làm Thủ tướng. Nguyễn Bính đã đáp lại lời
chiêu mời bằng hai câu thơ “Mình không bỏ sở Sang Tề/ Mình không là kẻ lỗi
thề thì thôi”. Nghĩa là ông cương quyết đi với Cách mạng, chứ không “dinh
tê” để có số tiền cực lớn vào thời điểm ấy, dù ông rất nghèo, và cuộc sống nơi
bưng biền “nằm bờ, ngủ nóp” cũng chẳng dễ dàng gì.
Sau này, khi làm báo tư nhân “Trăm hoa” ở Hà Nội, trong bối cảnh
phức tạp bấy giờ, Nguyễn Bính vẫn bản lĩnh, can đảm, dám tỏ rõ quan điểm văn
nghệ của mình, viết và đăng những gì mình muốn. Khi người trong tổ chức muốn
lái tờ báo theo ý họ thì “Tờ Trăm Hoa có một vẻ khác. Không về bè với Nhân
văn giai phẩm, nhưng chẳng đi với ai”. Nguyễn Bính còn bảo với Tô Hoài,
sau này là tác giả “Cát bụi chân ai”: “Trăm Hoa thế mới là báo của Nguyễn
Bính chứ. Nếu không thì mày làm quách cho xong”. Báo Trăm hoa chết yểu, Nguyễn
Bính về Ty văn hóa Nam Hà, chấp nhận thân phận trước sau chỉ là một “nhân
viên ngoài biên chế”, dưới sự “chăm sóc” của Trưởng ty Chu Văn. Theo Tô
Hoài trong hồi ký “Chiều chiều” thì: “ Những ai đã công tác cùng Nguyễn
Bính ở Ty văn hóa Nam Định có thể biết Chu Văn đã quần Nguyễn Bính như thế
nào”!
Giá Nguyễn Bính “thức thời”, với cái trích ngang của một thi
sĩ nổi tiếng thời “tiền chiến” lại đã từng tham gia kháng chiến, thì số phận của
ông đã khác. Chí ít thì ông cũng không quá nghèo khổ với đồng lương bèo bọt của
một nhân viên ngoài biên chế. Khốn nỗi cái khí tiết của những Đào Tiềm, Nguyễn
Tịch, Lý Bạch đã tự lâu ngấm vào căn cốt của con nhà Nho cũ Nguyễn
Bính mất rồi, biết sao!
Lý Bạch trong bài “Nguyệt hạ độc chước 2” bảo: “Tam bôi
thông đại đạo/ Nhất đẩu hợp tự nhiên” (Một ly hợp lẽ tự nhiên/ Ba ly
đạo lớn thông lên tận trời). Thì với ba ly rượu vừa nói, trong tơ lơ mơ Nguyễn
Bính đã thông thiên để thỉnh mời cả ba vị “sĩ”, là ““ẩn sĩ”, “cuồng sĩ” và “thi
sĩ”, những biểu tượng tinh thần mà Nguyễn Bính tôn thờ cùng về để ông giãi bày
cái hoài bão của mình, tỏ rõ cái chí khí của mình. Trong ba vị đó, Đào Tiềm –
lánh đời, Nguyễn Tịch – trốn đời và Lý Bạch – ngạo đời. Nói cho đúng, thì cả ba
vị này đều yêu đời, muốn mang đức tài của mình cống hiến cho đời, song gặp phải
thời buổi đời “đục” quá, nhiễu nhương quá, nên để bảo toàn khí tiết, nhân cách,
các ông đành tìm chốn ẩn dật và mượn chén rượu để ngâm vịnh khuây khỏa sự đời.
Cả ba vị đều hay rượu, say rượu. Nhưng nếu rượu say mà không ra thơ, mà thơ
hay, thơ “để đời”, thì chỉ là những kẻ nát rượu, đáng khinh, chứ không thể là
những bậc “tiên tửu” đáng kính. Cái “ẩm giả lưu kỳ danh” mà Lý Bạch nói, là loại
ẩm giả như thế, chứ đâu phải là loại “ẩm giả” nói chung, xin chớ lầm tưởng.
Đến đây, sau ba ly rượu thì Nguyễn Bính đã say rồi, đã hơi
líu cả lưỡi rồi, song vẫn muốn “Cho tôi ly nữa thêm ly nữa/ Uống thật say
rồi nhớ cố nhân”… Thì ra, rượu ngấm, ẩn sĩ, cuồng sĩ, thi sĩ, cùng với ước
vọng, cao vọng, cuồng vọng, đã theo nhau lên mây cả, chỉ còn trơ lại thân phận
thi sĩ nghèo nơi quán trọ. Lúc này “cố nhân” (người yêu cũ) lại lờ mờ sống dậy,
hành hạ, làm khổ thi sĩ. Còn cố nhân ở đây là ai (nàng Oanh Hà Đông, nàng
Tú Uyên Bạch Mai, hay nàng Mai Thơ Kinh Bắc) thì không rõ. Có thể cố nhân ở đây
cũng như bóng “em” thoáng hiện về trong cốc rượu đầy vào một chiều quan
tái nơi biên ải chênh chênh bóng ngả sầu lau lách, để rồi “Tôi
uống cả em và uống cả/ Một trời quan tái, mấy cho say!”.
Song, dù cố nhân là ai thì cũng đâu quan trọng. Cái quan tâm
bây giờ là đã đến lúc phải tính tiền, thứ “tiền tươi, thóc thật”. Nếu ta còn nhớ
thì ở đầu bài, tác giả đã bảo rằng: “Có được bao nhiêu mua bấy
nhiêu”, ấy vậy mà ông cứ “hãy chuốc cho tôi” hết ly này đến ly khác. Trong
khi say, ông vẫn đủ tỉnh để đoan quyết rằng “Còn nếu tiền tôi không trả đủ/
Lo gì tôi có áo mùa xuân”. “Có áo” hay “cố áo”? Người viết bài này
thích cố áo hơn. Vì cố áo mới là ngôn ngữ thực thụ của dân “cắm
quán”. “Cố” cũng dân dã, “quê mùa” như các từ “van”, “lào”, “tao”, “tuyết”..
theo cái nghĩa nguyên thủy của nó, mà Nguyễn Bính đã từng sử dụng khá đắc địa.
Song, có điều thú vị là, cái được Nguyễn Bính mang ra cầm cố ở đây lại là “áo
mùa xuân” – một thứ tài sản của đất trời, tạo hóa.
Thì ra, khi đã bí tiền, thì thi sĩ cũng liều xem mùa xuân như
một thứ “bất động sản” thuộc sở hữu của riêng mình, sẵn sàng mang gán nợ cho cô
hàng rượu. Không chỉ ở đây, nếu như ta nhớ rằng có lần Nguyễn Bính đã xem mùa
xuân như một người tình của minh khi ông viết thư cho chị Trúc “chị
ơi em cưới mùa xuân nhé”. Rồi, để “khảo giá” mùa xuân, Nguyễn Bính, đã bày
ra cảnh hai chị “Bướm đi chợ”. Trên đường tới chợ, chi áo hồ lơ hỏi chị áo điều “Mùa
xuân mày biết giá bao nhiêu?”. Chị áo điều cười ngặt ngẽo bảo “mùa
xuân đắt lắm cô mình ơi” và bảo bạn rằng “Trăm quan hồ dễ
mà mua được!/ Cố áo mà mua, tớ chịu thôi!”. Giá của mùa xuân, của tuổi
xuân đắt đến như thế, trăm quan cũng không mua được, thì xem ra cô hàng rượu
trong vụ cầm cố này cũng được một món hời rồi. Như vậy, Nguyễn Bính, với quyền
năng của một nhà thơ lãng mạn, đã bắt cả thiên nhiên, trời đất cũng phải “chung
chi” với ông khoản tốn kém ở cuộc rượu rất nhiều ly của mình.
Đã thế, như sợ cô hàng rượu không tin, ông còn mạo muội đóng
vai Lý-trích-tiên mà trấn an cô rằng “Đừng lo, cô nhé, tôi giàu lắm/ Này
áo khinh cừu, ngựa ngũ hoa/ Mất hết ngàn vàng tôi lại có”. “Áo khinh cừu”,
“ngựa ngũ hoa” là những thứ mà Lý Bạch trong “Tương tiến tửu” đã sai lũ trẻ
mang đi đổi lấy rượu về cùng nhau say tiếp để “Dữ nhĩ đồng tiêu vạn cổ sầu” (Ta
hãy cùng nhau phá cho tan nỗi buồn muôn thuở). Nếu như “Lý Bạch nhất đấu
thi bách thiên” thì Nguyễn Bính “Cho tôi ly nữa để tôi ca”. Lý Bạch:”Thiên
sinh ngã tài tất hữu dụng”, thì Nguyễn Bính cũng ăn theo mà rằng “Có tài kẻ
chuốc người mua”. Lý Bạch ôm “vạn cổ sấu”, thì Nguyễn Bính: “Sầu lên
mái quán mưa tong tả/ Chén ứa men lành lạnh ngón tay”; “Một thân quán trọ
sầu phong toả/ Đốt ngọn đèn lên, bóng rợn tường”.
Đỗ Phủ hơn nghìn năm trước bảo rằng: “Tửu trái tầm thường
hành xứ hữu/ Nhân sinh thất thập cổ lai hy” (Dân nợ rượu tầm tầm thì có khắp
hàng xứ/ Người đạt đẳng thánh hiền thì xưa nay vắng vẻ). Nguyễn Bính đâu có là
thánh hiền, mà chỉ hạng dân uống rượu, nợ rượu tầm tầm thôi. Ông qua đời ở tuổi
49, trong cảnh nghèo khổ cô đơn vào một sáng 29 (lấy làm 30) tết Bính Ngọ,1966,
còn lâu mới tới được tuổi “cổ lai hy”. Chẳng có gì đáng nói, đáng bàn, cũng như
các bậc “tiên tửu” khác, nếu ông uống rượu, say rượu mà không để lại những “Tâm
hồn tôi”, ‘Lỡ bước sang ngang”, “Hương cố nhân”, “Mười hai bến nước”… “Cho tôi
ly nữa”, không phải là bài thơ hay nhất viết về rượu, càng không phải là bài
thơ hay nhất trong gia tài thơ Nguyễn Bính, song là một bài thơ đặc sắc, độc
đáo của ông, một thứ “thi ngôn chí”.
Trong lúc say, ông đã hé lộ phần nào tính cách cùng thế giới
tinh thần, lý tưởng sống, lý tưởng thẩm mỹ của mình. Đời người và đời thơ Nguyễn
Bính, về cơ bản, cũng nhất quán với lý tưởng, hoài bão của ông. Bài thơ này
cũng cho ta thấy cái tài vận dụng các điển tích, điển cố của một “Con nhà Nho
cũ”, sinh bất phùng thời họ Nguyễn tên Bính, người xứ Sơn-Nam-Hạ xưa. Những điển
tích, điển cố không chỉ tạo không khí cổ kính, trang trọng cho bài thơ, mà còn
giúp ta sống lại cái thời của những vị “tiên tửu” mang hồn vía của những thi
sĩ-ẩn sĩ-cuồng sĩ Đông phương xưa.
Nguyễn Bính có nhiều bài thơ hay khác về rượu hoặc có mùi rượu,
như ”Hoa và rượu”, “Một chiều quan tái”, “Xuân tha hương”, “Xuân vẫn tha
hương”, “Giời mưa ở Huế”, “Một con sông lạnh”, “Một chiều say”, “Hành phương
Nam”… Còn như chuyện Nguyễn Bính biết uống rượu từ bao giờ, đã trải qua những
cuộc say nào, ở đâu, với ai, thì người viết xin hẹn lạm bàn vào một bài khác, nếu
có dịp.
Hải Hậu,15/72022
Phạm Công Trứ
Theo https://vanvn.vn/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét