Nguyễn Bính - Lạc chốn thị thành
Nói về thơ Nguyễn Bính, trước nay người ta vẫn sử dụng một định thức quen thuộc: thi sĩ chân quê. Thì cũng chẳng sai. Nhưng trong thơ Nguyễn Bính còn hiện diện cả một phần thành thị, vừa như một đối trọng lại vừa như một sự bổ sung cho cái phần quê kiểng đậm đặc mà ai cũng nhận thấy kia.
Cũng có thể cho rằng với nhà thơ chân quê Nguyễn Bính, thành
thị vừa là sức đẩy lại vừa là sức hút, và thơ ông, trên một phương diện nào đó,
chính là những dao động giữa hai lực này.
Hôm qua em đi tỉnh về/ Đợi em ở mãi con đê đầu làng/ Khăn
nhung quần lĩnh rộn ràng/ áo cài khuy bấm em làm khổ tôi! (Chân quê).
Trong mắt của anh trai quê đang nóng ruột đón đợi người yêu trở về, thì “tỉnh”
– nghĩa là thành thị – quả là một nơi chốn tai vạ! Nó nhào nặn dáng vẻ bề ngoài
của cô thôn nữ anh yêu theo cách rất khác so với hệ giá trị thẩm mỹ truyền thống,
hệ giá trị thẩm mỹ mà đến tận lúc này vẫn nằm trong máu thịt của anh. Anh cuống
cuồng lo sợ trước sự thay đổi. Vì – hẳn là một người nhạy cảm – anh thoáng thấy
“cái khác” ấy tiềm ẩn một sự thoái hóa về chất: Hôm qua em đi tỉnh về/
Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều. Như vậy đấy, phản ứng đầu tiên của
người nhà quê Việt Nam trước những yếu tố đại diện cho thành thị, một thứ phản ứng
mang tính chất tự vệ trước cái dị kỷ và khó đoán định. Không có gì khó hiểu, sống
sau lũy tre làng từ bao đời nay, người nhà quê Việt Nam làm sao mà đã thấy ngay
được cái “hay hớm” của thành thị: những con người ăn trắng mặc trơn, quanh năm
chẳng biết đến cày bừa cấy hái; sống thì nhà nào biết nhà nấy, chẳng quần tụ
xóm làng họ hàng, chẳng sát gần phần mộ tổ tiên; ăn nói thì khéo léo trơn tru đến
mức không tin được; đã thế, họ lại du nhập lắm thứ sinh hoạt lai căng nhăng nhố
từ tít tận trời Tây, chẳng có gì giống với tập quán ngàn đời ở xứ sở này.
Thế nhưng, thành thị là một cái mới ở xã hội Việt Nam lúc ấy.
Mà cái mới, nói sao mặc lòng, bao giờ cũng có sức hấp dẫn và sức kích thích
riêng của nó. Thành thị không chỉ đe dọa người nhà quê, mà nó còn hứa hẹn với họ.
Thơ Nguyễn Bính đã hơn một lần nói đến việc người nhà quê bỏ làng lên phố, thay
đổi hẳn không gian sinh sống và phương thức tồn tại: Gia đình thiên cả lên
Hà Nội/ Buôn bán quanh năm bỏ cấy cày (Giời mưa ở Huế). Thành thị, xét như
một cực văn hóa đối trọng với cực văn hóa nông thôn, còn mời mọc người nhà quê
gia nhập vào nó để tự khám phá những chiều kích chưa từng được biết đến trong bản
thể văn hóa của anh ta. Thì đây: Bỏ lại vườn cam bỏ mái gianh/ Tôi đi dan
díu với kinh thành (Hoa với rượu). Tuần trăng mật của người nhà quê – ta cứ
tạm coi người nhà quê này chính là thi sĩ Nguyễn Bính hóa thân – với thành thị
không phải là không có những khoảng thời gian đắm say ngây ngất. Gia nhập thành
thị, Nguyễn Bính được sống trong một bầu khí quyển văn hóa khác, được biết và
được trải nghiệm những trạng thái cảm xúc – tinh thần khác, khác hẳn so với khi
ông chỉ là một người nhà quê, ở quê. Chuyện yêu đương chẳng hạn. Nếu trước kia
“thông điệp tình yêu” trong thơ ông được phát đi theo con đường bóng gió xa
xôi: Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông/ Cau thôn Đoài nhớ trầu không thôn nào? (Tương
tư), thì bây giờ nó trực tiếp hơn nhiều: Tôi muốn cô đừng nghĩ đến ai/ Đừng
hôn dù thấy cánh hoa rơi/ Đừng ôm gối chiếc đêm nằm ngủ/ Đừng tắm chiều
nay biển lắm người/ Tôi muốn mùi thơm của nước hoa/ Mà cô thường xức chẳng bay
xa/ Chẳng làm ngây ngất người qua lại/ Dẫu chỉ qua đường khách lại qua (Ghen).
Xưng hô bằng những đại từ “tôi, cô”, rồi nói tới việc cô ôm gối ngủ, cô đi tắm
biển, cô xức nước hoa… – “cô” ở đây hẳn là một cô tân thời, chứ tuyệt không phải
một cô thôn nữ má hồng răng đen – chỉ từng ấy đã đủ để thấy dấu ấn thành thị
trong tình yêu của người (vốn là) nhà quê Nguyễn Bính – yêu và ghen và bộc lộ
cái ghen của mình theo cách của người thành thị, trên những “vật liệu” của đời
sống thành thị. Nếu đọc cho kỹ, ta sẽ nhận ra trong cái ghen này một điều gì đó
như là sự náo nức, rộn ràng, hồ hởi: ấy chính là niềm vui khi người nhà quê lần
đầu tiên được biết đến một thứ trạng thái cảm xúc lạ mà thành thị đã gây mầm
trong tâm hồn mình!
Gia nhập đời sống thành thị trong vai một nghệ sĩ tự do, có
thể nói, Nguyễn Bính đã nhận được khá nhiều từ thành thị: việc mưu sinh bằng khả
năng thiên phú của mình (làm thơ), những mối quan hệ xã hội rộng rãi, những cuộc
tình lãng mạn, những chuyến xê dịch cho thỏa chí tang bồng trên nhiều vùng miền
đất nước, và cả những thú ăn chơi nghiêng trời lệch đất (thuốc phiện, cô đầu).
Ông tận hưởng chúng một cách vồ vập, không khách khí. Tuy nhiên, tự trong căn cốt,
Nguyễn Bính vẫn cứ là một người nhà quê như mọi người nhà quê Việt Nam bao đời
nay. Ông “dan díu với kinh thành” nhưng không thể hòa tan vào nó để trở thành
chính nó. Trái lại, trước những biểu hiện của “cái thành thị”, con người nhà
quê trong ông luôn thường trực một sự bất mãn, một thái độ phản kháng. Với ông,
thành thị không phải nơi đất lề quê thói của những con người thuộc về cộng đồng
họ mạc lâu đời, mà nó là chốn tụ lại của dân tứ chiếng với những mối quan hệ
bèo nước nay hợp mai tan, không bền mà lại lắm dối trá, lọc lừa. Vì thế mà ông
thấy cảnh: Mụ vợ bắc nam người tứ xứ/ Anh chồng tay trắng lẫn tay đen/ Đổi
thay tình nghĩa như cơm bữa/ Khúc “Hậu đình hoa” hát tự nhiên (Xóm Ngự
Viên). Vì thế mà có lúc, dẫu thừa sự đa tình, ông sợ phải gắn bó tình cảm với một
người con gái: Hàng xóm có người con gái lẻ/ Y chừng duyên nợ với nhau
đây/ Chao ôi, ba bốn tao ân ái/ Đã đủ tan tành một kiếp trai/ Tôi rờn rợn
lắm giai nhân ạ!/ Đành phụ nhau thôi kẻo tới ngày/ Khăn gói gió đưa
sang xứ lạ/ Ai cười cho được lúc chia tay? (Giời mưa ở Huế). Tâm trạng bơ
vơ lạc lõng này được Nguyễn Bính cực tả trong bài Hành phương Nam, khi mà giữa
Sài Gòn phồn hoa đô hội, ông chợt nhận ra mình xa lạ biết bao với xung
quanh: Ta đi nhưng biết về đâu chứ?/ Đã dấy phong yên khắp bốn trời/ Thà cứ
ở đây ngồi giữa chợ/ Uống say mà gọi thế nhân ơi/ Thế nhân mắt trắng như ngân
nhũ/ Ta với nhà ngươi cả tiếng cười/ Dằn chén hất cao đầu cỏ dại/ Hát rằng
phương Nam ta với ngươi (Hành phương Nam).
Tuy vậy, thành thị, với tất cả sự gắn bó và những sức mạnh
tác động của nó đến con người nhà quê trong căn cốt tinh thần của Nguyễn Bính
(phải nói thêm: con người nhà quê đa tình, giàu cảm xúc), không phải là Huế hay
Sài Gòn, mà là Hà Nội. Hầu như Nguyễn Bính không có một bài thơ hay một câu thơ
nào sáng sủa vui tươi về Hà Nội. Sống ở Hà Nội, kết giao bằng hữu ở Hà Nội, thỏa
chí phóng túng hình hài ở Hà Nội, song với ông, kinh thành Hà Nội dường như lại
là một không gian ngả về sự tàn lụi, héo úa, điêu tàn, hấp hối. Điều đáng chú ý
là trong thơ, Nguyễn Bính luôn nhìn Hà Nội bằng con mắt sầu tình – cái sầu của
sự biệt ly và chết chóc trong tình yêu. Thương vay khóc mướn, Nguyễn Bính đã
“viếng hồn trinh nữ” không quen biết qua việc nhuộm Hà Nội trong một màu trắng
tang tóc lạnh người: Chiều về chầm chậm trong hiu quạnh/ Tơ liễu theo nhau
chảy xuống hồ/ Tôi thấy quanh tôi và tất cả/ Kinh thành Hà Nội chít khăn xô… Có
một chiếc xe màu trắng đục/ Hai con ngựa trắng xếp hàng đôi/ Đem đi một chiếc
quan tài trắng/ Và những vòng hoa trắng lạnh người/ Theo bước, những người
khăn áo trắng/ Khóc hồn trinh trắng mãi không thôi (Viếng hồn trinh nữ).
Trong xúc cảm hồi nhớ về một cuộc ly biệt năm nào, Hà Nội bị ông bóp méo bằng
những nghịch âm nghịch sắc: Hà Nội cơ hồ loạn tiếng ve/ Nắng dâng làm lụt
cả trưa hè/ Năm xưa một buổi đang mưa lụt/ Tôi tiễn chân người sang biệt
ly (Nhớ người trong nắng). Cũng có khi, dù không ở Hà Nội, nhưng Nguyễn
Bính vẫn buộc phải chịu đựng sự giày vò đau đớn từ Hà Nội: Hôm qua bắt được
thư Hà Nội/ Cho biết tin Dung đã đẻ rồi/ Giờ sửu, tháng ngâu, ngày nguyệt tận/
Bao giờ tôi biết mặt con tôi/ Nào đoán thử xem tên con gái/ Oanh, Yến, Đào,
Trâm, Bích, Ngọc, Hồi…/ Tôi biết vô tình Dung lại muốn/ Con mình mang lấy nghiệp
ăn chơi (Oan nghiệt). Khi ấy, ở giữa hai hàng chữ của văn bản thơ, Hà Nội
đã ngầm hiện lên như một không gian dung chứa sự thác loạn thành thị, nơi mà
khách làng chơi và gái làng chơi đã ngẫu hợp trong những cơn cuồng hoan vô
trách nhiệm và đem lại cho nhân gian một nỗi oan nghiệt mang hình người. Cả một
bài thơ dài Oan nghiệt là những tưởng tượng đen tối, những hối hận nhục nhã, những
giật mình kinh sợ của Nguyễn Bính khi nhận được tin một cô gái làng chơi nào đó
tên Dung ở Hà Nội đã có con với mình. Đỉnh điểm bi kịch của và trong sự tưởng
tượng đó là: Chàng chàng thiếp thiếp cho bằng được/ Bố bố con con chẳng nhận
nhau (Oan nghiệt) – cha, gã nghệ sĩ lãng tử; và con, gái làng chơi theo
nghiệp mẹ, có thể sẽ rơi vào loạn luân mà không biết. Hà Nội là cái khung nền
cho tưởng tượng ấy!
Như vậy đấy, Nguyễn Bính không phải chỉ là con người của nông
thôn: ông như người lái đò qua lại giữa hai bờ nông thôn và thành thị. Ông háo
hức nhập cuộc với thành thị rồi mau chóng vỡ mộng, sầu buồn, đau đớn vì nó,
nhưng vẫn không thể dứt bỏ được nó. Kiểu cảm thức này còn kéo dài trong thơ Việt
Nam, kỳ lạ thay, ngay cả khi thành thị đã không còn là một cái mới như ở thời của
Nguyễn Bính.
13/7/2022
Hoài Nam
Theo https://vanvn.vn/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét