Màu tím hoa sim - Bài thơ tình
Hai năm trôi qua kể từ
ngày thi sĩ miền Nga Sơn - Thanh Hoá ra đi mãi mãi, để lại một màu tím biền
biệt của cuộc tình định mệnh và nghiệt ngã. Nỗi đau tận cùng với thăng trầm,
dâu bể của cuộc đời, Hữu Loan đã để lại cho nền thơ ca Việt Nam những tác phẩm
bất hủ.Ông thanh thản về với cõi vĩnh hằng, với người vợ bé bỏng chiều quê ngày ấy, khép lại những năm tháng nhọc nhằn, khắc khoải cả thể xác lẫn tinh thần. Thế hệ đời sau sẽ nhớ mãi ông, một thi sĩ tài hoa, bất hạnh và đầy nhân cách.
Tình yêu thời chiến
Hữu Loan sinh năm 1914,
trong một gia đình tá điền. Năm 24 tuổi, Hữu Loan rời quê nhà lên Thanh Hóa dạy
học. Lúc bấy giờ, ở Thanh Hóa có cửa hàng bán vải và sách của bà Tham Kỳ (tên
thật là Đái Thị Ngọc Chất, vợ của ông Lê Đỗ Kỳ, kỹ sư canh nông, có thời làm
Tổng Thanh tra canh nông Đông Dương). Hữu Loan thường qua lại nơi đây để xem
và mua sách.
Ông được ông bà Lê Đỗ Kỳ mời
về dạy học. Gia đình ông bà có 3 người con trai:
"Nàng có ba người anh
đi bộ đội
Những em nàng
Có em chưa biết nói
Khi tóc nàng xanh xanh…”
Ngày ấy, ông 26 tuổi, đêm
đầu tiên ông đến nhà, bà Kỳ đã hạ sinh một đứa con gái, cô bé ấy sau này mắt
luôn mở to nhìn ông không dứt, đó chính làem gái của côLê Đỗ Thị Ninh mới 10
tuổi. Ngày ấy, Hữu Loan và Ninh còn tắm chung với nhau trong thùng gỗ, ông
xem cô như em gái và cô cũng rất quý mến ông.
"…Tôi người Vệ quốc
quân
xa gia đình
Yêu nàng như tình yêu em
gái
Ngày hợp hôn
Sau một thời gian ông lên
Hà Nội thi Tú Tài và đỗ hạng ưu. Người Pháp muốn mời Hữu Loan vào làm thư ký ở
Phủ Toàn quyền với lương rất cao nhưng do không thích Pháp nên Hữu Loan trở về
Thanh Hóa dạy học. Cô Ninh càng lớn, càng nết na và xinh đẹp, một vẻ đẹp
thánh thiện. Mặc dù gia đình rất giàu, có tới 500 mẫu ruộng và gần năm chục
người làm công nhưng riêng quần áo của Hữu Loan cô không cho mọi người đụng đến
mà tự tay giặt ủi và xếp, cất vào tủ. Hữu Loan không biết rằng bà Chất rất
quý mến ông nên đã có ý gả cô em gái xinh đẹp tên Nga cho ông, nhưng do cô
Nga không muốn vương vấn chuyện đời mà muốn xuất gia theo đạo nên bà lại chuyển
sang muốn gả đứa con gái mình. Lúc ấy, Hữu Loan có bao giờ nghĩ chuyện tình
yêu với Ninh, Hữu Loan hơn Ninh đến 16 tuổi, lại xem cô ấy như em gái nuôi.
Cuối mùa đông năm ấy, Hữu
Loanlên đường đi kháng chiến. Hôm tiễn ông, người em gáicứ theo mãi ra tận đầu
làng và lặng lẽ đứng nhìn theo. Lên đến bờ đê, nhìn xuống đầu làng, Ninh vẫn
đứng đó nhỏ bé và mong manh. Cô giơ bàn tay nhỏ xíu như chiếc lá sim vẫy Hữu
Loan. Ôngđi và ngoái đầu nhìn lại cho tới khi không còn nhìn thấy cô nữa.
Những năm tháng ở chiến
khu, thỉnh thoảng Hữu Loan có nhận được tin tức từ quê lên, ông biết Ninh vẫn
khỏe và đã khôn lớn. Chín năm sau, Hữu Loan trở lại Nông Cống tìm cô. Hôm gặp
Ninh ở đầu làng, ông hỏi cô, hỏi rất nhiều nhưng cô không nói, chỉ bẽn lẽn lắc
hoặc gật đầu. Ninh giờ đây không còn là cô học tròbướng bỉnh nữa rồi. Ninh
bây giờ đã là một cô gái xinh đẹp. Một tuần sau đó, Hữu Loan và Ninh kết hôn.
Đám cưới thật đơn sơ:
"…Tôi mặc đồ quân
nhân
đôi giày đinh
bết bùn đất hành quân
Nàng cười xinh xinh
bên anh chồng độc đáo
Tôi ở đơn vị về
Cưới nhau xong là đi…”
Hạnh phúc quá ngọt ngào.
Hai tuần phép của Hữu Loan trôi đi nhanh quá. Hôm tiễn ông lên đường, Ninh vẫn
đứng ở đầu làng, nơi tám năm về trước cô đã đứng. Chỉ có điều giờ đây Ninh
không còn là cô bénữa mà đã là người bạn đời yêu quý của Hữu Loan. Ông đi,quay
đầu nhìn lại... Nếu như tám năm về trước Hữu Loan đi,nhìn lại và chỉ cảm thấy
một nỗi buồn man mác thì lần này ông thực sự đau buồn. Đôi chân ông như quỵ
xuống... Ninh cũng như quỵ xuống...
Ngày 29/5/1948 (âm lịch),
ngày định mệnh, Ninh đưa quần áo ra giặt ở sông Chuồng (thuộc ấp Thị Long,
Nông Cống). Đoạn sông này gần đổ ra biển nên nước chảy xiết. Buổi trưa bà Chất
rủ cô Ninh ra tắm nhưng cô đã tắm buổi sáng nên mang quần áo ra giặt. Đang giặt,
cô bỗng trượt chân, chới với giữa dòng nước, người mẹ quay lại chỉ thấy tóc
con mình xấp xõa trên mặt nước. Mãi 3 ngày sau thi thểmới nổi lên không xa chỗ
bến nước trong khi ở đây vốn nước chảy mạnh. Có người nói do cô bị kẹt ở dưới
đáy, có người bảo cô Ninh vương vấn gia đình nên không muốn đi xa... Cô Ninh
hay mặc áo màu tím, ông cũng đã có lần dẫn cô đi chơi lên những đồi hoa sim
tím và ngẫu nhiên, dọc bờ sông nơi cô chết cũng mọc đầy những hoa sim tím.
Ba tháng sau, Hữu Loan nhận
được tin dữ, vợ qua đời. Ninh chết thật thảm thương. Ông chạy về đến nơi thì
mọi việc đã xong hết từ lâu, người mẹ ngồi khóc bên mộ con, chiếc bình ngày
cưới nay được dùng để làm bình hương:
"…Chiếc bình hoa ngày
cưới.
thành bình hương
Tàn lạnh vây quanh…”
Chiếc bình hương đặc biệt ấy
ông Hữu Loan vẫn giữ đến tận bây giờ, đặt trên bàn thờ cô Ninh. Trước đây bàn
thờ có một tấm ảnh cô Ninh chụp năm 10 tuổi, nhưng vào một đêm bão lớn, nước
tràn từ mái nhà xuống bàn thờ đã phá hỏng tấm ảnh duy nhất đó.
Ba người anh của cô Ninh
mà ông Hữu Loan đã dạy học và được nhắc đến ở ngay đầu bài thơ lúc đấy đều
xung phong đi bộ đội và đang ở chiến trường Đông Bắc. Không hiểu thư từ đi lại
khó khăn ra sao mà họ nhận được thư báo tin em gái mất, rồi ít lâu sau mới nhận
được thư báo tin người em gái lấy chồng. Ít ai biết được về ba người anh đấy,
người anh cả Lê Đỗ Khôi là Chính ủy tiểu đoàn, hy sinh chỉ vài giờ trước khi
trận Điện Biên Phủ kết thúc. Người thứ hai là Lê Đỗ Nguyên, tức Trung tướng
Phạm Đình Cư, nguyên Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, còn người anh thứ ba
là Lê Đỗ An tức Nguyễn Tiên Phong, nguyên Bí thư Trung ương Đoàn - Phó Ban
Dân vận Trung ương.
Trở về doanh trại với nỗi
đau xé lòng, Hữu Loan như người bị mất hồn. Một hôm, tất cả những nỗi đau đớn
mất người vợ trẻ đã được Hữu Loan viết ra nhanh chóng chỉ trong có vài giờ,
những câu thơ như đã được ghi khắc sẵn trong tim, cứ thế tuôn ra trên giấy,
bài thơ khóc vợ của ông sau đó đã lan truyền nhanh chóng.
Mãi đến những năm 1993,
ông sửa lại bài thơ, thêm vào vài đoạn ở cuối. Gần 50 năm sau, lời thơ của
ông vẫn ai oán như của ngày xưa:
"…Ai hát
vô tình hay ác ý với nhau
Chiều hoang tím
có chiều hoang biết
Chiều hoang tím
tím thêm màu da diết…
nhìn áo rách vai
tôi hát trong màu hoa:
"Áo anh sứt chỉ đường
tà
Vợ anh mất sớm…”
Màu tím hoa sim tím
Tình tang lệ rớm…
Ráng vàng ma và sừng rúc
điệu quân hành
Vang vọng chập chờn
theo bóng những binh đoàn
biền biệt hành binh
vào thăm thẳm chiều hoang
màu tím...
Tôi ví vọng về đâu
Tôi với vọng về đâu?
- Áo anh nát chỉ dù... lâu!
Phần thêm vào một thời
cũng gây xôn xao, có những người thích phần thêm nhưng có người chỉ muốn bài
thơ nguyên thủy đã ăn sâu vào tâm khảm. Hữu Loan giải thích rằng việc ông viết
thêm chỉ để làm cho rõ thêm ý cuối bài.
Bài thơ đã được Phạm Duy
phổ nhạc với tên gọi "Áo anh sứt chỉ đường tà” (1971), còn Dzũng Chinh
cũng đã phổ nhạc thành bài "Những đồi hoa sim” (1960) với điệu boléro da
diết. Dù với hai phong cách đối ngược nhau hoàn toàn, cả hai bản nhạc đều được
rất đông người biết và hát.
Khi người ta hỏi Hữu Loan
rằng ông thích bài hát nào nhất trong số 2 bài trên thì ông chỉ im lặng, ánh
mắt nhìn ra vườn, đáp hững hờ: "Tôi không để ý chuyện người ta phổ nhạc
tôi”. Bà Nhu, vợ ông giải thích: "Ông ấy không thích bài nào cả, vì khi
phổ nhạc người ta đổi lời mất mấy đoạn rồi”.
Và như thế, từ đó đến nay,
ông không bao giờ bước chân ra khỏi cổng nhà. Mỗi ngày, ông ra chiếc võng
trong vườn, nằm nhìn ngắm các cây cối xung quanh. Gần đây người con út của
ông bắt đầu tìm cách sưu tầm lại các bài thơ còn thất lạc của ông, cũng có
người đưa trả lại, nhưng chủ yếu do ông Hữu Loan nhớ ra và đọc lại. Không biết
bao giờ tập thơ mới xuất bản nhưng tên tuổi Hữu Loan đã gắn chặt với
"Màu tím hoa sim”, bài thơ được xem như một trong những bài thơ tình đau
thương nhất của thế kỷ 20.
|
Thứ Năm, 20 tháng 10, 2016
Màu tím hoa sim - Bài thơ tình đau thương nhất thế kỷ
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Tam Lu nghiêng trời
Tam Lu nghiêng trời Trương Thu Hiền đã xuất bản ba tập bút ký: “Đoản khúc cho quê”, “Độc bản”, “Hoa báo mùa sang”. Ngôn từ của chị đẹp, gi...
-
Vài nét về văn học Đông Nam Á Đặc điểm của văn học Đông Nam Á (ĐNA) Nói đến văn học Đông Nam Á là phải nói đến sức m...
-
Mùa thu nguồn cảm hứng lớn của thơ ca Việt Nam 1. Mùa thu Việt Nam nguồn cảm hứng trong nghệ thuật Mùa thu mùa của thi ca là m...
-
Thiên nhiên trong thơ Nguyễn Trãi 1. Trong lịch sử văn học Việt Nam, cảm thức thiên nhiên của các thi nhân không phải là hiếm. Nhưng t...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét