Văn Cao
Văn
Cao ở trong thơ, nhạc, họa, cho nên được giới nghệ thuật ba ngành mến phục. Là
tác giả quốc ca, nhưng Văn Cao suốt đời bị chính quyền cộng sản nghi ngờ, tác
phẩm bị trù dập, phân biệt đối xử.
Tìm
hiểu cuộc đời của Văn Cao cũng là tìm hiểu giai đoạn lịch sử 45-46, mà các văn
nghệ sĩ xuất thân từ nhiều ngành nghệ thuật khác nhau, nhiều thành phần chính
trị và phi chính trị khác nhau đã theo Việt Minh để tranh đấu cho một lý tưởng:
chống Pháp. Những Văn Cao, Phạm Duy, Tạ Tỵ, Bùi Xuân Phái, Nguyễn Sáng, Nguyễn
Đình Thi, Lưu Hữu Phước,... đã có một thời hoạt động chung vai sát cánh, nhưng
rồi chính trị sẽ phân lìa mỗi người một con đường, một chiến tuyến.
Tìm
hiểu Văn Cao tức là tìm hiểu tại sao có sự chia cắt tinh thần và thể xác Việt
Nam, tìm hiểu sự tranh giành ảnh hưởng giữa các đảng phái chính trị trên đường
giành độc lập, để thoát khỏi cái nhìn một chiều về lịch sử: lịch sử
ta-địchtrong quá trình đấu tranh giai cấp.
Tìm
hiểu Văn Cao là để tìm đến nguồn cội của vấn đề: Văn hoá Việt Nam là
một toàn khối, không thể chia đôi. Tâm hồn Việt Nam là một toàn khối, không thể
phân liệt. Toàn khối ấy đã thể hiện trong cuộc kháng chiến từ 1945 đến
1950: Hầu hết các văn nghệ sĩ ở mọi khuynh hướng đều cùng nhau chung
lòng cứu quốc.
Văn
Cao, Phạm Duy hai khuôn mặt điển hình nhất của nền Tân nhạc Việt Nam: cùng theo
kháng chiến từ phút đầu. Cùng có công đầu trong cuộc kháng chiến chống Pháp.
1951, Phạm Duy vào thành, Văn Cao ở lại, mỗi người một giới tuyến. Nhưng tác
phẩm của họ, mãi mãi sẽ là của toàn thể dân tộc Việt Nam.
● Tiểu sử
Văn
Cao là tên thật, họ Nguyễn, sinh ngày 15/11/1923 tại
làng Lạch Trai (gần Hải Phòng) mất ngày 10/7/1995 tại Hà Nội. Nguyên quán làng
An Lễ, xã Liên Minh, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Học tiểu học trường Bonnal,
trung học trường dòng Saint-Joseph, ở đây được học thêm âm nhạc. Cha là Nguyễn
Văn Tề, cai máy nước. Vì cha bị mất việc, Văn Cao phải bỏ học, làm điện thoại
viên ở bưu điện Hải Phòng, được một tháng, bỏ.
Cuối
1939, Văn Cao viết ca khúc đầu tiên Buồn tàn thu, ảnh hưởng Lê
Thương, bản nhạc được Phạm Duy đem đi hát khắp nơi. 1940, Văn Cao đi Hà Nội,
Huế, Sài Gòn, tiếp xúc với phong cảnh nên thơ và âm nhạc trữ tình của Huế và
thơ Hàn Mặc Tử tại Sài Gòn. Từ điển văn học ghi: "1940, vào Nam
kiếm sống, làm họa sĩ trang trí nội thất cho cho một hãng tư nhân ở Sài Gòn,
gần một năm. Bị chủ quỵt tiền công nên bỏ việc ra Bắc"[1]. Chi
tiết này không thấy ghi ở các tài liệu khác. Tựu trung, thời kỳ 1940-43, Văn
Cao sáng tác sung mãn nhất. Những ca khúc lịch sử đi đôi với ca khúc lãng mạng
trữ tình: Bạch Đằng Giang, Gò Đống Đa, Thăng
Long hành khúc, Thu cô liêu, Cung đàn xưa, Bến xuân, Suối
mơ, Thiên Thai, Trương Chi... và cũng là thời kỳ gắn bó
cộng tác văn nghệ và hoạt động cách mạng giữa hai nhân tài: Văn Cao-Phạm Duy.
Năm
1942, Văn Cao lên Hà Nội học dự thính (auditeur libre) trường Mỹ Thuật Đông
Dương, và lần đầu tiên, thơ văn của ông được Vũ Bằng đăng trên Tiểu
thuyết thứ bẩy.
1943,
triển lãm tranh lần đầu ở Salon Unique - Phòng Triển lãm Độc đáo. Bức tranh Les
Suicidés - Những kẻ tự sát của Văn Cao gây tiếng vang
trong giới hội hoạ, theo Tạ Tỵ, đã có ý thức cách mạng.
1944,
Văn Cao được Vũ Quý, quyền bí thư Thành Ủy Hà Nội, giác ngộ vào Việt Minh, giao
công tác viết bài hát cho khoá Quân chính kháng Nhật, sáng tác Tiến
quân ca.
1945,
Văn Cao vào Đội Trừ Gian. Tháng 7/45, bắn chết Đỗ Đức Phin[2] ở
Hải Phòng. Bắn hụt Cung Đình Vận và Võ Văn Cẩm tại Hà Nội. Làm báo Lao
Động (bí mật) của Việt Minh[3],
Văn Cao tự tay chép lời và nhạc Tiến quân ca vào đá (litho),
in trên Lao Động số 1, tháng 11/1944.
1945,
sáng tác bài thơ Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc[4], và
các ca khúc:Chiến sĩ Việt Nam, Chiến sĩ Hải quân, Chiến sĩ Không
quân, Bắc Sơn. Bài Không quân Việt Nam[5] sau
này trở thành bài đoàn ca của Không quân Việt Nam Cộng Hoà.
Ngày
17/8/1945, trong buổi mít-tinh của công chức, bài Tiến quân ca được
Phạm Duy "cướp micro" hát lần đầu tiên và duy nhất tại nhà Hát Lớn,
Hà Nội[6].
Ngày
19/8/1945, Việt Minh "cướp chính quyền", dàn đồng ca Thiếu niên Tiền
phong do Văn Cao điều khiển hát bài Tiến quân ca tại quảng
trường Nhà hát lớn.
Đầu
năm 1946, Quốc hội khoá I công nhận Tiến quân ca là Quốc ca
Việt Nam. 1946, Văn Cao sáng tác bài thơ Ngoại ô mùa đông 46[8].
Theo
Tạ Tỵ và Vũ Bằng, Văn Cao có vợ trước cách mạng tháng Tám. Nhưng có lẽ chỉ mới
đính hôn, sau ngày toàn quốc kháng chiến 19/12/46, Văn Cao và gia đình Thúy
Băng rời Hà Nội ra chợ Đại, gần Hà Đông, thuộc Liên Khu Ba, mới chính thức làm
lễ cưới ở thôn Ba Thá. Ở Liên Khu Ba không được bao lâu, Văn Cao nhận được chỉ
thị lên Phú Thọ, rồi Lào Cai, mở Quán Biên Thùy trá hình làm tình báo trong
Liên Khu 10, từ xuân 1947 đến thu 1947. Phạm Duy có lên hát ở đây.
Thu
1947, Văn Cao được lệnh về Vĩnh Yên làm báo Độc Lập. Rồi lại được lệnh trở lên
Việt Bắc. Trên đường ngược sông Lô lên Phú Thọ, Văn Cao mục kích chiến địa
hoang tàn: Tháng 10/47, quân Pháp gồm mười lăm tiểu đoàn chia làm nhiều đạo tấn
công Việt Bắc, mục đích tiêu diệt Bộ chỉ huy kháng chiến, nhưng không thành. Cụ
Nguyễn Văn Tố -Bộ trưởng không bộ- bị chết.
Ngày
7/10, Pháp chiếm Sơn Tây.
12/10,
Việt Minh kêu gọi triệt để áp dụng chiến thuật tiêu thổ kháng chiến.
13/10
Pháp chiếm Bắc Cạn, Cao Bằng.
20/10
Pháp chiếm Yên Bái. 21/10 Pháp chiếm Chapa.
30/10/47
Pháp chiếm Lao Cai. Bản thảo Kiều Loan của Hoàng Cầm phải ném
xuống hồ Ba Bể cùng các bản thảo khác.
Theo
Phạm Duy, sau chiến thắng sông Lô, Cục Chính trị điều động các nhạc sĩ viết về
Sông Lô để kích động tinh thần chiến sĩ: Lương Ngọc Trác sáng tác Lô
Giang, Văn Cao, trường ca Sông Lô[9], Đỗ
Nhuận: Du kích sông Thao, Nguyễn Đình Phúc: Bến bình
ca, Phạm Duy: Tiếng hát trên sông Lô[10].
Trường
ca Sông Lô được
Phạm Duy đánh giá là "tác phẩm vĩ đại, chẳng thua bất cứ một tuyệt
phẩm nào của loại nhạc cổ điển Tây Phương"[11].
Tháng
3/1948, Văn Cao được kết nạp vào Đảng. Sáng tác Ngày mùa. Cuối
1948, Văn Cao được lệnh về Liên Khu Ba. Gặp lại Tạ Tỵ, Bùi Xuân Phái, Lương
Xuân Nhị... Sáng tác Tiến về Hà Nội. Tổ chức triển lãm chung.
Bức tranh Cây đàn đỏ của Văn Cao bị phê bình. Giữa 1949, Văn
Cao lại được lệnh trở lên Việt Bắc[12].
Chuyến đi rất gian nan nguy hiểm.
Tháng
1/1950, đảng Cộng sản tuyên bố chính thức theo đường lối Trung Quốc, thực hiện
đấu tranh giai cấp trên toàn lãnh thổ.
Tháng
8/1950, Đại hội văn nghệ Việt Bắc quyết định loại trừ Tuồng, Chèo, Cải lương,
Kịch thơ... bị coi là tàn tích của phong kiến và tư sản, chỉ giữ lại thoại
kịch. Phạm Duy bị kiểm điểm. Hoàng Cầm phải treo cổ kịch thơ. Văn nghệ sĩ,
người vào Liên Khu Tư "vùng tự do" với tướng Nguyễn
Sơn, người bỏ về thành như Vũ Bằng, Kim Tiêu, Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng, Tạ
Tỵ, Bùi Xuân Phái, Nguyễn Sáng, Phan Tại, v.v...
Tại
Việt Bắc, Văn Cao tham gia chiến dịch biên giới. Phụ trách giảng dạy ở trường
Âm Nhạc Việt Bắc. Sáng tác: Tiểu đoàn Lũng Vài, Ca ngợi Hồ Chủ Tịch,
Công nhân Việt Nam, Toàn quốc thi đua...
1952,
Văn Cao được cử đi Mạc Tư Khoa trong phái đoàn Trần Huy Liệu, theo Hoàng Văn
Chí, "Văn Cao được gặp nhà nhạc sĩ số một Liên Xô là
Chostakovitch"[13]. Các
tài liệu khác, không nói đến cuộc gặp gỡ này, vì Chostakovitch cũng có
"vấn đề", số phận trầm luân, tương tự Văn Cao chăng? Hoàng Văn Chí
viết tiếp: "Tuy nhiên sau khi đi Mạc Tư Khoa về, Văn Cao bắt đầu
tỏ ý thất vọng: Liên Xô không phải là thiên đường như ông vẫn tưởng tượng. Thêm
vào đấy, khi ông về nước thì cuộc đấu tố địa chủ cũng vừa bắt đầu,
ông được cử đi tham quan mấy vụ đấu tố điển hình ở Việt Bắc"[14].
Nguyễn
Thụy Kha, viết về chuyến đi Liên Xô như sau:
"Được
chọn đi thăm Liên Xô trong phái đoàn của ông Trần Huy Liệu, Văn Cao lần đầu
tiên xuất ngoại, lần đầu tiên mở mắt nhìn ra thế giới của chủ nghiã xã hội -
một lý tưởng mà chàng tôn thờ, đeo đuổi suốt tuổi trẻ (...) Ngay sau cách mạng
tháng Tám thành công, cái chết đầy bí hiểm của Vũ Quý -người giác ngộ chàng,
dẫn dắt chàng vào con đường cách mạng- đã làm chàng choáng váng (...) Sang Liên
Xô, tận mắt nhìn thấy, tiếp xúc với "thành trì của chủ nghiã xã hội",
"Thiên đường của loài người", Văn Cao mới vỡ lẽ ra nhiều"[15].
Có
thể nói, chuyến đi Liên Xô 1952, đối với Văn Cao tương tự như chuyến đi Liên Xô
1936 đối với André Gide: họ đã nhìn thấy mặt thật của "thiên
đường".
1954,
hòa bình lập lại, Văn Cao phụ trách ban nhạc đài Phát thanh Hà Nội.
1956,
tham gia NVGP với bài thơ Anh có nghe không, đăng trên Giai
Phẩm Mùa Xuân. Sáng tác trường ca Những người trên cửa biển,
một đoạn in trên Nhân Văn số 4.
1958,
bị kỷ luật, không nặng như các thành viên chính, phải đi thực tế Điện Biên cùng
Nguyễn Tuân, Nguyễn Huy Tưởng. Đến Hai Lót, Văn Cao đau dạ dày, được đưa về
bệnh viện Lai Châu.
Sau
Nhân Văn, người ta định chọn Bài ca cách mạng tiến quân của Đỗ
Nhuận để thay thế, nhưng rồi Tiến quân ca vẫn được giữ lại.
Các tác phẩm khác của Văn Cao bị cấm. Chìm vào quên lãng trong ba mươi năm, Văn
Cao sống cô đơn và gian khổ như các thành viên NVGP khác. Ông vẽ bìa sách, minh
họa cho các báo, trang trí sân khấu, làm nhạc đệm cho một số phim... Sau ngày thống
nhất đất nước, Văn Cao sáng tác Mùa xuân đầu tiên (1976),
không được hát, có lẽ vì những câu "Từ đây người biết thương
người. Từ đây người biết yêu người".
1980,
Hiến Pháp mới không ghi Tiến quân ca là quốc ca. Trong các
buổi chào cờ, người ta cử nhạc. Không lời.
1981,
một cuộc "vận động sáng tác quốc ca" được tổ chức quy mô, có thi
tuyển, kéo dài trong 2 năm, nhưng cuối cùng vẫn không chọn được bài nào thay
thế.
1983,
lễ mừng Văn Cao 60 tuổi được tổ chức. Các bản nhạc Thiên Thai, Trương
Chi, Suối Mơ... được tình diễn trở lại.
1988,
Văn Cao được chính thức "phục hồi" cùng các thành viên NVGP. Tập nhạc Thiên
Thai và tập thơ Lá được phép xuất bản.
18/8/1991,
trên báo Tiền Phong chủ nhật số 26, xuất hiện bài viết: Tiến quân ca có
hai tác giả? của Tô Đông Hải. Lập luận: Văn Cao chỉ viết phần nhạc,
lời của Đỗ Hữu Ích. Văn Cao trả lời, trong bài phỏng vấn của Nguyễn Thụy Kha
ngày 7/10/91[16].
1993,
Quốc hội xác định: Tiến quân ca là quốc ca Việt Nam.
Văn
Cao mất ngày 10/7/1995, tại Hà Nội.
● Tác phẩm
Ca
Khúc: Buồn tàn thu (1939), Thiên thai (1941), Suối
mơ (1942), Thu cô liêu (1942), Bến xuân (1942-1945,
sửa lời và đổi thành Đàn Chim Việt), Cung đàn xưa (1942), Trương
Chi (1942), Vui lên đường, Gió núi, Anh em khá cầm tay,Chiều
buồn trên Bạch Đằng Giang (1941), Gò Đống Đa (1942), Thăng
Long hành khúc ca (1943), Tiến quân ca (1944), Chiến
sĩ Hải quân (1945), Chiến sĩ Không quân (1945) Bắc
Sơn (1945), Chiến sĩ Việt Nam (1945), Làng
tôi (1947), Sông Lô(1947), Ngày mùa (1948), Tiến
về Hà Nội (1949), Ca ngợi Hồ Chủ tịch (1949), Mùa
xuân đầu tiên (1976)... (Năm sáng tác ghi ở đây không chính xác vì các
tài liệu viết khác nhau).
Đã
in: Thiên Thai, tuyển tập nhạc Văn Cao (Trẻ, 1988), Lá (Tác
Phẩm Mới, 1989), 28 bài; Tuyển tập Văn Cao (Văn Học, 1994) gồm
các bài đã in trong Lá, thêm 20 bài nữa.
● Văn Cao có để lại hồi ký
không?
Viết
về Văn Cao, câu hỏi đầu tiên là: Văn Cao có để lại hồi ký không?
Có
hai cuốn sách đáng chú ý: Văn Cao, người đi dọc biển của
Nguyễn Thụy Kha[17] trình
bày như lời "ký thác" của Văn Cao. Và cuốn Nhạc sĩ Văn Cao,
tài năng và nhân cách của Bích Thuận[18] trình
bày như lời "ký thác" của bà Văn Cao Nghiêm Thúy Băng.
1-
Nguyễn Thụy Kha là một trong những cây bút trẻ gần gụi Văn Cao lúc cuối đời.
Tác phẩm viết giọng tự thuật, như lời nhạc sĩ kể lại, nói lên được phần nào tâm
sự Văn Cao. Tuy nhiên, có những nhược điểm: Không rõ đâu là lời Văn Cao, đâu là
lời Thụy Kha. Không rõ chỗ nào thực, chỗ nào Thụy Kha thêm vào.Thí dụ, đoạn
viết về Tiến quân ca, nếu đem so sánh với bản hồi ký đích thực của
Văn Cao tựa đề Bài Tiến quân ca in trên Sông Hương[19] năm
1987, thì đã bị cắt xén rất nhiều. Những chỗ có tên Ph. D (Phạm Duy) đã biến
mất. Có đoạn sửa đi và thêm vào mấy chữ mơ hồ cho người ta hiểu đó là Nguyễn
Đình Thi. Thụy Kha viết: "Căn gác số 171 phố Mông-grăng, Hà Nội
chợt lặng phắc như vừa qua bão tố. Vũ Quý và Nguyễn Đình Thi đã đi chỉ còn lại
Văn Cao với bản nháp bài "Tiến quân ca". Mới ít phút trước, căn gác
còn vang lên giọng hát trầm ấm của Văn Cao trong nhịp hành khúc rắn rỏi này.
Vẫn còn nguyên gương mặt xạm đen của Vũ Quý. Đôi mắt và nụ cười lấp lánh. Nụ
cười thật hài lòng. Vẫn còn nguyên gương mặt đẹp trai của Nguyễn Đình Thi và nụ
cười hồn nhiên khi nhẩm xướng âm bài hát. Thi còn nói với Văn Cao: "Văn ạ,
chúng mình thử mỗi người làm một bài về mật trận Việt Minh xem sao"[20].
Trong
đoạn này, Nguyễn Thụy Kha cho biết: Nguyễn Đình Thi và Vũ Quý chứng kiến sự ra
đời của Tiến Quân Ca. Văn Cao hát. Nguyễn Đình Thi nhẩm
xướng âm bài hát, tại số 171 phố Mông-grăng, Hà Nội.
Nhưng
Văn Cao không viết vậy -Xin đọc toàn bài của Văn Cao trong phụ bản ở dưới-
Văn Cao cho biết khi ông sáng tác Tiến Quân Ca thì Phạm Duy ở
cùng và:"Anh [Phạm Duy] rất tôn trọng những phút tôi
ngồi vào bàn với tập bản thảo và chờ đợi âm thanh từng câu nhạc được nhắc đi
nhắc lại. Anh là người chứng kiến sự ra đời của bài Tiến quân ca"
Văn
Cao viết Phạm Duy là người chứng kiến sự ra đời của Tiến Quân Ca.
Và ở một đoạn sau, ông mới nhắc đến Vũ Quý và Nguyễn Đình Thi:
"Trước
mắt tôi mảnh trời xám và lùm cây của Hà Nội không còn nữa. Tôi đang sống ở một
khu rừng nào đó trên kia, trên Việt Bắc. Có nhiều mây và nhiều hy vọng.
Và
bài hát đã xong. Tôi nhớ lại nụ cười thật hài lòng của đồng chí Vũ Quý. Da mặt
anh đen xạm, đôi mắt và nụ cười của anh lấp lánh. Tôi nhớ lại nụ cười hồn nhiên
của đồng chí Nguyễn Đình Thi khi xướng âm lần đầu tiên nhạc điệu bài hát đó.
Thi nói với tôi:
-
Văn ạ, chúng mình thử mỗi người làm một bài về Mặt trận Việt Minh xem
sao?"
Đoạn
văn này có nghiã: Văn Cao đang ở Việt Bắc, lùm cây của Hà Nội không còn nữa, và
ông nhớ lại nụ cười thật hài lòng của đồng chí Vũ Quý và nụ cười hồn nhiên của
đồng chí Nguyễn Đình Thi khi xướng âm lần đầu tiên nhạc điệu bài hát đó. So với
đoạn trên, ông viết về việc Phạm Duy chứng kiến sự ra đời của Tiến quân
ca, thì phải hiểu rằng: khi lên Việt Bắc, Văn Cao mới đưa nhạc phẩm cho hai đồng
chí Vũ Quý và Nguyễn Đình Thi xem, ông gọi họ là đồng chí,
trong khi gọi Phạm Duy là anh, có khác. Cũng không thấy Văn Cao nói
đến khuôn mặt đẹp trai của Nguyễn Đình Thi, đấy là Nguyễn Thụy Kha
thêm vào. Tóm lại, chỉ cần thay đổi vị trí, thêm, bớt một vài câu chữ, là ý
nghĩa văn bản có thể hoàn toàn thay đổi.
Bài
hồi ký tựa đề Bài tiến quân ca của Văn Cao đăng trên Sông
Hương năm 1987, không đề ngày viết, được cắt ngắn, thành bài Tại sao
tôi viết Tiến quân ca[21], và
đề ngày 7/7/76 để có vẻ như viết trước bản Sông Hương. Nhưng cũng không loại
trừ khả năng bản Sông Hương được viết từ trước 1976, đến khi được đăng lần đầu,
đề ngày 7/7/76, thì bị cắt xén và sửa chữa. Đến năm 1987, thời kỳ đổi mới, Văn
Cao gửi cho báo Sông Hương bản đầy đủ.
Bởi
vì khi so sánh hai văn bản, thì bản 7/7/76, ngoài việc cắt bỏ, sửa các lỗi có
trong bản Sông Hương, câu văn cũng được "biên tập" lại: ngắn gọn hơn,
thêm chấm phẩy, làm mất thi tính trong nguyên tác. Người biên tập lại không có
trình độ văn hoá của Văn Cao, ví dụ, câu "những băng cờ đỏ sao vàng đã
thay những băng vàng của chính phủ Trần Trọng Kim" của ông được
sửa thành "Những băng cờ đỏ sao vàng đã thay cho những băng vàng
bẩn thỉu của chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim". Văn Cao không
viết như vậy. Một người tự trọng không viết như vậy. Huống hồ tác giả Tiến
Quân Ca không thể không biết rõ lịch sử, biết rõ công việc của chính
phủ Trần Trọng Kim.
2-
Cuốn sách của Bích Thuận có ý lãng mạn hoá và tô điểm cho Văn Cao trở thành nhà
cách mạng trung thành với Bác và Đảng. Một điểm đáng lưu ý, ở chỗ bà trích một
đoạn hồi ký của Văn Cao, viết về bài Tiến Về Hà Nội, có câu: "Văn
Cao viết trong hồi ký: "Tôi còn nhớ trong một buổi họp ở chi bộ Liên Khu
Ba, tôi đã hứa với các đồng chí Khuất Duy Tiến, Lê Quang Đạo là tôi sẽ viết một
ca khúc về Hà Nội. Tối hôm ấy, tôi đã cùng ăn cơm với anh Lê Quang Đạo. Anh Đạo
đã nắm chặt tay tôi và nói..." Trích đoạn này dài hơn một trang[22].
Chỉ nhờ câu "Văn Cao viết trong hồi ký" mà chúng ta biết Bích
Thuận đã được đọc hồi ký của Văn Cao, ít nhất là một mảng, ngoài Bài
Tiến Quân Ca, đã in trên Sông Hương.
Cuốn
sách của Nguyễn Thụy Kha, đoạn mô tả Văn Cao lùng "Việt gian"V.V.C,
có những chi tiết mà ngoài Văn Cao không ai biết được. Rồi những câu như: "Sông
Hương, quả là một lưỡi kiếm dựng giữa trời xanh - Tiếng nước rơi bán âm - Chợt
xé ra một nỗi nhớ sông Hương trong cảm xúc, v.v...", xem ra rất
Văn Cao, lác đác trải dài trong tác phẩm.
Vậy
nguồn của những câu, những chữ ấy là đâu? Nếu lấy từ những trang hồi ký đích
thực của Văn Cao, thì hiện giờ toàn bộ cuốn hồi ký ở đâu?
Nguyễn
Thụy Kha và Bích Thuận đã "làm việc" như thế nào với những trang hồi
ký mà có thể họ đã được đọc bản chính ấy? Để ghi lại chân dung một người, không
gì bằng in thẳng những điều người ấy viết, trước hết, vì tôn trọng sự thật của
tác giả và nhất là khi người ấy có bút pháp độc đáo như Văn Cao, vì tôn trọng
văn chương của tác giả.
3-
Đây là sự kiện thường xẩy ra ở Việt Nam. Phát xuất từ những lý do:
-
Sự trừng trị của chính quyền đối với những chữ, những câu, những tác phẩm không
đi đúng đường lối của Đảng - kiểm duyệt, tịch thu, cách chức Tổng biên tập,
v.v...
-
Sự sợ hãi và sự tự kiểm của nhà xuất bản.
-
Sự an phận, đồng tình của giới văn học -kể cả những người ở ngoài về in trong
nước- nói theo một trí thức nổi tiếng "cái nước mình nó thế!" Biết
nó thế thì phải hành động làm sao cho nó thay đổi đi. Nhưng không.
Chấp nhận. Lý lẽ: thà bị cắt, nhưng được in còn hơn không!
-
Sự sợ hãi của tác giả, hoặc thân nhân - nếu tác giả đã qua đời. Đặc biệt, đối
với những gia đình NVGP, sau gần nửa thế kỷ bị trù dập, không mấy ai còn muốn
đối đầu. Họ muốn xoá "dấu chàm" trên trán để có thể sống
bình thường. Muốn được chính quyền "nhìn nhận". Các giải
thưởng, huân chương, chính là sự "nhìn nhận" ấy. Những người
Nhân Văn "được" giải thưởng lúc cuối đời, bị đứng
trước lựa chọn: gia đình hay khí phách. Họ đã chọn gia đình. Nhận giải thưởng
không vì tùng phục mà vì thương gia đình, muốn con cháu thoát nạn Lý
lịch ba đời mấy đứa con thơ, như lời Lê Đạt.
-
Những điều đã bị bỏ, bị sửa, dưới mắt người kiểm duyệt và người bị kiểm duyệt,
có thể chỉ là những "chi tiết không quan trọng". Nhưng
nhiều "chi tiết không quan trọng", bị đục bỏ, thêm
thắt, xuyên tạc có thể thay đổi hẳn cục diện tác phẩm. Bằng chứng trước mắt là
văn bản Bài Tiến Quân Ca của Văn Cao. Đó là một hình thức ngụy
tạo tác phẩm, ngụy tạo sự thật. Nhiều tác phẩm ngụy tạo sẽ dựng nên một lịch sử
ngụy tạo.
-
Một câu hỏi đặt ra: Tại sao báo Sông Hương, tháng 7-8/1987 do Tô Nhuận Vỹ tổng
biên tập và Nguyễn Khắc Phê phó tổng biên tập đã "dám" in
đầy đủ bài của Văn Cao không cắt xén, mà sau này không ai "dám"
in lại văn bản này?
Tình
trạng chung của sách báo miền Bắc trước 1975 và cả nước sau 75, về văn học hay
lịch sử cận đại, là đương nhiên phải gạt bỏ những người bị chính quyền coi là "phản
động", là "ngụy", nghiã là một
nửa nước ra ngoài.
Người
nghiên cứu nếu muốn tác phẩm của mình tồn tại sau thời kỳ cộng sản, thì không
thể chỉ viết về một nửa nước. Không ai cần biết Nguyễn Du, Xuân Hương... có
"trung thành" hay "phản động" đối với Nguyễn Huệ hay Nguyễn
Ánh. Nhưng một cuốn sách viết về văn học thời kỳ Nguyễn Huệ-Nguyễn Ánh mà gạt
Nguyễn Du, Xuân Hương... ra ngoài, sẽ là vô dụng.
● Văn Cao Phạm Duy trước
kháng chiến
Người
viết hay nhất và đầy đủ nhất về Văn Cao là Phạm Duy. Phạm Duy có thói quen ghi
chép khá cặn kẽ các sự kiện và những sáng tác hay của các bạn. Riêng với Văn
Cao, Phạm Duy chép từ những bản nhạc hướng đạo rất ít người biết, đến những lời
hai, tuyệt vời của bản nhạc mà ca sĩ lười không hát, như trường hợp Trương
Chi.
Tạ
Tỵ viết: "Phải thừa nhận rằng, nếu không có giọng hát của Phạm
Duy, nhạc Văn Cao cũng khó mà phổ biến; trái lại nếu không có Văn Cao, chưa
chắc Phạm Duy đã sáng tác! Cả hai hỗ trợ nhau, cùng dìu nhau đi vào bất
tử!"[23]
Theo
Phạm Duy là khi ông theo gánh hát Đức Huy-Charlot Miều xuống Hải Phòng, nhưng
có chỗ ông ghi 1943, chỗ 1944. Phải đọc kỹ những chi tiết Phạm Duy viết, thì
mới biết lúc đó Văn Cao còn "đang thất nghiệp" và đã
sáng tác những bản Buồn tàn thu, Thu cô liêu, Cung đàn xưa... Vậy
họ gặp nhau sớm hơn 43-44; chắc chắn trước khi Văn Cao sáng tác Suối mơ và Bến
xuân, năm 42, bởi vì Phạm Duy có đóng góp trong hai tác phẩm này, cho
nên Tạ Tỵ viết: "Khi hai nhạc phẩm được in ra, tên Phạm Duy xuất
hiện lần thứ nhất trước công chúng, bên cạnh tên Văn Cao" [24].
Sở
dĩ có sự lộn xộn về ngày tháng, vì Phạm Duy vác đàn đi khắp đất nước, riêng Con
đường cái quan (xuyên Việt) ông đi về ít nhất 5 lần trong kháng chiến,
và Văn Cao cũng viết: "Tôi thường nhìn Ph. D. mỗi lần anh đóng gói đi
xa và lắng nghe tiếng còi tàu ngoài ga Hàng Cỏ để chờ một chuyến tàu đêm"[25].
Nguyễn
Thụy Kha cũng ghi lại lời tâm sự của Văn Cao khi ở Huế năm 1940:"Đầu
năm nay nó xuống Hải Phòng. Và "Buồn tàn thu" đã được nó
lôi đi hát vang lên trên các nẻo đường xứ Bắc. Và thế là người yêu nhạc chốn Hà
Thành đã biết có một Văn Cao tiếp sau Đặng Thế Phong"[26].
Đầu
năm nay, tức là đầu năm 1940, nó tức là Phạm Duy.
Vậy Văn Cao gặp Phạm Duy lần đầu, khoảng đầu năm 1940, là hợp lý hơn cả. Từ
đó phát xuất một tình bạn lâu dài trong sáng tác, trong hoạt động cách mạng.
Về
gia cảnh Văn Cao, Phạm Duy viết:
"Văn
Cao là tên thật, họ Nguyễn, ra đời sau tôi vài năm tại bến Bính, bên dòng sông
Cấm. Cha (hay anh ruột, tên là Tú) làm cai của nhà máy bơm nước ở bờ sông đó
nên suốt thời niên thiếu, anh sống trong nhà máy nước này. Học tiểu học tại trường Bonnal, trung học ở
trường Saint Joseph, Văn Cao đã có khiếu văn nghệ ngay từ khi còn đi học. Ăn ở
trong một căn nhà nhỏ có cái máy bơm rất lớn nằm chình ình giữa nhà suốt ngày
đêm hút nước từ dưới sông lên không lúc nào ngừng nghỉ, Văn Cao còn vất vả hơn
nữa là phải lấy một tấm phản kê lên máy bơm để làm bàn học. Sau này nhớ tới
"giọng máy bơm nước", Văn Cao sẽ có câu thơ:
Anh muốn giơ tay lên mặt trời
Để vui da mình hồng hồng sắc máu
Mấy năm một điệu sáo
Như giọng máy nước thâu đêm chảy...
Anh có nghe không, trong Lá,
tuyển tập thơ Văn Cao.
Thấp bé hơn tôi, khép kín hơn tôi, nhưng Văn
Cao tài hoa hơn tôi nhiều. Chắc chắn là đứng đắn hơn tôi. Lúc mới gặp nhau, anh
ta chưa dám mày-tao với tôi, nhưng tôi thì có cái tật thích nói văng mạng (và
văng tục) từ lâu, kết cục, cu cậu cũng theo tôi mà "xổ chữ nho".
Nhưng Văn Cao bản tính lầm lỳ, ít nói, khi nói thì bàn tay gầy gò luôn luôn múa
trước mặt người nghe. Anh ta thích hút thuốc lào từ khi còn trẻ, có lần say
thuốc ngã vào tay tôi. Về sau, anh còn nghiện rượu rất nặng"[27].
Nhận xét về thơ Văn Cao, Phạm Duy viết:
"Vào năm 1941 mà anh đã có những câu thơ
nghe như thơ Huy Cận:
Sông chầm chậm chảy trong mưa
Nghe chừng cô gái đã thưa nhát chèo
Mưa trong trăng tiếng nhỏ đều
Bến mờ mịt: mấy mái lều bơ vơ
-
Đêm mưa
Chưa gặp Văn Cao nhưng tôi đã biết tài soạn
nhạc qua mấy bài nhạc hùng của anh rồi. Khi tới Hải Phòng, sau khi gặp Hoàng
Quý tôi tìm đến Văn Cao. Cũng như tất cả thanh niên "mỏ trắng" (blanc
bec) thời đó, Văn Cao đang thất nghiệp sau một tháng làm việc tại Nhà Bưu Điện.
(...) Gặp tôi đang lập cuộc đời mới trong một gánh hát thì kết thân ngay. Lúc
đó, tôi đã tập toẹ đánh đàn với các nhạc sĩ trong ban nhạc Tây của gánh Đức Huy
(...) Và tôi đã hát cho Văn Cao nghe. Nghe xong, Văn Cao vội vàng đưa cho tôi
dăm ba bài anh ta mới làm xong. Lúc đó bên cạnh hai đứa chúng tôi còn có Đỗ Hữu
Ích, con ông chủ bán đồ sắt phố Hàng Đồng, soạn lời ca rất hay. Đa số những bản
đầu tay của Văn Cao đều đã được Đỗ Hữu Ích giúp đỡ phần lời ca"[28].
Điểm đáng chú ý là Phạm Duy không
hề nhắc đến việc ông giúp bạn làm lời các bài Suối mơ, Bến xuân -vì
lần in đầu có tên Phạm Duy. Ngược lại, ông nhắc nhiều đến công của Đỗ Hữu Ích.
Có thể vì Phạm Duy đã có một sự nghiệp âm nhạc đồ sộ Ngàn lời ca,
với 45 ca khúc trong 6 năm kháng chiến, trong khi Đỗ Hữu Ích không mấy ai biết
đến. Phạm Duy cũng giải thích việc bạn bè phụ giúp Văn Cao:
"Có đôi khi Văn Cao
không hoàn tất vài ba sáng tác của mình, có thể vì anh là người vung vãi tài
hoa nhưng thiếu tự tin. Bạn bè ở bên anh có cơ hội giúp anh hoàn thành những gì
anh bỏ dở. Cũng nên biết rằng những bài hát đầu tiên của Văn Cao, về phần lời
ca, còn có thêm sự phụ giúp rất hữu hiệu của một anh bạn khác là Đỗ Hữu
Ích"[29].
"Bạn
bè" ở đây, ngoài Phạm Duy, còn có cả Hoàng Quý, Kim Tiêu[30].
Việc tranh chấp sau này về lời bản Tiến quân ca, dường như cũng
trong bối cảnh ấy: có thể Đỗ Hữu Ích đã phụ giúp ý kiến. Bởi nếu Đỗ Hữu Ích làm
lời cả bài Tiến Quân Ca, thì tại sao ông lại không "kiện"
Văn Cao, ít nhất từ sau 1954, mà lại để đến 1991 mới lên tiếng?
Về tính nhút nhát của Văn Cao, Phạm Duy viết: "Lúc
đó, Văn Cao đã nổi danh vì những bản nhạc thanh niên và hướng đạo nhưng nếu có
ai hỏi anh có phải là nhạc sĩ Văn Cao hay không thì không hiểu vì sao cu cậu cứ
trả lời là không!"[31] Văn Cao cũng xác nhận sự nhút nhát này: "Mày
ơi! Vì sao mày đưa nàng đến để cùng tập những bài hát đầu tay của tao (...) Tao
chỉ là một Văn Cao hết sức nhút nhát trước phái yếu. Nhút nhát đến gàn dở.
Tuyết đến rồi qua nhanh khi Sài Gòn lùi lại sau lưng. Mày đã biết rồi đấy, tao
bao lần không dám nhận mình là Văn Cao"[32].
Đặt
Văn Cao trong bối cảnh Tân Nhạc Việt Nam trước kháng chiến với hai loại Nhạc
hùng và nhạc tình, Phạm Duy xác định sự
đóng góp của Văn Cao: "Bây
giờ hai nhóm Tiếng gọi sinh viên và Đồng Vọng tung ra những bài như Vui Xuân,
Bạn Đường, Bạch Đằng Giang của Lưu Hữu Phước, Đêm Trong Rừng, Bóng Cờ Lau, Nước
Non Lam Sơn của Hoàng Quý. Đều là những bài hát hay nhưng chỉ hay một cách bình
thường. Văn Cao đóng góp vào loại nhạc hùng này với những bài như Vui Lên
Đường, Gió Núi, Anh Em Khá Cầm Tay, Đống Đa, Thăng Long Hành Khúc... Theo tôi,
những hướng đạo ca và thanh niên-lịch sử ca của Văn Cao có nhiều souffle (hơi
thở) hơn trong câu nhạc và có nhiều tính thơ hơn trong lời ca. Trong những bài
ca hướng đạo Anh Em Khá Cầm Tay, Gió Núi ta đã thấy manh nha những phóng bút
tuyệt vời của Chiến Sĩ Việt Nam, Bắc Sơn hay Thiên Thai, Trương Chi sau này
(...) Về phần nhạc hùng thì bài Đống Đa với câu ca: "Tiến quân hành khúc
ca, thét vang rừng núi xa... nó phải dẫn tời bài Tiến quân ca của Cách Mạng
Tháng Tám" [33].
Về nhạc tình của Văn Cao, Phạm Duy viết: "Vào
đầu thập niên 40, nhạc tình ở Hà Nội nằm trong tay nhóm Myosotis (Hoa Lưu Ly)
với những bài như Thuyền Mơ, Khúc Yêu Đương, Hồ Xưa... của Thẩm Oánh, Tâm Hồn
Anh Tìm Em của Dương Thiệu Tước và trong tay nhóm Tricéa với những bài như Đoá
Hồng Nhung, Bóng Ai Qua Thềm của Văn Chung, Bẽ Bàng của Lê Yên, Cô Lái Thuyền,
Biệt Ly của Dzoãn Mẫn. Nhạc tình đang phổ biến dữ dội lúc đó cũng còn là của
một người Nam Định, Đặng Thế Phong với ba bài hát mùa Thu: Đêm Thu, Con Thuyền
Không Bến và Giọt Mưa Thu... Ở Hải Phòng, nhạc tình là địa hạt của Lê Thương
với những bài đầu tay rất hay như Bản Đàn Xuân, Một Ngày Xanh (hay Bên Bờ Đà
Giang), Nàng Hà Tiên... Nhất là với bài Thu Trên Đảo Kinh Châu soạn trên âm
giai Nhật Bản và đang rất thịnh hành (đến độ đi vào nhạc mục của Hát Quan Họ ở
Bắc Ninh).
Trong không khí nhạc tình lãng mạn toàn nói
về mùa Thu như vậy, chàng tuổi trẻ Văn Cao cũng soạn ra những bài hát mùa Thu
như Thu Cô Liêu, Buồn Tàn Thu... nhưng chưa bao giờ anh có cơ hội để phổ biến.
Tôi sẽ là người đầu tiên đem nhạc của Văn Cao đi - nói theo lời Văn Cao đề tựa
trong một bài hát - gieo buồn khắp chốn. Danh từ người du ca đầu tiên cũng do
chính Văn Cao đã gán cho tôi với một sự thèm sống cuộc đời "xướng ca vô
loài" như tôi lắm lắm"[34].
Sau khi phân tích giá trị từng tác phẩm của Văn Cao, Phạm
Duy xác định:
"Nếu đem so sánh với những bản nhạc tình của
50 năm Tân Nhạc thì những bài Suối Mơ, Bến Xuân là cực điểm của lãng mạn tính
trong ca nhạc Việt Nam. Sẽ không bao giờ có những bài ca lãng mạn như thế nữa! (...) Khi Thiên Thai và Trương Chi ra
đời, với tài năng đã đến độ chín mùi, Văn Cao sẽ dắt ta tới đỉnh cao nhất của
ái tình cũng như sẽ đưa ta vào cõi sâu thẳm nhất của khổ đau với hai câu chuyện
cổ dân gian biến thành hai bản tình ca muôn thủa"[35].
● Văn Cao họa sĩ
Phạm
Duy học Mỹ thuật Đông Dương một năm (1940-1941) với các thày Nam Sơn, Georges
Khánh, Tô Ngọc Vân... và cùng lớp với Võ Lăng, Đinh Minh, Mai Văn Hiến, Bùi
Xuân Phái, Phan Kế An, Quang Phòng, Phan Tại, Nguyễn Thanh Đức, Tạ Thúc Bình,
Trần Phúc Duyên... Phạm Duy viết:
"Học
trước chúng tôi vài năm là Tạ Tỵ, Phạm Văn Đôn, Trần Văn Lắm, Nguyễn Thị Kim...
(...) Tạ Tỵ vẽ dessin hoặc vẽ tranh sơn dầu theo lối cổ điển hay ấn tượng
(impressionisme) rất thành công, nhưng anh lại chọn con đường lập thể (cubisme)
của Picasso. Ngoài Tạ Tỵ ra tôi không thấy có họa sĩ Việt Nam nào dám đi vào
loại tranh đó cả. Tạ Tỵ còn đi xa hơn nữa khi anh đi vào loại tranh vị lai
(futurisme)"[36].
Sự
cách tân hội họa của Văn Cao, sẽ được Tạ Tỵ[37] nhận
định trong bối cảnh chung của hội họa Việt Nam thập niên bốn mươi:
"Vào
những năm 40-41, tôi học chung với nhiều bạn nhưng chỉ có vài người có tinh
thần tiến bộ như Nguyễn Đăng Trí, Bùi Xuân Phái và Nguyễn Sáng. Cả ba đều học
dưới tôi vài lớp. (...) Bùi Xuân Phái người Hà Nội, có đôi mắt to sáng, vầng
trán cao với bộ râu đỏ hoe và nụ cười khinh bạc (...) Anh thích vẽ phố vì nhà
anh ở gần phố Hàng Thiếc, Hàng Điếu, Hàng Hòm là những con phố cổ của Hà Nội
ngày xưa (...) Do vậy, về sau anh em thường gọi đùa là "Phái Phố"!
Tôi và Bùi Xuân Phái sau này còn rất nhiều dịp sống gần nhau để tạo nên kỷ niệm
(...) Còn Nguyễn Sáng, người miền Nam, tình tình nóng nẩy. Sáng cũng có vầng
trán thật cao, thân xác khỏe mạnh như lực sĩ (...) Nguyễn Sáng khéo tay lắm,
nhất là tranh thiếu nữ vẽ trên lụa (...)
"Phạm
Duy và Văn Cao cũng có một thời gian theo học Mỹ Thuật cũng như Phan Tại, nhà
đạo diễn kịch sau này, nhưng cả ba đều bỏ ngang, có lẽ vì không thích hợp. Chỉ
riêng Văn Cao vẫn vẽ, có vài tác phẩm được trưng bày tại Salon Unique năm 1943
do chính phủ Pháp tổ chức. Tác phẩm mang tựa đề "Những kẻ tự sát"
(Les suicidés) với bút pháp phong phú gây được nhiều thiện cảm của giới yêu mỹ
thuật lúc ấy. Qua tác phẩm này, ý thức cách mạng đã có ở Văn Cao nhưng chưa ai
biết (...)
Văn
Cao khi ở Hải Phòng, khi lên Hà Nội, mỗi lần có mặt ở thành phố, Văn Cao thường
đến tìm tôi mời lại căn nhà ở trong con ngõ nhỏ đường Hàm Long để khoe tranh
mới. Trong khoảng thời gian từ 42 đến 45, tôi đâu biết Văn Cao đã dấn thân vào
cách mạng, hoạt động bí mật cho Mặt Trận Việt Minh. Quả thật tôi không để ý đến
cách mạng và chính trị nên thường có những lập luận đối nghịch với Văn Cao về
sáng tác. Văn Cao cho rằng nghệ thuật chỉ có ý nghĩa khi nó phục vụ cho số đông
và một bức tranh đẹp phải truyền cảm, gây được ấn tượng tốt cho người xem
tranh. Còn tôi cho rằng nghệ thuật, bất cứ ở bộ môn nào, trước hết, phải có bản
sắc cũng như đặc tính của nghệ phẩm. Một bức tranh đẹp không cần sự giải thích,
chỉ cần sự cảm thông giữa người xem tranh và tác phẩm (...) Nhưng tuy miệng nói
vậy, chứ Văn Cao vẽ cũng mới lắm; những bản nhạc như Buồn Tàn Thu, Suối Mơ,
Thiên Thai, Trương Chi, v.v... được in ra đều do Văn Cao trình bày bìa đi rất
gần với trường họa lập thể, mà hồi đó chưa có một bản nhạc nào, cuốn sách nào
trình bày dưới hình thức đó"[38].
Tạ
Tỵ còn gặp lại Văn Cao nhiều lần trong kháng chiến và cũng chính ông là người
sẽ thuật lại sinh hoạt hội họa trong kháng chiến. Bây giờ hãy tìm hiểu về giai
đoạn cách mạng tháng Tám, giai đoạn Tiến Quân Ca và những ngày
lịch sử.
1945,
là thời điểm bản lề, phát xuất sự phân chia Quốc Cộng, phân chia Nam Bắc, phân
chia chiến tuyến. Theo Lại Nguyên Ân thì người nghiên cứu ngoài Bắc có rất ít
tư liệu văn học về thời kỳ này, phải nhờ đến những bài báo của Vũ Bằng trên Trung
Bắc chủ nhật, mà ông vừa tìm lại, mới biết được những sự việc như: "Học
giả Trần Trọng Kim trong vai trò thủ tướng; việc khôi phục Hà Nội trong quy chế
một thành phố của nước Việt Nam độc lập; việc Hà Nội khôi phục đền Trung Liệt
thờ những bậc quản thủ đã tử tiết vì thành phố..."[39]
1945,
là năm sôi động nhất của lịch sử cận đại và Tiến Quân Ca lần
đầu tiên đến với quần chúng.
Để
giúp bạn đọc dễ theo dõi tiến trình hành động và sáng tác của Văn Cao và các
văn nghệ sĩ thời đó, chúng tôi xin nhắc lại một số mốc lịch sử sau:
▪
04/2/1945, Hội nghị tối cao Đồng Minh họp tại Yalta, chia thế giới làm hai khu
vực: vùng ảnh hưởng Nga và vùng ảnh hưởng Anh Mỹ.
▪
Tháng 3/1945 (Ất Dậu), nhiều ngàn người chết đói ở Bắc.
▪
09/3/45, Pháp đầu hàng Nhật.
▪
10/3/45, Nhật tuyên bố: ủng hộ cuộc đấu tranh giành độc lập của các dân tộc
Đông Dương.
▪
11/3/45, Viện Cơ Mật Huế thông báo: hủy bỏ hiệp ước bảo hộ 1884. Việt Nam khôi
phục chủ quyền.
▪
17/3/45, vua Bảo Đại tuyên chiếu: đích thân cầm quyền theo nguyên tắc Dân Vi
Quý.
▪
17/4/45, Bảo Đại ủy Trần Trọng Kim lập chính phủ, thành phần: Hoàng Xuân Hãn,
Phan Anh, Vũ Văn Hiền, Trịnh Đình Thảo, Trần Đình Nam, Hồ Tá Khanh, Lưu Văn
Lang, Trần Văn Chương, Nguyễn Hữu Thi.
Dùng
cờ quẻ LY làm quốc kỳ và tiếp tục lấy Đăng đàn cung làm quốc
ca. Trần Trọng Kim giải thích:
"Nước
Việt Nam đã là một nước tự chủ thì phải có quốc kỳ và quốc ca. Bài quốc ca thì
từ trước vẫn dùng bài "Ðăng Ðàn" là bài ca rất cổ, mà âm điệu nghe nghiêm
trang. Chúng tôi nghĩ: trước khi có bài nào hay hơn và có nghĩa lý hơn thì hãy
cứ dùng bài ấy.
Còn
lá quốc kỳ, mỗi người bàn một cách, chúng tôi định đem hỏi mọi người trong nước
và ai có ý kiến gì, thì vẽ kiểu gửi về. Có kiểu lá cờ vàng có quẻ Ly ở giữa là
có ý nghĩa hơn cả. Chúng tôi định lấy kiểu ấy làm quốc kỳ.
Lá
cờ vàng là từ xưa nước ta vẫn dùng. Trong sách Quốc Sử Diễn Ca nói khi bà Triệu
Ẩu nổi lên đánh quân Tàu, đã dùng lá cờ ấy khởi nghĩa, nên có câu rằng
"Ðầu voi phất ngọn cờ vàng". Vậy lấy sắc cờ vàng là hợp với cái ý
cách mệnh của tổ quốc, lấy dấu hiệu quẻ Ly là vì trong lối chữ tối cổ của ta có
tám chữ viết bằng vạch liền (dương) và những vạch đứt (âm) để chỉ tám quẻ, chỉ
bốn phương chính và bốn phương bàng, nói ở trong kinh dịch, mà quẻ Ly chủ
phương nam. Chữ Ly còn có nghĩa là lửa, là văn minh, là ánh sáng phóng ra bốn
phương.
Lấy
sắc vàng là hợp với lịch sử, lấy quẻ Ly là hợp với vị trí nước nhà lại có nghĩa
chỉ một nước văn hiến như ta thường tự xưng. Như thế là lá cờ vàng quẻ Ly có đủ
các ý nghĩa"[40].
▪
20/7/45, Nhật trả chính phủ Việt Nam các cựu nhượng địa Pháp: Hà Nội, Hải Phòng
Đà Nẵng.
▪
01/8/45, Đốc lý Trần Văn Lai cho phá các tượng Pháp ở Hà Nội: tượng Paul Bert,
Jean Dupuis, Đầm Xoè ở Cửa Nam, Đài kỷ niệm lính Khố Xanh, Khố Đỏ.
▪
09/8/45, Nagasaki bị ném bom nguyên tử.
▪
13/8/45, Đảng Cộng sản Đông Dương họp tại Tuyên Quang, quyết định: Tổng khởi
nghiã, đoạt khí giới quân Nhật, chiếm chính quyền trước khi quân Đồng Minh đến
Đông Dương, lập chế độ Dân Chủ Cộng Hòa.
▪
14/8/45, Nhật trả Nam Bộ cho triều đình Huế.
▪
15/8/45, Nhật Hoàng kêu gọi quân đội đầu hàng. De Gaulle cử Leclerc làm tư lệnh
Lục quân Pháp tại Đông Dương.
▪
17/8/45, công chức Hà Nội biểu tình biểu dương ý chí bảo vệ đất nước, cuộc biểu
tình biến thành biểu tình ủng hộ Mặt Trận Việt Minh. Phạm Duy cướp micro hát Tiến
Quân Ca "lần đầu tiên và duy nhất" tại nhà Hát Lớn Hà
Nội.
▪
19/8/45, biểu tình lớn trước nhà Hát Lớn để nghe tuyên bố của Mặt trận Việt
Minh. Bài Tiến Quân Ca được đoàn Thanh Niên đồng ca.
▪
22/8/45, vua Bảo Đại thoái vị.
▪
02/9/45, chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố Độc Lập tại Ba Đình. Vũ Hoàng Chương làm
bài thơ Ngày Độc Lập, đăng trên Tiên Phong số 24, ngày 1/12/46.
▪
09/9/45, quân đội Trung Hoa bắt đầu tới Hà Nội để giải giới quân Nhật.
▪
05/10/45, tướng Leclerc tới Sàigòn, tuyên bố sẽ bình định Nam Bộ.
▪
22/12/45, Hồ Chí Minh ký thỏa ước với Việt Quốc và Việt Cách (Việt Nam Cách
Mệnh Đồng Minh Hội, Việt Nam Quốc Dân Đảng và Đại Việt) lập chính phủ liên
hiệp.
▪
13/1/46, Vệ Quốc Quân tấn công bộ đội Việt Quốc tại Việt Trì.
Quân
Pháp chiếm xong Nam Bộ, tiếp tục đánh ra Bắc.
▪
2/3/46, thành lập chính phủ liên hiệp với Hồ Chí Minh, chủ tịch; Nguyễn Hải
Thần, phó chủ tịch; Huỳnh Thúc Kháng, bộ trưởng Nội Vụ; Nguyễn Tường Tam, bộ
trưởng Ngoại Giao...
▪
6/3/46, Hồ Chí Minh ký hiệp định Sơ bộ, thừa nhận Việt Nam là quốc gia tự trị
trong Liên Hiệp Pháp.
▪
16/3/46, cố vấn Vĩnh Thụy sang Trùng Khánh.
▪
17/4/46, khai mạc hội nghị Việt Pháp tại Đà Lạt, Nguyễn Tường Tam làm trưởng
phái đoàn. Hội nghị thất bại.
▪
Từ tháng 4/46 trở đi, tình hình rối loạn: quân Tưởng đánh nhau với quân Pháp.
Bộ đội Việt Minh đánh nhau với bộ đội Việt Quốc. Nguyễn Tường Tam sang Tàu.
▪
6/7/46 Khai mạc hội nghị Fontainebleau, Phạm Văn Đồng làm trưởng phái đoàn.
Chương trình nghị sự: Việt Nam và liên bang Đông Dương.
▪
10/9/46, Hội nghị Fontainebleau thất bại.
▪
14/9/46, đang đêm, chủ tịch Hồ Chí Minh thân hành đến nhà riêng của bộ trưởng
Marius Moutet ký thoả ước tạm thời.
▪
2/11/46, Hồ Chí Minh lập chính phủ mới, không còn tính cách liên hiệp.
Tóm
tắt công việc của chính phủ Trần Trọng Kim trong hơn ba tháng cầm quyền, từ
17/4 đến đầu tháng 8/45:
•
Bỏ Bộ Quốc Phòng, lập Bộ Thanh Niên do Phan Anh đảm nhiệm: Bỏ chiến tranh, rèn
luyện tuổi trẻ.
•
Hoàng Xuân Hãn, bộ trưởng Giáo Dục và Mỹ Thuật soạn thảo một chương trình giáo
dục mới.
•
Tiếp nhận các phần lãnh thổ bị Pháp chiếm: Nam Bộ và các thành phố Đà Nẵng, Hải
Phòng, Hà Nội - Theo Phan Anh, việc này không dễ dàng, vì Nhật chưa muốn trả.
•
Tổ chức đại lễ kỷ niệm Nguyễn Thái Học và các liệt sĩ Yên Bái tại vườn Bách
Thảo.
•
Phá những tượng đài của thực dân Pháp tại Hà Nội. Đặt lại tên Việt cho các
đường phố Hà Nội.
•
v.v...
Về
phía các đảng phái, sự đoạn tuyệt đã rõ ràng từ khi bộ đội Việt Minh và Việt
Quốc đánh nhau ở Việt Trì. Phe quốc gia, gồm những đảng đối lập với cộng sản,
có khuynh hướng khác nhau: thân Tàu Tưởng Giới Thạch, thân Nhật hoặc thân Pháp.
Phe cộng sản: thân Nga, thân Tàu Mao Trạch Đông. Nhưng Việt Minh đã thành công
trong việc cổ động toàn dân theo Cách Mạng Tháng Tám.
Riêng
về phía văn nghệ sĩ, gần như hầu hết những người không cộng sản cũng tham gia
kháng chiến: Tạ Tỵ viết khẩu hiệu cho Việt Minh. Phạm Duy cướp micro hát Tiến
quân ca. Vũ Hoàng Chương sáng tác Ngày độc lập với
những câu thơ:
"...
Hai cuộc tang thương tủi đọa đầy
Núi
sông còn có buổi hôm nay
Kinh
kỳ tám mặt reo đoàn kết
Sóng
đỏ gầm quanh ngọn bút này (...)
Ngoài
kia dừng chén mà coi
Núi
lay xiềng khoá, sông đòi tự do
Lắng
nghe dân tộc reo hò
Bốn
phương thét lớn gào to: dân quyền..."
Tạ
Tỵ thuật lại việc viết khẩu hiệu cho Việt Minh và Nguyễn Sáng vẽ giấy bạc cụ
Hồ: "Trước ngày 19/8/1945 là ngày Việt Minh cướp chính quyền, Lê
Quốc Lộc đến tìm tôi nói về tình hình chính trị: "Chúng mình không thể
ngồi chờ được nữa, phải hành động!" Tôi hỏi: "Hành động cái gì?"
Anh nhìn thẳng vào mắt tôi như dò xét: "Tôi nói hành động tức là phải tham
gia cách mạng". - "Cách mạng nào?" Lộc trả lời với một giọng rắn
chắc: "Tôi nói thực với cậu, tôi đang hoạt động cho Mặt Trận Việt Minh;
tình thế đã chín mùi rồi. Nếu cậu bằng lòng, tôi mời cậu tham gia Mặt
Trận". Tôi đang phân vân chưa biết trả lời ra sao, Lộc nói tiếp:
"Công tác cũng nằm trong khả năng của tụi mình thôi, nghiã là chuyên
môn". Tôi ậm ừ trả lời: "Nếu cậu làm được tôi cũng làm được".
Lộc cười, cặp mắt một mí của anh hơi nheo trông giống như hai sợi chỉ kéo
thẳng: "Vậy chúng ta bắt tay vào việc nhé!" (...) Chừng nửa giờ sau,
Lộc mang vải, sơn đến với một tờ giấy nhỏ: "Cậu viết giùm mấy khẩu hiệu
này". Nói xong Lộc đi ngay. Tôi mở tờ giấy ra coi, thấy mấy tiếng:
"Hoan hô Mặt Trận Việt Minh. Chào mừng Cách Mạng thành công". (...)
Sáng sớm hôm sau Lộc đến nhà tôi thật sớm. Hai tấm khẩu hiệu, Lộc cho vào chiếc
bao bột mì, buộc gọn vào yên xe rồi ngồi lên trên, đạp nhanh như có chuyện gì
gấp lắm. Ngay buổi chiều hôm đó, nhân có cuộc mít tinh của công chức và dân
chúng, Mặt Trận Việt Minh lợi dụng ngay dịp đó, bắn mấy phát súng chỉ thiên và
trương cờ đỏ sao vàng cùng khẩu hiệu. Thế là xong! Trang sử Việt Nam đã lật,
nhưng nước Việt Nam còn phải kinh qua nhiều giai đoạn nhục nhằn ở mỗi hoàn cảnh
đấu tranh để làm nên lịch sử (...) Mấy tháng sau, Tôi được Lê
Quốc Lộc giới thiệu vào cơ quan tuyên truyền để vẽ những tấm tranh cổ động.
Tiền công cũng đủ sống qua ngày. Trong lúc tôi làm công tác trên thì Nguyễn
Sáng được tuyển dụng vào công việc vẽ giấy bạc "cụ Hồ". Sáng vốn khéo
tay và cần cù, rất thích hợp với tài năng. Tôi không biết ai đã giới thiệu
Nguyễn Sáng với Bộ Tài Chánh của Việt Minh. Nguyễn Sáng làm việc với một ông cụ
tuy già nhưng kẻ chữ còn tinh vi lắm (...) Tất cả mọi loại giấy bạc tiêu dưới
chế độ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà đều do Nguyễn Sáng vẽ."[42]
Tạ
Tỵ đã phản ảnh rõ tâm trạng và tình thế những người đi theo kháng chiến. Nguyễn
Huy Tưởng trong tiểu thuyết Sống mãi với thủ đô và Văn Cao
trong Bài Tiến Quân Ca cũng có những cái nhìn tương tự.
● Ngày 17 và 19 tháng tám
1945 và Tiến Quân Ca
Tiến
Quân Ca được
viết từ mùa thu năm 1944, nhưng đến tháng tám năm 1945, mới có vai trò lịch sử.
Chủ động trong hai ngày 17 và 19/8/45. Vậy những tác nhân chính viết gì về
những ngày lịch sử đó?
Phạm
Duy viết: "Sau khi Nhật đầu
hàng, Quân Đội Nhật ở Việt Nam trao trả phủ Toàn Quyền cho phủ Khâm Sai Bắc Bộ.
Để tỏ ý chí bảo vệ đất nước, vào ngày 17 tháng 8, công chức Hà Nội được lệnh
của vị Khâm Sai Phan Kế Toại đứng ra tổ chức một cuộc mít tinh ở trước Nhà Hát
Lớn Hà Nội. Cuộc mít tinh của các ông các bà công chức đang diễn tiến thì bỗng
nhiên một lá cờ đỏ sao vàng rất lớn được thả từ bao lơn của Nhà Hát xuống, rồi
một người leo lên khán đài cướp micro để hô khẩu hiệu và hát bài Tiến Quân Ca
của Văn Cao. Thế là cuộc biểu tình của Tổng Đoàn Công Chức bỗng nhiên biến
thành cuộc biểu tình của Mặt Trận Việt Minh.
Hai ngày sau, tức là 19 tháng 8, Việt
Minh đích thân đứng ra tổ một cuộc mít tinh khổng lồ cũng ở trước Nhà Hát Lớn
Hà Nội. Sau đó đoàn người biểu tình kéo đến bao vây Bắc Bộ Phủ. Ông Khâm Sai
Phan Kế Toại đầu hàng ngay. Coi như cướp được quyền hành chánh rồi, đoàn người
kéo luôn qua trại Khố Xanh ở đường Đồng Khánh để cướp quyền quân sự. Một ngàn
lính Bảo An ở trong trại không kháng cự. Cờ quẻ Ly được hạ xuống, cờ đỏ sao vàng được kéo lên.
Thế là cuộc tổng khởi nghĩa thành công tại Hà
Nội. Một Ủy Ban Nhân Dân được thành lập ngay hôm đó. Đồng thời tại nhiều địa
phương, các đoàn võ trang tuyên truyền được gọi là "Dân Quân Giải
Phóng" cũng tới chiếm chính quyền trong tay các tỉnh trưởng hay quận
trưởng của một chính phủ mà ông Thủ Tướng là Trần Trọng Kim đã từ chức"[43].
Trong đoạn hồi ký trên, Phạm
Duy viết ngắn và rất chi tiết, nhưng ông không hề nhắc đến vai trò của mình trong ngày 17/8/1945, chỉ ghi một người leo lên khán đài cướp micro để hô
khẩu hiệu và hát bài Tiến Quân Ca của Văn Cao và trong cuốn hồi ký, ông cho biết những ngày ấy
ông ở trong
Nam. Điều đó dễ hiểu vì Phạm Duy không thể công
khai nhìn nhận mình có "vai trò lịch sử
trong những ngày Việt Minh cướp chính quyền" cũng như Lê Đạt
không thể công khai nhận mình đã theo Quốc Dân Đảng.
Nhưng
Văn Cao ghi lại rõ ràng, trong hồi ký như sau: "Tôi ở lại một mình
trên căn gác vắng[44] vào
những ngày đầu thu năm 1944.
Tin
từ Hải Phòng lên cho biết mẹ tôi, các em và các cháu đang đói khổ. Bà đưa các
đứa nhỏ ấy từ Nam Định ra Hải Phòng, dọc đường để lạc mất đứa cháu con anh cả
tôi. Nó mới lên ba. Đôi mắt nó giống như mắt con mèo con. Có thể nó đã nằm ở
dọc đường trong đám người chết đói năm ấy. Các anh tôi cũng đang chờ tôi tìm
cách giúp đỡ. Năm ấy rét sớm hơn mọi năm. Tôi ngủ với cả quần áo. Có đêm tôi
phải đốt dần bản thảo và ký họa để sưởi. Đêm năm ấy cũng dài hơn đêm mọi năm.
Những ngày đói của tôi bắt đầu.
Căn
gác được thêm một người ở. Anh Ph. D. là bạn thân của tôi từ Hải Phòng lên. Anh
mới nhận nhiệm vụ làm giao thông của tổ chức giữa hai tỉnh Hà Nội và Hải Phòng.
Từ lâu, tôi vẫn biết Ph. D là người của đoàn thể, và thường chú ý giúp đỡ tôi.
(...) Lần này, Ph. D. lên ở với tôi vào giữa lúc tôi đã muốn bỏ tất cả hội họa,
thơ ca, âm nhạc, bỏ tất cả giấc mơ sáng tạo thường đêm đêm đan mãi đan mãi cái
vành mũ triền miên trên đầu như một vòng ánh sáng thần thánh.
Một
hôm, Ph. D. nói với tôi:
-
Văn có nhớ anh Vũ Quý không? Anh ấy vẫn ở Hà Nội? Văn có muốn gặp anh ấy không?
Tôi
biết đồng chí Vũ Quý trong những ngày còn là vận động viên bơi lội ở Hải Phòng.
Chúng tôi thường tập luyện hàng ngày trên sông Cấm. Từ khi biết anh bị mật thám
Pháp bắt hụt, tôi hết sức khâm phục. Thế ra người cộng sản ấy vẫn hoạt động tại
Hà Nội. Anh ấy vẫn nhớ đến tôi.
Tôi
đã gặp lại đồng chí Vũ Quý. Anh là người vẫn theo dõi những hoạt động nghệ
thuật của tôi từ mấy năm qua, và thường khuyến khích tôi sáng tác những bài hát
yêu nước như Đống Đa, Thăng Long hành khúc ca, Tiếng rừng, và một số ca khúc
khác. Chúng tôi gặp nhau trước ga Hàng Cỏ. Chúng tôi vào một hiệu ăn, ở đấy
quyết định một cuộc đời mới của tôi. Câu chuyện của chúng tôi thật hết sức đơn
giản.
-
Văn có thể thoát ly hoạt động được chưa?
-
Được.
-
Ngày mai Văn bắt đầu nhận công tác và nhận phụ cấp hàng tháng.
Ngày
hôm sau anh đưa tôi lại nhà một đồng chí thợ giày ở đầu ngõ chợ Khâm Thiên để
ăn cơm tháng và chờ quyết định công tác. Ngày đầu tiên chấm dứt cuộc sống lang
thang của tôi.
Vũ
Quý đến tìm tôi và giao công tác:
-
Hiện nay trên chiến khu thiếu bài hát, nên phải dùng những điệu hướng đạo. Khoá
quân chính kháng Nhật sắp mở, anh hãy soạn một bài hát cho quân đội cách mạng
chúng ta.
Phải
làm như thế nào đây? Chiều hôm ấy tôi đi dọc theo đường phố ga, đường Hàng
Bông, đường Bờ Hồ, theo thói quen cố tìm một cái gì để nói, tìm một âm thanh
đầu tiên. (...) Tôi đi mãi tới lúc đèn các phố bật sáng. Bên một gốc cây, bóng
mấy người đói khổ trần truồng loang trên mặt hồ lạnh. Họ đang đun một thứ gì
trong một cái ống bơ sữa bò. Ngọn lửa tím sẫm bập bùng trong những hốc mắt. Có
một đứa bé gái nó khoảng lên ba. Tôi ngờ ngợ như gặp lại cháu tôi. Đôi mắt nó
giống như mắt con mèo con. Cháu bé không mảnh vải che thân. Nó ngồi ở xa nhìn
mấy người lớn sưởi lửa. Hình như nó không phải con cái số người đó. Hình như nó
là đứa trẻ bị lạc. Không phải cháu tôi. Nó đã chết thật rồi. Có thể nó nằm
trong đám người chết đói dọc đường Nam Định - Hải Phòng. Tôi bỗng trào nước mắt
và quay đi. Đêm ấy về gác tôi viết được nét nhạc đầu bài Tiến Quân Ca.
Những
ngày ấy, Ph. D. sống chung với tôi. Thỉnh thoảng anh về Hải Phòng và mang tiền
bán tín phiếu do các cơ sở gửi lên. Quần chúng ủng hộ Việt Minh ngày càng
nhiều.(...)
Tôi
thường nhìn Ph. D. mỗi lần anh đóng gói đi xa và lắng nghe tiếng còi tàu ngoài
ga Hàng Cỏ để chờ một chuyến tàu đêm. Dưới ngọn đèn dầu, bộ mặt ngăm ngăm đen
của anh chỉ thấy ánh lên đôi mắt sâu và trầm lặng. Anh rất tôn trọng những phút
tôi ngồi vào bàn với tập bản thảo và chờ đợi âm thanh của từng câu nhạc được
nhắc đi nhắc lại. Anh là người chứng kiến sự ra đời của bài Tiến Quân Ca.(...)
Ngày
17 tháng tám 1945, tôi đến dự cuộc mít-tinh của công chức Hà Nội. Lá cờ đỏ sao
vàng được thả từ bao lơn nhà hát lớn xuống. Bài "Tiến quân ca" đã nổ
như một trái bom. Nước mắt tôi trào ra. Chung quanh tôi, hàng ngàn giọng hát
cất lên vang theo những đoạn sôi nổi. Ở những cánh tay áo mọi người, những băng
cờ đỏ sao vàng đã thay những băng vàng của chính phủ Trần Trọng Kim. Trong một
lúc, những tờ bướm in "Tiến quân ca" được phát cho từng người trong
hàng ngũ các công chức dự mít-tinh.
Tôi
đã đứng lẫn vào đám đông quần chúng trước cửa nhà Hát Lớn. Tôi đã nghe giọng
hát quen thuộc của bạn tôi, anh Ph. D. qua loa phóng thanh. Anh là người đã
buông lá cờ đỏ sao vàng trên kia và xuống cướp loa phóng thanh hát. Con người
trầm lặng ấy đã có sức hát hấp dẫn hàng vạn quần chúng ngày hôm đó, cũng là
người hát trước quần chúng lần đầu tiên, và cũng là một lần duy nhất"[45].
Đoạn
hồi ký này xác định năm sự kiện quan trọng:
1/
Bà mẹ Văn Cao vì đói khổ, phải đưa các cháu từ Nam Định ra Hải Phòng, giữa
đường bị lạc mất đứa cháu lên ba. Việc này Hoàng Văn Chí có ghi lại đúng như
thế.
2/
Phạm Duy ở trong "tổ chức" trước Văn Cao. Điều đó dễ hiểu vì Phạm Duy
khi học trường Thăng Long là học trò của Võ Nguyên Giáp.
3/
Phạm Duy "nhắc nhở" Văn Cao tìm gặp Vũ Quý.
4/
Phạm Duy "chứng kiến sự ra đời của bài Tiến Quân Ca" ở
căn gác phố Mongrand.
5/
Phạm Duy "buông lá cờ đỏ sao vàng trên kia và xuống cướp loa phóng
thanh hát trước quần chúng lần đầu tiên" với "sức
hát hấp dẫn hàng vạn quần chúng" trong ngày 17/8/1945.
Trước
kháng chiến, câu "Tương tiến nhạc sĩ Phạm Duy, kẻ du ca đã gieo
nhạc buồn của tôi đi khắp chốn" của Văn Cao đã trở
thành huyền thoại.
Lần
này, Văn Cao muốn trả lại vai trò lịch sử của Phạm Duy đối với Cách Mạng Tháng
Tám. Vai trò đã bị lịch sử một chiều cuốn đi, cướp mất. Văn Cao muốn cái gì của
César phải trả về cho César.
● Không khí ám sát thủ tiêu
Tìm
hiểu Văn Cao không thể bỏ qua giai đoạn ông hoạt động trừ gian. Nhưng muốn hiểu
rõ hành động ấy, lại phải tìm hiểu không khí thanh trừng giữa Việt Minh và các
đảng phái đối lập. Vũ Bằng viết về không khí thời ấy:
"Bầu
không khí ấy là bầu "không khí cảnh sát" mà Việt Minh vừa mới nắm
được chánh quyền đã tạo được liền: thu hút dân vì lẽ dám đứng ra đánh thực dân
diệt phát xít cứu quốc, nhưng đồng thời cũng cho tiêu luôn các đảng phái không
đi một con đường với họ.
Lúc
ấy chưa có những chữ rùng rợn như "Đầm Đùn", "Lý Bá Sơ"
nhưng người ta đã mang máng nghe thấy những vụ át các bỉnh bút báo "Việt
Nam" ở Hàng Bún Dưới, báo "Sao trắng" đường Bô-Nan Hải-Phòng,
hay vụ Ôn Như Hầu có hàng trăm cái xác ôm nhau mà chết... Sức mấy mà không sợ?
Sức mấy mà phòng ngừa được bọn cán bộ bịt mắt bưng đi? Nhưng cùng tắc biến,
biến tắc!.. liều, đã liều thì liều cho trót, chúng tôi cứ đả kích Trần Huy Liệu[46] và
những sơ hở của guồng máy chánh quyền phôi thai của Việt Minh. Và rồi cũng
chẳng làm sao hết"[47]
Trong
tiểu thuyết Giòng Sông Thanh Thủy[48], Nhất
Linh viết về Thanh và Ngọc, cán bộ Việt Minh và Việt Quốc, cả hai đều nhận được
lệnh phải thủ tiêu nhau, nhưng họ rơi vào tình yêu, tình yêu đến chết. Nhất
Linh mô tả rất rõ bối cảnh"Họ rình nhau như những con thú dữ mà người
nào cũng vì một lý tưởng mình cho là cao đẹp". Nhất Linh đã viết những
trang lạnh lùng và rùng rợn về tội ác của con người, nhân danh Cách Mạng. Các
nhân vật tự hỏi: "Tại sao mình lại làm một việc độc ác như thế này".
Tại cái "guồng máy": Họ ở hai guồng máy khác nhau.
Đất nước là của chung, nhưng cách phụng sự đất nước của hai đảng, hai guồng máy
chỉ đạo, khác nhau.
Tác
phẩm của Nhất Linh giải thích hành động của Văn Cao trong kháng chiến: Văn Cao
làm việc cho tình báo Việt Minh, tại Quán Biên Thùy năm 1947. Và Quán
Biên Thuỳ, theo sự mô tả của Phạm Duy, có không khí rất Giòng sông
Thanh Thủy:
"Vào
khoảng đầu mùa hè năm 1947 tôi tới Lào Cai và thấy ở đây có một phòng trà với
cái tên là Quán Biên Thùy, bề mặt là một nơi giải trí nhưng bề trong là một tổ
chức tình báo. Lúc đó, đối diện với Lào Cai vẫn còn là vùng Trung Hoa Quốc Gia
chưa bị nhuộm đỏ hoàn toàn. Tôi gặp Văn Cao ở đây và được mời ở lại hát cho
phòng trà này. (...) Quán Biên Thùy đông nhân viên lắm. Tất cả đều là dân Hà
Nội. Tôi không để ý nhiều tới hoạt động tình báo của quán này, chỉ ngờ rằng
vùng Lao Kai còn khá nhiều đảng viên của Việt Nam Quốc Dân Đảng. Sau khi bị
Việt Minh tảo thanh từ vùng trung du, Việt Quốc tập trung ở đây để sẽ lánh sang
Trung Hoa. Nhân viên tình báo của Quán Biên Thùy này đang đi lùng Việt Quốc để
báo cho Công An tới bắt hay báo cho bộ đội tới tiêu diệt. Tôi biết rằng Việt
Quốc trước đây sống nhờ ở tiền thuế của sòng bạc Cốc Lều, nay sòng bạc này phải
đóng thuế cho Việt Minh (...) Trong thời gian ở Lào Kai, tôi còn có cái thú tới
hút thuốc phiện tại dinh của một lãnh chúa người Nùng là Hoàng A Tưởng (...)
Thuốc phiện chẳng bao giờ làm tôi say cả nhưng thứ thuốc phiện được hạ thổ lâu
năm của Hoàng A Tưởng lần nào cũng đánh gục hai "anh hùng" kháng
chiến là Văn Cao và Phạm Duy."[49]
Không
khí thanh trừng này nằm trong quỹ đạo trừ gian của Văn Cao những ngày đầu cách
mạng: ám sát Đỗ Đức Phin. Bi kịch xẩy ra năm 1945, khi ông hoạt động trong đội
"Biệt động vũ trang".
● Văn Cao bắn Đỗ Đức Phin
Tại
sao Văn Cao vào đội biệt động vũ trang?
Giả
thuyết của Vũ Bằng:
"...
Cho tới một ngày kia, lúc Nhật đổ bộ vào Đông Dương, tôi mới lại nghe nói đến
Văn Cao hai lần nữa. Đó là lần Nghiêm Xuân Huyến báo tin cho tôi biết con gái
anh sắp lấy chồng, mà người chồng đó là Văn Cao và một lần sau khi Việt Minh
"át" cô Nga[50]"giao
du" với một sĩ quan Nhật bị bắn chết liền, ở Hải Phòng lại xẩy ra vụ bắn
Đỗ Đức Phin mà lúc đó ai cũng bảo người bắn là Văn Cao.
Nghiêm
Xuân Huyến, sước hiệu[51]là
Voi đen (...) Tôi đi lại thường xuyên nhà Voi đen vì anh có ra một tờ tuần báo
mười hai trang - tờ Rạng Đông. Sau này (...) anh ra tờ tuần báo trào phúng tên
là Con ong do Tam Lang Vũ Đình Chí chủ biên. (...) Xa nhau được ít lâu, tôi
nghe thấy Nghiêm Xuân Huyến bị Nhật bắt và "xin âm dương" cho đến
chết ở nhà lao. Anh em hồi đó bảo rằng anh bị Nhật giết vì nhà in của anh in
truyền đơn cho Việt Minh. Cho đến bây giờ, tôi vẫn không hiểu cái vụ Nhật bắt
và đánh đập tàn nhẫn Huyến cho đến chết có liên quan gì đến vụ con gái Huyến
lấy Văn Cao hay không, hay là Văn Cao có liên quan gì đến việc in truyền đơn đó
hay không -nếu quả có in truyền đơn tại nhà in của Huyến- chỉ biết sau đó Văn
Cao im lìm, không ai biết hành tung ra sao hết cho đến lúc xẩy ra vụ ám sát Đỗ
Đức Phin trong một tiệm hút ở Hải Phòng. (...) Cái tên Văn Cao nổi bật lên từ
đó. Đối với một số anh em văn nghệ, có một số anh em nói cho đúng, đã lấy làm
hãnh diện về điểm đó.
Doãn
Tòng, bạn đồng hành với Văn Cao trong đội trừ gian, thuật lại các sự kiện: "Năm
1945, ở Hải Phòng có Đỗ Đức Phin là một tên mật thám cho Nhật - nó đã phá hoại
nhiều cơ sở của ta, trên có lệnh phải trừ khử nó. Tháng 7-1945, Văn Cao trừ Đỗ
Đức Phin. Việc này được đồng chí Nguyễn Khang, Xứ Ủy Bắc Kỳ đồng ý. Nguyễn Đình
Thi giao cho Văn Cao khẩu súng 7165. Tổ phân công cho em Trần Liễn là cô Liên
thăm dò đường đi lối lại của Đỗ Đức Phin. Cô Liên chơi với em vợ Đỗ Đức Phin,
nên rất tiện cho việc điều tra. Văn Cao, Trần Liễn có lần đã đến lớp học tiếng
Nhật do Đỗ Đức Phin tổ chức nên biết mặt hắn. Hắn nghiện thuốc phiện, hay hút ở
tiệm số nhà 51 phố Đông Kinh. Nắm chắc được cách đi lại ăn ở của hắn, tổ bắt
đầu hành động.
Vào
khoảng 6 giờ chiều một ngày tháng 7 năm 1945, trời nhá nhem tối, anh em cải
trang cho Văn Cao thành một anh cai xe bận quần đen, áo va-rơi, đầu đội mũ cát
dầy, đeo đôi kính gọng. Hoá trang vào không ai nhận ra Văn Cao nữa. Văn Cao đạp
xe đến phố Đông Kinh, vào ngồi ở một quán nước, đưa mắt quan sát. Khi Trần
Khánh ra hiệu bằng cách nhẩy lò cò: có ý là Đỗ Đức Phin đang ở trên, Văn Cao
bắt đầu hành động. Anh lên gác thấy rõ Đỗ Đức Phin đang nằm hút thuốc phiện.
Bên cạnh là người bồi tiêm. Văn Cao bắn một phát vào đầu Đỗ Đức Phin, tên này
gục xuống. Tên bồi tiêm sợ quá, nhẩy qua ban công bám vào ống máng tụt xuống
chạy biến. Một số đồng bào nghe tiếng súng nổ, chạy đến nhốn nháo. Văn Cao bình
tĩnh nói:" Xin mọi người ngồi im. Tôi chỉ diệt một tên Việt Nam bán nước
thôi".
Nói
rồi dưới ánh đêm mờ mờ, Văn Cao nhẩy lên xe đạp đi về nhà tôi thay quần áo. Sau
đó Văn Cao lên Hà Nội hoạt động, tôi ở Hải Phòng"[53].
Hành
động "trừ gian" này sẽ ở lại trong thơ Văn Cao như một lương tâm trầm
uất suốt đời.
● Tại sao Văn Cao không
sáng tác ca khúc nữa?
Sau
ngày hòa bình lập lại, Văn Cao không sáng tác ca khúc nữa, lý do sâu xa được
ghi trong bài viết của Hoàng Phủ Ngọc Tường: "Đêm ấy, trong cuộc
tâm tình nghệ sĩ của Văn Cao với những ngư phủ trên phá Tam Giang, tôi muốn
biết một điều mà với tôi là một bí ẩn thuộc về đời ông:
-
Tại sao sau kháng chiến chống Pháp, anh vẫn vẽ, vẫn làm thơ, nhưng người ta
không nghe anh hát nữa?
-
Hồi nhận lời viết Tiến Quân Ca, tôi không hề chuẩn bị trước để làm một bài hát,
mà là một đặc nhiệm nguy hiểm của đội biệt động. Tôi là đội viện biệt động vũ
trang. Nhiệm vụ của tôi là trong một đêm, cầm một khẩu súng, vào một thành phố
để giết một người. Tôi đã làm xong việc ấy. Đó là chiến tranh và căm thù, đơn
giản thôi. Những ngày đầu sau chiến tranh, tôi đã trở lại căn nhà ấy, thấy còn
lại một gia đình mẹ góa con côi. Làm sao tôi có thể nói điều cần thiết nhất đối
với tôi trong những bài hát sau đó? Nói về chiến công hay phải nói một điều gì
khác? Nên tôi im lặng, và chỉ viết nhạc-không-lời.
Giữa
tiếng sóng ồ ạt vỗ quanh tàu, dưới đêm sao, tôi vẫn nghe rõ giọng nói dịu dàng
của Văn Cao, sâu thẳm đến lạnh người, như thể là tiếng nói đến từ một biển
khác. Trời ơi, tôi đã dại dột chọc tay vào vết thương. Nhưng tôi nghĩ, chỉ có
những nghệ sĩ lớn mới nuôi cho mình những bi kịch như vậy"[54].
Nhiệm
vụ của Văn Cao đã được Nhất Linh làm sống lại với nhân vật Ngọc trong Giòng
Sông Thanh Thủy. Vết thương Văn Cao cũng là vết thương Nhất Linh. Nhất Linh
viết Giòng Sông Thanh Thủy hai năm trước khi tự vận, như một
chúc thư văn học và chính trị gửi lại đời sau: cuối cùng trên dòng Xích Bích,
Tào Tháo, Chu Du không còn nữa, chỉ còn lại tiếng thơ Tô Đông Pha, chỉ còn lại
tiếng thơ, cho muôn đời...
● Lưu Hữu Phước và Tiếng
Gọi Thanh Niên
Viết
về Tiến Quân Ca của Văn Cao, không thể không nhắc đến Tiếng
Gọi Thanh Niên của Lưu Hữu Phước, bài quốc ca của miền Nam trong thời
kỳ chia đôi Nam Bắc.
Lưu
Hữu Phước sinh ngày 21/9/1921 tại Cái Răng, Cần Thơ. Học nhạc từ nhỏ. 1940, ông
ra Hà Nội học y khoa. Khoảng 1940-44, Lưu Hữu Phước nổi tiếng với những ca khúc
lịch sử như Bạch Đằng Giang, Ải Chi Lăng, Hát Giang trường hận, Hồn Tử
sĩ, Hờn Sông Gianh, Hội Nghị Diên Hồng... và một loạt hành khúc cho sinh
viên như: Ta cùng đi, Tiếng gọi thanh niên, Bài hát của thiếu sinh, Bài
hát của thiếu nữ Việt Nam, Việt nữ gọi đàn... Sau Cách Mạng Tháng Tám, Lưu
Hữu Phước sáng tác Khúc khải hoàn, Ca ngợi Hồ chủ tịch...
Ca khúc của Lưu Hữu Phước có ảnh hưởng rất lớn đối với thanh niên từ thập niên
bốn mươi đến ngày nay. Trong cuốn sách của Mai Văn Bộ tựa đề Lưu Hữu
Phước con người và sự nghiệp[55] không
thấy ông nhắc đến hoạt động Quốc Dân Đảng của Lưu Hữu Phước. Điều đó dễ hiểu.
Tô
Hoài kể lại, trong một dịp "học tập bảo vệ Đảng", ông
nhận được lá đơn tự tố cáo của Nguyễn Hải Trừng: "thành khẩn bộc
lộ thời kỳ Mặt Trận Dân Chủ 1938 ở Sài Gòn, tôi đã sinh hoạt trong một tổ chức
phản động là Quốc Dân Đảng. Tổ phản động này gồm ba người là: Mai Văn Bộ, Lưu
Hữu Phước, Nguyễn Hải Trừng"[56]. Việc
này xẩy ra khi Mai Văn Bộ làm đại sứ tại Paris và Lưu Hữu Phước đang ở trong B,
Tô Hoài đưa lá thư cho Hà Huy Giáp, lúc đó là bí thư, nhưng Hà Huy Giáp ỉm đi.
Trong Giòng
sông Thanh Thủy, đoạn Nhất Linh viết về nhân vật Ngọc (Quốc Dân Đảng)
dẫn Tứ và Nghệ (Việt Minh) đến chỗ Ngọc sẽ đầu độc họ, trên đường xuyên núi
rừng, phong cảnh hùng vĩ, Ngọc vừa đi vừa hát:
"Chàng
cất tiếng hát cao giọng, đi thật mau cho bước chân ăn nhịp với bài hát mà chàng
cố hát thật mau:
Hồn
nước muôn năm sống cùng non nước!
Ngày
nay ta noi tấm gương anh hùng,
Dù
khó thế mấy quyết cùng nhau bước,
Làm
cho vang tiếng cháu con nòi giống Tiên Long.
Mau,
mau đồng lòng, tay cầm tay, trông cờ nước, ta đều bước,
Tuốt
gươm, thề với núi sông ...
Hồn
nước muôn năm sống cùng ...
Bài
hát ấy là của Lưu Hữu Phước, đảng viên Việt Quốc trong thời kỳ bí mật từ trong
nước truyền ra, do Ninh dạy chàng. Ninh có nói là thay đổi lời đi đôi chút cho
nó mạnh hơn và đúng bằng trắc hơn. Trời bắt đầu nắng mỗi lúc một gắt; Nghệ và
Tứ không biết là bài hát gì nhưng vì nhịp quyến rũ nên cũng cố bước theo cho
đúng nhịp"[57].
Chính
Nhất Linh đã sửa lời bài Bạch Đằng Giang của Lưu Hữu Phước cho
mạnh hơn và đúng bằng trắc hơn. Lời gốc của Lưu Hữu Phước như sau:
Hồn
nước vẫn sống với trời, non, nước
Ngày
nay, ta noi tấm gương anh hùng
Dầu
khó thế mấy, quyết cùng nhau bước!
Làm
cho rõ biết cháu con nòi giống Tiên Long!
Nhưng
điều đó không quan trọng.
Quan
trọng là Nhất Linh xác nhận: Lưu Hữu Phước theo Quốc Dân Đảng.
Sự
kiện này đưa đến một số nghi vấn khác: trong thời kỳ kháng chiến, Lưu Hữu Phước
sáng tác rất ít, tại sao? Lưu Hữu Phước thực sự là người của Việt Quốc hay Việt
Minh? Nếu ông là người cộng sản, tại sao Tiếng Gọi Thanh Niên lại
được chính phủ Nguyễn Văn Xuân (của Bảo Đại) chọn làm quốc ca? Tiếng
Gọi Thanh Niên sáng tác tháng 4/1941. Ngày 2/6/1948, bản nhạc này được
chính phủ Nguyễn Văn Xuân chọn làm quốc ca, và trở thành quốc ca của Việt Nam
Cộng Hoà, sau 1954.
Sau
ngày thống nhất đất nước, Lưu Hữu Phước, Bộ trưởng Thông tin văn hoá, ký ba
Thông tri cấm lưu hành sách báo "phản động". Bản
đầu, số 218/CT. 75, ngày 20/8/75, trong có danh sách 130 tác giả bị cấm toàn
bộ, với những tên tuổi như: Hồ Hữu Tường, Nguyễn Vỹ, Vũ Hoàng Chương, Đinh
Hùng, Bùi Giáng, Tạ Tỵ, Doãn Quốc Sỹ, Mai Thảo, Võ Phiến, Nguyên Sa, Thanh Tâm
Tuyền, Dương Nghiễm Mậu, Mặc Đỗ, Nguyễn Mạnh Côn, Chu Tử, Duyên Anh, Nguyễn Thị
Hoàng, Nhã Ca, Tuý Hồng, Phan Nhật Nam...[58]
Tất
nhiên Lưu Hữu Phước chỉ thi hành chính sách của Trung Ương. Nhưng người nghệ
sĩ, khi ký những công hàm huỷ diệt tác phẩm văn học của nửa phần đất nước, hẳn
không thể không nghĩ đến hậu quả. Riêng đối với người dân miền Nam hơn 20 năm
gắn bó với Tiếng Gọi Thanh Niên, Lưu Hữu Phước đáp lại những
ân tình của họ bằng một văn bản tiêu diệt tự do tư tưởng.
● Kháng chiến và văn nghệ
sĩ
Trong
hoàn cảnh cực kỳ phân hoá giữa Việt Minh và Quốc Dân Đảng, tại sao văn nghệ sĩ
lại theo Việt Minh?
Vì
phần lớn không làm chính trị.
Tạ
Tỵ kể rõ các chặng đường từ bước đầu:
"Thủ
đô Hà Nội chết cứng trong máu lửa. Cuộc giao tranh gay go ngay từ phút đầu giữa
Trung Đoàn Thủ Đô, Tự Vệ Thành và quân đội Pháp. Phần lớn dân chúng đã tản cư.
Mọi nhà đều đục tường thông qua nhau, theo lệnh của chính phủ từ mấy tháng
trước. (...) Những con đường có cây to được đốn ngã dùng làm chướng ngại vật
cản đường xe bọc sắt của Pháp. Không khí trước ngày chiến tranh thật nghẹt thở.
Vợ con tôi đã theo ông bà nhạc tản cư về quê cả tháng nay. Gia đình phía tôi
cũng vậy. Tôi ở một mình vừa sáng tác vừa vẽ tranh cổ động"[59].
Và
ông tìm cách ra khỏi Hà Nội, đi kháng chiến:
"Tôi
chọn lối xuyên cửa ô Cầu Dền, qua làng Hoàng Mai rồi men theo bờ ruộng ra đường
số 1, con đường xuyên Việt. Tôi chợt nghĩ đến Phạm Duy, không biết Duy ra khỏi
Hà Nội bằng ngả nào? Sau này khi gặp lại nhau trong kháng chiến, Duy mới cho
biết đã ra khỏi Hà Nội qua ngả Khâm Thiên, tức phường Dạ Lạc. Văn Cao có báo
cho Duy biết nhưng Duy không tin".
Tìm
liên lạc với tổ chức:
"Tôi
ăn Tết với gia đình xong rồi đến làng Bài Trượng thăm vợ con, trước khi lên
đường đi Việt Bắc (...) Từ phủ Đoan Hùng, tôi quay về Phú Thọ, mong gặp anh em
quen biết có thể giới thiệu mình với một cơ quan nào đó. Người thì đông, anh em
chẳng thấy ai. Nản quá, tôi cũng định quay về quê nhà, bỗng gặp Phạm Duy từ
trong một quán cà phê đi ra. Nói chuyện hồi lâu, Duy cho biết sẽ đi Yên Bái.
Nếu tôi muốn đi cùng, sáng mai đến chỗ này chờ. Tôi bằng lòng, hỏi Duy có
phương tiện gì không? Duy trả lời không, sẽ đi bộ. Ngay buổi chiều hôm đó, tôi
quay về chỗ tá túc đêm qua, bán chiếc xe đạp cho người chủ nhà để lấy tiền
tiêu. Sáng hôm sau, tôi đeo ba lô đến nơi hẹn. Chờ một lúc, tôi thấy Duy đội mũ
ca-lô, mặc bộ ka ki Mỹ, đeo cây đàn trên vai, còn một tay xách chiếc túi đựng
quần áo. Chúng tôi cứ men theo đường xe lửa đã bóc hết đường rầy đi ngược lên.
Duy không chịu đeo chiếc túi vải lên vai, vừa đi vừa ném về phía trước. Đến
nơi, cúi xuống nhặt lên ném nữa. Tôi hỏi:
-
Sao làm vậy?
Duy
nói:
Trong
lúc đi đường. Duy nói về chuyện mấy tháng trước. Sau khi ra khỏi Hà Nội, Duy
tìm đường lên Vĩnh Phúc Yên, gia nhập đoàn Văn Nghệ Giải Phóng, rồi Việt Trì,
bây giờ là Phú Thọ. Duy nói về dự tính tương lai với những bản dân ca. Duy lúc
này đã nổi tiếng, chẳng những về hát, mà còn ở sáng tác nhưng ca khúc như Cô
hái mơ, Gươm tráng sĩ, v.v...
Năm
ấy, chúng tôi mới có 24 tuổi. Đi cùng với Duy rất vui vì Duy hay nói tục. Nhưng
sau đó, lại trầm ngâm, có lẽ, trong đầu, Duy đang có dự tính nào đó, có thể,
một ca khúc sắp ra đời. Sau cặp kính trắng, đôi mắt Duy long lanh như được
chiếu dọi bởi luống ánh sáng kỳ dị. Đến Yên Bái, một thành phố đã tiêu thổ 95%,
tôi gặp thêm Văn Cao. Cũng từ nơi đó, tôi và Duy chia tay. Tôi ở lại Yên Bái
chơi với Văn Cao vài ngày. Mỗi chiều chúng tôi rủ nhau đi uống rượu, loại rượu
đế nặng. Văn Cao trông vẫn thế, sắc mặt tai tái, đôi mắt thật sắc với nụ cười
chìm lắng. Có khác chăng chỉ là bộ bà ba nâu, bên ngoài phủ thêm chiếc trấn
thủ"[60].
"Văn
Cao nổi tiếng từ tiền chiến, trong kháng chiến và mãi mãi, mọi người đều nghe
nhạc của anh. Nhưng anh, con người đa tài, ngoài nghệ thuật còn làm nhiều thứ
khác.
Tôi
lại chia tay với Văn Cao cũng ở Yên Bái. Văn Cao ngược Lào Cai để đi làm công
tác tình báo biên giới được ngụy trang bằng một phòng ca nhạc. Phạm Duy có lên
Lào Cai và hát ở phòng trà này. Bài Bên Cầu Biên Giới của Duy được sáng tác tại
đó."[61]
Tạ
Tỵ đi theo ban kịch truyền bá quốc ngữ được nửa năm thì bị sốt rét nặng, phải
về Liên khu Ba (vùng Thái Bình), vẽ tranh hí họa chống Pháp trên báo Cứu Quốc
Thủ Đô, sáng tác văn thơ và dạy hội họa. Tạ Tỵ kể về nhiệt tình cách mạng của
Văn Cao:
"Một
chiều khi gần tối, bỗng Văn Cao và Nguyễn Đình Thi đến thăm. Thật không gì vui
hơn, khi nằm một mình trong căn nhà vắng lại được bạn đến thăm. Văn Cao cho
biết từ Liên khu 1 mới xuống công tác ở Khu 3, nhân tiện ghé chơi. (...) Nói
chuyện tầm phào mãi cũng chán, tôi yêu cầu Văn Cao đọc lại bài thơ "Chiếc
xe xác qua phường Dạ Lạc". Văn Cao tuy làm nhạc nhưng không có giọng hát,
nhạc Văn Cao nổi tiếng nhờ tài hát của Phạm Duy, Bùi Công Kỳ v.v... Văn Cao
cũng không có tài ngâm thơ, hát chèo như Hoàng Cầm, nhưng tiếng đọc thơ của Văn
Cao nghe rất lạ, nghe ghê rợn như tiếng vọng từ đáy huyệt. (...) Tôi nhớ, đêm
ấy Văn Cao nói với tôi:
-
Này cậu, tôi có ý định giới thiệu cậu vào Hội Nghiên Cứu Chủ Nghiã Các-Mác[62]cậu
nghĩ sao? Tôi thẳng thắn trả lời, không thích chính trị, chỉ yêu nghệ thuật
thôi! Trong đêm tối, tôi không nhìn thấy nét mặt Văn Cao và Nguyễn Đình Thi ra
sao, nhưng qua câu nói của Văn Cao:
-
Không còn con đường nào khác đâu, nghệ thuật cũng phải phục vụ chính trị. Tôi
chỉ biết nói thế. Còn tùy cậu. Vả lại, Hội cũng ở gần đây thôi, mất công gì đâu
mà cậu ngại?
Tôi
không trả lời nói lảng sang truyện khác. (...) Sáng hôm sau, Thi và Văn Cao đều
dậy sớm, đi ngay".[63]
Tạ
Tỵ và Phạm Duy cho biết trong thời gian đầu kháng chiến, nghệ sĩ được tương đối
tự do sáng tác. Tạ Tỵ vừa vẽ tranh tuyên truyền (hí họa chống Pháp) vừa sáng
tác nghệ thuật theo ý riêng mình và có thể triển lãm. Phạm Duy viết:
"Trong
ba, bốn năm đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc, những văn nghệ sĩ rời thành thị
ra thôn quê đều là những người tự động tham gia cuộc chiến đấu chung và dù có
gia nhập vào một tổ chức văn nghệ nào của chính quyền thì cũng được tự do đi
lại, tự do sáng tác hay tự do biểu diễn. Dù Đảng Cộng Sản đã có đề cương văn
hoá từ lâu[64] quy
định mọi sáng tác văn nghệ đều phải có "tính Đảng" nhưng chỉ tới khi
có Đại Hội Văn Hoá lần thứ hai được tổ chức ở Bắc Kạn vào năm 1950[65] thì
mới có những đường lối văn nghệ được Ban Chấp Hành đưa ra để văn nghệ sĩ ngoài
Đảng học hỏi"[66].
Trong
không khí còn khá dễ thở, Văn Cao trở lại Liên khu ba năm 1949, và các họa sĩ
có thể tổ chức triển lãm chung, Tạ Tỵ kể: "Từ khi có Văn Cao ở
gần, chúng tôi mỗi lần gặp lại bàn về chuyện làm phòng triển lãm. Văn Cao cũng
vẽ được hai tấm tranh sơn dầu. Anh cho rằng vấn đề mở Phòng Tranh là việc nên
làm vì từ ngày kháng chiến, Liên Khu 3 chưa có Phòng Tranh nào. Chúng tôi[67] giao
việc liên lạc với chính quyền cho Văn Cao lo, còn tranh, có bức nào bày bức đó.
(...) Văn Cao bày hai tác phẩm: Cây đàn đỏ và Đường cấm. Tôi có hai bức: Lìa
phố và Chiến tranh. Cả bốn bức là sơn dầu, còn toàn là tốc họa, bút chì vẽ trên
giấy. Tuy vậy, phòng Triển Lãm cũng nhiều người xem lắm, nhiều buổi phải chen
lấn nhau, làm chúng tôi lên tinh thần, tuy sự trưng bày này hoàn toàn có tính
cách biểu dương, chứ không bán. Có bán cũng chẳng ai mua. Sau khi phòng triển
lãm bế mạc, Văn Cao gửi tôi giữ giùm hai tác phẩm nói trên vì lý do không ở đây
lâu, nhưng sau khi tôi đã "dinh tê", đến năm 1951, quân Pháp đánh vào
quê tôi, lấy đi tất cả!"[68]
Trước
đây, người ta chỉ biết bức tranh Cây đàn đỏ của Văn Cao bị phê
bình, nhưng nội dung phê bình ra sao, không ai rõ. Nhờ những điều Tạ Tỵ viết về
buổi phê bình tranh Mưa Núi của ông, chúng ta có thể đoán được
cảnh phê bình tranh Văn Cao: "Tôi vẽ thêm được bức tranh Mưa Núi,
vẫn theo kỹ thuật lập thể. Một buổi chiều, tôi nhận được giấy mời đi tham dự
buổi họp của Chi Bộ Văn Nghệ Liên Khu (...) Đúng ngày, tôi mang tranh đến một ngôi
làng sát chân núi, bên kia sông Đặng. Đến nơi đã có nhiều anh em, tuy vậy, tôi
quen rất ít, chỉ có Phái[69],
Huyền Kiêu và Lương Xuân Nhị, là bạn.(...)
Sau
vài giờ thảo luận sinh hoạt về chiều hướng sáng tác phục vụ kháng chiến, anh
trưởng ban Tổ Chức (tôi không nhớ tên) đặt tác phẩm Mưa Núi của tôi trên chiếc
giá bằng tre, xong mời anh em phát biểu ý kiến về tác phẩm đó. Mỗi người nói
một cách, tôi phải trực tiếp giải thích, bào chữa cho tác phẩm mình có
"nội dung cách mạng". Chắc đã được sắp đặt trước, anh trưởng ban Tổ
Chức cho mời một số ông bà già, con nít chăn trâu đến trước bức tranh, hỏi mỗi
người về cảm tưởng của họ. Thật khốn đốn cho tôi khi phải chống đỡ với những
lời phát biểu vô cùng thật thà vì không hiểu gì về hội họa của những người dân
quê mùa chất phác và các em bé chăn trâu, cắt cỏ. Trước cảnh huống đó, tôi muốn
phát điên lên, nhưng cố nén giận, giữ vẻ mặt bình tĩnh tới phút chót.
Sau
cuộc phê bình khốn khổ, tôi dự đoán được Tổ Chức Chi Bộ Văn Nghệ muốn đối xử
với tôi ra sao rồi! Phái và Huyền Kiêu thông cảm, nhưng đứng về phía thiểu số,
cũng chẳng đỡ đòn gì được, đành làm ngơ. Cuộc họp chỉ có một ngày. Đáng lẽ sau
khi họp xong, tôi phải ở lại vui chơi với anh em, nhưng tối hôm đó, tôi về
ngay, nại cớ ngày mai phải đi gặp trưởng Cơ Quan Bình Dân Học Vụ nhận công tác.
Cũng kể từ đó, trong tôi đã dứt khoát, nếu có dịp thuận lợi là "dinh
tê", chứ ở lâu không xong!"[70]
Đó
là tình hình năm 1949. Và đó là lý do khiến những hoạ sĩ như Tạ Tỵ, Bùi Xuân
Phái, Nguyễn Sáng... bỏ kháng chiến về thành.
Sự
"dinh tê" của văn nghệ sĩ được Vũ Bằng cảm nhận như sau: "Thế
rồi tôi rinh tê. Tôi rinh, nhưng không có một chút mặc cảm, là vì tôi quan niệm
rằng Hà Nội là đất nước mình, mình có quyền ở đó, còn vấn đề hèn hay không, đó
là tùy ở nhân cách của từng người"[71].
● Nhân Văn Giai Phẩm: Thơ
Văn Cao
Sau
khi hoà bình lập lại, Văn Cao không sáng tác ca khúc nữa. Ông trở lại với hội
họa thì Hoàng Cầm đến mời ông viết bài cho Giai Phẩm Mùa Xuân.
Văn
Cao nhận lời và làm thơ, vì chỉ có thơ mới nói được những bi đát sâu lắng trong
nội cảnh của tâm hồn. Với sự "đốc thúc" của Hoàng
Cầm, Văn Cao dành cả mùa xuân để sáng tác trường ca Những người trên
cửa biển.
Lần
này trở lại, Văn Cao như người anh cả, đứng lên chỉ mặt bọn người đã làm cho
nghệ sĩ phải điêu đứng trong sáng tác từ 1949. Tác giả quốc ca hỏi tội:
"Bao
giờ nghe được bản tình ca
Bao
giờ bình yên xem một tranh tĩnh vật
Bao
giờ
Bao
giờ chúng nó đi tất cả"
"Chúng
nó" đây
là những khuôn mặt đã tạo dựng nên cái xã hội có nửa mặt:
"Một
nửa thế giới
Một
nửa tâm hồn
Một
nửa thế kỷ
Chưa
khai thác xong".
"Chúng
nó" đây
là những con người:
"...
những con người khôn ngoan
Không
có mồm
Mắt
không bao giờ nhìn thẳng"
"Chúng
nó" đây
là những vi khuẩn đã len lỏi vào sự sống của con người:
"Chúng
nó còn ở lại
Trong
những tủ sách gia đình
Ở
điếu thuốc trên môi những em bé mười lăm
Từng
bước chân các cô gái
Từng
con đường từng bãi cỏ từng bóng tối
Mắt
quầng thâm còn nhỡ mãi đêm"
Và
một lần nữa tác giả Tiến Quân Ca kêu gọi mọi người đứng lên
bảo vệ tự do như đã từng bảo vệ tổ quốc:
"Vào
một cuộc đấu tranh mới
Để
mở tung các cánh cửa sổ
Mở
tung các cửa bể
Và
tung ra hàng loạt hàng loạt
Những
lời kêu gọi thiết tha trên đây của Văn Cao làm rung động những tâm hồn yêu tự
do, yêu nghệ thuật và yêu đất nước. Chỉ riêng những kẻ cảm thấy mình bị gọi là
"chúng nó" mới động lòng. Xuân Diệu thốt lên những lời tàn nhẫn:
"Những
tư tưởng Nhân văn-Giai phẩm luồn lách như chạch; không phải lúc nào nó cũng lộ
liễu như trộn trấu, cát vào gạo cơm ta ăn, khiến ta biết ngay; mà có khi nó
giấu tay rỏ thuốc độc vào những chai thuốc dán nhãn hiệu là “bổ”. Văn Cao vào
hạng có bàn tay bọc nhung như thế. Sự giả dối đã thành bản chất của Văn Cao,
nên những cái lạc hậu, thoái hoá của Văn Cao cứ nghiễm nhiên mặc áo chân lý và
tiến bộ. (...)
Vào
đời giữa thời phát-xít Nhật đổ bộ vào Đông Dương, lúc lớn lên nhạy cảm nhất lại
là lúc chủ nghĩa đế quốc Pháp Nhật toát ra cái chất cuối mùa đồi trụy nhất,
phản động nhất, Văn Cao đã ngộ độc rất nặng. (...)
Trong
bài hát Trương Chi, Văn Cao gán cho người đánh cá cái khinh bạc tột độ của
mình, không coi nhân quần ra cái gì hết, chỉ có một mình mình trên trái đất;
hơi lạnh của chủ nghĩa cá nhân tuyệt đối toát ra như một âm khí nặng nề:
Ngồi
đây ta gõ mạn thuyền
Ta
ca trái đất còn riêng ta! (...)
Những
ngày đầu Cách Mạng Tháng Tám, những ý nghĩ phiêu lưu, tìm thi vị xa vời, mới lạ
trong cách mạng, là một chặng đường tất yếu của tư tưởng nhiều người; mơ ước
“Hải quân Việt Nam”, “Không quân Việt Nam” lúc đó cũng là một trạng thái của
lòng yêu nước.
Nhưng
ta phải giật mình khi nhớ lại những lời hát:
Ta
là đàn chim bay trên mây xanh
Mắt
nhìn trong khói những kinh thành tan…
…
Ta là tinh cầu bay trong đêm trăng
Ta
không trách trình độ chính trị của ta và của tác giả khi đó còn thấp. Chúng ta
giật mình vì cái lối bay để mà bay, tự say lấy mình đó là tiền thân của cái lối
“Hãy đi mãi” của Trần Dần; chúng ta giật mình hơn nữa là cái máu anh hùng chủ
nghĩa làm cho Văn Cao sảng khoái nhìn thấy “những kinh thành tan” dưới bom đạn
mà không chút xót thương, và “chiến công ngang trời” kia lại là của “không quân
Việt Nam”, mà không nói là chiến tranh tự vệ!
Mấy
bài thơ năm 1946, 1948 của Văn Cao, có dụng ý tốt, nhưng cũng bộc lộ cái tính
chất nghệ thuật của Văn Cao, thích khúc mắc, khó hiểu, thích loè lên lấp lánh,
pha với sự lập dị, chộ người, toát ra một màu vị tan rã, như bài "Chiếc xe
xác qua phường Dạ Lạc", hay như bài "Ngoại ô mùa đông 46"[73]
Ta
đi trong nhà đổ
Nghe
thời gian đã nhạt khúc ân tình
Tuy
phòng the chiếc áo trẻ sơ sinh
Còn
xiêm hài dành hương phấn cũ…...
Chữ
Phạn, La-tinh nhường máu tô diệt Pháp
Gió
lạnh khi qua viện tàng thư
Cháy
cong queo, bìa giữ chút di từ
Kierkegaard,
Heiddeger và Nietzsche… (...)
Giả
dối như một con mèo, kín nhẹn như một bàn tay âm mưu trong truyện trinh thám,
bài thơ Anh có nghe thấy không? lập lờ, ấp úng, bí hiểm, hai mặt, tuy nhiên
công chúng cũng hiểu nó muốn nói gì. Văn Cao gọi ai là “chúng nó”? Đối lập với
ai là “chúng ta”?
Bao
giờ nghe được bản tình ca
Bao
giờ bình yên xem một tranh tĩnh vật
Bao
giờ
Bao
giờ chúng nó đi tất cả (...)
Trên
đất nước ta “chúng nó” là Mỹ-Diệm ở miền Nam, là tay chân Mỹ-Diệm ở miền Bắc,
là bọn phá hoại Nhân văn-Giai phẩm; chúng nó là thế đấy (...)
Những
con người của chúng ta, từ Cách Mạng Tháng Tám đến nay, xuất hiện, trưởng thành
dần dần và mãnh liệt, để đi tới “lừng lẫy Điện Biên, chấn động địa cầu”, dù
chúng ta có còn khuyết điểm, nhược điểm gì, cả Trái Đất cũng biết chúng ta vĩ
đại!"[74]
Lời
Xuân Diệu chứng minh những điều Văn Cao viết về "chúng nó" là đúng.
Xuân Diệu còn cho biết: Đảng chưa bao giờ hiểu nghệ thuật của Văn Cao. Tất cả
những sáng tác tuyệt vời của Văn Cao đều bị Đảng coi là "thuốc
độc". Tóm lại, Đảng chỉ lợi dụng bài Tiến Quân Ca.
Nhưng
Văn Cao không thuộc về Đảng. Văn Cao là nghệ sĩ của dân tộc. Nếu nhạc Văn Cao
đưa người vào mộng, thì thơ Văn Cao xoáy vào thực tại cuộc đời: phần đời thực
với Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc, Ngoại ô mùa đông 1946,
Những người trên cửa Biển và phần nội tâm sâu xé của con người mất tự
do trong các bài thơ ngắn, cô đọng đau thương những giọt nước mắt không
rơi ngoài tim mình như lời thơ Thanh Tâm Tuyền.
Nhạc
sĩ kỳ tài, Văn Cao còn là nghệ sĩ tiên phong trong hội họa và thi ca. Ngày nay
khó tìm được họa phẩm của Văn Cao nhưng theo Tạ Tỵ, Văn Cao đã tự trình bày bìa
những bản nhạc của mình bằng những bức tranh avant garde. Nếu tìm lại được
những bản nhạc đó, ta có thể có ý niệm về hội họa tiên phong của Văn Cao.
Riêng
về thơ, Văn Cao âm thầm tiếp tục con đường tân tạo. Mỗi chặng sống, ông viết
những tác phẩm giá trị.
Cúi
xuống lầm than của kiếp người, Văn Cao đã để lại những hình ảnh kinh hoàng của
trận đói tháng ba năm Ất Dậu. Nếu không có Chiếc xe xác qua phường Dạ
Lạc, chúng ta không thể hình dung cảnh xe xác lăn trong xóm cô đầu của
một Hà Nội bán linh hồn:
"Tiếng
xe ma chở vội một đêm gầy
Xác
trụy lạc rũ bên thềm lá phủ (...)
Ta
về gác chiếu chăn gào tự tử
Trên
đường tối đêm khoả thân khiêu vũ
Kèn
nhịp xa điệu múa vô luân
Run
rẩy giao duyên khối nhạc trầm trầm
Hun
hút gió nâng cầm ca nặng nhọc
Kiếp
người tang tóc
Loạn
lạc đòi nơi xương chất lên xương
Một
nửa kêu than, ma đói sa trường
Chiếc
xe xác qua phường Dạ Lạc song hành với Tiến quân ca, là
những tiếng bi thương và hùng tráng, báo hiệu một dân tộc vùng đứng lên kháng
chiến. Ngoại ô mùa đông 1946 viết về ngày toàn quốc kháng
chiến, với một bút pháp độc đáo, kinh hoàng, gây hoang loạn:
"Phố
chết rồi vài mảnh rêu ngơ ngác
The
thé thất thanh giọng kêu tàn ác
Quạ
dăm con, chập choạng cánh dơi xa
Lơ
láo tường vôi, than bụi dui nhà (...)
Cửa
ô cần lao
Cửa
ô trụy lạc
Cửa
ô trầm mặc...
Mấy
bức tường hồng rơi xuống cùng trâm
Một
dẫy phố nghiêng cả thành Hà Nội
Dòng
ngõ chợ xưa máu dâng ngập lối
Mấy
xác quân thù bên cống tanh hôi
Sọ
nứt toang óc chảy lẫn với ròi...
Xóm
âm u
thành
khối đen đặc quánh
Ơi
ai ngâm mình hố lạnh
Gió
mùa rú ghê người
Trăng
đông dầm khe rãnh
Kháng
chiến không chỉ là hào hùng, là hoa treo đầu súng. Kháng chiến còn là chiến
tranh, chết chóc, tàn phá, kinh hoàng... Ngoại ô mùa đông 46 là
bài thơ khốc liệt nhất viết về toàn quốc kháng chiến. Trong những năm đầu,
người nghệ sĩ còn được tự do sáng tác, mới có thể có Chiếc xe xác qua
phường Dạ Lạc và Ngoại ô mùa đông 1946, in trên báo Tiên
Phong. Đó là Văn Cao thời kháng chiến.
Thời
NVGP, Văn Cao viết trường ca Những người trên cửa biển, bài ca lịch
sử của Hải Phòng, gắn liền với cuộc đời Văn Cao, từ lúc sinh ra dưới thời Pháp
thuộc, đến cuộc kháng chiến đẫm máu mà Văn Cao đã phụng sự hết mình. Văn Cao
chờ đợi một mùa xuân khi hoà bình lập lại. Nhưng ngày dứt chiến tranh cũng là
ngày chia đôi đất nước, ngày những con bạch tuộc hiện hình:
Vợ
xa chồng
Anh
xa em
Chiều
Nam chiều Bắc cùng sầu
Tiếng
thức dậy niềm cô đơn nuối tiếc...
Gió
bão tới đâu cũng không một lúc
Rụng
hết lá vàng
Ngày
báo hiệu mùa xuân mầm nở mầm tàn
Có
người tự nhiên tiếc bàn tay đã mất
Từng
đêm đau nhức vết đạn trên mình...
Trong
những ngày khó khăn chồng chất
Kẻ
thù của chúng ta xuất hiện
Những
con rồng đất khi đỏ khi xanh
Lẫn
trong hàng ngũ
Những
con bói cá
Đậu
trên những dây buồm
Đang
đo mực nướng
Những
con bạch tuộc
Bao
tay chân cố dìm một con người...
Văn
Cao trở lại vị trí chiến sĩ trừ gian. Lần này cuộc cách mạng sẽ xẩy ra trên mặt
trận tư tưởng, bằng ngòi bút. Và những kẻ sợ Văn Cao vạch mặt, chỉ tên đã hoảng
loạn tinh thần, viết nên những điều cuồng dại.
Sau
Nhân Văn, Văn Cao vẫn làm thơ. Lần này thơ ông đi sâu vào nội tâm con người.
Một con người:
Có
lúc
một
mình một dao giữa rừng đêm không sợ hổ
có
lúc
ban
ngày nghe lá rụng sao hoảng hốt
có
lúc
Con
người bị cầm tù tư tưởng âm thầm nhìn cái chết chậm, như bức tường vô tri,
nhích dần, nhích dần trên thân xác mình:
Cái
bức tường lê từng bước một
Đến
gần chân chúng tôi hàng ngày
Chúng
tôi nhìn chậm chạp
Châm
chạp một cái chết
Bài
thơ khóc Nguyễn Huy Tưởng, nhưng là điếu tang những người bị mất tự do. Bài thơ
bị cấm trong ba mươi năm. Kiên trì, Văn Cao vẫn tiếp tục vẽ bằng thơ. Lần này
ông phác họa chân dung một kẻ xưa kia là bạn:
Tôi
đã gặp lại anh
Im
lìm như một bức ảnh
Người
anh dẹt như một con dao
Gây
nhiều vết thương cho bạn hữu
Anh
mang trong tôi nhiều bộ mặt
Đâu
là cái cuối cùng
Chỉ
còn hai con mắt
Bài Ba
biến khúc tuổi 65, tổng kết cuộc đời Văn Cao trong một tình thế chính trị
không lối thoát. Biến khúc I viết về thời kháng chiến trừ
gian:
Một
người cho tôi con dao găm
Không
biết dùng làm gì
đêm
nhìn qua cửa sổ
một
khoảng trống đen
tôi
ném vào khoảng trống ...
bỗng
nhiên có tiếng ngã ngoài sân
một
người trúng tim đã chết
tôi
không hề biết người ấy
tôi
là kẻ không muốn giết người
chỉ
biết bóng tối
mà
tôi đã ném dao.
Những
lời tự họa đớn đau của Văn Cao đã gặp những lời tự phán kinh hoàng của Nhất
Linh trong Giòng sông Thanh Thủy: Khi anh đã lọt vào guồng
máy, anh sẽ phải giết người, anh sẽ có «bàn tay bẩn» (JP
Sartre).
Tôi
đi trên phố
bỗng
nhiên mọi người nhìn tôi
một
ai đó kêu lên: thằng ăn cắp
tôi
chạy
tôi
chạy
tại
sao tôi chạy?
tôi
không hiểu tôi
cả
phố đuổi theo tôi
xe
cộ đuổi theo tôi
tôi
chạy bạt mạng
gần
hết đời
tới
chỗ chỉ còn gục xuống
tỉnh
dậy mồ hôi chảy
tôi
lại thấy tôi là người chưa phạm tội.
Chạy
hết trọn đời, nhưng người Nhân Văn không tìm ra lối thoát. Biến khúc
III, viết về mạng lưới công an trị:
Tôi
rơi vào mạng nhện
mạng
nhện cuốn lấy tôi
không
còn cách gì gỡ được...
muốn
phá cái mạng nhện
Sau
Nhân Văn, người ta vẫn không dám đối xử với tác giả Tiến Quân Ca như
những thành viên khác của NVGP. Họ đành đưa Văn Cao vào bóng tối. Không nhắc
tới. Không cho in. Không cho hát. Không cho vẽ. Trong ba mươi năm. Nhưng Văn
Cao vẫn hiện diện. Hiện diện bằng sự vắng mặt. Người dân miền Nam vẫn nghe
những tuyệt tác của Văn Cao qua tiếng hát những ca sĩ thượng thặng Thái Thanh,
Hà Thanh, Khánh Ly... Và người dân miền Bắc mỗi lần chào cờ là một lần hội ngộ
với Văn Cao.
Tiến Quân Ca là
xương thịt của một nghệ sĩ thiên tài, suốt đời đóng góp cho nghệ thuật chân
chính và tranh đấu cho tự do của đất nước, sẽ mãi mãi còn lại. Bởi khó có tác
phẩm nào thay thế được Tiến Quân Ca trong lòng dân tộc Việt Nam.
Phụ lục
Hồi Ký của Văn Cao:
Bài Tiến quân ca
|
Bài đã bị cắt:
Tại sao tôi viết Tiến quân ca
|
|
Sau Triển lãm Duy nhất 1944 (Salon unique), tôi về ở một
căn gác hẹp đầu phố Nguyễn Thượng Hiền. Ba bức tranh sơn dầu của tôi tuy được
bày vào chỗ tốt nhất của phòng tranh -nhà Khai Trí Tiến Đức- và được
các báo giới thiệu cũng không bán nổi. Hy vọng về cuộc sống bằng hội họa tại
Hà Nội không thể thực hiện được. Anh bạn nhường cho tôi căn gác ấy là người
đã xuất bản mấy bản nhạc đầu tiên của tôi cũng không nói đến tiền nhuận bút.
Tôi chưa bao giờ nhận được tiền nhuận bút về các bản nhạc viết hồi đó dù đã
trình diễn nhiều lần ở các tỉnh từ Bắc tới Nam, tôi cũng không nhận được tiền
nhuận bút về thơ và truyện ngắn. Đối với những cây bút trẻ, việc đăng báolà một
vinh dự, người ta phải mua báo và còn phải mua thêm nhiều tờ để tặng người
yêu, tặng bạn thân. Hàng ngày tôi nhờ mấy người bạn họa sĩ nuôi cơm và giúp đỡ
phương tiện cho làm việc. Cuộc sống lang thang ấy không thể kéo dài nhiều
ngày. Muốn tìm việc làm thì không có chỗ. Hà Nội lúc ấy lại đang đói. Những
người bạn nuôi tôi cũng gặp nhiều khó khăn.
Căn gác 45 ấy bắt đầu đông người thêm. Mấy người bạn tôi
cũng bỏ Hải Phòng để lên đây kiếm việc. Họ đều là những bạn hướng đạo, trước
đây chưa hề phải lo đến chuyện làm ăn. Những năm trước, chúng tôi thường kéo
tới nhà nhau để sống hàng tháng trời bắt gia đình phải nuôi hay thỉnh thoảng
mang lều đi ra ngoài thành phố, về những nơi có núi đồi để cắm trại và ca
hát. Đầu tiên chỉ có hai người tới ở chỗ tôi, sau đấy lại thêm ba người nữa
và có người chỉ mới biết tôi qua bạn bè cũ. Căn gác 45 ấy biến thành một cái
quán trọ của những người thất nghiệp. Hàng ngày mỗi người đi tìm bạn bè trên
phố để kiếm ăn. Đêm đêm họ phải nằm trên cái sàn nhà lát gỗ. Bởi vì tôi chỉ
có một cái giường nhỏ. Chủ nhà đã cắt điện vì tôi không có tiền trả hàng
tháng. Tôi phải làm việc với một ngọn đèn dầu. Đã hết những câu chuyện tâm
tình, những ước mơ và khát vọng của tuổi thanh niên. Mỗi đêm, chúng tôi chỉ
nhìn thấy nhau với những bộ mặt chán chường thất vọng. Đôi lúc có những bộ mặt
thấy vui hơn. Đấy là dấu hiệu thắng lợi của những người gặp may trong ngày đã
kiếm được một bữa ăn ngon, hay một số tiền nhỏ do bạn bè bố thí. Chúng tôi ở
với nhau không ai nghĩ đến sự giúp đỡ nhau. Mạnh ai tìm lấy việc, tìm lấy cơm
ăn hàng ngày. Không chí hướng. Không mục đích.
Buổi sáng mỗi lần ra đi, tôi thấy họ vẫn nằm ôm nhau trên
sàn gác, dù nắng đã chiếu vào giữa nhà. Thấy tiếng kẹt cửa họ cũng không buồn
cựa quậy. Có lúc trở về vào hai ba giờ chiều tôi vẫn thấy họ nằm như buổi
sáng. Anh em thường gọi đấy là những ngày phải "gồng". Tiếng
"gồng" có nghĩa là chịu đói. Tiếng "gồng" theo nghĩa võ
là chịu đòn. Nhóm thất nghiệp còn đặt thêm nhiều từ để chỉ sự đói: ép gồng,
ép rệp. Những cảnh "gồng" thường diễn ra ở căn gác xép ấy.
Người "giải gồng" -có nghĩa là giải được sự đói-
giỏi nhất là tôi. Mỗi buổi sáng ra đi tôi thường không biết là sẽ đi đến đâu
và sẽ làm gì, và chỉ cầu vào sự may mắn: may gặp bữa ăn ở nhà một người bạn,
may gặp một người bạn mời ăn ở dọc đường. Nhờ những năm học vẽ tại Hà Nội,
tôi có một số bạn nên gặp được nhiều may mắn. Nghe tiếng chân của tôi lao
trên mấy bậc thang gạch, mấy anh bạn trở mình nói với nhau: "Nó hôm nay
lại thấy về sớm?" Tôi nhìn các bạn nằm trên sàn gác nhịn đói không biết
nói gì thêm. Cái đói đã trói chúng tôi lại một nơi này.
Có một lần tôi khệ nệ xách lên gác một con cá mè dài gần một
sải tay. Cả bọn vùng dậy. Mặt anh nào cũng sáng hẳn lên:
- Ở đâu ra cái của này?
- Bà mẹ Nguyễn Đình Phúc cho đấy.
Tôi chỉ kịp ngồi thở, vì đã phải đi bộ xách cá từ Hàng Than
về. Bà mẹ nhạc sĩ ấy nay đã mất rồi, nhưng chúng tôi không thể quên ngày
chúng tôi nhờ mẹ mà có một bữa đỏ lửa trên sân gác, một bữa "tiệc"
với món cá luộc chấm muối chưa bao giờ ngon lành và no nê đến thế. Hình như
chỉ có một buổi tối hôm ấy thôi có người trong chúng tôi mới kể đến những
chuyện về tình yêu.
Thế rồi bỗng nhiên họ rẽ nhau đi hết trong một ngày. Và căn
gác bỗng lạnh vắng. Bọn họ đã tìm được công việc trong một dịp may. Một người
chủ thầu chợ Hà Đông nhận tất cả làm nhân viên dán vé. Riêng tôi không thể
làm nghề ấy được. Tôi ở lại một mình trên căn gác vắng vào những ngày đầu thu
năm 1944.
|
Sau Triển lãm Duy nhất 1944 (Salon unique), tôi về ở một
căn gác hẹp đầu phố Nguyễn Thượng Hiền. Ba bức tranh sơn dầu của tôi tuy được
bày vào chỗ tốt nhất của phòng tranh -nhà Khai Trí Tiến Đức- và được các báo
khen ngợi nhưng cũng không bán nổi. Hy vọng về cuộc sống hội họa, tại Hà Nội
không thể thực hiện được. Anh bạn nhường cho tôi căn gác ấy, là người đã xuất
bản mấy bản nhạc đầu tiên của tôi, cũng không thấy nói đến tiền nhuận bút.
Tôi chưa bao giờ nhận được tiền nhuận bút về các bản nhạc viết hồi đó dù đã
trình diễn nhiều lần ở các tỉnh từ Bắc tới Nam, tôi cũng không nhận được tiền
nhuận bút về thơ và truyện ngắn. Đối với cây bút trẻ, việc đăng báo là một
vinh dự. Người ta phải đi mua báo và còn mua thêm nhiều tờ để tặng người yêu,
tặng bạn thân. Hàng ngày tôi nhờ mấy người bạn họa sĩ nuôi cơm và giúp đỡ
phương tiện cho làm việc. Cuộc sống lang thang đó không thể kéo dài nhiều
ngày. Muốn tìm việc làm thì không có chỗ. Hà Nội lúc ấy lại đang đói.
|
|
Tin từ Hải Phòng lên cho biết mẹ tôi, các em và các cháu
đang đói khổ. Bà đưa các đứa nhỏ ấy từ Nam Định ra Hải Phòng, dọc đường để lạc
mất đứa cháu con anh cả tôi. Nó mới lên ba. Đôi mắt nó giống như mắt con mèo
con. Có thể nó đã nằm ở dọc đường trong đám người chết đói năm ấy. Các anh
tôi cũng đang chờ tôi tìm cách giúp đỡ. Năm ấy rét sớm hơn mọi năm. Tôi ngủ với
cả quần áo. Có đêm tôi phải đốt dần bản thảo và ký họa để sưởi. Đêm năm ấy
cũng dài hơn đêm mọi năm. Những ngày đói của tôi bắt đầu.
Căn gác được thêm một người ở. Anh Ph.D. là bạn thân của
tôi từ Hải Phòng lên. Anh mới nhận nhiệm vụ làm giao thông của tổ chức giữa
hai tỉnh Hà Nội và Hải Phòng. Từ lâu, tôi vẫn biết Ph. D là người của đoàn thể,
và thường chú ý giúp đỡ tôi. Tôi nghĩ làm cách mạng là phải bỏ văn nghệ, con
đường của người làm cách mạng là phải thoát ly phải hy sinh như gương chiến đấu
của các đồng chí mà tôi đã được biết qua sách báo. Nhưng tôi vẫn có thể làm
khác vói việc thoát ly -tôi chỉ hiểu tổ chức đến thế- có thể là bằng sáng tác,
bằng những hành động mà tôi dễ làm nhất như nhận dạy hát cho một đoàn thanh
niên về những bài ca yêu nước, hay tham gia những buổi biểu diễn giúp đỡ người
nghèo v.v... Tôi chỉ biết sáng tác một số ca khúc về đề tài lịch sử, kêu gọi
xa xôi lòng yêu nước. Tôi chưa dám làm một bài ca cách mạng. Và cũng chỉ có
thế thôi, thanh niên học sinh và anh em hướng đạo đã khuyến khích
tôi. Sự khuyến khích ấy đẩy tôi vào nghề nhạc sau này. Lần này, Ph. D. lên ở
với tôi vào giữa lúc tôi đã muốn bỏ tất cả hội họa, thơ ca, âm nhạc, bỏ tất cả
giấc mơ sáng tạo thường đêm đêm đan mãi đan mãi cái vành mũ triền miên trên đầu
như một vòng ánh sáng thần thánh.
Một hôm, Ph. D. nói với tôi:
- Văn có nhớ anh Vũ Quý không? Anh ấy vẫn ở Hà Nội? Văn có
muốn gặp anh ấy không?
Tôi biết đồng chí Vũ Quý trong những ngày còn là vận động
viên bơi lội ở Hải Phòng. Chúng tôi thường tập luyện hàng ngày trên sông Cấm.
Từ khi biết anh bị mật thám Pháp bắt hụt, tôi hết sức khâm phục. Thế ra người
cộng sản ấy vẫn hoạt động tại Hà Nội. Anh ấy vẫn nhớ đến tôi.
|
Tin từ Hải Phòng lên cho biết mẹ tôi, các em và các cháu
tôi đang đói khổ. Bà đưa các đứa nhỏ ấy từ Nam Định ra Hải Phòng, dọc đường để
lạc mất đứa cháu con anh cả tôi. Nó mới lên ba. Đôi mắt nó giống như mắt con
mèo con. Có thể nó nằm ở dọc đường trong đám người chết đói năm ấy. Các anh
tôi cũng đang chờ tôi tìm cách giúp đỡ. Năm ấy rét hơn mọi năm.
Tôi ngủ với cả quần áo. Có đêm tôi phải đốt dần bản thảo và ký họa để sưởi.
Đêm năm ấy cũng dài hơn mọi năm. Những ngày đói của tôi bắt đầu.
|
|
Tôi đã gặp lại đồng chí Vũ Quý. Anh là người vẫn theo dõi
những hoạt động nghệ thuật của tôi từ mấy năm qua, và thường khuyến khích tôi
sáng tác những bài hát yêu nước như Đống Đa, Thăng Long hành khúc ca, Tiếng
rừng, và một số ca khúc khác. Chúng tôi gặp nhau trước ga Hàng Cỏ. Chúng tôi
vào một hiệu ăn, ở đấy quyết định một cuộc đời mới của tôi. Câu chuyện của
chúng tôi thật hết sức đơn giản.
- Văn có thể thoát ly hoạt động được chưa?
- Được.
- Ngày mai Văn bắt đầu nhận công tác và nhận phụ cấp hàng tháng.
Ngày hôm sau anh đưa tôi lại nhà một đồng chí thợ giày ở đầu
ngõ chợ Khâm Thiên để ăn cơm tháng và chờ quyết định công tác. Ngày đầu tiên
chấm dứt cuộc sống lang thang của tôi.
Vũ Quý đến tìm tôi và giao công tác:
- Hiện nay trên chiến khu thiếu bài hát, nên phải dùng những
điệu hướng đạo. Khoá quân chính kháng Nhật sắp mở, anh hãy soạn một bài hát
cho quân đội cách mạng chúng ta.
Phải làm như thế nào đây? Chiều hôm ấy tôi đi dọc theo đường
phố ga, đường Hàng Bông, đường Bờ Hồ, theo thói quen cố tìm một cái gì để
nói, tìm một âm thanh đầu tiên. Nhưng đường phố quen thuộc ấy thường không
vang một âm thanh gì hơn những tiếng nghe buồn bã hàng ngày. Hôm nay phố đông
người hơn và lòng tôi thấy vui hơn. Tôi đang chờ nhận một khẩu súng và được
tham gia vào đội vũ trang. Tôi đang chuẩn bị một hành động gì có thể là mạo
hiểm hy sinh chứ không chuẩn bị để lại quay về làm bài hát. Thật khó nghĩ tới
nghệ thuật lúc này. Tôi đi mãi tới lúc đèn các phố bật sáng. Bên một gốc cây,
bóng mấy người đói khổ trần truồng loang trên mặt hồ lạnh. Họ đang đun một thứ
gì trong một cái ống bơ sữa bò. Ngọn lửa tím sẫm bập bùng trong những hốc mắt.
Có một đứa bé gái nó khoảng lên ba. Tôi ngờ ngợ như gặp lại cháu tôi. Đôi mắt
nó giống như mắt con mèo con. Cháu bé không mảnh vải che thân. Nó ngồi ở xa
nhìn mấy người lớn sưởi lửa. Hình như nó không phải con cái số người đó. Hình
như nó là đứa trẻ bị lạc. Không phải cháu tôi. Nó đã chết thật rồi. Có thể nó
nằm trong đám người chết đói dọc đường Nam Định - Hải Phòng. Tôi bỗng trào nước
mắt và quay đi. Đêm ấy về gác tôi viết được nét nhạc đầu bài Tiến Quân
Ca.
Những ngày ấy, Ph.D. sống chung với tôi. Thỉnh thoảng anh về
Hải Phòng và mang tiền bán tín phiếu do các cơ sở gửi lên. Quần chúng ủng hộ
Việt Minh ngày càng nhiều. Các báo chí gửi về các cơ sở như "Cờ Giải
Phóng" và "Cứu Quốc"cũng tăng thêm số lượng. Tất cả
đã chất đầy mặt bàn tôi. Những tin đấu tranh ở các tỉnh được phản ảnh đầy đủ
trên báo chí. Tin chiến khu được mở rộng. Tin về các đội du kích thành lập. Rồi
những tặng phẩm gửi tôi có thêm cả máy ảnh, ống viễn kính, cả những bì gạo. Mỗi
vật tiếp nhận càng cho thấy sự phát triển lớn mạnh thêm của phong trào quần
chúng đô thị và nông thôn. Những cột báo không đăng hết được danh sách những
người ủng hộ Mặt trận.
Tôi thường nhìn Ph. D. mỗi lần anh đóng gói đi xa và lắng
nghe tiếng còi tàu ngoài ga Hàng Cỏ để chờ một chuyến tàu đêm. Dưới ngọn đèn
dầu, bộ mặt ngăm ngăm đen của anh chỉ thấy ánh lên đôi mắt sâu và trầm lặng.
Anh rất tôn trọng những phút tôi ngồi vào bàn với tập bản thảo và chờ đợi âm
thanh của từng câu nhạc được nhắc đi nhắc lại. Anh là người chứng kiến sự ra
đời của bài Tiến Quân Ca.
Ngày nay tôi vẫn không sao nhớ nổi, dù nhớ đủ mọi kỷ niệm,
rằng mình đã soạn nhạc bằng phương tiện nào, một cây đàn ghi-ta, một
măng-đô-lin hay một băng-giô. Cũng không nhớ tôi đã mượn đàn của ai và ở đâu.
Có thể bài "Tiến quân ca" đã soạn trên một chiếc ghi-ta Ha-oai
chăng? Bởi vì tôi đã quen sáng tác trên cây đàn này những năm trước đây.
|
Tôi đã gặp lại đồng chí Vũ Quý. Anh là người vẫn theo dõi
những hoạt động nghệ thuật của tôi từ mấy năm qua, và thường khuyến khích tôi
sáng tác những bài hát yêu nước như Đống Đa, Thăng Long hành khúc ca, Tiếng
rừng, và một số ca khúc khác. Chúng tôi gặp nhau trước ga Hàng Cỏ. Chúng tôi
vào một hiệu ăn. Ở đây quyết định một cuộc đời mới của tôi. Câu chuyện giữa
chúng tôi thật hết sức đơn giản.
- Văn có thể thoát ly hoạt động được chưa?
- Được.
- Ngày mai Văn bắt đầu nhận công tác và nhận phụ cấp hàng
tháng.
Ngày hôm sau anh đưa tôi lại nhà một đồng chí thợ giày ở đầu
ngõ chợ Khâm Thiên để ăn cơm tháng và cho quyết định công tác. Đây là lần đầu
tiên chấm dứt cuộc sống lang thang của tôi.
Vũ Quý đến tìm tôi và giao công tác:
- Hiện nay trên chiến khu thiếu bài hát, phải dùng những
điệu hướng đạo. Khoá quân chính kháng Nhật sắp mở, anh hãy soạn một bài
hát cho quân đội cách mạng chúng ta.
Phải làm như thế nào đây? Chiều hôm ấy tôi đi dọc theo đường
phố ga, đường Hàng Bông, đường Bờ Hồ, theo thói quen, tôi cố tìm một cái gì để
nói. Tìm một âm thanh đầu tiên. Những đường phố quen thuộc ấy thường không
vang một âm thanh gì hơn những tiếng nghe buồn bã hàng ngày. Hôm nay phố đông
người hơn và lòng tôi thấy vui hơn. Tôi đang chờ nhận một khẩu súng và được
tham gia vào đội vũ trang. Tôi đang chuẩn bị một hành động gì có thể là mạo
hiểm hy sinh chứ không chuẩn bị để lại quay về làm bài hát. Thật khó nghĩ tới
nghệ thuật lúc này. Tôi đi mãi tới lúc đèn các phố bật sáng. Bên một gốc cây,
bóng mấy người đói khổ trần truồng, loang trên mặt hồ lạnh. Họ đang đun một
thứ gì, trong một cái ống bơ sữa bò. Ngọn lửa tím sẫm bập bùng trong những hốc
mắt. Có một đứa bé gái. Nó khoảng lên ba. Tôi ngờ ngợ như gặp lại cháu tôi.
Đôi mắt nó giống như mắt con mèo con. Cháu bé không có mảnh vải che thân. Nó
ngồi ở xa nhìn mấy người lớn sưởi lửa. Hình như nó không phải con cái số người
đó. Hình như nó là đứa trẻ bị lạc cũng không phải là cháu tôi. Nó đã chết thật
rồi. Có thể nó đã nằm trong đám người chết đói dọc đường Nam Định - Hải
Phòng. Tôi bỗng trào nước mắt, và quay đi. Đêm ấy về căn gác tôi đã viết
được nét nhạc đầu tiên của bài Tiến quân ca.
|
|
Bài hát đã làm trong không biết bao nhiêu ngày tại căn gác
hẹp số 45 phố Nguyễn Thượng Hiền bên một cái cửa sổ nhìn sang căn nhà hai tầng,
mấy lùm cây và một màu trời xám. Ở đấy thường vọng lên những tiếng xe bò chở
xác người chết đói đi về phía Khâm Thiên. Ở đấy hàng đêm mất ngủ vì gió mùa
luồn vào từng khe cửa, vì tiếng đánh chửi nhau của một anh viên chức nghèo khổ
thiếu ăn dưới nhà vọng qua những khe sàn gác hở. Ở đấy tôi hiểu thêm nhiều
chuyện đời. Ở đấy có những tiếng đập cửa, những tiếng gọi đêm không người đáp
lại.
Tin từ Nam Định lên cho biết mẹ tôi và các em đã về quê và
đang bị đói. Họ đang tìm mọi cách để sống qua ngày như mọi người đang chờ một
cái chết thật chậm, tự ăn mình như ngọn nến. Tiếng kêu cứu của mẹ tôi, của
các em, các cháu tôi vọng cả căn gác, cả giấc ngủ nhiều hôm. Tất cả đang chờ
tôi tìm cách giúp đỡ. Tôi chưa được cầm một khẩu súng, chưa được gia nhập đội
vũ trang nào, tôi chỉ biết đang làm một bài hát. Tôi chưa được biết chiến
khu, chỉ biết những con đường ga, đường Hàng Bông, đường Bờ Hồ theo thói quen
tôi đi. Tôi chưa gặp các chiến sĩ cách mạng của chúng ta trong khóa quân
chính đầu tiên ấy, để biết họ hát như thế nào. Ở đây tôi đang nghĩ cách viết
một bài hát thật giản dị cho họ có thể hát được
Đoàn quân Việt Minh đi
Chung lòng cứu quốc
Bước chân dồn vang trên đường gập ghềnh xa
Và ngọn cờ đỏ sao vàng bay giữa màu xanh của núi rừng. Nhịp
điệu ngân dài của bài hát mở đầu cho tiếng cồng vang vọng.
Đoàn quân Việt Minh đi
Sao vàng phấp phới
Dắt giống nòi quê hương qua nơi lầm than
Không, không phải chỉ có những học sinh khóa quân chính
kháng Nhật đang hành quân, không phải chỉ có những đoàn chiến sĩ áo chàm đang
dồn bước, mà cả một đất nước đang chuyển mình.
Tên bài hát và lời ca của nó là một sự tiếp tục từ Thăng
Long hành khúc ca:
"Cùng tiến bước về phương Thăng Long thành cao đứng"
hay trong Đống Đa:
"Tiến quân hành khúc ca
Thét vang rừng núi xa..."
Lời trên đã rút ngắn thành tên bài Tiến quân ca và
tiếng thét ấy ở đoạn cao trào của bài hát:
"Tiến lên! Cùng thét lên!"
"Chí trai là đây nơi ước nguyền"
Trên mặt bàn chỗ tôi lam việc, tờ "Cờ giải phóng"
đăng những tin tức đầu tiên về những trận chiến thắng ở Võ Nhai.
Trước mắt tôi mảnh trời xám và lùm cây của Hà Nội không còn
nữa. Tôi đang sống ở một khu rừng nào đó trên kia, trên Việt Bắc. Có nhiều
mây và nhiều hy vọng.
Và bài hát đã xong. Tôi nhớ lại nụ cười thật hài lòng của đồng
chí Vũ Quý. Da mặt anh đen xạm, đôi mắt và nụ cười của anh lấp lánh. Tôi nhớ
lại nụ cười hồn nhiên của đồng chí Nguyễn Đình Thi khi xướng âm lần đầu tiên
nhạc điệu bài hát đó. Thi nói với tôi:
- Văn ạ, chúng mình thử mỗi người làm một bài về Mặt trận
Việt Minh xem sao?
Tôi không kịp trả lời, chỉ nhìn thấy đôi mắt của Thi thật lạc
quan và tin tưởng. Sau này Thi làm xong bài "Diệt phát xít" trước
tôi. Bài "Chiến sĩ Việt Nam" của tôi và bài "Diệt phát
xít" của Nguyễn Đình Thi ngày ấy không có dịp in trên tờ báo do chúng
tôi cùng phụ trách.
|
Bài hát đã làm trong thời gian không biết bao nhiêu ngày, tại
căn gác hẹp số 45 Nguyễn Thượng Hiền, bên một cái cửa sổ nhìn sang căn nhà
hai tầng, mấy làn cây và một màn trời xám. Ở đây thường vọng lên những tiếng
xe bò chở xác người chết đói về phía Khâm Thiên. Ở đây hàng đêm, mất ngủ vì
gió mùa luồn vào tung khe cửa, vì tiếng đánh chửi nhau của một gia đình anh
viên chức nghèo khổ, thiếu ăn, vọng qua những khe sàn gác hở. Ở đây tôi hiểu
thêm nhiều chuyện đời. Ở đây đêm đêm có những tiếng gõ cửa, những tiếng gọi
đêm không người đáp lại.
Tin từ Nam Định lên, cho biết mẹ tôi và các em đã về quê và
đang đói. Họ đang phải tìm mọi cách để sống qua ngày, như mọi người đang chờ
đợi một cái chết thật chậm, tự ăn mình như ngọn nến. Tiếng kêu cứu của mẹ
tôi, các em, các cháu tôi vọng cả căn gác, cả giấc ngủ chiều hôm. Tất cả đang
chờ đợi tôi tìm cách giúp đỡ. Tôi chưa được cầm một khẩu súng, chưa được gia
nhập đội vũ trang nào. Tôi chỉ đang làm một bài hát. Tôi chưa được biết chiến
khu, chỉ biết những con đường phố Ga, đường Hàng Bông, đường Bờ Hồ, theo thói
quen tôi đi. Tôi chưa gặp các chiến sĩ cách mạng của chúng ta, trong khóa
quân chính đầu tiên ấy, và biết họ hát như thế nào. Ở đây tôi đang nghĩ cách
viết một bài hát thật giản dị, cho họ có thể hát được
Đoàn quân Việt Nam đi
chung lòng cứu quốc
Bước chân dồn vang trên đường gập ghềnh xa…
Và ngọn cờ đỏ sao vàng bay giữa màu xanh của núi rừng. Nhịp
điệu ngân dài của bài hát mở đầu cho tiếng cồng vang vọng.
Đoàn quân Việt Nam đi
Sao vàng phất phới
Dắt giống nòi quê hương qua nơi lầm than…
Không, không phải chỉ có những học sinh khóa quân chính
kháng Nhật đang hành quân, không phải chỉ có những đoàn chiến sĩ áo chàm đang
dồn bước. Mà cả một đất nước đang chuyển mình.
Tên bài hát và lời ca của nó là một sự tiếp tục từ Thăng
Long hành khúc ca:
"Cùng tiến bước về phương Thăng Long thành cao đứng"
- Hay trong Đống Đa:
"Tiến quân hành khúc ca
Thét vang lừng núi xa..."
Lời trên đã rút ngắn thành tên bài Tiến quân ca và
tiếng thét ấy ở đoạn cao trào của bài hát:
"Tiến lên! Cùng thét lên!"
"Trí trai là đây nơi ước nguyền"
Trên mặt bàn chỗ tôi lam việc, tờ "Cờ giải phóng"
đăng những tin tức đầu tiên về những trận chiến thắng ở Võ Nhai.
Trước mắt tôi mảnh trời xám và lùm cây của Hà Nội không còn
nữa. Tôi đang sống ở một khu rừng nào đó trên kia, trên Việt Bắc. Có nhiều
may và nhiều hy vọng.
Và bài hát đã xong. Tôi nhớ lại nụ cười thật hài lòng của đồng
chí Vũ Quý. Da mặt anh đen xạm. Đôi mắt và nụ cười của anh lấp lánh. Tôi nhớ
lại nụ cười hồn nhiên của đồng chí Nguyễn Đình Thi, khi xướng âm lần đầu tiên
nhạc điệu bài hát đó. Thi nói với tôi:
- Văn ạ, chúng mình thử mỗi người làm một bài về Mặt trận
Việt Minh xem sao?
Tôi không kịp trả lời, chỉ nhìn thấy đôi mắt của Thi thật lạc
quan và tin tưởng. Sau này Thi làm xong bài "Diệt phát xít" trước
tôi. Bài "Chiến sĩ Việt Nam" của tôi và bài "Diệt phát
xít" của Nguyễn Đình Thi ngày ấy không có dịp in trên tờ báo do chúng
tôi cùng phụ trách.
|
|
Tháng 11-1944, tôi tự tay viết bài Tiến quân ca lên
đá in, trong trang văn nghệ đầu tiên của tờ báo Độc Lập, còn giữ lại nét chữ
viết của một anh thợ mới vào nghề.
Một tháng sau khi báo phát hành, tôi từ cơ quan ấn loát trở
về Hà Nội. Qua một đường phố nhỏ (bây giờ là đường Mai Hắc Đế) tôi chợt nghe
tiếng đàn măng-đô-lin, từ một căn gác vọng xuống. Có người đang tậpTiến quân
ca. Tôi dừng lại và tự nhiên thấy xúc động. Một xúc động đến với tôi hơn tất
cả những tác phẩm, tôi đã được ra mắt, ở các rạp hát trước đây. Tôi nhận ra
được vài chỗ nhịp điệu còn chưa hoàn chỉnh. Nhưng bài hát đã in ra rồi. Bài
hát đã được phổ biến. Có thể những người cùng khổ, mà tôi đã gặp trên bước đường
cùng khổ của tôi, lúc này đang cầm súng và đang hát.
|
||
Ngày 17 tháng tám 1945, tôi đến dự cuộc mít-tinh của công
chức Hà Nội. Lá cờ đỏ sao vàng được thả từ bao lơn nhà hát lớn xuống. Bài
"Tiến quân ca" đã nổ như một trái bom. Nước mắt tôi trào ra. Chung
quanh tôi, hàng ngàn giọng hát cất lên vang theo những đoạn sôi nổi. Ở những
cánh tay áo mọi người, những băng cờ đỏ sao vàng đã thay nhữngbăng vàng của
chính phủ Trần Trọng Kim.Trong một lúc, nhưng tờ bướm in "Tiến quân
ca" được phát cho từng người trong hàng ngũ các công chức dự mít-tinh.
Tôi đã đứng lẫn vào đám đông quần chúng trước cửa nhà
Hát Lớn. Tôi đã nghe giọng hát quen thuộc của bạn tôi, anh Ph.D. qua loa
phóng thanh. Anh là người đã buông lá cờ đỏ sao vàng trên kia và xuống
cướp loa phóng thanh hát. Con người trầm lặng ấy đã có sức hát hấp dẫn hàng vạn
quần chúng ngày hôm đó, cũng là người hát trước quần chúng lần đầu tiên, và
cũng là một lần duy nhất.
Ngày 18 tháng tám 1945, đội thiếu niên tiền phong đến tìm
tôi nhận nhiệm vụ mới. Tôi không biết giao việc gì cho các em lúc này khi
chúng tôi không phải nhờ các em làm nhiệm vụ trinh sát như trước đây các em
đã giúp chúng tôi hết sức thông minh và dũng cảm. Chúng ta sẽ bắt tay vào nhiệm
vụ mới của cách mạng. Các em sẽ quay về với công việc học tập hàng ngày của
các em. Lúc này... lúc này chúng ta hãy tập hát. Một dàn đồng ca được thành lập
ngay trong Trụ sở Hướng đạo tại phố Hàng Trống, nơi chúng tôi thường sinh hoạt
với các em. Tôi đã hướng dẫn các em học bài Tiến quân ca để ngày hôm sau làm
lễ chào cờ.
Lúc ra về, một em bé khệ nệ ôm một gói khá to và nặng đến gặp
tôi. Đó là một em làm việc quét dọn ở nhà in Lê Văn Tân. Tôi ngạc nhiên nhìn
em mở bọc giấy ra trước mắt các đội viên: một gói truyền đơn mà em đã từng
đêm trốn lại buồng máy, tự xếp chữ và in lấy được vài trăm tờ theo một khẩu
hiệu em đã được xem trên báo Cứu Quốc ngày gần khởi nghĩa. Tôi chợt nhìn đôi
mắt đầy tự hào của em. Đôi mắt em đẹp quá! Tôi ngờ ngợ như đã nhìn thấy đôi mắt
ấy từ bao giờ. Đôi mắt của những đứa trẻ bị lạc!
|
Tới lúc cần hành động, tôi lại bị ốm nặng, và phải đưa những
vũ khí mà tôi giữ cho một đồng chí khác. Ngày 17-8-1945, tôi cố gắng đến
dự một cuộc mít tinh của công chức Hà Nội. Ngọn cờ đỏ sao vàng được thả từ
bao lơn nhà hát lớn xuống. Bài Tiến quân ca đã nổ như một trái bom.
Nước mắt tôi trào ra. Chung quanh tôi, hàng ngàn giọng hát cất lên, vang theo
những đoạn sôi nổi. Những cánh tay áo mọi người, những băng cờ đỏ sao vàng,
đã thay những băng vàng bẩn thỉu của chính phủ bù nhìn Trần Trọng
Kim.
|
|
Ngày 19 tháng tám 1945, một cuộc mít-tinh lớn họp tại
quảng trường Nhà hát lớn. Dàn đồng ca của Thiếu niên Tiền phong hát "Tiến
quân ca" chào lá cờ đỏ sao vàng. Các bạn nhỏ này, ngày nay đã lớn tuổi rồi,
có còn nhớ lại cái buổi sáng tháng tám nắng vàng rực rỡ ấy? Nhớ lại giọng hát
của họ lẫn với giọng tôi vô cùng xúc động chào lá cờ cách mạng? Hàng chục
ngàn giọng hát cất lên, thét lên tiếng thét căm thù vào mặt bọn đế quốc với sự
hào hùng chiến thắng của cách mạng.
Bài "Tiến quân ca" đã là của dân tộc Việt Nam độc
lập kể từ ngày hôm đó. Nay nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tiến lên thành
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bài "Tiến quân
ca" hẳn còn vang vọng mãi tác dụng của nó như thuở nó ra đời trong buổi
bình minh kỷ nguyên mới của lịch sử đất nước.
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét