Con mắt còn lại
Thi sĩ Bùi Giáng xuất
khẩu thành thơ, ông sống trong cõi giới riêng ông, trong hư tưởng mông mênh lạ
kỳ, nên khi lời thơ ông thốt ra, với chúng ta có khi rất bỡ ngỡ xa lạ, khó
hiểu. Ta cố hiểu, rán hiểu về ông, tuy vậy cũng chưa chắc đúng ý ông. Thôi thì
cứ mỗi người một cách mà cảm nhận, mà hiểu.
Thơ hai câu của ông rất nhiều, tôi chỉ nhớ được vài câu thôi:
Em ơi em đẹp vô cùng,
vì em có cái lạ lùng bên trong.
Đi tu thứ nhất ở chùa,
Thứ nhì ở tận cuối mùa lang thang.
Dược Sư thơ mộng vô vàn,
Sầu lên vút tận mây ngàn tần thân.
vì em có cái lạ lùng bên trong.
Đi tu thứ nhất ở chùa,
Thứ nhì ở tận cuối mùa lang thang.
Dược Sư thơ mộng vô vàn,
Sầu lên vút tận mây ngàn tần thân.
“Còn hai con mắt khóc người một con“.
Chính câu thơ này mà nhạc sĩ Trịnh Công Sơn có cảm hứng sáng tác bài nhạc “Con mắt còn lại”.
Trịnh Công Sơn, Bùi Giáng, Văn Cao, Nguyễn Tuân là những thiên tài Việt Nam,
rất hạp nhau và chơi với nhau, bất chấp tuổi tác chênh lệch. Có những ý tưởng
gặp nhau, thầm hiểu nhau, vô ngôn thinh lặng vẫn hiểu. Có những điều Trịnh Công
Sơn định nói bằng ca từ thì Bùi Giáng đã nói trước bằng thi ca. Ta có thể nói
bài nhạc “Con mắt còn lại“ Trịnh Công Sơn và Bùi
Giáng cùng sáng tác vẫn được. Ý vô cùng quan trọng, không có tác ý thì thân và
khẩu đâu có hành động, Phật dạy như vậy mà!;
CON MẮT CÒN LẠI - Elvis Phương - YouTube
Bài con mắt còn lại,
gồm 24 câu, chia làm ba khổ.
Khổ một
Còn hai con mắt khóc
người một con
Còn hai con mắt một con khóc người
Con mắt còn lại nhìn cuộc đời tôi
Nhìn tôi lên cao nhìn tôi xuống thấp
Con mắt còn lại nhìn cuộc tình phai
Tình trong hai tay một hôm biến mất
Con mắt còn lại là con mắt ai
Con mắt còn lại nhìn tôi thở dài.
Còn hai con mắt một con khóc người
Con mắt còn lại nhìn cuộc đời tôi
Nhìn tôi lên cao nhìn tôi xuống thấp
Con mắt còn lại nhìn cuộc tình phai
Tình trong hai tay một hôm biến mất
Con mắt còn lại là con mắt ai
Con mắt còn lại nhìn tôi thở dài.
Bùi Giáng (tranh Đinh Cường)
|
Nếu chúng ta có ba con mắt như Dương Tiễn trong Tây Du Ký
thì dễ cho ta suy đoán ý của tác giả biết mấy, đằng này ta chỉ có hai con khiến
phải động não đây. Trong nhà Phật có năm thứ mắt: nhục nhãn, thiên nhãn, tuệ
nhãn, pháp nhãn, Phật nhãn… Phàm phu chúng sinh đều có nhục nhãn và tuệ nhãn,
tuệ nhãn hiển thị, thấu thị nhiều hay ít, thấp hay cao là tùy ở sự tu tập,
chuyển hóa khổ đau của mỗi chúng sanh. Ai mà có Định có Tuệ có tu tập nghiêm
chỉnh đàng hoàng thì có mắt tuệ (tuệ nhãn) thấy biết hết, dự cảm chuyện
tương lai, đoán việc như thần. Tuệ nhãn ở nơi chúng sinh có và sáng từng lúc,
lúc nào có tu, có thao thức nghĩ đến vận mệnh của quê hương và đạo pháp, thì
lúc đó đôi mắt rực sáng, có nhiều vị lãnh tụ cũng có đôi mắt này. Còn lúc nào
vong thân quên lãng, sống say chết mộng thì mắt chỉ còn thấy mờ mờ, một con mà
thấy sáng vẫn quý hơn hai con mà mờ.
Con người vốn dĩ mau quên, mà mau quên thì bị người đời chê
trách và nhắc: Thôi thì khóc người một con thôi, khóc cả hai con bị dư nước
mắt, mà còn phải dự phòng nữa chứ. Câu một câu hai là nhục nhãn. Câu ba bốn năm
sáu là nhìn bằng mắt tuệ (tuệ nhãn), có tuệ nhãn nên mới biết nhìn lại
mình, xếp bằng ngồi quán chiếu “nhìn tôi lên cao, nhìn tôi xuống thấp”.
“Con mắt còn lại nhìn cuộc tình phai, tình trong hai tay một hôm biến mất“.
Ngộ lý vô thường chưa? Có khi nào lên cao mãi mà không xuống thấp, có cuộc
tình nào mãi ấm nồng mà không phai lạt, cứ ngỡ cứ tưởng chồng mình con mình vợ
mình tài sản mình, là mãi mãi thuộc về mình, luôn khư khư nắm chặt trong tay,
nhưng đùng một cái một hôm biến mất.
Trong đau thương mất mát hụt hẫng vô vọng, bỗng lóe lên một
vầng sáng, trong vầng sáng đó có một con mắt từ bi nhìn mình, mời gọi mình. Mắt
ai vậy? Vẫn chưa rõ chưa nhận là mắt ai à? Mắt Phật chớ còn mắt ai (từ
nhãn thị chúng sinh) lấy mắt từ bi mà nhìn mọi loài chúng sinh. Ngài thương
quá nên nhìn tôi, nhìn chị, nhìn em… thở dài. “Con mắt còn lại là con mắt
ai, con mắt còn lại nhìn tôi thở dài“ câu bảy, tám.
Khổ hai
Còn hai con mắt khóc
người một con
Còn hai con mắt một con khóc người
Con mắt còn lại nhìn một thành hai
Nhìn em yêu thương nhìn em thú dữ
Con mắt còn lại ngờ vực tình tôi
Cuồng điên yêu thương cuồng điên nỗi nhớ
Con mắt còn lại nhìn mây trắng bay
Con mắt còn lại nhìn tôi bùi ngù.
Còn hai con mắt một con khóc người
Con mắt còn lại nhìn một thành hai
Nhìn em yêu thương nhìn em thú dữ
Con mắt còn lại ngờ vực tình tôi
Cuồng điên yêu thương cuồng điên nỗi nhớ
Con mắt còn lại nhìn mây trắng bay
Con mắt còn lại nhìn tôi bùi ngù.
Tranh Bửu Chỉ
Nguyên nhân của khổ
đau là từ một mà nhìn thành hai. Tâm ban đầu (Sơ Tâm) con người dễ
thương lắm, trong veo không phân biệt người thân kẻ sơ, chưa phân biệt như các
bé thơ nên nhìn ai cũng cười, cũng quơ tay đòi ẵm, nhưng đến khi ý thức lớn
mạnh, biết phân biệt người lạ kẻ quen thì không còn một nữa, mà đã hóa thành
hai. Chân tâm, Phật tánh, bản thể chân như, tự tánh thanh tịnh… hay nói như thi
sĩ Bùi Giáng “vì em có cái lạ lùng bên trong“ Sống với tự tánh thanh
tịnh, cái lạ lùng bên trong đó, nên em mới đẹp, chớ không phải phấn son lòe
loẹt mà em đẹp. Từ cái đẹp bên trong, mới biểu hiện cái đẹp bên ngoài. Bởi không
sống với vô phân biệt trí nên mới thấy một thành hai, khi thì nhìn em yêu
thương, khi thì nhìn em như thú dữ. Bởi sống trong ngã chấp, ngã ái nên sợ mất.
Bởi chưng sợ mất nên cuồng điên yêu thương, cuồng điên nỗi nhớ. Yêu mà chân thật đàng hoàng, thì luôn tỉnh táo, tỉnh táo để nhận diện, chấp nhận ưu khuyết điểm của nhau để sống chung. Chứ cuồng điên khi yêu, khi tỉnh lại ta không còn yêu nữa. Cũng vậy, nhớ mà cuồng điên thì khi tỉnh lại ta không còn nhớ nữa. Biết tu tâm một chút, bớt phù phiếm xa hoa đua đòi một chút. Biết nỗi khổ của vợ của con ở nhà với canh rau dưa muối mà nén lòng trong những bữa dạ tiệc cao sang một chút. Được như vậy chỉ yêu bình thường thôi, bởi bình thường tâm thị Đạo, không cần phải cuồng điên gì hết. Bốn câu này là nhìn bằng mắt thịt (nhục nhãn).
Bởi chưng sợ mất nên cuồng điên yêu thương, cuồng điên nỗi nhớ. Yêu mà chân thật đàng hoàng, thì luôn tỉnh táo, tỉnh táo để nhận diện, chấp nhận ưu khuyết điểm của nhau để sống chung. Chứ cuồng điên khi yêu, khi tỉnh lại ta không còn yêu nữa. Cũng vậy, nhớ mà cuồng điên thì khi tỉnh lại ta không còn nhớ nữa. Biết tu tâm một chút, bớt phù phiếm xa hoa đua đòi một chút. Biết nỗi khổ của vợ của con ở nhà với canh rau dưa muối mà nén lòng trong những bữa dạ tiệc cao sang một chút. Được như vậy chỉ yêu bình thường thôi, bởi bình thường tâm thị Đạo, không cần phải cuồng điên gì hết. Bốn câu này là nhìn bằng mắt thịt (nhục nhãn).
Và khi nhận diện
chuyển hóa niềm đau nỗi khổ rồi, một không thành hai nữa, mà một là tất cả, tất
cả trong một. Lúc bấy giờ ngồi trước hiên nhà, nghe thoang thoảng hoa cau, mà
nhìn mây trắng bay. Và vẫn còn một chút hối hận ngày qua, bỗng thốt lên: May
mà, may mà ! len vào trong tâm một chút bùi ngùi. Hai câu bảy, tám này là quán
chiếu bằng tuệ nhãn.
Khổ ba
Còn hai con mắt khóc người một con
Còn hai con mắt một con khóc người
Con mắt còn lại nhìn đời là không
Nhìn em hư vô nhìn em bóng nắng
Con mắt còn lại nhẹ nhàng từ tâm
Nhìn em ra đi lòng em xa vắng
Con mắt còn lại là đêm tối tăm
Con mắt còn lại là đêm nồng nàn.
Mắt Phật
Thực tính của cuộc
đời, của vạn hữu là không. Không đây không phải là không ngơ, là trống không,
mà nhìn sắc thấy có không, nhìn không thấy có sắc, sắc tức là không, không tức
là sắc, tất cả chỉ là nhân duyên hòa hợp giả có giả không. Không đây là Không
của trung quán luận, vượt thoát tất cả mọi ý niệm đối đãi. Nhìn đời là Không,
nhìn em hư vô, nhìn em bóng nắng. Tuyệt quá ! Nhìn được như vậy tức là nhìn
bằng mắt tuệ. Nhìn em hư vô, nhìn em bóng nắng. Từ hư vô của tây phương khác
với từ Không của Phật giáo, dịch chữ Không là hư vô là không chính xác. Hư vô
mà Trịnh Công Sơn viết trong ca từ là ám chỉ, còn đó mất đó, nắm trong tay rồi
một hôm biến mất, như vậy hư vô đây là vô thường. Đi giữa sa mạc hay đi vào
vùng nhiều đồi cát nóng, những ngày nắng gắt, mắt ta thấy có hiện tượng như
sóng dợn,lóm đóm lao xao, nhà Phật gọi là hoa đóm, để chỉ cho những hiện tượng
mong manh sanh diệt đổi dời của vũ trụ nhân sinh, cứ tưởng thật mà chẳng thật
chút nào, Trịnh Công Sơn gọi hoa đóm là bóng nắng. Thấy em là hư vô, là bóng
nắng thì em có bỏ ta mà đi, thì cũng nhẹ nhàng từ tâm thôi, vì ta đã hiểu sự
đời tình đời, duyên nghiệp vốn như vậy mà, dẫu em ra đi lòng em xa vắng không
còn nhớ gì ân tình kỷ niệm ngọt ngào một thuở. Có tuệ nhãn trong bốn câu này.
Trịnh Công Sơn có quy
y Phật với pháp danh Nguyên Thọ, lúc nhỏ thường theo mẹ lên chùa Phổ Quang lễ
Phật, thiên phú có chất giọng trầm ấm và mê nhạc lễ chùa, nên được các thầy ở
chùa Phổ Quang dạy nghi lễ, chính vì vậy mà một số nhạc phẩm của anh, trong đó
có bài Ca Dao Mẹ, chỉ cần có cái chuông cái mõ là đệm tốt cho bài hát.
Đến với đạo Phật từ
nhỏ, học đạo, học Phật rất sớm, trưởng thành tiếp tục học trường Triết, nên
Trịnh Công Sơn luôn nghĩ đến vô thường, đến hư vô, đến cái chết, chết là một ám
ảnh đối với anh. Thỉnh thoảnh anh nằm mơ thấy mình qua đời. Có duyên với đạo, biết
đạo là một chuyện, còn có tu tập để chuyển hóa khổ đau, vượt thoát ý niệm sanh
tử, còn mất có không để thong dong tự tại nhìn mây trắng bay như các Thiền Sư
là một chuyện khác. Ta không nên đòi hỏi ở anh quá nhiều, nhưng nếu Trịnh Công
Sơn gặp một đạo sư tâm linh hợp gu với anh, như anh kỳ vọng, hướng dẫn anh tu
tập thì chúng ta đã có được thánh sư - nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, như trường hợp ở
Ấn Độ có thi hào Tagore, được xưng tụng là bậc thánh trong thi đàn thế giới.
Chúng ta tiếc vô cùng cho hai câu kết: ”Con mắt còn lại là đêm tối tăm, con
mắt còn lại là đêm nồng nàn“.
CON MẮT CÒN LẠI - Trịnh Công Sơn - YouTube
Giác
Tâm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét