Thứ Hai, 6 tháng 2, 2017

Bùi Giáng - Hiện tượng của ý nghĩa sự sống vô tận

Bùi Giáng - Hiện tượng của ý nghĩa sự sống vô tận
Có thể nói: Cuộc đời của Bùi Giáng không thuộc về khái niệm trong ý nghĩa của sự sống chưa thoát khỏi những ranh giới định kiến phân biệt trần gian. Ở ông, hình như cái ranh giới mà tạm gọi là khùng điên và thiên tài không thể nào hiểu hết được. Nếu mượn những khái niệm thường tình: hèn sang, nghèo giàu, điên tỉnh, ghét yêu, buồn vui… để nói cái bất tận của cuộc đời Bùi Giáng thì chỉ là ý nghĩ ngây thơ cạn cợt. Thơ ông không phải để bàn, nhưng lạ thay, lâu nay người ta vẫn thích bàn và bàn chưa thể hết những gì thuộc về thơ của ông. Có lần ông bộc bạch, ông làm thơ đơn giản chỉ vì: “Thơ tôi làm ra là để tặng chuồn chuồn, châu chấu, xin các ngài học giả hãy xa lánh thơ tôi”. Xin mượn tạm chút ngôn ngữ của những khái niệm thường tình mà nói đôi dòng về ông trong ý nghĩa sự sống mà ông đã đi qua và đã lưu dấu lại trong cuộc đời này.
Không biết ông đi lạc vào kiếp sống của con người với mục đích gì hay chỉ để rong chơi dưới hình thức Bùi Bê Bối như vậy. Cái hình thức muôn mầu mà nhiều thập kỉ ông sống như cuộc đời khất sĩ, chân đất, túi vải rong chơi mọi nẻo đường, nghêu ngao ca hát, làm thơ, vẽ tranh, ứng xử với đời quá ư thiên tài và cũng không thiếu điều khùng điên kì lạ. Kì lạ bởi lẻ: 
“Giả danh chân đế cũng rồi
Giả danh tục đế đẩy lời cũng qua.”
Nhưng từ ông, từ cuộc sống khó hiểu bởi những cái gọi là “giả danh” đó đã có những ảnh hưởng không thể tưởng tượng trong ý thức tư duy của không biết bao nhiêu tri thức đương thời. Cái hình thức của ông, người ta không định nghĩa được bằng ngôn ngữ. Và đối với ông, cái thứ ngôn ngữ ấy cũng chỉ là phương tiện để nghêu ngao thỏa chí với cuộc đời mà thôi. Không hiểu được bởi lẻ tư duy con người quá giới hạn, trong khi ông sống với cuộc đời bất tận mà không hệ lụy bất cứ một giới hạn nào theo tư tưởng Đại thừa. Nói theo Nhà Vật lí học về học thuyết Đơn Giản Einstein là: “Không giải thích được vấn đề, đơn giản chỉ vì không hiểu đủ rõ vấn đề mà thôi”. Vì không lĩnh hội được sự xuất hiện dị kì của ông giữa chốn trần quá bình thường này, nên mọi người gọi ông với không biết bao nhiêu tên gọi.

Và hình như chính ông cũng chẳng muốn xác định sự hiện hữu của mình với cuộc đời này trong một thân phận bị gán ghép với tên gọi cố định nào. Tất cả những biệt danh như: Lão thi sĩ ăn xin, Đười ươi thi sĩ, Bùi tiên sinh, Trung Niên Thi Sĩ… cùng hàng loạt biệt danh trào lộng khác như: Bùi Bán Dùi, Bùi Bàn Dúi, Bùi Tồn Lưu, Bùi Tồn Lê, Bùi Bê Bối, Bùi Văn Chiêu Lỳ, Brigitte Giáng, Giáng Monroe,... đã nói lên tất cả điều đó.
Bùi Giáng có lần tự họa bản thân mình với cái tự tại thong dong vượt khỏi những giới hạn tựa như mất kiểm soát: “Nhe răng cười trong bóng tối... không bao giờ bắt chuồn chuồn mà cứ bảo rằng mình luôn luôn bắt chuồn chuồn... Không thiết chi đọc sách mà vẫn cặm cụi đọc sách hoài... Chán chường thi ca mà cứ làm thơ hoài... Chuốc sầu vạn đại thì bảo rằng mua vui cũng được một vài trống canh”. 
Và đó là cái mà ông cho là chiêm bao với cuộc đời đầy ảo mộng này: 
“Kể từ khởi sự mọc răng
Đến bây giờ vẫn thường hằng chiêm bao.”

Cái thứ chiêm bao không thường tình chút nào. Đời mộng hay ông mộng?
“Tôi về giũ mộng mù khơi
Kết thành viễn tượng cho đời chiêm bao” 

Đó không hiểu là cái nhìn cuộc đời từ khía cạnh của tâm kẻ say mộng, hay là từ tâm của bậc đã thật sự thoát mộng hoàn toàn? 
Bùi Giáng nói thật như đùa, nói đùa mà như thật. Không biết chỉ là lời đùa vui hay là lời tỏ bày chân thật nhất về cuộc đời mình, mà chính lời tự giới thiệu bằng thơ sau đây của ông nói lên rất rõ sự thể nhập tư tưởng giải thoát của ông về thế giới bằng những “ từ ngữ tư tưởng Đại thừa”: 
“Hỏi tên? Rằng biển xanh dâu,
Hỏi quê? Rằng mộng ban đầu rất xa,
Gọi tên là một hai ba,
Ðếm là diệu tưởng, đo là nghi tâm.” 

“Một hai ba (Nhất thừa, Nhị thừa, Tam thừa)”, “Diệu Tướng”, “Nghi Tâm”; tất cả đều là từ ngữ của tư tưởng Hoa Nghiêm và Pháp Hoa. Có lẽ Bùi Giáng xuất hiện dưới hình bóng của Gã Cùng Tử trong kinh Pháp Hoa là sự lưu xuất của tư tưởng này. Cái Gã Cùng Tử này không phải hiện đến trong nguyên thể của bản chất cái gọi là mang “nghiệp ăn xin” mà là sự đóng vai hiện xuất cho một tư tưởng sinh động kia vậy. Sự sống của ông không thể nào nhận ra được đâu giả, đâu thật.
Ông lang thang không phải miên man vào chốn bất tận của vô định, mà là sự lang thang của trở về với hình thức giả lập. Bùi Giáng thấm nhuần tinh thần này, và thể hiện tinh thần đó bằng chính cả cuộc đời ông như là sự “phụng hiến” hay “cúng dường” để thức giác cái bản lai vốn có của tất cả chúng sinh. Ông đi trong dáng dấp của kẻ cùng tử, như mượn hình tướng rách rưởi, lượm thượm, nhớp nhơ để biểu hiện ra tinh thần bất khinh của Bồ Tát. Và điều đó hoàn toàn không phải là sự khinh miệt cuộc đời thường tình theo cái kiểu “bất mãn năm trần”, mà là sự khơi dậy cái thể tánh trong hình thức giả tướng của ông . 
Thông thường, trong tư tưởng kẻ chán đời thì sống theo lối “nửa người, nửa ngợm, nửa đười ươi” để cho đời chán họ. Ngược lại, Bùi Giáng sống có vẻ thoát ra bên ngoài hình tướng thô chán nhưng lại đi vào đời bằng bao điều thú vị của sự sâu lắng huyền bí sâu thẳm bên trong. Và đó chính là tình yêu của ông dành cho cuộc đời này. Một sự trân trọng cuộc sống hơn gì hết. Chính ông cũng đã thổ lộ quan niệm về sự sống như thế này: “Chúng ta dường như quên mất rằng mỗi người chỉ có một cuộc sống thật xinh, và cuộc sống đó rất có thể bị những thứ tai hại trong hồn ta làm cho méo mó đi… Tiếc sao! Tiếc sao! Một sự sống quá đơn sơ, chúng ta cứ đời đời quên bẵng”. 
Và cái nhìn cuộc đời bằng tư tưởng tươi đẹp, sáng ngời; trái ngược với hình thức bụi bặm và đen tối của ông cũng được thấy rõ qua bài thơ Phụng Hiến:
“…Cây và cối bầu trời và mặt đất
Đã nhìn tôi dưới sương sớm trăng khuya
Mở buồng phổi đón gió bay bát ngát
Dừng bên sông bến cát buổi chia lìa
Hoàng hôn xuống, bình minh lên nhịp nhịp
Ngàn sao xanh lùi bước trước vừng hồng
Ngày rực rỡ đêm êm đềm kế tiếp
Đón chào tôi chung cười khóc bao lần
Tôi đã gửi hồn tôi biết mấy bận
Cho mây xa cho tơ liễu ở gần
Tôi đã đặt trong bàn tay vạn vật
Quả tim mình nóng hối những chờ mong….”

Tình yêu đó khiến ta liên tưởng, có thời gian ông trở về quê Quảng Nam mua 100 con dê và hằng ngày quẩy gậy ê a chăn dê để thỏa chí “hồn du mục”. Ông chăn dê đơn giản chỉ vì yêu dê, và yêu cuộc sống phiêu bồng chứ không gì khác. Thơ làm ra, ông xin tặng hết cho những sinh linh (dê con, chuồn chuồn, châu chấu…) làm nên cuộc sống này. 
“Làm thơ tặng chú bé con
Làm thêm câu nữa tặng con chuồn chuồn
Xong rồi bỏ bút tựa lưng 
Vào gốc cây ngủ ngoài đường chịu chơi
Nắng trưa nắng xế đầy trời
Bóng cây râm mát che đời ta điên”. 
Đây chính là khoảng thời gian ông trở về sống với bản lai hòa nhập tinh thần hoa nghiêm. Tinh thần của: “Vũ trụ bao la, không bỏ sót một sinh linh nhỏ bé. Một vật không bỏ, thì tất cả vạn tượng bao la đều bao trùm cả. Mọi sinh linh đều bao hàm hết, thì cả pháp giới huyền diệu đều trở về đủ cả trong ta”. Hoa Nghiêm mở ra thế giới quan đẹp đến thế. Bùi Giáng chăn dê như thể được trở về thỏa thích với những gì mầu nhiệm cùng hiện hữu nơi thế giới này. Cuộc sống trong đó đã mang đủ ý nghĩa vô cùng.  
“Ngẩng đầu lên! dê ơi anh thong thả
Đeo vòng vào em nghển cổ cong xinh
Ngẩng đầu lên! đây lòng anh vàng đá
Gửi gắm vào vòng mây nhuộm tơ duyên
Ngẩng đầu lên nhìn anh mờ mắt lệ
Từ lần đầu vòng ngọc tuổi hai mươi
Trao người em trăm năm lời ước thệ
Đây lần đầu cảm động nhất mà thôi.
Vòng em xong, vòng anh dành riêng chiếc
Dành riêng mình - dê hỡi hiểu vì sao.”
Ông nói chuyện với dê làm ta liên tưởng tới điển thoại Ngoan Thạch Điểm Đầu- Trúc Đạo Sinh. Pháp sư Trúc Đạo Sinh khi giảng kinh Pháp Hoa chỗ “Tất cả chúng sanh đều là Phật sẽ thành” Ngài đề cập: “Nhất-xiển-đề có khả năng thành Phật.” Kết quả bị các Pháp sư khác chống đối, hiềm khích Trúc Đạo Sinh. Họ cho rằng Trúc Đạo Sinh giảng giải nghịch với ý kinh và đã làm sai khác với lời Phật dạy. Vì sự hiềm khích đã sinh khởi, không còn có ai đến nghe Trúc Đạo Sinh giảng kinh nữa, thế nên Pháp sư vào núi Hổ Khâu, thuộc Tô Châu, gần Thượng Hải, gom đá núi lại rồi giảng kinh cho đá nghe, xiển dương tinh thần nhất-xiển-đề cũng có Phật tánh. Pháp sư hỏi đá núi: “Tôi nói nhất-xiển-đề cũng có Phật tánh, quý vị nghĩ sao. Tôi nói có đúng không?” Những tảng đá núi lặng lẽ gật đầu như thể tán thán lời ngài vậy. Thế nên nói: Sinh công thuyết pháp, Ngoan thạch điểm đầu (Trúc Đạo Sinh giảng pháp, Đá thán phục cúi đầu!)
Bùi Giáng xin ăn giữa phố thị mang tinh thần đích thực của vị khất sĩ. Ông lang thang xin ăn như thể để lại tất cả những gì vướng bận không cần. Bình dị như vị khất sĩ gia tài chỉ có bình bát. Thế mà một hôm, vị khất sĩ vứt bỏ cả bình bát của mình, chỉ vì nhận ra nó không cần thiết nữa khi thấy một người dùng tay lấy nước uống bên sông. Và cuộc sống của ông đơn giản cũng thế. Cái đơn giản đã đạt đến sự tinh tế diệu kì. Cái đơn giản mà Leonardo Da Vinci- danh họa thiên tài người Ý quan niệm: “Đơn giản là tinh tế tối hậu”. Và ngôn ngữ của ông là ngôn ngữ tận cùng của sâu thẳm và tinh tế, để rồi cái đỉnh tột cùng tư tưởng của thứ ngôn ngữ ấy hiện sinh ra một sự sống bằng cuộc đời của ông trong từng khoảnh khắc sát na biến hiện dị kì. Cái đơn giản hồn nhiên của ông, chính là sự trân trọng một cuộc sống. Một cuộc sống không vướng bận những điều không cần thiết vướng bận để cho cuộc đời giải thoát. Đó chính là một sự sống thật trọn vẹn với tinh thần phụng hiến cao cả dành cho đời sống này mà ông đã ghé thăm thật đầy ý nghĩa. Ý nghĩa không phải cho ông, mà là ý nghĩa ông đã cho cuộc đời này bằng thứ tình yêu với những điều bất tận cần thức tỉnh vậy.
“Trần gian hỡi tôi đã về đây sống
Tôi đã tìm đâu ý nghĩa lầm than
Tôi ngẩng mặt ngó ngàn mây cao rộng
Tôi cúi đầu nhìn mặt đất thâm đen
Tôi chấp thuận trăm lần trong thổn thức
Tôi bàng hoàng hốt hoảng những đêm đêm
Tôi xin chịu cuồng si để sáng suốt
Tôi đui mù cho thỏa dạ em yêu.”
Tâm Tôn
Theo http://www.phapvan.ca/vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Thời gian

Thời gian...! Có ai níu được thời gian! Níu lại những khoảnh khắc ấm áp, hạnh phúc, hay níu lấy thời gian mang lại cho ta sự vinh quang tr...