Công luận báo với nhà thơ
Phạm Huy Thông
Năm nay nhà thơ Huy Thông, họ tên đầy đủ là Phạm
Huy Thông (22/11/1916-21/6/1988) và cả tờ Công luận báo (29/8/1916-10/1939)
đều tròn 100 tuổi (1916-2016). Công luận báo đặt tại Sài Gòn, tồn tại
suốt 23 năm, ra được tới 9021 số. Nói riêng trên lĩnh vực văn học, Công luận
báo cho in đủ kiểu sáng tác với các thể loại thơ, cả ngàn truyện ngắn, vài
chục bộ tiểu thuyết và nhiều trang phê bình, dịch thuật; trong đó đặc biệt tập
trung trao đổi, giới thiệu về thơ Huy Thông và Thi xã Dạ lan hương...
Cho đến giữa mùa xuân năm 1938, vừa khi Huy Thông
cùng hai bạn thơ Thái Can (1910-1998) và Lưu Trọng Lư (1912-1991) lập nên Thi
xã Dạ lan hương ở Hà Nội thì ký giả Linh Nhãn (Lê Văn Hòe), người có đôi mắt
xanh, đã trân trọng giới thiệu về thi xã - nhóm thơ - phái thơ - trường thơ này
trong bài viết Một cơ quan mới lạ trong thi giới: Dạ lan hương (số
7644, ra ngày 5/3/1938, tr.5) như sau:
“Là tên một Thi xã mới thành lập ở Bắc Hà, do những
nhà thi sĩ đã nổi tiếng gây dựng nên như: Huy Thông, tác giả của nhiều tập thơ
có giá trị: Yêu đương, Tiếng địch Sông Ô, Anh Nga và Tần Ngọc.
Thái Can, tác giả Những nét đan thanh và Lưu Trọng Lư, một nhà thơ
văn mà chúng tôi không cần giới thiệu với độc giả đã thưởng thức văn tài của
Lưu Trọng Lư từ lâu rồi, người đã sản xuất được nhiều quyển sách có giá trị,
trước hết là Người sơn nhân, Khói lam chiều, và gần đây, Huyền không
động, Con đười ươi...
Mục đích của Thi xã có cái tên “nên thơ” ấy - theo
như lời của các người chủ trương, nó đã tuyên bố ở trong một bài mà chúng tôi
trích đăng dưới đây - có rất nhiều ý nghĩa tốt đẹp mà các nhà văn, nhà báo, những
ai có thật tâm lo nghĩ đến nền thi ca, tiền đồ văn học nước nhà, muốn cho nghệ
thuật được nâng lên cao, đều cần phải sốt sắng tưởng lệ và khuyến khích.
Chúng tôi rất hoan nghinh những người trong nhóm Dạ
lan hương vì đã nảy ra cái sáng kiến mới lạ ấy, hơn nữa chúng tôi cũng muốn có
một ý nghĩ như nhà đại thi hào Pháp Victor Hugo là: Mặc dầu việc nước thiệt là
trầm trọng… (Quoique le moment politique est grave…) (nhưng cứ thật trạng mà
xét thì đã làm gì quá như cách đây một thế kỷ, trong tháng Novembre 1831, giữa
lúc kinh thành Paris đang sôi nổi về cuộc cách mạng (1830) mà Victor Hugo vẫn cứ
điềm nhiên cho xuất bản tập thơ Les feuilles d’Automne).
Thi sĩ cũng đã nhận thấy như mọi người là: còn gì
trái cựa bằng, đang giữa lúc như thế, mà bảo người ta vịnh phú, ngâm thơ? Thi
sĩ vẫn bảo rằng: Chẳng phải đó là một cái cớ để ra không thể không có, trong một
xó tối nào, một nhà thi sĩ (Ce n’est pas un héra son pour que nous n’ayons pas
dans quelque coin obscure un poète). Ở đây chúng tôi muốn nói nhiều thi sĩ hờ
(plusieurs poèsies) vì ở nước ta, số thi sĩ thật có chân tài vẫn còn hiếm hoi lắm.
Lời lẽ ấy là sự giãi bày đủ cả một chương trình
hành động của Dạ lan hương Thi xã. (Coi qua mục Mấy vần thơ - những
sáng tác đầu tiên của Thi xã ấy)”…
Tiếp ngay sau đó là lời tuyên bố, tuyên ngôn, phi lộ
nhấn mạnh tôn chỉ, mục đích của Thi xã ký tên chung ba người Phạm Huy Thông -
Thái Can - Lưu Trọng Lư:
“Lòng người còn rung động, khi sao lấp lánh trong
đêm thanh hay cành rủ ngọn bên đường, thì lời thơ còn réo rắt dưới ngòi bút thi
sĩ.
Thơ không bao giờ tận, mặc dầu hiện đương trải qua
một thời kỳ khủng hoảng đáng sợ. Trước cảnh tượng ấy, chúng tôi quên hết mọi sự
thiếu thốn của mình, lập ra thi xã này, theo đuổi một mục đích có lẽ cao quá
tài sức.
Thi xã - cái “khoái trá” của một thời đại đã qua -
đã lâu lắm mới lại xuất hiện ở xứ này. Hơi muộn nhưng muộn chừng nào thì trách
nhiệm nặng nề chừng ấy. Và thi sĩ ngày nay phải thay hình đổi dạng để ứng phó với
những nhu cầu của thời mới.
Thi xã sẽ gây một chút mới lạ trong thi văn và nâng
thi văn lên một khoảng trời cao rộng, thanh khiết hơn: nó sẽ thổi vào
rừng thơ một khí lực mới.
Thi xã sẽ khai thác những cảm mới. Nó sẽ đưa thi
văn đến những núi sông xa lạ, một thế giới có bóng trăng mềm mại hơn, có những
bông hoa nồng nàn hơn, có những tiếng chim mà nhạc điệu đằm thắm hơn, và ở đây
tâm hồn ta rung trong một bầu không khí cảm động như khi trái đất đang tắm gội
trong thanh hương của những hoa cỏ mới đâm chồi…
Thi xã sẽ tìm tòi những thi tài mới. Vì có những
thi tài thiếu sự săn sóc đành phải mai ẩn trong lặng lẽ. Và đó là một thứ hận
mà nghìn năm sau không còn chuộc gỡ được nữa. Nếu làm thơ là một việc sáng tạo
thì lập thi xã là một việc sáng tạo khác. Ở kia, người ta sáng tạo ra thơ; ở
đây, người ta sáng tạo ra thi sĩ.
Thi xã sẽ tạo giữa sự rộn ràng của xã hội một vùng
không khí cao nhã, trong sạch. Người làm thơ sẽ được hưởng sự đầm ấm như ở bên
một lò sưởi thân mật, dưới mái gia đình. Trong lúc ấy, những cám dỗ tầm thường
chỉ mất công gào thét bên ngoài cửa.
Nhưng chúng tôi cần phải nói rõ ràng, chúng tôi rất
xa cái ý muốn chủ trương một văn phái. Chúng tôi chỉ là những người gần nhau bởi
một sự mê say chung, sự mê say nghệ thuật. Những thi sĩ vì sự phát triển của
tài nghệ riêng, có lẻ những quan niệm riêng. Nhưng có một điều này sẽ hòa giải
các thi sĩ, ấy là sự tôn thờ vẻ đẹp.
Trong một gian nhà nhỏ, vài người đã hợp cùng nhau
bình luận về văn thơ và đọc những tác phẩm của mình vừa làm ra (cũng như những
sa-lông văn học của nước Pháp trước kia vậy - Linh Nhãn chú), còn mới mẻ, còn
sáng láng như một buổi mai.
Nhưng chỉ có thế thôi thì có lẽ chúng tôi đã giam cầm thanh
khí, giam cầm hạnh phúc. Cho nên chúng tôi phải có một cơ quan để thu lại
trong gang tấc những cảm tình muôn dặm. Cho nên chúng tôi phải đưa ra ánh sáng
những bài thơ đã đọc cho nhau nghe trong những đêm tịch mịch, vào giờ dưới
trăng dạ lan hương nở”…
Phân tiếp nối sau dưới đề mục Mấy vần thơ (Những
sáng tác đầu tiên của Dạ lan hương Thi xã) là minh chứng bằng ba bài thơ của
ba tác giả theo thứ tự: Gởi người yêu - Đêm lặng - Một chút lửa…
Có thể nói tính danh của Thi xã Dạ lan hương mới
chỉ thấy giới thiệu trên Công luận báo và hầu như chưa được nhắc lại
trong các bộ lịch sử văn học và thi ca đầu thế kỷ XX… Hy vọng học giới sớm có kế
hoạch đầu tư vào việc sưu tầm tư liệu, hệ thống hóa văn bản và đi sâu nghiên cứu
phần văn chương trên Công luận báo - những đóng góp quan trọng vào tiến
trình hiện đại hóa văn học dân tộc giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX.
MẤY VẦN THƠ
Những sáng tác đầu tiên của Dạ Lan Hương Thi xã
Phạm Huy Thông
GỞI NGƯỜI YÊU
Tặng Mỹ
Khi anh dám mong chờ ngày êm ái,
Sẽ nâng niu thân óng vẻ yêu kiều.
Như mọi gã si tình, anh toan hái,
Hồng ngát hương kết bó tặng người yêu.
Nhưng anh muốn những bông hồng anh tặng,
Còn lưu hương đắm đuối lúc xuân tàn.
Anh muốn bó hoa bền, bền đủ thắng,
Sức cánh tay tàn nhẫn của Thời gian.
Nên anh tới nơi xuân không buổi cỗi,
Tới vườn Tim đóa thắm lộng đài tươi.
Cầm tay anh em lặng hé môi cười…
Và anh ngắt những bông hồng trĩu nhị,
Từ xa xôi âu yếm gởi dần em.
Cho hoa tẩm hương say phòng ủy mị,
Nơi em mê anh đến gọi bên rèm.
Anh chắc em không bao giờ rời ngực,
Hồng du dương cánh tết bằng lời thơ.
Hồng du dương hái riêng cho bạn ngọc,
Ngàn đời sau chẳng cạn ánh hương mơ.
Thái Can
ĐÊM LẶNG
Thời khắc thầm tan dưới gối êm,
Bóng trăng sang dịu ngủ bên thềm.
Cành hoa sẽ hé trên cành lặng,
Một nụ cười im với bóng đêm. *
Ta đứng xem sao giữa bến trời,
Và tìm lặng lẽ dưới hoa rơi.
Bỗng nhiên trong ánh trăng im lặng,
Thấy bóng Hằng Nga ở tuyệt vời.
Mơ mộng tan dần với bóng xa,
Ta nhìn gió nhẹ cuốn cành hoa.
Âm thầm bên liễu trăng hôn lá,
Một cái hôn xanh dưới bóng mờ.
Và trên xanh thẫm mấy vần thơ,
Giữa khoảng không gian chẳng bến bờ.
Theo dõi hồn ta về dưới gối,
Đượm màu xanh thắm của đêm mơ.
Lưu Trọng Lư
MỘT CHÚT LỬA
Đêm đà buông lạnh
Chợ chiều đà hiu quạnh
Bên bụi lau cao
Cô em đã nhổ sào.
Ta vì cô, dừng cương ngựa:
Đừng hát nữa, cô lái ơi!
Cô hãy cho ta một chút lửa,
Đừng hát nữa, cô lái ơi!
Cô hãy cho ta một chút lửa,
Lòng ta giá lạnh đã bao lần.
Cô hãy cho ta một chút xuân,
Cho đượm những là qua úa vựa.
Hà Nội, tháng 12-2016
Nguyễn Hữu Sơn
Nguồn Công luận (Sài Gòn),
số 7644,
ra ngày 5-3-1938, tr.5.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét