Hôm nay Trời đã vào Thu với màu thê lương ảm đạm, với
gió heo may se sắt lạnh lùng và những chiếc lá vàng nhẹ rơi bỏ lại thân cây trơ
trọi não nề. Nhắc đến mùa Thu, có lẽ trong chúng ta không ai không nhớ đến bài
tập đọc “Tôi đi học” của Thanh Tịnh trong tập truyện “Quê Mẹ”. Bài đoản
văn bất hủ đã làm bao cô cậu học trò rung động bàng hoàng mà tôi xin ghi ra đây
một đoạn để chúng ta cùng chia sẻ:
“Hằng năm cứ vào cuối Thu, lá ngoài đường rụng nhiều
và trên không có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại náo nức những kỷ niệm
hoang mang của buổi tựu trường. . .
Buổi sáng mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và
gió lạnh, mẹ tôi âu yếm nắm tay tôi dẫn đi trên con đường làng dài và hẹp. Con
đường nầy tôi đã quen đi lại nhiều lần nhưng lần nầy tự nhiên tôi thấy lạ. Cảnh
vật chung quanh tôi đều thay đổi vì chính lòng tôi đang có sự thay đổi lớn: Hôm
nay tôi đi học”
Trong bốn mùa của thiên nhiên vũ trụ, có lẽ mùa Thu
làm cho con người bâng khuâng hoài cảm nhiều nhất và là nguồn cảm hứng bất tận
cho người nghệ sĩ. Chả thế mà từ ngàn xưa cho tới bây giờ đã có biết bao nhiêu
thơ văn, điệu nhạc nói về mùa Thu.
1)THU VÀ THƠ
Hình ảnh gắn liền với mùa Thu nhất có lẽ là chiếc
lá vàng, từ đó ta có những vần thơ tuyệt vời cho lá Thu như 4 câu thơ dưới đây
trong bài “Cây bàng cuối Thu” của nhà phù thủy thơ lục bát Nguyễn Bính:
Thu sang trên những cành bàng
Chỉ còn hai chiếc lá vàng mà thôi
Hôm qua đã rụng một rồi
Lá theo gió cuốn ra ngoài sơn thôn
Thu tím lá vàng
Chỉ còn hai chiếc lá vàng mà thôi
Hôm qua đã rụng một rồi
Lá theo gió cuốn ra ngoài sơn thôn
Thu tím lá vàng
Nhắc đến những bài thơ hay về Thu mà không nói đến
truyện Kiều của cụ Nguyễn Du thì thật đắc tội với tiên sinh. Bàng bạc trong tập
trường thi, thỉnh thoảng tiên sinh có những đoạn tả cảnh Thu thật nhẹ nhàng và
thật touch như đoạn Kiều từ giã gia đình để dấn thân làm gái giang hồ:
Vi lô san sát hơi may
Một trời Thu để riêng ai một người
Một trời Thu để riêng ai một người
Rừng Thu từng biếc sen hồng
Nghe chim như nhắc tấm lòng thần hôn
Nghe chim như nhắc tấm lòng thần hôn
Riêng đoạn tả cảnh chia ly giữa Thúy Kiều và Thúc
Sinh thì thật trác tuyệt:
Người lên ngựa kẻ chia bào
Rừng phong thu đã nhuộm màu quan san
Rừng phong thu đã nhuộm màu quan san
hay:
Long lanh đáy nước in trời
Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng
Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng
Nhà thơ Tản Đà cũng đã viết về lá vàng:
Đến đây tôi có một sự thắc mắc là cây phong (maple)
mọc nhiều nhất ở Canada, và cũng có ở Trung Hoa là bối cảnh của truyện Kiều,
như vậy cụ Nguyễn Du đưa rừng phong vào thơ của cụ thì còn hiểu được chứ thi sĩ
Tản Đà viết về lá phong thì tôi không biết là Việt Nam ta có cây phong hay
không? Hoặc giả cây phong chỉ có ở một vùng nào đó mà thi sĩ biết được.
Thu về đem nỗi buồn man mác cho lòng người, gió Thu
se lạnh gợi bao niềm nhớ thương như tâm tình của Hồ Dzếnh trong “Màu Thu năm
ngoái”:
Trời không nắng cũng không mưa
Chỉ hiu hiu rét cho vừa nhớ nhung
Chiều buồn như mối sầu chung
Lòng êm nghe thoảng tơ chùng chốn xa
Chỉ hiu hiu rét cho vừa nhớ nhung
Chiều buồn như mối sầu chung
Lòng êm nghe thoảng tơ chùng chốn xa
Riêng Lưu Trọng Lư đã ru hồn người trôi nổi phiêu bồng
trong rừng Thu ngập lá với bài thơ nổi tiếng “Tiếng Thu”:
Em không nghe mùa Thu
Dưới trăng mờ thổn thức . . .
Em không nghe rừng Thu
Lá Thu kêu xào xạc
Dưới trăng mờ thổn thức . . .
Em không nghe rừng Thu
Lá Thu kêu xào xạc
Không những thế, nhà thơ còn phong phú hóa từ ngữ
Việt Nam qua 2 câu cuối:
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô
Đạp trên lá vàng khô
Từ đó, nhóm chữ “con nai vàng ngơ ngác” đã hiên
ngang đi vào kho tàng ngôn ngữ Việt Nam bằng những bước “vững chắc”. Có chàng trai
nào mà không khoái vớt được “con nai vàng ngơ ngác” trừ phi là các đấng thái
giám. Ở Thủ Đức ngày xưa có quán nhậu nổi tiếng tên là “Con nai vàng ngơ ngác”
mà Thầy Chú Sài Gòn kéo nhau tới ào ạt với hy vọng bắt nai nhưng nai đâu không
thấy, chỉ thấy toàn thứ “giả nai” bắt địa thật kỹ.
Mùa Thu cũng là mùa tan tác chia ly như tiếng thổn
thức của nữ sĩ TTKH một thời gây sôi nổi dư luận:
Tôi sợ chiều Thu phớt nắng mờ
Chiều Thu hoa đỏ rụng chiều ThuGió về lạnh lẽo chân mây vắngNgười ấy bên sông đứng ngóng đò(Hai sắc hoa ti- gôn)
Chiều Thu hoa đỏ rụng chiều ThuGió về lạnh lẽo chân mây vắngNgười ấy bên sông đứng ngóng đò(Hai sắc hoa ti- gôn)
Cũng trong nỗi hoài cảm sầu ly biệt, Nguyễn Gia
Linh đã dệt nên những vần thơ lục bát buồn man mác:
Ai hay ai biết đặng nào
Người đi từ độ Thu vào lòng tôi
Hoa lòng chưa nở làn môi
Đã tan theo khói đã rơi vào sầu
(Tâm tình mùa ly biệt)
Người đi từ độ Thu vào lòng tôi
Hoa lòng chưa nở làn môi
Đã tan theo khói đã rơi vào sầu
(Tâm tình mùa ly biệt)
Trong nỗi bâng khuâng nhớ nhà dưới trời Thu hiu quạnh,
thi sĩ Đinh Hùng đã gởi tâm tình qua bài thơ “Bài hát mùa Thu” réo rắt như một
nhạc khúc trữ tình lãng mạn:
Hôm nay có phải là Thu
Mấy năm xưa đã phiêu du trở về
Cảm vì em bước chân đi
Nước nghiêng mặt ngọc lưu ly phớt buồn
Ai về xa mái cô thôn
Một mình trông khói hoàng hôn nhớ nhà
Mấy năm xưa đã phiêu du trở về
Cảm vì em bước chân đi
Nước nghiêng mặt ngọc lưu ly phớt buồn
Ai về xa mái cô thôn
Một mình trông khói hoàng hôn nhớ nhà
Ở xứ Bắc Mỹ xài toàn bếp gas bếp điện thì làm gì có
khói hoàng hôn nhưng sao trong lòng chúng ta luôn luôn: Không khói hoàng hôn
cũng nhớ nhà Phải không các bạn?
Nữ sĩ Ngô minh Hằng, cũng có những giây phút chạnh lòng nhớ những mùa Thu xưa
trên quê hương yêu dấu:
Lại một mùa Thu
Thu viễn phương Hồn Thu se lạnh giấc vô thường
Đêm nay tròn lắm trăng Thu sáng
Nhưng sáng sao bằng trăng cố hương
(Trăng thơ)
Thu viễn phương Hồn Thu se lạnh giấc vô thường
Đêm nay tròn lắm trăng Thu sáng
Nhưng sáng sao bằng trăng cố hương
(Trăng thơ)
Thi sĩ Thế Lữ cũng nhiều lần cảm khái với Thu:
Rồi có khi nào ngắm bóng mây
Chiều Thu đưa lạnh gió heo may
Dừng chân trên bến sông xa vắng
Chạnh nhớ tình tôi trong phút giây
(Giây phút Chạnh lòng)
Chiều Thu đưa lạnh gió heo may
Dừng chân trên bến sông xa vắng
Chạnh nhớ tình tôi trong phút giây
(Giây phút Chạnh lòng)
Mưa Thu phơn phớt nhẹ nhàng như giọt lệ đất trời
đưa kiếp nhân sinh vạn vật vào cõi mông lung huyền ảo mà Trần Huyền Trân đã diễn
tả qua bài “Ngõ trúc (Thu)”
Mưa bay trắng lá rau tần
Thuyền ai bốc khói xa dần bến mưa
Người về khép lại song thưa
Để rêu ngõ trúc tương tư lá vàng
Thuyền ai bốc khói xa dần bến mưa
Người về khép lại song thưa
Để rêu ngõ trúc tương tư lá vàng
Cũng ngay trong mùa Thu, nhà thơ Quách Tấn đã ghi lại
nỗi cảm xúc khi đọc bài “Phong kiều dạ bạc“ của Trương Kế:
Trời bến Phong Kiều sương thấp thoáng
Thu sông Xích Bích nguyệt mơ màng
Bồn chồn thương kẻ nương song bạc
Lạnh lẽo sầu ai rụng giếng vàng
(Đêm Thu nghe quạ kêu)
Thu sông Xích Bích nguyệt mơ màng
Bồn chồn thương kẻ nương song bạc
Lạnh lẽo sầu ai rụng giếng vàng
(Đêm Thu nghe quạ kêu)
Mùa Thu tự cổ chí kim, từ Đông sang Tây đều tượng
trưng cho những nỗi buồn bàng bạc, những cuộc chia ly ngậm ngùi. Trong tâm tình
đó, ta hãy thưởng thức một đoạn thơ của Cung Trầm Tưởng viết về “Mùa Thu
Paris”:
Mùa Thu Paris
Trời buốt ra đi
Hẹn em quán nhỏ
Rưng rưng rượu đỗ tràn ly
Mùa Thu đêm mưa
Phố cũ hè xưa
Công trường lá đổ
Ngóng em kiên khổ phút giờ
Trời buốt ra đi
Hẹn em quán nhỏ
Rưng rưng rượu đỗ tràn ly
Mùa Thu đêm mưa
Phố cũ hè xưa
Công trường lá đổ
Ngóng em kiên khổ phút giờ
Hình như trời sinh ra mùa Thu để cho vạn vật tiêu
điều ủ rũ, cho thế nhân lạc lõng u hoài. Đã thế, qua lăng kính đau thương chán
nản, Hàn Mặc Tử thấy Trời Thu càng não nề chua xót hơn:
Đây bãi cô liêu lạnh hững hờ
Với buồn phơn phớt vắng trơ vơ
Cây gì mảnh khảnh rung cầm cập
Điềm báo Thu vàng gầy xác xơ
(Cuối Thu)
Với buồn phơn phớt vắng trơ vơ
Cây gì mảnh khảnh rung cầm cập
Điềm báo Thu vàng gầy xác xơ
(Cuối Thu)
Thu về trong đôi mắt người thương lãng đãng xa vời
và một thoáng buồn trong không gian nhạt nhòa khói sương đã để lại cho Nguyên
Trần khoảng trống vắng mênh mông:
Nghe chớm Thu về trong mắt em
Nghiêng nghiêng liễu rũ tóc buông mềm
Nhẹ nhàng bướm trắng bay tha thướt
Hờ hững lá vàng rơi thoáng êm
(Hoài Thu)
Nghiêng nghiêng liễu rũ tóc buông mềm
Nhẹ nhàng bướm trắng bay tha thướt
Hờ hững lá vàng rơi thoáng êm
(Hoài Thu)
Mùa Thu quả thật là buồn, buồn trong lòng người cho
đến vạn vật cỏ cây, tiêu điều xác xơ từ thành thị đến làng quê và hắt hiu tan
tác đến cả sơn khê núi rừng. Từ mối hoài cảm đó, ta hãy để tâm tư hòa nhập với
“Thu rừng “ của Huy Cận:
Bỗng dưng buồn bã không gian
Mây bay lũng thấp giăng màn âm u
Nai cao gót lẫn sương mù
Xuống rừng nẻo thuộc nhìn Thu mới về
Sắc trời trôi nhạt dưới khe
Chim đi lá rụng, cành nghe lạnh lùng
Sầu Thu lên vút song song
Với cây hiu quạnh với lòng quạnh hiu
Non xanh ngây cả buổi chiều
Nhân gian e cũng tiêu điều dưới kia
Mây bay lũng thấp giăng màn âm u
Nai cao gót lẫn sương mù
Xuống rừng nẻo thuộc nhìn Thu mới về
Sắc trời trôi nhạt dưới khe
Chim đi lá rụng, cành nghe lạnh lùng
Sầu Thu lên vút song song
Với cây hiu quạnh với lòng quạnh hiu
Non xanh ngây cả buổi chiều
Nhân gian e cũng tiêu điều dưới kia
Đến đây tôi tự hỏi không hiểu vì cảnh sắc mùa Thu tự
nó đã buồn hay vì tâm hồn mẫn cảm của thi nhân là “thú đau buồn“ sao mà hầu hết
bài thơ mùa Thu nào cũng buồn tê tái. Chỉ có một thi nhân duy nhất với ba bài
thơ diễn tả mùa Thu chẳng những không bi quan yếm thế mà còn vui vẻ yêu đời,
mang triết lý sống rất thanh thản. Đó là cụ Tam Nguyên Yên Đỗ Nguyễn Khuyến với
ba bài thơ: Thu Điếu, Thu Ẩm và Thu Vịnh mà chúng ta đã từng học thuộc lòng ở bậc
Trung học.
Đọc truyện “The last leaf” (chiếc lá
cuối cùng) của nhà văn Mỹ O’Henry, chắc các bạn cũng như tôi không khỏi bùi
ngùi thương cảm lão họa sĩ Berhman bao la tình người. Chuyện kể rằng Johnsy bị
bệnh viêm phổi (pneumonia) nặng và đang chờ chết. Mỗi ngày xuyên qua khung cửa
sổ, cô nhìn những chiếc lá Thu rơi từ giàn nho leo sát tường cao vút và luôn
tin tưởng dứt khoát rằng khi chiếc lá cuối cùng rơi rụng là cô sẽ chết. Mặc dù
Sue, chị cô cố thuyết phục Johnsy từ bỏ ý nghĩ ngông cuồng dại dột đó nhưng
Johnsy vẫn cả tin. Bác sĩ cho Sue biết Johnsy đã bị ám ảnh mạnh mẽ như vậy thì
khi chiếc lá cuối cùng rơi, cô ta sẽ suy sụp tinh thần và có thể nguy hiểm tới
tính mạng. Sue kể hết câu chuyện buồn này cùng ông Berhman, một họa sĩ già ngụ ở
tầng dưới chung cư, người có tâm niệm là sẽ vẽ một bức họa kiệt tác
(masterpiece) trong đời nhưng chưa biết là đề tài gì. Lúc đầu khi nghe câu chuyện
nầy, Berhman cười chế giễu cho rằng chuyện khùng diên nhưng sau khi bị thuyết
phục bởi hai họa sỹ đệ tử, ông thay đổi cách suy nghĩ và cố tìm ra nội dung bức
họa để đời. Vào một đêm, trời bỗng nổi giông bão dữ dội với những cơn gió gào
thét ghê rợn cùng trận mưa tuôn xối xả đập vào cửa sổ hung hãn cộng thêm tiếng
sấm sét nổ vang xé trời. Sue vội kéo màn cửa lại và bảo em đi ngủ vừa lúc cô nhận
ra là giàn dây nho chỉ còn bốn chiếc lá trên cành mà chắc trong phút chốc nữa
đây sẽ tan tác trong cơn bảo. Johnsy phản đối chị kéo màn nhưng Sue nhất quyết
không cho em mình trông thấy chiếc lá cuối cùng rơi rụng.
Sáng hôm sau, Johnsy muốn xem lại giàn dây nho để
biết chắc chiếc lá cuối cùng đã rơi và cô sẽ yên lòng ra đi. Nhưng kỳ diệu thay
…vẫn còn một chiếc lá cuối cùng. Johnsy kinh ngạc khi thấy chiếc lá mà cô tin
chắc là sẽ rơi lại còn lơ lửng trên cành. Và cũng chiếc lá đó liên tiếp trong
những ngày sau vẫn không rơi mà đang bám víu cành cây khẳng khiu như cố duy trì
sự sống. Thực đúng là chiếc lá trường xuân (ivy leaf). Từ đó, Johnsy tin tưởng
theo chiều hướng tich cực yêu đời là chiếc lá vẫn còn là một biểu tượng cho cái
tư tưởng bệnh hoạn kỳ quái của cô đòi chết theo chiếc lá. Nhờ đó cô giữ vững
tinh thần nhất định phải sống và đã chiến thắng cơn bệnh để bình phục hoàn
toàn.
Buổi chiều ngày hôm đó, bác sĩ tới nhà nói với Sue
rằng hồi sáng nầy họa sĩ Berhman được chở khẩn cấp tới nhà thương vì chứng viêm
phổi cấp tính, mặc dù các bác sĩ tận tâm chửa trị nhưng quá trễ. Bà dọn dẹp vệ
sinh khu chung cư đã phát giác ra họa sĩ nằm lạnh cóng và run lập cập trong chiếc
áo lạnh và đôi giày dính đầy sơn bên cạnh lọ pha màu và những thùng sơn xanh đỏ
vàng cùng mấy cây cọ nằm lăn lóc trên thảm cỏ dưới chân chiếc thang bắc sát bên
tường. Nhìn thấy cây đèn bão vẫn còn thắp sáng treo lơ lửng trên chiếc
thang, bà công nhân thắc mắc không hiểu ông họa sĩ dở hơi nầy làm cái gì giữa
đêm mưa gió bão bùng như thế? Giọng vị bác sĩ trở nên xa vắng trầm buồn:
- Hai cô hãy nhìn ra ngoài cửa sổ, ngay chiếc lá cuối
cùng trên bức tường trắng kia! Các cô có thắc mắc tại sao chiếc lá cô đơn héo hắt
kia lại không bị rơi trong cơn gió lốc của trận bão tàn bạo đêm hôm qua không?
Hai cô bé dễ thương ơi! Đó chính là một kiệt tác của họa sĩ Berhman. Ông đã dầm
mưa lạnh suốt đêm để vẽ chiếc lá cuối cùng trước khi nó rơi ” có nghĩa là
Berhman đã hi sinh cả tính mạng để cứu sống Johnsy.
Ôi! Tình nhân loại sao mà cao đẹp thiêng liêng
quá!.
2)THU VỚI NHẠC
Có một chiều Thu nào đó, tôi cùng vài người bạn vào
quán café ngồi tâm sự vụn vừa tìm lại một thoáng Sài Gòn hương xưa. Chợt nghe
tiếng hát Lệ Thu nỉ non bản nhạc “Lá đổ muôn chiều” của Đoàn Chuẩn mà thấy lòng
rung động bồi hồi. Tiếng hát mơ hồ huyền hoặc như đưa hồn mình chơi vơi trong
khung trời dĩ vãng tưởng đã nhạt nhòa trong kiếp sống ly hương phiêu bạt:
Thu đi cho lá vàng bay
Lá rơi cho đám cưới về
Ngày mai người em nhỏ bé
Ngồi trong thuyền hoa
Tình duyên đành dứt. . .
Nhưng mỗi mùa Thu chiếc lá vàng bay về cuối trời
Thuyền tình không bến đỗ người ơi!
Nhớ nhau đành tìm trong tiếng hát
Đời vắng em rồi vui với ai.
Lá rơi cho đám cưới về
Ngày mai người em nhỏ bé
Ngồi trong thuyền hoa
Tình duyên đành dứt. . .
Nhưng mỗi mùa Thu chiếc lá vàng bay về cuối trời
Thuyền tình không bến đỗ người ơi!
Nhớ nhau đành tìm trong tiếng hát
Đời vắng em rồi vui với ai.
Nhạc và lời như quyện vào nhau thành một tiết tấu
êm ái nhẹ nhàng khiến lòng người se sắt lâng lâng. Thu chẳng những làm mềm lòng
thi nhân mà còn là nguồn cảm hứng bất tận cho bao nhiêu nhạc sĩ. Trong vườn hoa
âm nhạc Việt Nam có quá nhiều ca khúc mùa Thu để tô điểm thêm cho dòng nhạc trữ
tình lãng mạn càng phong phú đa dạng. Mỗi bản nhạc Thu có một màu sắc khác biệt,
một tâm tư riêng của tác giả nhưng tựu trung thì cũng là BUỒN như thơ vậy.
Trong nỗi cảm khái đó, tôi viết ra bài thơ lục bát
dưới đây để các bạn cùng chia xẻ tâm tình. Điểm đặc biệt là mỗi câu thơ đều có
lồng tên một bản nhạc viết về mùa Thu.
TÌNH THU Ngoài kia LÁ ĐỔ MUÔN CHIỀU (1)
Nghe THU QUYẾN RŨ (2) hồn xiêu trăng thề
THU VÀNG (3) như trải cơn mê
Từ ly MẤY ĐỘ THU VỀ (4) nhớ nhau
LÁ THƯ (5) ấp ủ ngàn sau
Bài THU CA (6) khóc nỗi đau dịu dàng
HOÀI THU (7) cách trở quan san
MỘT CHIỀU THU (8) điểm sắc vàng mông lung
Trơ vơ CHIẾC LÁ CUỐI CÙNG (9)
MÙA THU KHÔNG TRỞ LẠI (10) cung tơ chùng
VÀO THU (11) sương khói lạnh lùng
Thương MÙA THU CHẾT (12) trong vùng mong manh
TIẾC THU (13) gom lá xây thành
NGÀN THU ÁO TÍM (14) long lanh mây trời
Êm êm THU HÁT CHO NGƯỜI (15)
THU SẦU (16) giai điệu chơi vơi não nề
BUỒN GA NHỎ (17) cách sơn khê
TÀ ÁO XANH (18) đã đi về thiên thu
CON THUYỀN KHÔNG BẾN (19) mịt mù
Lá THƯ TÌNH CUỐI MÙA THU (20) giã từ
1,2,5,18 Đoàn Chuẩn 3 Cung Tiến 4,17 Minh Kỳ 6 Phạm
mạnh Cương 7 Văn Trí 8 Nhật Bằng 9 Tuấn Khanh 10 Phạm trọng Cầu
11,14 Hoàng Trọng 12 Phạm Duy (phổ thơ Guillaume Apollinaire) 13 Thanh Trang
15 Vũ Đức Sao Biển 16 Lam Phương 19 Đặng Thế Phong 20 Phan Huỳnh Điểu
Hy vọng rằng bài tản mạn mùa Thu trên đây đã đưa
các bạn trở về với những mùa Thu nên thơ tuyệt vời của quê hương một thời xưa
hoa mộng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét