Buổi chiều xuân gió lặng nắng vàng hiu. Xóm nhà sau cửa
biển im lìm nằm trên cát không muốn lay thức giấc ngủ nướng của đám dân chài sắp
phải ra khơi. Từ bãi sông lối cát mệt mỏi dấu chân người rải trườn theo con dốc
rồi ngẩn ngơ dừng lại nơi căn nhà trên đỉnh dốc đơn độc dáng cây ngô đồng đương
mùa hoa ửng thắm màu son. Dưới bóng cây lắc rắc hoa tàn rơi trên khoảng sân đất
đắp phẳng phiu, đứa bé gái chừng lên ba đang thủ thỉ chơi chị em với con búp bê
tóc vàng mà mắt vẫn ngóng chừng về phía bến đò. Đầu hiên nhà một người đàn bà
tóc bạc trắng ngồi trông cháu tay vẫn thoăn thoắt bện dây võng. Mắt đứa bé chợt
sáng rỡ nhìn con đò vừa cập bến, bóng người thấp thoáng xuống lên. Bé vùng
quăng con búp bê nằm chổng chơ trên chiếu, ù chạy vào nhà.
- Ngoại ơi! Nội với má Nữ về tới rồi!
Dì Nơi ngừng tay bện dây vỏng ngô đồng, gọi vói vào
nhà.
- Mẹ Nguyên coi mà dẩn bé Ni đi đón bà nội. Để bếp
đó dì coi lửa cho.
Bé Ni cuống quít kéo tay mẹ lúc chị bối cao mái tóc
xõa bước theo con.
- Dạ, nồi cơm đang sôi, nhờ Dì coi rút bớt lửa.
Bé Ni hư lắm nghe! Đánh hơi có kẹo bánh là quýnh lên.
Dì Nơi ngồi trông chừng cơm cạn, bà vùi mấy củ
khoai lang vào bếp lửa vừa dập. Vốc nước mưa mát lạnh giúp bà tỉnh táo như vừa
sau một giấc ngủ ngon. Bà mãn nguyện nghĩ tới cây ngô đồng mang từ đảo về,
tự tay trồng mấy năm trước đang nở mùa hoa đầu tiên. Đời bà góa bụa tưởng phải
cam chịu năm tháng cuối đời trong đơn độc nghèo khổ thế mà những người hiền
lương tử tế đã tìm đến, thân tình đùm bọc nhau lúc vui buồn. Trời Phật đã mang
đến cho bà ba cô con gái bà không hề dám mơ tưởng. Nữ, cô gái đảm đang đầy nghị
lực luôn bên cạnh bà những khi cần kíp. Nương, đứa con nuôi hiền thục nhân hậu,
từ hải ngoại xa xôi vẫn luôn tưởng nhớ gởi gắm đến bà như mẹ ruột. Ba năm qua,
căn nhà trên đảo trống vắng mà đầy ắp kỷ niệm con cháu tháng ngày trước khi vượt
biên lại chan hòa tiếng bé Ni khóc cười. Bà vui thấy mẹ của bé Ni đã tìm ra nghị
lực sống chờ chồng đang bị đày ải trên trại tù Gia Trung và tin tưởng vào tương
lai hạnh phúc đoàn viên.
Dì Nơi nhìn cánh hoa ngô đồng trên tay giữa lúc tiếng
cười bé Ni đang tung tăng trên lối cát vọng về. Bà nội bé Ni chào dì Nơi rồi
nhìn cháu lắc đầu.
- Mình già rồi chị ơi! Bước thấp bước cao lên dốc
muốn hụt hơi mà bé Ni cứ chạy lên chạy xuống, níu kéo bà nội đi cho mau.
Cao Nguyên đở hộp bánh sinh nhật trên tay mẹ chồng.
- Bé Ni hư quá! Ham ăn bánh nên hối Bà Nội luôn
miệng.
Bửa ăn mừng bé Ni tròn ba tuổi rộn rã tiếng cười nói
trẻ thơ và tình thân gia đình. Nữ cười nhìn dì Chức vui vầy với cháu.
- Bà Nội vui chưa!? Rứa mà suốt buổi sáng dì cứ tấm
tức răng không chịu để cho bé Ni về Hội An thăm bà nội.
Dì Nơi gật đầu đồng ý.
- Ở cái thôn chài nhỏ ni và ngoài cù lao Chàm,
cháu Nữ “mua” hết rồi chớ trong Hội An tai mắt nhiều, họ mà moi ra được thì mệt
lắm. Mình phải nấn ná, chờ cậu Tiệp được thả ra rồi tính.
Cao Nguyên phụ Nữ dọn thức ăn thừa trên bàn. Nàng
giành bưng mâm nồi ra nhà sau.
- Dì Nữ ngồi chơi với
cháu. Chỉ mấy cái chén dĩa, chị rửa dọn một tí là xong ngay.
Nữ ôm bé Ni vào lòng, vuốt lên mái tóc tơ mềm.
- Bé Ni muốn lên đồi
dương nhìn biển với mẹ Nguyên và má Nữ không?
Bé Ni thòm thèm nhìn nửa chiếc bánh sinh nhật và những
gói quà vừa mở trên bàn. Bé vẩu môi suy nghĩ hồi lâu rồi lắc đầu tụt khỏi Nữ,
sà vào lòng bà nội.
- Được rồi! Bé Ni
nhớ nghe. Ngày mai má Nữ sẽ mua một cái bánh to gấp đôi về ăn một mình.
Bé Ni xụi mặt tiếc rẻ rồi như chợt nhớ ra điều gì,
vùng chạy vào nhà sau. Bé rón rén bước ra với hai nhánh hoa đổ quyên trên tay.
Mẹ Nguyên bước sau con gái, lắc đầu cười.
- Má Nữ có người cạnh
tranh rồi. Với cái đà này, bé Ni sẽ “mua” hết Hội An hồi nào không hay…Ai đời, trưa nay đi thăm mộ, bé hái bông để tặng Nội và má Nữ nhưng rồi thấy
bánh sinh nhật, búp bê mới nên quýnh quáng quên cả tặng hoa.
Hai chị em lên tới đồi dương lúc ngày vừa hết. Mặt
đầm sông chìm dần vào bóng tối, lắt leo mấy ngọn đèn câu. Ngoài khơi xa mây trời
nhuốm một màu tím thẩm sa xuống mặt biển lênh đênh chìm lịm chân trời. Cao
Nguyên chăm chú nhìn chút ráng pha mờ soi dáng đảo côi cút, xa xôi. Giửa phút
giây của ngày đang tắt, nàng hắt hiu nghĩ tới ba năm đợi chờ đăng đẳng từ một hải
đảo xa lạ. May mà có bé Ni, có người thân. May còn có Tiệp, còn nỗi nhớ
thương người và niềm hi vọng đoàn viên. Cao Nguyên bất giác vỗ về lên vai Nữ vẫn
đứng trầm ngâm.
- Sáng nay lúc dọn
dẹp, một chút nữa là dì Nơi không biết đã quăng bình hoa sen khô của em rồi.
- Có lẽ em cũng nên
vứt bỏ nó đi. Chỉ là những nụ hoa khô héo phải không chị?
Giọng Nữ buồn nhão trong đêm. Tình yêu đã cho nàng những
cành hoa đẹp trong đời nhưng định mệnh lại cản ngăn không cho hoa đơm kết trái.
Nàng muốn có một đứa con với người mình yêu nhưng rồi cũng chỉ một mình một
bóng. Dù sao đó vẫn là những đóa hoa đẹp hiếm hoi được tìm thấy vào một buổi
sáng tuyệt vời và những ngày hạnh phúc ngắn ngủi sau đó. Vẫn mãi là kỷ niệm đẹp
trong lòng Nữ, điều cuối cùng còn lại cho một cuộc tình đã mất.
Cao Nguyên pha trò cho Nữ vui.
- Bảy bông sen. Bảy
ngày. Đêm bảy, ngày ba… vị chi là bảy chục trận. Cha này dở ẹt. Hay là em kiếm
loanh quanh Hội An coi có ai tốt tướng thử lại. May ra…
Nữ đấm vai chị.
- Bà y tá ni nói
năng trây trúa, nghe mà ham… Tại em thôi. Vợ chồng ảnh có con trai đã ba tuổi
và bé gái vừa thôi nôi. À, nhắc tới chuyện nhà anh Tuân nên em muốn bàn với
chị chuyện anh ấy cũng như hàng ngàn sĩ quan miền Nam đang xin chương trình HO
để được cho sang Mỹ định cư. Em biết đã có vài đợt người ra đi.
Cao Nguyên mừng khấp khởi lắng nghe cô gái thông minh
quyền biến bàn định tương lai cho gia đình nàng. Hai chị em sẽ thu xếp lên ngay
Tây Nguyên. Nàng sẽ lén tiếp xúc người thân quen, dàn xếp để Nữ dùng tiền hối lộ
đám cán bộ đã kết tội anh Tiệp làm gián điệp mấy năm trước. Anh còn hơn một năm
mới mãn tù nếu họ không kéo dài ngày ra trại. Anh cần phải được tự do càng sớm
càng tốt để có thể tiến hành thủ tục giấy tờ xin đi Mỹ theo chương trình
HO.
Cao Nguyên siết chặt tay Nữ, lòng rộn vui nghĩ tới
giây phút anh Tiệp trở về với vợ con, gia đình. Hai chị em ngước nhìn bầu trời
nở đầy sao. Đêm ngọt ngào như hạnh phúc vừa trổ bông hi vọng.
Dì Chức hả dạ nhìn tấm bảng hiệu nằm cong oằn trên
sàn xe ba-gác. Nền tôn đỏ loang lổ hàng chử vụng về sơn màu vàng. Bà chép miệng.
- Rứa mà phải mất hơn mười lăm năm mới hạ bệ được
nó.
Nữ vịn vai dì Chức nhìn theo anh phu xe đang hì hục
đẩy tấm tôn nhùng nhằng quẹo qua góc phố.
- Dì làm như đảo chánh không bằng. Trong Nam
người ta rầm rộ “đổi mới” cả mấy năm rồi, tại mình ngoài ni thuộc “hệ phái”
Liên khu Năm nên chậm lụt.
Nữ ngước nhìn. Khoảng trời xanh bên trên mái phố rêu
từ lâu chìm khuất sau mấy tấm tôn đơn điệu hàng chử đỏ vàng chợt lộ sáng, mới
mẻ.
Xuyến hấp tấp dựng xe đạp bên lề đường. Cô gái xách
bao vải cồng kềnh vừa tháo ra từ yên sau, nàng mau mắn chào nhóm người đang đứng
cười nói trước căn phố treo đầy đèn lồng sặc sỡ.
- Rứa là vừa kịp lúc treo bảng hiệu mới rồi.
- Ở đó mà kịp. Tui chờ cô cả năm ni rồi.
Cô gái yên tâm nhìn dì Chức vẫn tươi cười sau câu
nói nhưng nét mặt tỏ vẽ ngạc nhiên không hiểu.
- Bả ví von đó thôi cháu ơi. Tại cả năm
ni hai dì cháu họ lo đút lót, chạy ngược chạy xuôi mới mua đứt được cái
hợp tác xã và căn phố bên cạnh để mở trường dạy tiếng Anh tiếng U.
Dì Nơi lườm nhìn bạn, lắc đầu.
- Răng chị không nói chờ đã mười tám năm cho chẳn
luôn !?
Mọi người vỡ ra cười theo câu nói đùa của dì Nơi rồi
trở về với công việc của mình.
Nữ hài lòng nhìn công trình của Xuyến vừa được treo
ngay ngắn dưới hiên. Tấm biển cửa hiệu là mảng gổ thông cắt xéo, vân cuộn
bóng ngời. Mặt gổ hài hòa hai hàng chử Việt Anh “Đèn Lồng Hải Phố”, “Seaside
Town Lantern” cắt nổi từ gổ thông vàng nhạt.
- Cô đặt tên hay quá. Hải Phố. Lúc cưa chử em
đã mấy lần bất chợt thấy mình nhắm mắt, gọi thầm tên hải phố rồi mơ được đi
xa.
- Cô chỉ mượn tên từ lịch sử của vùng đất quê
mình. Vào thế kỷ thứ 16, thương nhân Nhật Bản, Trung Hoa tìm tới xứ Đàng
Trong buôn bán đã gọi vùng đất này là Hải Phố. Nữ nhìn cô gái, chợt cười… Mà
em mới vừa làm thơ đó sao ? Nhắm mắt gọi thầm tên Hải Phố. Mơ màng hình
bóng một ai xa.
Xuyến xấu hổ kéo Nử bước qua căn phố bên cạnh. Cô
gái chỉ lên tấm biển khác cũng làm bằng gổ thông treo bên trên khung cửa ra
vào. Nét vẽ công phu mỹ thuật nổi bật tên trường “Anh văn Thục Nữ - My
Fair Lady English House” khánh quyện theo vân gổ lung linh màu hổ phách.
- Tên trường tiếng Anh không hẳn là dịch từ
“Anh văn Thục Nữ”, cô tìm ở đâu ra mà nghe dể thương ghê.
- My Fair Lady là một cuốn phim cũ. Trước bảy
lăm, chị Nhi của cô dẩn cho đi xem ở Đà Nẳng. Rạp Kim Châu lúc đó phụ đề tên
phim là “Yểu Điệu Thục Nữ”, cô thích quá cứ nhớ mãi.
Nữ nhìn theo cô gái bước qua khoảng sân trời rêu mòn
dấu gạch. Tiếng cười của Xuyến khuất sau giàn hoa huỳnh đệ lung linh từng
cánh nắng nhỏ giữa tàng lá thắm. Nữ mừng khi thấy Xuyến chấp nhận, vui sống
mà vươn lên. Lòng nàng nhen lên chút mãn nguyện nghĩ tới cô gái chỉ hơn năm
trước tưởng chừng buông tay tuyệt vọng trong đau khổ mà chớm có quyết định
sai lầm cho đời mình.
Mùa hè trước năm cuối trung học, bạn trai của Xuyến
vì buồn chán cảnh gia đình ngày càng nghèo túng sau khi người cha làm nghề
chài bị gảy chân trong một cơn bão biển đã bỏ nhà xin đi lao động xuất khẩu ở
Đông Âu. Gia cảnh Xuyến càng khốn khó hơn với mẹ yếu đau và bầy em bốn đứa
nheo nhóc. Cô gái theo người quen ra Đà Nẳng xin vào làm gia công cho xưởng
may của một nhóm thương nhânTàu Đài Loan sang kinh doanh làm chủ. Đám tài phiệt
ngửi được cơ hội làm giàu trên đất nước ngày càng đói nghèo vì những chính
sách kinh tế sai lầm. Sau mười lăm năm ngoan cố ù lì, nhóm người chóp
bu của đảng cầm quyền kinh hoảng nhìn thiên đường xã hội chủ nghĩa ở Nga và
Đông Âu lần lượt kéo bè sụp đổ đành phải “đổi mới” để cứu đảng, cứu chế độ.
Công việc Xuyến làm dài giờ cực nhọc, từ sáng sớm đến
tối mịt mới xong một ngày bơ phờ lao động nên so ra lương tiền lãnh được
đã bị bót lột một cách trắng trợn. Dở khóc dở cười là chuyện chủ bóc lột thợ
lại xảy ra trên một đất nước xã hội chủ nghĩa. Cán bộ nhà nước, công đoàn
thay vì bảo vệ cho công nhân đã toa rập ăn chặn, nhận hối lộ luồn lót từ những
gã chủ Đài Loan, Đại Hàn. Họ nhởn nhơ làm giàu trên mồ hôi của nguồn sức lao
động Việt Nam và lắm khi là nước mắt khóc thầm của những cô gái phải nuốt ngược
vào lòng nỗi nhục nhã ê chề để giữ việc làm mà nuôi sống bản thân, gia
đình.
Chẳng cần lâu cho thú đánh hơi mồi thơm. Món tiền chỉ
đủ để họ vung vãi trong vài đêm ăn nhậu, luồn lót nhưng quá lớn với cô gái có
lòng thương cha mẹ gia đình. Xuyến về thăm nhà với ý định hỏi ý kiến mẹ
cha trước khi đồng ý chịu làm “cô dâu Đài Loan” để cứu vớt gia đình khỏi cảnh
nghèo đói.
Những ngày cuối ở Hội An, mỗi chiều Xuyến đều qua
cánh đồng Cẩm Châu ngồi bên ngôi mộ cổ. Một mình nơi hò hẹn cũ của nàng với
người bạn trai đã bỏ đi xa, cô gái nhìn bóng hoàng hôn lặng rớt theo vạt nắng
cuối ngày mà nghe lòng hiu hắt xa xôi lời tạ từ câm nín.
Tình cờ Nữ gặp lại cô học trò cũ lúc nàng tìm tới mộ
cổ Cẩm Châu do thói quen hay tới nơi vắng vẻ này mỗi lần có chuyện nghĩ ngợi
suy tư . Hôm đó Nữ nhận được thư Lục Hà báo tin mừng cho hay Tuân và gia đình
đã có chuyến bay, sắp được qua Mỹ theo diện HO. Nàng mừng cho họ, cùng lúc
lòng hẩng buồn như vừa vuột mất một điều gì quý giá.
Cô gái trải bày tâm tư và toan tính của mình trong
nước mắt tràn mi. Nữ xúc động ôm chầm lấy đứa học trò cũ bất hạnh.
Xuyến ngồi lắng nghe cô giáo khuyên giải thiệt hơn. Nàng cảm thấy nhẹ lòng
lúc quyết định từ bỏ ý nghĩ nông nổi nhất thời. Nữ nhận cô học trò tài hoa về
làm việc cho mình. Sự giúp đở tài chánh lúc đầu tuy không đủ để Xuyến giúp
cha mẹ dựng lại căn nhà rách nát nhưng cô gái khỏi phải lo lắng nhiều cho gia
đình suốt mấy tháng hè Nữ gởi ra Huế học vẽ trên lụa. Xuyến tiếp tục việc
học và làm việc ngoài giờ ở cơ sở kinh doanh của Nữ. Vẽ tranh trên cà-vạt
lụa, trên vải may áo là công việc nhẹ nhàng rất hợp với sở thích tài năng của
nàng, và nhất là cuộc sống của gia đình ngày càng được cải thiện thêm nhiều.
Tiếng Xuyến vui gọi khiến Nữ sực tỉnh bước về phía
nhà ngang nơi dùng làm phòng vẽ.
- Cô xem qua mẫu họa mới rồi cho em biết ý kiến.
Nữ hài lòng nhìn nét vẽ chấm phá mềm mại về những thắng
cảnh biểu tượng của vài quốc gia nổi tiếng trên thế giới.
- Ý nghĩ của em rất hợp với cô. Du khách từ các
nước Nhật, Mỹ, Pháp, Gia-Nã-Đại thăm viếng Phố Cổ Hội An ngày càng nhiều. Các
mặt hàng lụa vẽ tranh này, cô tin là sẽ ăn khách.
Nữ trao mẫu lụa vẽ lại cho cô học trò cũ.
- Chiều nay mình qua Cẩm Châu đập bánh đập
ăn mừng nghe!
Tiếng cười Xuyến vói theo trêu chọc lúc Nữ dợm bước
xuống thềm sân. Rêu xanh loáng thoáng chen đọng nét hồi văn giữa những lằn gạch
cũ nghiêng nghiêng.
- Ời, thì cả hai. Một công đôi việc. Trước ăn
bánh tráng đập, sau là thăm mộ cổ ngồi nói chuyện đời.
- Bánh đập thì cô khỏi cần mời, còn chuyện đời
thì em chỉ dám ngồi nghe thôi.
Chắc vừa nghe vừa run vì sợ hồn ông già Nhật hơn ba trăm tuổi hiện về nhát
ma.
Hai người đàn bà gởi xe đạp ở quán bánh đập đầu làng
rồi chân thấp chân cao bước theo lối mòn xẻ đôi cánh đồng lúa đang thì. Gió
chiều lướt êm trên mặt lúa xanh rền, thuông thả bóng hoàng hôn vào ngày đang
cạn. Bầy cò trắng bay sà trên ruộng lúa rồi lẩn khuất lặn lội tìm mồi ven bờ
nước xa xa. Bướm rập rờn, đậu rồi bay quanh quẩn khóm hoa vàng tím giữa
chòm lá xanh mơn mởn trên mấy tầng thạch mộ im lìm. Nữ chăm chú nhìn, buột miệng.
- Dây hoa cát đằng ai trồng mà nở đẹp quá!?
- Người ta trồng từ năm ngoái đó cô. Em
tưởng cây chết rồi, rứa mà…
Nử trao cho cô gái cánh hoa vừa ngắt.
- Rứa mà?... Rứa thì em nên thăm mộ, tưới hoa
thường hơn cho cây sống thêm mùa tới.
Hi vọng tìm thấy nơi mầm lá chớm xanh và hoa hé nụ,
nơi mỗi chúng ta vẫn sống thương đời. Đừng mong đợi. Đừng nghĩ mình là người
bị bỏ lại. Cứ sống cho hết tình mình rồi hạnh phúc sẽ được tìm thấy.
Hay ít ra được an lòng mà sống.
Hai người đàn bà ngồi bên cổ mộ trong bóng chiều tà.
Tấm bia tạc trên sa thạch xám rổ bóng thời gian sau gần bốn trăm năm dâu
bể đổi dời. Đôi cánh hoa anh đào trau chạm giữa lòng bia vẫn trơ gan cùng tuế
nguyệt như mối tình chung thủy giữangười thương nhân trẻ tận đảo quốc
Phù Tang và cô gái miền Hải Phố.
Trong một chuyến đi buôn dài vượt biển đến thương cảng
sầm uất nhất của xứ Đàng Trong, chàng trai Nhật đã đem lòng yêu một cô gái Việt.
Đang lúc chuẩn bị lễ vật cho việc cầu hôn, người thanh niên cũng như tất cả
thương nhân Nhật đang ở nước ngoài phải về nước theo lệnh của Mạc Phủ Thiên
Hoàng. Gặp nhau lần chia tay, người thanh niên hứa sẽ trở lại Hải Phố để
cùng nàng thành vợ chồng chung sống. Cô gái cũng thề nguyền chung thủy, khép
kín phòng không đợi chờ ngày người yêu trở lại.
Thế nhưng khi về đến Nhật, thông hành thương nhân của người thanh niên bị thu hồi. Năm tháng cách xa, tuy ở lại quê nhà nhưng hình ảnh người yêu và niềm thương nỗi nhớ vẫn mãi canh cánh trong lòng người trai Nhật. Anh quyết định bỏ quê hương, tìm cách trở lại Hải Phố tìm người yêu bằng cách xin làm thủy thủ cho một thương thuyền có hải trình về biển Nam.
Vào một đêm biển lặng, khi chiếc thương thuyền chạy
ngang vùng biển phỏng chừng ngoài khơi Hội An người thanh niên Nhật đã trốn
khỏi tàu bằng phao với hi vọng trôi được vào cửa biển quen thuộc ngày xưa. Chẳng
may sau nhiều ngày trôi nổi dập vùi trên biển cả mênh mông, anh đói lả thiếp
đi vì nước uống lương thực không còn. Lúc tỉnh dậy anh mới hay đã được ngư
dân Cù lao Chàm cứu sống. Anh khẩn khoản van xin ngư dân cho xuống ghe vào Hội
An tuy sức khỏe vẫn còn suy kiệt.
Đôi trai gái gặp lại nhau sau thời gian dài xa cách. Cô gái săn sóc chàng ngày đêm trông mong người yêu chóng hồi phục. Nàng đã hết lòng thuốc thang cứu chữa nhưng anh đã sớm qua đời vì bệnh tình quá nặng.
Người thanh niên Nhật chung tình được toại nguyện
trùng phùng với người đẹp miền Hải Phố. Anh đã tìm về, vĩnh viễn nằm lại trên
quê hương của người mình yêu. Nấm mồ sau bốn thế kỷ qua vẫn khói hương êm ấm
giữa lòng người dân Phố Cổ chơn chất, thân tình.
Cuộc tình xưa sống lại qua câu chuyện kể thổn thức
tiếng lòng rồi lặng thấm vào đá cát cổ mộ. Xuyến nghĩ tới hình ảnh nhạt mờ của
cô gái Hội An trong trang tình sử đẹp tuyệt vời được nhân gian thêu dệt, lấp
lánh sắc màu chung thủy của chàng trai tìm ra lối quay về. Còn cô gái thì
không tên tuổi, chẳng bia đá mộ phần. Lẽ nào sức tưởng tượng phong phú của
nhân gian qua bao năm tháng đã chẳng đoái hoài mà vẽ ra một bóng dáng thuyền
quyên đứng âu sầu bên bờ Cửa Đại sáng chiều mãi đợi người về? Những người
đàn bà ở lại trong lòng Hải Phố. Những người đàn ông đã bỏ ra đi. Âm thầm.
Chung thủy. Chia phôi. Xuyến nao lòng nghĩ tới điều buồn bã mơ hồ.
Trong chập choạng bóng đêm, lối mòn giữa cánh đồng
thành vệt đen dài nhấp nhô thấp thoáng ánh đèn xóm nhà trước mặt. Hình như có
tiếng sóng biển vọng xa xôi như tiếng thở dài. Xuyến ngờ ngợ nhủ thầm lúc
nhìn dáng cô cúi đầu bước đi.
- Mấy bửa ni nhận được thư chú Tiệp gởi về báo
gia đình tới Mỹ bình an, bà Chức vui quá trưa mô cũng đãi nhân công ăn cao lầu.
Em nhớ bé Ni quá! Con bé thiệt thông minh, mẹ mới dạy tiếng Anh cho mấy tháng
đã biết nói khá nhiều. Còn cô Cao-Nguyên thì Anh Pháp chi cô cũng nói líu lo
như chim. Em nhớ hoài lần cô Nguyên giúp dì Nơi bán chiếc võng ngô đồng cho một
ông người Pháp. Em đứng ngẩn ra nghe họ nói chuyện bằng tiếng Tây cả hồi lâu.
Không hiểu gì nhưng nhìn nét mặt rạng rở của người du khách, em đoán thế nào
dì Nơi cũng trúng mối.
- Hôm đó, ông du khách hóm hỉnh cho cô biết ông
ta mua chiếc võng vì vừa được ăn một tô mì Quảng rất ngon ngoài quán rồi lại
được tiếp chuyện với một phụ nữ Việt Nam đẹp và nói tiếng Pháp rất hay.
Kỷ niệm vui về lần bán võng ngô đồng của dì Nơi khiến
câu chuyện nổ dòn, đẩy đưa dòng trí nhớ về chuổi tháng ngày vui buồn khốn khó
đã trói buộc đời nhau vào hệ lụy chẳng thể tách rời. Từng khuôn mặt, tóc tai
ướt đẩm mưa nguồn thoắt hiện ra trong quầng sáng của khung cửa ký ức mở
toang, tha thiết ân cần.
- Hồi đó tụi em hay cắp đôi cô với chú Tiệp. Rồi
với chú Tuân… Bây giờ thì họ đều ở một nơi rất xa. Cả người bạn trai duy nhất
của em từ những ngày mưa đó.
- Cách trở, chia ly cũng là một phần của cuộc sống.
Nữ cười héo hon…Có điều chỉ chúng ta là người ở lại. Mà thôi, trách móc
chi số phận. Hãy làm lành với nỗi buồn của mình để được sống yên với kỷ niệm.
Nữ quàng vai cô gái vổ về. Họ nương bước nhau đi
trên lối mòn chìm bóng tối. Nàng muốn nói thêm nhiều với cô học trò cũ và
cũng để phân trần với lòng nhưng bờ mi đã đong lệ. Nữ cắn môi, nhắm mắt không
muốn thấy nước mắt mình lăn dài trên má.
Nữ đã sống những ngày hạnh phúc ngắn ngủi, quay quắt
ngóng đợi, rồi đành lòng với số phận đơn chiếc. Điều Nữ lo sợ nhất là một
ngày nào đó ngay trên quê nhà cũng chẳng còn nơi để ở lại. Lúc tất cả đều đổi
thay, biến dạng, bỏ đi. Lịch sử, con người, ngôn ngữ, bãi biển, dòng sông,
con đường, nhà cửa, núi non đều trở thành xa lạ. Những căn phố xưa cũ sẽ bị đập
bỏ không thương tiếc để bầy phú hộ mới xây cất nhà cao với kiến trúc dị hợm,
hào nhoáng rẻ tiền. Ý nghĩ bị mất dần khiến Nữ cảm thấy cạn kiệt khô đắng.
Nàng chợt thèm cảm giác mát mặn của nước biển tràn lên da thịt. Thèm nghe tiếng
sóng, bủa vây mà trôi giạt lênh đênh. Mắt khép. Chân bước dọc theo bờ cát rịn
muối trôi dài, loáng thoáng bầy còng gió biến hiện như ảo ảnh xa vời.
Đêm trăng non rớt mịn màng lên bãi biển Cửa Đại. Sóng bạc đầu miên man rào rạt xô bờ bỏ lại khơi xa lặng ngát ánh vàng.
Phía cù lao Chàm chút quầng sáng hừng lên như cố pha loảng màu đêm tím thẩm
đang tràn ngập không gian. Cát trắng nhờ nhợ hoang liêu, trải dài hổn
mang từng lùm dứa dại đọng bóng tối.
Nữ nhìn về phía cửa biển khuất chìm trong bóng đêm.
Nàng nghĩ tới bãi đất bỏ hoang của khu căn cứ hải quân cũ đang được qui hoạch
xây khách sạn lớn cho du khách ngoại quốc. Chẳng bao lâu nữa nhiều khu nghĩ
mát tương tự sẽ mọc nối theo nhau cho tới Cẩm An. Bên kia sông, Đế Vỏng nối
tay Thu Bồ ôm ấp cù lao Cẩm Thanh lau trắng bạt ngàn và xóm chài xanh bóng dừa
sẽ được khai quang, ủi dọn thành khu du lịch Thuận Tình.
Phố cổ Hội An nới ra, dựng xây sơn phết vội vàng
nhưng nhà nước chưa hề có chính sách thỏa đáng để duy trì trùng tu những căn
nhà xưa dột nát suy vi sau hàng trăm năm mưa nắng bão lụt. Nữ không dám
nghĩ tới hình ảnh một Chùa Cầu xây lại bằng bê-tông cốt sắt có đèn màu chớp tắt
mỗi đêm. Hay trên nền đất của nhà cổ bị đập bỏ, những căn phố mới nhiều
tầng có tượng gothic tạc đắp bằng xi-măng thô thiển dựng trước lan can chen
chúc với tượng Bác và cặp chó lân ngờ nghệch thức ngủ.
Phố Cổ quê hương Nữ lớn lên với những ngôi nhà rường
cổ kính, mái ngói e ấp lớp thời gian tình tự rêu xanh, vách nhà thấp cao
nương dựa nhau đở nâng qua bao mùa bảo biển mưa nguồn và mắt cửa, giếng trời
đằm thắm tình người qua nhiều thế hệ.
|
Phố Cổ êm đềm mà tinh tế như con người đang sống quây
quần trong đó qua bao biến cố lịch sử. Chế độ chính trị càng hà khắc biển
lận càng sớm bị sụp đổ nghiền nát dưới vòng quay của bánh xe lịch sử lăn về
phía tương lai, nhân bản.
Mây bay qua, ánh trăng như lụa trải lên bãi vắng huyền
hoặc vết dã tràng trôi vào cát lặng. Nữ chớp mắt nhìn quanh, đầu óc còn mụ mẩm
dòng suy nghĩ miên man.
Nàng ngồi tựa lưng vào chiếc thúng câu úp sấp trên
bãi. Xuyến rời chổ ngồi tự lúc nào đang đứng dầm mình trong biển, mái tóc chập
chờn trên sóng như rêu. Đêm nhỏ lại, chậm chạp từng đợt sóng xô cuộn im lìm. Cô
gái trần truồng bước ra khỏi biển.
Lúc Nữ trao áo quần khô cho Xuyến, nàng vẫn nằm yên
trên sống lưng chiếc thúng câu. Dưới bóng trăng soi, khuôn mặt rủ rượi của cô
gái hồ như còn lóng lánh giọt nước mắt chờ rơi vào nơi mộng tưởng hân hoan.
- Đêm trước ngày đi, hai đứa em vụng về với nhau
lần đầu trên bãi này. Em không dám trở lại, cho tới đêm nay.
Nữ xốn xang lòng. Đêm nàng trên đồi dương mộng mị trao
thân, tiếng phi lao thì thầm lời dự cảm lìa xa và tiếng sóng giữa phút nồng nàn
vẫn u hoài vỗ nhịp từ ly. Nữ vuốt lên mái tóc còn ướt đẩm của Xuyến.
Họ vừa trải qua cơn xúc động trào dâng chót vót không
ngờ. Sóng vỗ. Đêm rịn ràng trôi dọc bờ thân xác như phún xuất lan dài.
Phan Thái Yên
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét