Thứ Tư, 1 tháng 2, 2017

Một chút tình thu

   Mt chút tình thu
(Mùa Thu trong thi ca VN)
Giới thiệu:
Tôi có điều may mắn là trong mười năm làm giáo sư trung học (1958-1968), dạy môn văn chương VN, tôi thường phải tìm tòi cổ văn lẫn kim văn nước ta để làm tròn cái chức năng 'gạch nối' giữa thế hệ đã qua và thế hệ đang tới, đem cái tinh hoa của người xưa mà truyền thụ lại cho người đời nay, với niềm hy vọng tha thiết là cái gì người xưa sáng tạo thì người sau cảm nhận nó, đau với cái đau, vui với cái vui của người xưa, cảm thông tâm sự của họ, để khỏi như Nguyễn Du phải trách đời rằng, ba trăm năm về sau nữa có ai nhỏ xuống cho ông đôi dòng lệ tiếc thương một kiếp người tài hoa bạc phận:
'Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Nhứ’
Thế hệ ngày nay và mai sau sẽ nâng niu trân trọng nó và phát triển thêm ra vì văn hóa VN không chỉ của riêng người Việt.
Bên cạnh đó, phong cảnh hữu tình thơ mộng của Huế đã khắc đậm vào lòng tôi những cảm xúc bồi hồi, nhung nhớ khó phai, cùng với bao nhiêu kỷ niệm của một thời trẻ dại. Những hàng phượng đỏ hai bên bờ sông Hương cùng với thành quách đền đài miêù mạo, những con đường rợp bóng mù u, những ngày nắng xuân le lói, những đêm mưa âm thầm trong đại nội, trong tử cấm thành như phảng phất đâu đó linh hồn vua chúa, cung phi mỹ nữ đã quá vãng lâu rồi, làm cho lòng tôi càng thêm hoài cổ, dẫn dắt người ta tới chỗ mộng mơ mà mộng mơ là chất liệu của thi ca, đặc biệt thi ca lãng mạn tiền chiến, một nền thi ca sung mãn và đặc sắc, mới lạ của VN, kể từ 1925, khi Phan Khôi thổi hồi kèn tiên phong với bài 'Tình già' cho tới cuộc 'Cách Mạng Mùa Thu năm 1945, cuộc cách mạng mở ra một thời kỳ thi ca đấu tranh cho nền độc lập dân tộc.
Mặc dầu đã xa môi trường văn học ấy hơn ba chục năm, mà đời tôi thì lắm cảnh thăng trầm, từ một anh lính mới tò te ở Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung cho tới những bước chân phiêu bạt của người làm phóng viên phát thanh chiến trường ở những bến sông ở chỗ tận cùng của đất nước, qua nhiều năm trong cảnh tận cùng trong nhà tù, hay một bến bờ xa lạ nơi hoang đảo Pulau Bidong, lòng yêu mến thi ca của tôi chẳng bao giờ phai lạt. Nay trôi giạt về nơi xứ người, nhìn cảnh thu màu sắc vô cùng đẹp đẽ nơi vùng Đông Bắc nước Mỹ, lòng tôi thêm nung nấu nhớ nhung những mùa thu cũ, cả trong thi ca cũng như ở cảnh sắc quê nhà, viết lại đôi dòng để tỏ bày cùng tri âm, cùng cố nhân và cả những ai lớn lên ở quê người, chưa từng nghe 'Tiếng thu quê hương nức nở, chưa từng cảm 'Ý thu VN rạt rào trong trái tim nóng bỏng của cha ông đã viết nên những trang thơ tuyệt vời làm say đắm biết bao nhiêu người!  
Bây giờ là mùa thu, mùa thu mà không nói đến thi ca thì sao được?! Dù sao thì ta cũng nên để cho lòng ta lắng đọng một chút, để cho lòng xúc động một chút, dù chỉ là một chút thôi vì cuộc đời nơi đất khách lắm khi tất bật, để ru hồn mình vào cảnh thu ở quê người và nhớ lại đôi chút cảnh thu ở quê nhà qua những vần thơ cũ.
Hồi mới đến đây, vùng Đông-Bắc Hoa Kỳ, tôi thấy xứ Mỹ nầy lạ lắm. Hết thành phố lâu đài cao rộng thì đến những núi đồi trùng điệp, có chỗ giống như đường lên Đà Lạt, cao nguyên ở quê mình, dù không 'Đường lên núi rừng sao hãi hùng' thì cũng làm ta bâng khuâng, lòng vẫn còn mơ tưởng đến những con đường cũ.
Nhà tôi ở Barre, một 'town' nhỏ, cách Worcester, thành phố lớn thứ nhì của Massachusetts những 22 dặm. Ngôi nhà nằm lưng chừng một ngọn đồi nhỏ, sau nhà là một rừng thông bao la, chỉ thấy nhà hàng xóm thấp thoáng trong bóng cây, và trước mặt cũng là một rừng thông trùng điệp, thoai thoải xuống chân đồi, dưới đó có một hồ nước rộng mà nước bao giờ cũng xanh biếc, tưởng như sâu thăm thẳm. Mùa hạ vừa qua, phấn thông vàng bay lã tả, rụng đầy hiên nhà, mui xe, kính xẹ.. làm tôi nhớ 'Phấn thông vàng' của Xuân Diệu. Tôi không biết Xuân Diệu thấy phấn thông vàng ấy ở đâu, ở Đà Lạt hay ở những ngọn thông trên núi Ngự Bình. Rừng thông nầy, sau khi Pháp chiếm lại thành phố Huế năm 1946, đã bị chặt trụi, làm cho núi Ngự Bình thành ra hòn núi trọc, khiến cụ Ưng Bình Thúc Giạ thị phải than:
Núi Ngự không cây chim ngủ đất
Sông Hương vắng khách đĩ kêu trời.
Bây giờ là mùa thu ở đây, lá sồi màu xanh non đang chuyển qua màu xanh già, bắt đầu úa để chuyển qua màu đỏ nâu, rụng đầy trên những con đường lớn, nhỏ trong các cụm rừng trên các con đường vùng tôi ở. Những cành cây khẳng khiu giơ lên giữa bầu trời thu xanh, như cánh tay gầy guộc của ai đó, không khỏi làm cho lòng người xao xuyến, tiếc một mùa hạ qua nhanh.
Mỗi ngày đi từ Barre tới Worcester một hai bận, tôi thấy cảnh sắc khác đi từng chút, từng ngày. Lớp lá rụng bên đường hôm nay hình như dày hơn hôm qua, những cành khô giơ lên trời cao nhiều hơn, màu lá thông đen thẫm hơn. Trời xanh ngăn ngắt nhưng lại thêm nhiều đám mây vần vũ, báo hiệu một mùa đông giá gần kề. Vài khi tơ trời vương trên kính xe; hay mỗi chiều khi tôi ngồi trước sân nhà, vướng nhằm những sợi tơ mỏng manh, trắng muốt, nhẹ nhàng bay qua, tôi không khỏi nhớ đến những câu thơ của Nguyễn Bính tả một cảnh thu ở đồng bằng Bắc bộ:
Tơ gạo phương xa tản mạn về
Gió vào đồng lúa chín vàng hoe
Một con diều giấy không ăn gió
Ỏng ẹo chao mình xuống vệ đê
Con đường đi về mỗi ngày gần năm mươi dặm, ngồi một mình trong xe, đóng kín cửa, đừng mở hơi nóng hay hơi lạnh để khỏi nghe tiếng quạt máy kêu vù vù mà nghe cho rõ 'Buồn Tàn Thu của Văn Cao, nghe Họa Mi hát 'Em Ra Đi Mùa Thu của Phạm Trọng, nghe 'Mùa Thu Paris' của Phạm Duỵ...
Ôi! nỗi buồn nơi xứ người sao thấm thía lắm vậy!? Mùa thu, cái gì trông cũng có vẽ lãng đãng, mơ màng và vô cùng gợi nhớ, từ những ngày còn niên thiếu, bước vào tuổi mộng mơ, cho đến bây giờ tóc ngã màu sương muối, lưu lạc nơi xứ người.
Nhìn đâu đâu cũng nhuốm vẻ thu; thu ở mầu trời, mầu đất, màu hoa lá, màu cây, màu không gian và cả 'màu thời gian... tím ngắt' trong lòng mỗi chúng ta nữa. 'Màu thời gian' ấy, Đoàn Phú Tứ thấy trong lòng 'Tần phí và Tương Phố thì thấy trong “Giọt Lệ Thu”:
Trời thu ảm đạm một màu
Gió thu hiu hắt thêm sầu lòng em
Trăng thu bóng ngã bên thềm
Tình thu ai để duyên em bẽ bàng
Quả thật mùa thu không có gì vui, không tươi thắm như mùa xuân mới, không rực rỡ như hè sang. Trăng bao giờ cũng mơ màng, ảm đạm, gió thu hiu hắt lạnh lẽo và tình thu thì... cô đơn. Thế mà ai cũng thích mùa thu!?
Khi còn trẻ, tôi cứ nghĩ chỉ những ai chịu ảnh hưởng thi ca lãng mạn mới yêu thu tha thiết, đậm đà. Không phải vậy đâu! Thu là mùa cảnh vật thay đổi nên gây nhiều xúc cảm trong lòng người. Xúc cảm đó là gì? Là nỗi chia lỵ Mùa thu là mùa chia ly, xa cách, một chút lạnh đã về làm cho người ta thấy lạnh lẽo; cô đơn và nhung nhớ cũng theo về, làm cho kẻ cô đơn thêm đợi chờ khắc khoải.
Hãy đơn cử một ví dụ trong truyện Kiều. Trong đời cô Kiều có biết bao nhiêu lần ly biệt: Kim Trọng chia tay Kiều về Liêu Dương, Kiều bán mình chuộc cha, ra đi theo Mã Giám Sinh. Nhưng lần Thúc sinh chia tay Kiều để về thăm nhà là lần chia tay đẹp nhứt trong đời cô kỹ nữ:
Người lên ngựa kẻ chia bào
Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san
Dặm hồng bụi cuốn chinh an
Người đi đã khuất mấy ngàn dâu xanh
Người về chiếc bóng năm canh
Kẻ đi muôn dặm một mình xa xôi
Vầng trăng ai xẻ làm đôi
Nửa in gối chiếc nửa soi dặm trường.
Nguyễn Du vẽ một cảnh chia ly giữa Kiều và Thúc Sinh vào mùa thu, chắc hẵn có chủ ý. Nguyễn Du muốn nói lên cảnh chia ly trong lòng người sao cho phù hợp với cảnh chia ly của thiên nhiên. Người đi xa xôi lạnh lẽo được trao chiếc áo ngự hàn. Rừng phong cũng nhuốm màu chia cách (quan san), Kiều và Thúc sinh ai cũng cảm thấy cô đơn. Tuy nhiên, nếu hiểu hoàn cảnh Kiều và Thúc sinh, ta thấy cách tả của Nguyễn Du không hợp. Những chữ như 'lên ngựa', 'chia bào', nghe có vẻ như chinh phu mặc áo giáp, lên ngựa ra biên ải, phảng phất hình ảnh chinh phu trong Chinh Phụ Ngâm. Những chữ như 'chinh an' (Kẻ lên ngựa đi xa), 'quan san' (Cửa ải trên núi), cũng na ná hình ảnh chia tay của người đi lính thú.
Nếu nói đoạn trên có vẽ như tả một chinh phu ra trận thì đoạn thơ sau đây đúng hơn, cũng mùa thu, chia ly:
Thuở lâm hành oanh chưa bén liễu,
Hỏi ngày về ước nẽo quyên ca
Nay quyên đã giục oanh già,
Ý nhi lại gáy trước nhà liù lo
Thuở đăng đồ mai chưa dạn gió,
Hỏi ngày về chỉ độ đào bông
Nay đào đã quyến gió đông
Phù dung lại nở bên sông bơ thờ
Lúc ra đi (lâm hành) chim oanh chưa về đậu trên cành liễu (xuân chưa về), chàng hẹn mùa hạ sẽ về (ước nẽo quyên ca), nay đã mùa thu rồi (quyên giục oanh già). Lúc ra đi, mai chưa dạn gió (mai chưa có, xuân chưa về), chàng hẹn xuân sẽ về (độ đào bông, bông đào nở), nay xuân đã tàn (quyến gió đông, 'đông phong' là gió xuân, theo 'ngũ hành' mùa xuân thuộc phương đông). Trong Chinh Phụ Ngâm cũng có câu:
Xót người lần lữa ải xa
Xót người nương chốn hoàng hoa dặm dài
Hoàng hoa là hoa cúc vàng, mùa thu hoa cúc nở ('Mùa thu hoa cúc vàng lưng dậu', Nguyễn Bính). Đó là mùa đi thú.
Ngày xưa đi lính thú (lên mạn ngược để canh phòng biên ải, cứ ba năm đổi phiên một lần) vào mùa thụ Mùa thu là mùa chia ly, gió tây (gió thu, cũng theo 'ngũ hành', mùa thu thuộc phương tây) lạnh, làm cho người vợ nhớ chồng đang xông pha ngoài biên ải, thương chồng chịu cảnh lạnh lùng:
Gió tây nổi không đường hồng tiện
Xót cõi ngoài tuyết quyến mưa sa
(Chinh Phụ Ngâm)
Khi gió thu nổi lên, chim hồng không bay ra biên ải được, người vợ không thể gởi thư bằng chim hồng (chim hồng đưa thư).
Trong Cung Ốn Ngâm Khúc, dù không có cảnh chia ly vợ chồng như trong Chinh Phụ Ngâm, nhưng cũng có tâm trạng cô đơn lạnh lẽo của cung nữ vì bị vua bỏ bê:
Đền vũ tạ nhện giăng cửa mốc
Gác thừa lương thức ngủ thu phong
(Vũ tạ: nhà để múa hát, gác thừa lương: nhà để hóng mát) Nơi cung nữ múa hát ngày trước, nay vắng vẻ (nhện giăng cửa mốc). Nơi hóng mát cùng nhà vua thì nay gió thu thổi lạnh lùng (thức ngủ thu phong). Đi xa hơn chút, với thơ Đường, thời đại thi ca cực thịnh của Trung Hoa thì cái ý thu trong thơ Tàu và thơ ta không khác nhau bao nhiêu (dĩ nhiên là thơ ta chịu ảnh hưởng thơ Tàu). Rõ nhất là trong Tỳ Bà Hành của Bạch Cư Dị, Phan Huy Vịnh dịch:
Bến Tầm Dương canh khuya đưa khách
Quạnh hơi thu lau lách đìu hiu
Người xuống ngựa, khách dừng chèo
Chén quỳnh mong cạn nhớ chiều trúc ty.
Tiễn bạn canh khuya ở bến Tầm Dương, hơi thu lạnh, lau lách đìu hiu. Kẻ xuống ngựa, kẻ dừng chèo, chào nhau ly biệt, mời nhau chén rượu nhớ chiều nghe tiếng sáo (trúc ty).
Nói chung, cách làm thơ, mô tả khung cảnh thiên nhiên cũng như lòng người, trong cổ thi thường có tính ước lệ. Chẳng hạn như khi nói tới mùa thì mùa nào thức nấy. Mùa xuân thì có hoa mai, đào để đón tết; hạ thì có hoa lan, thu thì có hoa cúc, đông thì có trúc. Mai Lan Cúc Trúc là hoa (trúc không phải hoa) của bốn mùa Xuân Hạ Thu Đông. Ngoài ra, trong thi ca, về các mùa còn có những ước lệ khác nữa. Mùa thu, ngoài hoa cúc, còn có lá ngô đồng (rụng):
Ngô đồng nhất diệp lạc
Thiên hạ cộng tri thu
(Một lá ngô đồng rụng, ai cũng biết thu về).
Theo Kinh Dịch: Kim, mộc, thủy, hỏa, thổ là ngũ hành, mùa thu ở hướng tây, thuộc kim. Cho nên gió thu còn gọi là 'gió tây', 'kim phong'. Bên Tàu như thế mà ta cũng vậy. Gió thu thổi theo 'Gió mùa' (mousson), theo hình thể địa lý của ta là từ hướng bắc xuống, mang theo cái lạnh của Tây Bá Lợi Á, nên gọi là gió Bấc (đọc trại của bắc).
Ca dao có câu:
Ra về để áo lại đây,
Để khuya em đắp (ngọn) gió Tây lạnh lùng.
Mùa thu cái gì cũng riêng. Trăng riêng, gió riêng, hoa riêng, lá cũng riêng, chim chóc cũng riêng, đó là chim di thệ Mùa thu gió bắt đầu lạnh, chim bay từng đoàn về phương nam trốn tuyết. Thời thơ ấu, tôi từng thấy trên bầu trời sông Thạch Hãn hay thời niên thiếu tôi thấy trên bầu trời sông Hương, những đàn chim bay thành hình tam giác, con đầu đàn đi trước, bay ngang khung trời xanh. Tôi thường xao xuyến vì cảnh thu ở quê nhà, mơ ước những chuyến đi xa. Nay ở bên nầy cũng vậy. Mùa thu, vài khi chợt thấy những con thiên nga dừng chân bên các hồ nước rộng trong các công viên. Chúng dừng 'chân' nghỉ trên con đường trốn tuyết bay về Nam Bán Cầu.
Trên là nói về thơ cổ; còn thơ nửa cổ nửa kim thì có Tản Đà. Ông là cái gạch nối giữa những 'linh hồn cũ' của thế hệ làm thơ văn bằng 'chữ vuông' và thế hệ làm thơ văn bằng chữ quốc ngữ. Thu của Tản Đà cũng buồn lắm:
Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi
Trần thế em nay chán nữa rồi
Cung quế đã ai ngồi đấy chửa?
Cành đa xin chị nhắc lên chơi
Có bầu có bạn can chi tủi
Cùng gió cùng trăng thế mới vui
Rồi cứ mỗi năm rằm tháng tám
Cùng nhau trông xuống thế gian cười.
Cái cười Tản Đà cũng chỉ cười gượng đó thôi, vì một người đa tình như ông, sống ở cõi đời này cũng chỉ để buồn vì những cái rất bâng quơ:
Ngọn gió thu phong rụng lá vàng
Lá bay hàng xóm lá bay sang
Vàng bay mấy lá năm già nửa
Hờ hững ai xui thiếp phụ chàng
Ngọn gió thu phong rụng lá hồng
Lá bay tường bắc lá sang đông
Hồng bay mấy lá năm hồ hết
Thơ thẩn kìa ai vẫn đứng trông
Lá vàng là lá đầu thu: mới quá nửa năm; lá hồng là lá cuối thu: năm gần hết. Lá từ bắc sang đông, lá từ hàng xóm bay sang, lá rụng khắp mọi nơi, làm tác giả nhớ cảnh chia ly, nhớ chuyện thiếp phụ chàng, nhớ cảnh cô đơn, ai đó vẫn chờ ai trong tuyệt vọng. Người VN thường giữ tình xóm làng, kể cả lòng yêu trộm nhớ thầm một cô hàng xóm, chờ đến khi người ta đã đi lấy chồng về thăm nhà mới dám nói ra thì đã quá trễ:
Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc
Em có chồng anh tiếc lắm thay!
(ca dao)
Hay hoàn toàn im lặng như Nguyễn Bính:
Từ độ mồng tơi thôi trổ lá
Thì cô hàng xóm cũng thôi sang
Mồng tơi trổ lá vào mùa hạ. Khi thu lạnh tới thì cây mồng tơi cũng tàn, còn nữa đâu mà trổ lá, và cô hàng xóm đã đi lấy chồng. Ngồi đó mà tiếc ngẫn tiếc ngơ!
Tản Đà là thiên tài làm thơ, xuất thần làm thơ, thơ thần. Đọc thơ ông người đọc cảm nhận cái hay một cách tự nhiên trong mỗi chữ, mỗi câu chứ giải thích thì không giải thích được, đặc biệt là bài 'Thề Non Nước':
Nước non nặng một lời thề
Nước đi đi mãi không về cùng non
Trong những người làm thơ mới, kế cận với Tản Đà nhất có lẽ là bà Tương Phố với bản 'Giọt Lệ Thu' khóc chồng là ông Thái Văn. Dù chỉ một tác phẩm nầy, bà để lại cho đời một áng văn vừa xuôi vừa thơ làm 'chết đứng' tâm hồn bao người mê thơ (*):
Trời thu ảm đạm một màu
Gió thu hiu hắt thêm sầu lòng em
Trăng thu bóng ngã bên thềm
Tình thu ai để duyên em bẽ bàng
Anh ơi!
Thu về như gợi mối thương tâm
Mỗi độ thu sang em lại vò lòng than khóc
Mỗi năm có một lần thu
Nhưng thu năm nay đi, năm sau còn trở lại
Hỏi ba sinh hương lửa
Thì ái ân kia dễ mấy kiếp hẹn hò nhau
Chẳng hay cơ trời dâu bể vì đâu
Xui nên chăn gối vừa êm
Sắt cầm dìu dặt ngón đàn
Bỗng ai xô lộn
Bình tan gương vỡ
Cho người dỡ duyên
Anh đi hồi ấy
Năm tháng thường về
Người không dấu vết
Năm tháng bâng khuâng
Sầu lại nhớ
Thương nhau vò võ khóc vì nhau...
Hình ảnh và chữ dùng trong 'Giọt Lệ Thu' không ra khỏi những ước lệ thơ cổ, điều đó đương nhiên vì tác giả là người của đầu thế kỷ 20, lúc phong trào thơ mới vừa lên, chưa mạnh, nhưng cách phô diễn tình cảm như của bà trong đó thì đã mới mẻ lắm, mãnh liệt lắm. Bốn câu đầu bà làm theo thể lục bát, một thể thơ dân gian rất phổ cập; phần sau viết theo thể trường đoản, niêm luật không cần nghiêm nhặt lắm nhưng lại là văn 'biền ngẫu' (lời văn đối nhau), rất phổ thông trong cổ văn.
Ngay cả những người làm thơ mới như Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư thường đã phá những khuôn mẫu, ước lệ thơ cũ nhưng nhiều khi vẫn không thoát khỏi ảnh hưởng của nó.
Chẳng hạn như bài 'Nguyệt Cầm' của Xuân Diệu, ngôn ngữ và thi tứ mang rất nhiều âm hưởng Tỳ bà Hành:
Thu lạnh, càng thêm nguyệt tỏ ngời
Đàn ghê như nước lạnh trời ơi
Long lanh tiếng sỏi vang vang hận
Trăng nhớ Tầm Dương, nhạc nhớ người.
(Nguyệt Cầm, XD)
Thu lạnh, tiếng đàn lạnh, trăng càng thêm tỏ. Tiếng sỏi vang dưới bước chân người. 'Trăng nhớ Tầm Dương, nhạc nhớ người'. Rõ ràng Xuân Diệu tả lại cảnh chia tay một đêm thu trên bến Tầm Dương giữa Bạch Cư Dị và người bạn. Trăng nhớ bến xưa và nhạc nhớ ngón đàn tuyệt vời của kỷ nữ đêm trăng đó đã đàn cho Bạch và người bạn nghe. Tâm sự người ca kỷ về già đã làm cho Bạch Cư Dị khóc. Cái hay Xuân Diệu thấy mà không có trong Tỳ Bà Hành là tiếng sỏi kêu lên dưới chân người đi. Tiếng sỏi ấy như tiếng hận của cõi lòng ly biệt.
Điều tôi thắc mắc là loại đàn của người kỷ nữ đánh hôm đó là đàn tỳ-bà (Tỳ bà hành), rất phổ cập trong nhạc Tàu, hình bầu ở dưới, phía trên nhỏ lại mà cũng là cần đàn. Hình cây đàn tỳ bà như quả lệ (Xem bài 'Tỳ bà hay Nguyệt cầm?' cùng tác giả) Xuân Diệu đổi thành Nguyệt cầm (đàn nguyệt), dưới là bầu tròn như mặt trăng, trên là cần đàn.
Nói về thơ mới mà cũ, không thể không nói đến một thi nhân nổi tiếng, một tác phẩm nổi tiếng: Quách Tấn với tập thơ 'Mùa Cổ Điển'. Như ông đã nói trong nhan đề cuốn thơ của ông, mặc dầu thơ ông xuất hiện trong cùng phong trào thi ca lãng mạn đầu thế kỷ 20, thơ ông là thơ cổ điển, có nghĩa phần nhiều làm theo thể thơ Đường luật, và cả ý thơ, lời thơ đều cổ điển cả. Bài thơ hay nhứt của ông được nhiều người ưa thích là bài 'Đêm Thu Nghe Quạ Kêu':
Từ ô y hạng rủ rê sang,
Bóng lẫn đêm thâu tiếng rộn ràng
Trời bến Phong Kiều sương thấp thoáng
Thu sông Xích Bích nguyệt mơ màng
Bồi hồi thương kẻ nương sông bạc.
Lặng lẽ nhà ai rụng giếng vàng
Tiếng dội lưng mây đồng vọng mãi
Tình hoang mang gợi tứ hoang mang.
(Quách Tấn)
Ông là nhà thơ mới nhưng thơ ông rất nhiều điển tích, là tính cách đặc biệt của thơ cổ: 'Ô y hạng' là 'Ngõ áo thâm'. Theo tục xưa, các gia đình làm quan to nhiều đời ở chung một xóm, ai ai cũng mặc áo thâm, để chứng tỏ thuộc nhà quan. Dòng họ Nguyễn Du ở Hà Tĩnh mấy đời đều làm quan to trong triều vua Lê chúa Trịnh; dòng họ Phan Đình Phùng, 12 đời, đời nào cũng có người đỗ đại khoa (tiến sĩ), họ ở chung trong một 'ô y hạng'. Bến Phong Kiều là lấy chữ trong bài thơ 'Phong Kiều Dạ Bạc' của Trương Kế bên Tàu, bến sông Xích Bích là chỗ Khổng Minh bày mưu cho Tôn Quyền phá quân Tào trên sông Trường Giang, về sau ông Tô Đông Pha có làm bài phú Xích Bích nói tới trận đánh lớn nầy trong lịch sử Tam Quốc. Thụy Khuê thuật lại trên đài RFI rằng khi còn trẻ, một hôm Quách Tấn qua làng bên bốc thuốc cho mẹ, trên đường về, đi qua một rặng tre, bỗng một đàn quạ trong tre thức giấc kêu vang lên làm ông kinh hãi. Ban đầu đề bài thơ là 'Nghe quạ kêu', sau Lưu Trọng Lư đề nghị ông thêm vào hai chữ 'Đêm thu (Đêm Thu Nghe Quạ Kêu) cho bài thơ thêm chút thi vị.
Về thơ mới, Xuân Diệu là một trong những người đi tiên phong. Không như bài trên của Quách Tấn, thêm vào chữ 'Đêm Thu' thành ra bài thơ nghe có vẽ tả cảnh mùa thu, bài 'Đây Mùa Thu Tới' của XD là chọn ngay đề tài mùa thu để làm thơ:
Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng
Đây mùa thu tới, mùa thu tới,
Với áo mơ phai dệt lá vàng
Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ rủa màu xanh
Những luồng run rẩy rung rinh lá
Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh
Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ
Non xa khởi sự nhạt sương mờ
Đã nghe rét mướt luồn trong gió
Đã vắng người sang những chuyến đò.
Mây vẫn từng không chim bay đi
Khí trời u uất hận chia ly
Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói,
Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì?
Trong thơ cổ, cây liễu tượng trưng cho người đàn bà hoặc sắc đẹp người đàn bà. Trong Kiều có câu:
Hồn còn mang nặng lời thề
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai
Giải thích theo thơ Tàu: 'Bồ liễu chi tư vọng thu nhi tiên diêu'. Cây bồ cây liễu là thứ cây yếu ớt, hễ trông thấy mùa thu tới thì rụng và héo rồi, ví như người đàn bà yếu ớt vậy. (Truyện Thúy Kiều, Trần Trọng Kim-Bùi Kỷ chú thích, trang 98).
Trong Kiều cũng có câu:
Khi về hỏi liễu Chương Đài
Cành xuân đã bẻ cho người chuyên tay.
Sách Thái Bình Quang Ký chép rằng Hàn Hoành đời Đường lấy người kỷ nữ là Liễu thị, đi làm quan xa để lại tại phố Chương Đài ở kinh đô Trường An, làm bài thơ gởi về có câu: 'Chương Đài liễu! Chương Đài liễu! Tích nhật thanh thanh kim tại phủ, giả ưng phan chiết tha nhân thủ'. Nghĩa là: 'Liễu Chương Đài! Liễu Chương Đài! Ngày nọ xanh xanh nay còn không, hay là tay khác đã bẻ mất rồi.' Cuối đời Thiên Bảo, Liễu thị bị tướng Phiên cướp mất. Sau Hứa Tuấn cướp lại được, trả lại cho người cũ.
(Theo Tự điển Truyện Kiều của Đào Duy Anh và truyện Thúy Kiều của Trần Trọng Kim và Bùi Kỷ) tả nhan sắc Dương Quí Phi, Lý Bạch có câu:
Phù dung như diện, liễu như mi
(Mặt như hoa phù dung, mày như lá liễu).
Hoặc ta thấy câu:
Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc,
Hối giao phu tế mịch phong hầu.
Chợt thấy cây dương liễu đầu đường, lấy làm hối hận xui chồng ra đi tìm khanh tướng. Đoàn Thị Điểm diễn như sau trong Chinh Phụ Ngâm:
Chợt ngoảnh lại thấy màu dương liễu
Thà khuyên chàng đừng chịu tước phong.
Dù là thơ mới, Xuân Diệu cũng khó thoát ra khỏi những ý cổ. Lá liễu như tóc người con gái với những giọt nước mắt đọng lại trên đó:
Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng
Với Xuân Diệu, lá liễu còn là tóc quấn khăn tang. Cái buồn và tang tóc đó làm cho Xuân Diệu phải thốt to lên: 'Đây mùa thu tới! Mùa thu tới!' Áo mùa thu, may bằng lá vàng. Trước ông, ít khi người ta nói vậy.
Cảnh thu bây giờ buồn: Hoa rụng. Lá vàng trong vườn chuyển qua sắc đỏ. Những cành khô như xương giơ cao lên, mỏng manh. Gió thổi làm những chiếc lá còn lại trên cành rung rinh theo gió.
Trăng buồn ngẫn ngơ, nhớ buồn và chia ly. Trời nhiều sương khói nên khung cảnh ở xa đã mờ đi. Rét mướt đã luồn theo gió thu trở về. Mùa thu tới, cuộc sống như chậm lại như cổ nhân nhận xét: Xuân sanh, Hạ trưởng, Thu thâu, Đông tàng (trữ). Thu thâu là cuộc sống chậm lại, nhựa sống trong thân cây chảy chậm lại, dồn nén trong thân, rễ cây. Người ta ít ra ngoài hơn và những chuyến đò ngang trở nên vắng khách. Chim bay về phương nam tìm hơi ấm. Trời, đất, người, chim chóc vạn vật đều nhuốm vẽ chia lỵ Truớc cảnh buồn và chia ly đó, các cô gái bỗng thấy lòng bâng khuâng với một nỗi buồn xa xôi vô cớ, đứng tựa cửa nhìn ra khung trời xa rộng. Hình ảnh nầy rất mới. Trong thơ cũ, con gái phải kín cổng cao tường, khép kín ở phòng thẹ
Tư tưởng đã mới, cách diễn đạt của Xuân Diệu không những mới mà Tây, rất Tây. Không ai nói 'Hơn một loài hoa mà nói 'Đã có một loài hoa. Chỉ 'rủa' (jurer) gốc là tiếng tây; người ta không nói: Nàng trăng tự ngẫn ngơ (động từ tự phản hồi) mà nói trăng ngẫn ngơ; sương mờ, khói làm nhạt non ở xa, chứ không nói ngược như Tây: 'Non xa khởi sự nhạt sương mờ'. Trong gió đã có rét, không nói 'Rét mướt 'luồn' trong gió'. Đặc biệt những chữ rung rinh (lá) diễn tả độ rung chiếc lá khi gió thổi.
Có thể đây là một trong những bài thơ đầu tay của Xuân Diệu, ý tưởng tuy có mới nhưng kỹ thuật chưa hoàn hảo. Bài ‘Ý Thu sau đây hay hơn nhiều:
                 Ý Thu
Những chút hồn buồn trong lá rụng
Bị nhầu ai tưởng dưới trăm chân
Bông hoa rứt cánh, rơi không tiếng
Chẳng hái mà hoa cũng hết dần
Dưới gốc nào đâu thấy xác ve
Thế mà ve đã tắt theo hè
Chắc rằng gió cũng đau thương chứ
Gió vỡ ngoài kia, ai có nghe
Hôm nay tôi đã chết trong người
Xưa hẹn nghìn năm yêu mến tôi
Với bóng hình xưa, tăm tiếng cũ
Cách xa chôn hết nhớ thương rồi
Yên vui, xây dựng bởi nguôi quên
Muốn bước trong đời phải giẫm trên
Muôn tiếng kêu than thầm lẵng lặng
Nhưng hoa có thể cứ lâu bền
Ơ nhỉ! Sao hoa lại phải rơi
Đã xa sao lại hứa yêu hoài
Thực mà dị quá! Mà tôi nữa
Sao nghĩ làm chi chuyện nhạt phai!
Cái ý thu của Xuân Diệu chính là chiếc lá có linh hồn, có phải ông chịu ảnh hưởng từ La Mélacholie de René của Chateaubriand (*). Lá rụng xuống đất, tưởng như có trăm bàn chân dày xéo lên nó. Hoa âm thầm rụng. Chẳng ai hái mà hoa cũng không còn trong vườn. Những con ve chưa chết, không thấy xác chúng dưới gốc; sao tiếng ve đã tắt? Gió mang đau thương về, và vỡ ở ngoài kia. Bài nầy chỉ có hai đoạn đầu là hay.
Ít ai như Xuân Diệu, ông thường sợ mất hiện tại. Tiếng thu nầy là tiếng thu cũ, tất cả rồi qua, sẽ phai nên Xuân Diệu cũng sợ hiện tại phôi phạ Ý thu của Xuân Diệu là xa cách, ly biệt, là nhớ, là thương, là giẫm đạp lên từng chiếc lá là giẫm đạp lên đau khổ của lòng. Ông nói tới sự lâu bền của hoa. Ý hoa Xuân Diệu nói có lẽ là tình yêu, như một đóa hoa nảy nở trong lòng người, có thể chỉ có hoa đó, hoa tình yêu, mới lâu bền. Bài nầy khác với bài 'Đây Mùa Thu Tới', nói tới 'cảnh thu thì ít mà nói tới 'ý thu thì nhiều, y như đề bài: Yêu đương, đau khổ và ly biệt thì nhiều, quả thật đó là ý nghĩa của mùa thu vậy.
Nói tới thu, người ta phải nói tới trăng vì vào mùa thu bao giờ trăng cũng đẹp. Có lẽ vì thế mà có tết Trung Thụ Trong các thi sĩ tiền chiến, ai cũng ít nhiều nói đến trăng nhưng nói nhiều nhất có lẽ là Hàn Mặc Tử. Ông viết cả tập văn xuôi 'Chơi Giữa Mùa Trăng' và trong rất nhiều bài thơ, ông nói tới trăng. Tuy nhiên, trước khi nói tới trăng của Hàn Mặc Tử, ta hãy trở lại với trăng Xuân Diệu:
Cũng trong bài 'Nguyệt Cầm', Xuân Diệu có mấy câu khá hay:
Trăng nhập vào đây cung nguyệt lạnh
Trăng thương, trăng nhớ hỡi trăng ngần
Đàn buồn, đàn lặng, ơi đàn chậm
Mỗi giọt rơi tràn như lệ ngân
Mây trắng trời trong đêm thủy tinh
Lung linh bóng nguyệt bỗng rung mình
Vì nghe nương tử trong câu hát
Đã chết đêm rằm thu nước xanh
Nói tới ngón đàn của người kỹ nữ đêm nào trên bến Tầm Dương, Tỳ Bà Hành viết là:
Tiếng cao thấp lựa chen lần gảy,
Mâm ngọc đâu lần nảy hạt châu
Trong hoa oanh riù rít nhau
Nước tuôn róc rách chảy mau xuống ghềnh
Nước suối lạnh giây manh ngừng đứt
Ngừng đứt nên phút bật tiếng tơ
Âm thầm đau giận ngẫn ngơ
Xem ra lặng lẽ bây giờ càng hay
Lấy ý trong Tỳ Bà Hành, thơ Xuân Diệu cũng lạ: Trăng nhập vào cung đàn lạnh. Trăng rất sáng (trăng ngần) mang cả niềm thương nỗi nhớ, không phải nhớ thương người đi xa mà nhớ thương tuổi trẻ đã qua mất rồi, vì chính trong Tỳ Bà Hành có câu tả thân phận kỹ nữ khi già:
Về già phải kết duyên cùng khách thương
Khách trọng lợi khinh đường ly cách
Mãi buôn chè sớm tếch ngàn khơi
Thuyền không đỗ bến mặc ai
Quanh thuyền trăng dãi nước trôi lạnh lùng.
Trong Tỳ Bà Hành, Bạch Cư Dị tả tiếng đàn của kỹ nữ nghe như tiếng ngọc (hạt châu) rơi trên mâm ngọc. Xuân Diệu thì ví như giọt nước mắt rơi xuống, không nói có rơi xuống mâm ngọc hay không, dĩ nhiên, giọt nuớc mắt rơi không tạo thành tiếng như viên ngọc rơi trên mâm ngọc.
Phải nói là trí tưởng tượng của Xuân Diệu khá phong phú, ông vừa chịu ảnh hưởng cổ văn, vừa chịu ảnh hưởng thơ văn Pháp, có cách diễn đạt mới hơn, thoáng hơn.
Bài 'Chiều' của Xuân Diệu, tôi đoán tác giả tả một cảnh chiều thu vì mở đầu Xuân Diệu nói ngay đến sương. Chiều thu rất nhiều sương:
Sương trinh rơi kín từ nguồn yêu thương
Phất phơ hồn của bông hường
Trong hơi phiêu bạt còn vương maù hồng
Nghe chừng gió nhớ qua sông
E bên lau lách thuyền không vắng bờ
Không gian như có dây tơ
Bước đi sẽ đứt, động hờ sẽ tiêu
Êm êm trời ngẫn ngơ chiều
Lòng không sao cả hiu hiu sẽ buồn
Đúng là cái lãng mạn thi ca tiền chiến. Người ta buồn là phải có lý dọ Xuân Diệu buồn chẳng có cớ nào hết. Chỉ là một buổi chiều êm, ngẫn ngơ, lòng buồn hiu hiụ Đúng là tính chất đặc biệt của thời kỳ lãng mạn mà trước và sau nó, ít khi thấy có. 'Gió nhớ' (qua sông) là một ý rất lạ và rất hay. Không phải một lần Xuân Diệu nói như thế, ông nói nhiều lần:
Hôm nay trời nhẹ lên cao
Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn
Lá hồng rơi lặng ngõ thuôn
Lá hồng rơi, có nghĩa hôm nay là mùa thu. Cảnh thu làm ông buồn vớ vẫn.
Xuân Diệu (?) có hai câu thơ tả cảnh thu, được đánh giá là hai câu hay nhứt trong thi ca lãng mạn:
Ô hay vàng rơi cây ngô đồng
Vàng rơi, vàng rơi thu mênh mông!
Trong các thi sĩ tiền chiến, không ai nói thu vui, tươi sáng. Họ chịu ảnh hưởng cả hai nền văn học Tàu và Tây; Tây thì có Chauteaubrian, Lamartine, Verlaine, Valerỵ.. với những nỗi buồn mênh mông và sâu sắc của anh chàng René trong Mélancholie De René, của Chanson d'Automne thì làm gì có vui, mà rặt một thứ buồn lãng mạn, vô cớ; Tàu thì có 'Phong Kiều Dạ Bạc' của Trương Kế, thơ của Thôi Hiệu, của Lý Bạch, 'Tỳ bà Hành' của Bạch Cư Dị, mùa thu bao giờ cũng nhuốm đầy cả màu quan tái, bẽ bàng, lạnh lẽo. Điều đáng nói hơn nữa, cái buồn của thi sĩ tiền chiến khác với thơ xưa của ta hay của Tàu ở chỗ nó thê lương hơn, ảm đạm hơn, buồn đến nỗi như Hàn Mặc Tử 'Không nói được nửa lời':
Ấp úng không ra được nửa lời
Tình thu bi thiết lắm thu ơi
Vội vàng cánh nhạn bay đi trớt
Heo hắt hơi may thoảng lại rồi
Nằm gắng đã không thành mộng được
Ngâm tràn cho đỡ chút buồn thôi
Ngàn trùng bóng liễu trông xanh ngắt
Cảnh sắp về đông, mắt sẽ vơi.
Cảnh thu buồn bi thiết, ông muốn nhờ nhạn đưa thư cho 'ai đó' (*) ở Gia Hội (Huế) mà nhạn đã bay đi mất rồi ('Vội vàng chi lắm nhạn lưng mây, chầm chậm cho mình gởi chút đây' -Gởi nhạn HMT). Gió heo may thổi lại rồi, cảnh mênh mông toàn là bóng liễu...
Như đã nói, thu thường đi với trăng, trăng trung thu tròn và đẹp, nhưng khi trăng còn chỉ một nửa, người thơ lại trách:
Hôm nay có một nửa trăng thôi
Một nửa trăng ai cắn vỡ rồi.
Dùng chỉ 'cắn vỡ' (trăng) như ông là mới lắm, xưa nay chưa ai nói vậy. Dùng chữ 'ai' (cắn vỡ) không những là hỏi mà hàm ý trách!
Mùa thu là mùa ly cách, lạnh lẽo, cô đơn và buồn bã. Đó là tính ước lệ trong thơ cũ cũng như thơ mới:
Đây bãi cô liêu lạnh hững hờ
Với buồn phơn phớt, nắng trơ vơ
(Cuối thu HMT)
Người ta nói buồn dìu dịu, buồn nhẹ nhàng, buồn bâng khuâng. Ông nói buồn phơn phớt. Có lẽ Hàn Mặc Tử làm bài thơ nầy khi về sống ở bãi biển Qui Hòa (Ghềnh Ráng) sau khi bị bệnh phung. Thời bấy giờ, khu này rất vắng vẽ làm cho Hàn Mặc Tử thấy cô đơn và buồn. Gia đình dựng cho Hàn Mặc Tử một cái chòi lá bên bờ biển, để ông ở đó một mình. Bãi cô liêu ông nói trong câu thơ trên là bãi biển Qui Hòa nầy chăng? Theo thi sĩ Quách Tấn kể lại, mái lá căn chòi bị thủng nhiều chỗ, Hàn Mặc Tử phải lấy bìa che lại. Bãi cô liêu hay vũng cô liêu như trong bài thơ sau đây:
Ai đi lẵng lặng bên làn nước
Với lại ai ngồi khít cạnh tôi
Cớ sao ngậm cứng thơ đầy miệng
Không nói không rằng nín cả hơi
Chao ơi ghê quá trong tư tưởng
Một vũng cô liêu cũ vạn đời
Có người viết là 'bãi cô liêu'. 'Bãi cô liêu' là nói về chiều rộng, 'vũng cô liêu' là nói về chiều sâu. Sự cô liêu của Hàn Mặc Tử lớn như thế, có khi ông cảm nhận nó bằng nỗi rộng mênh mông, có khi bằng nỗi sâu hun hút.
Mây biến thành mưa, Hàn Mặc Tử không nói thế, ông viết là:
Mây vỡ hằng hà sa số lệ
Là nguồn ly biệt giữa cô đơn
Sao không tô điểm nên sương khói
Trong cõi lòng tôi buổi chập chờn.
(Cuối thu, HMT)
Mưa đem ly biệt tới, trong khi đã cơ đơn rồi. Có thể Hàn Mặc Tử rơi vào cảnh cô đơn cùng cực. Lúc nầy, với ông, cái chết đã gần kề nên thơ ông có nhiều hình ảnh kinh khiếp: 'Và ai gánh maù đi trên tuyết'. Có lẽ ông thấy maù đó trên trên tay chân bệnh tật của ông ta chăng? Tội nghiệp, ông qua đời lúc mới 28 tuổi. Không những cảnh thu muộn đang héo hon mà chính lòng ông, đang bị ám ảnh vì cái chết, cũng đang héo hon vậy:
Thu héo nấc thành những tiếng khô,
Một vì sao lạc mọc phương mô
Người thơ chưa thấy ra đời nhỉ
Trinh bạch ai chôn tận đáy mồ.
Đúng là lời nói của một người sắp chết, 'Điểu chi tương tử kỳ minh giả ai, nhân chi tương tử kỳ ngôn giả thiện'. Thơ ông, khi ông sắp chết, trở nên khó hiểu mà đó cũng là điều thiện chăng? Các nhà phê bình văn học cho rằng khi biết mình còn sống chẳng bao lâu nữa, thơ của ông thành bí hiểm. Sự bí hiểm đó nằm trong tôn giáo, cũng là điều thiện vậy. Người ta nói thu mênh mông sương khói, ông thì tả cảnh thu héo, cành khô đi và có tiếng nấc trong cành cây lá cỏ khô héo đó. Ông tìm một vì sao lạ, một vì sao lạ trong kinh thánh hay một vì sao của đời ông, như Vũ Trọng Phụng viết: 'Tôi sinh ra đời dưới một ngôi sao xấu'. Vì sao đó là bản mệnh của mỗi chúng tạ Trong những năm cuối đời, bị đau khổ tinh thần cũng như thể xác dằn vặt, bị ám ảnh bởi cái chết, và mong cầu một cuộc đời hạnh phúc mai sau, thơ ông mang màu sắc tôn giáo, -Thiên chúa giáo, khá đậm. Vì sao lạ tượng trưng cho thánh thần xuất hiện. Hàn Mặc Tử tìm một vì sao lạ nhưng lại để mong cầu một nhà thợ
Đặc biệt thơ ông hay nói tới màu, là nói tới màu khô ở những vết thương trên da thịt ông đó chăng? Màu ở đây không phải là màu trong đấu tranh chém giết. 
Màu đã khô rồi, thơ cũng khô
Tình ta chết yểu tự bao giờ
(Trút linh hồn, HMT)
Thơ ông là màu, nên khi màu khô thì thơ cũng khô, thơ cũng không còn. Nếu màu là tượng trưng cho đau khổ thì thơ ông cũng vậy. Nó làm cho Hàn Mặc Tử trở thành điên dại:
Thưa tôi không dám say mê
Một mai tôi chết bên khe ngọc tuyền
Bây giờ tôi dại tôi điên
Chắp tay tôi lạy khắp miền không gian!
Như đã nói, thơ mới chịu ảnh hưởng thi ca lãng mạn Pháp khá đậm. Muốn cho tình cảm thật dạt dào, sôi động, thắm thiết, người ta nhiều khi vay mượn tình cảm, vay mượn đề tài, vay mượn nỗi buồn, nỗi nhớ của người khác để rên xiết than vãn, như Chế Lan Viên chẳng hạn. Ông là người kinh, họ Phan (Phan Ngọc Hoan, quê ở Cam Lộ, Quảng Trị), lấy bút hiệu là Chế Lan Viên, để người ta lầm tưởng ông là người Chiêm (Có thời ông làm thông phán ở Phan Rang) để dễ khóc với 'Muôn ma Hời sờ soạng dắt nhau đí.
Vay mượn, người ta cũng gọi là thương vay khóc mướn thì không hay dù có khi người ta cố viết cho thật não nùng:
Tôi có chờ đâu, có đợi đâu
Đem chi xuân lại gợi thêm sầu
Với tôi tất cả như vô nghĩa
Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau
Ai đi trở lại mùa thu trước
Nhặt lấy cho tôi những lá vàng
Cùng với lá vàng tan tác rụng
Về đây đem chắn nẽo xuân sang.
Ông không chờ mùa xuân vui tươi, ông chỉ muốn mùa thu có lá vàng rụng tan tác.
Trong khi đó, Hồ Dzếnh, một người không phải là một trăm phần trăm VN (bố ông là người Tàu, không nói sõi tiếng Việt) thì thơ của ông lại rất VN:
Trời không nắng, cũng không mưa
Chỉ hiu hiu rét cho vừa nhớ nhung
Đúng là cảnh dịu dàng của mùa thu!
Đâu hình tàu chậm quên ga,
Buâng khuâng gió nhớ về qua lá dày
(Mùa thu năm ngoái, HD)
Làm gì có tàu quên ga, chỉ ông có khi quên mất đường về vì cái tính giang hồ lãng đãng của nghệ sĩ thì có. Nhớ về trong gió và qua lá cây. Ý đó thật lạ! Ông lấy ý của Xuân Diệu hay Xuân Diệu lấy ý của ông. Xuân Diệu viết 'Gió nhớ qua sông' còn ông thì viết: 'Gió nhớ về qua lá dày.'
Chữ 'năm ngoái' ở đề bài thơ là một chữ rất VN và rất dễ yêu. Nguyễn Khuyến cũng có 'Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái'.
Cái đặc biệt trong thơ Hồ Dzếnh là sự chừng mực, không có cái gì quá lắm, đúng là cái dìu dịu của thu: 'Không nắng cũng không mưa', rét cũng vừa phải: 'hiu hiu rét'. Thương nhớ cũng chừng mực: 'vừa' (nhớ thương). Nhưng cái dìu dịu vừa phải của Hồ Dzếnh thì lại có một kết quả sâu sắc: 'quên gá, như trong câu đầu. Bài 'Thú của ông, bốn câu trên không được hay lắm, nhưng các đoạn sau thì ý tưởng thật mới lạ mà thơ thì rất nhẹ nhàng:
... tất cả một mùa thơ
Tất cả lều tranh, cả khói mờ
Cả gió mây đưa buồn lắng xuống
Cả lòng tôi với cả lòng cô
Có một nghìn cây rũ rượi buồn
Một nghìn sông rét, vạn hoàng hôn
Dăm thân thiếu nữ gầy như trúc
Đứng chịu tang trời đổ bóng đơn
Thu xa bằng gió bằng mây
Không gian thở nhẹ buồn vây chìm chìm
Lòng không ai cấm mà im
Không dưng bỗng nhớ, không tìm bỗng mong
Nơi tôi còn ít lá lòng
Chiều nay rơi nốt vào trong lá rừng.
Khổ thơ giữa thật hay. Rừng có một nghìn cây là một rừng cây buồn, một nghìn sông rét, vạn hoàng hôn. Hai câu nầy tả cảnh toàn bộ không gian và thời gian, tất cả đều buồn. Những cây tre vươn lên qua các lều tranh có khói mờ bốc lên, giữa cảnh cô đơn, ảm đạm.
Có một độ, trên con đường lưu lạc Bắc Nam trước 1945, Nguyễn Bính ghé lại Huế, thấy người ở hoàng thành còn mang màu cổ kính:
Mùa thu hoa cúc vàng lưng giậu
Thiếu nữ mơ màng áo trạng nguyên
Hoa cúc nở vào mùa thu mà ở Huế, trước 1945 còn rất nhiều vườn, nhiều phủ của các ông hoàng bà chúa, quan quyền. Hoa cúc nở vàng bờ giậu khiến các cô thiếu nữ mơ màng việc lấy chồng, mơ được làm vợ một ông trạng nguyên (áo trạng nguyên màu vàng phải là trạng nguyên được vua chọn làm phò mã (?), dù các khoa thi đình của triều đình Huế không chấm trạng nguyên. Huế đổi thay kể từ khi Pháp đặt nền đô hộ, và càng nhiều hơn nữa khi vị vua cuối cùng triều Nguyễn không còn ở trong Tử Cấm Thành. Cùng với vua quan và cung phi mỹ nữ, hoa cúc vàng cũng lui sâu vào dĩ vãng, và chiếc áo màu vàng của quan trạng trở thành huyền sử cố độ
Ngay từ thời kỳ đó, khi bước chân giang hồ của Nguyễn Bính dừng lại Huế cũng chỉ để thấy:
Trường Tiền vắng ngắt người qua lại
Đập đá mênh mông bến nước đầy
Đò vắng khách chơi nằm bát úp
Thu về mang lại gió heo may
Cầu Trường Tiền vắng khách, đò vắng khách, đập đá mênh mông nước, gió heo may đã về. Cơn lạnh của gió heo may xô người ta vào trong nhà, đóng cửa lại. Ai từng ở Huế, mới biết cái lạnh của Huế khá đặc biệt, thấm thía. Trong cái lạnh của Huế, nhiệt độ không xuống thấp như ở Bắc Mỹ nầy, nhưng sao nó lại nhức buốt xương tủy, xót xa da thịt đến làm vậy?!
Mùa Thu VN.
Tôi muốn nhắc lại đây một mùa thu rất xưa, bài Vịnh Thu của bà Ngô Chi Lan:
Gió vàng hiu hắt cảnh tiêu sơ
Lẻ tẻ bên trời bóng nhạn thưa
Giếng ngọc sen tàn bông hết thắm
Rừng phong lá rụng tiếng như mưa
Kể từ bài nầy cho đến những bài tả cảnh thu về sau như trong truyện Kiều, Chinh Phụ Ngâm, Cung Ốn Ngâm Khúc, Hoa tiên, v, v... bài nào tả cảnh thu cũng hay nhưng nghe ra có vẽ là thu bên Tàu: Có giếng ngọc (ngọc tỉnh), có lá ngô đồng, có rừng phong, có bóng nhạn. v v... Ngay cả những tác phẩm thi ca lãng mạn, cũng không hoàn toàn thoát khỏi những ước lệ đó. Trong thơ Hàn Mặc Tử ta thấy:
Vội vàng chi lắm nhạn lưng mây
          hoặc:
Trước sân anh thơ thẩn,
Đăm đăm trông nhạn về
(Gái quê)
Vậy trong văn thơ VN, không có mùa Thu VN chăng? Bạn đọc hãy đọc ba bài sau đây của Nguyễn Khuyến:
           Thu Điều
       (Mùa Thu câu cá)
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
Nước biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo
Tầng mây lơ lững trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo
            Thu Vịnh
          (Vịnh cảnh thu)
Trời thu xanh ngắt mấy từng cao
Ngõ trúc quanh co gió hắt hiu
Nước biếc trông như tầng khói phủ
Song thưa để mặc bóng trăng vào
Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái
Một tiếng trên không ngỗng nước nào
Nhân hứng cũng vừa toan cất bút
Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào.
             Thu Ẩm
     (Mùa Thu uống rượu)
Năm gian nhà cỏ thấp le le
Ngõ tối đêm khuya đốm lập lòe
Lưng giậu phất phơ làn khói nhạt
Làn ao lóng lánh bóng trăng loe
Lưng trời ai nhuộm mà xanh ngắt
Mắt lão không viền cũng đỏ hoe
Rượu tiếng rằng hay hay chẳng mấy
Độ năm ba chén đã say nhè.
Nguyễn Khuyến mô tả ba cái thú vui đặc biệt của người Việt trong mùa thu: câu cá, uống rượu và làm thợ Đó là những thú vui thanh cao ngày xưa. Câu cá là thú vui cô đơn. Vần 'eo' là một vần nghèo (ít chữ), lại khó gieo. Cảnh câu cá ở đây là một cảnh rất quen thuộc ở miền quê nước ta, nhất là vùng trung châu Bắc bộ và vùng quê Trung bộ, vùng có nhiều hồ ao. Đây là ao làng, nơi dân làng có thể ra đó tắm giặt, lấy nước. Cảnh Nguyễn Khuyến mô tả ở đây như một bức tranh quê VN. Những chi tiết trong tranh đơn sơ, giản dị, bình thường, màu sắc rất quen thuộc. Một chiếc thuyền câu trên mặt ao màu xanh. Phải là thiên tài mới vẽ được cái lạnh lẽo trên mặt hồ thu; mặt nước lăn tăn sóng (gợn tí), có chiếc lá vàng (tương phản mặt hồ xanh) bay ngang trên mặt nước (đưa vèo). Bầu trời xanh ngắt, vắt ngang qua đó là mấy tầng mây.
Để tiện lấy nước sinh hoạt, làng quê VN thường nằm bên một con sông hay một hồ nước. Do đó, ngồi trên hồ, tác giả thấy cái ngõ làng quanh co, vắng bóng người. Tất cả hình ảnh trên, rất thường thấy ở miền quê VN, ngay cả cái ngõ trúc cũng không lạ gì với chúng tạ Những người ở thành phố cũng có thể thấy ngõ làng qua 'Xóm Giếng Ngày Xưa' của Tô Hoài: 'Ngõ thăm thẳm xuyên vào ruột hai hàng tre, tre mọc liền sát khít gốc, ở trên, cành và lá giao nhau, lối mòn đi giữa đôi bờ tre cũ. Bốn mùa màu lá tre bóng rợp che con đường đất mịn. Ngoài kia, lượn một con sông xinh. Dòng nước về mùa hè trong và mát, liếm vào bờ cỏ chảy lừ đừ. Con sông bé bỏng đựng bóng bờ tre theo đường ngõ xóm rồi vòng ngoèo sang phía khác, đến đằng kia sông lại ló hình, nhưng đã xa đi rồi, con sông vui vẻ! Nó đem nước dẫn vào những cánh đồng xa lạ khác để cái ngõ tre ngơ ngác đứng lại một bên bờ. Con đường xóm thì ngẫn ngơ bò vào trong ngõ, qua một vòm cổng gạch phủ cỏ và rêu xanh hun hút'.
Tất cả những hình ảnh đó, vắng và buồn, lặng lẽ; lặng lẽ đến nỗi tác giả nghe được cả tiếng cá lâu lâu móng nước dưới chân bèo. Âm thanh và màu sắc được phối trí rất hài hòa. Thi sĩ không cần sáng tạo vì âm thanh đó, màu sắc đó là những cái rất tự nhiên ở làng quệ Cái tài của tác giả là phô diễn ra bằng lời. Cái tĩnh lặng của miền quê VN là cái tĩnh lặng của cuộc sống, của thiên nhiên cả ngàn năm không có gì thay đổi trước khi có cuộc 'Cách mạng mùa thú, tiếp sau là cuộc 'Cải cách ruộng đất' mà tiếng than khóc và maù đỏ tuông ra tương phản với không khí tĩnh lặng của ruộng đồng, các lũy tre làng êm ã.
Bài 'Thu Vịnh' vừa tả cảnh vừa tả tình. Đó cũng là cảnh thu VN, một cảnh thu ở miền quê giống như bài 'Thu điêù'. Trời xanh cao, ngõ xóm vắng vẻ, gió thổi nhẹ (hắt hiu), cửa sổ mở cho bóng trăng chiếu vào (song thưa). 'Mặc' là chữ nôm (Song thưa để mặc) đưa vào thơ khó hay. Tuy vậy, sau nầy Thế Lữ lại dùng cũng khá hay ('Điềm nhiên mặc kệ con người vớ vẫn', Khách Chinh Phu). Trước hàng rào, lại thấy mấy chùm hoa nở. Hoa nầy năm ngoái nở rồi, nay lại nở. Chữ 'năm ngoái' biểu lộ một sự gần gủi thân quen, một cố nhân, làm nhớ câu thơ của Thôi Hộ (Đào hoa y cựu tiêù đông phong) mà Nguyễn Du diễn ý đó trong Kiều là 'Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông'.
Hoa thì biết rồi, năm ngoái, như cũ, nhưng ngỗng thì không biết từ nước nào bay tới. Nguyễn Khuyến gọi nôm na là ngỗng, không văn chương như các nhà thơ làm thơ ước lệ, gọi là nhạn, là hồng.
Trước cảnh thiên nhiên đẹp một cách đơn sơ, gần gủi và gợi tình như thế, tác giả tính làm thơ, vài câu ngẫu cảm nhưng lại hổ thẹn với Đào Tiềm, nhà thơ Trung Hoa nổi tiếng. Đó là sự khiêm nhượng chăng, chứ xem ra cả ba bài thơ tả cảnh thu của ông, người ta khó phủ nhận đó là tuyệt tác.
Xin trở lại vần 'oé hay 'é, hai vần nầy hơi giống nhau, đi với nhau cũng được, là một vần nghèo, như đã nói trong bài 'Thu Điêù'. Phải là người có tài mới gieo vận nhanh khi dùng vần nầy. Bài thứ ba có vài ý mâu thuẫn nhau. Mới đọc, người ta tưởng tác giả tả cảnh thu về đêm. 'Ngõ tối đêm khuya đốm lập lòe'. Trời tối mới thấy đom đốm lập lòe trong ngõ. Nhưng tiếp đó, ở câu ba, Nguyễn Khuyến lại viết: 'Lưng giậu phất phơ làn khói nhạt'. Phải trời còn sáng mới thấy làn khói nhạt bay lên, hơi sương bay lên thì đúng hơn, tương tự như 'Yên ba giang thượng' vậy. Phải trời tối mới thấy bóng trăng loe dưới ao (Làn ao lóng lánh bóng trăng loe), nhưng tiếp đó lại là cảnh ban ngày 'Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt'. Chắc chắn cảnh nầy không phải là cảnh sáng hay trưa, mà chiều hay chập choạng, chạng vạng, hoàng hôn. Lúc đó, ngõ tre thì đã tối lắm, có thể tối như lúc đêm khuyạ Xem lại bài 'Xóm Giếng' như tôi ghi lại ở trước, độc giả có thể hiểu, nhất là ai từng sống ở quê .
Con đường làng có hai hàng tre hai bên, che kín trên đầu là kín lắm, có khi nhìn lên không thấy trời, thành ra trời mới chiều ngõ đã tối om, đom đóm bay ra kiếm ăn. Lúc hoàng hôn, dưới ao sâu, cảnh cũng đã tối nên dễ thấy bóng trăng. Thực ra, tác giả tả cảnh chiều và sắp tối ở miền quệ Vì cấu trúc thơ Đường khắt khe, nên Nguyễn Khuyến khó tả cảnh theo thứ tự thời gian. Tác giả cũng tả phong thái của ông khi uống rượu, hòa mình với khung cảnh thiên nhiên của mùa thu nơi thôn dã, thung dung nhàn hạ của một ông già điềm đạm, vui với thời gian và không gian. Thời gian có tính tổng quát, không cần xác định một cách máy móc sớm trưa chiều tối, không gian là khung cảnh êm đềm tĩnh lặng, thanh thoát gần gủi thiên nhiên của vùng quê VN. Nói chung, đó chính là vô vi của Lão Trang, sống hài hòa cùng thiên nhiên, không có gì trái nghịch với tạo hóa, là thông đạt triết lý Lão Trang một cách sâu sắc vậy.
Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt
Mắt lão không viền cũng đỏ hoe
Phép đối ở đây khá hoàn chỉnh, tự nhiên, đạt tới cao điểm của nghệ thuật, đến nỗi không còn thấy sự đẻo gọt công phu, cầu kỳ thường có ở những người làm thơ Đường. Chữ lão là một nhân xưng đại danh từ ngôi thứ nhất số ít, người già thường dùng để tự xưng. Hai câu kết tả tình, cái sở thích của tác giả. Mùa thu lạnh. Người già thích uống rượu, có tiếng là hay rượu nhưng thực ra cũng chẳng có gì là hay.
Cả ba bài nầy đều nói về thu, bối cảnh hơi giống nhau: Cảnh thôn quê VN cho nên không có rừng phong (cây phong chỉ mọc ở hàn đới), không quan tái, tóc liễu, lá ngô đồng. Nét đặc biệt của thôn quê VN là tĩnh lặng, êm đềm, vắng vẽ. Sự rộn ràng của những bến sông, tiếng đùa vui những lúc thả diều trên cánh đồng sau làng chỉ rộn lên ngắn ngủi trong những ngày hè nay biến mất khi gió heo may bắt đầu thổi, khi những đám mây đen vần vũ báo hiệu thu sang. Tác giả cũng gởi tình cảm vào thơ nhưng không như các nhà thơ lãng mạn, tình cảm của ông chừng mực, vừa phải, không có những cái bi thiết, quay quắt, rên siết trong khi cảnh thu ông tả đẹp thì đẹp vô cùng mà thực cũng là rất thực, không vay mượn cảnh sắc của Tàu như những người làm thơ trước ông hay cảnh sắc của Tây ở những thế hệ sau ông.
Bàn tới mùa thu trong thi ca lãng mạn mà không nói tới 'Tiếng Thu' của Lưu Trọng Lư có thể là một thiếu sót bởi bài thơ nầy được nhiều người biết, nhiều người thích, Thi Nhân VN của Hoài Thanh có bàn tới. Lưu Trọng Lư có một tập thơ nhan đề là 'Tiếng Thu' xuất bản trước 1945, trong đó, ông có một số bài nói về mùa thu tôi sẽ bàn sau đây. Lưu Trọng Lư lại là người rất mơ mộng. Sự mơ mộng làm cho ông đãng trí đến nỗi, như Hoài Thanh giới thiệu trong Thi Nhân VN có lần Lưu Trọng Lư đọc hai câu thơ:
Giật mình ta thấy mồ hôi lạnh,
Mộng đẹp bên nhau đã biến rồi
mà cứ tưởng đó là hai câu thơ của Thế Lữ, nhưng chính lại là của Lưu Trọng Lự. Nói chuyện thơ thẩn mơ mộng như thế nầy, phải nói rằng ai đã từng ở Huế, lớn lên ở Huế, chỉ trước 1945 mà thôi mới thấy những cái lạ lùng của xứ Thần Kinh. Đọc 'Nửa Bồ Xương Khố của Vũ Anh Khanh, tôi hơi ngạc nhiên không biết Vũ Anh Khanh quê ở đâu mà ông ta biết khá rõ về Huế trước 1945. Huế có cảnh sắc thơ mộng, núi Ngự sông Hương thì điều đó đã hẵn, nhưng trai gái Huế cũng mơ mộng không kém. Vũ Anh Khanh kể lại một cảnh thực. Cứ cuối tuần, học sinh trai gái Huế phần đông của trường Đồng Khánh, Khải Định rủ nhau đi chơi lăng hay chơi núi Ngự Bình. Núi Ngự hồi ấy còn thông dày đặc, còn bậc cấp đá đi lên ở mặt tiền ngọn núi. Người ta vào chơi trong rừng thông, ca hát, đàn sáo, v.v... và cũng có người thổi sáo khá tuyệt. Người ta mơ mộng và say mê thi ca đến độ xảy ra những trường hợp đặc biệt, như có cậu học trò tên là B. mê 'Giọt Lệ Thu (tôi có dẫn mấy câu đầu ở trên) đến độ si tình, điên loạn. Khi vào thi vấn đáp Brevet (tốt nghiệp cấp hai), anh ta đọc một lèo 'Giọt Lệ Thu rồi bỏ về. Sau anh ta thi vào sở Xe Lửa Huế, cũng chỉ đọc 'Giọt Lệ Thu mà thôi. Về sau, ông ta bị điên hẵn.
Lưu Trọng Lư là người mơ mộng nên ông thường ngơ ngác trước cuộc đời, y như con nai vàng trong bài thơ ‘Tiếng Thú’ của ông:
Em không nghe mùa thu
Dưới trăng vàng thổn thức
Em không nghe rạo rực
Hình ảnh kẻ chinh phu
Trong lòng người cô phụ
Em không nghe rừng thu
Lá thu kêu xào xạc
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô
Rất nhiều người khen và thích bài thơ nầy. Phạm Duy đã phổ nhạc. Cũng có người cho rằng bài nầy Lưu Trọng Lư phỏng ý thơ bài 'Chanson d'Automné của Verlaine. Điều nầy, nếu có cũng không gì lạ vì các nhà thơ lãng mạn tiền chiến chịu ảnh hưởng thơ ca lãng mạn Pháp và chính Xuân Diệu cũng gián tiếp xác nhận như thế khi viết:
Tôi nhớ Rimbeau với Verlaine
Hai chàng thi sĩ choáng hơi men
Say thơ xa lạ mê tình bạn,
Phá bỏ khuôn mòn, những lối quen.
Trong thơ cổ của ta, có lẽ không ai tả cảnh thu mà có hình ảnh con nai; thơ xưa thường thì có nhạn, loài chim di thệ Hình ảnh 'con nai vàng ngơ ngác' trong mấy chục năm trở lại đây trở thành một 'thành ngữ' trong câu nói thường ngày của người Việt chúng ta, bắt nguồn từ trong câu thơ của Lưu Trọng Lư vậy. Tác giả hỏi một em vô hình nào đó có nghe tiếng lòng thổn thức của một cô phụ. Tại sao cô phụ thổn thức. Cũng là tại cảnh thu nhắc nhở người đàn bà việc xa chồng. Bao giờ cũng vậy, ý nghĩa mùa thu là ly cách, làm cho người ta, nhất là phụ nữ nhớ cảnh ly biệt.
Trong rừng thu, lá thu đã rụng nhiều, tiếng chân nai đi xào xạc trên lá khộ May mắn tôi ở đây là vùng cấm săn nai, trên xa lộ có nhiều bảng hiệu cảnh giác nai băng qua đường, và tôi không giấu được niềm vui vì nhiều lần thấy bóng những con nai xuất hiện bên đường đi, ngơ ngác nhìn xe chạy qua, hoặc có khi chúng cũng vào vườn nhà người ta tranh nhau ăn những trái táo rụng trong sân. Chúng chỉ bắt đầu xuất hiện khi mùa thu tới. Mùa hạ, nai lên vùng cao kiếm ăn. Khi những cơn lạnh đầu tiên tới, nai theo những con đường quen, tìm về vùng thấp, như Huy Cận mô tả:
Bỗng dưng buồn bã không gian
Mây bay lũng thấp, giăng màn âm u
Nai cao gót lẫn sương mù
Xuống rừng nẽo thuộc nhìn thu mới về
Sắc trời trôi nhạt dưới khe
Chim đi lá rụng cành nghe lạnh lùng
Sầu thu lên vút song song
Với cây hiu quạnh, với lòng quạnh hiu
Sắc xanh nhạt cả buồn chiều
Nhân gian e cũng tiêu điều dưới kia
(Thu rừng, Lửa thiêng, Huy Cận)
Có thể bài thơ nầy được gợi hứng từ hoàn cảnh sống thực tế: Huy Cận họ Cù, thuộc người sắc tộc, sinh trưởng ở mạn thượng du tỉnh Thanh Hóa. Những nhận xét của ông về một mùa thu ở rừng rất thật và rất thi vị. Khung cảnh thiên nhiên được Huy Cận bắt rất nhanh qua tâm hồn một nhà thơ lãng mạn, điều đó xác định thêm nỗi buồn khi ông thấy không gian thay đổi, có lẽ chính yếu ở trời và cây rừng. Trời thì nhiều mây, trên các thung lũng, như giăng màn che bớt núi non. Huy Cận tả cảnh trời không bằng cách nhìn lên mà nhìn xuống: 'Sắc trời trôi nhạt dưới khé. Lá rụng nhiều, các bờ khe trống ra, in bóng trời cao rọi xuống. Con nai xuống khe uống nước, nhìn nước trôi trong lòng khe mà tưởng trời cũng trôi theo nước. Khi con chim bay đi, sự nhún nhảy của nó tạo một sức động làm cho chiếc lá rụng.
Đây là một nhận xét tinh tế khác với người xưa. Xưa, khi tả chim và lá, như bà Tiết Đào thì cho rằng: 'Chi nghinh nam bắc điểu, diệp tống vãng lai phong'.
Tuệ Chương Hoàng Long Hải
Nguồn Trích từ http://vantuyen.net
Theo http://www.vanlangseattle.org/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Tiếng gọi đêm cuối năm Đêm hai mươi sáu Tết, chị đứng trên ban công tầng bốn, lặng lẽ đưa đôi mắt u buồn nhìn xa xăm xuống đường phố. Ha...