Sắc xuân bên bờ sông Vàm cỏ
Một sáng cuối đông, ông bạn đồng khóa sĩ quan hơn 30 năm về
trước, hăm hở phôn cho tôi. “Anh sắp xếp ngược Long An một chuyến được không? Về
vùng căn cứ cũ ấy mà”. Thấy tôi ậm ừ, hắn bèn dấn thêm: “Có chú em vốn là trợ
lý dẫn đường bay về lập trang trại cây ăn quả; trồng mấy hecta chanh, giống ngoại
nhập…”. Nghe nói đến chanh, tôi chợt à lên một tiếng và đồng ý liền. Tôi mê
chanh bởi đó là giống cây “ruột” của quê tôi nằm cạnh dòng Lam giang. Đó là giống
chanh hoàng niên được trồng trên đất cánh bãi phù sa màu mỡ nên quả rất sai,
to, vỏ mỏng và rất thơm. Dân làng tôi rất tự hào bởi thứ sản vật trời cho này.
Ảnh minh họa. Nguồn Internet
Trước hôm xuất phát, nghe tôi nói sẽ đi Đức Huệ, có người
rành rẽ địa bàn vùng này đã cảnh báo “coi chừng, đường sá dưới đó cực lắm đa”.
Nghe vậy nhưng tôi tặc lưỡi, cứ đi rồi khắc biết, khó ở đâu tìm cách vượt ở đó.
Không có lý gì lại từ chối một chuyến “về nguồn” hiếm hoi như vậy. Dường như
đoán biết tâm lý của người thành phố vốn hay ngại khó nên dù chưa gặp mặt, chú
Minh chủ trang trại vẫn cẩn trọng gọi điện chỉ dẫn đường đi lối lại cụ thể. Tôi
giật tờ lịch siêu đại lật mặt sau ghi vội thông tin vào đó, tới khi đọc lại thấy
hoa cả mắt bởi có lắm ngã ba, ngã tư, rồi quẹo trái, quẹo phải, hệt như cách
anh thanh niên chỉ đường trong thiên truyện “Đôi mắt” nổi tiếng của Nam Cao vậy.
Gần chục năm nay, do đặc thù của công việc làm sách, tôi
thuộc khá nhiều địa danh của vùng đất bưng biền, dẫu chưa được một lần đặt chân
tới. Ấy là Mỏ Vẹt, Ba Thu, Hội Đồng Sầm, Giồng Dên Dên, rồi Bình Hòa Nam… những
cái tên gắn với một thời lửa đạn mà chỉ mới nhắc đến thôi đã thấy gần gụi và xiết
bao thương mến.
Chiếc xe con trực chỉ quốc lộ 22, tới Củ Chi thì quẹo sang
tỉnh lộ 8. Đường xấu tệ, xe và người cứ nẩy lên bần bật hệt như trong vũ điệu
Lambada. Tới ngã tư Hậu Nghĩa, qua Tân Mỹ, rồi Hiệp Hòa, vượt cầu Đức Huệ vắt
ngang sông Vàm Cỏ Đông, đến thị trấn Đông Thành, về xã Bình Hòa Bắc. Tại đây,
vào tháng 12-1945, Xứ ủy Nam Bộ đã họp và quyết định lập ba chiến khu 7, 8, 9,
để chống quân xâm lược. Trong cả hai cuộc kháng chiến, đây là vùng căn cứ địa với
biết bao chiến công và sự tích anh hùng. Nương theo câu hát “Ở tận sông Hồng em
có biết? Quê hương anh cũng có dòng sông. Anh mãi gọi với lòng tha thiết. Vàm Cỏ
Đông ơi Vàm Cỏ Đông”, chúng tôi hăm hở tìm về một địa chỉ đỏ. Chiếu trên bản đồ,
vùng đất này nằm về phía bắc tỉnh Long An, địa đầu của vùng Đồng Tháp Mười, nơi
tiếp giáp với miền Đông Nam Bộ và là vùng đệm nối xuống đồng bằng sông Cửu Long
trù phú. Đây cũng là cửa ngõ gần nhất từ biên giới Campuchia, qua thị trấn Hậu
Nghĩa xuôi về Thành phố Hồ Chí Minh.
Qua cửa kính xe, khung cảnh làng quê vun vút hiện ra quá ư
là êm đềm. Miệt vườn cây cối mướt mát, kênh rạch chằng chịt, nhà cửa được cất
thưa thoáng khác hẳn với cảnh phố phường ngột ngạt. Từng bầy gà lúc túc tìm mồi
ngay cạnh lối đi. Chiếc xe giảm tốc độ rồi quẹo trái, bò qua cây cầu nhỏ đúc bê
tông, hẳn trước kia chỗ này là một cây cầu khỉ. Ngó con đường bờ ruộng cỏ mượt
mà xanh vừa đủ một làn xe chạy xuyên qua cánh đồng hút cả tầm mắt, khiến cả
đoàn né thở. May thay bác tài vốn là một tay “lái lụa” nên cuối cùng chiếc xe vẫn
cán đích an lành. Tới một vạt đất trống có ngôi nhà nhỏ lợp tôn, ngó quanh tuyền
đồng không mông quạnh, lòng chợt hoang mang. Có người ra đón, chúng tôi gửi ôtô
lại, rồi leo lên xe máy chạy chênh vênh trên bờ bao. Lối đi khấp khểnh, gồ ghề,
chỉ cần non tay lái một chút là xe lao xuống ruộng. Nhưng chỉ một loáng, khu
trang trại đã hiện ra rờ rỡ ngay trước mắt với miên man cây trái. Bên trái là
dòng kênh xanh ngợp lục bình, xa hơn một chút thấp thoáng những nếp nhà nhỏ lẩn
khuất dưới tàng cây um tùm. Không khí ở đây thực sự trong lành và khoáng đãng.
Trong nắng sớm, từng đàn bù chao “cãi nhau” ỏm tỏi, rồi tiếng sẻ đồng ríu ran,
nghe cứ nhẹ cả người.
Trong căn nhà gạch, mái tôn của khu trang trại, Phạm Hữu
Minh bồi hồi kể gia đình hai bên nội ngoại của anh đều gắn bó với miệt này từ
thuở mới “khai thiên phá thạch”. Thời cụ Phạm Văn Công (ông nội Minh) đến khẩn
hoang vùng đất này, thóc lúa đầy kho lẫm, trâu đàn có cả trăm con béo mượt. Chỉ
nội việc đàn trâu lội sình lâu ngày đã thành ra một khúc kênh. Vì vậy, một đoạn
kênh Ba Reng còn được người dân quen gọi là kênh Ba Công. Tại đây, hơn 70 năm về
trước, bác sĩ Hồ Văn Huê mượn đất dựng nên khu “Dưỡng đường Nam Bộ” làm nơi điều
trị và cứu chữa cho thương binh từ các mặt trận đưa về. Minh vẫn còn lưu giữ đầy
đủ các văn bản từ thời ông nội ủng hộ kháng chiến. Vào giữa năm 1961, vùng đất
này còn được biết đến bởi căn cứ đứng chân của Thành đoàn Sài Gòn-Gia Định,
chuyên tổ chức các lớp đào tạo cán bộ rồi tung về nội thành hoạt động.
Trước khi nhập ngũ, Phạm Hữu Minh từ có 5 năm học nghề cơ
khí và làm công nhân Công ty công trình giao thông Long An. Tháng 9-1984, anh
thi đỗ vào Trường sĩ quan Không quân (Nha Trang) và được chọn học chuyên ngành dẫn
đường bay. Đây là một chuyên ngành đòi hỏi người học phải có kỹ năng tính toán,
tư duy nhạy bén và quyết đoán. Tốt nghiệp ra trường, Minh được phân công về
trung đoàn 929, rồi trung đoàn 937, đều là các đơn vị không quân chiến đấu. Đầu
năm 1991, anh được cử ra Trường Sa công tác trong Tổ đại diện Không quân tại
đây. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ trên quần đảo bão tố, Minh trở về sư đoàn ở
sân bay Tân Sơn Nhất.
Lăn lộn bầm dập từ tấm bé nên Minh không ngại khó, ngại khổ,
có điều lúc nào anh cũng đau đáu nặng lòng với quê hương. “Ông bà mình tâm huyết
cả đời, đổ biết bao mồ hôi và cả máu xương, không lẽ bây giờ con cháu cứ tìm
nơi đô hội để hưởng nhàn, rồi lãng quên dần nguồn cội?”. Vả lại vùng căn cứ cũ
giờ đây là vùng sâu, vùng xa, kinh tế đì đẹt chậm phát triển nên cuộc sống
của người dân phần đông vẫn còn nhiều cơ cực. Nếu ai cũng chọn nơi nhàn hạ để ấm
thân thì lấy ai xây dựng quê hương? Không chỉ mình làm giàu mà phải biết tạo
công ăn việc làm cho những người nghèo. Nung nấu bởi ý nghĩ ấy, vài năm trước bấm
tính biết thời hạn sẽ nghỉ hưu, Minh rủ vài người bạn về chung lưng đấu cật
khai hoang. Trên thửa đất ông bà để lại, nhiều năm chỉ mọc tuyền cỏ lác và cây
năn, sau khi làm mâm cơm cẩn cáo với tổ tiên, anh bắt tay vào việc. Trước tiên
là đi thuê máy Kobe xúc đất phèn, phục hóa. Được cô bác ủng hộ, Minh bền bỉ
thau chua, xẻ rãnh, đắp bờ bao, quy hoạch thành một khu trang trại rộng trên 4
hecta. Nhìn cơ ngơi diệu vợi giữa mênh mang hoang hóa, không ít người coi ý tưởng
của anh là “khùng”. Ngay cả Minh khi mới bắt tay vào cuộc, cũng không khỏi có
lúc ý nghĩ hoang mang xuất hiện trong đầu, bởi sự đơn độc chẳng khác nào hình ảnh
chàng kỵ sĩ Đôn Kihôtê đánh nhau với cối xay gió vậy!
Nhưng lòng người lính đã quyết. Quê hương giang rộng vòng
tay đón anh. Minh bảo những ngày đầu về cắm ở đây, vài người làm công đã to nhỏ
hỏi anh không thấy ngán sao? Minh tròn mắt. Ngán cái nỗi gì? Là đêm nào tụi em
cũng thấy mấy ổng đằng mình hiện về với băng quấn trắng toát, có người la hét rất
kinh, vì nghe nói ngày trước bác sĩ ở dưỡng đường phải dùng cưa thợ mộc cưa tay
chân thương binh. Có khi giữa ban ngày, tụi em còn thoáng thấy bóng người lấp
ló sau những bụi chanh um tùm, và nghe như có tiếng rì rầm trò chuyện, nhưng hễ
chạy tới thì mất dạng. Thiệt lạ!… Minh cười xòa nói tui là hạng con cháu về tạo
dựng làm ăn trên đất tổ tiên để lại, thì nỡ nào ông bà lại không phù hộ độ trì?
Còn nếu quả thật có chuyện các bác, các chú hiển linh thì cũng là điều tự
nhiên, chả có gì phải sợ. Vùng đất này thấm máu xương của biết bao người đã bỏ
mình nước, giờ nếu cháu con để đất hoang hóa và cam chịu nghèo đói thì mới phải
chịu quở phạt…
Nếu trước đây Minh giỏi tính toán đường bay cho các máy bay
phản lực chiến đấu trên trời, thì giờ đây ngay trên mặt đất, phẩm chất của người
sĩ quan dẫn đường vẫn được phát huy. Anh là người đầu tiên bạo dạn đưa giống
chanh không hạt Limca mang về canh tác trên vùng đất này, bấy giờ giá mỗi cây
giống là 15.000 đồng. Theo mật độ cứ 400 cây một hecta, hàng ngàn gốc chanh được
trồng và chăm bẵm đúng kỹ thuật, nhanh chóng bén rễ và tươi tốt ngờm ngợp. Đúng
18 tháng sau, trại chanh đã cho lứa quả đầu tiên. Nhìn những quả chanh to tròn,
căng mọng, da xanh óng, Minh ứa nước mắt bởi tâm nguyện của anh đã thành hiện
thực.
Đầu năm 2014, nhận quyết định nghỉ chờ hưu, Phạm Hữu Minh
bàn bạc thống nhất trong gia đình, quyết tâm mở hướng làm ăn. Hiểu rõ tính nết
và sở nguyện của chồng, mặc dù thẳm sâu trong tâm khảm không thể nói được bằng
lời, song chị Trần Thị Mỹ Kim vẫn hết lòng ủng hộ và động viên anh. Chị nhận
lãnh trọng trách ở lại trông nom căn nhà tại phường 11, quận Gò Vấp (Tp.Hồ Chí
Minh) chăm lo cho hai cậu con trai đang tuổi ăn học, làm “hậu phương” vững chắc
để chồng đi xây dựng trang trại.
Bạn bè thân thiết cũng không ít người bàn ra bàn vào. Rằng,
đến tuổi này rồi mới tính chuyện làm giàu, thì cực lắm. Một đời binh nghiệp, giờ
được nghỉ hưu thì hãy cứ ngơi cho khỏe cái thân, đi du lịch hoặc đi
thăm thú các danh lam thắng cảnh cho biết, tự hành xác làm gì? Cuộc đời ngắn lắm,
cần phải biết thụ hưởng chứ, v.v… Mặc cho người gàn kẻ chê, Minh vẫn không hề
lay chuyển cái ý định đã chín nẫu trong đầu. Anh nghĩ vùng căn cứ cũ rất giàu
tiềm năng song bà con cô bác nơi đây hãy còn nghèo lắm, mình không nỡ chọn cuộc
sống an nhàn. Vì điều kiện đường sá cách trở, trong số bạn bè cùng góp công sức
buổi đầu giờ đây chỉ còn mình anh trụ lại. Ngoài giống chanh không hạt, Minh
còn cho trồng thêm nào mít, nào ổi, rồi mãng cầu, chuối, cam… ở vòng ngoài trang
trại. Đúng là trời không phụ lòng người, loại cây nào cũng sum suê, trĩu quả.
Với chiếc mũ tai bèo và cặp kính cận, Minh hăm hở dẫn chúng
tôi len lỏi giữa bạt ngàn cây trái. Hệ thống tưới tiêu hoàn chỉnh, chia trang
trại thành từng ô như bàn cờ. Khác với giống chanh ở quê tôi, loại chanh này
sinh trưởng rất khỏe, tán cây rộng, lá to bản và không có mùi thơm, song năng
suất thì thật đáng nể. Mỗi năm chanh có hai vụ thu hoạch chính. Vào vụ, cứ một
tuần thu hái một lần và phải mướn thêm người làm. Khi chúng tôi đến, có hàng chục
người cả đàn ông lẫn đàn bà đang thoăn thoắt hái chanh. Trò chuyện với tôi, có
người cho biết từng có một thời lầm lỡ, được Minh cưu mang đưa về lao động và
trở thành “nồi cơm” cho gia đình. Họ làm từ lúc chưa tỏ mặt người cho tới trưa
đứng bóng mới tạm nghỉ ăn cơm. Chanh được chất đầy các giỏ cần xé đưa về dồn đống
trong lán. Tại đây, sau khi được phân loại và tuyển lựa cẩn thận, hàng tấn
chanh được thương lái chuyển đi khắp nơi. Minh cho biết, hiện nay, ngoài thị
trường nội địa, chanh của anh còn được xuất sang một số nước Đông Nam Á. Mỗi ký
chanh bán tại gốc có giá dao động từ 15.000-20.000 đồng. Tuy nhiên, cũng có khi
giá rớt thê thảm chỉ còn khoảng 8.000 đồng. Ngược lại, vào cữ tháng 2-3 âm lịch,
chanh trái vụ có thể lên tới hơn 40.000 đồng một ký. Bình quân mỗi năm trừ hết
các khoản chi phí, người cựu binh này cũng thu lãi ngót nhét hàng tỷ đồng. Hỏi
bí kíp, chủ trại cười hiền, nói chỉ cần mình đừng phụ đất là được. Ở đây ngoài
phân chuồng thì lục bình cũng là nguồn phân bón hữu cơ vô tận và cực tốt. Muốn
thu hoạch bộn thì phải chăm lo từ khâu làm cỏ đến vun xới và tưới tắm, tuyệt đối
không được sao nhãng khâu nào.
Minh cho biết điều trăn trở lớn nhất của anh là làm cách
nào để thoát ra khỏi thảm cảnh dở khóc dở cười của nông dân là “trúng mùa, rớt
giá” được mặc định bao năm nay? Bài toán ở đây là làm sao để sản phẩm nông nghiệp
có được đầu ra ổn định, làm sao để thương lái không ăn chặn và ép giá người sản
xuất? Vấn đề đặt ra là nếu anh đơn thương độc mã thì chắc chắn khó tránh khỏi
cái vòng luẩn quẩn ấy. Vậy thì cần thiết phải có sự liên kết tiểu vùng, thậm
chí liên kết vùng thì mới mong tạo ra được sức mạnh và sự cạnh tranh
sòng phẳng, hàng hóa nông sản mới đến được tận tay người tiêu dùng.
Những ngày lăn lộn ở trang trại, người cựu binh này nhận thấy
quỹ đất sản xuất ở địa phương còn rất lớn, thuận lợi cho việc xây dựng và phát
triển mô hình sản xuất chuyên canh. Đặc điểm thổ nhưỡng ở đây thích hợp để trồng
chanh và một số cây ăn quả có giá trị thương mại cao. Nông dân vốn giàu kinh
nghiệm trồng trọt. Một số công ty sẵn sàng hợp tác về kỹ thuật và cung cấp vật
tư với chất lượng bảo đảm, giá cả ưu đãi. Minh đã hoàn tất đề án xin phép thành
lập Hợp tác xã sản xuất-thương mại-dịch vụ nông nghiệp Bình Hòa. Chỉ
như vậy, anh mới đủ tư cách pháp nhân để chào hàng xuất khẩu với các đối tác nước
ngoài, đồng thời cung ứng nội địa. Quy mô ban đầu khoảng 40 hecta và 30 hộ
thành viên, Ban chủ nhiệm có đội ngũ kỹ sư nông nghiệp và cử nhân kinh tế tham
gia. Lĩnh vực hoạt động là sản xuất nông nghiệp và thương mại dịch vụ nông nghiệp.
Sản phẩm của HTX theo tiêu chuẩn VietGAP. Cây trồng chính là chanh không hạt
Limca, năng suất bình quân hằng năm mỗi cây cho khoảng 100kg. Trong tương lai,
hoàn toàn có thể phá triển thêm thêm cây mãng cầu gai (giống Thái), cây bơ…
Ngoài ra, trên diện tích canh tác có thể trồng xen canh các giống cây ngắn ngày
như: đu đủ, ớt và các loại hoa màu khác. Vốn đầu tư dao động từ 100-120 triệu đồng
cho một hecta. Theo tính toán, lợi nhuận bình quân thu được trên mỗi hecta vào
khoảng 400 triệu một năm. Quả là một con số biết nói!
Trước mắt vẫn còn nhiều gian nan. Khu vực đất canh tác nằm
trong vùng có mùa khô kéo dài, giống cây nào cũng cần tưới tiêu, song hệ thống
kênh mương dẫn nước thiếu trầm trọng, nơi có thì chưa hoàn chỉnh. Mùa lũ, nước
dâng cao đe dọa hệ thống đê bao. Ấy là chưa tính đến việc phải bơm tiêu nước,
khá tốn kém. Bên cạnh đó, đường sá không thuận cho việc vận chuyển hàng hóa vật
tư. Điện lưới mới chỉ đủ thắp sáng, việc phục vụ sản xuất còn nhiều bất cập.
Đúng là khó khăn nan giải mọi bề. Minh bảo lúc báo cáo ý tưởng xây dựng đề án,
về cơ bản là địa phương ủng hộ, song lãnh đạo xã và cơ quan chuyên môn vẫn còn
chút ngần ngại, lo lắng, bởi trước đây đã có mô hình hợp tác xã nhưng hoạt động
không hiệu quả.
Với bản tính khiêm nhường, tự tin và không hề lây nhiễm căn
“bệnh” hoành tráng, Minh lựa lời tìm sự ủng hộ của chính quyền, của Phòng nông
nghiệp huyện và của Liên minh Hợp tác xã. Việc thành lập HTX SX-TM-DVNN sẽ tạo
bước đột phá về tính hiệu quả trong sản xuất nông nghiệp; đồng thời phát huy được
thế mạnh của địa phương là quỹ đất sản xuất lớn, cây trồng phong phú và đa dạng.
Song điều quan trọng hơn cả là tạo ra việc làm ổn định cho người lao động địa
phương, thu nhập bình quân đầu người hàng tháng ước đạt từ 3,6-4,8 triệu đồng.
Dự án đầy lãng mạn này sẽ từng bước xóa đói giảm nghèo cho bà con nông dân vùng
căn cứ cũ, góp phần xây dựng nông thôn mới.
Giữa trưa nóng hầm hập, bất thần một cơn giông ập đến dữ dội.
Nền trời ngả sang xám xịt, trong thoáng chốc mặt đất đã sũng nước, nhão nhoẹt
bùn. Mưa lớn đến nỗi những người làm công chạy không kịp vuốt mặt. Họ khiêng giỏ
cần xé lặc lè chạy về kho. Nước dềnh ập lên bờ rất nhanh. Sau bữa cơm trưa đầm ấm,
lúc chia tay chúng tôi đành tách đôi vì không thể đi cả bằng đường bộ. Hai cánh
thủy bộ sẽ hội quân ở cầu kênh Hội Đồng Sầm. Chiếc ghe bầu do Minh cầm lái ậm ạch
nổ máy xé lục bình, hướng ra kênh xáng Trà Cú Thượng. Ngay cạnh bờ kênh, dưới vạt
tre, một cái rạp được kết hoa đỏ rực, chuẩn bị đám cưới. Bấy giờ mưa đã ngớt.
Giữa dòng kênh hoa lục bình nở tím ngát, xa xa rực vàng một màu bông điên điển.
Ngồi cầm lái, Minh cao hứng đọc câu ca:
“Canh chua điên điển cá linh
Ăn chỉ một
mình thì chẳng biết ngon”.
Tết này, mời mấy anh về nhậu cá lóc nướng trui.
Tôi gật đầu. Dường như hơi thở mùa xuân đang rất cận kề.
Nguyễn Minh Ngọc
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét