Trong mây đá vẫn nở hoa
Như hoa nở trên đá luôn gọi về nhiều cảm xúc, những
người đàn bà miền cao cứ để lại nhiều ngẫm nghĩ khôn nguôi. Vì thế, trong nhiều
chuyến đi về miền núi đá, cứ đọng hoài trong tâm khảm là những phận đàn bà ở
nơi thăm thẳm mù sương.
Niềm nhớ năm xưa nhắc ký ức trở lại với cụ bà, đã từng
gặp ở một bản thuần người Tày hẻo lánh nơi đầu nguồn sông Mã. Cụ bà ngồi gập
người xuống trên chiếc ghế dài bằng gỗ đặt ngoài hiên nhà. Người bà càng nhỏ
xíu hơn trong bộ váy áo Tày màu chàm, như lẫn nhòa với không gian chập choạng tối,
thêm tiếng muỗi dĩn vo ve càng gợi thêm cái âm u buồn vắng. Nhà bà thường chỉ
dùng đèn dầu, nhưng ngọn đèn chưa được thắp sáng nên ánh hoàng hôn còn sót lại
từ đỉnh núi hắt xuống sân là điểm sáng duy nhất trong mắt bà. Tôi không trò
chuyện được vì bà không biết tiếng phổ thông. Không có ai để hỏi, vì con cháu của
bà đi làm nương vẫn chưa về. Nếu là họa sĩ, tôi chắc sẽ vẽ bức tranh nền là bản
Tày vắng vẻ với con chó nằm bên đôi chân trần lấm đất của cụ bà, với nhan đề là
“chờ đợi”. Biết là bà đang chờ đợi con cháu trở về. Ngắm cụ bà vẫn thấy một sự
vững chãi như đá trên núi. Ngẫm ra ngôi nhà nào cũng cần một trái núi để dựa,
và bà già Tày như trái núi trước nhà cho con cháu dựa vào. Như tảng đá kê bậu cửa
cho ngôi nhà cao thêm, cho con cháu nhìn được xa hơn. Nghĩ vậy lại thấy cảm
giác an yên được trở lại trong lòng, cảm thấy thời gian trôi đi không phải là
cái gì đáng sợ hãi nữa. Trong đời người, chúng ta cần biết bao sự an yên trong
tâm hồn. Thêm nữa, biết kiên nhẫn đợi chờ là cũng là một kỹ năng cần phải học để
có thể đi hết hành trình cuộc đời. Nhìn bà cụ, tôi càng thấm thía cái điều mà
sách vở nhà trường không dạy, cuộc đời sẽ chỉ dạy cho ta bao bài học, nếu như
nhiệt tâm muốn học, và không có thời gian nào trong đời người là hoài phí.
Lại nữa, tôi chỉ được nhìn ngắm mà không được
nói chuyện cùng, vì hỏi gì cụ bà cũng trả lời bằng sự im lặng. Cụ bà người Mông
ở bản Hang Kia trên đỉnh núi mù sương của vùng cao Mai Châu, cứ một mực hướng
đôi mắt chăm chú nhìn vào ngọn lửa. Bàn tay thu trên gối, đôi chân có ngón nứt
nẻ đút trong đôi dép lê tổ ong, bắp chân to quấn xà cạp mới tinh, là nét đẹp
chuẩn mực của người đàn bà Mông. Cụ bà như không cần biết đến đám con cháu đang
tấp nập đi đi lại lại trong gian nhà bếp, con dâu lấy thịt, cháu dâu lấy rượu,
cháu trai mời khách, thỉnh thoảng họ lại dừng tay để hỏi cụ bà cái gì đó. Nhưng
cứ dửng dưng như mặc kệ, dường như những nhộn nhịp trong ngày Tết truyền thống
của người Mông không có tác động gì đến bà. Nhìn dáng ngồi lặng thinh nhìn ngọn
lửa cháy phừng phừng trong bếp, cảm giác như trí óc cụ bà đang lục tìm những
hoài niệm trong quá khứ? Sao mà cảm nhận rõ rệt đến thế về thời gian đang trôi
đi khắc khoải trong làn sương mờ mịt của ký ức.
Trong nhà bếp lớn ám đầy khói và đen kịt những
tầng bồ hóng, bộ váy áo Mông màu đỏ cùng màu xanh lam kèm màu tím rực rỡ như
cánh bướm mùa xuân mà bà mặc trên người lại càng như nổi bật hơn. Trên giàn bếp
treo lúc lỉu những xâu thịt lợn hun khói, mà dưới đó là cái nồi gang lớn sôi
sùng sục và đang bốc hơi nghi ngút trên bếp kiềng. Cụ bà người Mông ngồi lặng
thinh và nổi bật bên bếp củi ngùn ngụt lửa cháy ấy, càng giống như một bức
tranh tĩnh vật. Nhìn cụ bà già nua váy áo Mông sặc sỡ gắn liền vào chiếc ghế
mây màu trắng ngà đã ám khói, trên màu nền đen nhóng nhánh của những chùm bồ
hóng đung đưa trong gian bếp cũ kỹ như tạo ra một mảng màu riêng bí ẩn như huyền
thoại, mà vẫn đầy quyền uy. Nhiều lần trở lại miền núi cao, tôi vẫn thường
xuyên gặp những cụ bà ngồi lặng thinh bên bếp lửa cháy rừng rực. Phải chăng văn
hóa truyền thống của cộng đồng người Mông được lưu giữ bền vững đến thế cũng bởi
những người đàn bà lặng lẽ ngồi bên bếp lửa. Phải chăng đó là những người đã
nuôi giữ phong tục người Mông hàng trăm năm, đó là ngọn lửa không bao giờ được
tắt trong bếp.
Tôi tin vào điều ấy khi ngắm cô cháu gái nội của cụ
bà người Mông. Cô gái có khuôn mặt giống y hệt bà nội, chỉ khác vẻ xinh tươi
tràn trề nụ cười tươi roi rói, và đi lại nhanh thoăn thoắt ẩn hiện hết trong
nhà đến ngoài sân, di chuyển sang nhà hàng xóm ở triền đá bên kia nhanh như gió
thoảng. Với cô cháu gái nội ấy, tôi cũng chỉ kịp chụp ảnh cùng được đúng một bức
hình. Cũng chỉ hỏi được mỗi một câu để biết: Cô gái nhỏ đang học ở trường dân tộc
nội trú. Nhưng tôi cứ mong mỏi để tin rằng, cô cháu gái mang bản sao của bà nội
sẽ không chỉ mãi gắn đời mình với ngọn lửa trong gian bếp đầy bồ hóng. Cô gái
nhỏ sẽ mang sức sống kiên cường và an nhiên, hình như đó là những phẩm chất để
khiến người Mông từng vượt qua được các ngọn núi cao chất ngất trong cuộc đời.
Lại đã từng gặp người đàn bà im lặng như cái bóng ở bản
Lác của người Thái Mai Châu. Như có duyên nợ, cứ hễ đến bản là thế nào tôi cũng
phải qua ngôi nhà sàn cổ, có chiếc cầu thang mòn vẹt và vách gỗ trắng bợt, bạc
phếch bởi nắng mưa. Để ngắm nhìn người đàn bà ngồi dưới gầm nhà sàn đang cặm cụi
dệt thổ cẩm bên khung cửi bằng gỗ. Bà chưa bao giờ ngẩng lên, cho dù tôi cố sức
gợi chuyện nhưng không khi nào nhận được câu trả lời. Chỉ có một lần, khi người
đàn ông đang ngồi gọt cánh nỏ ở hiên nhà nói rằng bà ấy bị câm điếc, thì tôi mới
vỡ lẽ và từ ấy không hỏi han gì nữa.
Tôi ngắm nghía tấm thổ cẩm bà Câm đang dệt trên khung
cửi. Tôi mân mê những chiếc khăn, tấm váy, tấm chăn bà Câm đã dệt xong đang
treo trên sào nứa để bán cho du khách. Những tấm thổ cẩm màu sắc rực rỡ được
treo lên sào nứa kề bên gốc cây nhãn cổ thụ, phía trên rủ xuống những chùm
phong lan phi điệp và dã hạc đủ sắc màu. Có lần gặp nhóm khách Tây mua thổ cẩm
của bà Câm, sau khi xem xét kỹ lưỡng, họ nhìn vào giá tiền dán trên mẫu hàng để
đưa tiền. Đủ để nhận ra rằng, bao nhiều lời nói mĩ miều, thánh thót chắc bà đã
gửi hết cả vào những tấm thổ cẩm tưng bừng hoa lá như phong lan rủ từng chùm điệu
đà đón mùa xuân.
Tôi gặp em như gặp một niềm vui tưng bừng, như ánh nắng
mùa xuân xua tan màn sương mù u ám. Em tự hào là cô giáo ở cái bản em đang ở.
Em tự tin có niềm vui mỗi ngày là múa hát cùng các em học sinh. Em hãnh diện
khoe những tiết mục văn nghệ em và học trò tự dàn dựng, đi dự thi cấp huyện, cấp
tỉnh đạt giải nhất. Em là người mẹ hiền thục đảm đang của hai đứa con, gái và
trai. Tôi nhìn vào bếp lửa nhà em, thấy bánh dầy Mông trắng muốt xếp chồng lên
nhau trong góc bếp chờ khách. Em là người vợ hạnh phúc viên mãn khi chờ chồng
là anh bộ đội được về nhà mỗi cuối tuần nếu như không phải trực đơn vị.
Em kể ngoài giờ đến trường, em lên nương trồng ngô trồng
lúa. Em chỉ tôi xem mảnh vườn nhỏ trồng cây lanh để em tước sợi dệt vải lanh.
Tôi đã nhìn thấy khung cửi bằng gỗ như làm ấm áp cả hiên nhà. Em nói tấm váy
lanh màu cam rực rỡ em đang mặc đây là do em tự tay thêu, suốt hàng tháng trời.
Em kể để có một tấm vải lanh, phải ngâm và luộc cây đến nhừ, lại còn phải lọc
và tước sợi, vì thế đàn bà Mông luôn có cuộn lanh trên tay, làm lụng luôn chân
tay không ngơi nghỉ. Người Mông có tục lệ, khi về mường Trời, phải mặc tấm áo mới
dệt bằng sợi lanh thì Ma mường Trời mới nhận ra và cho đi qua cửa để gia nhập
vào cộng đồng người Mông ở trên Trời.
Tôi hình dung cô giáo bản Mông, như cái tên Giàng A
Sao cha mẹ đặt cho em, là ngôi sao kiên nhẫn mỗi ngày mọc bên đầu núi, là sợi
lanh mỏng manh như nét thoáng qua của hơi sương núi vừa bay qua. Chỉ mỏng như sợi
tơ trời nhưng lại bền dai vô cùng. Trong cộng đồng người Mông, em như sợi lanh
biết kết nối những sợi ngang sợi dọc để làm nên tấm áo lanh, giữ cho những nếp
văn hóa truyền thống không bị mai một. Em như một cánh cửa của ngôi nhà gỗ người
Mông mà tôi đã và đang cố gắng để mở được ra. Em như bờ rào đá, nếu nhìn bề
ngoài thì tưởng như tạm bợ nhưng lại vững chắc vô cùng, bởi cuộc sống người
Mông luôn lấy đá làm điểm tựa, khép rất kín và như chỉ đủ để mở ra trong lòng
đá.
Mùa xuân lên miền đá, tôi thường mang
theo về những dề phong lan. Nghĩ những nhành hoa mảnh mai ngậm bao nhiêu gió
sương để nở rực rỡ trên đá, làm cho đá núi cũng phải mềm đi như chân cứng đá mềm.
Người ta thường chỉ cảm nhận phong lan mang hương sắc nồng nàn là kết tinh của
bao mưa nắng miền đá, mà không hiểu nổi về sức sống mãnh liệt bên trong của
hoa. Phải chăng đó mới là điều làm cho những vẻ đẹp sinh ra trên đá luôn là cõi
riêng bí ẩn? Tục ngữ người Thái cũng có câu giống người Kinh “người ta là hoa đất”,
và những người đàn bà vùng cao thực sự là đóa hoa phong lan nở trong lòng đá
núi. Cũng lại giống như phong lan, những phận người đàn bà miền cao luôn níu bước
chân người trở lại. Tôi luôn mong hẹn ngày được trở lại với miền đá, để thấu hiểu
hơn về sức sống bền bỉ của những nhành hoa lan trên miền núi cao.
Hang Kia - Mai Châu 18/1/2016
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét