Các
loại nhạc cụ cổ truyền Việt Nam
Ngay từ thời cổ cư dân ở Việt Nam đã rất say mê âm nhạc. Đối
với họ âm nhạc là một nhu cầu không thể thiếu. Bởi vậy trong quá trình phát triển
lịch sử cư dân ở đây đã sáng tạo nên rất nhiều loại nhạc khí và thể loại ca nhạc
để bộc lộ tâm tư tình cảm, để có thêm sự phấn chấn và sức mạnh trong lao động,
trong chiến đấu, để giáo dục cho con cháu truyền thống của ông cha, đạo lý làm
người, để giao tiếp với thế giới thần linh trong tâm tưởng và để bay lên với những
ước mơ về một cuộc sống tươi đẹp, hạnh phúc trong hiện tại và trong tương
lai...
Trải qua bao biến thiên, ngày nay tại Việt Nam còn lưu giữ một
kho nhạc khí đủ loại từ những dạng đơn sơ nhất cho tới những dạng có sự phát
triển khá cao với những kỹ thuật diễn tấu tinh tế.
Tại đây ta có thể nghe những điệu hát ru, những bài đồng dao
của trẻ nhỏ, những thể loại ca nhạc trong các nghi thức cúng lễ hoặc dùng trong
việc giao tiếp giữa các thành viên cộng đồng, trong lao động, trong vui chơi giải
trí với những thể hát đố, hát đối đáp thi tài của trai gái, những điệu hát khi
chơi bài hoặc khi kể những áng trường ca, những câu ca tiếng đàn của những người
hát rong, của các ban "tài tử" cùng những thể loại ca kịch truyền thống...
Âm nhạc cổ truyền Việt Nam phong phú bởi sự tích đọng những
thể loại thuộc nhiều thời đại khác nhau và bởi cả tính đa sắc tộc. Cùng một thể
loại ca nhạc song ở mỗi sắc tộc lại có phương thức biểu hiện, diễn tấu và âm điệu
riêng. Điệu hát ru Việt khác ru Mường, ru Thái, ru Tây Nguyên... Có tộc dùng lời
ca tiếng hát để đưa trẻ vào giấc ngủ. Có tộc lại ru con bằng tiếng đàn, tiếng
sáo êm ái.
Xưa kia âm nhạc cổ truyền đã từng đóng một vai trò rất quan
trọng trong đời sống của người Việt Nam. Ngày nay nó vẫn giữ một vị trí đáng kể
trong xã hội. Một số thể loại ca nhạc vẫn tồn tại trong cuộc sống dân dã. Một số
khác đã bước lên sân khấu, tiếp tục làm đẹp cho đời và phát huy tác dụng trong
cuộc sống mới.
(Nguồn: internet)
Trong kho tàng văn hóa âm nhạc dân tộc Việt Nam, đàn bầu được
coi là nhạc cụ độc đáo và hấp dẫn nhất. Tiếng đàn du dương, trầm lắng khiến ai
đã nghe một lần thì thật khó quên. Chẳng thế mà các cụ ngày xưa đã kín đáo nhắc
nhủ: "Làm thân con gái chớ nghe đàn bầu"
"Cung thanh là tiếng mẹ, cung trầm là giọng cha. Ngân
nga em hát, tích tịch tình tang"
Dường như âm thanh mộc mạc, chân quê nhưng sâu lắng đến vô
cùng của cây đàn bầu, hoà quện với tấm lòng của tác giả đã tạo nên những vần điệu
chất chứa trong bài hát ru ấy. Điều gì đã kiến cho cây đàn bầu có sức quyến rũ
độc đáo đến như vậy?
Có nhiều cách giải thích khác nhau về sự xuất hiện của cây
đàn bầu trong kho tàng văn hoá dân gian. Chỉ từ trò chơi trống đất của trẻ em đồng
bằng Bắc bộ là đào hố và căng dây qua lỗ đất, khi đập nghe tiếng bung bung mà
các cụ ngày xưa đã cho ra đời nhạc cụ mang tên đàn Bầu, được làm từ ống tre và
quả bầu khô. Từ thời nhà Lý, đàn Bầu đã xuất hiện, nhưng thời ấy nhạc cụ này chỉ
được dùng để đệm cho những người hát xẩm. Thời gian qua đi cây đàn dần được cải
tiến, đàn được làm từ những chất liệu tốt hơn như gỗ, sừng. Ông Đỗ Văn Thước, một
nghệ nhân làm đàn Bầu nói "cuộc sống và mọi sinh hoạt của nông dân Việt
Nam đều bắt nguồn từ cây tre: ống nước, ống cơm, rổ rá, đòn gánh, Bởi vậy, để bảo
vệ bụi tre họ lấy dây rừng buộc quanh gốc tre, thấy âm thanh phát ra từ đó như
những cuộc giao lưu tình cảm khiến người nông dân xưa nghĩ đến việc hạ tre
thành cọc căng dây tơ cho âm thanh hay hơn, rồi sử dụng vỏ quả bầu dài làm hộp
cộng hưởng". Song có lẽ tất cả cũng chỉ là những giả thuyết. Còn thực tế
thì cây đàn bầu đã gắn bó với làng quê con người Việt Nam từ bao đời nay còn
chưa ai biết.
Cái độc đáo ở đây là cây đàn cấu trúc rất đơn giản. Chỉ với một
dây nhưng nó diễn tả được mọi cung bậc của âm thanh và tình cảm. Âm thanh cũng
mang sức quyến rũ lạ kỳ, gần với âm điệu tiếng nói của người Việt, bởi vậy mà
đàn Bầu trở thành nhạc cụ được mọi người ưa thích.
Để có được cây đàn như ý, người làm đàn phải rất công phu
trong việc chọn lựa chất liệu. Cây đàn phải hội đủ hai yếu tố "Mặt ngô
thành trắc", có nghĩa là mặt đàn phải làm bằng gỗ cây ngô đồng sao cho vừa
xốp vừa nhẹ, thớ gỗ óng ả, thẳng thì mới có độ vang. Khung và thành đàn làm bằng
gỗ trắc hoặc gụ, vừa đẹp lại vừa bền. Cần rung, còn gọi là vòi đàn được làm từ
sừng trâu. Bầu đàn được lấy từ quả bầu khô hoặc tiện bằng gỗ.
Cũng có nhiều ý kiến khác nhau trong vấn đề cấu tạo cây đàn.
Người thì cho rằng nên kéo dài đàn ra để có được tiếng trầm hơn hoặc đổi đàn bầu
thành hai dây (một cao, một thấp), hai cần và mở to thùng đàn ra, nhưng cuối
cùng tất cả đều không phù hợp. Việc dùng vòi đàn để căng dây lên hoặc hạ chùng
dây xuống đã tạo ra nhiều âm thanh và cao độ khác nhau. Cần đàn đóng vai trò
quan trọng trong việc tạo ra các sắc độ âm thanh khác nhau và làm cho tiếng đàn
tròn, mượt. Mặt đàn với thới gỗ óng ả, khi kết hợp với hộp cộng hưởng sẽ tạo
nên những âm thanh vang, trong. Đàn còn được trang trí nhiều hoa văn hoặc khảm
trai với các hình ảnh miêu tả cảnh sinh hoạt phong phú của người dân Việt Nam.
Ngày nay người ta thường có xu hướng thay thế đàn gỗ bằng đàn điện, kéo dài và
làm mỏng thân đàn để tạo âm trường và tiếng vang hơn.
Đàn Bầu thể hiện một cách thành công những làn điệu dân ca
khác nhau của từng vùng, từng miền của dân tộc. nó còn có thể diễn tấu rất hay
những giai điệu của nước ngoài, từ nhạc dân gian đến nhạc nhẹ.
Phải trăng vì sự độc đáo có một không hai của cây đàn Bầu mà
mỗi khi nhắc đến Việt Nam, nhiều khác nước ngoài đã cây đàn bầu như một biểu tượng
của Việt Nam "Đất nước đàn Bầu". "Quê hương đàn Bầu". Nhà
thơ nữ người Pháp MeRay đã thốt lên: "Cây đàn Bầu thật giống với con người
Việt Nam. Nghèo của cải mà giàu lòng nhân ái, giản dị mà thanh tao, đơn sơ mà
phong phú".
(Nguồn: internet)
Đàn đáy là nhạc khí đặc trưng trước kia chỉ dùng để đệm cho một
thể loại hát duy nhất với hai nhánh mà ngày nay người Việt thường gọi là Hát cửa
đình và Hát ả đào (hoặc Ca trù). Chỉ nam giới mới chơi nhạc cụ này. Có lẽ đàn
được sáng tạo từ thế kỷ XV với sự định hình của thể loại hát nói trên.
Cũng có những phím cao nhưng cần đàn rất dài nên đàn đáy thuộc
loại nhạc cụ trầm và có một kỹ thuật độc đáo là ngón chùn làm cho âm thanh bị
thấp xuống so với ngón bấm bình thường.
Âm sắc trầm, đục, ấm nhưng ngắn của đàn đáy tạo nên sự tương
phản làm nổi bật âm sắc của những người bạn hoà tấu với nó.
Ngoài thể loại nói trên, ngày nay đàn đáy còn được dùng để đệm cho ngâm thơ. Bởi tính chất khiêm tốn, nhũn nhặn của tiếng đàn trong khi đệm cho hát, có người đã ví đàn đáy như một "triết gia ẩn dật".
Ngoài thể loại nói trên, ngày nay đàn đáy còn được dùng để đệm cho ngâm thơ. Bởi tính chất khiêm tốn, nhũn nhặn của tiếng đàn trong khi đệm cho hát, có người đã ví đàn đáy như một "triết gia ẩn dật".
(Nguồn: internet)
Tên gọi mà người Ba Na và Ê-đê dùng để chỉ loại đàn một dây
dùng cật tre làm cung kéo của một số tộc sống trên dọc Trường Sơn - Tây Nguyên
như Ba Na, Gia-rai, Ê-đê, Xê-đăng, Pa-kô, Hrê...
Thân đàn là một khúc nứa, tre hoặc gỗ tròn nhỏ, không có bầu
cộng hưởng. Trên thân có gắn phím bấm. Dây đàn được mắc dọc theo thân đàn. Cung
kéo chỉ là một đoạn tre nhỏ hoặc một thanh tre khi diễn tấu người ta cọ phần cật
vào dây.
Cấu trúc đơn giản nhưng nét đặc sắc của k'ni là ở phương thức
khuyếch đại âm thanh và thay đổi âm sắc bằng khoang miệng nhờ một sợi dây nối từ
dây đàn tới miệng người kéo đàn. Vừa kéo cung và bấm vào phím tại những vị trí
khác nhau trên dây để tạo nên các cao độ, người chơi đàn vừa thay đổi khẩu hình
lúc khép lúc mở theo lời thơ họ muốn diễn đạt. Âm thanh của đàn do đó bị biến dạng
theo, nghe gần như tiếng người. Những người hiểu tiếng dân tộc và quen nghe
K'ni có thể hiểu được nội dung ca từ mà nhạc công truyền đạt qua tiếng đàn.
Chính vì vậy có tộc cho rằng "k'ni hát". Có nơi đồng bào Ê-đê còn sử
dụng k'ni để đọc những bài thơ xen vào khi kể Chơ-nắc.
Âm lượng nhỏ và với đặc tính như trên, k'ni chủ yếu là nhạc
khí để bộc lộ tâm sự, tình cảm của các chàng trai với các cô gái vào những lúc
thanh vắng tĩnh mịch. Đôi khi người Ê-đê cũng dùng k'ni để đệm cho hát khóc
trong lễ tang. Gần đây k'ni cũng bắt đầu được khai thác và giới thiệu trên sân
khấu ca nhạc chuyên nghiệp.
(Nguồn: internet)
Cây đờn cò (nhị) đã có mặt trong nền âm nhạc truyền thống Việt
Nam từ lâu đời, đã trở nên thân quen và gần gũi với mọi người dân Việt Nam, nó
được trân trọng quí báu như cổ vật gia bảo. Đờn cò đóng góp một vai trò vô cùng
quan trọng và đắc lực không thể thiếu trong các dàn nhạc dân tộc Việt Nam ta từ
xưa đến nay.
Người dân Nam bộ gọi là "đàn cò" vì hình dáng giống
như con cò, trục dây có đầu quặp xuống như mỏ cò- Cần đờn như cổ cò - thân đờn
như con cò - tiến đờn nghe lảnh lót như tiếng cò. Trong các dàn nhạc phường bát
âm, ngũ âm, nhã nhạc, chầu văn, sắc bùa, nhặc tài tử, cải lương dàn nhạc dân tộc
tổng hợp, dân ca... đều có đờn cò.
(Nguồn: internet)
Đàn nguyệt được sử dụng rộng rãi trong dòng nhạc dân gian
cũng như cung đình bác học cổ truyền của người Việt. Xuất hiện trong mỹ thuật
Việt Nam từ thế kỷ XI, cho tới nay nó vẫn giữ một vị trí rất quan trọng trong
sinh hoạt âm nhạc của người Việt và là nhạc cụ chủ yếu dành cho nam giới.
Nhờ có cần tương đối dài và những phím cao, nhạc công có thể
tạo được những âm nhấn nhá uyển chuyển, mềm mại.
Tiếng đàn trong, vang, khả năng biểu hiện phong phú- khi thì
sôi nổi ròn rã, lúc lại nỉ non sâu lắng, do đó đàn nguyệt có mặt cả trong những
cuộc hoà tấu nhạc lễ trang nghiêm, những cuộc hát văn lôi cuốn, những lễ tang
bùi ngùi xúc động cũng như những cuộc hoà tấu thính phòng thanh nhã với những
hình thức diễn tấu khác nhau: đệm cho hát, hoà tấu và độc tấu.
(Nguồn: internet)
Được hình thành trong ban nhạc từ thế kỷ XI đến thế kỷ thứ
XIV. Thời Lý - Trần đờn tranh chỉ có độ 15 dây, nên bấy giờ gọi là "Thập
ngũ huyền cầm" và được dùng trong ban "Đồng văn, nhã nhạc" (Đời
Lê Thánh Tôn thế kỷ thứ XV). Sau này được dùng trong cả ban nhạc giáo phường.
Thời Nguyễn (thế kỷ thứ XIX) được dùng trong ban "nhạc Huyền" hay
"Huyền nhạc". Lúc bấy giờ được xử dụng với 16 dây nên được gọi là
"Thập lục huyền cầm".
Hình dáng đờn dài, có 16 dây bằng kim loại. Mặt đờn nhô lên
hình vòng cung. Từ trục đờn đến chỗ gắn dây đờn, khoảng giữa của mỗi dây đều có
một con nhạn gọi là "Nhạn đờn" để tăng âm, lên dây đờn từ nửa cung đến
một cung, khi đờn cần chuyền đổi dây, về sau này đờn tranh rất thông dụng được
đứng thứ ba trong bộ tam tuyệt của dàn nhạc tài tử.
Vì đờn tranh được thiết kế theo hình thức nhiều dây, nên khi
tấu nhạc, đờn tranh phát ra âm thanh đanh tiếng, sắt tiếng hơn khi tấu chữ, đờn
thường là "song thanh", ví dụ khi hết một câu hay hết một đoạn nhạc,
hoặc một láy đờn nào đó thường lặp lại một nốt, một chữ nhạc của láy đờn (hò -
líu, xàng - xang, xề - xê...).
(Nguồn: internet)
Với người Tây Nguyên lời ca tiếng đàn luôn luôn là nguồn cổ
vũ trong đời sống. Đêm đêm qua ngọn lửa hồng dưới mái nhà rông người ta kể
Khan, kể H'mon và hát lên những làn điệu dân ca Jôn-jơ, đợi chờ, giã gạo...
Nói tới âm nhạc Tây Nguyên không thể không nhắc tới kho tàng
nhạc khí hết sức phong phú với nhiều loại, nhóm và chất liệu khác nhau. Hầu hết
các nhạc khí cổ thường dùng chất liệu sẵn có trong thiên nhiên như sáo, tiêu,
goong rel, tù và, k'lông pút và T'rưng.
Đàn T'rưng là một loại nhạc khí "thô" được chế tác
từ những khúc gỗ bóc vỏ phơi khô hoặc những ống nứa vót một đầu, chặt theo những
độ dài khác nhau để tạo nên những âm vực ưng ý đem treo lên một cái giá đủ trở
thành một cây đàn gõ "phím" cho một hoặc hai người diễn tấu bằng cách
cầm những dùi tre gõ vào phím này.
Đàn T'rưng thường được diễn tấu bên trong nhà rông hoặc ngoài
trời vào các dịp lễ hội truyền thống hay trong sinh hoạt cộng đồng của các dân
tộc người Banah, Jarai, Êđê...
T'rưng có khả năng diễn tấu phong phú và đa dạng. Với nguồn
âm thanh bất tận khi êm nhẹ theo giai điệu trữ tình của một khục hát giao
duyên, khi hoà cùng dàn nhạc tấu lên bản hợp tấu của núi rừng hùng vĩ... Trong
giao lưu văn hoá T'rưng cũng xuất hiện trên các sân khấu ca nhạc hiện đại phụ
hoạ theo tiếng hát rực lửa của những người con Tây Nguyên, nâng cánh cho những
giọng ca vàng vang đến mọi nơi chốn xa xôi.
Là một loại nhạc cụ đặc sắc trong kho tàng nhạc khí Tây
Nguyên, âm thanh độc đáo của T'rưng không chỉ lôi cuốn làm say đắm tâm hồn các
dân tộc anh em trên đất Việt, mà còn ra khỏi biên giới ngân vang đến tận những
vùng đất xa xôi và được các bạn bè khắp năm châu, bốn bể nhiệt tình đón nhận.
Trải qua quá trình sàng lọc với bao biến thiên của lịch sử,
đàn T'rưng đã và sẽ tồn tại mãi mãi cùng với các dân tộc Tây Nguyên và cộng đồng
dân tộc Việt.
(Nguồn: internet)
Một trong số không nhiều nhạc khí dành cho nữ giới. Tên gọi
tiếng Xê-đăng này đã trở nên phổ thông để chỉ loại nhạc khí hơi của một số tộc
trên Tây Nguyên như Xê - đăng, Ba Na, Gia - rai, Hrê...
Klông pút là một dàn gồm 2 - 3 cho tới 5 - 12 ống nứa, lồ ô
hoặc tre cỡ tương đối lớn. Đường kính các ống khoảng 5 - 8 cm, chiều dài 60 -
120 cm, có khi 20 - 200 cm. Có loại Klông pút kín một đầu và có loại rỗng hai đầu.
Khi diễn tấu các ống được đặt nằm ngang vừa tầm tay người vỗ trong tư thế đứng
lom khom hoặc quỳ. Dùng hai bàn tay khum vỗ vào nhau trước miệng ống, các cô
gái tạo nên luồng hơi lùa vào ống làm vang lên âm thanh.
Klông pút được coi là nhạc cụ gắn với sản xuất nông nghiệp và
là nơi trú ngụ của Mẹ Lúa. Vì vậy Klông pút là nhạc cụ của giới nữ và chỉ được
chơi trên rẫy vào mùa tra lúa và trong buôn làng vào ngày lễ đóng cửa kho lúa
hoặc vào dịp tết của tộc và lễ hội ăn lúa mới với số lượng bài hạn chế. Ngày
nay Klông pút đã được đưa lên sân khấu ca múa nhạc chuyên nghiệp để diễn tấu
nhiều loại bài bản khác nhau.
(Nguồn: internet)
Nhạc khí tự thân vang, thuộc loại xylophone, metallophone. Mỗi
nhạc cụ là một bộ gồm nhiều thanh đá hợp thành. Mỗi thanh đá có kích thước và
hình dáng khác nhau, được chế tác bằng phương pháp ghè đẽo thô sơ. Vật liệu để
làm đàn là những loại đá sẵn có ở vùng núi Nam Trung Bộ và Đông Nam Bộ.
Căn cứ vào bộ đàn tìm được ở di chỉ khảo cổ học Bình Đa (Đồng
Nai) được biết rằng việc chế tác những thanh đá này đã xuất hiện từ trên dưới
3.000 năm trước.
Cho tới những năm đầu thập kỷ 90 đã tìm được gần 200 thanh
đàn đá rải rác ở các tỉnh Đắc Lắc, Khánh Hoà, Đồng Nai, Ninh Thuận, Sông Bé,
Lâm Đồng, Phú Yên. Số lượng thanh ở mỗi tập hợp được phát hiện là 3-15. Bộ đầu
tiên tìm được tại Ndut Lieng Krak (Đắc Lắc) vào năm 1949 hiện được bảo quản tại
viện bảo tàng "Con người" ở Paris. Nhiều bộ khác đang được bảo quản tại
Việt Nam.
Một số tộc ở Tây Nguyên coi những thanh đá được phát hiện như
những vật thiêng và giữ gìn như của gia bảo. Có tộc dùng chúng trong những lễ hội
lớn để cúng thần, có tộc lại dùng làm đàn đá giữ rẫy.
(Nguồn: internet)
Bẳng tăng là nhạc khí tự thân vang, không định âm của người
Thái và một số cư dân khác sống ở Tây bắc Việt Nam.
Bẳng tăng được làm bằng nứa. Đó là những ống nứa nhỏ rỗng hai
đầu, đường kính khoảng 5 - 7 cm, dài khoảng 30 - 40 cm.
Bẳng tăng là nhạc khí của nữ giới. Khi chơi. Mỗi cô gái hai
tay cầm hai ống nứa, dập hai ống vào nhau tạo âm thanh theo những mô hình tiết
tấu qui định để phụ họa, làm nền cho các điệu múa. Đôi khi các cô gái vừa diễn
Bẳng tăng vừa nhảy múa, lúc này Bẳng tăng có vai trò vừa là nhạc cụ vừa là đạo
cụ múa.
Âm thanh của Bẳng tăng vang nhưng không trong. Bẳng tăng thường
được diễn tấu vào những dịp lễ, hội và những đêm liên hoan của thanh niên trai
gái.
Mõ
Mõ được xếp là một nhạc khí tự thân vang, phổ biến ở Việt
Nam. Trên thực tế mõ được sử dụng vào các môi trường khác nhau và có những chức
năng khác nhau.
(Nguồn: internet)
1. Mõ chùa làm từ các loại gỗ chắc, cứng, hình dạng thường gặp
hình cầu dẹt với nhiều kích cỡ to nhỏ khác nhau: Cỡ to nhất có đường kính khoảng
70 - 80 cm, cỡ vừa đường kính 20 - 30 cm và cỡ nhỏ đường kính 5 - 7 cm. Tất cả ở
giữa đều rỗng, khoét theo hình lòng máng. Dùi gõ mõ cũng làm bằng gỗ, kích cỡ của
dùi to nhỏ tương xứng với kích cỡ của mõ. Âm thanh của mõ gỗ giòn, âm vang sâu lắng.
Trong chùa mõ được sử dụng khi tụng kinh với vai trò điểm nhịp đều theo lời tụng.
2. Mõ làng có nhiều loại: Có loại làm bằng gỗ cứng hình cá trắm
dài khoảng 1 m, to, khoét dài rỗng theo bụng cá và thường treo ở điếm làng. Có
loại làm bằng gốc tre già gọt theo hình trăng khuyết, đường kính từ 15 - 20 cm,
ở giữa có khoét một rạch rỗng. Trong đời sống nông thôn người Việt xưa, mõ có
chức năng thông tin. Mõ được làng giao cho một người đàn ông phụ trách, thượng
được gọi là “thằng mõ” hay “anh mõ”. Vào những dịp có việc làng hoặc những sự
kiện đột xuất cần thông báo “anh mõ” có nhiệm vụ gõ mõ thông tin cho khắp các
gia đình trong làng.
3. Mõ trâu được làm bằng gỗ hoặc gốc tre già hình hộp đứng. Mặt
đáy khoét rỗng thông với mặt trên. Mặt đáy hình chữ nhật với chiều dài từ 20 -
25 cm, chiều rộng từ 10 - 15 cm. Mặt trên hình chữ nhật với chiều dài, dài hơn
chiều dài của mõ và ở giữa buộc 2 đoạn gỗ dài hơn chiều cao của mõ khoảng 1 cm.
Người ta buộc mõ vào cổ trâu. Khi trâu chuyển động, đi lại, 2 đoạn gỗ gõ dều đặn
vào thành trong của mõ phát ra âm thanh nghe lách cách vui tai.
4. Mõ thuộc bộ gõ, không định âm, tham gia hòa tấu trong các
dàn nhạc sân khấu và nhiều loại hình ca hát khác. Cấu tạo của mõ loại này thường
làm bằng tre già, hình trăng khuyết như mõ làng, ở một số dàn nhạc tuồng, chèo
còn dùng mõ gỗ như mõ chùa, kích cơ vừa phải, đường kính từ 10 - 25 cm. Ngày
nay mõ còn được dùng trong các tốp nhạc dân tộc mới và trong dàn nhạc dân tộc tồng
hợp. Đặc biệt tham gia vào dàn Đại nhạc Huế hiện nay có loại mõ làm bằng sừng
trâu. Mõ này làm từ sừng trâu cong, cắt bỏ phần đầu nhọn, lấy phần gốc dài chừng
10 - 15 cm. Âm thanh của mõ sừng trâu vang, khỏe.
(Nguồn: internet)
Mõ là nhạc cụ tự họ thân vang, chi gõ của dân tộc Việt. Mõ
làm bằng củ tre đực, hình bán nguyệt, có khoét một đường rỗng ở giữa. Khi sử dụng,
một tay để mõ nằm trong lòng bàn tay, một tay cầm dùi gõ lên thân mõ. Âm sắc của
Mõ trầm, ấm.
Mõ thường được sử dụng để đánh nhịp một, giữ nhịp cho người
hát hay đàn và Mõ có thể đánh dồn nhanh trong thi nhịp, đổ khổ gây không khí.
(Nguồn: internet)
Là nhạc cụ họ tự thân vang, chi gõ của dân tộc Việt. Được làm
bằng một đoạn sừng trâu dày, dài 12 cm. Người ta phải chọn loại sừng hình cong
tiếng mới đẹp và vang. Khi diễn tấu nhạc công một tay cầm mõ, còn một tay cầm
dùi gõ vào thân mõ. Âm thanh của mõ sừng trâu to, khỏe, vang. Mõ tham gia trong
dàn nhạc tuồng, dàn nhạc lễ, dàn đại nhạc của cung đình, hoặc hòa tấu cùng tù
và, ngà voi, vỏ ốc biển...
(Nguồn: internet)
Ưng Quái là tên gọi của dân tộc Cơ Tu hiện sinh sống ở Quảng
Trị để chỉ nhạc cụ này. Là nhạc cụ khá độc đáo và phổ biến trong sinh hoạt âm
nhạc của dân tộc Cơ Tu và nhiều dân tộc khác ở Việt Nam. Mỗi dân tộc đều có tên
gọi riêng cho nhạc cụ này như: Người Thái (phía Bắc) gọi là "Hưn
Toóng", người Mường là "Páng Tơ ính", hay người Việt gọi là
"Đàn Môi"...
Ưng Quái làm bằng đồng dát mỏng hình lá tre dài khoảng 8 cm,
người ta đục thủng 2 đường theo hai cạnh của một hình tam giác cân để làm một
lưỡi gà sao cho lưỡi gà này có thể rung tự do được.
Có nhiều ý kiến cho rằng "Ưng Quái" có thể xếp vào
họ hơi, hay họ dây. Lại có ý kiến cho rằng nên xếp nhạc cụ này vào họ tự thân
vang. Cǎn cứ vào nguồn phát âm của nhạc cụ, ta thấy khi chơi đàn, người chơi cầm
đàn cho 2 môi giữ chặt lấy 2 cạnh của đàn. Tay trái giữ đàn, tay kia dùng ngón
trỏ bật vào đàn. Chấn động rung sẽ thay đổi khẩu hình để tạo ra những âm bồi
khác nhau. Cũng có dân tộc dùng dây buộc vào lá đồng, lấy ngón tay gẩy tạo ra
âm thanh. Vì thế xếp nhạc cụ này vào họ tự thân vang là hợp lý.
Âm sắc của Ưng Quái đặc biệt, huyền ảo, thì thầm hơi có tiếng
rè. Ưng Quái rất thích hợp trong không gian yên tĩnh, trữ tình cho thanh niên
nam nữ tâm tình. Trong đêm khuya, tiếng đàn vang lên đối đáp nhau thể hiện tình
cảm một cách tế nhị, nên người Cơ Tu luôn coi Ưng Quái là một người bạn không
thể thiếu trong cuộc sống của họ.
(Nguồn: internet)
Thanh la là tên gọi một nhạc cụ thuộc họ tự thân vang, chi gõ
của dân tộc Việt. ở miền Nam gọi là Đẩu, miền Trung gọi là Tang.
Được làm bằng đồng kim hợp thiếc có pha chì, hình tròn. Thanh
la có nhiều cỡ to, nhỏ khác nhau, đường kính 15 - 25 cm, mặt hơi phồng, xung
quoanh có thành cao 4 cm, ở cạnh thanh la người ta dùi hai lỗ thủng để xỏ một sợi
dây quai. Khi diễn tấu nhạc công cầm dây quai dơ lên, còn một tay cầm dùi gõ
vào mặt thau tạo ra tiếng vang, trong trẻo.
Thanh la được sử dụng trong dàn đại nhạc, dàn nhạc lễ miền
nam, trong ban nhạc chèo, chầu văn và dàn nhạc dân tộc tổng hợp.
(Nguồn: internet)
Là nhạc khí tự thân vang, chi gõ của dân tộc Việt. Trống Đồng
được đúc bằng đồng cả vành và tang trống. Theo cách phân loại của F.Heger, Trống
Đồng có 4 loại chính:
Loại 1 là loại Trống Đồng lớn, cổ xưa nhất. Ngôi sao ở giữa mặt
trống thường có 12 cánh. Một số trống có tượng cóc ở mép mặt trống. Thân trống
phần trên phình ra, phần giữa thắt lại và phần dưới choãi ra, có 4 quai.
Loại 2: Có cả loại lớn và vừa. Ngôi sao ở giữa mặt trống thường
có 8 cánh. Mặt trống chờm ra khỏi tang. Rìa mặt trống có từ 4 - 8 tượng cóc, có
2 quai, trang trí hoa văn hình hoa lá đối xứng hoặc hình học.
Loại 3: Thường là loại vừa và nhỏ. Ngôi sao có 12 cánh hoặc 8
cánh, có 4 tượng cóc ở mép trống, thân trống phần trên và dưới hình viên trụ,
phần giữa thon lại, quai nhỏ.
Loại 4: Đường kính mặt trống thường có kích thước trung bình
50 cm, cao 45 - 50 cm. Mặt trống phủ vừa sát đến thành thân trống, ngôi sao ở
giữa mặt trống 12 cánh. Thân trống chia ra 2 phần: Phần trên phình ra đỡ lấy mặt
trống, phần dưới hình viên trụ tròn có 4 quai. Hoa vǎn trang trí hình động vật:
Rồng, Khỉ, không có tượng cóc trên rìa mặt trống. Trống được đúc bằng hợp kim đồng,
nhưng tiếng không trong, không vang xa như trống đồng loại 1.
Trống Đồng được gõ bằng dùi có mấu hoặc bọc vải da. Người
đánh trống tay phải cầm dùi đánh vào mặt trống, tay trái cầm một thanh tre gõ
vào tang trống tạo ra rất nhiều âm sắc khác nhau:
- Khi đánh vào núm giữa (được đúc dầy hơn), âm thanh nghe có
cảm giác trầm hơn so với các vị trí khác.
- Đánh vào vành hoa văn cho cảm giác trong, vang.
- Khi đánh vào các con cóc, âm thanh phát ra sắc, gọ, ngắn.
Âm thanh Trống Đồng vang, khoẻ, hùng tráng. Trống Đồng được sử
dụng trong Đường thượng chi nhạc (Thời hậu Lê), trong dàn Nhã nhạc thế kỷ XV,
XVI và trong dàn nhạclễ thể kỷ XVIII. Hiện nay chỉ còn thấy trong đời sống văn
hóa các dân tộc Khơ Mú, Lô lô và dân tộc Mường thường sử dụng Trống Đồng với tư
cách là một nhạc cụ trong tang lễ. Trống Đồng là một hiện vật văn hóa tiêu biểu
mà cha ông ta đã để lại. Là một nhạc khí quan trọng trong nền âm nhạc dân tộc cổ
truyền Việt Nam.
(Nguồn: internet)
Là nhạc khí tự thân vang của dân tộc Việt, gồm 2 chiếc thanh
la cỡ nhỏ làm bằng đồng thau, đường kính khoảng 10 cm, một chiếc thành thấp, một
chiếc thành cao, với hai âm cao thấp cách nhau quãng nǎm đúng. Tiu cảnh được
treo trong hai vòng tròn của một chiếc khung có tay cầm bằng gỗ. Khi biểu diễn
nhạc công tay trái cầm tiu, tay phải cầm que tre có mấu gõ vào mặt thau tạo ra
âm thanh cao, vang, lảnh lót. Tiu cảnh tham gia trong ban nhạc chầu vǎn, dàn
bát âm, ban nhạc cúng lễ.
(Nguồn: internet)
Được xếp vào nhạc cụ họ tự thân vang, chi gõ của người
Kh’mer. Rôneathung làm bằng gỗ hoặc tre cứng với độ dày mỏng, dài ngắn khác
nhau trông giống như một chiếc thuyền, nên còn được gọi bằng một tên khác là
đàn thuyền.
Gồm 17 thanh gỗ dài từ 31 - 42 cm, rộng 6 cm. Các thanh gỗ
này được xâu bằng 2 sợi dây rồi treo trên giá. Giá đàn làm từ gỗ dài 120 cm, rộng
16 cm đồng thời làm bầu cộng hưởng. Khi diễn tấu đàn được sử dụng bằng 2 chiếc
dùi gỗ có mấu tròn ở đầu.
Rôneathung được sắp xếp theo thang âm 7 cung chia đều, tiếng
Roneathung trầm, to, vang khoẻ. Dùng cho nam giới diễn tấu trong dàn nhạc dân tộc
Kh’mer Nam Bộ, dùng trong hát, múa và ca múa kịch dân tộc hay trong dàn ngũ âm.
(Nguồn: internet)
Chũm chọe còn gọi là Não bạt, là nhạc khí tự thân vang của
dân tộc Việt. Chũm chọe làm bằng hợp kim đồng thiếc, gồm hai chiếc giống nhau,
hình tròn như chiếc đĩa, có núm để cầm. Khi đánh chũm chọe, hai tay cầm hai
núm, dập hai mặt vào nhau, có lúc dập chéo xuống, chéo lên. Người sử dụng chũm
chọe vừa đánh, vừa múa. Âm thanh chũm chọe to, vang, hơi chói tai. Chũm chọe được
sử dụng trong dàn nhạc của cung đình, trong sân khấu tuồng, cải lương, trong
đám rước sư tử và tham gia trong dàn nhạc dân tộc tổng hợp hoà tấu.
(Nguồn: internet)
Chuông là nhạc cụ họ tự thân vang, chi gõ của dân tộc Việt.
Chuông được làm bằng đồng thau, có đường kính từ 15 - 23 cm, chuông có hình giống
như cái bát để ngửa. Khi sử dụng người ta cầm một dùi gõ bằng gỗ bọc vải một đầu
gõ vào thành chuông tạo ra âm thanh trong trẻo lảnh lót.
Chuông được sử dụng trong đường thượng chi nhạc, trong dàn nhạc
huyền, dàn nhã nhạc hoặc tế lễ trong các đền chùa.
(Nguồn: internet)
Ching Kram - nhạc cụ họ tự thân vang chi gõ đấm của dân tộc
Êđê, là nhạc cụ dành cho nam giới dùng để hòa tấu trong sinh hoạt vui chơi giải
trí.
Ching Kram gồm 6 - 7 thanh tre dài 31 - 43 cm, dầy 1 cm, bản
rộng 4,2 - 5,3 cm. Mỗi thanh có kèm theo 1 dùi gõ và một ống tre dài 20 - 25 cm
làm bầu cộng hưởng. Khi diễn tấu người sử dụng kẹp ống cộng hưởng vào giữa hai
chân, tay cầm dùi gõ vào thanh tre tạo ra âm thanh nghe ròn rã vui tai rất
thích hợp với không khí vui chơi giải trí.
(Nguồn: internet)
Chiêng Honh là nhạc cụ họ tự thân vang chi gõ đấm của dân tộc
Gia Rai.
Dàn chiêng honh được làm bằng đồng gồm 11 chiêng núm đường
kính 19,5 - 83 cm và 13 chiêng bằng đường kính 25, 5 - 53 cm. Là nhạc cụ thiêng
rất phổ biến ở Gia Rai, được nam giới sử dụng trong nghi lễ tín ngưỡng như: Hội
đâm trâu, hội Pơthi, lễ bỏ mả, hội ǎn mừng lúa mới... dàn chiêng hòa nhịp vang
lên là tiếng nói của con người với các đấng thần linh.
Chùm Ma Hính
Là nhạc cụ tự thân vang chi rung lắc, được dùng để điểm nhịp
khi người Thái chơi đàn tính cũng như khi đệm cho múa xòe.
Chùm ma hính gồm 3 - 5 chiếc làm bằng đồng, đường kính 1,5 -
2,5 cm buộc thành chùm. Có nhiệm vụ giữ nhịp trong đội nhạc, khi diễn tấu người
ta đeo chùm ma hính vào ngón tay rung theo tiếng nhạc, âm thanh vang lên nghe rộn
rã, khoẻ và sáng.
(Nguồn: internet)
Ân Toong là nhạc cụ họ tự thân vang chi gõ của dân tộc Tà
ôi.
Ân Toong gồm 7 thanh gỗ đường kính 6 -11 cm dài 41 - 72 cm,
phần giữa của mỗi thanh được đẽo võng thành 7 thanh đàn. 7 thanh đàn này sắp xếp
từ thấp đến cao buộc vào 2 sợi dây mây rồi treo dốc trên giá đàn. Hai dùi gõ bằng
gỗ dài khoảng 20 cm. Ân toong là nhạc cụ do nam giới sử dụng để độc tấu, hòa tấu
trong sinh hoạt thường ngày và đuổi chim thú đến phá hoại hoa màu.
(Nguồn: internet)
Luống - là cái cối đập lúa và giã gạo của dân tộc Thái. Nó
cũng là nhạc cụ dùng để độc tấu và đệm cho hát trong sinh hoạt vui chơi giải
trí. Được xếp vào họ tự thân vang, chi gõ.
Luống được làm bằng gỗ, thân hình thuyền dài 224 cm, rộng 40
cm. Để biểu diễn luống cần có 7 người con gái (gồm 6 con 1 cái), mỗi người cầm
một chiếc chày bằng gỗ dài khoảng trên 100 cm gõ vào thành luống thành những tiết
tấu vui nhộn.
(Nguồn: internet)
Đao - Đao là nhạc cụ họ tự thân vang chi gõ đập của dân tộc
Khơ Mú, một dân tộc sống ở vùng Lai Châu, Sơn La.
Đao - Đao làm từ một ống nứa dài chừng 1m đến 1,2 m (một đầu
kín, một đầu hở), đường kính ống khoảng 3 - 4 cm. ở phần 2/ 3 ống đàn người ta
vát ngược hai bên ống, để lại mỗi phía một mảnh có chiều dài chừng 30 cm rồi gọt
mỏng bớt phía cật và làm tròn cạnh. Phía ống hơi, gần mấu có khoét 2 lỗ bấm để
tạo ra 3 cao độ.
Khi chơi Đao - Đao, tay phải cầm ống, cùng lúc ngón cái và
ngón trỏ của tay phải bấm lỗ bấm, rồi gõ ống vào tay trái theo những tiết tấu
nhất định. Khi gõ hai mảnh nứa rung lên gây ra tiếng rè rè và tiếng vang rất nhỏ
ở ống hơi.
Người Khơ Mú dùng Đao - Đao tạo nhịp điệu cho múa, cho
hát. Có thể nói Đao - Đao là nhạc cụ linh hồn trong sinh hoạt múa hát đời
thường và trong sinh hoạt nghi lễ của người Khơ Mú.
đại lý vé eva air
ve may bay eva di houston
số điện thoại hãng korean air
săn vé máy bay đi mỹ giá rẻ
vé máy bay đi canada tháng nào rẻ nhất
Nhung Chuyen Di Cuoc Doi
Ngau Hung Du Lich
Tri Thức Du Lịch