Duyên thơ và nhạc
Thực ra, thơ và nhạc đã có mối duyên tình thắm thiết
ngay từ bản thể. Nói xe duyên, chỉ là trong những trường hợp cụ thể của từng
bài thơ được phổ nhạc để trở thành tác phẩm âm nhạc mà thôi.
Quả vậy, tiếng nói người Việt có tới 6 thanh âm, còn âm nhạc
thì có 7 nốt cơ bản. Như thế, về giai điệu, đã có một sự tương đồng. Thơ người
Việt, trừ thơ mới - thơ tự do có sau này, còn trong và theo truyền thống thì
thường có cấu trúc gọn gàng, đặc biệt là với thể loại thơ lục bát, ngũ ngôn, tứ
tuyệt, thất ngôn bát cú… với 5 - 7 chữ một dòng, 4 dòng một khổ, khoảng 3 - 5
khổ một bài. Chỉ nhìn về hình thức, thấy rằng thơ đã có cấu trúc như một ca
khúc.
Trên thực tế thơ ca dân gian, nhiều trường hợp thơ và nhạc
cùng ra đời một lúc, như nhiều bài dân ca quan họ. Cũng có khi thơ được phổ nhạc
sau. Lại có khi nhạc có sẵn làn điệu, cứ việc “phổ lời” là thành bài ca. Trường
hợp này phổ biến trong dân ca Việt Nam. Ví dụ, từ bé, tôi đã thuộc giai điệu “Khúc
ca hoa trúc”, hoặc “Lới lơ”, hoặc “Con gà rừng”… mà nhiều
nhạc sĩ “phổ lời” theo những nội dung khác nhau, thường được giới thiệu
trên Đài TNVN là “đặt lời mới theo điệu…” nào đó. Rồi chèo, xẩm, ru con… và ngay
cả quan họ, đều có những làn điệu đã định hình, chỉ việc đặt lời mới là thành
bài ca có nội dung mới. Thế mới nảy sinh vấn đề “bình cũ rượu mới”, làm sao “rượu
mới” phải phù hợp với “bình cũ” chứ không nên tùy tiện đặt bừa lời không ăn nhập
với tinh thần của làn điệu. Còn với tân nhạc, việc phổ nhạc cho thơ đã thành phổ
biến từ khá lâu. Ở Việt Nam, tình hình này là phổ quát trong dòng nhạc tiền chiến
và sau đó được nhiều nhạc sĩ Việt Nam áp dụng suốt thế kỷ 20. Trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ cứu nước, nhiều bài thơ vừa ra đời đã được phổ nhạc, trở thành động
lực tinh thần cho đồng bào, chiến sĩ vượt qua gian khổ, ác liệt để giành thắng
lợi. Một trường hợp đặc biệt, là nhà thơ Tạ Hữu Yên có tới 154 bài thơ được phổ
nhạc, trong đó có nhiều bài đã đi cùng năm tháng, như “Đất nước”, “Cảm xúc
tháng mười”, “Bàn tay mẹ”…
Điều tôi muốn đề cập kỹ hơn một chút trong bài này, là cách
thức phổ nhạc cho thơ để tạo ra một ca khúc. Tôi cũng chỉ dám nói đến cách phổ
nhạc thông thường, theo cảm xúc cộng với kỹ năng cơ bản, chứ không phải là theo
kỹ thuật cao siêu mà một số nhạc sĩ đã giới thiệu.
Phổ nhạc cho thơ, có mấy điểm cần lưu ý như sau:
Về mặt tâm lý, nhà thơ rất quý trọng những đứa con tinh thần
của mình. Thơ được phổ nhạc, nhà thơ quý lắm. Nhưng, nhà thơ mong muốn đứa con
tinh thần của mình giữ được hình hài cơ bản khi khoác áo giai điệu, chứ bị biến
dạng quá, thì cũng thấy tui tủi thế nào ấy! Bởi thế, muốn phổ nhạc cho thơ, bên
cạnh yếu tố cảm xúc - sự đồng cảm giữa nhạc sĩ và nhà thơ - mang tính quyết định
- thì yếu tố cấu trúc thơ rất quan trọng. Nếu chọn bài thơ có dung lượng quá lớn
thì chỉ có thể phổ nhạc theo kiểu phỏng thơ, trích thơ. Nếu chọn bài thơ trúc
trắc vần điệu, câu chữ dài ngắn tự do, cũng phải cắt xén, dồn sửa… hoặc cũng chỉ
có thể dựa vào ý thơ mà làm lời mới cho ca khúc. Cho nên, thuận nhất là chọn những
bài thơ có dung lượng vừa phải, cấu tứ gọn gàng, lời thơ dung dị, sáng sủa. Tất
nhiên, điều mang tính quyết định chung nhất là bài thơ phải có nội dung và nghệ
thuật hay, có tính nhân văn phổ quát với con người và phải khiến nhạc sĩ rung động
mạnh mẽ. Có thể kể ra đây hàng loạt ca khúc phổ thơ được lựa chọn theo hướng
này, như “Thơ tình cuối mùa thu”,“Giàn thiên lý”, “Thuyền và biển”, “Em
đi chùa Hương”, “Một mùa xuân nho nhỏ”, “Ở hai đầu nỗi nhớ”, “Chiều” (đều
là thơ 5 - 6 chữ), “Trường Sơn Đông - Trường Sơn Tây”, “Quê hương”,
“Tháng sáu mưa”, “Biển, Nỗi Nhớ và Em”, “Chia tay hoàng hôn”, “Thời hoa đỏ” (Trên
6 chữ, trong khoảng 7 - 8 chữ một dòng)…
Tuy nhiên, thơ là thơ và nhạc là nhạc, mỗi thể loại có đặc
tính riêng, không thể trộn lẫn hoàn toàn, do vậy, khi phổ nhạc cho thơ, thường
phải thay đổi lời cho phù hợp với nhạc. Những nhạc sĩ tài năng biết cách điều
chỉnh lời thơ để nhạc không bị chạy theo thơ, đồng thời vẫn giữ nguyên được thần
thái của thơ. Nhiều trường hợp, nhạc sĩ tước đi những câu thơ có tính chất dẫn
dắt hoặc mở rộng để tập trung vào một chủ đề của thơ và nhạc.
Trong thực tế sáng tác, có những bài thơ quá ngắn, nhưng vẫn
được phổ thành một ca khúc hoàn chỉnh. Đó là nhờ nhạc sĩ dùng thủ pháp điệp ngữ
- sử dụng một hai câu thơ nhưng nhắc đi nhắc lại với nhiều giai điệu khác nhau.
Thơ không cho phép đọc đi đọc lại quá nhiều lần một câu. Nhưng nhạc, thì lại
cho phép sự láy lại nhiều lần một câu thơ với những giai điệu khác nhau.
Riêng với thơ lục bát, có thuận lợi là giai điệu gần như có sẵn.
Tuy vậy, đây lại là điểm thử thách tài năng của nhạc sĩ. Nếu dễ dãi chạy theo vần
điệu, có thể nhạc sẽ đơn điệu, xuôi chiều, không phát triển được. Đồng thời,
thơ lục bát thường phù hợp với loại nhịp 3/4 hoặc 6/8, nếu cứ chạy theo tiết tấu
của thơ, thì nhạc sẽ bị dàn trải, khó tạo nên cao trào. Cho nên, với loại thơ lục
bát, nhạc sĩ hoặc là sử dụng một phần lục bát, phần khác chuyển sang thơ 5 - 7
chữ chẳng hạn, hoặc dùng điệp từ, điệp ngữ để phá thế dàn trải, tạo sự thay đổi
về tiết tấu cho ca khúc có đất phát triển. Riêng với ca khúc “Đóng nhanh
lúa tốt”, nhạc sĩ Lê Lôi phổ nhạc nguyên vẹn bài thơ thể lục bát cùng tên
của nhà thơ Thâm Tâm, mà rất linh hoạt, uyển chuyển, hấp dẫn, trở thành bài ca
đi cùng năm tháng, là một trường hợp độc đáo vô cùng.
Mỗi bài thơ thể hiện cảm xúc, suy tư riêng của nhà thơ, cần
được nhạc sĩ đồng cảm. Từ đó, nhạc sĩ chọn giọng điệu, tiết tấu cho phù hợp. Với
tâm trạng buồn, giọng thứ là thích hợp. Nhạc sĩ Thuận Yến nói rằng ông rất
thích giọng La thư, bởi giọng này nghe buồn nhưng chỉ man mác, nhẹ nhàng, không
bi thảm. Cùng với đó, tiết tấu cần vừa phải, có lúc dàn trải. Ngược lại, với
tâm trạng vui tươi, lại phải chọn giọng trưởng với tiết tấu nhanh, sôi động.
Cũng nói thêm là, khi phổ nhạc cho thơ, nhạc sĩ chớ “quên”
ghi tên tác giả thơ như nhiều trường hợp đã xảy ra ở nước ta. Phổ thơ hay phỏng
thơ hoặc trích thơ, thậm chí mượn ý thơ, thì cũng vẫn phải ghi tên tác giả thơ.
Nhạc sĩ Phú Quang cho biết, dù chỉ lấy một ý của thơ, ông vẫn ghi tên tác giả
thơ là đồng tác giả ca khúc. Còn một trường hợp quá đặc biệt, là nhạc sĩ dựa
vào thơ để sáng tác nhạc không lời! Đó là bài thơ “Chiều Hương Giang” hồn
hậu thuần khiết của Nguyễn Khoa Điềm đã trở thành cảm hứng cho nhạc sĩ người Mỹ
gốc Nhật Paul Chihara viết ra một giao hưởng với ngôn ngữ âm nhạc rất hiện đại
mang tên “An Afternoon on the Perfume River” dài 12 phút do Dàn nhạc
Giao hưởng Odense trình tấu và thu âm dưới sự chỉ huy của nhạc trưởng Paul
Mann, phát hành CD năm 2003. Khi ấy, thơ không hề hiện lên một câu chữ nào mà
chỉ hóa hồn vào âm nhạc, nhưng nhạc sĩ vẫn ghi tên nhà thơ trong tác phẩm!
Cuối cùng, có thể thấy mối quan hệ anh em ruột thịt giữa thơ
và nhạc giúp cả hai nâng bước, chắp cánh cho nhau tỏa rộng, đi sâu vào cộng đồng.
Một bài thơ đã nổi tiếng, khi được nhạc chắp cánh, càng bay cao, bay xa hơn. Một
bài thơ mới sáng tác hoặc ít được biết đến, nếu được nhạc sĩ phổ nhạc thành một
ca khúc hay, sẽ có cơ hội đến với đông đảo công chúng và được yêu mến. Mặt
khác, một bài thơ đã nổi tiếng, ca khúc phổ nhạc bài thơ ấy sẽ được công chúng
đón nhận hồ hởi hơn.
Nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu, trong một bài trả lời phỏng vấn về
việc phổ nhạc cho thơ, có nói: “Sự kết hợp của nhạc sĩ và thi sĩ luôn. khiến
tác phẩm trở nên đẹp và đáng nhớ hơn. Vì nhạc sĩ hiếm khi nào trau chuốt được từng
câu, từng chữ như thi sĩ đã làm với bài thơ của mình. Và chiều ngược lại, cho
dù bài thơ có tính nhạc thế nào, cũng khó bằng được một bài nhạc với những âm
giai trầm bổng thật sự. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là đem phổ nhạc một
bài thơ là chuyện dễ dàng. Chính vì lẽ đó, tôi luôn tranh cãi tới cùng khi có
ai không công nhận tài năng của một nhạc sĩ nào đó, bằng quan điểm cho rằng vì
thiếu vốn ngôn từ nên các nhạc sĩ mới phải mượn những vần thơ. Nhạc sĩ khi phổ
nhạc cho thơ, phải cảm được bài thơ sâu sắc hơn nhiều so với độc giả khi đọc bài
thơ ấy. Và nếu họ truyền được cho độc giả cái thứ cảm nhận đó, ấy là họ đã
thành công’’.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét