Tết Nguyên tiêu ra đời từ thời nhà Hán, với đèn lồng,
câu đố, thơ ca, bánh trôi. Tết Nguyên tiêu có lịch sử lâu đời, nội hàm phong
phú, hôm nay chúng ta sẽ cùng xem lại những điển tích lịch sử để tìm hiểu về Tết
Nguyên tiêu thời thịnh thế nhà Đường và nhà Tống.
Tết Nguyên tiêu nhà Đường, sắc xuân tràn ngập
Từ thời nhà Đường, vào ngày rằm tháng Giêng hàng năm, đại môn
ở khu dân cư được mở rộng và thắp đèn lồng. Thời đó, khu dân cư và khu thương mại
được tách riêng, đại môn ở đây là chỉ chiếc cổng lớn của khu dân cư.
Năm Khai Nguyên thứ 24 (năm 736), Đường Huyền Tông xây thêm một
bức tường bao bọc bên ngoài tường thành lầu Cần Chính, từ đó lầu ở phía trước lầu
Cần Chính trở thành đài quan sát, quảng trường dưới chân lầu trở thành nơi ca
hát của cung đình. Mỗi năm đến dịp rằm tháng Giêng, Đường Huyền Tông cùng các
hoàng thân quốc thích và các trọng thần lên lầu ngắm đèn xem kịch. Khi tối đến,
các cung nữ đến trước lầu ca múa. Có câu thơ rằng: “Tam bách nội nhân liên tụ
vũ, nhất thởi thiên thượng trứ từ sinh.” (Ba trăm cung nữ múa tay áo, Nhất thời
thi phú vọng hoàng cung.)
Trong lễ hội Tết Nguyên tiêu của Đường Huyền Tông có ca vũ, tạp
kỹ, ma thuật và rất nhiều hoạt động dân gian thú vị khác.
Đèn lồng Tết Nguyên tiêu cũng có hàng trăm kiểu, dài ngắn mỏng
dày, rực rỡ, thanh nhã, mỗi kiểu đều mang một màu sắc độc đáo riêng. Từ những
đèn lồng màu vàng thời nhà Hán, đến nhà Đường, các thợ thủ công đã tạo ra lầu
đèn tráng lệ. Những người thợ thủ công ở kinh đô đã xây hai mươi lầu đèn tại
cung Thượng Dương của Đường Huyền Tông, mỗi lầu một trăm năm mươi thước. (Hàn
Ngạc, “Tuế hoa ký lệ - Thượng nguyên đăng lầu”)
Cung Thượng Dương này chính là nơi Mai Phi viết “Nhất hộc
châu”. Sau khi lầu đèn ở cung Thượng Dương được xây dựng xong, vị đạo sỹ nổi tiếng
trong lịch sử Diệp Pháp Thiện đã từ Thánh Chân quán đến thưởng ngoạn. Ngắm nhìn
cung Thượng Dương lấp lánh ngọc ngà châu báu cùng hơn hai mươi lầu đèn rực rỡ,
Diệp Pháp Thiện đã khen ngợi rằng đây quả là khí phách của hoàng thất, đèn lồng
trong cung không giống như đèn lồng bình thường, sau đó nhẹ nhàng nói, đèn lồng
ở Kinh Châu không thể sánh được với đèn lồng hoàng thất, nhưng cũng đáng để xem
một lần. Đường Huyền Tông nghe thấy vậy liền hỏi, lẽ nào ngài đã từng xem đèn lồng
ở Kinh Châu? Thời điểm đó cả hai đều ở Trường An thời gian dài, Kinh Châu thuộc
Vũ Uy tỉnh Cam Túc ngày nay. Diệp Pháp Thiện nói, tôi vừa từ đó trở về. Đường
Huyền Tông tò mò nói trẫm cũng muốn đi xem. Diệp Pháp Thiện nói điều này đơn giản.
Thế là ông bảo Đường Huyền Tông nhắm mắt lại, dùng công phu, một lúc sau Đường
Huyền Tông mở mắt ra thấy mình đã ở Kinh Châu. Huyền Tông vui chơi ở Kinh Châu
một lúc rồi trở về, lúc này màn ca vũ trong cung vẫn chưa kết thúc. Việc xảy ra
trong đêm Nguyên Tiêu đó, ngày nay pháp thuật không còn được gọi là ma thuật nữa.
Sau lần đó, Đường Huyền Tông không còn nghi ngờ bản sự của Diệp
Pháp Thiện nữa. Năm Khai Nguyên thứ mười tám, vua hỏi Diệp Pháp Thiện nói hôm
nay nơi nào náo nhiệt nhất? Ông trả lời, Quảng Lăng. Huyền Tông nói, ta muốn đến
đó xem. Trong nháy mắt, trước điện xuất hiện một chiếc cầu cầu vồng, ông nói với
vua, cầu đã xây xong. Đường Huyền Tông đưa Dương Phi, Cao Lực Sỹ và nhạc cung
lên cầu, một lát là đến Quảng Lăng. Huyền Tông rất vui, cho nhạc cung diễn tấu
một khúc “Nghê thường vũ y khúc” rồi hồi cung. Mười mấy ngày sau quan thượng
thư tại Quảng Lăng nói, vào ngày rằm tháng Giêng có mấy vị thần tiên đến tấu một
khúc “Nghê thường” rồi đi. Huyền Tông nghe thấy vậy rất vui.
Vào thời Đường Duệ Tông, một người xin thắp hàng trăm nghìn
ngọn đèn ở trước lầu Huyền Vũ để cúng Phật, mọi người trong đô thành đều nô nức
đến xem.
Từ những bức vẽ tại Đôn Hoàng cho thấy, vào thời Đường, Tống,
cứ vào ngày rằm tháng Giêng, người Đôn Hoàng thường tổ chức lễ thắp đèn rất
long trọng, vương công quý tộc và những người dân thường cùng nhau tham gia lễ
hội. Trong “Hà Tây tiết độ sứ đại vương bảo sát nhiên đăng văn”, cuốn sách từ
hàng nghìn năm trước đã viết, vào một dịp lễ Nguyên Tiêu từ năm 964 đến năm 974
sau Công nguyên, vị quan cai quản ở khu vực Đôn Hoàng “Hà Tây tiết độ sứ đại
vương” Tào Nguyên Trung, đã tổ chức hội đèn lồng ở hang Mạc Cao, vị quan cao nhất
địa phương chủ trì nghi thức đèn lồng, và có văn kiện ghi chép. Điều này cho thấy
rằng thời đó ngày Tết Nguyên tiêu được tổ chức long trọng trên khắp cả nước, cả
trong và ngoài Trung Nguyên đều có tinh thần sùng Phật tín Đạo.
Tết Nguyên tiêu thời Tống – Thịnh thế phồn hoa với ánh đèn rực
rỡ huy hoàng
Nhà Tống đã nối tiếp tập quán của nhà Đường, trước sau tết
Thượng Nguyên mấy ngày, trong thành đã thắp đèn, cổng lớn ở đại nội rực rỡ đèn
lồng, nhạc đội cung đình biểu diễn các tiết mục đặc sắc. Hoàng thượng đến đạo
quán thưởng thức, sau đó lên lầu đèn lồng, hoặc là Đông Hoa Môn và Đông Tây
Giác lầu để ngắm đèn, dự yến tiệc cùng các đại thần. Các sứ thần nước láng giềng
cũng góp vui theo đội ca múa của bản quốc. Hoàng thành được trang trí bởi những
chiếc đèn lồng sắc màu. Buổi tối cửa thành cũ được mở cho đến tận sáng để cho mọi
người đọc sách và người dân có thể đến chơi, hoạt động này được kéo dài đến
ngày mười bảy và mười tám. Đến năm Chính Hòa, Tống Huy Tông hạ chiếu treo đèn
năm ngày. Ngày mười tám tháng Giêng thì cất đèn, sau một khúc hát cuối cùng thì
bắt đầu tháo đèn lồng xuống: “Lâu đài tịch mịch thu đăng dạ, Lý hạng tiêu điều
tảo tuyết thiên.”
Vào Tết Thượng Nguyên năm Kiến Long thứ hai, Tống Thái Tổ lên
lầu Minh Đức ngắm đèn, khoản đãi các đại thần trong triều yến tiệc Tết Nguyên
tiêu, sứ giả Giang Nam và Ngô Việt cũng tham gia. Người nước ngoài ở phương Tây
và phương Nam thì được mời ở lầu dưới, cùng thưởng thức yến tiệc đến nửa đêm.
Ngày mười bốn tháng Giêng năm nguyên niên Chân Tông Cảnh Đức,
tổ chức tiệc mặn, tiệc chay. Những sứ giả nước láng giềng đến cống nạp cũng được
mời tham dự, đây cũng là lễ tiết ngoại giao và thể hiện sức mạnh của triều đình
nhà Tống.
Tác giả của “Đông Kinh mộng hoa lầu” có viết, vào tối ngày rằm
tháng Giêng, hoàng thượng đưa thái tử, hậu phi và các cung nhân lên lầu Tuyên Đức
để ngắm đèn lồng dưới phố. Tết Nguyên tiêu thời nhà Tống phồn thịnh biết bao. Tất
cả mọi thứ được chuẩn bị từ mùa đông năm trước cho đến sau tết.
Theo “Đông Kinh mộng hoa lầu”, sau khi Dương Phi nhập cung, mỗi
khi đến đêm Thượng Nguyên, cho thắp hàng nghìn ngọn nến lớn để cầu phúc. Đến
triều Tống, vào Tết Nguyên tiêu quan phủ địa phương có thể treo hàng nghìn ngọn
đèn lồng, việc này cũng chỉ chiếm phần nhỏ so với thực lực kinh tế của triều Tống.
Sau Tống thất nam độ, sự đề cao đời sống tinh thần không hề
thuyên giảm. Xu hướng “Tam thu quế tử, thập lý hà hoa” khiến cho cuộc sống trở
nên thú vị hơn. Từ sau ngày đông chí của năm trước người Bắc Tống đã chuẩn bị
cho Tết Nguyên tiêu, còn ở Nam Tống, từ sau lễ đèn hoa cúc tết Trùng Dương của
năm trước mọi người bắt đầu chuẩn bị đèn lồng cho Tết Nguyên tiêu. Khi đó đèn lồng
của Tô Châu và Phúc Châu là đẹp nhất thiên hạ, sau đó là đèn lồng của Tân An.
Có đèn lồng còn được trang trí bằng mai rùa. Đèn lồng pha lê nhìn giống như một
quả cầu pha lê lấp lánh. Đèn lồng châu tử với vòng tròn ngũ sắc bao quanh, còn
đèn da dê thì nhìn giống như màn kịch rối đặc sắc.
Đèn lồng bằng lụa có rất nhiều, thú vị nhất là “vạn nhãn la”.
Chúng ta hiện nay chỉ có thể tưởng tượng vẻ đẹp của những chiếc đèn lồng thời
xưa qua những trang sách sử. Trên đèn lồng còn có hội họa, thơ ca, lời bình để
người xem có thể thưởng thức.
Còn có đèn lồng tơ lụa nức tiếng được làm từ loại tơ cao cấp
nhất và dệt thành hình của nhân vật, “có thiên nhân, quỷ thần, hình rồng, cung
điện, tinh tế sắc sảo, kỳ diệu vô cùng.” (Thiết vi sơn tùng đàm).
Trong “Võ Lâm cựu sự” còn ghi lại một câu chuyện về việc cạnh
tranh để đèn lồng được trưng bày trước hoàng thượng. Có một nhà quý tộc nọ làm
đèn lồng bằng tre và thêm vào đồ trang trí màu sắc, hoàng thượng nhìn thấy rất
thích, cho làm hàng trăm chiếc đèn lồng như vậy. Những thợ thủ công trong cung
hổ thẹn vì không làm được, vắt óc suy nghĩ xem làm thế nào để đèn lồng được đẹp
hơn nữa. Họ dùng vải hoàng thảo để làm, tô thêm màu sắc vào, nhìn giống hệt với
đèn lồng bằng tre, tổng cộng hai ngày đã làm xong một trăm chiếc đèn cho hoàng
cung. Điều này cũng cho thấy có rất nhiều chất liệu có thể làm ra đèn lồng,
ngay cả tờ giấy mỏng cũng có thể làm được đèn lồng.
Từ thời thịnh thế Đường Tống cho đến thời nhà Thanh, Tết
Nguyên tiêu luôn là ngày Tết quan trọng. Đến nay một số vùng ở Tây Nam vẫn gọi
Tết Âm lịch là tiểu niên, còn Tết Nguyên tiêu là đại niên. Từ hàng nghìn năm
trước không khí Tết Nguyên tiêu thật rộn ràng với những chiếc đèn lồng rực rỡ,
khác hẳn so với Tết Nguyên tiêu ngày nay!
Nguyên Xuân
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét