Có người đã nói với tôi rằng: Văn chương Thạch Lam chẳng có
gì là hay cả, từ truyện ngắn Gió lạnh đầu mùa, Dưới bóng hoàng lan, cho đến Hai
đứa trẻ toàn là những chuyện vụn vặt của đời sống hết sức tầm thường được xây dựng
trên tổ hợp của lối văn nhạt nhẽo. Thực sự đọc văn của Thạch Lam thà rằng đọc mấy
cái.. Tin vắn lại còn hay hơn! Tôi thật e ngại cho người đó! Người đó trái tim
sắt đá ư? Tâm hồn người đó không có cảm xúc ư? Hay là người đó chỉ thích tiếp
xúc với những loại văn chương kinh dị, trinh thám, kiếm hiệp...? Nếu mà là như
vậy thì người đó dù có đọc đến hàng trăm, hàng nghìn những tác phẩm của Thạch
Lam đi chăng nữa hẳn ý tưởng ấy vẫn không hề thay đổi được.
Trái với nhận định trên, đối với tôi văn chương của Thạch Lam
như một thiếu nữ chân quê, mộc mạc, giản dị, song đằm sâu trong từng câu chữ, lời
văn là bao nhiêu cung bậc tình cảm. Có thể nói nhà văn thiên về khai thác thế
giới tâm linh nhiều hơn hơn là xây dựng những tình tiết gay cấn, ly kỳ... Một
trong những truyện ngắn hay, xuất sắc như thế của Thạch Lam phải kể tới Hai đứa
trẻ rút trong tập Nắng trong vườn xuất bản năm 1938. Trong truyện ngắn này, nhà
văn nói đến nhiều vấn đề quan trọng và ánh sáng cũng là một trong những vấn đề
quan trọng ấy có thể chuyển tải nội dung thành ý tưởng tác phẩm.
Với dáng hình dịu nhẹ, mỏng thoáng của từng câu chữ, với một
đề tài vụn nhỏ, Thạch Lam đã thọc sâu ngòi bút của mình mà ngoáy lên những cảnh
vật, những tâm trạng thật khiến cho những người có cảm xúc rung động đến bất tận,
suy nghĩ đến nao lòng. Bao nhiêu cảnh vật dường như se lạnh khi tiếng trống thu
không treo lơ lửng âm thanh vào tai mỗi người. Và ngày qua, đêm đến, ta thấy có
rất nhiều ánh sáng hiện lên trước phố huyện tiêu điều, xơ xác... Song ánh sáng
mà nhà văn đặc biệt quan tâm, chú ý thì chỉ có hai loại. Đó là, ánh sáng của
chiếc đèn nhỏ của mẹ con chị Tý và ánh sáng của đoàn tàu, ấy mới là biểu tượng
cho khung trời phố huyện với ước mơ quá đơn sơ, với khát vọng quá mong manh vào
tương lai tươi sáng hơn ở ngày mai khi bóng đêm đặc kịt trên nền trời u ám.
Cái buồn trước đêm tối cứ thả vào hư không sẽ bớt đi rất nhiều
thê thảm, nếu không có những hoạt động tẻ nhạt, buồn bã, gờn gợn và ánh sáng nhỏ
mọn do con người tạo ra. Nhưng con người hy vọng vào một điều viễn vọng thì vẫn
phải hoạt động để giành lại sự sống đi đến hạnh phúc cho mình. Chính vì thế, mẹ
con chị Tý: Ngày, đi mò cua, bắt ốc; tối đến chị mới dọn cái hàng nước này dưới
gốc cây bàng, bên cạnh cái miếu gạch với một chiếc đèn Hoa Kỳ không đủ ánh sáng
để soi rõ mặt người...
Ngọn đèn nhỏ mọn ấy buồn rầu leo lét, hưu hắt vắt vào khoảng
trời đầy bóng đêm. Bóng đêm bao vây tứ phía và chỉ cần một ngọn gió nhẹ cũng có
thể làm cho số phận của chiếc đèn vụt tắt giữa mênh mông trời đất. Chị em Liên
nhìn vào vũ trụ thăm thẳm, bao la để kiếm tìm những vì sao có hình sông Ngân,
có hình cầu Ô Thước và hình con vịt theo sau lão Thần Nông. Nhưng vũ trụ nó làm
mỏi ý nghĩ của con người nên hai chị em Liên chỉ một lát lại chúi nhìn về mặt đất,
về luồng sáng thân mật chung quanh ngọn đèn lay động trên chõng hàng của chị
Tý. Ngọn đèn của chị tý leo lét như nỗi buồn đã mang theo tháng năm, như cuộc sống
im ỉm mà phố huyện nơi đây đương tẻ nhạt, khoác một tấm áo đêm thùi thũi đi về.
Cho dù có cố gắng đến bao nhiêu đi chăng nữa, ánh sáng ấy chỉ chiếu sáng một
vùng đất nhỏ mà thôi. Một vùng đất nhỏ dưới tán bàng héo úa, tàn lụi, rơi rớt
vài giọt sương đêm khỏa vào nỗi buồn mỗi ngày lại nhịp lên mênh mang
xuyên qua lòng phố huyện, rồi lại ủ rũ bên cạnh cái mốc gạch. Số phận của con
người cứ quanh đi, quẩn lại như thế theo phức điệu nhàn nhạt mà xã hội thực dân-
phong kiến mang lại.
Quán hàng với ánh đèn của chị Tý nghiêng đọng một nỗi buồn
như thế, một nỗi buồn mà ngày nào còn trong trí nhớ: Ôi chao sớm với muộn mà
có ăn thua gì?, Giờ muộn thế này mà họ chưa ra nhỉ? Nhưng họ vẫn phải đi kiếm kế
sinh nhai, vì thế ngọn đèn của chị Tý cũng lóe lên cho mình sự đam mê quyến rũ một sắc buồn để hút mọi tầm mắt lao tới mà thưởng thức, mà chiêm ngưỡng. Nhà
văn đã tả ngọn đèn của chị Tý khác hẳn so với các ánh sáng khác như: ánh sáng
chiếc đèn của nhà bác Phở Mỹ, ánh sáng leo lét trong nhà ông Cửu, ánh sáng xanh
trong hiệu khách, ánh đèn chập chờn như ma trơi của bác Siêu, cho đến ánh sáng
của những ngôi sao sa, ánh sáng của chú đom đóm lập lòe...thì đều chỉ góp phần
tô đậm thêm cho nỗi buồn nơi quán nước có ánh sáng từ chiếc đèn chị Tý mà thôi.
Vì thế mà ánh sáng ngọn đèn leo lét, hiu hắt ở quán nước này dường như đã trở
thành nơi hội tụ của cả phố huyện trong đêm tối: Tất cả phố xá trong huyện thu
nhỏ lại nơi hàng nước của chị Tý.
Đêm tối mênh mông mỗi lúc lại đặc kịt: Tối hết cả con đường
thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại sẫm đen hơn nữa...
Nhưng ánh sáng của chị Tý cứ miệt mài lan tỏa. Nhà văn Thạch Lam đã trở đi, trở
lại nhiều lần để miêu tả thật kỹ ngọn đèn này. Có lẽ đó là ý tưởng mà tác giả gợi
lên hun hút của nỗi buồn đi vào bế tắc chăng? Con người đêm, con đường đêm, phố
huyện đêm và cả xã hội Việt Nam đêm đã thui chột những ước mơ cao
xa đang giục giã lòng người trở về cuộc sống nguyên thủy ngày xưa đầy kinh dị.
Từng ánh sáng của bóng đèn mẹ con chị Tý cố sức leo vào không gian bao la, thăm
thẳm, song đã bị bóng đêm đắng quạch đẩy lùi. Nỗi ám ảnh cuộc sống mà ánh sáng
từ chiếc đèn của mẹ con chị Tý lần lượt đi vào tiềm thức con người.
Nỗi ám ảnh ấy đã làm cho sự sống hóa thành mong manh, vụn nhỏ, tẻ nhạt, hưu quạnh...
treo vào hư vô. Lần cuối, khi đoàn tàu và ánh sáng của nó rơi lặng lẽ, im nghỉm
trong đêm tối thì hình ảnh chiếc đèn của chị Tý đi vào giấc mộng của Liên thật
tự nhiên đến nao lòng, đau xót và Liên thấy mình sống giữa bao nhiêu sự xa
xôi...
Thạch Lam xây dựng nên hình tượng ngọn đèn chị Tý không chỉ
đơn thuần là ngọn đèn nữa mà nó là biểu tượng cho cuộc sống thực tại nơi đây:
nhỏ nhoi, hưu hắt đầy buồn chán của chị em Liên cũng như những con người nhỏ bé
đang dật dờ đi lại trên phố huyện này. Ngọn đèn được nhà văn miêu tả trở đi, trở
lại nhiều lần và khi đi ngủ, Liên vẫn còn mường tượng tới ánh sáng hưu hắt,lay
lắt ấy như một ám ảnh tâm lý cho đến ngàn năm cũng không thể nào gỡ ra được.
Ánh sáng đèn của chị Tý cùng với những ánh sáng khác nơi phố
huyện thì ngay từ đầu truyện đã ngồn ngộn nổi lên một cách lay lắt chẳng làm
sáng thêm cho không gian chút nào, ngược lại càng làm rách vá mảng trời đêm mùa
hạ êm như nhung. Từ đó đến cuối truyện nhà văn Thạch Lam mới miêu tả ánh sáng của
đoàn tàu hành quân qua phố huyện buồn thương này.
Ánh sáng của đoàn tàu giờ đây đã khác hẳn, không phải là ánh
sáng đơn điệu từng hột lọt qua phên nứa rơi rớt xuống nền đường lởm chởm, hoang
màu của rác rưởi, lá nhãn, bãi mía, vỏ bưởi, vỏ thị và mùi âm ẩm bốc lên; không
phải là ánh sáng chập chờn như ma trơi của bác Siêu; không phải là ánh sáng
ganh nhau lấp lánh như sao sa; lại càng không phải ánh sáng nhấp nháy như con
đom đóm... Ánh sáng của đoàn tàu là ánh sáng rực sáng, là ánh sáng chói lòa. Mọi
ánh sáng mà Thạch Lam miêu tả trước chỉ nhằm tô đậm thêm bóng tối, khoác thêm nỗi
buồn dài lê thê như con sông đổ mãi ra biển khơi không hết. Ánh sáng của những
ngọn đèn lay lắt, vật vờ ở phố huyện lại càng điểm cho không gian thêm hưu quạnh,
se sắt, lại càng làm cho cay đắng, xót xa nỗi lòng người.
Chính vì vậy, con tàu từ Hà Nội đi qua mang theo ánh sáng từ nơi ấy đến là một điều mong mỏi khao khát của chị em Liên: Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực, vui vẻ và huyên náo. Con tàu như đem một chút thế giới khác đi qua. Nỗi chờ mong của chị em Liên chỉ giản dị, đơn sơ như thế thôi, nhưng trong suy nghĩ của trẻ thơ nó lại vô cùng có ý nghĩa cho ước mơ sau này.
Chính vì vậy, con tàu từ Hà Nội đi qua mang theo ánh sáng từ nơi ấy đến là một điều mong mỏi khao khát của chị em Liên: Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực, vui vẻ và huyên náo. Con tàu như đem một chút thế giới khác đi qua. Nỗi chờ mong của chị em Liên chỉ giản dị, đơn sơ như thế thôi, nhưng trong suy nghĩ của trẻ thơ nó lại vô cùng có ý nghĩa cho ước mơ sau này.
Tôi xin được lạc đề một chút, hồi tôi còn nhỏ vào những năm
1989, 1990 lúc đó làng tôi không có điện sáng như bây giờ, cứ tối nào tôi và mẹ
tôi lại cõng nhau ra cổng để xem những ánh điện chói ngời mông lung, huyền ảo đẹp
đến mê lòng trên Hương Canh, trên Lý Nhân và cả ở Minh Tân nữa. Mẹ tôi bảo những
ánh sáng đó là thần tượng sao dưới đất. Tôi liền hỏi mẹ tôi: Bao giờ làng mình
có thần tượng sao dưới đất đó hả mẹ? Mẹ tôi im lặng trong suy tư, cảm nghĩ rồi
lặng lẽ đáp: Không lâu nữa đâu, khi nào con lớn lên thì thần tượng sao dưới đất
sẽ đến với con. Những buổi tối theo mẹ ra cổng ngắm nhìn thần tượng sao dưới
đất như thế ấy đến bây giờ đã thành một kỷ niệm khó quên của đời
tôi. Và giờ đây bắt gặp tâm trạng đợi tàu của chị em Liên tôi lại thấy lòng
mình nao nao đồng cảm, nhặt ra cho mình nhiều ưu tư suy nghĩ về cuộc sống của
những đứa trẻ nghèo khổ. Những đứa trẻ như chị em Liên đợi tàu như chờ đợi
thiên thần mang hạnh phúc đến để lấp đi những nỗi buồn ám ảnh đã mang theo
tháng ngày.
Trong con mắt trẻ thơ, ánh sáng, nhất là ánh sáng chói ngời,
xa lạ sẽ hằn sâu trong trán và thúc đẩy ước mơ đến mãnh liệt. Thạch Lam đã miêu
tả ánh sáng của đoàn tàu một cách khác thường. Ánh sáng được vận động theo đoàn
tàu, mới đầu chỉ nghe thấy tiếng dồn dập, tiếng rít lên và bừng sáng trắng lên
tít đằng xa; rồi sau đó tàu tiến lại gần thì mới sáng trưng, chiếu ánh xuống cả
đường. Một thứ ánh sáng mà cả phố huyện này đều muốn vươn tới. Nhưng rồi chiếc
tàu cùng với ánh sáng lấp lánh của nó cũng đi vào đêm tối rơi tõm vào sự im lặng.
hai chị em Liên nhìn với theo chỉ thấy cái chấm nhỏ của chiếc đèn xanh treo
trên toa sau cùng, xa xa mãi rồi khuất sau rặng tre. Đúng là Nay hoàng hôn đã lại
mai hôn hoàng nào có sai.
Ánh sáng của đoàn tàu là ánh sáng của khát vọng, là ánh sáng
của ước mơ về cuộc sống tươi sáng đẹp đẽ hơn. Ánh sáng đó là niềm thao thức chờ
đợi hằng đêm của chị em Liên như một món ăn tinh thần không thể nào thiếu được
để rồi có một ước muốn treo cái thế giới tẻ nhạt vĩnh viễn vào không trung và
chỉ để lại đây cuộc sống náo động, sôi nổi với thiết tha lòng người yêu thương,
đùm bọc, giúp đỡ nhau. Nhưng những khát vọng đó lại trở thành vô vọng bởi vì
chiếc tàu đi vào đêm tối thì bóng đêm lại trùm lên phố huyện, lại trùm lên những
con người nhỏ nhoi, những cuộc đời hiu hắt, buồn bã.
Không gian bóng đêm tẻ nhạt, lúc nào cũng dắt bên mình một vũ
điệu bài ca không quên trôi dài theo năm tháng. Vũ điệu ấy cứ tô thêm cho mình
ngọn đèn lay lắt , hiu hắt, nhỏ bé... như chứa đựng tâm trạng của mọi người
trong tạo hóa. Bóng đêm bao vây và tiếng tàu lại vang lên cùng với ánh sáng rạng
rỡ, huy hoàng càng xé nát mảnh trời nhung đen. Từ một không gian tự nhiên đã trở
thành biểu tượng một không gian xã hội bao vây con người, cản trở khát vọng cuộc
sống tươi sáng, hạnh phúc của họ.
Chúng ta chỉ đi vào một khía cạnh của truyện ngắn Hai đứa trẻ
mà thôi, nhưng bao nhiêu tâm trạng, bao nhiêu nỗi lòng, bao nhiêu suy nghĩ mà
nhà văn Thạch Lam muốn bày biện cũng nổi lên khá rõ. Qua ánh sáng từ chiếc đèn
mẹ con chị Tý và ánh sáng của đoàn tàu ta thấy được cuộc sống khổ cực, quẩn
quanh nơi phố huyện, cũng như những khát vọng, những ước mơ muốn làm cho thế
giới thực tại thay đổi. Song ước mơ vẫn chỉ là ước mơ, còn thực tại vẫn cứ là
thực tại. Dù sao đi chăng nữa, đó chính là nỗi lòng của nhà văn gửi gắm cho độc
giả.
Tôi ước gì mình cũng có những cảm xúc sâu kín, nhưng thấm
thía như nhà văn Thạch Lam để sau này bước lên văn đàn, mình cũng có những
trang văn hay lay động lòng người đến thế.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét