Khi đề cập các yếu tố quan trọng trong nghệ thuật âm nhạc,
người ta thường nhắc đến giai điệu, hòa thanh, tiết tấu… Song, theo phương pháp
loại trừ nhằm đạt tới mục tiêu tối giản, chúng ta có thể bỏ đi giai điệu, hòa
thanh và bảo lưu mỗi tiết tấu. Sở dĩ làm như vậy là vì trong nhiều loại hình âm
nhạc không hề tồn tại giai điệu, nhất là nhạc cụ gõ. Dàn Phèng la của người Hoa
vốn có lịch sử lâu đời chẳng hề diễn tấu được giai điệu. Cơ cấu tổ chức này tập
hợp nhiều nhạc khí (chiêng) đồng loại, từ Não, Bạt, Cẩu tử la nhỏ vừa lòng bàn
tay đến Thâm ba, Tô la có chu vi chừng 150cm, đường kính trên 50cm, kết hợp với
trống, đạc, mõ, chuông, khánh... âm thanh vang trời, nhưng chẳng thể diễn tấu bất
kỳ nét giai điệu nào khiến cho người nghe nhớ nhung. Nhạc gõ trong các loại
hình múa lốt, như: lân, sư, rồng, hẩu cũng chỉ làm rộn ràng phố phường bằng trống,
sập sã (Double symbal), thanh la với bản chất đánh động, mà không hề có khả
năng điều chỉnh cao độ nhằm tạo ra giai điệu, càng kém về khả năng biểu cảm
theo lối nỉ no, tỉ tê hay giãi bày tâm sự. Như vậy, giai điệu không phải thành
tố nhất thiết cần có trong nghệ thuật âm nhạc. Nhiều trường phái âm nhạc cuối
thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX nỗ lực loại trừ giai điệu ra khỏi tác phẩm, thậm chí
có những nhà soạn nhạc dị ứng với giai điệu.
Vậy, còn hòa thanh? Như trên đã nêu, đối với loại hình âm nhạc
không có giai điệu thì hòa thanh không có cơ sở trú ngụ. Ngay tại châu Âu, trước
thời Trung cổ chưa từng xuất hiện khái niệm hòa thanh. Hòa thanh, giai điệu đều
là những yếu tố ra đời muộn màng. Hòa thanh thống trị trong âm nhạc phương Tây
thế kỷ XVII với sự thịnh hành của âm nhạc chủ điệu. Các tác phẩm âm nhạc thời kỳ
này đóng khung vào hai điệu tính trưởng thứ. Và bên ngoài nó, hay nói đúng hơn,
song song với châu Âu thời Cổ điển có vô vàn truyền thống âm nhạc thờ ơ với hòa
thanh, thậm chí cả giai điệu. Cả vùng châu Á rộng lớn, chiếm hơn nửa dân số
trên địa cầu, gồm 51 quốc gia, có lịch sử lâu đời và truyền thống âm nhạc không
có hòa thanh. Vậy, yếu tố còn lại, đó chính là tiết tấu.
Tiết tấu là gì? Chiếu theo định nghĩa của môn Kiến thức âm nhạc
cơ bản, tiết tấu nhằm chỉ “mối tương quan giữa các trường độ nối tiếp nhau”.
Nói cho dễ hiểu, tiết tấu được tổ hợp bởi những âm thanh có trường độ dài ngắn
khác nhau, kết hợp cùng cường độ mạnh nhẹ. Tiết tấu không phải phạm trù thuộc sở
hữu của ngành âm nhạc mà phổ biến trong các hoạt động của đời sống, nói rộng
ra, thuộc quy luật vận hành của vũ trụ. Tùy theo độ dài - ngắn, nhanh - chậm mà
tiết tấu được thể hiện dưới các mô hình - chu kỳ khác nhau. Chẳng hạn, như chu
kỳ tiết tấu của trái đất chẳng hạn. Thời gian trái đất quanh quanh mặt trời là
một năm, quanh quanh mình là một ngày.
Như vậy, mô hình tiết tấu của trái đất sẽ có hai dạng: thứ nhất là: xuân hạ thu đông; thứ hai là: ngày và đêm. Hai mô hình tiết tấu này lại có thể chia nhỏ hơn, như các mùa lại chia tiếp thành tiết: xuân phân, lập hạ, thu phân, lập đông; ngày có: sáng, trưa, chiều; đêm có trước và sau giờ tý… Trong cuộc sống, chúng ta cũng có thể chia nhịp điệu ngày tháng thành các chu kỳ tiết tấu khác nhau. Nếu lấy một tuần làm câu nhạc, cuối câu ta có hai dấu lặng, tương ứng với hai ngày nghỉ và một năm có 365, 366 ô nhịp. Quy luật co giãn theo ngẫu số phổ biến ở nhiều nơi trên thế giới. Khi mở rộng khuôn khổ bản nhạc, người ta gia tăng chu kỳ tiết nhịp, rồi kéo dài thời lượng bằng cách giảm thiểu tốc độ, ngược lại, thu nhỏ bằng cách giảm chu kỳ tiết nhịp, tăng tốc độ lên. Bài học này con người đã tiếp thu từ thiên nhiên và áp dụng vào nghệ thuật âm nhạc bằng các hình thức biến đổi về tiết tấu.
Như vậy, mô hình tiết tấu của trái đất sẽ có hai dạng: thứ nhất là: xuân hạ thu đông; thứ hai là: ngày và đêm. Hai mô hình tiết tấu này lại có thể chia nhỏ hơn, như các mùa lại chia tiếp thành tiết: xuân phân, lập hạ, thu phân, lập đông; ngày có: sáng, trưa, chiều; đêm có trước và sau giờ tý… Trong cuộc sống, chúng ta cũng có thể chia nhịp điệu ngày tháng thành các chu kỳ tiết tấu khác nhau. Nếu lấy một tuần làm câu nhạc, cuối câu ta có hai dấu lặng, tương ứng với hai ngày nghỉ và một năm có 365, 366 ô nhịp. Quy luật co giãn theo ngẫu số phổ biến ở nhiều nơi trên thế giới. Khi mở rộng khuôn khổ bản nhạc, người ta gia tăng chu kỳ tiết nhịp, rồi kéo dài thời lượng bằng cách giảm thiểu tốc độ, ngược lại, thu nhỏ bằng cách giảm chu kỳ tiết nhịp, tăng tốc độ lên. Bài học này con người đã tiếp thu từ thiên nhiên và áp dụng vào nghệ thuật âm nhạc bằng các hình thức biến đổi về tiết tấu.
Không dừng lại ở chiều thời gian, tiết tấu còn đi vào chiều
không gian, như mỹ thuật, kiến trúc, văn, thơ… đồng thời các loại hình nghệ thuật
lại tự liên kết với nhau theo những cách hình dung gần gũi, như hội họa cũng sử
dụng khái niệm Ton, Gam màu, đường nét chuyển động như giọng, thang âm, giai điệu
trong âm nhạc. Thơ ca có tiết tấu, vần, điệu như nhịp, phách, cao độ, trường độ
trong âm nhạc. Rồi hình dung từ ở nghệ thuật âm nhạc không ngừng tích hợp nghệ
thuật không gian, như sáng, tối, ảm đạm, mông lung, đa sắc… Khi đứng lẻ loi một
mình, bất kỳ loại hình nghệ thuật nào cũng đều cảm thấy cô đơn. Hiện tượng này
nhắc nhở về cội nguồn tổng hợp của các loại hình nghệ thuật. Thuở xưa, thơ, nhạc,
họa, múa… vốn là một thể thống nhất trong nhiều dạng thức văn hóa. Sau khi phát
triển theo hướng chuyên môn hóa, từng loại hình mới theo đuổi những cách thức
biểu hiện khác nhau. Nhưng, trên chặng đường ấy, chúng vẫn thể hiện những đường
liên kết tự nhiên qua nhiều phương diện.
Chữ “âm nhạc” gốc Hy Lạp không hề chỉ loại hình nghệ thuật chuyên biệt như sau này mà dùng để gọi tên một ngành nghề của nữ thần Mousike, gồm những công việc liên quan đến thơ ca, âm nhạc và vũ đạo. Bởi vậy, thơ, nhạc, vũ – tam vị nhất thơ nằm rải rác trong thư tịch cổ, đồng thời hiện hữu ngay giữa đời sống âm nhạc.
Chữ “âm nhạc” gốc Hy Lạp không hề chỉ loại hình nghệ thuật chuyên biệt như sau này mà dùng để gọi tên một ngành nghề của nữ thần Mousike, gồm những công việc liên quan đến thơ ca, âm nhạc và vũ đạo. Bởi vậy, thơ, nhạc, vũ – tam vị nhất thơ nằm rải rác trong thư tịch cổ, đồng thời hiện hữu ngay giữa đời sống âm nhạc.
Xuất phát từ những khía cạnh đa dạng của hiện thực, tiết tấu
hình thành nên đặc trưng “cảm biến” giúp con người dễ dàng nhận biết, gọi chung
là cảm giác về tiết tấu. Theo đó, tiết tấu có bốn yếu tố: sự thay đổi về thời
gian, đường hướng biến hóa ổn định, có thể nhận biết được những thay đổi (nhờ
chu kỳ) và nhận biết bằng giác quan. Như vậy, tiết tấu chính là thành tố bất biến
trong nghệ thuật âm nhạc nhằm đo lường sự chuyển động của thời gian. Loại hình
nghệ thuật này gắn kết tự nhiên với tiết tấu, xuất phát từ bản chất của loại
hình nghệ thuật thời gian. Thuở ban sơ nghệ thuật âm nhạc đã đánh cắp ý tưởng
sáng tạo của vũ trụ, cất giấu bên trong thực thể âm thanh của mình. Bởi vậy, đứng
trước những thay đổi của nghệ thuật âm nhạc, tiết tấu vẫn đứng vững như vị chúa
tể quyền uy, không gì lay chuyển. Sau khi xâm nhập nghệ thuật không gian vô
thanh, nghệ thuật thời gian vô hình, kết nối với dấu lặng, tiết tấu trở thành
nhân tố chủ đạo tạo tựu cho sự hiện hữu của nghệ thuật âm thanh bằng những biến
đổi vi diệu, nhiệm màu.
hãng máy bay eva
vé máy bay đi mỹ khoảng bao nhiêu
phòng vé korean air tại tphcm
vé máy bay đi mỹ giá rẻ nhất
vé máy bay đi canada giá bao nhiêu
Cuoc Doi La Nhung Chuyen Di
Ngẫu Hứng Du Lịch
Tri Thức Du Lịch