Hoàng Việt là một trong 5 nhạc sĩ đầu tiên của âm nhạc Việt
Nam (cùng với Văn Cao, Lưu Hữu Phước, Đỗ Nhuận, Nguyễn Xuân Khoát) được trao tặng
Giải thưởng Hồ Chí Minh về VHNT năm 1996. Ông cũng là nhạc sĩ đầu tiên được Chủ
tịch nước truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân trong năm
2011 cùng với các nhà văn Chu Cẩm Phong, Nguyễn Ngọc Tấn và nhà thơ Ca lê Hiến.
Hoàng Việt xứng đáng với mọi sự tôn vinh bởi những gì ông đã dâng hiến cho quê
hương đất nước…
Từ “Tiếng còi trong sương đêm” và những ca khúc kháng chiến bất
hủ
Hoàng Việt tên thật là Lê Chí Trực, sinh ngày 29/10/1928 tại
Chợ Lớn. Quê cha anh ở thị xã Bà Rịa, quê mẹ ở Cái Bè, Tiền Giang. Từ những năm
học trung học ở Sài Gòn, lúc mới 16, 17 tuổi, Lê Chí Trực với bút danh Lê Trực
đã viết những ca khúc như “Chị Cả”, “Biệt đô thành”và “Tiếng còi
trong sương đêm”, trong đó ca khúc theo điệu tango “Tiếng còi trong
sương đêm” qua tiếng hát của ca sĩ Khánh Vân những năm 1944-1945 được người
dân Nam Bộ rất yêu thích:
Bến nước gió rét đò đưa khách sang
Lau xanh ven sông mờ rung bóng trăng
Đêm nay không gian chìm trong giá băng…
Mà đoàn hùng binh âm thầm xông lướt trong sương…
Khi ra đi có hứa thu nay về
Mà hôm nay lá thu đã rơi tràn
Trong giai đoạn tiền khởi nghĩa ở Nam Bộ, nếu các hành khúc của
Lưu Hữu Phước như “Lên đàng”, “Tiếng gọi thanh niên” là lời kêu gọi,
tiếng kèn thúc giục thanh niên đứng dậy cứu nước thì “Tiếng còi trong
sương đêm” là lời tâm sự và quyết tâm ra đi của một lớp thanh niên đô
thành được thức tỉnh bởi lời kêu gọi và tiếng kèn thúc giục ấy. Cho đến nay,
sau hơn 65 năm ra đời, ca khúc trữ tình thắm sâu tinh thần yêu nước này là một
trong những ca khúc tiền chiến vẫn còn được hát nhiều nhất cả trong nước lẫn hải
ngoại qua tiếng hát của các ca sĩ nhiều thế hệ như Thanh Thuý, Khánh Ly, Thanh
Tuyền, Ngọc Ánh, Vân Khánh, Đoan Trang, Tâm Đoan, Trang Mỹ Dung, Hồng Cúc…
Năm 1947, Lê Chí Trực thực sự “biệt đô thành” ra bưng biền
tham gia kháng chiến và là thành viên trẻ nhất của đội ngũ văn nghệ kháng chiến
Nam Bộ, đầu tiên công tác tại chiến trường miền Tây “dọc ngang sông rạch” rồi
sau đó chuyển sang chiến trường miền Đông “gian lao mà anh dũng”. Trong những
tháng năm này, giữa tuổi 20, chàng thanh niên yêu nước Lê Chí Trực đã trở thành
nhạc sĩ- chiến sĩ Hoàng Việt, người phát ngôn kỳ tài bằng âm nhạc ý chí chiến
đấu, tinh thần lạc quan của quân dân Nam Bộ thành đồng tổ quốc với các ca
khúc “Lá xanh”, “Nhạc rừng”, “Mùa lúa chín
“, “Lên ngàn”… Nếu “Lá xanh” là bài hát tòng quân ra trận thật rộn
ràng, tươi trẻ, lôi cuốn thì “Nhạc rừng” như sự ngân vang tuyệt vời của
thiên nhiên đất nước trong tâm hồn người chiến sĩ vệ quốc còn “Lên ngàn” là
khúc tráng ca về sức sống bất khuất, sự hy sinh thầm lặng và niềm tin sắt đá
vào chiến thắng cuối cùng của người phụ nữ Nam Bộ giữa ngút ngàn đau thương,
tang tóc, gian khó của cuộc kháng chiến trường kỳ:
Nước ngập đồng xanh lúa chết
Gió mưa sập đổ mái nhà
Bao nhiêu gia đình tan hoang
Đau thương lệ rơi chứa chan
Em đi cắt lúa trên ngàn rẫy trên ngàn nắng chiều chang chang
Đường đi nước ngập mênh mang
bàn chân dẫm gai lòng không thở than…
Cùng với “Làng tôi”, “Tiến về Hà Nội”,
“Trường ca sông Lô” của Văn Cao, “Hành quân xa”, “Du kích sông Thao”,
“Giải phóng Điện Biên” của Đỗ Nhuận, “Người Hà Nội” của Nguyễn Đình Thi, “Tiếng
chuông nhà thờ” của Nguyễn Xuân Khoát, “Lỳ và Sáo”, “Quê tôi giải
phóng”của Văn Chung…ba ca khúc đậm chất lãng mạn cách mạng trên của Hoàng Việt
nằm trong số những ca khúc hay nhất của âm nhạc cách mạng Việt Nam thời kháng
chiến chống Pháp và là những ca khúc mãi đi cùng năm tháng như chúng ta thường
nói.
Cùng với “Bài ca hy vọng” của Văn Ký, “Tình
trong lá thiếp” của Phan Huỳnh Điểu, “Trăng sáng đôi miền” của
An Chung, “Câu hò bên bờ Hiền Lương” của Hoàng Hiệp, “Giữ trọn
tình quê” của Văn Cận… “Tình ca” của Hoàng Việt ra đời trong những
năm đầu đất nước bị chia cắt, là các ca khúc mở ra dòng ca khúc đấu tranh thống
nhất đất nước rất đặc biệt trong lịch sử âm nhạc Việt Nam.
Đối với Hoàng Việt, “Tình ca” như là một bài hát rất
riêng tư. Năm 1954, Hoàng Việt tập kết ra Bắc, để lại ở miền Nam người vợ trẻ đẹp
và ba đứa con thơ, đứa lớn nhất chưa đến 5 tuổi, giữa nanh vuốt kẻ thù. Từ đấy,
như bao người con miền Nam tập kết, ở thủ đô Hà Nội Hoàng Việt luôn sống trong tình
cảnh “Ban ngày bận công tác/Ban đêm nằm nhớ em/Ban ngày ở miền Bắc/Ở miền
Nam ban đêm” (Tế Hanh). Năm 1957, sau hơn hai năm trời bặt vô âm tín,
Hoàng Việt bất ngờ nhận được thư vợ từ miền Nam gửi ra, lá thư đã phải đi vòng
vèo vạn dặm qua tận nước Pháp xa xôi rồi mời về được Hà Nội để đến tay ông.
Hoàng Việt nhòa nước mắt khi đọc thư vợ. Những rung động mãnh liệt, trào dâng từ
những nhớ thương, tin tưởng, tự hào với người vợ hiền đảm, từ nỗi đau đất nước
chia cắt và gia đình ly tán, Hoàng Việt chợt cảm nhận rõ ràng hơn bao giờ hết sức
mạnh kỳ diệu của tình yêu đôi lứa trong sự gắn bó thiêng liêng với tình yêu quê
hương đất nước. Một sức mạnh bất chấp không gian xa cách và thời gian dằng dặc,
thách thức mọi phong ba bão tố, vượt trên chiến tranh thù hận, xóa tan đau khổ
chia ly, để tỏa sáng như ánh sao đêm, thơm ngát như cánh hoa xuân và bền vững
muôn đời như sông nước Cửu Long bất diệt. Và bản “Tình ca” đã ra đời
như tiếng lòng của Hoàng Việt gửi về người vợ phương xa với những nhắn nhủ thủy chung son sắt:
Bến nước Cửu Long còn đó em ơi
Biển lúa nương dâu còn mãi muôn đời
Là còn duyên tình ta thắm trong tiếng ca không thể xoá
nhoà...
Giữ lấy đức tin bền vững em ơi
Giữ lấy trái tim đòi sống yêu đời
Ngay sau khi ra đời, “Tình ca” đã được ca sĩ Quốc
Hương, người bạn thân từ chiến trường Nam Bộ của Hoàng Việt, thu thanh, phát
trên sóng Đài Tiếng nói Việt Nam làm ngây ngất thính giả trong và ngoài nước.
Tuy vậy, thật khó tin khi bản tình ca tha thiết, mạnh mẽ nhường ấy lại bị một số
quan chức văn hóa và cả một số văn nghệ sĩ phê phán là bi lụy, yếu đuối và lập
tức bị lưu kho. Mãi đến hơn 10 năm sau, sau khi Hoàng Việt trở về miền Nam chiến
đấu, sáng tác và hy sinh, “Tình ca” mới được phổ biến trở lại. Từ đấy, “bài
tình ca của đôi lứa ta dâng cả bao người” của Hoàng Việt đã cất cánh bay đến
với các thế hệ người Việt ở mọi phương trời, trở thành khúc tình ca được cả dân
tộc ca hát trong hơn nửa thế kỷ qua, cả trong chiến tranh cũng như giữa thời
bình, cả trong đau khổ và hạnh phúc. Với sức chinh phục vô song và khả năng thức
tỉnh, nâng mọi tâm hồn vươn đến những điều cao đẹp, thánh thiện, “Tình
ca” xứng đáng được coi là biểu tượng của âm nhạc Việt Nam trong thế kỷ 20
như có người đề nghị.
Và bản giao hưởng đầu tiên của âm nhạc Việt Nam
Năm 1958, Hoàng Việt được Đảng và nhà nước cử sang học tập tại Nhạc viện Sofia, Bulgari. Đến cuối
năm 1964 ông tốt nghiệp hạng ưu tú tại đây với bản giao hưởng số 1 của ông,
cũng là bản giao hưởng đầu tiên của âm nhạc Việt Nam, bản giao hưởng mang
tên “Quê hương”. Sau 7 năm tu nghiệp tại một nhạc viện lớn của châu
Âu, người nhạc sĩ tự học từ đô thành Sài Gòn năm xưa đã nỗ lực vươn lên làm chủ
được thể loại giao hưởng, thể loại âm nhạc được coi là lớn nhất và khó nhất của
âm nhạc hàn lâm thế giới, “một trong những biểu hiện rực rỡ nhất của sự
trưởng thành về tinh thần của loài người” như nhận định của giới mỹ học
châu Âu.
Giám đốc Nhạc viện Sofia từng tự hào đánh giá: “Bản giao
hưởng của Hoàng Việt không phải là một tác phẩm tốt nghiệp mà thật sự là một
tác phẩm lớn... Đó là một thành công rực rỡ của âm nhạc Việt Nam". GS
Ca Lê Thuần cũng cho rằng giao hưởng Quê hương của Hoàng Việt đã đánh
dấu một bước tiến quan trọng của nền âm nhạc Việt Nam dân tộc hiện đại, là giá
trị tinh thần sống mãi với đất nước.
Hoàng Việt tâm sự: "những ký ức quê hương" và "trách
nhiệm của một công dân" đã giúp ông viết nên bản giao hưởng với lời đề
tặng "Kính dâng Nam Bộ trong cuộc chiến đấu anh dũng chống ngoại
xâm"...
“Quê hương” là bản giao hưởng sử thi đồ sộ gồm 4 chương,
với những hình tượng âm nhạc phong phú khắc họa cuộc kháng chiến chống ngoại
xâm của nhân dân Việt Nam nói chung và Nam Bộ nói riêng. Tác giả đã sử dụng chất
liệu từ những bài hát cách mạng và dân ca để làm các chủ đề, được phát triển
nhuần nhuyễn với những cảm xúc sáng tạo tinh tế và một bút pháp khá điêu luyện.
Chương I diễn tả không khí những ngày Cách mạng tháng Tám và kháng chiến chống
Pháp, được viết dưới hình thức sonate với các chủ đề lấy từ các ca khúc “Hội
nghị Diên Hồng”, “Lên đàng” của Lưu Hữu Phước, “Nam Bộ kháng chiến” của
Tạ Thanh Sơn, “Chiến thắng Điện Biên” của Đỗ Nhuận. Chương II mang
tính chất trữ tình, miêu tả quê hương từ chiến tranh chuyển sang những ngày hòa
bình, được viết dưới hình thức ronto với các chủ đề lấy từ “Lên ngàn”,
“Mùa lúa chin” (Hoàng Việt), “Kỵ binh Việt Nam” của Lê Yên, “Cây trúc
xinh”, dân ca quan họ Bắc Ninh và “Quê tôi giải phóng” của Văn
Chung. Chương III là chương nhanh, kịch tính, nhằm miêu tả cuộc kháng chiến chống
Mỹ, được viết dưới hình thức sonate, bao gồm các chủ đề phát triển từ bài “Giải
phóng miền Nam” của Lưu Hữu Phước, “Đợi chờ”, dân ca Tây Nguyên
và “Lên đàng”. Trong chương này, âm nhạc mang tính căng thẳng, kịch
tính cao độ để thể hiện cuộc chiến tranh một mất một còn, cuối cùng phần tái hiện
mang âm hưởng hai bài “Lên đàng”và “Giải phóng miền Nam” biểu hiện
quyết tâm chiến đấu và chiến thăng kẻ thù xâm lược. Chương IV mang âm hưởng vui
tươi, rộn rã, thể hiện niềm vui khi đất nước giành được độc lập tự do. Chương
này được xây dựng với hình thức 3 đoạn phức cùng phần coda trang trọng, hoành
tráng, có sự tham gia của dàn hợp xướng thể hiện ước mơ được sống trong hạnh
phúc thanh bình của dân tộc.
Trong năm 1964, giao hưởng “Quê hương” đã được biểu
diễn ba lần tại thủ đô Bungari: lần thứ nhất trong dịp Hoàng Việt thi tốt nghiệp
với Dàn nhạc Nhạc viện Sofia và hai lần nữa để phục vụ công chúng với Dàn nhạc
Giao hưởng Bungari. Dàn nhạc Giao hưởng Bungari cũng đã thu thanh giao hưởng “Quê
hương” để phát trên đài phát thanh Quốc gia. Tại Việt Nam, khi Hoàng Việt
trở về Hà Nội, bản giao hưởng này cũng đã được Nhà hát giao hưởng hợp xướng nhạc
vũ kịch Việt Nam và hai danh ca Quốc Hương, Vũ Dậu dàn dựng, công diễn cùng bản
giao hưởng số 5 của nhạc sĩ vĩ đại người Nga P.I.Tchaikovsky vào ba đêm 26, 27,
28 tháng 3 năm 1965 tại Nhà hát Lớn Hà Nội dưới đũa chỉ huy của nhạc trưởng,
nghệ sĩ công huân Triều Tiên Ly Hiơng Un. Đó là ba đêm nghệ thuật không thể nào
quên không chỉ với Hoàng Việt mà cả với người hâm mộ và giới âm nhạc hàn lâm Việt
Nam…
Tôi nhớ mãi ấn tượng về Hoàng Việt khi ông đến sống tại khu
nhà 87B Lý Thường Kiệt, Hà Nội. Đây là khu nhà dành cho các văn nghệ sĩ miền Nam
tập kết gồm nhà thơ Bảo Định Giang, các nhà văn Khương Minh Ngọc, Nguyễn Quang
Sáng, Xuân Vũ, họa sĩ Nguyễn Tấn Hưng, nghệ sĩ điện ảnh Nhị Hà và ba tôi, nhà
nghiên cứu Mịch Quang. Đầu năm 1965, khi Hoàng Việt từ Bungari về nước, nhà thơ
Bảo Định Giang, Phó Tổng thư ký phụ trách văn nghệ miền Nam của Liên hiệp các hội
VHNTVN, đã cùng gia đình dọn đến trong cơ quan 51 Trần Hưng Đạo, nhường căn
phòng lớn của gia đình tạị đây cho nhạc sĩ đồng hương Tiền Giang tài năng đến ở
để có điều kiện sáng tác. Khi ấy, tôi là một cậu học sinh lớp 9 mê nhạc cổ điển,
rất tự hào khi biết người nhạc sĩ nổi tiếng của những “Lên ngàn”, “Nhạc rừng” và
giao hưởng “Quê hương” đến ở trong khu nhà mình. Hằng ngày, Hoàng Việt
hầu như chỉ ở trong căn phòng của ông và tôi luôn được nghe tiếng đàn piano vọng
ra từ đấy, chỉ thỉnh thoảng tôi mới thoáng thấy bóng ông ra ngoài với vóc dáng
mình hạc xương mai và mái tóc bạc trắng. Với tôi, Hoàng Việt gần thật đấy mà cứ
xa xôi huyền hoặc như là một ông tiên trong cổ tích. Tôi không hề biết ông tiên
tóc bạc trắng này chỉ mới 37 tuổi. Ít lâu sau, nhạc sĩ Văn Cận sau khi tu nghiệp
ở Trung Quốc về, đã đến ở với ba con tôi và tôi đã đôi lần theo nhạc sĩ Văn Cận
vào chơi với nhạc sĩ Hoàng Việt trong căn phòng của ông. Được đối diện thật gần
với Hoàng Việt, tôi thấy ông không già như tôi tưởng, ông có đôi mắt thật sáng
và nụ cười thật hiền từ. Nghe Hoàng Việt và Văn Cận trò chuyện, tôi biết hai nhạc
sĩ của “Tình ca” và “Giữ trọn tình quê” khi tập kết đều để
lại vợ con ở miền Nam, nay đều có nguyện vọng trở về Nam chiến đấu, sáng tác
mong có cơ hội sum họp gia đình và nguyện vọng đó đã được cấp trên chấp thuận.
Bên cây đàn piano, Hoàng Việt và Văn Cận đã đàn và hát cho nhau nghe các sáng
tác mới chuẩn bị cho chuyến hồi hương thiêng liêng, Hoàng Việt với bài “Giết
giặc Mỹ cứu nước” còn Văn Cận có bài “Mẹ ơi! Con sẽ trở về”. Thời
gian này, chị tôi sau khi tốt nghiệp kỹ sư nông nghiệp đã xung phong về miền
Nam được hơn một năm. Trong thư chị gửi ra cho gia đình, tôi được biết chị tôi
đã phải mất hơn hai tháng trời vượt qua hàng ngàn cây số đèo dốc Trường Sơn mới
về được đến quê hương. Nhìn Hoàng Việt và Văn Cận, tôi thầm nghĩ không biết hai
ông sẽ làm thế nào để vượt Trường Sơn, khi Văn Cận thì cận thị rất nặng còn
Hoàng Việt thì quá mảnh khảnh, gầy guộc…Sau tết 1966, tôi không còn được gặp
Hoàng Việt và Văn Cận tại khu nhà 87B Lý Thường Kiệt Hà Nội nữa, hai ông đều đã
lên đường…
Nhà văn Nguyễn Quang Sáng, trưởng đoàn văn nghệ sĩ đi chiến
trường Nam Bộ đầu năm 1966 kể rằng ông và các văn nghệ sĩ trong đoàn không ai
nghĩ rằng Hoàng Việt có khả năng vượt nổi Trường Sơn bởi thấy ông quá ốm yếu.
Trên đường Trường Sơn, Nguyễn Quang Sáng luôn bố trí Hoàng Việt đi đầu khi hành
quân nhưng bao giờ ông cũng là người cuối cùng đến trạm, rất lâu sau khi mọi
người đã đến đã nấu cơm và ăn cơm xong, khi cả đoàn đã lên võng ngủ Hoàng Việt
mới lủi thủi một mình lặng lẽ nhóm bếp nấu cơm. Có lần, Hoàng Việt bị lật cổ
chân, chân sưng to, mưng mủ, đoàn muốn gửi ông lại trạm để dưỡng bệnh nhưng ông
vẫn cắn răng lết theo đoàn, kể cả khi phải mang thêm hơn 10 cân gạo ăn đường
trong cái ba lô đã nặng gần bằng trọng lượng 42 kg người ông. Cứ thế, sau hơn
ba tháng, Hoàng Việt vẫn theo kịp đoàn để về đến quê hương trong sự kinh ngạc của
mọi người.
Toại nguyện về với quê hương, bất chấp đói khổ, ác liệt, ngay
trên chiến khu, song song với việc đào hầm, cất nhà, tải gạo, với bút danh mới
Lê Quỳnh, Hoàng Việt đã say sưa sáng tác với năng suất chưa từng có. Từ cuối
năm 1966 đến giữa năm 1967, ông đã hoàn thành 12 ca khúc và vở nhạc kịch “Bông
sen” kể chuyện anh hùng liệt sĩ Nguyễn Văn Lịch với 102 trang phần đệm
piano để gửi ra miền Bắc. Ông còn viết nhạc cho hai điệu múa của Văn công R, rồi
chuyển “Bông sen” từ thể loại lớn opera thành một nhạc cảnh nhỏ để
Văn công R có thể biểu diễn phục vụ tại chiến trường. Trong lá thư viết cho nhạc
sĩ Đỗ Nhuận tháng 5/1967, Hoàng Việt nói với Tổng thư ký Hội Nhạc sĩ Việt Nam rằng
dù rất tích cực sáng tác phục vụ kip thời nhưng ông vẫn không quên dồn
tâm sức sáng tác những tác phẩm lớn góp phần đánh dấu giai đoạn tiến triển mới
của âm nhạc cách mạng miền Nam. Hoàng Việt còn bày tỏ với nhạc sĩ Đỗ Nhuận khát
vọng đưa âm nhạc cách mạng thâm nhập sâu vào đời sống tinh thần của người dân
miền Nam để thay thế loại tân cổ tạp nham cũng như thứ nhạc dance ỉ
eo than khóc mị dân của Phạm Duy hoặc loại nhạc điện tử làm ô uê thích giác người
nghe của đám nhạc trẻ sa đoạ Sài Gòn…
Sau niềm hạnh phúc to lớn được đón người vợ yêu thương và ba
đứa con từ Sài Gòn ra chiến khu sum họp gia đình sau hơn 13 năm xa cách trong dịp
tết 1967, Hoàng Việt lại bắt đầu một thử thách mới. Ông xin tổ chức cho rời chiến
khu về với vùng đất ven bờ Cửu Long, vùng chiến sự ác liệt, để lấy cảm hứng thực
hiện dự án sáng tác lớn ông hằng ôm ấp: bản giao hưởng số 2 của ông, giao hưởng
mang tên “Cửu Long”. Theo Hoàng Việt, đây sẽ là giao hưởng có 3
chương: Chiến thắng, hạnh phúc và xây dựng. Và ông đã lên
đường về Cao Lãnh, Tiền Giang men theo đường số 4 và bờ sông Cửu Long để tìm hiểu
thêm những điều Hoàng Việt gọi là “những khía cạnh đặc biệt” nơi dòng
sông vĩ đại của quê hương. Cuối năm 1967, sau những ngày tháng băng đồng, qua lộ,
chịu bom pháo, Hoàng Việt đã đặt chân về đến quê mẹ Tiền Giang, đã đến rất gần
với sóng nước Cửu Long. Nhưng ngay trên bờ kênh Ả Rặt, làng Mỹ Thiện, huyện
Cái Bè, Tiền Giang, trong buổi sáng cuối cùng năm 1967, sáng 31 tháng 12, Hoàng
Việt và những người cùng đi bất ngờ bị máy bay Mỹ tập kích. Hoàng Việt bị
trúng đạn rốc két của kẻ thù. Ông hy sinh, thân xác hòa tan trong con kênh chảy
ra dòng sông Cửu Long. Khi ấy, Hoàng Việt mới vừa qua tuổi 39. Và bản giao
hưởng số 2 của đời ông, giao hưởng “Cửu Long”, mãi là bản giao hưởng
dang dở…
Nguyễn Thế Khoa
Trả lờiXóahãng eva airline
đặt vé máy bay đi mỹ
hãng máy bay hàn quốc
mua ve may bay di my hang korea
giá vé máy bay từ tphcm đi canada
Cuoc Doi La Nhung Chuyen Di
Ngẫu Hứng Du Lịch
Tri Thuc Du Lich