Lùi ít bước vừa dán mắt vào khung ngắm cố thu vào cho hết bao
nhiêu là đầu với chân tay lố nhố, tôi chợt thấy mình tựa lưng vào gốc thông của
mười hai năm trước. Đúng lúc ấy mặt trời rơi tỏm vào đám mây bùng nhùng xám ngắt.
Lũ ve im bặt rồi bất thần lại inh tai. Xoè mấy ngón trên sân chầu tìm chút bóng
nhạt làm chuẩn, tôi vội điều chỉnh lại khẩu độ. Đám người sau đó tản ra, bọn trẻ
nít nhanh chân phóng về lũ voi ngựa đá. Lẹ làng nhất, thằng con tôi đã bám vào
bụng con voi to kềnh cố trèo lên. Mẹ nó lúc ấy cũng vừa bước tới lần lượt đỡ từng
chú nhóc lên chiếc bành hoa cương, thân hình đàn bà chắc khoẻ trong bộ áo mùa
hè gọn gàng nổi bật giữa bọn nhi đồng. Tôi bước lên mấy bậc tam cấp, đưa máy ảnh
ngang tầm mắt ngắm quẩn quanh…
Dãy núi xa mờ, mấy mép hồ khô khốc, dăm khóm sen tàn rìa lá
cuốn gãy. Thoang thoảng hương vị gay gay của thứ mùa hè bị lũ sâu dĩ vãng mỏi
mòn gặm nhấm. Nhìn qua ống kính tưởng tượng nó là thời gian trong suốt tôi cố
hình dung bóng dáng mình với người con gái thuở nào, nhưng vô vọng. Chỉ nghe tiếng
chân nô đùa chạy đuổi với âm thanh réo gọi của bọn trẻ con giữa khu lăng tẩm
tiêu điều. Dưới mấy nhánh thông vi vu, cây cầu đá tịch mịch in bóng trên mặt nước
lặng lờ. Bây giờ em có thể an tâm, người vợ giá thú của tôi, bao nhiêu tình địch
đã tan tác theo mưa nắng hai mùa; và cái ống kính chụp bắt thời gian đứng lại
chưa được phát minh đâu, hỡi các văn sĩ thi nhân hoài cổ!
Chúng tôi đến Huế đã được mấy hôm, cộng vào số du khách ít oi
bị tan loãng không để lại âm vang giữa cái không gian meo mốc đang bị ngọn nắng
hanh hao đốt xém. Một cuộc du ngoạn đường trường không mấy thư thả, lũ nhóc đua
nhau ói sốt, người lớn ngất ngư. Gã tài môi thâm gốc Nghệ vẫn chưa bỏ được cố tật
chạy như ma đuổi dưới những cơn mưa bom Trường Sơn đã đưa chúng tôi từ Sài Gòn
ra Trung trong một thời gian kỷ lục trên con đường nhiều đoạn hỏng hóc với lắm
đèo dốc hiểm trở. Ăn trưa Phan Thiết, ngắm hoàng hôn Nha Trang, sớm sau mua cua
Đại Lãnh luộc ăn tại Bồng Sơn, dạo chợ trời Đà Nẵng, sắm tượng đá Ngũ Hành Sơn,
rồi vượt đèo phóng một mạch táp vào trú náu trong cái khách sạn hình vòng cung
với những máy điều hòa không khí đang cố gắng chống chọi lửa mặt trời như một tảng
băng sắp tan bên miệng cái hỏa lò vĩ đại.
Ngoại trừ tôi, hành khách trên chiếc minibus Nhật màu da cam
này chưa ai biết cố đô. Nhưng vùng đất đã một thời ngang dọc giờ đây chẳng còn
liên hệ gì với kẻ trở lại. Con sông xanh lơ lạnh lẽo, mấy chiếc đò thiêm thiếp
giấc nồng, thành quách lở lói. Lúc xe dừng vài phút ngắm trời đất trên Hải Vân
tôi đã cao hứng buột miệng ngâm Chu Thần, viễn tình hạo hạo nhất quy tiên,
nghĩ bụng sẽ tìm thấy lại vài cảm xúc thân thuộc trên hành trình về quá khứ,
nhưng tôi đã lầm. Chính tôi đã trở thành một con người khác! Chỉ còn những buổi
ăn nghi thức trên lầu thượng khách sạn với chén bát thức ăn trang nhã và cô
chiêu đãi viên trong tà áo dài vàng thắm, dáng dấp kiêu sa như thoát ra từ một
bức tranh xưa. Chỉ còn du khách vô tâm chẳng biết ở đâu đến túa ra như dơi từ
các khe ngách của đá xưa, bia cũ, lăng các phong trần. Thậm chí chiến tranh, biến
cố khốc liệt từng phủ tang tóc lên vô số mái nhà cũng đã âm thầm lui gót không
để lại vết tích gì ngoài chiếc ghe lắp ghép bằng mảnh vỏ phi cơ đang đưa chúng
tôi trở qua sông.
Thoáng gió thổi nhẹ. Hơi nước mát dâng lên cùng với mùi bùn
rong tanh nhạt. Đợi cho người lớn, trẻ con bớt huyên náo động đậy, cô hướng dẫn
viên đưa khăn chậm giọt mồ hôi bên thái dương rồi chậm rãi nói:
- Thưa ông, thưa các anh chị, đây là nơi gặp nhau của hai
nhánh Tả Ngạn và Hữu Ngạn từ núi đổ xuống và cũng là khởi điểm của Hương Giang.
- Bây nghe cô nói chưa. Con cháu rửa mặt đi, nước ở đây
tốt lắm đó bây! Cụ già Nam bộ vừa phụ họa vừa nghiêng người thò tay vục nước
sông lên khỏa vào mặt. Ngồi ngay phía sau, người đàn ông trán hơi hói mang kính
cận nắm cánh tay cha phòng hờ cụ mất thăng bằng, vui cười tiếp lời:
- Và kính thưa quí vị, đây cũng là nơi kết thúc cuộc viếng
thăm cố đô của chúng ta.
Bọn trẻ đồng loạt la ó phản đối nhưng anh chàng đã lớn tiếng
nói át:
- Nhân tiện xin thông báo là sớm mai chúng ta sẽ trở lại
Nha Trang viếng các đảo vài ngày, rồi sẵn đó lên Đà Lạt nghỉ ngơi ít buổi trước
khi quay về.
- Hoan hô, hoan hô đồng chí trưởng đoàn! Lũ nhóc lại hét
rân. Chiếc ghe tròng trành. Không gian thanh vắng trên sông bị khuấy động một
cách giả tạo. Cánh chim lẻ đàn vụt bay ngang.
Anh ta lấy cô em, tôi cô chị. Quan hệ giữa chúng tôi chỉ có
thế, thỉnh thoảng cộng thêm vài cuộc đi chơi xa với nhau. Hai vợ chồng đều là
bác sĩ Sài Gòn, tay này lại là lưỡi dao phẫu thuật đắt giá vào cái thời buổi mọi
sự đều đi xuống trừ vật giá và bệnh tật. Anh ta tổ chức chuyến viễn du này cốt
cho ông bố gần bát tuần có dịp viếng kinh thành cũ một lần. Tháp tùng theo cụ
là cô dâu thứ hai với đám cháu nội từ Bến Tre đi theo, cha chúng bận coi sóc
cái lò đường dưới quê không lên được. Ngoài ra còn gia đình chúng tôi và gia
đình một kỹ sư, bạn từ thuở hàn vi với ông bác sĩ. Đại khái tới đâu chúng tôi
cũng chiếm đóng ít nhất là năm phòng khách sạn loại gia đình với hai dãy bàn
ăn. Bởi thế tôi thường viện cớ bạn bè mời để lẻn đi lang thang, mặc dù dĩ nhiên
điều này khiến vợ tôi không được vui lắm.
Bỗng đâu bọn trẻ lại reo hò. Ông cụ chới với quay người kêu
to, cái nón, bây ơi, cái nón! Nhưng dòng nước xuôi nhanh đã cuốn cái nón ni lông
nhẹ khỏi tầm tay, tầm chèo của mấy người trên đò thong dong trôi về mạn Trường
Tiền, Cồn Hến. Không biết đây là cái thứ mấy, hôm trước vừa qua khỏi Hội An một
đoạn ngọn gió nghịch ngợm đã hứng gọn một cái khác quăng mất biệt vào bụi tre
làng. May cho cái áo bành tô lúc nào cụ cũng mang trên người để tỏ lòng thành
kính với đỉnh với bia và gạch đá cổ độ. Bất giác cụ khiến tôi bùi ngùi nhớ đến
cha tôi, người sẽ không bao giờ có dịp sờ soạng đọc mấy chữ Hán trên cửu đỉnh.
Và tôi lại nghĩ đến mình, kẻ bất hiếu sống dỡ chết dỡ, ký sinh vào gia đình cả
bên mình lẫn bên vợ, sắp nửa đời mà sự nghiệp vẫn lỡ làng.
Chiếc đò từ từ cập bến. Sóng lăn tăn trên triền cát nâu liếm
ướt các gấu quần. Chúng tôi noi theo dốc đất hẹp bên hông chợ quê tìm lối ra lộ.
Ghé vào hàng trái cây giữa các sạp trống trơ, gọi là hàng chẳng qua chỉ là mấy
trái mít vườn nhà, mấy người đàn bà lựa chọn mà cả. Tôi nép vào bóng mát hàng
hiên nhìn mảng lưng áo dài đẫm mồ hôi của chị hướng dẫn, thầm nghĩ không biết
cái áo sẽ đóng góp giá trị thặng dư của nó cho ngành du lịch Bình Trị Thiên được
bao lâu nữa. Những lúc thư thái giữa các lần thuyết minh cô gái Huế ấy đã tâm
tình về gia cảnh và thân phận. Chưa chồng con vì nhan sắc quá trung bình, chị
cười gượng nói , mẹ bệnh thấp khớp, cha huyết áp cao, điều kiện y tế địa phương
quá sơ sài mà giấc mộng đưa cha mẹ vào Sài Gòn chạy chữa là một mơ ước xa vời mặc
dù ông bà bác sĩ khi biết chuyện đã hứa tận tình giúp đỡ nếu chị đưa song thân
vào trong ấy được. Tiền xe, tiền ăn ở thuốc men, vạn sự đổ lên vai người con
gái tội nghiệp mà thu nhập khiêm tốn chưa chắc đã cho phép chị nghĩ đến việc sắm
cái áo dài hay đôi guốc mới, dù đó là phương tiện lao động bắt buộc đối với chị
chứ chẳng phải là xa xí phẩm.
Đám con nít miệng nhai tay cầm mấy múi mít chạy đến. Tên tài
nãy giờ biến đâu cũng vừa xuất hiện, đóng mở các cánh cửa xe. Tôi ngoái nhìn về
Truồi và xa hơn, nơi khoảng sông núi cỏ cây hòa làm một dưới ánh nắng chiều chếch
rực. Tôi sực nhớ đến người sĩ quan Pháp hơn trăm năm trước đã một mình lội ngược
dòng sông này lên tận thượng nguồn đoạn mò mẫm bao nhiêu tháng trời giữa chốn
núi non hoang vu ấy để tìm đầu nguồn Nam Ô, con sông đổ ra biển phía nam chân
đèo Hải Vân. Kẻ phiêu lưu khác thường ấy muốn cống hiến cho đời một con đường
thứ hai ra Huế noi theo lòng hai dòng sông lớn, tránh được đoạn đèo mây phủ nhiều
trắc trở hiểm nghèo. Nhưng dự án đó không bao giờ được thực hiện và đã đi theo
tác giả của nó về cõi thiên thu hư ảo; câu chuyện nghe như cổ tích ấy giờ đây
chỉ còn lưu vết trong mấy gánh sách phế thải bị các mụ hàng rong mang đi gói
xôi gói mắm. Tôi định hỏi chị hướng dẫn xem chị có biết gì về cuộc phiêu lưu xa
xưa ấy không nhưng không còn thời giờ nữa. Chiếc minibus đã nổ máy, bà kỹ sư
đang dìu ông cụ râu tóc bạc phơ bước lên xe, chị con gái Huế cũng vén tà áo
theo sau mấy đứa trẻ. Tôi tưởng tượng một dấu chân khổng lồ mờ dần nơi góc núi
thẳm kia và nghĩ bụng, thôi ngoái lại làm gì.
Chiếc xích lô như không còn sức lăn dù bác phu nhổm người cố
đạp. Người con trai nhảy gọn xuống bên lề vừa cười đùa:
- Nàng chịu khó ngồi kiệu một mình nhé!
Rồi khoan thai bước theo người phu xích lô lúc ấy đã xuống
yên đẩy bộ chiếc xe lên dốc. Cổ thụ đổ bóng râm khắp nơi, nhánh to nhánh nhỏ vẽ
đường nét lung linh giữa các chùm hoa nắng.Trên xe người con gái sau tà áo dài
thiên thanh nửa hân hoan, nửa e thẹn dặn chừng:
- Lát nữa anh không được nói với me là hai đứa cùng ngồi
xích lô đến, hiểu chưa?
- Răng rứa? chàng trai hỏi nghịch với cái giọng baryton
của mình.
- Đập chết chừ! Không nói dối thì me sẽ đuổi anh ra khỏi
nhà chứ răng!
Chàng trai nhìn người yêu, cố nén nỗi ngây ngất dạt dào để
buông thêm một câu đùa:
- Cô đẹp như thế ai nỡ để ngồi xích lô. Tôi sẽ báo cáo với
cả nhà là đã bồng cô trên tay đi từ bờ sông đến đây.
Và trong đầu chàng nghĩ, nếu thật được như vậy thì mười cái dốc
mình cũng trèo chứ nói chi một cái dốc Nam Giao đáng tội này!
Cô gái làm mặt lạnh một phút nhưng niềm hạnh phúc khó kềm đã
buột miệng thay:
- Bạo gan đến rứa thì em gọi cảnh sát bắt đem về đồn cắt
trụi tóc cho biết chừ!
Chiếc xe đã lên hết dốc, người con trai năn nỉ với ánh mắt
thiết tha:
- Cho anh lên kiệu với.
Vừa an tọa xong, chàng kề miệng vào mái tóc mật của nàng thì
thào:
- Cái mặt trữ tình lãng mạn coi vậy mà ác! Tôi bị cạo trọc
thì ai sẽ phạm tội dụ dỗ kẻ tu hành?
Mái tóc dài sinh viên văn khoa của chàng lúc ấy là mục tiêu bố
ráp của cảnh sát và quân cảnh mấy vùng chiến thuật. Nàng biết rõ gót chân của
người hùng vì mỗi bận đe dọa như thế chàng cụt hứng mất năm phút không còn bụng
dạ chòng ghẹo ai nữa. Cũng bởi chuyến ra mắt ba me nàng mà anh chàng đã phải tỉa
gọn mái đầu vì nàng đã viết dăm ba bức thư với cái điệp khúc chiêu dụ :“Anh phải
hy sinh chuyện tóc tai nếu thật lòng thương em. Gia đình bằng lòng anh mọi mặt
chỉ trừ khoản đó.” Ôi công sức nàng đã bỏ ra để làm tâm lý chiến với hai đấng
sinh thành: tài ba, đứng đắn, lịch thiệp, thôi thì đủ thứ mỹ từ nàng đã gắn lên
diện mục người mình yêu. Cũng may chàng đã đổ đầu kỳ thi tốt nghiệp vừa qua và
trên mấy bức ảnh chụp với nhau mặt mũi chàng cũng không đến đổi tối tăm hốc
hác. Trong thư nàng còn viện thêm giai thoại về bộ râu tên vô phúc nào đang ngắm
nghé cô em kế; bộ râu đã bị tế thần vì không lọt được vào cảm quan ông bố vợ
tương lai. Vậy về phần mình, chẳng lẽ chàng không thỏa hiệp được vài phân tóc?
Giờ đây mái tóc đã lấy lại phong độ sau mấy tuần giang hồ.
Nghĩ lại, chàng không ân hận lắm vì đã toa rập với khổ nhục kế của nàng. Bù vào
đó, hai người đã sống bên nhau những ngày thần tiên dưới mái nhà với khu vườn
nhỏ của nàng, tung tăng trên những con đường thuở học trò mơ mộng của nàng. Mối
tình được các bậc phụ mẫu ban phép lành khiến đôi môi nàng ngọt ngào hơn, sóng
biển xôn xao hơn, đêm trăng trong vườn ngất ngây hơn. Hỡi những ngày hè tuyệt vời
hơn bất cứ bài thơ tình nào của chàng và hắn ta bỗng la to với mấy thân cây già
và gạch ngói rêu phong:” mùa hè muôn năm! mùa hè vạn tuế!” khiến người con gái
ngơ ngác, đôi mắt nai rừng mở to âu yếm.
Xuống xe nơi góc đường họ cùng rão bộ. Chiếc xe hơi dài màu
trắng đã đưa cả hai thăm viếng khắp cố đô đậu trước hàng hiên, buổi giỗ kỵ chắc
đã bắt đầu. Hai người bước vào nhà. Nơi chái nhà, ba mẹ và dì nàng đã tề tựu
quanh mâm cúng. Chàng được giới thiệu thân mật với các họ hàng chưa quen rồi được
mời vào tiệc. Hơn nửa tháng qua ở Đà Nẵng, chàng là khách thường xuyên của gia
đình nàng. Hôm nay chàng chính thức xuất hiện với gia đình lớn bên ngoại nàng ở
Huế. Mới ngày nào là hai người hoàn toàn xa lạ thế mà…ấm cúng thay không gian
nhỏ của gia tộc khi đã được chiếc chìa khoá tình yêu mở cửa. Chợt dâng lên
trong lòng chàng niềm cảm kích đối với tất cả, trời đất, thánh thần, định mệnh,
loài người, với tà áo tha thướt và bóng dáng kiều nữ đã dâng cho mình tâm hồn với
trái tim. Người con trai hạnh phúc lặng ngắm bạn và nàng, như đọc được ý nghĩ của
chàng, đỏ mặt gắp thức ăn vào chén cho chàng vừa nói qua hơi thở: ăn đi anh.
Nhưng chàng thưởng thức bằng mắt nhiều hơn là miệng các món
chả, nộm, gõi, mắm, mặn, ngọt, chua, cay bày la liệt trên phản trong vô số đĩa,
cái nào cũng nhỏ bằng hộp diêm, gắp một đũa là sạch nhẵn. Chàng sẽ nhớ mãi sự cầu
kỳ dễ thương này, sẽ cảm nhận khoảnh khắc khó quên này với toàn bộ óc tim tri
giác, sẽ mang niềm hạnh ngộ này về cõi chết xa xăm. Lâng lâng trong nỗi đắm
say, chàng không còn biết mình đang sống thực hoặc chiêm bao; tiếng chuyện trò
quanh mâm cúng âm vang xa vắng, giọng nói thanh và khẻ của người con gái cứ phải
nhắc:
- Răng anh như mất hồn không nói năng chi rứa?
Tôi thờ thẫn bước qua ngạch cửa. Có phải lịch sử là tên đạo
diễn thất học đã lắp ráp một cách vô duyên đến thế hai đoạn phim của đời tôi?
Cũng nơi này, chốn này, cái chái hiên, mấy căn buồng tối hẹp…Bỏ dở cái rổ đầy
bèo, rau muống vung vãi nơi sân sau, con bé ốm còm đã địu thằng em choắt đẹt chạy
qua hàng xóm – nó ngờ nghệch khi nghe tôi hỏi chuyện và chợt nhớ ra tôi đã cười
thầm cho nỗi nông cạn của mình. Chúng nó lúc ấy chưa đầu thai làm sao biết được
gốc gác lai lịch căn phố này với những chủ xưa của nó. Cái gì đã xảy ra, hỡi
bèo cám, rau muống, lợn gà! Mấy câu thơ về thời gian dâu bể bất ngờ dội ngân
trong tiềm thức. Orphée với Từ Thức ơi, cho tôi xin gia nhập câu lạc bộ của các
người!
Cơn địa chấn thời thế đã xé đôi tất cả và mấy thước vuông
không gian này có phải là cái hộp thần thoại còn đậy kín chút hương tàn? Tôi nhắm
mắt đưa tay sờ soạng mấy tấm phên vách như một người chết rờ rẫm vách nhà mồ,
gan tim co thắt.
- Chú tìm bà thẩm phán hỉ? Bà chừ không còn ở đây mô!
Tiếng nói lạ đập vào thần trí, tôi mở mắt nhìn. Hai nhóc bẩn
thỉu khi nãy đã quay lại dẫn theo một cụ hom hem nhưng ánh mắt còn linh lợi:
- Bà bán nhà năm, bảy năm rồi, từ hồi con gái theo chồng
sang Mỹ. Con trai bà vẫn còn trong trại cải tạo chưa được thả. Nghe đâu bà xuống
Nha Trang ở với đứa cháu.
Không đợi tôi cật vấn, lão đã sốt sắng giảng giải. Tôi còn tần
ngần nơi mép hiên tranh tối tranh sáng nhìn đám người tò mò tụ tập bên kia hàng
dậu; chưa biết lui tới ra sao thì lão ta đã sốt sắng cung cấp thêm lượng thông
tin tối hậu làm quà cho người khách phưong xa:
- Này, bà phán còn người cháu ruột gọi mình là cô nhà ở
gần đây. Ông ta dân tập kết sau bảy lăm về làm nhân viên bưu điện Huế. Chú qua
con lộ, men theo hông cái nhà kho kia, vừa nói lão vừa chỉ hướng với mấy ngón lấm
đất vì giồng khoai đang cuốc dở, rẽ tay mặt đến ngôi nhà có khu vườn rộng hỏi
ông Sung, Tôn Thất Sung, cho tường tận.
Tôi cảm ơn ông già, nghĩ bụng còn gì nữa đâu mà đánh liều nhắm
mắt đưa chân, vậy mà vẫn bước thấp bước cao như kẻ mộng du nương theo mấy khoảng
tường nặc danh ngoặt vô một lối cây lá um tùm, lần nữa chui vào ngõ bí quá khứ.
Vậy mà tôi đã nhắm đúng hướng. Đứng giữa cái sân rộng cố chấn
chỉnh lại tâm thần và bộ dạng điềm tĩnh của một kẻ văn minh vào những dịp thăm
viếng xã giao, tôi chờ người nhà gọi ông Sung ra. Cây kiểng chung quanh có vẻ
tiêu sơ, vài lá chết nằm trên mặt đất trơ vơ không cọng cỏ. Tôi ngước nhìn trời
chiều giữa mấy tàng cây, chợt ý thức mơ hồ rằng mình đang đóng kịch với nỗi niềm
và ký ức khói sương. Giờ này bên kia trùng dương em đang làm gì? Chiếc xe nho
nhỏ lạc loài đâu đó giữa mê hồn trận xa lộ liên bang, và chiếc răng sâu tình
yêu còn dăm mảnh gãy vỡ chôn vùi đáy nhớ thỉnh thoảng có còn gây nhức buốt?
Cuộc gặp mặt diễn ra ngắn ngủi với ít câu trao đổi gần như vô
vị. Chúng tôi ngồi nơi cái bàn nhỏ kê sát cửa ra vào. Ông Sung tuổi trạc ngũ tuần
người còn quắc thước chịu khó nghe mấy câu hỏi của kẻ không quen và có vẻ trả lời
cho xong chuyện. Gần như đôi mắt ông không nhìn thẳng mặt tôi bao giờ mà mệt
mõi hướng về đâu đâu, đôi lúc trở nên xa vắng như chủ nhân chúng đã lùi về một
nơi chốn mịt mù thoát khỏi thực tại và thời đại. Tôi đoán nhanh: thế cuộc đã
làm tan nát gia tộc ông và chia rẽ hai phe, một bên trôi giạt phía trời Tây, một
bên còn lại ông cô độc với mớ kinh nghiệm tang thương; và tôi đã vô tình đánh
thức một vết thương ông chỉ muốn chôn vùi vào quên lãng. Sau mấy mươi năm gian
khổ, trở về gia hương làm người công chức hai buổi đi về với đồng lương không đủ
để mua thuốc hút trong khi quan thày cấp trên ra rả hàng ngày những khẩu hiệu
chỉ tiêu, giành ăn với dân đen từng miếng thịt. Quá khứ đối với ông chỉ là tha
ma vĩ đại, trước mặt là sa mạc và những ngày thiếu nước. Cũng may còn ngôi nhà
ông cha để lại làm chốn nương thân. Vẻ cằn cỗi trong nét mặt tố giác một nỗi buồn
gặm nhấm tâm can ông vào lúc chiều tà. Bất giác tôi ớn mình trong mối đồng cảm
u uất: cũng như tôi, ông là một kẻ thất chí.
Phải ra đi ngay, và không bao giờ trở lại. Vĩnh biệt, vĩnh biệt
tất cả. Chập choạng tôi bước khỏi khu vườn thê lương, trong đầu trống hoát. Người
con cả của ông Sung đưa tôi ra đường cái, vừa đi vừa nói như bào chữa:
- Huế bây giờ đói rách lắm. Người thân đến nhà nhau
không dám mời cơm. Thèm ly cà phê nhỏ cũng phải nhịn!
Anh ta dẫn tôi qua cây cầu ngắn đến bến xe, móc gói thuốc
trong túi ra mời và nói thêm:
- Mấy năm trước tôi có vào Sài Gòn chơi. Thấy dân trong
đó tiêu tiền như rác mà thất kinh. Người trong Nam vậy mà vẫn sướng.
Tôi ậm à ậm ừ chìa tay nhận điếu thuốc đen vì lễ phép - tôi
cai hút đã lâu - cúi xuống mồi đóm lửa đoạn bắt tay anh ta leo nhanh lên yên
sau chiếc xe đạp thồ.
Chiếc xe vòng vèo một đỗi trên mấy lối vắng rồi đâm ra đường
lớn dọc sông Hương. Tôi ngó trân mặt nước vàng cháy dưới nắng quái, ngôi trường
Đồng Khánh, nhà Thủy Tạ, mấy băng ghế đá trống… Chỉ qua rạp hát bên kia sông
tay thồ xe đạp kể tiếp về vụ án vừa xét xử hôm qua trong rạp, nãy giờ anh ta
huyên thiên chuyện vợ mới sanh đứa con còn bú, hộp sữa không có tiền mua, miếng
cơm manh áo ngày càng đắt đỏ. Mấy tên công an thuế vụ đã lừa tiền và lừa tình một
mụ đi buôn, tôi chịu đựng nghe anh ta thêm thắt chi tiết cho cái đêm bọn chúng
thay phiên hành lạc với nạn nhân sau khi đã hứa quịt là sẽ trả tự do sáng hôm
sau cho mụ cùng với món hàng lậu bị bắt giữ. Trong đầu xáo trộn những chuyện
xưa nay tôi ngồi im không nói năng gì. Chen vào đoàn xe đạp nơi ngã tư Trường
Tiền, chiếc xe thồ vọt lên đằng trước. Tôi ngoái nhìn lối nhỏ rẽ qua nhà bưu điện
nơi tôi đứng viết bức thư tình gấp gáp duy nhất ở Huế năm xưa, xót xa nhìn khu
cư xá cuối đường vừa hồi tưởng một đêm đơn độc trên lầu cao nhìn từng cặp trai
gái quây quần ấm cúng trong buổi văn nghệ trong sân cư xá mà ruột gan co thắt vì
người tình đã rời khỏi vòng tay mình ngày hôm trước. Lách qua mấy xích lô chạy
ngược chiều kiếm khách, chiếc nào như chiếc nấy chỉ có mấy manh gỗ hoặc sắt
thép kê lót chỗ ngồi, tưởng tôi im lặng để lắng nghe gã xe thồ vừa đạp gấp vừa
kể thêm về cuộc sống cùng khổ thường ngày của dân tình dưới ách hà chính và
công an bạo ngược. Tôi chợt nhận ra vầng dương đang xuống thấp trên mái chợ
Đông Ba. Giữa mấy nhịp cầu lớn chắp vá, thưa thớt người qua lại. Ngày cuối cùng
của tôi với Huế đang âm thầm chấm hết.
Nhét vội món tiền gấp nhiều lần cuốc xe vào tay xong bỏ gã lại
bên lề phố với nỗi bất mãn ứ tràn, tôi bước nhanh vào khách sạn, leo hai ba bậc
một lúc phóng lên cầu thang. Sân thượng khách sạn hầu như trống vắng. Gió mát từ
máy điều hòa phả vào những bức màn mỏng làm nhảy múa các đóa hoa tím vàng in
trên lụa. Tôi kéo ghế gieo mình xuống. Mặt trời lừ con mắt quái vật bên kia
khung kính nhìn vào. Mấy chiếc đò neo dưới bến, đen đủi như lũ côn trùng to xác
giữa những đóm lửa trời lấp lánh trên dòng nước. Tà áo bay bay, cô hầu bàn thướt
tha bước đến rót bia vào ly rồi thoăn thoắt quay đi, yễu điệu như chim. Tôi
nâng ly sủi bọt trắng ngầu pha trộn sắc tà dương lên miệng. Thằng con giờ này
chắc đã tắm mát xong, diện áo quần mới tụ tập chơi domino với mấy bạn nhóc.
Trên nệm êm phòng ngủ dưới lầu, thân hình đàn bà vừa ngâm trong nước ấm thơm ứ
căng sức sống đợi chờ mời mọc.Vầng dương đang rơi nhanh trước mặt. Tôi mường tượng
quang cảnh rách rưới, hôi tanh, mệt nhọc của buổi chợ chiều với đám mụ già gạ
bán vài rổ tré nem ế ẩm. Tôi lại lê bóng trong trí tưởng xuyên đoạn cầu kỷ niệm,
tạt qua Kim Long một mình lên Linh Mụ ngắm lần cuối ánh hoàng hôn trên mối tình
chết…
Thực khách lần lượt kéo vào, ghế bàn chung quanh bắt đầu bị
xâm chiếm. Còn vài khoảnh khắc nữa là đêm, là sự dỗ ru của bóng tối cho những hố
mắt chất chứa bất bình và
cam chịu. Tôi gọi thêm thức uống và cô chiêu đãi, cũng là
nàng ấy từ mấy hôm qua, đến rồi đi đài các kiêu sa như lướt trên một diện tích
pha lê sau khi đã đặt nhẹ trước mặt tôi mớ ly chén vô tình. Tôi chợt nhớ đến
các kiều nữ Botticelli, cảm thấy khôi hài và lạc lõng chút kiến thức thẩm mỹ
còn vấn vương trong não bộ. Này mặt trời sắp tắt, ta xin uống những giọt máu cuối
của mi pha với hoài niệm hấp hối của ta, uống lần cuối cho những con đường xưa,
những bờ cát vắng, những rặng thùy dương, những tối công viên, uống lần cuối
cho âm thanh của biển và tiếng hát của em, lần cuối cho vòng tay ta, cho khúc
sông buồn…
Hai người ngoại quốc đi kèm với tay thông dịch kéo ghế cái
bàn bên cạnh. Thứ tiếng nói lạ tai râm ran, hình như có âm sắc slave, Ba Lan
hay Tiệp? Đúng lúc ấy, ghi ta điện với trống bập bùng trỗi lên. Khúc ca khốn khổ
mấy năm rồi thịnh hành khắp các trà đình, tửu quán quốc doanh lại sắp gào rên.
Tôi rảo mắt một vòng. Thiên hạ cắm cúi ăn uống trò chuyện, không một ai có vẻ
giật mình hay xao xuyến vì mấy câu hát định mệnh vừa bắt đầu lải nhải. Tôi nốc
liên tiếp mấy hơi, đặt ly cạn xuống nhìn lên mới hay mặt trời đã lặn mất. Tôi
bước ra bao lơn, nhìn theo dòng sông chảy xuôi về Vĩ Dạ, chảy xuôi về Thuận An,
xuôi ra biển Đông, lẩm nhẩm hát theo:
On the river of Babylon,
There we sat down,
And then we wept…
Huế, 1985
Chân Phương
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét