(Luận về ý thức mới sau mười năm lang bạt)
Tặng Phạm Trung Cang, Phạm Thế Hùng, Phạm Hoàng Dũng, Phạm Quốc Khanh, Phạm Ngọc Hoa, Phạm Ngọc Thanh, Phạm Ngọc Bích
GỬI MỘT NGƯỜI ĐỌC KHÔNG QUEN
CÙNG CHÁY MỘT THỨ LỬA THIÊNG NHƯ TÔI
CÙNG ĐƯỢC NUÔI BẰNG MỘT THỨ NƯỚC ĐIÊN NÀO ĐÓ CHẢY TRÔI NHƯ TÔI
CÙNG SỐNG NHƯ TÔI ĐANG SỐNG
CHÁY
VÀ CHẢY
CHÁY VÀ CHẢY KHÔNG NGỪNG…
1.
Sài Gòn ngày 25 tháng 4 năm 1970
Bức thư này được viết ra để đóng lại mười năm và mở ra mười năm khác. Nhân dịp quyển Ý thức mới trong văn nghệ và triết học được tái bản lần thứ tư; ông Thanh Tuệ, giám đốc nhà xuất bản An Tiêm có ý muốn tôi viết đôi lời gọi là “sau mười năm lang bạt nhìn lại ý thức mới…”
Tôi thực sự bắt đầu viết quyển Ý thức mới trong văn nghệ và triết học vào năm 1960 (thực sự khởi từ năm 1959), nghĩa là lúc tôi được mười tám và mười chín tuổi. Bây giờ tôi gần 30 tuổi. Bao nhiêu nước chảy trôi phăng qua cầu trong mười năm trời. Bây giờ nhìn lại chặng đường xưa, tôi không ngờ lúc 18 - 19 tuổi tôi lại thông minh dễ thương như vậy, rồi nhớ lại lúc 13-14 tuổi cho đến lúc 16 tuổi, tôi đã xuất bản một quyển, sách về ngôn ngữ học và đã viết trên 20 quyển sách về văn học quốc tế và ngôn ngữ học (trong đó có một quyển mà Nguyễn Hiến Lê đề tựa giới thiệu và ngạc nhiên không ngờ tôi mới 16 tuổi), sau này khi tôi được 18 tuổi thì tôi đốt sạch hết tất 20 quyển ấy!
Tai nạn lớn lao nhất trong đời tôi là phải chịu đoạ đầy làm thần đồng lúc còn thơ dại, rồi lúc lớn lên làm thanh niên thì phải chịu đoạ đầy làm thiên tài.
Bây giờ gần 30 tuổi thì tôi lại xuống núi (chứ không phải lên núi như Zarathustra) để làm nước chảy ồn ào trong những lỗ cống của cuộc đời.
Thực ra còn đến hai tháng nữa, tôi mới đúng 29 tuổi. Tôi cho phép tôi làm nước chảy trong cống rãnh trong thời gian một năm nữa thôi, từ 29 tuổi đến 30 tuổi.
Từ 30 tuổi trở đi cho đến 40 tuổi thì tôi sẽ không là tôi nữa. Đó là điều bí mật chỉ có tôi mới biết rõ vì sao tôi sẽ không là tôi nữa.
Từ 40 tuổi cho đến 50 tuổi, hư vô sẽ thổi trên mặt đất.
Từ 50 tuổi cho đến 60 tuổi thì kỷ nguyên Tây lịch đã tới năm 2000.
Từ 60 tuổi cho đến 70 tuổi thì trái đất sẽ rất nhiều chim, những con chim biết nói tiếng Phạn.
Từ 70 tuổi cho đến 80 tuổi thì núi Hy mã lạp sơn sẽ sụp đổ và chảy tan thành một đại dương mới.
Từ 80 tuổi cho đến 90 thì Thái Bình Dương sẽ trở thành nấm mồ chôn hết lục địa.
Từ 90 tuổi cho đến 100 thì mặt trời trở thành mặt trăng và mặt trăng trở thành địa cầu mới.
2. Tôi không là một tên tiên tri nào cả, ngôn ngữ của tôi là ngôn ngữ của thi sĩ. Ai muốn hiểu làm sao thì hiểu.
Ngôn ngữ của người điên không khác ngôn ngữ của thi sĩ lắm, chỉ có khác một điều: xã hội loài người có dựng lên bao nhiêu nhà thương điên mà không chịu dựng lên nhà thương thi sĩ.
Khi muốn phản đối người nào thì người ta nhốt hắn vào nhà thương điên; từ ngày bệnh điên trở thành một cái thời trang làm dáng cho bọn tự nhận là thiên tài thì phân tâm học ra đời tự nhận là phi thiên tài. Cái hạng người gọi là “bình thường” đầy dẫy ở mặt đất: trước khi nói một lời thì họ uốn lưỡi bảy lần, và vì uốn lưỡi nhiều quá cho nên lưỡi họ trở thành cong cong như lưỡi câu cá. Tội nghiệp cho những con cá mắc câu!
Nhưng nếu trường hợp chính tôi lại bị mắc câu thì cứ cho mắc câu! Vì mắc câu cũng thơ mộng! Tôi sống không cần đề phòng gì cả, tất cả cửa đều mở sẵn: ai muốn len vào để “thích khách” thì cứ len vào; tôi không phòng thủ, không tự vệ, không giữ gìn. Tôi không chịu đựng nổi những hạng người hay nói đến những “phương cách đối trị”… Chỉ có một phương cách đối trị duy nhất là buông bỏ.
Cơn bịnh trầm trọng của thời đại là tiếng ồn ào, tiếng ồn nầy kéo tới tiếng ồn khác, tiếng ồn của cơ khí, của súng đạn, của động cơ, tiếng bom nổ là tượng trưng phát biểu cho tiếng nổ vỡ của ý thức con người. Sứ mạng của chúng ta, những thi sĩ của trái đất, là phải giúp cho ý thức con người bùng vỡ lên như một cái nấm đỏ khổng lồ, cho ý thức nổ lên như một trái bom một triệu tấn. Chúng ta có chịu đựng nổi tiếng nổ kinh thiên động địa ấy không?
Nếu ý thức của con người không thể bùng nổ được như trái bom khinh khí thì trái bom khinh khí sẽ bùng nổ thay thế ý thức con người. Hoặc là tôi hoặc là cái khác thay thế tôi. Con người chỉ chạy đuổi theo những cái thay thế cho con người. Ý thức luôn luôn chạy tìm cái thay thế cho ý thức: không bao giờ là thế mà luôn luôn thay thế.
LÀ THẾ, chữ Phạn gọi là yathàbhùtam. Chỉ có một chỗ ở độc nhất là ở chỗ là thế yathàbhùtasvalakshanàvasthànàyasthitam.
Kinh Lankàvatàra Sutra dạy tôi rằng phải có “âm hưởng nhẫn” (Ghoshànugakshànti) mới nhận ra được tiếng nổ động trời của “chuyên thức” (Paràvritti) trong cái - là - thế, trong cái- nhìn -thấy- như- là- thế: yathàtathyadarsana.
Tôi vẫn thích viết chữ Phạn, thích nói chữ Phạn, mặc dù tôi vẫn chưa thuộc hết bảng mẫu tự chữ Phạn!
Hãy giải thoát ra khỏi bảng mẫu tự chữ Phạn!
Giải thoát không có nghĩa là chạy.
Giải thoát là CHÁY
VÀ CHẢY
Cháy như thế, chảy như thế.
Chảy như thế thì từ tu du này đến tu du khác, từ giây phút này đến giây phút khác, từ mười năm này đến mười năm khác, từ cuộc đời này đến cuộc đời khác, từ vĩnh cửu này đến vĩnh cửu khác, từ thiên thai này đến thiên thai khác, từ tên tuổi này đến tên tuổi khác, “từ lâu đài này đến lâu đài khác” (Céline), từ “giác ngộ” đến “một mùa ở hoả ngục” (Rimbaud), từ Tropic of Cancer cho đến Tropic of Capricorn (Henry Miller), từ chiếc taxi cho đến tiếng cười và cuộc đời vô hạn (William Saroyan)
Xin trích dẫn Saroyan: “Một chàng trai trẻ kêu gọi một chiếc taxi và đi đến bờ đại dương, cởi áo ra, cởi cà vạt ra và bước xuống biển rộng bao la và la rống lên như người mới được cứu sống dậy: Ô, trời ơi, tôi đã chết. Ô trời, tôi đã chết, rồi anh chàng nhìn ra đằng xa mặt biển bao la và cười ầm lên như đứa con nít lên ba và chửi thề và khóc và nhảy và nhìn và bỗng nhiên nhìn thấy và bỗng nhiên nhìn thấy và Ồ Ồ BỖNG NHIÊN NHÌN THẤY và vội bước đi nhanh huýt gió một điệu nhạc của cuộc sống thiên thu và bắt đầu la hét vào mặt ông trời ồ ồ tôi đã chết và tôi biết rằng mi điên vì phải điên để cho cái chết là cuộc đời và để cho người sống phải chết và tôi biết rằng ngài chết và bây giờ ngài sống và bước đi trên mặt nước và nó la hét lên như một đứa trẻ nít một đứa trẻ đáng thương lạc lõng trong sự vô biên của thời gian ồ hỡi Trời đời sống của tôi ở đâu rồi và té ngã xuống cát ướt và ôm chặt sự ướt át ôm chặt cuộc đời mất mát của nó như ôm cát vô hạn cuộc đời của nó chôn mất trong lòng biển và la hét rằng nó sẽ không chết như con người sống mà sẽ chết như cuộc đời chết nó yêu cái chết nó cười ầm lên như một đứa bé chết như một con người chết và lúc những đợt sống đến và đi không ngừng nghỉ nó cười ầm không dứt khi mà thời gian chảy trôi không ngừng và chết không ngừng và sẽ là thế không ngừng và CHẢY KHÔNG NGỪNG...”
Và Henry Miller chú giải: “BỖNG NHIÊN NHÌN THẤY... Cái đó là thế, là thế. Khi một người nhìn thấy như thế thì thế giới bắt đầu rung động lay chuyển và những cơn đại hồng thủy đổ ào vang dội náo động mọi sự”.
3. Trong ngôn ngữ nhân loại, không có dân tộc nào có được tiếng nói có âm hưởng kỳ lạ như mấy tiếng Việt sau đây:
CÙNG CHÁY MỘT THỨ LỬA THIÊNG NHƯ TÔI
CÙNG ĐƯỢC NUÔI BẰNG MỘT THỨ NƯỚC ĐIÊN NÀO ĐÓ CHẢY TRÔI NHƯ TÔI
CÙNG SỐNG NHƯ TÔI ĐANG SỐNG
CHÁY
VÀ CHẢY
CHÁY VÀ CHẢY KHÔNG NGỪNG…
1.
Sài Gòn ngày 25 tháng 4 năm 1970
Bức thư này được viết ra để đóng lại mười năm và mở ra mười năm khác. Nhân dịp quyển Ý thức mới trong văn nghệ và triết học được tái bản lần thứ tư; ông Thanh Tuệ, giám đốc nhà xuất bản An Tiêm có ý muốn tôi viết đôi lời gọi là “sau mười năm lang bạt nhìn lại ý thức mới…”
Tôi thực sự bắt đầu viết quyển Ý thức mới trong văn nghệ và triết học vào năm 1960 (thực sự khởi từ năm 1959), nghĩa là lúc tôi được mười tám và mười chín tuổi. Bây giờ tôi gần 30 tuổi. Bao nhiêu nước chảy trôi phăng qua cầu trong mười năm trời. Bây giờ nhìn lại chặng đường xưa, tôi không ngờ lúc 18 - 19 tuổi tôi lại thông minh dễ thương như vậy, rồi nhớ lại lúc 13-14 tuổi cho đến lúc 16 tuổi, tôi đã xuất bản một quyển, sách về ngôn ngữ học và đã viết trên 20 quyển sách về văn học quốc tế và ngôn ngữ học (trong đó có một quyển mà Nguyễn Hiến Lê đề tựa giới thiệu và ngạc nhiên không ngờ tôi mới 16 tuổi), sau này khi tôi được 18 tuổi thì tôi đốt sạch hết tất 20 quyển ấy!
Tai nạn lớn lao nhất trong đời tôi là phải chịu đoạ đầy làm thần đồng lúc còn thơ dại, rồi lúc lớn lên làm thanh niên thì phải chịu đoạ đầy làm thiên tài.
Bây giờ gần 30 tuổi thì tôi lại xuống núi (chứ không phải lên núi như Zarathustra) để làm nước chảy ồn ào trong những lỗ cống của cuộc đời.
Thực ra còn đến hai tháng nữa, tôi mới đúng 29 tuổi. Tôi cho phép tôi làm nước chảy trong cống rãnh trong thời gian một năm nữa thôi, từ 29 tuổi đến 30 tuổi.
Từ 30 tuổi trở đi cho đến 40 tuổi thì tôi sẽ không là tôi nữa. Đó là điều bí mật chỉ có tôi mới biết rõ vì sao tôi sẽ không là tôi nữa.
Từ 40 tuổi cho đến 50 tuổi, hư vô sẽ thổi trên mặt đất.
Từ 50 tuổi cho đến 60 tuổi thì kỷ nguyên Tây lịch đã tới năm 2000.
Từ 60 tuổi cho đến 70 tuổi thì trái đất sẽ rất nhiều chim, những con chim biết nói tiếng Phạn.
Từ 70 tuổi cho đến 80 tuổi thì núi Hy mã lạp sơn sẽ sụp đổ và chảy tan thành một đại dương mới.
Từ 80 tuổi cho đến 90 thì Thái Bình Dương sẽ trở thành nấm mồ chôn hết lục địa.
Từ 90 tuổi cho đến 100 thì mặt trời trở thành mặt trăng và mặt trăng trở thành địa cầu mới.
2. Tôi không là một tên tiên tri nào cả, ngôn ngữ của tôi là ngôn ngữ của thi sĩ. Ai muốn hiểu làm sao thì hiểu.
Ngôn ngữ của người điên không khác ngôn ngữ của thi sĩ lắm, chỉ có khác một điều: xã hội loài người có dựng lên bao nhiêu nhà thương điên mà không chịu dựng lên nhà thương thi sĩ.
Khi muốn phản đối người nào thì người ta nhốt hắn vào nhà thương điên; từ ngày bệnh điên trở thành một cái thời trang làm dáng cho bọn tự nhận là thiên tài thì phân tâm học ra đời tự nhận là phi thiên tài. Cái hạng người gọi là “bình thường” đầy dẫy ở mặt đất: trước khi nói một lời thì họ uốn lưỡi bảy lần, và vì uốn lưỡi nhiều quá cho nên lưỡi họ trở thành cong cong như lưỡi câu cá. Tội nghiệp cho những con cá mắc câu!
Nhưng nếu trường hợp chính tôi lại bị mắc câu thì cứ cho mắc câu! Vì mắc câu cũng thơ mộng! Tôi sống không cần đề phòng gì cả, tất cả cửa đều mở sẵn: ai muốn len vào để “thích khách” thì cứ len vào; tôi không phòng thủ, không tự vệ, không giữ gìn. Tôi không chịu đựng nổi những hạng người hay nói đến những “phương cách đối trị”… Chỉ có một phương cách đối trị duy nhất là buông bỏ.
Cơn bịnh trầm trọng của thời đại là tiếng ồn ào, tiếng ồn nầy kéo tới tiếng ồn khác, tiếng ồn của cơ khí, của súng đạn, của động cơ, tiếng bom nổ là tượng trưng phát biểu cho tiếng nổ vỡ của ý thức con người. Sứ mạng của chúng ta, những thi sĩ của trái đất, là phải giúp cho ý thức con người bùng vỡ lên như một cái nấm đỏ khổng lồ, cho ý thức nổ lên như một trái bom một triệu tấn. Chúng ta có chịu đựng nổi tiếng nổ kinh thiên động địa ấy không?
Nếu ý thức của con người không thể bùng nổ được như trái bom khinh khí thì trái bom khinh khí sẽ bùng nổ thay thế ý thức con người. Hoặc là tôi hoặc là cái khác thay thế tôi. Con người chỉ chạy đuổi theo những cái thay thế cho con người. Ý thức luôn luôn chạy tìm cái thay thế cho ý thức: không bao giờ là thế mà luôn luôn thay thế.
LÀ THẾ, chữ Phạn gọi là yathàbhùtam. Chỉ có một chỗ ở độc nhất là ở chỗ là thế yathàbhùtasvalakshanàvasthànàyasthitam.
Kinh Lankàvatàra Sutra dạy tôi rằng phải có “âm hưởng nhẫn” (Ghoshànugakshànti) mới nhận ra được tiếng nổ động trời của “chuyên thức” (Paràvritti) trong cái - là - thế, trong cái- nhìn -thấy- như- là- thế: yathàtathyadarsana.
Tôi vẫn thích viết chữ Phạn, thích nói chữ Phạn, mặc dù tôi vẫn chưa thuộc hết bảng mẫu tự chữ Phạn!
Hãy giải thoát ra khỏi bảng mẫu tự chữ Phạn!
Giải thoát không có nghĩa là chạy.
Giải thoát là CHÁY
VÀ CHẢY
Cháy như thế, chảy như thế.
Chảy như thế thì từ tu du này đến tu du khác, từ giây phút này đến giây phút khác, từ mười năm này đến mười năm khác, từ cuộc đời này đến cuộc đời khác, từ vĩnh cửu này đến vĩnh cửu khác, từ thiên thai này đến thiên thai khác, từ tên tuổi này đến tên tuổi khác, “từ lâu đài này đến lâu đài khác” (Céline), từ “giác ngộ” đến “một mùa ở hoả ngục” (Rimbaud), từ Tropic of Cancer cho đến Tropic of Capricorn (Henry Miller), từ chiếc taxi cho đến tiếng cười và cuộc đời vô hạn (William Saroyan)
Xin trích dẫn Saroyan: “Một chàng trai trẻ kêu gọi một chiếc taxi và đi đến bờ đại dương, cởi áo ra, cởi cà vạt ra và bước xuống biển rộng bao la và la rống lên như người mới được cứu sống dậy: Ô, trời ơi, tôi đã chết. Ô trời, tôi đã chết, rồi anh chàng nhìn ra đằng xa mặt biển bao la và cười ầm lên như đứa con nít lên ba và chửi thề và khóc và nhảy và nhìn và bỗng nhiên nhìn thấy và bỗng nhiên nhìn thấy và Ồ Ồ BỖNG NHIÊN NHÌN THẤY và vội bước đi nhanh huýt gió một điệu nhạc của cuộc sống thiên thu và bắt đầu la hét vào mặt ông trời ồ ồ tôi đã chết và tôi biết rằng mi điên vì phải điên để cho cái chết là cuộc đời và để cho người sống phải chết và tôi biết rằng ngài chết và bây giờ ngài sống và bước đi trên mặt nước và nó la hét lên như một đứa trẻ nít một đứa trẻ đáng thương lạc lõng trong sự vô biên của thời gian ồ hỡi Trời đời sống của tôi ở đâu rồi và té ngã xuống cát ướt và ôm chặt sự ướt át ôm chặt cuộc đời mất mát của nó như ôm cát vô hạn cuộc đời của nó chôn mất trong lòng biển và la hét rằng nó sẽ không chết như con người sống mà sẽ chết như cuộc đời chết nó yêu cái chết nó cười ầm lên như một đứa bé chết như một con người chết và lúc những đợt sống đến và đi không ngừng nghỉ nó cười ầm không dứt khi mà thời gian chảy trôi không ngừng và chết không ngừng và sẽ là thế không ngừng và CHẢY KHÔNG NGỪNG...”
Và Henry Miller chú giải: “BỖNG NHIÊN NHÌN THẤY... Cái đó là thế, là thế. Khi một người nhìn thấy như thế thì thế giới bắt đầu rung động lay chuyển và những cơn đại hồng thủy đổ ào vang dội náo động mọi sự”.
3. Trong ngôn ngữ nhân loại, không có dân tộc nào có được tiếng nói có âm hưởng kỳ lạ như mấy tiếng Việt sau đây:
CHAY (có nghĩa: trong sạch. Theo Việt Nam tự điển của Hội Khai trí Tiến Đức)
CHÁY (có nghĩa: bén hay bốc lửa lên. Theo VNTĐHKTTĐ)
CHÀY (có nghĩa bóng: liều lĩnh không có lý sự. Theo VNTĐHKTTĐ)
CHẢY (có nghĩa: trôi đi, tuôn ra. Theo VNTĐHKTTĐ)
CHẠY (có nghĩa: đi nhanh, gót chân không bén xuống đất… nói về cái gì thoát, không vấp, không tắc. Theo VNTĐHKTTĐ)
Tất cả tư tưởng triết lý đạo lý của Việt Nam đã nằm trong năm chữ trên. Con đường của tinh thần Việt Nam phải đi trên năm bước tuần tự: trước nhất phải trong sạch thuần khiết, phải giữ nguyên tính thuần túy, sạch sẽ, không pha trộn với ngoại chất (CHAY), nhờ thế thì sức mạnh tâm linh mới bừng cháy dậy như cơn hoả hoạn thiêng liêng thiêu đốt cho tan hết mọi nhỏ nhoi tầm thường rác rưởi (CHÁY) và nhờ ngọn lửa thiêng liêng bùng cháy trong tim cho nên sống hồn nhiên liều lĩnh, không cần tranh đua lý sự gì nữa cả vượt lên trên mọi dự trù tính toán và lồng lộng phăng phăng, ngang dọc, đâù đội trời chân đạp đất, liều lĩnh, không sợ hãi (CHÀY) vì sống như thế, nên sức sống ào ạt phăng mạnh như nước lũ (CHẢY) cho nên không vướng mắc gì nữa, không vấp, không kẹt vào trong bất cứ cái gì trên đời này (CHẠY).
Không cần phải đọc Platon, Aristote, Kant, Hegel hay Karl Marx, không cần phải đọc Khổng Tử và Lão Tử không cần phải đọc Upanishads và Bhagavad Gita, chúng ta chỉ cần đọc lại ngôn ngữ Việt Nam và nói lại tiếng Việt Nam và bỗng nhiên nhìn thấy rằngtất cả đạo lý triết lý cao siêu nhất của nhân loại đã nằm sẵn trong vài ba tiếng Việt đơn sơ như CON và CÁI, như CHÁY, CHAY, CHÁY, CHÀY, CHẢY, CHẠY và còn biết bao nhiêu điều đáng suy nghĩ khác mà chúng ta đã bỏ quên một cách ngu xuẩn.
4. “Bios: tên của cái cung (bios) là đời sống (bios), tác nghiệp của nó là cái chết.”
Ý nghĩa của những tiếng CHÁY, CHAY, CHÁY, CHÀY, CHẢY, CHẠY cũng giống như ý nghĩa của hai tiếng BIÓS - BÍOS của Héraclite: chỉ một thoáng đổi nhẹ âm thanh thì cái sống biến thành cái chết và cái chết biến thành cái sống.
Đọc nhấn mạnh chữ Hy lạp bios ở nơi vần trước cuối (paroxyton) thì bíos có nghĩa sống mà có đọc nhấn mạnh ở vần cuối (oxyton) thì biós có nghĩa là cây cung và tác động của cây cung là cái chết.
Cây cung (biós) mang tên là đời sống (bíos) mà lại gây ra cái chết. Tất cả mọi sự mâu thuẫn đối nghịch giao hợp trên một đầu âm thanh run rẩy.
Cây cung là trò chơi của cái chết và sự chơi chữ giữa hai âm thanh run rẩy biós và bíos cũng là trò chơi của cái chết.
Sự hôn phối giữa đời sống và cái chết chính là sự giao hợp của lửa và nước: lửa và nước đã giao nhau trong một âm thanh Việt Nam duy nhất CHAY và sự ba động của âm thanh này toả ra tác động của lửa trong ý nghĩa tích cực (CHÁY) và ý nghĩa tiêu cực (CHÀY), đồng thời toả ra tác động của nước trong ý nghĩa tích cực (CHẢY) và ý nghĩa tiêu cực (CHẠY).
Định phận của Việt Nam bốc lên như lửa cháy (chiến tranh) và nuôi sống những đồng ruộng xanh như nước chảy (sông Cái và sông Cửu Long).
Triết lý của Nước Việt Nam phải là Triết lý Việt Nam về Nước. Hai ý nghĩa nằm gọn trong một âm thanh: Nước.
5. Và đây là lời cuối cùng của một nhân vật Dostoievski:
“TÔI SỢ PHẢI TỎ RA CÓ TÂM HỒN CAO THƯỢNG.”
Và lời nói chuyện giữa Kirilov và Stavroguine mà Henry Miller trích lại trong một bức thư gửi cho Fraenkel ngày 7 tháng 9 năm 1937. -
Không cần phải đọc Platon, Aristote, Kant, Hegel hay Karl Marx, không cần phải đọc Khổng Tử và Lão Tử không cần phải đọc Upanishads và Bhagavad Gita, chúng ta chỉ cần đọc lại ngôn ngữ Việt Nam và nói lại tiếng Việt Nam và bỗng nhiên nhìn thấy rằngtất cả đạo lý triết lý cao siêu nhất của nhân loại đã nằm sẵn trong vài ba tiếng Việt đơn sơ như CON và CÁI, như CHÁY, CHAY, CHÁY, CHÀY, CHẢY, CHẠY và còn biết bao nhiêu điều đáng suy nghĩ khác mà chúng ta đã bỏ quên một cách ngu xuẩn.
4. “Bios: tên của cái cung (bios) là đời sống (bios), tác nghiệp của nó là cái chết.”
Ý nghĩa của những tiếng CHÁY, CHAY, CHÁY, CHÀY, CHẢY, CHẠY cũng giống như ý nghĩa của hai tiếng BIÓS - BÍOS của Héraclite: chỉ một thoáng đổi nhẹ âm thanh thì cái sống biến thành cái chết và cái chết biến thành cái sống.
Đọc nhấn mạnh chữ Hy lạp bios ở nơi vần trước cuối (paroxyton) thì bíos có nghĩa sống mà có đọc nhấn mạnh ở vần cuối (oxyton) thì biós có nghĩa là cây cung và tác động của cây cung là cái chết.
Cây cung (biós) mang tên là đời sống (bíos) mà lại gây ra cái chết. Tất cả mọi sự mâu thuẫn đối nghịch giao hợp trên một đầu âm thanh run rẩy.
Cây cung là trò chơi của cái chết và sự chơi chữ giữa hai âm thanh run rẩy biós và bíos cũng là trò chơi của cái chết.
Sự hôn phối giữa đời sống và cái chết chính là sự giao hợp của lửa và nước: lửa và nước đã giao nhau trong một âm thanh Việt Nam duy nhất CHAY và sự ba động của âm thanh này toả ra tác động của lửa trong ý nghĩa tích cực (CHÁY) và ý nghĩa tiêu cực (CHÀY), đồng thời toả ra tác động của nước trong ý nghĩa tích cực (CHẢY) và ý nghĩa tiêu cực (CHẠY).
Định phận của Việt Nam bốc lên như lửa cháy (chiến tranh) và nuôi sống những đồng ruộng xanh như nước chảy (sông Cái và sông Cửu Long).
Triết lý của Nước Việt Nam phải là Triết lý Việt Nam về Nước. Hai ý nghĩa nằm gọn trong một âm thanh: Nước.
5. Và đây là lời cuối cùng của một nhân vật Dostoievski:
“TÔI SỢ PHẢI TỎ RA CÓ TÂM HỒN CAO THƯỢNG.”
Và lời nói chuyện giữa Kirilov và Stavroguine mà Henry Miller trích lại trong một bức thư gửi cho Fraenkel ngày 7 tháng 9 năm 1937. -
“Một chiếc lá, một chiếc lá thôi. Chiếc lá đẹp, tất cả đều tốt đẹp’’.
“Tất cả à?"
“Tất cả. Con người không hạnh phúc vì hắn không biết rằng hắn hạnh phúc. Chỉ vì lý do ấy mà thôi’’.
“Tất cả mọi sự nằm ở đó! Tất cả mọi sự LÀ THẾ! Kẻ nào biết được như thế sẽ được hạnh phúc ngay lập tức. Nàng sẽ chết, đứa con sẽ còn lại. Tất cả đều tốt đẹp. Tôi vừa khám phá ra đột ngột như thế.’’
“Và nếu có một người nào chết đói, nếu có người nào làm bậy đối với một đứa con gái bé nhỏ, lăng nhục vấy bẩn nó, thế thì điều ấy có tốt không?’’
“Vâng, cũng tốt. Và nếu người ta chẻ sọ kẻ ấy vì hắn đã làm bậy đứa bé thì điều này cũng tốt nữa. Và nếu không có ai làm như thế thì cũng tốt nữa, tốt, tốt. Tất cả đều tốt hết, tất cả. Chỉ có những kẻ biết rằng tất cả đều tốt đẹp thì mới là những kẻ hạnh phúc. Nếu họ biết rằng họ hạnh phúc thì họ sẽ thấy hạnh phúc ngay. Nhưng khi vừa lúc họ không biết rằng họ hạnh phúc thì họ sẽ không hạnh phúc ngay. Đó, ý tưởng đó, tất cả trọn vẹn ý tưởng ở đó. Ngoài ý tưởng này, chẳng có ý tưởng nào khác nữa’’.
(Les Posssédé, bản dịch của Jean Chuzeville, trang 220 - 221)
“Tất cả à?"
“Tất cả. Con người không hạnh phúc vì hắn không biết rằng hắn hạnh phúc. Chỉ vì lý do ấy mà thôi’’.
“Tất cả mọi sự nằm ở đó! Tất cả mọi sự LÀ THẾ! Kẻ nào biết được như thế sẽ được hạnh phúc ngay lập tức. Nàng sẽ chết, đứa con sẽ còn lại. Tất cả đều tốt đẹp. Tôi vừa khám phá ra đột ngột như thế.’’
“Và nếu có một người nào chết đói, nếu có người nào làm bậy đối với một đứa con gái bé nhỏ, lăng nhục vấy bẩn nó, thế thì điều ấy có tốt không?’’
“Vâng, cũng tốt. Và nếu người ta chẻ sọ kẻ ấy vì hắn đã làm bậy đứa bé thì điều này cũng tốt nữa. Và nếu không có ai làm như thế thì cũng tốt nữa, tốt, tốt. Tất cả đều tốt hết, tất cả. Chỉ có những kẻ biết rằng tất cả đều tốt đẹp thì mới là những kẻ hạnh phúc. Nếu họ biết rằng họ hạnh phúc thì họ sẽ thấy hạnh phúc ngay. Nhưng khi vừa lúc họ không biết rằng họ hạnh phúc thì họ sẽ không hạnh phúc ngay. Đó, ý tưởng đó, tất cả trọn vẹn ý tưởng ở đó. Ngoài ý tưởng này, chẳng có ý tưởng nào khác nữa’’.
(Les Posssédé, bản dịch của Jean Chuzeville, trang 220 - 221)
Tôi đang hạnh phúc, vì tôi biết rằng tôi đang hạnh phúc. Tôi xin chúc cho mọi người đều biết rằng họ đang hạnh phúc.
Tôi không còn muốn tự tử như mười năm trước, vì tôi không muốn tỏ ra mình có tâm hồn cao thượng! Càng lớn lên tôi càng hạnh phúc rõ rệt thêm lên. Cái tôi nhỏ bé, ích kỷ, hạn hẹp cũng đã chảy phăng ra biển cả. Thần đồng và thiên tài chỉ còn là trò chơi của trẻ thơ.
Không còn tôi hạnh phúc mà chỉ là cơn hạnh phúc đang chảy liên miên bất tận, bằng một ý thức lan rộng ra mãi mãi, bằng cách CHÁY sáng ngời hơn mãi, cho mãi đến ngay cả trí nhớ cũng phải tự chìm mất đi, không còn nữa.
“... by an ever-expanding consciousness, by BURNING more and more brightly, until even memory itself vanishes”
HENRY MILLER PHẠM CÔNG THIỆN
(The Wisdom of the Heart)
Heartville ngày 25 tháng 4 năm, 1970
Mười năm sau khi bắt đầu viết quyển Ý thức mới trong văn nghệ và triết học.
Chú ý:
Trong những chương kế tiếp đây, phần in chữ đứng là phần nội dung của Ý thức mới trong văn nghệ và triết học giống như lần xuất bản thứ nhất, thứ hai và thứ ba.
Riêng lần tái bản thứ tư này, tác giả có viết thêm những ghi chú của mình, những cái nhìn hiện tại chiếu ngược lại quá khứ. Tất cả những ghi chú này được in bằng chữ nghiêng. Con người ba mươi tuổi đối mặt với con người hai mươi tuổi: hai bên giao tranh nhau trong một cuộc tương tranh thân ái mà sự thất bại hiển nhiên là nằm ở những dòng chữ nghiêng.
Nhưng phải chăng chỉ biết được rằng mình hạnh phúc là sau khi đã thất bại vì không chịu chảy ngược lại đằng sau?
Một số chương trong quyển nầy đã đăng rải rác trong những tạp chí ở Saigon vào những năm 1960 - 1962; mỗi bài đều phản ảnh tâm trạng người viết vào những năm ấy. Tâm trạng ấy là tâm trạng của một người bị giam hãm trong đời sống.
Quyển sách này gợi lại một ý thức nào đó trong đời người viết, ghi lại một chặng đường gió loạn đã đi qua, một quãng đời đã trôi ra biển.
Tháng 7 năm 1964
Tôi không còn muốn tự tử như mười năm trước, vì tôi không muốn tỏ ra mình có tâm hồn cao thượng! Càng lớn lên tôi càng hạnh phúc rõ rệt thêm lên. Cái tôi nhỏ bé, ích kỷ, hạn hẹp cũng đã chảy phăng ra biển cả. Thần đồng và thiên tài chỉ còn là trò chơi của trẻ thơ.
Không còn tôi hạnh phúc mà chỉ là cơn hạnh phúc đang chảy liên miên bất tận, bằng một ý thức lan rộng ra mãi mãi, bằng cách CHÁY sáng ngời hơn mãi, cho mãi đến ngay cả trí nhớ cũng phải tự chìm mất đi, không còn nữa.
“... by an ever-expanding consciousness, by BURNING more and more brightly, until even memory itself vanishes”
HENRY MILLER PHẠM CÔNG THIỆN
(The Wisdom of the Heart)
Heartville ngày 25 tháng 4 năm, 1970
Mười năm sau khi bắt đầu viết quyển Ý thức mới trong văn nghệ và triết học.
Chú ý:
Trong những chương kế tiếp đây, phần in chữ đứng là phần nội dung của Ý thức mới trong văn nghệ và triết học giống như lần xuất bản thứ nhất, thứ hai và thứ ba.
Riêng lần tái bản thứ tư này, tác giả có viết thêm những ghi chú của mình, những cái nhìn hiện tại chiếu ngược lại quá khứ. Tất cả những ghi chú này được in bằng chữ nghiêng. Con người ba mươi tuổi đối mặt với con người hai mươi tuổi: hai bên giao tranh nhau trong một cuộc tương tranh thân ái mà sự thất bại hiển nhiên là nằm ở những dòng chữ nghiêng.
Nhưng phải chăng chỉ biết được rằng mình hạnh phúc là sau khi đã thất bại vì không chịu chảy ngược lại đằng sau?
Một số chương trong quyển nầy đã đăng rải rác trong những tạp chí ở Saigon vào những năm 1960 - 1962; mỗi bài đều phản ảnh tâm trạng người viết vào những năm ấy. Tâm trạng ấy là tâm trạng của một người bị giam hãm trong đời sống.
Quyển sách này gợi lại một ý thức nào đó trong đời người viết, ghi lại một chặng đường gió loạn đã đi qua, một quãng đời đã trôi ra biển.
Tháng 7 năm 1964
Nha Trang, tháng 6 năm 1963 [1]
Huy,
Suốt đời tôi chắc chắn không bao giờ tôi quên được đôi mắt ước lệ của một nàng ca sĩ mà chúng mình đã nhìn thấy vào một đêm mưa tầm tã trong một phòng trà mờ tối ở Saigon.
Viết những dòng chữ này vào năm đúng 22 tuổi bây giờ có lẽ tôi lạnh lùng hơn, không còn ai khóc khả dĩ làm tôi rung động như thuở 22 tuổi.
Thương xót, đau khổ với, Mitleiden, tôi phải tiêu diệt tất cả mọi đau khổ với. Sự cám dỗ cuối cùng của Zarathustra là “đau khổ với” hay nói khác đi, “lòng thương hại, thương xót, trắc ẩn”. Chữ Pháp “pitié” không thể diễn tả được ý nghĩa của chữ Đức “Mitleid”.
Hình ảnh đau buồn lặng lẽ ấy đã ám ảnh tôi suốt những đêm dài âm u ở vùng biển xanh.
Tôi vẫn không quên được một tối cùng ngồi với Huy nơi một quán rượu bên bờ sông Saigon. Đêm ấy, trời làm mưa, trời làm gió… Mưa phủ kín hết những chiếc tàu. Mưa phủ kín hết những hoài vọng triền miên của tuổi trẻ. Tôi nhìn những chiếc lá ướt mưa, tôi nhìn lên đôi mắt của Huy và tôi thấy đôi mắt đó thật xa xăm, thật y buồn… Trong đêm tối, tôt chợt nghe rõ âm vang đâu đó, giọng hát ru khuya của những nàng ca sĩ yếu gầy. Rồi tôi thấy những con đường Sài Gòn phủ đầy lá vàng. Rồi tôi thấy tuổi trẻ chạy trốn, và những con sông chảy âm thầm về biển…
Tôi đã từ bỏ sông Sài Gòn để trở về biển, tôi về đây, sống biệt lập trên một đồi cao. Những đêm khuya nằm nghe gió đìu hiu và tiếng sóng vỗ xa, tôi bỗng nhớ lại những ngày vui của chúng mình ở Sài Gòn.
Ôi! Những ngày vui ấy qua mau quá. Qua mau như khói thuốc. Qua mau như nắng quái chiều hôm. Qua mau như tuổi trẻ chúng mình. Và tất cả chỉ còn là kỷ niệm sẽ làm ta đau khổ. Nước mắt sẽ tuôn chảy và tuổi trẻ gục mặt buồn…
Tuổi trẻ gục mặt buồn như bức tượng gục đầu của Rodin. Kiên nhẫn, kiên nhẫn âm u. Tuổi trẻ Rilke gặp Rodin và hỏi: “Phải sống như thế nào?”. Rodin trả lời: “Làm việc”. Không phải làm việc như tên nô lệ, mà phải làm việc với tiếng hát của con chim hoạ mi.
Có thể người ta sẽ bảo chúng mình là những kẻ sướt mướt. Những kẻ chạy trốn, những kẻ thua cuộc và đầu hàng trước cuộc đời. Và chúng ta chỉ biết trả lời bằng nụ cười câm lặng, hay một tia nhìn chứa chan. Rồi chúng ta lạy trời cho mưa rơi thật nhiều. Ừ, mưa rơi đi, rơi nữa đi! Mưa hãy rơi thật nhiều vì trần gian này khô cạn quá rồi. Đất đã cằn, và lòng người đã biến thành sỏi đá…
Thực ra tiếng hát đã ngừng lại trong tim chúng ta, phải không Huy? Đôi mắt bất động. Tuổi trẻ đã quên hát. Tuổi trẻ đã câm. Bởi vì chúng ta đã già trước tuổi… Tôi tưởng tượng những người phu ca hát trên một bến tàu. Tôi hình dung những trẻ nhỏ nô đùa bên xóm vắng. Tôi mường tượng tiếng chim hót ban mai. Và thấy đó là những hình ảnh tốt đẹp cuối cùng của cuộc đời…
Những tối sống thê lê ở Sài Gòn, chúng mình đã đi lang thang trên những phố buồn, để rồi cuối cùng, tụ về những hộp đêm, gục đầu nghe tiếng hát bên ngoài gục đầu đón tiếng hát bên ngoài, vì chúng mình đã mất hết tiếng hát bên trong, và chim non đã thôi hót trong lòng tuổi trẻ.
Một tối, giữa tiếng hát não nùng của một nàng ca sĩ bơ vơ, Huy đã than thở cùng tôi: “Rồi đây, đời mình sẽ đi đến đâu?”
“Ai đến đâu? Đi về đâu?”. Hình như Napoléon đã nói một câu đại loại: “Kẻ đi xa nhất là kẻ không biết mình đi đâu.”
“Một ngày kia sẽ chết tàn lụi trong một xó xỉnh nào đó, không ai hay biết…” Tôi ngậm ngùi trước lời than thở của Huy và chỉ biết nắm tay Huy mỉm cười; bởi vì, đối với tôi, lúc nào tôi cũng chỉ mong mình sẽ không đi đến đâu cả, và suốt đời, tôi chỉ mong được chết trong một xó xỉnh nào đó, và chẳng cần ai hay biết hết. Cả đời tôi, tôi chỉ mong được như vậy.
Người ta sống, đều cần phải đi về một nơi nhất định. Riêng tôi, thì chẳng cần về đâu cả. Và tôi mong Huy sẽ có ý muốn như tôi.
Lúc nào tôi chết, tôi chỉ muốn được người ta vùi thây tôi xuống bùn, và tôi muốn mọi người sẽ quên tôi đi, như quên một con chó lạc đường. Chí có thế thôi… Huy ạ…
“Con chó lạc đường, con chó lạc chủ”
Khổng Tử tự nói rằng mình giống “con chó mất chủ”. Năm 22 tuổi, kẻ thù không đội trời chung của tôi là Khổng Tử. Bây giờ gần ba mươi tuổi, tôi mới thấy thấm thía rằng Khổng Tử đáng là ông cố ngoại của tôi.
Nhớ Huy, tôi nhớ đến đôi mắt xa xôi của Huy. Tôi nhớ đến những viên thuốc ngủ của Huy và tôi nhớ đến những đêm Huy ngồi nhìn mông lung xuống dòng sông. Lần sau gặp lại Huy, tôi cũng nghe Huy than thở như những lần trước.
Trước kia, tôi thường nghĩ như Huy. Nhưng bây giờ tôi không còn nghĩ thế nữa. Tôi không còn than thở. Tôi không còn đau khổ. Bây giờ tôi là kẻ sung sướng nhất trần gian. Tôi cười cả khi tôi đang ngủ. Tôi không còn tiếc thương dĩ vãng. Con người hạnh phúc nhất là con người tuyệt vọng.
Tuyệt vọng và hy vọng như hai quả cân, đi lên và đi xuống. Tất cả sự đi lên đều là “anh hùng rơm”. Dám đi xuống, xuống, xuống tận đáy. Hố thẳm.
Tôi là con người ấy. Bởi vì Huy còn hy vọng, nên Huy còn đau khổ. Trái lại, tôi hết hy vọng, nên tôi mới sung sướng. Còn hy vọng, nghĩa là còn nghĩ đến ngày mai, nghĩa là đã quên ngày hôm nay. Huy đau khổ vì Huy đã quên ngày hôm nay, vì Huy đã trông chờ ngày mai. Mà ngày mai sẽ không bao giờ đến, vì ngày mai cũng sẽ chỉ là ngày hôm nay...
“Ôi những ngày vui qua mau!’’, Huy thường nói với bạn bè như vậy. Huy đã buồn khổ vì những ngày vui trôi đi nhanh quá. Tôi lại khác Huy, tôi hoàn toàn sung sướng khi thấy những ngày vui bỏ đi quá mau. Tôi ngược hẳn Huy. Đối với tôi, những ngày vui qua càng mau thì tôi càng sung sướng. Tôi rất yêu những đoá hoa chóng tàn. Hoa càng mau tàn thì lại càng đẹp. Tôi rất ghét những bông hoa nở lâu. Lạy trời cho những ngày vui qua thật mau. Cho tuổi trẻ chóng tàn và cho những người con gái chết lúc hãy còn xuân đẹp...
Hiện nay, mỗi ngày, tôi đều sống với sự chết trên đôi mắt tôi. Tôi yêu sự chết. Tôi đã “làm ái tình’’ với cái chết. Chính sự chết đã làm cuộc đời trở nên đẹp. Đẹp như một đoá phù dung chóng tàn.
Vì tôi yêu sự chết, nên tôi yêu cuộc đời đến độ ngây ngất. Tình yêu ấy chính là Ý thức mới thoát hiện lên từ cơn tuyệt vọng cùng cực của con người. Tôi đã từng nói với Huy rằng chính Charlot là một thiên tài vĩ đại nhất của nhân loại, vĩ đại hơn Shakespeare, vĩ đại hơn tất cả những văn hào, triết gia cao siêu ở thế giới. Đối với tôi, Charlot vĩ đại nhất, vì Charlot đã làm tôi cười tất mọi sự bi đát ở đời!
Khỉ có cười không? Nếu tất cả mọi người đều cười hết thì thế giới trở thành chuồng khỉ lớn rộng.
Ừ, tôi đang cười. Và tôi muốn mọi người cùng cười với tôi.
Người được tôi viết bức thư này bây giờ không còn là bạn tôi nữa. Hắn đối đãi với tôi rất tốt, rất cao thượng, rất độ lượng và bao dung. Nhưng vẫn có cái gì trong hắn đã khiến tôi cảm thấy hàon toàn xa lạ với hắn. Cách đây vài tháng, tôi và hắn được dịp gặp nhau lần cuối cùng để chia tay nhau vĩnh viễn. Hắn mong rằng tôi hiểu lòng hắn, một tấm lòng cao thượng. Nhưng tôi không chịu hiểu và không đủ khả năng để hiểu. Có thể đối với hắn, tôi là thằng mọi rợ, bạc tình, ích kỷ. Nhưng tôi có thể là gì nữa, khi chỉ còn sự lạnh lùng là ngôn ngữ cuối cùng của con đường ngược lối? Tôi chúc hắn hạnh phúc và xin bắt tay lại trong hình ảnh xưa. Vĩnh biệt.
Ừ, những ngày vui qua mau! Hãy cười đi, Huy! Hãy vui lên đi, Huy! vì những ngày vui qua mau! Cuộc đời qua mau! Và rồi đây, chúng mình sẽ chết âm thầm không cần ai hay biết...
PHẠM CÔNG THIỆN
Huy,
Suốt đời tôi chắc chắn không bao giờ tôi quên được đôi mắt ước lệ của một nàng ca sĩ mà chúng mình đã nhìn thấy vào một đêm mưa tầm tã trong một phòng trà mờ tối ở Saigon.
Viết những dòng chữ này vào năm đúng 22 tuổi bây giờ có lẽ tôi lạnh lùng hơn, không còn ai khóc khả dĩ làm tôi rung động như thuở 22 tuổi.
Thương xót, đau khổ với, Mitleiden, tôi phải tiêu diệt tất cả mọi đau khổ với. Sự cám dỗ cuối cùng của Zarathustra là “đau khổ với” hay nói khác đi, “lòng thương hại, thương xót, trắc ẩn”. Chữ Pháp “pitié” không thể diễn tả được ý nghĩa của chữ Đức “Mitleid”.
Hình ảnh đau buồn lặng lẽ ấy đã ám ảnh tôi suốt những đêm dài âm u ở vùng biển xanh.
Tôi vẫn không quên được một tối cùng ngồi với Huy nơi một quán rượu bên bờ sông Saigon. Đêm ấy, trời làm mưa, trời làm gió… Mưa phủ kín hết những chiếc tàu. Mưa phủ kín hết những hoài vọng triền miên của tuổi trẻ. Tôi nhìn những chiếc lá ướt mưa, tôi nhìn lên đôi mắt của Huy và tôi thấy đôi mắt đó thật xa xăm, thật y buồn… Trong đêm tối, tôt chợt nghe rõ âm vang đâu đó, giọng hát ru khuya của những nàng ca sĩ yếu gầy. Rồi tôi thấy những con đường Sài Gòn phủ đầy lá vàng. Rồi tôi thấy tuổi trẻ chạy trốn, và những con sông chảy âm thầm về biển…
Tôi đã từ bỏ sông Sài Gòn để trở về biển, tôi về đây, sống biệt lập trên một đồi cao. Những đêm khuya nằm nghe gió đìu hiu và tiếng sóng vỗ xa, tôi bỗng nhớ lại những ngày vui của chúng mình ở Sài Gòn.
Ôi! Những ngày vui ấy qua mau quá. Qua mau như khói thuốc. Qua mau như nắng quái chiều hôm. Qua mau như tuổi trẻ chúng mình. Và tất cả chỉ còn là kỷ niệm sẽ làm ta đau khổ. Nước mắt sẽ tuôn chảy và tuổi trẻ gục mặt buồn…
Tuổi trẻ gục mặt buồn như bức tượng gục đầu của Rodin. Kiên nhẫn, kiên nhẫn âm u. Tuổi trẻ Rilke gặp Rodin và hỏi: “Phải sống như thế nào?”. Rodin trả lời: “Làm việc”. Không phải làm việc như tên nô lệ, mà phải làm việc với tiếng hát của con chim hoạ mi.
Có thể người ta sẽ bảo chúng mình là những kẻ sướt mướt. Những kẻ chạy trốn, những kẻ thua cuộc và đầu hàng trước cuộc đời. Và chúng ta chỉ biết trả lời bằng nụ cười câm lặng, hay một tia nhìn chứa chan. Rồi chúng ta lạy trời cho mưa rơi thật nhiều. Ừ, mưa rơi đi, rơi nữa đi! Mưa hãy rơi thật nhiều vì trần gian này khô cạn quá rồi. Đất đã cằn, và lòng người đã biến thành sỏi đá…
Thực ra tiếng hát đã ngừng lại trong tim chúng ta, phải không Huy? Đôi mắt bất động. Tuổi trẻ đã quên hát. Tuổi trẻ đã câm. Bởi vì chúng ta đã già trước tuổi… Tôi tưởng tượng những người phu ca hát trên một bến tàu. Tôi hình dung những trẻ nhỏ nô đùa bên xóm vắng. Tôi mường tượng tiếng chim hót ban mai. Và thấy đó là những hình ảnh tốt đẹp cuối cùng của cuộc đời…
Những tối sống thê lê ở Sài Gòn, chúng mình đã đi lang thang trên những phố buồn, để rồi cuối cùng, tụ về những hộp đêm, gục đầu nghe tiếng hát bên ngoài gục đầu đón tiếng hát bên ngoài, vì chúng mình đã mất hết tiếng hát bên trong, và chim non đã thôi hót trong lòng tuổi trẻ.
Một tối, giữa tiếng hát não nùng của một nàng ca sĩ bơ vơ, Huy đã than thở cùng tôi: “Rồi đây, đời mình sẽ đi đến đâu?”
“Ai đến đâu? Đi về đâu?”. Hình như Napoléon đã nói một câu đại loại: “Kẻ đi xa nhất là kẻ không biết mình đi đâu.”
“Một ngày kia sẽ chết tàn lụi trong một xó xỉnh nào đó, không ai hay biết…” Tôi ngậm ngùi trước lời than thở của Huy và chỉ biết nắm tay Huy mỉm cười; bởi vì, đối với tôi, lúc nào tôi cũng chỉ mong mình sẽ không đi đến đâu cả, và suốt đời, tôi chỉ mong được chết trong một xó xỉnh nào đó, và chẳng cần ai hay biết hết. Cả đời tôi, tôi chỉ mong được như vậy.
Người ta sống, đều cần phải đi về một nơi nhất định. Riêng tôi, thì chẳng cần về đâu cả. Và tôi mong Huy sẽ có ý muốn như tôi.
Lúc nào tôi chết, tôi chỉ muốn được người ta vùi thây tôi xuống bùn, và tôi muốn mọi người sẽ quên tôi đi, như quên một con chó lạc đường. Chí có thế thôi… Huy ạ…
“Con chó lạc đường, con chó lạc chủ”
Khổng Tử tự nói rằng mình giống “con chó mất chủ”. Năm 22 tuổi, kẻ thù không đội trời chung của tôi là Khổng Tử. Bây giờ gần ba mươi tuổi, tôi mới thấy thấm thía rằng Khổng Tử đáng là ông cố ngoại của tôi.
Nhớ Huy, tôi nhớ đến đôi mắt xa xôi của Huy. Tôi nhớ đến những viên thuốc ngủ của Huy và tôi nhớ đến những đêm Huy ngồi nhìn mông lung xuống dòng sông. Lần sau gặp lại Huy, tôi cũng nghe Huy than thở như những lần trước.
Trước kia, tôi thường nghĩ như Huy. Nhưng bây giờ tôi không còn nghĩ thế nữa. Tôi không còn than thở. Tôi không còn đau khổ. Bây giờ tôi là kẻ sung sướng nhất trần gian. Tôi cười cả khi tôi đang ngủ. Tôi không còn tiếc thương dĩ vãng. Con người hạnh phúc nhất là con người tuyệt vọng.
Tuyệt vọng và hy vọng như hai quả cân, đi lên và đi xuống. Tất cả sự đi lên đều là “anh hùng rơm”. Dám đi xuống, xuống, xuống tận đáy. Hố thẳm.
Tôi là con người ấy. Bởi vì Huy còn hy vọng, nên Huy còn đau khổ. Trái lại, tôi hết hy vọng, nên tôi mới sung sướng. Còn hy vọng, nghĩa là còn nghĩ đến ngày mai, nghĩa là đã quên ngày hôm nay. Huy đau khổ vì Huy đã quên ngày hôm nay, vì Huy đã trông chờ ngày mai. Mà ngày mai sẽ không bao giờ đến, vì ngày mai cũng sẽ chỉ là ngày hôm nay...
“Ôi những ngày vui qua mau!’’, Huy thường nói với bạn bè như vậy. Huy đã buồn khổ vì những ngày vui trôi đi nhanh quá. Tôi lại khác Huy, tôi hoàn toàn sung sướng khi thấy những ngày vui bỏ đi quá mau. Tôi ngược hẳn Huy. Đối với tôi, những ngày vui qua càng mau thì tôi càng sung sướng. Tôi rất yêu những đoá hoa chóng tàn. Hoa càng mau tàn thì lại càng đẹp. Tôi rất ghét những bông hoa nở lâu. Lạy trời cho những ngày vui qua thật mau. Cho tuổi trẻ chóng tàn và cho những người con gái chết lúc hãy còn xuân đẹp...
Hiện nay, mỗi ngày, tôi đều sống với sự chết trên đôi mắt tôi. Tôi yêu sự chết. Tôi đã “làm ái tình’’ với cái chết. Chính sự chết đã làm cuộc đời trở nên đẹp. Đẹp như một đoá phù dung chóng tàn.
Vì tôi yêu sự chết, nên tôi yêu cuộc đời đến độ ngây ngất. Tình yêu ấy chính là Ý thức mới thoát hiện lên từ cơn tuyệt vọng cùng cực của con người. Tôi đã từng nói với Huy rằng chính Charlot là một thiên tài vĩ đại nhất của nhân loại, vĩ đại hơn Shakespeare, vĩ đại hơn tất cả những văn hào, triết gia cao siêu ở thế giới. Đối với tôi, Charlot vĩ đại nhất, vì Charlot đã làm tôi cười tất mọi sự bi đát ở đời!
Khỉ có cười không? Nếu tất cả mọi người đều cười hết thì thế giới trở thành chuồng khỉ lớn rộng.
Ừ, tôi đang cười. Và tôi muốn mọi người cùng cười với tôi.
Người được tôi viết bức thư này bây giờ không còn là bạn tôi nữa. Hắn đối đãi với tôi rất tốt, rất cao thượng, rất độ lượng và bao dung. Nhưng vẫn có cái gì trong hắn đã khiến tôi cảm thấy hàon toàn xa lạ với hắn. Cách đây vài tháng, tôi và hắn được dịp gặp nhau lần cuối cùng để chia tay nhau vĩnh viễn. Hắn mong rằng tôi hiểu lòng hắn, một tấm lòng cao thượng. Nhưng tôi không chịu hiểu và không đủ khả năng để hiểu. Có thể đối với hắn, tôi là thằng mọi rợ, bạc tình, ích kỷ. Nhưng tôi có thể là gì nữa, khi chỉ còn sự lạnh lùng là ngôn ngữ cuối cùng của con đường ngược lối? Tôi chúc hắn hạnh phúc và xin bắt tay lại trong hình ảnh xưa. Vĩnh biệt.
Ừ, những ngày vui qua mau! Hãy cười đi, Huy! Hãy vui lên đi, Huy! vì những ngày vui qua mau! Cuộc đời qua mau! Và rồi đây, chúng mình sẽ chết âm thầm không cần ai hay biết...
PHẠM CÔNG THIỆN
Nha Trang, tháng 6 năm 1963
Hồng,
Quyển này tôi muốn viết riêng cho anh, nghĩa là tôi muốn viết riêng cho thế hệ trẻ, từ 15 đến 25 tuổi mà anh là hình ảnh tượng trưng.
Tại sao giới hạn từ 15 đến 25 tuổi? Giới hạn này chỉ có tính cách tượng trưng. Bây giờ, 29 tuổi, tôi còn nổi loạn hơn lúc 9 tuổi. Nổi loạn, ai cũng có thể nổi loạn được. Nổi loạn một cách im lặng, một cách tự nhiên, một cách vô hình mới khó. Những kẻ nổi loạn hùng hổ lúc trẻ lại là những kẻ phản động nhất lúc trưởng thành. Nổi loạn một cách vô danh, đó là bổn phận của tôi.
Tôi viết riêng cho các anh, nhưng thực ra tôi cũng viết riêng cho tôi để nhắc nhở tôi, để gây lại ý thức trong tôi; bởi vì tôi cũng đang nằm trong tuổi các anh, tôi cũng đau đớn nỗi đau đớn của các anh, chúng ta cùng nằm chung trong nỗi khủng hoảng, niềm khắc khoải quằn quại vô biên của tuổi trẻ.
Ngoài kia đang mưa, tại sao tôi không chạy ra ngoài mưa, tại sao tôi vẫn còn đây để viết lên những dòng cay đắng nầy? Khói lửa đang vây bủa đầy trời Việt Nam. Cũng như Alan Paton, tôi muốn kêu lên: “Hãy khóc đi, hỡi quê hương yêu dấu…”
Chúng ta đều cùng một thế hệ; sở dĩ tôi muốn xác định giới hạn từ 15 tuổi đến 25 tuổi vì dưới 15 tuổi chúng ta hãy còn hơi ngây thơ và quá 25 tuổi thì người ta bắt đầu hơi cằn cỗi và bắt đầu đi vào thế giới người lớn, nghĩa là đầu hàng cuộc đời.
Thế giới người lớn là thế giới nghĩa địa, thế giới chết, thế giới ma quái ngu dại.
Thế giới trẻ bây giờ lại còn là nghĩa địa, chết, ma quái ngu dại, hơn là thế giới người lớn.
Chỉ có một thế giới, thế giới đã chết.
Đi sâu vào thế giới chết, và chết trọn vẹn trong tin thần trước khi cái chết cơ thể vồ chụp lấy mình.
Quyển Bardo Thodol của Tây Tạng là quyển sách đầu giường của tôi hiện nay. Tất cả đều là tưởng tượng.
Các ông tự cho là các ông khôn ngoan, chín chắn kinh nghiệm. Chúng tôi không cần những thứ ấy và chúng tôi cũng không đụng chạm gì những thứ ấy; vì thế chúng tôi lễ phép xin các ông hãy trả thế giới hồn nhiên cho chúng tôi; đừng làm điếc tai chúng tôi với những tiếng thối nát như “khôn ngoan”, “chín chắn”, “kinh nghiệm”.
Chúng tôi không cần kinh nghiệm.
Kinh nghiệm là gì, nếu không phải là những thói quen mà các ông đã bám vào đó để bảo đảm cái thân người hèn mọn nô lệ của các ông?
Tôi đã vô lễ hằn học với các ông.
Nhưng sự hằn học ấy cần thiết.
Chúng tôi, thế hệ thanh niên Việt Nam từ 15 đến 25 tuổi, muốn nói lên một sự thực đau buồn nhứt trong đời chúng tôi, sự thật bi đát ấy là: CHÚNG TÔI KHÔNG CÒN TIN TƯỞNG NƠI CÁC ÔNG NỮA.
Hơn thế nữa, sự thực bị đát trên trở thành bi tráng: Chúng tôi không cần các ông nữa.
Đối với chúng tôi, các ông đã chết, và bây giờ đã đến lúc chúng tôi phải sống, phải đứng thẳng nhìn đời với nỗi niềm cô đơn vô hạn của tuổi trẻ, chúng tôi sẽ đi và chỉ đi một mình. Quê hương Việt Nam đang đổ vỡ; chúng tôi sẽ gánh lấy sự đổ vỡ ấy trên hai vai yếu đuối, nhưng vẫn mang niềm kiêu hãnh vô biên; chúng tôi sẽ tự tạo ra trách nhiệm cho mình; các ông đã chết;
chỉ có một trách nhiệm duy nhất là trách nhiệm trước hố thẳm
tôi phải cần lặp lại một lần nữa rằng các ông đã chết, vì thế các ông không có trách nhiệm và các ông cũng không thể bắt chúng tôi nhận trách nhiệm nào cả. Trách nhiệm là trách nhiệm riêng của mỗi anh em trong chúng tôi.
Đau buồn không phải là mái nhà đang đổ vỡ; đau buồn là chúng tôi đã ngu dại để chờ những người chết xây dựng lại; những người chết là đã chết hẳn; chỉ có chúng tôi là xây dựng lại thôi, chỉ có những người sống là thổi sức sống vào thế giới điêu tàn này.
Người sống không thể làm gì được. Chỉ có người thức dậy, bừng dậy mới có thể là. Không phải làm gì mà là. Chỉ có là mới khó đạt, “vô sở đắc”.
Các ông thường phàn nàn rằng chúng tôi là một thế hệ thối hoá, sống không biết ngày mai, không lý tưởng, trụy lạc, la cà rượu chè, hút thuốc, tục tằn, du côn, mất dạy, lấc xấc, ngang tàng, chỉ biết ăn chơi, non nớt, không làm gì ra hồn, đàng điếm, nhảy đầm, trác táng, hoang đàng, và một triệu hình dung từ khác.
Vâng, chúng tôi hãnh diện chấp nhận hết tất cả những hình dung từ trên. Và chúng tôi chỉ xin nở một nụ cười lễ độ và cúi đầu không biện hộ.
Cười lễ độ hay cười ngạo mạn?
Cúi đầu hay ngước đầu?
Các bạn bè thân yêu của chúng tôi đang gục chết trên cánh đồng biên giới, bên bờ sông hay giữa rừng rú hoang vu; khói lửa ngút trời, máu đỏ của tuổi trẻ đang tưới trên những giải đất khô cằn quê hương, những mái tóc xanh trở thành những bãi cỏ xanh trên những nấm mồ trận địa.
Hỡi ơi, hãy khóc đi hỡi quê hương yêu dấu…
Nước mắt không làm gì được, không là gì được? Chỉ có quê hương duy nhất đó là sự im lặng. Tôi đã hiểu vì sao Novalis định nghĩa triết lý là lòng nhớ quê hương.
Các ông trách rằng chúng tôi sống không lý tưởng. Lý tưởng là gì? Lý tưởng là gì? Lý tưởng có phải là tranh đấu giữ gìn để cho các ông sống nốt cuộc đời tầm thường an phận của các ông? Mục đích của cuộc đời là Sống - Sống gì? Sống cuộc đời thực sự của mình. Cuộc đời thực sự không phải là cuộc đời của đám đông, của xã hội, của khuôn mòn lối cũ, của công thức tù hãm. Cuộc đời thực sự không phải là những phép tắc luân lý đạo đức. Cuộc đời thực sự không phải là những ông công an, những ông cảnh sát, những ông giáo sư trung học và đại học. Cuộc đời thực sự là chúng tôi là tuổi trẻ.
CHỈ CÓ CHÚNG TÔI LÀ ĐẶT RA NHỮNG LỀ LUẬT.
Lề luật, tôi thù ghét hai chữ này. Kể từ Socrate cho đến thế kỷ XX, văn hoá Tây phương chỉ là một cuộc tranh tụng kéo dài.
“Chỉ có chúng tôi là đặt ra những lề luật”, hồn ma của Kant ám ảnh đâu đó?
Chúng tôi không cần lý tưởng, vì lý tưởng là lý tưởng của các ông.
Lý tưởng (dù lý tưởng nào) đều là nhà tù để nhốt lại sức sống vỡ bờ của tuổi xuân; lý tưởng là ảo tưởng; sống không lý tưởng là sống trọn vẹn, là lao mình vào cuộc đời với trọn sự hồn nhiên bỡ ngỡ của mình.
Con người hồn nhiên là không có lý tưởng.
Chỉ khi nào người ta mất mát thì người ta mới tạo ra lý tưởng để tự đánh lừa mình bằng sự phiêu lưu vô định trong thế giới tư tưởng.
Lý tưởng là sản phẩm của lý trí; lý trí là ký ức; ký ức là quá khứ là kinh nghiệm; kinh nghiệm đánh mất hồn nhiên.
Sống có lý tưởng là sống có quá khứ, lấy quá khứ mà nhìn dòng đời, dòng đời luôn luôn trôi chảy mới lạ từng giây phút; lấy quá khứ nhìn dòng đời là chận đứng dòng đời lại, là bắt dòng đời phải chảy ngược lại chỗ cũ mà nó đã chảy qua từ lâu rồi, như thế là đã giết chết sức sống phong phú.
Hồn ma của Krishnamurti ám ảnh đâu đây?
Vấn đề không phải là lý luận theo kiểu Krishnamurti. Giết Krishnamurti đi thì không còn vấn đề gì nữa. Vấn đề không phải là sống không có lý tưởng mà phải hiểu lý tường thực sự có nghĩa là gì, trả lại ý nghĩa nguyên thủy cho hai chữ lý tưởng. Lý là gì? Logos là gì? Idéa trong nghĩa nguyên bản Hy lạp là gì? Lý trong ý nghĩa nguyên bản của Đông phương là gì? Rita trong nghĩa nguyên bản chữ Phạn là gì?
Sống có lý tưởng là sống không còn ngạc nhiên nữa; người ta không thể biết ngạc nhiên trước cuộc đời khi người ta sống có lý tưởng.
Sống không lý tưởng là lao mình vào đời với trọn vẹn hồn nhiên, ngạc nhiên, thao thức, bỡ ngỡ, mới la trong từng giây phút một.
Ngoài kia, trời đang vẫn còn mưa, tôi lại đứng đây để lý luận với những người chết sao?
Tiếng súng nổ bên kia núi; chắc có người đang giẫy giụa chết trong mưa.
Hãy khóc đi, hỡi quê hương yêu dấu...
Hồng thân mến,
Trong bức thư Hồng gởi cho tôi, Hồng nhờ tôi xin cho Hồng đi tu, một ý định quan trọng mà Hồng đã nuôi dưỡng gần hai tháng nay, Hồng bảo rằng Hồng đã bỏ đi, và bỏ học trường văn khoa, và từ đây trở đi bỏ thi luôn.
Thư ấy có những dòng như sau: “Cái hố lại đào sâu thêm ra, Hồng đang chới với giữa những dữ kiện…”
Quyết định của Hồng không phải là xuất phát trong một lúc bốc đồng, vì chán đời. Tôi nghĩ rằng tâm hồn Hồng tiềm ẩn một nỗi bi đát thâm trầm sâu sắc xuất phát từ ý thức quằn quại, niềm cô đơn vô hạn của tuổi trẻ.
Tuổi trẻ không cô đơn gì cả. Tuổi trẻ là nạn nhân của sự cô đơn của người lớn. Giết người lớn đi thì tuổi trẻ cũng ngu dại như người lớn. Chỉ có tuổi trẻ đúng nghĩa là “trốn học trước nhà ga và nhìn những chuyến xe lửa sắp lên đường” như Blaise Cendrars.
Năm giải pháp thực ra chỉ là một: làm một cái gì đó. Thực ra, không phải làm một cái gì đó mà không làm gì hết và đứng ngó thẳng vào bất cứ cái gì, dù là vách tường. Ngó thẳng vào vách tường và quen thuộc với mọi dấu vết trên vách tường (như Paul Valéry chẳng hạn).
Đối với tuổi trẻ, đối với sự khủng hoảng hiện nay, chỉ có những lối thoát sau đây:
Hồng,
Quyển này tôi muốn viết riêng cho anh, nghĩa là tôi muốn viết riêng cho thế hệ trẻ, từ 15 đến 25 tuổi mà anh là hình ảnh tượng trưng.
Tại sao giới hạn từ 15 đến 25 tuổi? Giới hạn này chỉ có tính cách tượng trưng. Bây giờ, 29 tuổi, tôi còn nổi loạn hơn lúc 9 tuổi. Nổi loạn, ai cũng có thể nổi loạn được. Nổi loạn một cách im lặng, một cách tự nhiên, một cách vô hình mới khó. Những kẻ nổi loạn hùng hổ lúc trẻ lại là những kẻ phản động nhất lúc trưởng thành. Nổi loạn một cách vô danh, đó là bổn phận của tôi.
Tôi viết riêng cho các anh, nhưng thực ra tôi cũng viết riêng cho tôi để nhắc nhở tôi, để gây lại ý thức trong tôi; bởi vì tôi cũng đang nằm trong tuổi các anh, tôi cũng đau đớn nỗi đau đớn của các anh, chúng ta cùng nằm chung trong nỗi khủng hoảng, niềm khắc khoải quằn quại vô biên của tuổi trẻ.
Ngoài kia đang mưa, tại sao tôi không chạy ra ngoài mưa, tại sao tôi vẫn còn đây để viết lên những dòng cay đắng nầy? Khói lửa đang vây bủa đầy trời Việt Nam. Cũng như Alan Paton, tôi muốn kêu lên: “Hãy khóc đi, hỡi quê hương yêu dấu…”
Chúng ta đều cùng một thế hệ; sở dĩ tôi muốn xác định giới hạn từ 15 tuổi đến 25 tuổi vì dưới 15 tuổi chúng ta hãy còn hơi ngây thơ và quá 25 tuổi thì người ta bắt đầu hơi cằn cỗi và bắt đầu đi vào thế giới người lớn, nghĩa là đầu hàng cuộc đời.
Thế giới người lớn là thế giới nghĩa địa, thế giới chết, thế giới ma quái ngu dại.
Thế giới trẻ bây giờ lại còn là nghĩa địa, chết, ma quái ngu dại, hơn là thế giới người lớn.
Chỉ có một thế giới, thế giới đã chết.
Đi sâu vào thế giới chết, và chết trọn vẹn trong tin thần trước khi cái chết cơ thể vồ chụp lấy mình.
Quyển Bardo Thodol của Tây Tạng là quyển sách đầu giường của tôi hiện nay. Tất cả đều là tưởng tượng.
Các ông tự cho là các ông khôn ngoan, chín chắn kinh nghiệm. Chúng tôi không cần những thứ ấy và chúng tôi cũng không đụng chạm gì những thứ ấy; vì thế chúng tôi lễ phép xin các ông hãy trả thế giới hồn nhiên cho chúng tôi; đừng làm điếc tai chúng tôi với những tiếng thối nát như “khôn ngoan”, “chín chắn”, “kinh nghiệm”.
Chúng tôi không cần kinh nghiệm.
Kinh nghiệm là gì, nếu không phải là những thói quen mà các ông đã bám vào đó để bảo đảm cái thân người hèn mọn nô lệ của các ông?
Tôi đã vô lễ hằn học với các ông.
Nhưng sự hằn học ấy cần thiết.
Chúng tôi, thế hệ thanh niên Việt Nam từ 15 đến 25 tuổi, muốn nói lên một sự thực đau buồn nhứt trong đời chúng tôi, sự thật bi đát ấy là: CHÚNG TÔI KHÔNG CÒN TIN TƯỞNG NƠI CÁC ÔNG NỮA.
Hơn thế nữa, sự thực bị đát trên trở thành bi tráng: Chúng tôi không cần các ông nữa.
Đối với chúng tôi, các ông đã chết, và bây giờ đã đến lúc chúng tôi phải sống, phải đứng thẳng nhìn đời với nỗi niềm cô đơn vô hạn của tuổi trẻ, chúng tôi sẽ đi và chỉ đi một mình. Quê hương Việt Nam đang đổ vỡ; chúng tôi sẽ gánh lấy sự đổ vỡ ấy trên hai vai yếu đuối, nhưng vẫn mang niềm kiêu hãnh vô biên; chúng tôi sẽ tự tạo ra trách nhiệm cho mình; các ông đã chết;
chỉ có một trách nhiệm duy nhất là trách nhiệm trước hố thẳm
tôi phải cần lặp lại một lần nữa rằng các ông đã chết, vì thế các ông không có trách nhiệm và các ông cũng không thể bắt chúng tôi nhận trách nhiệm nào cả. Trách nhiệm là trách nhiệm riêng của mỗi anh em trong chúng tôi.
Đau buồn không phải là mái nhà đang đổ vỡ; đau buồn là chúng tôi đã ngu dại để chờ những người chết xây dựng lại; những người chết là đã chết hẳn; chỉ có chúng tôi là xây dựng lại thôi, chỉ có những người sống là thổi sức sống vào thế giới điêu tàn này.
Người sống không thể làm gì được. Chỉ có người thức dậy, bừng dậy mới có thể là. Không phải làm gì mà là. Chỉ có là mới khó đạt, “vô sở đắc”.
Các ông thường phàn nàn rằng chúng tôi là một thế hệ thối hoá, sống không biết ngày mai, không lý tưởng, trụy lạc, la cà rượu chè, hút thuốc, tục tằn, du côn, mất dạy, lấc xấc, ngang tàng, chỉ biết ăn chơi, non nớt, không làm gì ra hồn, đàng điếm, nhảy đầm, trác táng, hoang đàng, và một triệu hình dung từ khác.
Vâng, chúng tôi hãnh diện chấp nhận hết tất cả những hình dung từ trên. Và chúng tôi chỉ xin nở một nụ cười lễ độ và cúi đầu không biện hộ.
Cười lễ độ hay cười ngạo mạn?
Cúi đầu hay ngước đầu?
Các bạn bè thân yêu của chúng tôi đang gục chết trên cánh đồng biên giới, bên bờ sông hay giữa rừng rú hoang vu; khói lửa ngút trời, máu đỏ của tuổi trẻ đang tưới trên những giải đất khô cằn quê hương, những mái tóc xanh trở thành những bãi cỏ xanh trên những nấm mồ trận địa.
Hỡi ơi, hãy khóc đi hỡi quê hương yêu dấu…
Nước mắt không làm gì được, không là gì được? Chỉ có quê hương duy nhất đó là sự im lặng. Tôi đã hiểu vì sao Novalis định nghĩa triết lý là lòng nhớ quê hương.
Các ông trách rằng chúng tôi sống không lý tưởng. Lý tưởng là gì? Lý tưởng là gì? Lý tưởng có phải là tranh đấu giữ gìn để cho các ông sống nốt cuộc đời tầm thường an phận của các ông? Mục đích của cuộc đời là Sống - Sống gì? Sống cuộc đời thực sự của mình. Cuộc đời thực sự không phải là cuộc đời của đám đông, của xã hội, của khuôn mòn lối cũ, của công thức tù hãm. Cuộc đời thực sự không phải là những phép tắc luân lý đạo đức. Cuộc đời thực sự không phải là những ông công an, những ông cảnh sát, những ông giáo sư trung học và đại học. Cuộc đời thực sự là chúng tôi là tuổi trẻ.
CHỈ CÓ CHÚNG TÔI LÀ ĐẶT RA NHỮNG LỀ LUẬT.
Lề luật, tôi thù ghét hai chữ này. Kể từ Socrate cho đến thế kỷ XX, văn hoá Tây phương chỉ là một cuộc tranh tụng kéo dài.
“Chỉ có chúng tôi là đặt ra những lề luật”, hồn ma của Kant ám ảnh đâu đó?
Chúng tôi không cần lý tưởng, vì lý tưởng là lý tưởng của các ông.
Lý tưởng (dù lý tưởng nào) đều là nhà tù để nhốt lại sức sống vỡ bờ của tuổi xuân; lý tưởng là ảo tưởng; sống không lý tưởng là sống trọn vẹn, là lao mình vào cuộc đời với trọn sự hồn nhiên bỡ ngỡ của mình.
Con người hồn nhiên là không có lý tưởng.
Chỉ khi nào người ta mất mát thì người ta mới tạo ra lý tưởng để tự đánh lừa mình bằng sự phiêu lưu vô định trong thế giới tư tưởng.
Lý tưởng là sản phẩm của lý trí; lý trí là ký ức; ký ức là quá khứ là kinh nghiệm; kinh nghiệm đánh mất hồn nhiên.
Sống có lý tưởng là sống có quá khứ, lấy quá khứ mà nhìn dòng đời, dòng đời luôn luôn trôi chảy mới lạ từng giây phút; lấy quá khứ nhìn dòng đời là chận đứng dòng đời lại, là bắt dòng đời phải chảy ngược lại chỗ cũ mà nó đã chảy qua từ lâu rồi, như thế là đã giết chết sức sống phong phú.
Hồn ma của Krishnamurti ám ảnh đâu đây?
Vấn đề không phải là lý luận theo kiểu Krishnamurti. Giết Krishnamurti đi thì không còn vấn đề gì nữa. Vấn đề không phải là sống không có lý tưởng mà phải hiểu lý tường thực sự có nghĩa là gì, trả lại ý nghĩa nguyên thủy cho hai chữ lý tưởng. Lý là gì? Logos là gì? Idéa trong nghĩa nguyên bản Hy lạp là gì? Lý trong ý nghĩa nguyên bản của Đông phương là gì? Rita trong nghĩa nguyên bản chữ Phạn là gì?
Sống có lý tưởng là sống không còn ngạc nhiên nữa; người ta không thể biết ngạc nhiên trước cuộc đời khi người ta sống có lý tưởng.
Sống không lý tưởng là lao mình vào đời với trọn vẹn hồn nhiên, ngạc nhiên, thao thức, bỡ ngỡ, mới la trong từng giây phút một.
Ngoài kia, trời đang vẫn còn mưa, tôi lại đứng đây để lý luận với những người chết sao?
Tiếng súng nổ bên kia núi; chắc có người đang giẫy giụa chết trong mưa.
Hãy khóc đi, hỡi quê hương yêu dấu...
Hồng thân mến,
Trong bức thư Hồng gởi cho tôi, Hồng nhờ tôi xin cho Hồng đi tu, một ý định quan trọng mà Hồng đã nuôi dưỡng gần hai tháng nay, Hồng bảo rằng Hồng đã bỏ đi, và bỏ học trường văn khoa, và từ đây trở đi bỏ thi luôn.
Thư ấy có những dòng như sau: “Cái hố lại đào sâu thêm ra, Hồng đang chới với giữa những dữ kiện…”
Quyết định của Hồng không phải là xuất phát trong một lúc bốc đồng, vì chán đời. Tôi nghĩ rằng tâm hồn Hồng tiềm ẩn một nỗi bi đát thâm trầm sâu sắc xuất phát từ ý thức quằn quại, niềm cô đơn vô hạn của tuổi trẻ.
Tuổi trẻ không cô đơn gì cả. Tuổi trẻ là nạn nhân của sự cô đơn của người lớn. Giết người lớn đi thì tuổi trẻ cũng ngu dại như người lớn. Chỉ có tuổi trẻ đúng nghĩa là “trốn học trước nhà ga và nhìn những chuyến xe lửa sắp lên đường” như Blaise Cendrars.
Năm giải pháp thực ra chỉ là một: làm một cái gì đó. Thực ra, không phải làm một cái gì đó mà không làm gì hết và đứng ngó thẳng vào bất cứ cái gì, dù là vách tường. Ngó thẳng vào vách tường và quen thuộc với mọi dấu vết trên vách tường (như Paul Valéry chẳng hạn).
Đối với tuổi trẻ, đối với sự khủng hoảng hiện nay, chỉ có những lối thoát sau đây:
Lao vào đời sống và tự tạo trách nhiệm;
Tự tử;
Lao vào truy lạc trác táng;
Điên;
Đi tu.
Hồng đã chọn giải pháp cuối cùng.
Có thể người ta cho Hồng là chạy trốn.
Không sợ chạy trốn, cứ chạy trốn như nước chạy trốn suối nguồn và chạy trốn phăng ra biển.
Chọn lựa, tất cả chọn lựa đều do ảo tưởng. Đi tu không giải quyết gì cả. Làm chủ nhà điếm, như ý nguyện của Faulkner, cũng là một cách tu.
Sống bi tráng hay sống “anh hùng rơm”? Sư điên loạn cũng đã trở thành “thời trang”. Sáng suốt, bình tĩnh điềm đạm cũng chỉ là những cách “làm dáng”.
Nhưng khi nói thế thì họ không hiểu rằng sự chọn lựa đi tu cùng là một thái độ sống trước hư vô. Đi tu đâu phải là chuyện dễ; có lẽ có thể nói rằng phải có can đảm lắm và nhiều sức mạnh lắm mới đi vào con đường cô đơn ấy; nhưng dù sao, hành động không quan trọng; quan trọng chỉ là ý hướng thúc đẩy hành động ấy, ý hướng ấy lá ý hướng gì?
Ý tưởng đến một lý tưởng? Hay là ý hướng đến sự tiêu diệt tất cả mọi lý tưởng?
Đối với Hồng thế nào, tôi không biết; nhưng đối với riêng tôi, suốt đời tôi vẫn sống trên con đường tiêu diệt tất cả mọi lý tưởng.
Sống như thế có nghĩa là sống bi tráng.
Sống bi tráng là bóp sự chết trong mười ngón tay và cắn vào sự chết như ăn trái đào tươi; sống bi tráng là tỏ tình yêu với cái chết, là lao mình trần truồng vào trong mưa và nhảy múa trong mưa một cách hồn nhiên như lên cơn điên.
Trong quyền nầy, Hồng sẽ thấy tôi viết về tư tưởng của những tác giả ở thế giới; nhưng viết về họ là viết về tôi; nói đến tư tưởng người khác là nói đến tư tưởng của mình, và tư tưởng ấy cũng là tư tưởng
“Viết về tôi”, nhưng tôi là ai? Không có giải đất mới. Tất cả đều là vòng tròn, bổn phận của con người là xoáy, tự xoáy vào đường trôn ốc của vòng tròn”.
thực sự của thế hệ trẻ ngày nay; tư tưởng thực sự của thế hệ trẻ ngày nay là gì nếu không phải là lên đường đi tìm một giải đất mới cho mình?
Người được tôi viết bức thư này cũng không còn là người em của tôi như khi xưa nữa. Gặp lại hắn thì tôi chỉ muốn tự tử. Tại sao bao nhiêu khí phách say sưa của tuổi nhỏ của hắn bây giờ chỉ còn là khói và chỉ là khói?
Hắn hiện nay đã thành người lớn, đã cưới vợ, đã sinh con đẻ cái, đã đi làm nghề đứng đắn. Lần cuối cùng, tôi tìm đến thăm hắn tại một biệt thự sang trọng ở đường Phan thanh Giản. Hắn có vẻ bận rộn với bao nhiêu chuyện chính trị thời sự:
“Tại sao anh không tuyên bố về hòa bình ở Việt Nam để tuổi trẻ ngưỡng mộ anh hơn?”
Hắn hỏi tôi như thế và tôi chỉ trả lời:
“Anh cũng thích tôi tuyên bố cái này hay cái kia như mọi người thiên hạ à?”
Buổi chiều hôm ấy, sau khi từ giã, đúng hơn vĩnh biệt hắn, tôi muốn tự tử cho xong đời, vì quá buồn cho tuổi trẻ Việt Nam, vì dường như tuổi trẻ Việt Nam bây giờ chỉ sống với những tuyên bố, tuyên ngôn, khẩu hiệu. Đám đông đã đem chiến tranh đến Việt Nam và cũng lại đám đông đứng lên tuyên bố về hòa bình ở Việt Nam.
Con người đám đông đang thống trị ở Việt Nam và cả thế giới.
Có thể người ta cho Hồng là chạy trốn.
Không sợ chạy trốn, cứ chạy trốn như nước chạy trốn suối nguồn và chạy trốn phăng ra biển.
Chọn lựa, tất cả chọn lựa đều do ảo tưởng. Đi tu không giải quyết gì cả. Làm chủ nhà điếm, như ý nguyện của Faulkner, cũng là một cách tu.
Sống bi tráng hay sống “anh hùng rơm”? Sư điên loạn cũng đã trở thành “thời trang”. Sáng suốt, bình tĩnh điềm đạm cũng chỉ là những cách “làm dáng”.
Nhưng khi nói thế thì họ không hiểu rằng sự chọn lựa đi tu cùng là một thái độ sống trước hư vô. Đi tu đâu phải là chuyện dễ; có lẽ có thể nói rằng phải có can đảm lắm và nhiều sức mạnh lắm mới đi vào con đường cô đơn ấy; nhưng dù sao, hành động không quan trọng; quan trọng chỉ là ý hướng thúc đẩy hành động ấy, ý hướng ấy lá ý hướng gì?
Ý tưởng đến một lý tưởng? Hay là ý hướng đến sự tiêu diệt tất cả mọi lý tưởng?
Đối với Hồng thế nào, tôi không biết; nhưng đối với riêng tôi, suốt đời tôi vẫn sống trên con đường tiêu diệt tất cả mọi lý tưởng.
Sống như thế có nghĩa là sống bi tráng.
Sống bi tráng là bóp sự chết trong mười ngón tay và cắn vào sự chết như ăn trái đào tươi; sống bi tráng là tỏ tình yêu với cái chết, là lao mình trần truồng vào trong mưa và nhảy múa trong mưa một cách hồn nhiên như lên cơn điên.
Trong quyền nầy, Hồng sẽ thấy tôi viết về tư tưởng của những tác giả ở thế giới; nhưng viết về họ là viết về tôi; nói đến tư tưởng người khác là nói đến tư tưởng của mình, và tư tưởng ấy cũng là tư tưởng
“Viết về tôi”, nhưng tôi là ai? Không có giải đất mới. Tất cả đều là vòng tròn, bổn phận của con người là xoáy, tự xoáy vào đường trôn ốc của vòng tròn”.
thực sự của thế hệ trẻ ngày nay; tư tưởng thực sự của thế hệ trẻ ngày nay là gì nếu không phải là lên đường đi tìm một giải đất mới cho mình?
Người được tôi viết bức thư này cũng không còn là người em của tôi như khi xưa nữa. Gặp lại hắn thì tôi chỉ muốn tự tử. Tại sao bao nhiêu khí phách say sưa của tuổi nhỏ của hắn bây giờ chỉ còn là khói và chỉ là khói?
Hắn hiện nay đã thành người lớn, đã cưới vợ, đã sinh con đẻ cái, đã đi làm nghề đứng đắn. Lần cuối cùng, tôi tìm đến thăm hắn tại một biệt thự sang trọng ở đường Phan thanh Giản. Hắn có vẻ bận rộn với bao nhiêu chuyện chính trị thời sự:
“Tại sao anh không tuyên bố về hòa bình ở Việt Nam để tuổi trẻ ngưỡng mộ anh hơn?”
Hắn hỏi tôi như thế và tôi chỉ trả lời:
“Anh cũng thích tôi tuyên bố cái này hay cái kia như mọi người thiên hạ à?”
Buổi chiều hôm ấy, sau khi từ giã, đúng hơn vĩnh biệt hắn, tôi muốn tự tử cho xong đời, vì quá buồn cho tuổi trẻ Việt Nam, vì dường như tuổi trẻ Việt Nam bây giờ chỉ sống với những tuyên bố, tuyên ngôn, khẩu hiệu. Đám đông đã đem chiến tranh đến Việt Nam và cũng lại đám đông đứng lên tuyên bố về hòa bình ở Việt Nam.
Con người đám đông đang thống trị ở Việt Nam và cả thế giới.
Nguồn: Phạm Công Thiện, Ý thức mới trong văn nghệ và triết học (Luận về ý thức mới sau mười năm lang bạt), tái bản lần thứ tư, NXB An Tiêm, Sài Gòn, 1970. Bản điện tử do talawas thực hiện. Bản đăng trên talawas với sự đồng ý của tác giả.
Phần thứ nhất: Đi vào ý thức mới
Định nghĩa: Ý thứ tự vấn
Khai triển những hình thái của ý thức mới
Ý thức bất nhị
Ý thức giải phóng
Ý thứ siêu thoát
Ý thức bất diệt
Ý thức sinh tồn
Ý thức thể hiện
Ý thức siêu thực
Ý thức chấp nhận
Ý thức siêu thể
Mở đầu
Ý thức tự vấn - Thế nào là ý thức mới?
Ý thức giải phóng
Ý thứ siêu thoát
Ý thức bất diệt
Ý thức sinh tồn
Ý thức thể hiện
Ý thức siêu thực
Ý thức chấp nhận
Ý thức siêu thể
Mở đầu
Ý thức tự vấn - Thế nào là ý thức mới?
Kinh nghiệm của bảy nỗi niềm cô đơn. Thinh quan mới để nghe điệu nhạc mới. Thị quan mới để tìm thấy những gì xa xôi nhất, và Ý THỨC MỚI để trực nhận những sự thực mà từ lâu vẫn còn câm lặng.
(Nietzsche, Lời tựa quyển Der Antichrist, 1885)
(Nietzsche, Lời tựa quyển Der Antichrist, 1885)
Ý thức mới là một danh từ rất hàm hồ và không có một định nghĩa rõ ràng dứt khoát.
Chính ý thức là danh từ rồi. Có thể dùng danh từ để định nghĩa danh từ?
Hàm hồ và không thể định nghĩa được, đó cũng là những đặc tính của chính ý thức.
Làm sao định nghĩa được ý thức?
Tất nhiên, chỉ có ý thức là mới định nghĩa được ý thức. nhưng nếu ý thức muốn định nghĩa ý thức thì ý thức phải đi ra ngoài ý thức thì mới có thể định nghĩa ý thức được.
Bóng ma của Hegel ám ảnh đâu đây? Dù lúc viết trang này tôi coi Hegel là tử thù!
Tương quan, chữ của Husserl?
Nói đến định nghĩa là nói đến xác định ý nghĩa này giữa những ý nghĩa khác, là nói đến tương quan giữa những thực thể này với những thực thể khác. Nói đến định nghĩa là nói đến tương quan và thực ra chính ý thức cũng là sự tương quan; một câu đã thành sáo là: ý thức là ý thức về cái gì.
Husserl là người xáo trộn mọi sự với một trật tự chẻ hai để rồi rơi vào sự xáo trộn nguyên thủy, vô phương cứu chữa.
Trong sáo ngữ ấy chứa đựng một sự thật khó phủ nhận: không có ý thức nào là ý thức cô độc tuyệt đối vì ý thức cô độc tuyệt đối cũng vẫn là ý thức về sự cô độc tuyệt đối.
Ý thức là tương quan; nói đến tương quan là nói đến sự chuyển động từ vị trí này đến vị trí khác; sự thực thì không có vị trí vì sự chuyển động ấy liên tục, thay đổi hướng đi luôn chứ không ngừng; chỉ có vị trí là khi nào có sự bất động hay sự ngừng lại. Định nghĩa là chặn đứng, là tìm một vị trí cố định, chặn đứng sự chuyển động thì định nghĩa ấy chỉ xây trên ảo tưởng, không có giá trị, vì định nghĩa ấy đã xoay vào sự bất động, một thực thể chết cứng; định nghĩa ấy không còn là định nghĩa ý thức nữa mà chỉ là định nghĩa hình ảnh của ý thức. Tất nhiên ai cũng hiểu hình ảnh một sự vật không phải là chính sự vật ấy.
Hình ảnh chính là sự vật. Biểu tượng là thực tại. Không có biểu tượng thì sự vật cùng tiêu mà đi. Nhưng sự khó khăn là biết thế như là thế trong chân trời yathabhutam của Phật giáo.
Hình ảnh giữ vai trò của một biểu tượng. Mà biểu tượng không phải là thực tại. Người ta thường đồng hoá biểu tượng với thực tại, đó là tất cả bi kịch của triết học và đời sống.
Lộ trình của ý thức lướt qua ba giai đoạn: vô thức, ý thức, và ý thức mới.
Ba giai đoạn thực ra chỉ là giả tưởng. Ý thức mới chỉ là vô thức được đánh tráo qua một ảo giác nào đó, ảo giác đeo đuổi cái mới của trí óc con người.
Từ vô thức đến ý thức là một phép lạ, là một chặng đường đầy gió loạn, nhưng từ ý thức đến ý thức mới là một sự thay đổi mãnh liệt và huyền bí hơn nữa.
Ý thức bị giam trong vô thức; ý thức kháng cự vùng vẫy nổi loạn; từ sự vùng vẫy giằng co giữa ý thức và vô thức thoát ra một ý thức mới.
Vô thức, ý thức và ý thức mới nằm trong ba giai đoạn của biện chứng pháp.
Biện chứng pháp là cái thùng rác mà mọi người vứt tất cả sự ngu xuẩn của họ vào đó. Phá hủy biện chứng pháp vì biện chứng pháp là con đẻ của nền văn minh đồi trụy của Tây phương.
Ý thức mới chính là ý thức về sự tuyệt vọng của chính ý thức trong vọng giam hãm của vô thức.
Ý thức mới không phải là ý thức nữa: vì nếu là ý thức thì không thể nào ý thức được chính thực chất của mình, thực chất ấy là sự mơ hồ, sự quờ quạng, vùng vẫy tuyệt vọng trong vô thức.
Ý thức mới là ý thức về hư vô tính của ý thức.
Bóng ma của Sartre ám ảnh đâu đây. Sartre tên ngu xuẩn cuối cùng của nền văn minh Tây phương. Sartre đã lên tiếng can thiệp cho Việt Nam nhưng chính tư tưởng của Sartre là đứa con trung thành của thế lực gây chiến tranh Việt Nam. Ai thấy được mâu thuẫn ấy?
Nói một cách rõ ràng hơn, ý thức mới là ý thức rằng không có ý thức. Không có ý thức thì lấy gì để ý thức rằng không có ý thức? Chính câu hỏi này cũng do ý thức đặt ra. Ý thức đặt ra câu hỏi rồi ý thức trả lời, ý thức trả lời rồi ý thức lại không bằng lòng; ý thức lại đặt ra câu hỏi; cứ thể quay cuồng trong vòng luẩn quẩn, liên miên không bao giờ dứt, ad infinitum.
Chính vòng luẩn quẩn này là hố thẳm mà tất cả triết gia đều thụt lùi sợ hãi. Một nền triết lý lớn mạnh phải đối mặt với cái ad infinitum này. Jorge Luis Borges đã thấy được ý nghĩa trầm trọng của cái ad infinitum này. Trái lại Saroyan thì sợ hãi và né tránh lý luận ad infinitum trong l’ Être et Néant.
Đó chính là sự tuyệt vọng của ý thức.
Khi ý thức tuyệt vọng thì ý thức sẽ làm một cuộc tự tử theo hai nghĩa đen và bóng. Theo nghĩa đen thì ý thức tự tử thực sự như trường hợp Marilyn Monroe, Hemingway, Hedayat... vân vân. Theo nghĩa bóng thì ý thức lột xác để hoá thân, chết đi để sống lại, đóng đinh trên cây thập giá để ba ngày sau sống lại và thăng thiên như vậy sự tự tử ấy không phải là sự tự tử nữa, mà chính là một sự giải phóng hay giải thoát, ý thức đã tự giải thoát khỏi vùng tối tăm của vô thức, ý thức tự giết ý thức để biến thành ý thức mới: ý thức không còn là ý thức nữa mà là tự do. Đó là trường hợp của Henry Miller, William Saroyan và Nietzsche. Đó cũng là tư tưởng Thiền tông và Lão tử.
Không có sự giải thoát, sống với cái-không-có-giải-thoát mà không rơi vào nihilismehoặc nói theo chữ Phạn nhà Phật, không rơi vào “abhàva”. Đó mới là điều khó.
Khi ý thức trở nên tuyệt vọng mà ý thức không tự tử (hoặc theo nghĩa đen hay nghĩa bóng) thì ý thức chạy trốn, nếu chạy trốn mà không lường gạt mình thì một thời gian sau trở nên điên loạn hoặc mang bệnh lao tâm mà chết như Kafka và Wolfe.
Kafka và Wolfe là những người kẹt vào “nihilisme”.
Kafka, một người không tận dụng hết sức mình và chết vì hối hận, tiếc nuối vô cớ.
Còn Wolfe thì lại tận dụng hết sức mình và chết vì kiệt lực. Chỉ có một sức mạnh duy nhất là sự yếu đuối rất khôi hài của con người. Đâm vỡ bức tường chắn ngang, chặt đứt cái gút thắt chặt đó là sức mạnh của Gordion, sức mạnh ấy của Tây phương có thể thống trị Á châu nhưng chính sức mạnh ấy cũng sẽ quay ngược lại giết chết Tây phương. Á đông vẫn sống với cái gút mà không cần phải tìm cách mở, vì cái gút ấy chính là Á châu. Sống với vấn đề bế tắc, sống với sự khủng hoảng mà không cần giải quyết. Đó chính là quẻ Bỉ trong Kinh Dịch.
Còn nếu chạy trốn mà lường gạt mình rằng mình không chạy trốn hoặc tự lường gạt mà không biết rằng mình tự lường gạt thì ý thức ấy trở nên chìm vào trong đời sống tầm thường đầy công thức; và ý thức ấy không còn là ý thức nữa mà là vô thức; sống mà sống một cách vô thức; như thế không khác gì chết giữa cuộc sống. Đó là tình cảnh của hầu hết mọi người trong chúng ta hiện nay. Tình cảnh mà Heidegger gọi là “Enftremdung”( sự xa lạ ly cách đối với chính mình) hay cũng gọi là (Absturz: sự sa ngã) mà đặc tính chuyển động là “Wirbel” (sự xoay vòng) nghĩa là xoay xuống tình cảnh tầm thường của thiên hạ, sự xoay chuyển ấy vén mở tình cảnh “Geworfenheit”(sự bỏ rơi, bị quăng ném vào đời ) con người bị giam hãm trong đời sống thường nhật tầm thường (“Alltäglichkeit”) đó chính là tình cảnh thất sủng sa đoạ (“Verfallen”) của hiện sinh con người (“Dasein”).
Con người bị giam hãm trong đời sống tầm thường thường nhật vì chính con người là tầm thường. Nếu tôi thành Phật thì cả vũ trụ này cũng đều thành Phật, không ngoại trừ ai, không ngoại trừ cái gì cả.
Tóm lại, ý thức mới là ý thức về sự tuyệt vọng của ý thức. Sự tuyệt vọng ấy rất là đau đớn hãi hùng. Nhưng nếu ý thức không chạy trốn sự tuyệt vọng ấy thì con đường giải thoát sẽ mở cửa.
Vô môn Quan.
Sự tuyệt vọng cùng cực đưa đến hy vọng cùng cực; giữa sự điên loạn và sự giác ngộ chỉ cách nhau có một sợi tơ rất mong manh.
Giác ngộ là điên loạn, một thứ điên vượt ra ý nghĩa thông thường của tất cả bệnh lý.
Bởi thế, đi tìm đường giải thoát cũng có nghĩa là đi tìm tuyệt vọng.
Không thể đi tìm tuyệt vọng vì tuyệt vọng là tuyệt vọng.
Đi đến đường cùng, ý thức và vô thức chỉ là một.
Đi đến đường cùng? Người Pháp hay nói “jusqu’au bout”. Thực sự đường cùng chỉ là “ Grund” mà “ Grund” chính là cái tác hại nhiều nhất đến nhân loại hiện nay. Vì lẽ đó mới có phương trình bí mật của Heidegger: “Grund: Abgrund”. Phương trình này của Heidegger còn quan trọng gấp triệu lần hơn phương trình nổi tiếng của Einstein.
Và đi sâu hơn nữa thì sự đồng nhất này cũng không có thực. Sau cùng lại chỉ còn sự im lặng mênh mông, thăm thẳm và vô biên.
“Tất cả mọi sự còn lại chỉ là im lặng” (Shakespeare?)
Chương nhứt
Ý thức bất nhị - Nghệ thuật phi nghệ thuật của Saroyan. Tinh thần bất nhị của Phật giáo Thiền tông và Jean-Paul Sartre.
1. Sống vào thời đại đổ nát, một xã hội đồi trụy và chứng kiến bao nhiêu biến chuyển điêu đứng bên ngoài cũng như bên trong tâm hồn,
Tình trạng này có khác nào ở Việt Nam hiện nay mặc dù Việt Nam hiện nay lại còn đen tối gấp trăm ngàn lần hơn nước Mỹ ở giữa hai trận chiến. Thế mà ở Việt Nam có mấy người tài lớn như O’ Neill, T. S. Eliot, Dos Passos, vân vân? Việt Nam bây giờ chỉ toàn là một lũ bồi bút, một lũ nhái con văn nghệ và làm dáng cô đơn tuyệt vọng.
Chỉ có Bùi Giáng là người duy nhất có tài lớn, lớn bằng (hay lớn hơn) O’ Neill, T. S.Eliot, Dos Passos, vân vân.
nhà văn Mỹ ở giữa hai trận chiến tranh đều ít nhiều mang chung một tâm trạng và một thái độ trước cuộc đời. Nhìn chung, nền văn học Mỹ giữa hai trận thế chiến bị sơn qua một lớp màu quá đen tối phũ phàng: con người hoàn toàn cảm thấy bất lực trước cuộc đời, bàng hoàng, khắc khoải, lạc lõng, bơ vơ, mất gốc, cô đơn, xao xuyến, chán chường, phẫn nộ, điêu đứng, đau khổ, hoang mang, thất vọng hay tuyệt vọng (như Eugene O’Neill, T. S. Eliot, John Dos Passos, Hemingway, Robinson, Jeffers, A. MacLeish, Joseph Wood Krutch…)
Giữa bầu trời ảm đạm đen tối mù mịt như vậy, sức sống mãnh liệt và giấc mộng huy hoàng Saroyan đến sau Wolfe, nhưng Saroyan chỉ yêu đời một cách “đánh lận con đen”. Sự giản dị chất phác của Saroyan là một mặt nạ khó hiểu. Có lẽ Saroyan là người chán đời nhất mà vẫn gắng gượng cười ầm lên để “pha trò” cho một tấn kịch u ẩn?
của nhân dân Mỹ vẫn còn sống nồng nàn trong Thomas Wolfe, Robert Frost, Glasgow, Cather.. nhưng phong phú nhất vẫn là Wiliam Saroyan. Trong một số tác phẩm quá nhiều (chẳng hạn như truyện ngắn , tiểu thuyết và kịch) Wiliam Saroyan đã nói lên hơi thở nhịp nhàng của con người. Mặc dù bị đắm chìm trong bao thực tại cay đắng, Saroyan vẫn sung sướng ca ngợi ngày hôm nay tuyệt vời và rực rỡ. Saroyan nói lên đức tin mãnh liệt nơi con người, nơi lòng tốt tự nhiên của con người, nơi hạnh phúc (trong đau khổ) của con người trên mặt đất tươi đẹp này; cùng chung một giọng nói như Anne Frank: “ánh mặt trời này, bầu trời xanh lơ này, khi tôi còn có sống để nhìn thì tôi không thể nào mà không hạnh phúc”, dù tất cả những gì không tốt đẹp đã xảy ra, tôi vẫn còn tin rằng con người thực sự vẫn tốt.
Sartre. Tôi hổ thẹn vì đã nhắc Sartre ở đây vai trò “angoisse”. Ngược lại, Saroyan. Sartre là người yêu đời mà “giả đò” chán đời, xao xuyến đầy “ angoisse”! Merde!.
Sartre chỉ là con khỉ của Céline. Ồ, Céline!
Céline mới đúng là cái “ angoisse” được nhập thể bằng xương bằng thịt. Tôi muốn quỳ lạy Céline như quì lạy sự thất bại của chính đời mình.
Đúng Céline mới là kẻ bị “sali, outragé, persecuté, braqué, broyé, depuis tant d’années et de mille manières…”
Sartre chỉ là một thứ nôn mửa sa lòng!…
Tất cả các tác phẩm của W. Saroyan đều trở về một chủ đề duy nhứt: “tôi đang sống”(I am alive). Nói theo Sartre, “con người là xao xuyến” (l’homme est angoisse) hay “con người là tự do” (l’homme est liberté); trái lại đối với Saroyan, thì “con người là sống” (Man is to be alive). Mà sống thì có nghĩa là chiến thắng sự xao xuyến và đó mới là tự do thực sự.
2. Năm 1940 Wiliam Saroyan được giải thưởng văn chương giá trị nhất nước Mỹ, giải Pulitzer.
Tại sao không nhận, lại làm dáng anh hùng, thái độ của Paul Valéry khi nhận mặc áo hàn lâm viện Pháp mới đúng là vĩ đại. Valéry bỏ viết im lặng trong mười, mười lăm năm, sống với hư vô bàng bạc để rồi trở về “làm chuyện tầm thường” với thiên hạ trong tinh thần “diệu hữu”.
Tính cách “diệu dụng” của Valéry lại còn phi thường cao siêu hơn là bọn siêu thực làm trò nhát gừng.
Chàng thản nhiên từ chối không thèm nhận. Saroyan đã nổi tiếng từ năm 1934, năm ông cho xuất bản tác phẩm đầu tiên The Daring Young Man in the Flying Trapeze(Người trẻ tuổi gan dạ trên cái đu bay). Từ năm ấy cho đến nay, Saroyan con người trẻ tuổi gan dạ, vẫn tiếp tục hiên ngang thoăn thoắt trên cái đu bay, khơi vơi lướt trên những lời hoan hô tán thưởng khiếp sợ của người đời, từ lớp này đến lớp người khác; đến nay thế hệ trẻ lô nhô sung sướng trố mắt ngó nhìn người nghệ sĩ tài ba của họ đang vẫn còn đung đưa nhẹ nhàng trên cái đu bay như độ nào; và họ đón nhận Saroyan như người bạn gần gũi nhất của thế hệ họ: một người bạn vẫn luôn luôn tươi trẻ và gan dạ (The daring young man…).
Trước khi tìm hiểu thế giới nghệ thuật của Saroyan, ta cũng nên ghi nhớ những điều quan trọng sau đây về con người của Saroyan:
Cuộc đời riêng tư của một con người
không có gì đáng nhớ.
Những chi tiết tiểu sử chỉ cần
cho những tên công an mật vụ!
Xin kê khai lý lịch (năm bản)?
Chính ý thức là danh từ rồi. Có thể dùng danh từ để định nghĩa danh từ?
Hàm hồ và không thể định nghĩa được, đó cũng là những đặc tính của chính ý thức.
Làm sao định nghĩa được ý thức?
Tất nhiên, chỉ có ý thức là mới định nghĩa được ý thức. nhưng nếu ý thức muốn định nghĩa ý thức thì ý thức phải đi ra ngoài ý thức thì mới có thể định nghĩa ý thức được.
Bóng ma của Hegel ám ảnh đâu đây? Dù lúc viết trang này tôi coi Hegel là tử thù!
Tương quan, chữ của Husserl?
Nói đến định nghĩa là nói đến xác định ý nghĩa này giữa những ý nghĩa khác, là nói đến tương quan giữa những thực thể này với những thực thể khác. Nói đến định nghĩa là nói đến tương quan và thực ra chính ý thức cũng là sự tương quan; một câu đã thành sáo là: ý thức là ý thức về cái gì.
Husserl là người xáo trộn mọi sự với một trật tự chẻ hai để rồi rơi vào sự xáo trộn nguyên thủy, vô phương cứu chữa.
Trong sáo ngữ ấy chứa đựng một sự thật khó phủ nhận: không có ý thức nào là ý thức cô độc tuyệt đối vì ý thức cô độc tuyệt đối cũng vẫn là ý thức về sự cô độc tuyệt đối.
Ý thức là tương quan; nói đến tương quan là nói đến sự chuyển động từ vị trí này đến vị trí khác; sự thực thì không có vị trí vì sự chuyển động ấy liên tục, thay đổi hướng đi luôn chứ không ngừng; chỉ có vị trí là khi nào có sự bất động hay sự ngừng lại. Định nghĩa là chặn đứng, là tìm một vị trí cố định, chặn đứng sự chuyển động thì định nghĩa ấy chỉ xây trên ảo tưởng, không có giá trị, vì định nghĩa ấy đã xoay vào sự bất động, một thực thể chết cứng; định nghĩa ấy không còn là định nghĩa ý thức nữa mà chỉ là định nghĩa hình ảnh của ý thức. Tất nhiên ai cũng hiểu hình ảnh một sự vật không phải là chính sự vật ấy.
Hình ảnh chính là sự vật. Biểu tượng là thực tại. Không có biểu tượng thì sự vật cùng tiêu mà đi. Nhưng sự khó khăn là biết thế như là thế trong chân trời yathabhutam của Phật giáo.
Hình ảnh giữ vai trò của một biểu tượng. Mà biểu tượng không phải là thực tại. Người ta thường đồng hoá biểu tượng với thực tại, đó là tất cả bi kịch của triết học và đời sống.
Lộ trình của ý thức lướt qua ba giai đoạn: vô thức, ý thức, và ý thức mới.
Ba giai đoạn thực ra chỉ là giả tưởng. Ý thức mới chỉ là vô thức được đánh tráo qua một ảo giác nào đó, ảo giác đeo đuổi cái mới của trí óc con người.
Từ vô thức đến ý thức là một phép lạ, là một chặng đường đầy gió loạn, nhưng từ ý thức đến ý thức mới là một sự thay đổi mãnh liệt và huyền bí hơn nữa.
Ý thức bị giam trong vô thức; ý thức kháng cự vùng vẫy nổi loạn; từ sự vùng vẫy giằng co giữa ý thức và vô thức thoát ra một ý thức mới.
Vô thức, ý thức và ý thức mới nằm trong ba giai đoạn của biện chứng pháp.
Biện chứng pháp là cái thùng rác mà mọi người vứt tất cả sự ngu xuẩn của họ vào đó. Phá hủy biện chứng pháp vì biện chứng pháp là con đẻ của nền văn minh đồi trụy của Tây phương.
Ý thức mới chính là ý thức về sự tuyệt vọng của chính ý thức trong vọng giam hãm của vô thức.
Ý thức mới không phải là ý thức nữa: vì nếu là ý thức thì không thể nào ý thức được chính thực chất của mình, thực chất ấy là sự mơ hồ, sự quờ quạng, vùng vẫy tuyệt vọng trong vô thức.
Ý thức mới là ý thức về hư vô tính của ý thức.
Bóng ma của Sartre ám ảnh đâu đây. Sartre tên ngu xuẩn cuối cùng của nền văn minh Tây phương. Sartre đã lên tiếng can thiệp cho Việt Nam nhưng chính tư tưởng của Sartre là đứa con trung thành của thế lực gây chiến tranh Việt Nam. Ai thấy được mâu thuẫn ấy?
Nói một cách rõ ràng hơn, ý thức mới là ý thức rằng không có ý thức. Không có ý thức thì lấy gì để ý thức rằng không có ý thức? Chính câu hỏi này cũng do ý thức đặt ra. Ý thức đặt ra câu hỏi rồi ý thức trả lời, ý thức trả lời rồi ý thức lại không bằng lòng; ý thức lại đặt ra câu hỏi; cứ thể quay cuồng trong vòng luẩn quẩn, liên miên không bao giờ dứt, ad infinitum.
Chính vòng luẩn quẩn này là hố thẳm mà tất cả triết gia đều thụt lùi sợ hãi. Một nền triết lý lớn mạnh phải đối mặt với cái ad infinitum này. Jorge Luis Borges đã thấy được ý nghĩa trầm trọng của cái ad infinitum này. Trái lại Saroyan thì sợ hãi và né tránh lý luận ad infinitum trong l’ Être et Néant.
Đó chính là sự tuyệt vọng của ý thức.
Khi ý thức tuyệt vọng thì ý thức sẽ làm một cuộc tự tử theo hai nghĩa đen và bóng. Theo nghĩa đen thì ý thức tự tử thực sự như trường hợp Marilyn Monroe, Hemingway, Hedayat... vân vân. Theo nghĩa bóng thì ý thức lột xác để hoá thân, chết đi để sống lại, đóng đinh trên cây thập giá để ba ngày sau sống lại và thăng thiên như vậy sự tự tử ấy không phải là sự tự tử nữa, mà chính là một sự giải phóng hay giải thoát, ý thức đã tự giải thoát khỏi vùng tối tăm của vô thức, ý thức tự giết ý thức để biến thành ý thức mới: ý thức không còn là ý thức nữa mà là tự do. Đó là trường hợp của Henry Miller, William Saroyan và Nietzsche. Đó cũng là tư tưởng Thiền tông và Lão tử.
Không có sự giải thoát, sống với cái-không-có-giải-thoát mà không rơi vào nihilismehoặc nói theo chữ Phạn nhà Phật, không rơi vào “abhàva”. Đó mới là điều khó.
Khi ý thức trở nên tuyệt vọng mà ý thức không tự tử (hoặc theo nghĩa đen hay nghĩa bóng) thì ý thức chạy trốn, nếu chạy trốn mà không lường gạt mình thì một thời gian sau trở nên điên loạn hoặc mang bệnh lao tâm mà chết như Kafka và Wolfe.
Kafka và Wolfe là những người kẹt vào “nihilisme”.
Kafka, một người không tận dụng hết sức mình và chết vì hối hận, tiếc nuối vô cớ.
Còn Wolfe thì lại tận dụng hết sức mình và chết vì kiệt lực. Chỉ có một sức mạnh duy nhất là sự yếu đuối rất khôi hài của con người. Đâm vỡ bức tường chắn ngang, chặt đứt cái gút thắt chặt đó là sức mạnh của Gordion, sức mạnh ấy của Tây phương có thể thống trị Á châu nhưng chính sức mạnh ấy cũng sẽ quay ngược lại giết chết Tây phương. Á đông vẫn sống với cái gút mà không cần phải tìm cách mở, vì cái gút ấy chính là Á châu. Sống với vấn đề bế tắc, sống với sự khủng hoảng mà không cần giải quyết. Đó chính là quẻ Bỉ trong Kinh Dịch.
Còn nếu chạy trốn mà lường gạt mình rằng mình không chạy trốn hoặc tự lường gạt mà không biết rằng mình tự lường gạt thì ý thức ấy trở nên chìm vào trong đời sống tầm thường đầy công thức; và ý thức ấy không còn là ý thức nữa mà là vô thức; sống mà sống một cách vô thức; như thế không khác gì chết giữa cuộc sống. Đó là tình cảnh của hầu hết mọi người trong chúng ta hiện nay. Tình cảnh mà Heidegger gọi là “Enftremdung”( sự xa lạ ly cách đối với chính mình) hay cũng gọi là (Absturz: sự sa ngã) mà đặc tính chuyển động là “Wirbel” (sự xoay vòng) nghĩa là xoay xuống tình cảnh tầm thường của thiên hạ, sự xoay chuyển ấy vén mở tình cảnh “Geworfenheit”(sự bỏ rơi, bị quăng ném vào đời ) con người bị giam hãm trong đời sống thường nhật tầm thường (“Alltäglichkeit”) đó chính là tình cảnh thất sủng sa đoạ (“Verfallen”) của hiện sinh con người (“Dasein”).
Con người bị giam hãm trong đời sống tầm thường thường nhật vì chính con người là tầm thường. Nếu tôi thành Phật thì cả vũ trụ này cũng đều thành Phật, không ngoại trừ ai, không ngoại trừ cái gì cả.
Tóm lại, ý thức mới là ý thức về sự tuyệt vọng của ý thức. Sự tuyệt vọng ấy rất là đau đớn hãi hùng. Nhưng nếu ý thức không chạy trốn sự tuyệt vọng ấy thì con đường giải thoát sẽ mở cửa.
Vô môn Quan.
Sự tuyệt vọng cùng cực đưa đến hy vọng cùng cực; giữa sự điên loạn và sự giác ngộ chỉ cách nhau có một sợi tơ rất mong manh.
Giác ngộ là điên loạn, một thứ điên vượt ra ý nghĩa thông thường của tất cả bệnh lý.
Bởi thế, đi tìm đường giải thoát cũng có nghĩa là đi tìm tuyệt vọng.
Không thể đi tìm tuyệt vọng vì tuyệt vọng là tuyệt vọng.
Đi đến đường cùng, ý thức và vô thức chỉ là một.
Đi đến đường cùng? Người Pháp hay nói “jusqu’au bout”. Thực sự đường cùng chỉ là “ Grund” mà “ Grund” chính là cái tác hại nhiều nhất đến nhân loại hiện nay. Vì lẽ đó mới có phương trình bí mật của Heidegger: “Grund: Abgrund”. Phương trình này của Heidegger còn quan trọng gấp triệu lần hơn phương trình nổi tiếng của Einstein.
Và đi sâu hơn nữa thì sự đồng nhất này cũng không có thực. Sau cùng lại chỉ còn sự im lặng mênh mông, thăm thẳm và vô biên.
“Tất cả mọi sự còn lại chỉ là im lặng” (Shakespeare?)
Chương nhứt
Ý thức bất nhị - Nghệ thuật phi nghệ thuật của Saroyan. Tinh thần bất nhị của Phật giáo Thiền tông và Jean-Paul Sartre.
1. Sống vào thời đại đổ nát, một xã hội đồi trụy và chứng kiến bao nhiêu biến chuyển điêu đứng bên ngoài cũng như bên trong tâm hồn,
Tình trạng này có khác nào ở Việt Nam hiện nay mặc dù Việt Nam hiện nay lại còn đen tối gấp trăm ngàn lần hơn nước Mỹ ở giữa hai trận chiến. Thế mà ở Việt Nam có mấy người tài lớn như O’ Neill, T. S. Eliot, Dos Passos, vân vân? Việt Nam bây giờ chỉ toàn là một lũ bồi bút, một lũ nhái con văn nghệ và làm dáng cô đơn tuyệt vọng.
Chỉ có Bùi Giáng là người duy nhất có tài lớn, lớn bằng (hay lớn hơn) O’ Neill, T. S.Eliot, Dos Passos, vân vân.
nhà văn Mỹ ở giữa hai trận chiến tranh đều ít nhiều mang chung một tâm trạng và một thái độ trước cuộc đời. Nhìn chung, nền văn học Mỹ giữa hai trận thế chiến bị sơn qua một lớp màu quá đen tối phũ phàng: con người hoàn toàn cảm thấy bất lực trước cuộc đời, bàng hoàng, khắc khoải, lạc lõng, bơ vơ, mất gốc, cô đơn, xao xuyến, chán chường, phẫn nộ, điêu đứng, đau khổ, hoang mang, thất vọng hay tuyệt vọng (như Eugene O’Neill, T. S. Eliot, John Dos Passos, Hemingway, Robinson, Jeffers, A. MacLeish, Joseph Wood Krutch…)
Giữa bầu trời ảm đạm đen tối mù mịt như vậy, sức sống mãnh liệt và giấc mộng huy hoàng Saroyan đến sau Wolfe, nhưng Saroyan chỉ yêu đời một cách “đánh lận con đen”. Sự giản dị chất phác của Saroyan là một mặt nạ khó hiểu. Có lẽ Saroyan là người chán đời nhất mà vẫn gắng gượng cười ầm lên để “pha trò” cho một tấn kịch u ẩn?
của nhân dân Mỹ vẫn còn sống nồng nàn trong Thomas Wolfe, Robert Frost, Glasgow, Cather.. nhưng phong phú nhất vẫn là Wiliam Saroyan. Trong một số tác phẩm quá nhiều (chẳng hạn như truyện ngắn , tiểu thuyết và kịch) Wiliam Saroyan đã nói lên hơi thở nhịp nhàng của con người. Mặc dù bị đắm chìm trong bao thực tại cay đắng, Saroyan vẫn sung sướng ca ngợi ngày hôm nay tuyệt vời và rực rỡ. Saroyan nói lên đức tin mãnh liệt nơi con người, nơi lòng tốt tự nhiên của con người, nơi hạnh phúc (trong đau khổ) của con người trên mặt đất tươi đẹp này; cùng chung một giọng nói như Anne Frank: “ánh mặt trời này, bầu trời xanh lơ này, khi tôi còn có sống để nhìn thì tôi không thể nào mà không hạnh phúc”, dù tất cả những gì không tốt đẹp đã xảy ra, tôi vẫn còn tin rằng con người thực sự vẫn tốt.
Sartre. Tôi hổ thẹn vì đã nhắc Sartre ở đây vai trò “angoisse”. Ngược lại, Saroyan. Sartre là người yêu đời mà “giả đò” chán đời, xao xuyến đầy “ angoisse”! Merde!.
Sartre chỉ là con khỉ của Céline. Ồ, Céline!
Céline mới đúng là cái “ angoisse” được nhập thể bằng xương bằng thịt. Tôi muốn quỳ lạy Céline như quì lạy sự thất bại của chính đời mình.
Đúng Céline mới là kẻ bị “sali, outragé, persecuté, braqué, broyé, depuis tant d’années et de mille manières…”
Sartre chỉ là một thứ nôn mửa sa lòng!…
Tất cả các tác phẩm của W. Saroyan đều trở về một chủ đề duy nhứt: “tôi đang sống”(I am alive). Nói theo Sartre, “con người là xao xuyến” (l’homme est angoisse) hay “con người là tự do” (l’homme est liberté); trái lại đối với Saroyan, thì “con người là sống” (Man is to be alive). Mà sống thì có nghĩa là chiến thắng sự xao xuyến và đó mới là tự do thực sự.
2. Năm 1940 Wiliam Saroyan được giải thưởng văn chương giá trị nhất nước Mỹ, giải Pulitzer.
Tại sao không nhận, lại làm dáng anh hùng, thái độ của Paul Valéry khi nhận mặc áo hàn lâm viện Pháp mới đúng là vĩ đại. Valéry bỏ viết im lặng trong mười, mười lăm năm, sống với hư vô bàng bạc để rồi trở về “làm chuyện tầm thường” với thiên hạ trong tinh thần “diệu hữu”.
Tính cách “diệu dụng” của Valéry lại còn phi thường cao siêu hơn là bọn siêu thực làm trò nhát gừng.
Chàng thản nhiên từ chối không thèm nhận. Saroyan đã nổi tiếng từ năm 1934, năm ông cho xuất bản tác phẩm đầu tiên The Daring Young Man in the Flying Trapeze(Người trẻ tuổi gan dạ trên cái đu bay). Từ năm ấy cho đến nay, Saroyan con người trẻ tuổi gan dạ, vẫn tiếp tục hiên ngang thoăn thoắt trên cái đu bay, khơi vơi lướt trên những lời hoan hô tán thưởng khiếp sợ của người đời, từ lớp này đến lớp người khác; đến nay thế hệ trẻ lô nhô sung sướng trố mắt ngó nhìn người nghệ sĩ tài ba của họ đang vẫn còn đung đưa nhẹ nhàng trên cái đu bay như độ nào; và họ đón nhận Saroyan như người bạn gần gũi nhất của thế hệ họ: một người bạn vẫn luôn luôn tươi trẻ và gan dạ (The daring young man…).
Trước khi tìm hiểu thế giới nghệ thuật của Saroyan, ta cũng nên ghi nhớ những điều quan trọng sau đây về con người của Saroyan:
Cuộc đời riêng tư của một con người
không có gì đáng nhớ.
Những chi tiết tiểu sử chỉ cần
cho những tên công an mật vụ!
Xin kê khai lý lịch (năm bản)?
điều thứ nhứt: Saroyan sinh ngày 31 tháng 8 năm 1908 tại Fresno thuộc California;
điều thứ hai: lúc ở tiểu học, Saroyan thường trốn học và thường bị hiệu trưởng phạt;
điều thứ ba: vì chán chường sự học vấn công thức của trường học; năm mười lăm tuổi Saroyan bỏ học luôn;
điều thứ tư: lúc bỏ học, Saroyan đã đọc hết những cuốn sách của ở thư viện Fresno;
điều thứ năm: Saroyan vừa đi vừa làm cả chục nghề; vừa viết vô số tác phẩm( trong những năm đầu viết văn, Saroyan đã viết trên bốn trăm truyện ngắn và cảo luận, đang lúc ông làm mười hai nghề khác nhau).
Về cuộc đời Saroyan ta thấy còn nhiều điều đáng để ý, nhưng đáng để ý nhất vẫn là năm điều trên; đó là cửa rừng trong khu rừng mênh mông thăm thẳm của tâm hồn Saroyan. Muốn gặp con
Sống trong tác phẩm!
Tôi muốn chữa lại cho đúng: mơ màng qua tác phẩm.
Đọc một quyển sách là mơ màng qua quyển sách. Sách chỉ là cái cớ để tha hồ mơ mộng mà không bị gọi “đãng trí”.
người của Saroyan ta cứ đi thẳng vào tác phẩm và hãy sống trong tác phẩm.
3. Nghệ thuật của Wiliam Saroyan là nghệ thuật phi nghệ thuật (the art of artlessness). Nghệ thuật
Viết gì thì viết, với điều kiện là phải trải qua cái kỷ luật triệt để.
Điều quan trọng là kỉ luật, kỉ luật sắt. Thức dậy lúc 4 giờ sáng là mỗi ngày phải làm đúng như vậy, ngồi im lặng trong 1 giờ đồng hồ, rồi mới bắt đầu viết, muốn viết gì thì viết.
Cái “hostinato rigore” (obstinée rigueur) là cái điều quan thiết nhất (Leonard de Vinci?)
chỉ là biểu tượng về cuộc đời bởi thế, đối với Saroyan, vấn đề nghệ thuật không bao giờ được đặt ra một cách nghiêm trọng như các nhà văn khác. Saroyan cũng không bao giờ có một quan niệm lý luận phân minh đàng hoàng về nghệ thuật; ông muốn nói gì thì ông nói, ông muốn viết gì thì ông viết; có lúc ta thấy ông viết một truyện ngắn có bố cục chặt chẽ đàng hoàng, một truyện ngắn hoàn toàn mẫu mực cho nghệ thuật, nhưng có lúc khác ta lại thấy ông viết chuyện ngắn chả ra chuyện ngắn và cũng không hiểu ông muốn nói gì. Tôi đã nói nghệ thuật của Saroyan là nghệ thuật phi nghệ thuật. Sự thực thì cũng chưa đúng hẳn. Hiện nay, ta thấy có hai thứ quan niệm nghệ thuật: nghệ thuật có nghệ thuật và nghệ thuật không có nghệ thuật.
Trong quá trình và tiến trình diễn biến của văn nghệ, mỗi phản ứng chỉ gây ra một phản ứng khác: văn nghệ hay tư tưởng chỉ là phản ứng liên tục. Nghệ thuật không có nghệ thuật chỉ là phản ứng của
Lý luận như thế này dễ rơi vào thảm trạng của D.T. Suzuki.
Thảm trạng của Schelling mà Hegel đã nhạo báng: “Đêm tối mà các con bò đều đen”.
Phải phân ly một cách hoàn toàn triệt để rồi mới bắt đầu nói đến hoà đồng.
Phải bỏ Đồng Tính mà đạt Như Tính.
Sự khác nhau giữa “le Même” và L’ Identique” mà Heidegger đã khai thác một cách sâu sắc.
nghệ thuật có nghệ thuật. Có đến không, rồi không đến có, rồi có đến không, như vậy cứ triền miên mãi với nhau không bao giờ dứt; bởi thế vượt lên trên thời gian và đứng ở bình diện cao hơn, ta có thể nói nghệ thuật không có nghệ thuật là nghệ thuật có nghệ thuật và nghệ thuật có nghệ thuật là nghệ thuật không có nghệ thuật. Có là không, không là có, trắng là đen, đen là trắng, trúng là sai, sai là trúng; tốt là xấu, xấu là tốt; thành công là thất bại, thất bại là thành công; no là đói, đói là no; en-soi là pour-soi, pour-soi là en-soi.
… Tôi đã chơi chữ; nhưng thực ra, chơi chữ nghĩa là không chơi chữ. Lý luận trên là lý luận Bất Nhị của Phật giáo. Mấy vị thiền sư nói: “một cái núi không phải là một cái núi và một con sông không phải là một con sông, tuy nhiên một cái núi là một cái núi và một con sông là một con sông. Sự phủ nhận là xác nhận và xác nhận là phủ nhận” [1]. “Thực là không thực và chân là không chân” (le réel est le non-réel et le vrai est le non vrai) (cf.D.T. Suzuki, l’Essence du Bouddhisme, tr. 70)
4. Nền văn minh nhân loại hiện nay đang bị phá sản bởi vì con người không bao giờ thoát
Lời nói của một kẻ giác ngộ không thể là giác ngộ.
khỏi ra ngoài tinh thần phân hai; nghĩa là phân chia thực tại và làm hai phần đối nghịch nhau: Thượng Đế và tạo vật, linh hồn và thể xác, tinh thần và vật chất, lý và phi lý, vân vân… Sự chia đôi chỉ là sản phẩm của tri thức và tuy trí tuệ thức có ích lợi, nhưng ngày nay, không còn giữ địa vị độc tôn như xưa kia nữa. Tri thức có ích lợi trong một lãnh vực nào đó, nhưng ta đừng để nó can thiệp dính líu với dòng đời. Cuộc đời là cuộc đời, trọn vẹn, đầy đủ, phong phú, muốn nhìn được hình ảnh trọn vẹn được của cuộc đời, ta hãy vượt ra ngoài trí năng; vì chính trí năng đã phân tán mất mát đi tất cả hình ảnh trung thực và toàn diện.
Bóng ma của D.T. Suzuki ám ảnh đâu đây, phải phân hai, nếu cần phân ba, nếu cần cứ phân ra một trăm, một ngàn lần. Sự phân hai chỉ có với óc phân hai. Giác ngộ là tự nguyện phân hai!
Tôi có giác ngộ? Có hề gì chuyện ấy! Không bận tâm đến giác ngộ nữa.
Khi nói đói là no, no là đói thì không có nghĩa là ta hãy nhịn đói đi: ăn vô ích vì no có nghĩa là đói; khi nói phải là sai, không có nghĩa là ta làm sai đi: làm phải vô ích, vì phải là sai, vân vân… không thể nói như vậy được vì không có sự lựa chọn.
Sartre đã biến cái “choix” thành ra một “présupposition” trong triết lý của ông vì lý do ấy, ý nghĩa của tác động “néantiser” trong triết lý ông đã mất ý nghĩa tiêu cực xứng đáng, khiến cho triết lý ông trở thành một thứ “siêu hình học” thủ cựu nhất trong những nền siêu hình học lỗi thời của Tây phương.
Ta không nên chọn đường tốt hoặc đường xấu, bởi vì thực ra trên đời không có cái gì tốt mà cũng chẳng có cái gì xấu. Chúng ta nghĩ như thế nào thì nó như thế đó. Sự lựa chọn “choix” là một vấn đề quan trọng trong triết học hiện sinh của Sartre; khi ta nói không có sự lựa chọn thì cũng chưa đúng hẳn, bởi vì đó cũng là lựa chọn thái độ không lựa chọn, như thế tức là cũng lựa chọn nữa rồi. Je peux toujours choisir, mais je dois savoir que si je ne choisis pas, je choisis encore(Sartre, L’existentialisme est un humanisme, 73), vì thế, tôi phải nói lại: sự lựa chọn không đặt thành vấn đề, ta không theo thái độ lựa chọn mà cũng không theo thái độ không lựa chọn, ta vượt tất cả mọi thái độ kể cả thái độ vượt hay kể cả thái độ không thái độ: nói như thế nghĩa là ta tự mình giải thoát khỏi vòng triền phược chấp trước của tri thức vọng kiến, và vượt lên tất cả mọi sự mâu thuẫn đối nghịch để mà có thể đạt đến hình ảnh trọn vẹn của cuộc đời toàn diện.
Hình ảnh trọn vẹn của đời sống toàn diện, tư tưởng trung tính hôm nay phải phá bỏ luôn mọi hình ảnh trọn vẹn của đời sống toàn diện, bôi sạch vết tích cuối cùng của Hegel (đồng thời trên một bình diện khác của Marx).
Tôi xin trở lại với William Saroyan. Tôi đã nói: nghệ thuật của Saroyan là nghệ thuật phi nghệ thuật (the art of artnessless) thực ra thì chỉ đúng một phần chứ không đúng hẳn. Thoạt đầu nghệ thuật của Saroyan là phi nghệ thuật, nhưng rồi sau cùng Saroyan vượt hết tất cả mọi quan niệm mọi thái độ, vượt hết, hết,… việc làm Saroyan, nếu nói theo danh từ đạo Phật thì gọi là “Achintya”.
Giữa Saroyan và “vô niệm” của Phật giáo có một sự sai biệt trong một kẽ tơ rất vi tế. Điều cần yếu cho Saroyan là nhảy.
Achintya nghĩa là không chia sẻ, vượt qua tác dụng của tri thức tương đối hay tất cả vọng tưởng mê chấp. Achintya cũng có cũng có nghĩa là “bất tư nghì”.
Nói cho gọn lại: nghệ thuật ở đây là Saroyan; Saroyan là nghệ thuật, chứ không còn sự phân chia ra hai phần cách biệt như Saroyan và nghệ thuật của Saroyan. Chính chữ “ của” này làm ta có vọng tưởng là có hai thực thể đối đãi như chủ và vật.
5. Hầu hết nghệ thuật hôm nay là biểu tượng về cuộc đời chứ không phải là cuộc đời. Saroyan đem nghệ thuật ra ngoài biểu tượng mà trở thành cuộc đời, chứ không phải là biểu tượng về cuộc đời; nghệ thuật hôm nay có giới hạn, Saroyan phá tung giới hạn ấy.
Cái nhìn hay sự vật được nhìn, chính cái nhìn mới quyết định?
Vết tích của chủ thể tính còn vướng ở đây. phải bôi sạch luôn mọi hình thức của chủ thể tính, chiến thắng “subjectivisme”.
Nếu hỏi Saroyan có thành công hay không thì chính ta phải trả lời câu hỏi ấy khi đọc thẳng tác phẩm của ông; bởi vì chính tinh thần thưởng ngoạn nghệ thuật của ta cũng phải là tinh thần sáng tạo. Khi ta nói rằng Saroyan không thành công tức là ta nói ta không thành công, khi ta nói ông thành công tức là ta nói ta thành công chacun accomplit des actes similaires à ceux qu’il attribue aux autres; que la protection de soi - même est la destruction de soi même, etc [2].
Sáng tạo là mang nợ, không có sáng tạo thuần tuý từ hư vô biến ra hữu thể. “Thiên tài là kẻ mang nợ nhiều nhất” (Emerson).
Khi thưởng thức một nghệ phẩm như tác phẩm của Wiliam Saroyan, ta phải có tinh thần sáng tạo (chứ không phải là một độc giả thụ động) ta phải sáng tạo lại, ta sống tinh thần sáng tạo ấy như khi ta ngắm bức tranh trắng đen Sumiye của Thiền tông hay như khi ta đọc thơ Haiku của văn chương Nhật (chẳng hạn như mấy bức tranh đời Đường và những bức tranh của thiền sư Sesshu và mấy bài thơ của Basho hoặc Saigyo) [3]. (Xin xem quyển Zenga của Kurt Brash).
Triết học là học về sự thất bại. Không bao giờ có một nền triết lý thành công. Triết lý “dấn thân” là triết lý ấu trĩ.
Nói đến nghệ thuật Saroyan, gián tiếp ta đã đặt ra nhiều vấn đề triết học quan trọng; nói đến triết học là nói đến sự thất bại của lý trí con người, là nói lên sự mâu thuẫn liên tục của suy tư; người viết đến đây cảm thấy bàng hoàng vô cùng.
6. Sở dĩ có câu hỏi “như thế nào” là vì con người sợ sự hỗn mang và muốn nhốt sự hỗn mang vào một dạng thức, một hình thức (forme). Con người xuống thang sa đoạ là con người đòi hỏi một pattern, một “forme” cho tất cả mọi sự. Aristote!
William Saroyan viết truyện ngắn như thế nào? Trước khi trả lời, ta phải tự hỏi: phải đọc truyện ngắn của Saroyan như thế nào?
Tôi thấy có hai nguyên tắc dẫn đạo để giúp ta tìm hiểu nghệ thuật viết truyện ngắn của Saroyan; đây cũng có thể gọi là Ý thức Bất Nhị.
Ý thức Bất Nhị không phải là Bất Nhị.
Nguyên tắc thứ nhứt: không có gì là hấp tấp vội vã. Nguyên tắc thứ hai: Không có gì để nói cả.
Hai nguyên tắc cao nhất của tư tưởng và nghệ thuật.
Nhưng tại sao lại gọi là “nguyên tắc”? chữ Hy lạp là “arché” đã bị xuyên tạc thành ra chữ La Tinh “principia”. Tất cả sự thất bại của truyền thống văn hoá Tây phương nằm ở sự xuyên tạc liên tục này. Newton đã đặt vòng vương miện qua nhan đề tác phẩm khoa học của ông với chữ “principia” (và Descartes!)
Đọc truyện ngắn của Saroyan ta thường gặp Saroyan nhắc đi nhắc lại nhiều lần những câu sau đây: “tuyệt đối không hấp tấp”, There is absolutely no haste (truyện “My self upon the Earth”) “tuyệt đối không có gì để nói cả”, There was absolutely nothing to say(truyện “The Earth, Day, Night, Self”). Ta thử ngưng lại và suy nghĩ xem Saroyan muốn nói những gì, khi ông nhắc đi lập lại hai câu trên.
Ta còn nhớ: ở đời không có gì tốt không có gì xấu, không có phải, không có sai, không có thiện, không có ác, không có không, cũng không có có.
Nói như thế thì rất dễ vượt qua tính cách “oihilisme” này mới quan trọng.
Nam Tuyền thiền sư đã vượt qua “đoạn-diệt”.
Thiền sư Nam Tuyền nói: “Đại Đạo nhất thế thật vô phàm thánh. Nhược hữu danh tự giai thuộc hạn lượng. Sở dĩ Giang tây lão túc vân “Bất thị tâm bất thị Phật bất thị vật”. Tất cả đều có sự phân chia “tốt” hay “xấu”, vân vân, đều là do trí năng ta. Hãy ném trí thức đi. Hãy giết trí thức đi [4].
Ý nghĩa của Yatha (như thị! như thị) của Phật giáo.
Cuộc đời là cuộc đời, là như vậy, không có cái này mà cũng không có cái kia, nên ta không thể lựa chọn được. Tất cả triết lý Sartre đều quay về sự lựa chọn (choix); thực ra, ta không nên lựa chọn gì cả (và cũng không lựa chọn và không không không không vân vân); nghĩa là sự lựa chọn không đặt ra thành vấn đề; vì cuộc đời này không cái này mà cũng không cái kia hay là cái này mà cũng là cái kia.
“Nhậm tánh”- cưu mang thể tánh như là thể tánh, so với một bình diện khác,“cưu mang nỗi chết qua nỗi chết” (Heidegger: den Tod als Tod zu übernahmen).
“Chi Đạo vô nan, duy hiềm giản trạch, nhậm tánh hiệp đạo, tiên diên tuyệt não hệ niệm quai chơn, vật ố lục trần, lục trần bất ố, hoàn đồng chánh giác, vân vân…”
Ý nghĩa chữ “grundlos” của Schopenhauer.
Cuộc đời không mục đích, không ý nghĩa, không cứu cánh; khi ta có một mục đích nào đó để đạt đến thì ta hấp tấp vội vã cho mau đến đích; ta không hiểu rồi đây ta sẽ đi về đâu; ta không hiểu cho nên ta không hấp tấp vội vã, vì nếu là hấp tấp vội vã thì gián tiếp tự cho mình có mục đích để đến.
Ý nghĩa của chữ “Langeweile” mà Johann Georg Hamann đã dùng. Hamann người tự nhận là “tình nhân của Langeweile” nghĩa là “kẻ thích sống không làm gì cả”.
“Vội vã hấp tấp” là cơn bệnh trầm trọng của tâm hồn (ai nói thế, Rilke? Kafka? Simone Weil?)
Saroyan không bao giờ xem trọng nghệ thuật và cũng không bao giờ có quan niệm chặt chẽ, đàng hoàng về nghệ thuật viết văn, ông không đem một mục đích cứu cánh cho việc viết văn của mình, bởi thế, ông không vội vã hấp tấp: vội vã và hấp tấp để làm gì, để đi về đâu khi không có mục đích cứu cánh gì cả. Đọc tác phẩm của Saroyan, ta thấy ông muốn viết gì thì viết, cứ theo đà xung đột mãnh liệt của lòng ông, ông không bao giờ để ý lo lắng đến lối viết văn, hình thức, không khí nghệ thuật, vân vân. Nói đến đây, ta nhớ đến mấy lời của Whitman [5].
Cũng chưa lôi thôi và rườm ra như Faulkner, một thứ rườm rà, dài dòng, thôi thôi thần thánh của thiên tài!
Có nhiều chuyện ngắn của Saroyan dài dòng, lôi thôi rườm rà (chẳng hạn truyện “Seventy Thousand Assyrians”, truyện “Myself Upon the Earth”...) ta nóng lòng, ta hấp tấp vội vã muốn tác giả nói thẳng đi, nói mau đi cho rồi; bởi vì ta thấy ông ra ngoài đề quá xa, ông nói đi rồi nói lại, nói bên trong rồi lại nói ra bên ngoài, loanh quanh, luẩn quẩn nhì nhằng như kẹo cao su, thay vì đi đường thẳng, ông lại bình thản từ từ đi một vòng tròn thật rộng; ta sốt ruột cả lên và ông ung dung trả lời “khoan, sao mà hấp tấp thế, tuyệt đối không có gì vội vã” (there is absolutely no haste).
Bùi Giáng là người duy nhất
thể hiện mãnh liệt nhất
lối viết đi ngoài khung khổ hạn định.
Văn nghệ Việt Nam đến bây giờ còn lết bết đi sau Bùi Giáng đến một trăm năm. Nhưng nỗi nguy hiểm nhất của Bùi Giáng vẫn là “hubris” trong ý nghĩa Hy Lạp. Hölderlin: “Wo aber die Gefahr ist, wächst das Rettende auch”!
Người ta viết văn thường có quan niệm nghệ thuật vững chãi, nào là bố cục phải phân minh, nhập đề, thân kết, vân vân… nghĩa là người ta có mục đích đàng hoàng, người ta phải hấp tấp không dám đứng lại nhì nhằng, nhập đề phải gọn, kết luận phải ngắn và sắc, vân vân… người ta không dám ra ngoài khung khổ hạn định; con đường đi ấy ngắn, người ta phải cố gắng vội vã đi trong vòng mấy phút, không được đi lố giờ trong trung bình mà bao nhiêu người khác đã đi; trái lại, Saroyan không giống như vậy, ta hãy tưởng tượng một con đường ngắn đáng lẽ chỉ mất mấy phút, ông lại đi hoài đi mãi mà không bao giờ tới; bởi vì Saroyan bước đi chậm chạp, khoan thai, bước chừng vài bước lại dừng chân lại, ngồi ngủ dưới gốc cây, rồi thức dậy, ngắm mây trắng bồng bềnh, nghe chim kêu, rồi lại bước đi, đi chừng vài bước lại dừng chân ngắm đoá hoa và bướm vàng bên vệ đường rồi lại bước đi, cứ như thế đi hoài đi mãi mà không bao giờ tới nơi tới chốn. Nói đến Saroyan, ta dễ nhớ đến tư tưởng mấy thiền sư: “Đi là sống; tới là chết” [6].
Nhưng Trung Quán Luận của Phật giáo: “Trước hết sự vận hành thành tựu rồi thì không phải là vận hành, mà sự vận hành chưa thành tựu thì cũng không phải là vận hành. Sự vận hành hiện tại ở ngoài hai sự vận hành kia (đã thành tựu và chưa thành tựu) thì không thể có nghĩa được” (nguyên bản Tây Tạng: re zig son la mi’ gro ste “ma son ba’ la’ an’ gro ba med” son dan ma son ma gtogs par “bgom pa ses pas par mi’ gyur ro”).
Đọc tác phẩm của Saroyan, ta đừng quên nguyên tắc thứ nhất “tuyệt đối không hấp tấp vội vã”, ta cứ đọc chầm chậm, đừng nóng lòng chờ đợi kết cục thế nào, câu chuyện sẽ đưa đến đâu, vân vân… Câu chuyện sẽ không đưa đến đâu cả bởi vì:
Nguyên tắc thứ hai: Không có gì để nói cả.
Mỗi nhà văn khi cầm bút đều sẵn có một số quan niệm nào đó trong đầu.
Lại Sartre nữa! Hãy đọc lại mấy bài Sartre viết về Flaubert thì thấy rõ!
Họ viết để nói một cái gì, chẳng hạn như những vở kịch và tiểu thuyết của Jean-Paul Sartre đều dùng để nói lên triết lý hiện sinh của ông chẳng hạn như quyển tiểu thuyết La Nausée, đã được Sartre viết ra là vì ông đã có sẵn trước một ý niệm (qui s'est inspiré d’un concept) ý niệm về triết lý hiện sinh, ý niệm về quyển La Nausée, nghĩa là Sartre đã có sẵn một kỹ thuật trứ tác, một recette (une technique de production préalable que fait partie du concept, et qui est au fond une recette), như vậy, quyển La Nausée là một cuốn sách (một sự vật) đã được trước tác ra trong một đường lối nào đó và chứa đựng một sự ích lợi được xác định đàng hoàng: dùng để nói lên triết lý hiện sinh (un object qui se produit d’une certaine manière et qui, d’ autre part, a une utilité définie [7], khi viết La Nausée, Sartre đã muốn dùng quyển ấy để làm gì rồi, bởi thế ta có thể dùng danh từ của
Thực ra, essentia và existentia của Sartre ở đây đã bị Heidegger vạch ra bộ mặt của Thần học công giáo Trung cổ. “Lật ngược một mệnh đề siêu hình học vẫn là siêu hình học”.
Sartre để mà nói gọn lại rằng bản chất yếu tính (l’essence) của quyển (La Nausée) đã có trước sự hiện hữu (l'existence) của quyển ấy (l’essence - c’est-à-dire l’ensemble des recettes et des qualités permettent de le produire et de le définir-précède l'existence) [8]; sự có mặt của La Nausée đã được xác định trước rồi; bởi thế ta có thể nói rằng khi viết tiểu thuyết hay kịch, Sartre đã có một cái nhìn kỹ thuật (une vision technique du monde), nghĩa là về con người thì Sartre cho rằng sự hiện hữu có trước yếu tính (l'existence précède l’essence) nhưng về nghệ thuật văn nghệ thì Sartre gián tiếp cho rằng yếu tính có trước hiện hữu (l’essence précède 'existence).
Nên đặt lại ý nghĩa của “existence” của Saroyan trong ý nghĩa xuất (ex-) của chữ Exsistenz của Heigeger thì mới đúng hơn vì existence của Sartre kẹt vào existentia của kinh viện Trung cổ.
William Saroyan khác Sartre; nếu nói theo danh từ của Sartre thì đối với Saroyan, về nghệ thuật văn nghệ: hiện hữu có trước yếu tính (l'existence précède l’essence) chẳng hạn như trường hợp của Sartre viết quyển La Nausée và Saroyan viết truyện Common Prayer. Yếu tính của La Nausée có trước hiện hữu của La Nausée; còn hiện hữu của Common Prayer có trước yếu tính của Common Prayer. Trước khi viết La Nausée, Sartre đã có trước một ý niệm; trước khi viết Common Prayer, Saroyan chẳng có ý niệm nào cả.
Sự trống rỗng của Saroyan ở đây là ý nghĩa chữ “le vide” trong nghệ thuật (xin đọc, Le Vide, expérience spirituelle en Occident et en Orient, trang 290-307, loại sách Hermès, Paris, 1969).
Đầu óc của Saroyan trống rỗng. Saroyan cứ lại bàn ngồi rồi lấy bút ra viết (vì cảm thấy ngứa tay) và để ngòi bút chạy đi đâu thì chạy. Sartre có một cái gì để nói; còn Saroyan hoàn toàn chẳng có gì để nói hết. Thiền tông “Nhử đản vô sự ưu tâm vô tâm ư sự tắc hư nhi linh không nhi diệu”. Ta chẳng lấy làm lạ đối với Sartre, viết văn là “une entreprise” [9] , Sartre nói khi viết, Saroyan sống khi viết; Sartre viết để nói, Saroyan viết để sống. Saroyan: “tôi chỉ là người trẻ tuổi, tôi viết để mà viết, vì tôi chẳng biết làm gì cả” (“Myself upon the Earth”). Việc viết lách, đối với Saroyan, là một công việc thông thường của cuộc sống, như ăn, uống, ngủ hay đi tiểu tiện, đại tiện, vân vân. Saroyan viết là viết, chứ không nghĩ gì cả; bởi thế một số lớn tác phẩm của Saroyan là cuộc đời chứ không phải nói về cuộc đời. Thực sự tuyệt đối không có gì để nói: there was absolutely nothing to say (Saroyan).
Giới hạn của ngôn ngữ thông thường. Trả ngôn ngữ lại vị thế ban đầu của nó thì ngôn ngữ chính là cuộc đời. Thực ra chữ quan trọng không phải là “cuộc đời” mà chính là chữ “là”. Ý nghĩa của chữ Hy Lạp “eĩvai” rất quan trọng ở đây.
Thi ca của Thiền tông cũng thế. Những bài thơ sống nhất của Thiền là những bài thơ chẳng nói gì hết, không có gì để nói hết; những bài thơ ấy là cuộc đời chứ không phải triết lý hay chú giải về cuộc đời (cf. Alan. Watts: the most expressive Zen poetry is that which “says nothing”, which, in other words, is not philosophy or commentary about life) [10] .
“Con người” là gì? Phải tránh “nhân trung thuyết” ở đây.
Một số tác phẩm của Saroyan không phải là tác phẩm, sách, truyện hay tiểu thuyết: ai rờ vào đây là rờ vào một con người. Camerado, this is no book, who touches this touches a man (Walt Whitman, so long).
Henry Miller đã đi ra ngoài tất cả những hạn chế của nghệ thuật. Walt Whitman vẫn còn kẹt vào đôi hạn chế (như Restif de la Bretonne).
Đọc Henry Miller, Restif de la Bretonne (thiên tài dị thường của Pháp ở thế kỷ XVIII), Walt Whitman hay Saroyan ta đều có cảm giác như trên.
Đối với Saroyan, Henry Miller, Walt Whitman, Restif de la Bretonne viết là sống, sống là viết.
Có thể bỏ viết mà vẫn sống được không? Chỉ có Henry Miller là làm được việc khó khăn này.
Saroyan đã tự thú như vầy:
“Trong vòng sáu tháng qua, tôi phải bị xa lìa việc viết lách của tôi và tôi không còn là gì nữa hay là tôi đã bước đi quanh quẩn như một cái xác không hồn, một bóng mơ hồ trong ác mộng của vũ trụ” [11].
Đây cũng là thảm kịch của tôi trong nhiều năm. Thảm kịch này giống như người bị bệnh cuồng thiền. Tham thiền một thời gian rồi nghiện thiền như nghiện thuốc lá. Đó là sự nguy hiểm dễ sợ nhất.
Khi nào không viết, Saroyan có cảm giác rằng ông đã mất đi, chết đi (unalive), bởi vì Saroyan sống trong lúc viết là viết trong lúc sống, đối với Saroyan đọc, viết, sống chỉ là một. Tác phẩm của Saroyan chính là Saroyan, là một “quyển sách sống” (mượn chữ “Livre vivant” của Restif de la Bretonne).
Đây là một cách thủ dâm bằng chữ nghĩa. Cuộc sống như một người đàn bà. Con người luôn luôn trễ tàu. Chỉ sống sau khi hoặc chỉ sống trước khi, còn đang sống là sợ hết. Tai nạn thường trực.
Kinh nghiệm phi thường của Edmond Jabès. Đối với Jabès, chỉ thoát được ra ngoài quyển sách là trong quyển sách: quyển sách không ở trong thế giới là chính thế giới ở trong Quyển sách. Edmond Jabés: “Nếu Thượng đế hiện hữu thì sở dĩ là thế vì Thượng đế ở trong quyến sách” (Si Dieu est, c’est parce qu’il est dans le livre). Kinh nghiệm thần bí của Jabès: “Thế giới hiện hữu bởi vì cuốn sách hiện hữu” (Le monde existe parce que le livre existe). Khủng khiếp nhất là giây phút trực nhận của Jabès: “Quyển sách là tác phẩm của quyển sách” (le livre est l’oeuvre du livre).
So sánh Edmond Jabès et la question du livre trong quyển L’ Écriture et la Différence của Jacques Derrida, trang 99 – 116 vaf 429 – 436). Viết về quyển Yael của Edmond Jabès, Gabriel Bounoure trong Critique (Juin 1968, trang 587) nói: “…Le livre de Yael n’est pas fini, qu’il se poursuivra dans un livre intérieur au livre”.
Trái tim của con người đập nhịp nhàng ngay trong tác phẩm của Saroyan; muốn gọi gì thì gọi, muốn nói gì thì nói, tác phẩm của ông đang thở. “What difference does it make what you call it, just so it breathes” (Saroyan). Tác phẩm của Saroyan không phải là nói về trái tim: chính tác phẩm ấy là trái tim; trái tim nằm trong ấy và máy động nhịp nhàng ở trong ấy [12].
Nhưng chính Marquis de Sade là nạn nhân tàn nhẫn của sự ngộ nhận vĩ đại!
Những tác phẩm của Restif de la Bretonne hay Saroyan (hay Henry Miller, Walt Whitman) đều cũng thế. Những tác phẩm của họ thường bị người đời hiểu lầm; một Marquis de Sade làm gì hiểu nổi Restif de la Bretonne; một John Brown có bao giờ hiểu được thiên tài lung linh của William Saroyan; một Bertrand Russel bao giờ hiểu được thiên tài mãnh liệt của D.H. Lawrence? (cf. Portraits from Memory, tr. 111-116). Cả dân tộc Mỹ đã bỏ quên thiên tài phi thường của Henry Miller trong mấy chục năm trời và giờ đây mới chỉ bắt đầu mở mắt ra mà nhìn tầm vóc vĩ đại của Henry Miller.
Thực ra ở thế giới này có mấy người hiểu được Henry Miller? Ngày trước số người hiểu được thuyết Einstein có thể đếm trong đầu ngón tay, nhưng ngày nay số người hiểu được Henry Miller thì lại khó tìm thấy hơn.
Người ta chê Saroyan (hay chê Henry Miller, Restif de la Bretonne, Marc Chagall, vân vân), người ta chê những thiên tài này là”con nít, ngây ngô…”. Saroyan lại nghĩ rằng “con nít là nòi giống duy nhất của con người thực sự; tất cả những gì còn lại đều là giả dối” [13]. Restif de la Bretonne lại trả lời: “những chi tiết trẻ con ngây ngô mới thực là cần thiết” [14].
Người ta chê họ là “tầm thường, nói những điều ai cũng biết rồi”. Saroyan lại hãnh diện nói: “Tôi không có ý lãnh giải Pulitzer hay giải Nobel hay bất cứ giải thưởng nào khác, tôi ngồi đây trong gian phòng nhỏ bé, viết một bức thư gửi những người tầm thường và bằng một ngôn ngữ giản dị đơn sơ, tôi kể cho họ nghe những điều họ đã biết rồi”. [15]
Chúng ta nhớ lại khi Marquis de Sade khinh chê Restif de la Bretonne viết những điều ai cũng biết – ce que tout le monde sait. Restif de la Bretonne trả lời rằng chính những điều tầm thường ấy, những điều ai cũng biết, ce que tout le monde sait, chính những điều ấy mới chứa đựng chân lý của cuộc đời, sự huyền diệu của cuộc đời, sự bí mật phong phú, phi thường của con người.
Người ta chỉ có viết những điều có thể biết.
Giẫm lên giới hạn của điều có thể biết là điều khó đạt nhất và bí mật nhất.
Ta đã đau đớn biết bao khi thấy con người sống tù hãm trong những định thức thành kiến gò bó.
Chừng nào những Sade mới biết im lặng để cho những Restif de la Bretonne, những Saroyan, những Henry Miller được thung dung thổi gió về vi vu trong lòng ta? Người ta cười những lời ngây thơ của Saroyan, Restif de la Bretonne và Henry Miller; người ta cười lúc họ thành thật hơn bao giờ hết. Hãy cười đi - Người ta đã cười Picasso, đã cười Chagall, đã cười những kẻ “điên, ngu, dại, ngây ngô, khờ khệch”. Người ta cứ mải miết loanh quanh đi tìm cao siêu, sâu sắc, uyên bác, thâm trầm, trông thái, già giặn, vân vân… Một ngàn cụ Einstein cũng không thể nào sánh được với một người nhà quê dốt nát, nghèo khổ, ngây ngô, dại dột: và mộng của Einstein cũng chỉ muốn được như vậy mà thôi, được làm một người nhà quê dốt nát. Tolstoi có những điệu bộ nào vào lúc già mà khiến cho tâm hồn ta phải xao động lạ lùng như vậy?
Con người cứ mải miết đi tìm Niết bàn. Niết bàn không có ở đâu cả; Niết bàn ở ngay trong vòng Luân hồi, Luân hồi là Niết bàn [16], các người có nghe rõ chưa?
Nhưng trước khi thể hiện được như vậy, phải sống cho qua giữa một mùa hỏa ngục.
Khi ta đọc vài ba truyện ngắn nào đó của Saroyan mà ta chưa kịp hiểu hoặc ta thấy “tầm thường” quá thì ta hãy nhớ nguyên tắc thứ hai: “Không có gì để nói hết”.
Con người bị đoạ, vì biết nói. Nhân vật vĩ đại nhất của Carson Mc Cullers là những người câm (The heart is lonely hunter).
Thuyết Bất nhị của Thiền tông Phật giáo lại trở về phiêu diêu… Tất nhiên, con người đã sinh ra đời không thể nào im lặng, vì im lặng cũng có tiếng nói của nó, và khi ta bảo rằng: “Tuyệt đối không có gì để nói hết” thì cũng là có gì để nói rồi; không có gì để nói là có gì để nói và có gì để nói là không có gì để nói; bởi thế có khi ta thấy tác phẩm của Saroyan nhờ thế này, có lúc ông lại đổi khác đi -
Làm sao lý luận như vầy mà không rơi vào “ba phải”?
tựu trung, Saroyan vượt lên tất cả mọi suy tư- Khi ông muốn nói thì nói; lúc ông không muốn nói thì không nói; lúc ông muốn viết thì ông ngồi bàn mà viết; lúc không muốn viết thì thôi; lúc ông muốn suy nghĩ, ông suy nghĩ- Saroyan không tự bắt buộc phải trung thành với bất cứ cái gì, dù trung thành với những cái gì tự ông đã đặt ra.
Thoát ra ngoài “ý tính”, vấn đề khó khăn nhất của con người.
Saroyan muốn trước rồi nghĩ sau; Sartre nghĩ trước và muốn sau. Saroyan thấy thích viết thì viết, chứ cũng chẳng nghĩ gì hết, ngay đến chuyện nghĩ cũng thế, ông thích nghĩ thì cứ nghĩ…
Nhưng Saroyan không phải là một thiền sư.
Hành động của Saroyan, danh từ Phật giáo gọi là “diệu dụng”. Thiền tông: “Bất khả dĩ hữu tâm đắc; bất khả dĩ vô tâm cầu”.
William Saroyan viết truyện ngắn thế nào?
Ông muốn viết thế nào ông viết; ông muốn, chứ không nghĩ. Khi nào Saroyan muốn viết thì cứ ngồi xuống viết, I just sit down and write [17].
Muốn chính là nghĩ.
Ông không nghĩ gì hết, những lúc nào ông muốn nghĩ về nghệ thuật viết truyện ngắn, ông muốn nghĩ rằng:
Sống trong tác phẩm!
Tôi muốn chữa lại cho đúng: mơ màng qua tác phẩm.
Đọc một quyển sách là mơ màng qua quyển sách. Sách chỉ là cái cớ để tha hồ mơ mộng mà không bị gọi “đãng trí”.
người của Saroyan ta cứ đi thẳng vào tác phẩm và hãy sống trong tác phẩm.
3. Nghệ thuật của Wiliam Saroyan là nghệ thuật phi nghệ thuật (the art of artlessness). Nghệ thuật
Viết gì thì viết, với điều kiện là phải trải qua cái kỷ luật triệt để.
Điều quan trọng là kỉ luật, kỉ luật sắt. Thức dậy lúc 4 giờ sáng là mỗi ngày phải làm đúng như vậy, ngồi im lặng trong 1 giờ đồng hồ, rồi mới bắt đầu viết, muốn viết gì thì viết.
Cái “hostinato rigore” (obstinée rigueur) là cái điều quan thiết nhất (Leonard de Vinci?)
chỉ là biểu tượng về cuộc đời bởi thế, đối với Saroyan, vấn đề nghệ thuật không bao giờ được đặt ra một cách nghiêm trọng như các nhà văn khác. Saroyan cũng không bao giờ có một quan niệm lý luận phân minh đàng hoàng về nghệ thuật; ông muốn nói gì thì ông nói, ông muốn viết gì thì ông viết; có lúc ta thấy ông viết một truyện ngắn có bố cục chặt chẽ đàng hoàng, một truyện ngắn hoàn toàn mẫu mực cho nghệ thuật, nhưng có lúc khác ta lại thấy ông viết chuyện ngắn chả ra chuyện ngắn và cũng không hiểu ông muốn nói gì. Tôi đã nói nghệ thuật của Saroyan là nghệ thuật phi nghệ thuật. Sự thực thì cũng chưa đúng hẳn. Hiện nay, ta thấy có hai thứ quan niệm nghệ thuật: nghệ thuật có nghệ thuật và nghệ thuật không có nghệ thuật.
Trong quá trình và tiến trình diễn biến của văn nghệ, mỗi phản ứng chỉ gây ra một phản ứng khác: văn nghệ hay tư tưởng chỉ là phản ứng liên tục. Nghệ thuật không có nghệ thuật chỉ là phản ứng của
Lý luận như thế này dễ rơi vào thảm trạng của D.T. Suzuki.
Thảm trạng của Schelling mà Hegel đã nhạo báng: “Đêm tối mà các con bò đều đen”.
Phải phân ly một cách hoàn toàn triệt để rồi mới bắt đầu nói đến hoà đồng.
Phải bỏ Đồng Tính mà đạt Như Tính.
Sự khác nhau giữa “le Même” và L’ Identique” mà Heidegger đã khai thác một cách sâu sắc.
nghệ thuật có nghệ thuật. Có đến không, rồi không đến có, rồi có đến không, như vậy cứ triền miên mãi với nhau không bao giờ dứt; bởi thế vượt lên trên thời gian và đứng ở bình diện cao hơn, ta có thể nói nghệ thuật không có nghệ thuật là nghệ thuật có nghệ thuật và nghệ thuật có nghệ thuật là nghệ thuật không có nghệ thuật. Có là không, không là có, trắng là đen, đen là trắng, trúng là sai, sai là trúng; tốt là xấu, xấu là tốt; thành công là thất bại, thất bại là thành công; no là đói, đói là no; en-soi là pour-soi, pour-soi là en-soi.
… Tôi đã chơi chữ; nhưng thực ra, chơi chữ nghĩa là không chơi chữ. Lý luận trên là lý luận Bất Nhị của Phật giáo. Mấy vị thiền sư nói: “một cái núi không phải là một cái núi và một con sông không phải là một con sông, tuy nhiên một cái núi là một cái núi và một con sông là một con sông. Sự phủ nhận là xác nhận và xác nhận là phủ nhận” [1]. “Thực là không thực và chân là không chân” (le réel est le non-réel et le vrai est le non vrai) (cf.D.T. Suzuki, l’Essence du Bouddhisme, tr. 70)
4. Nền văn minh nhân loại hiện nay đang bị phá sản bởi vì con người không bao giờ thoát
Lời nói của một kẻ giác ngộ không thể là giác ngộ.
khỏi ra ngoài tinh thần phân hai; nghĩa là phân chia thực tại và làm hai phần đối nghịch nhau: Thượng Đế và tạo vật, linh hồn và thể xác, tinh thần và vật chất, lý và phi lý, vân vân… Sự chia đôi chỉ là sản phẩm của tri thức và tuy trí tuệ thức có ích lợi, nhưng ngày nay, không còn giữ địa vị độc tôn như xưa kia nữa. Tri thức có ích lợi trong một lãnh vực nào đó, nhưng ta đừng để nó can thiệp dính líu với dòng đời. Cuộc đời là cuộc đời, trọn vẹn, đầy đủ, phong phú, muốn nhìn được hình ảnh trọn vẹn được của cuộc đời, ta hãy vượt ra ngoài trí năng; vì chính trí năng đã phân tán mất mát đi tất cả hình ảnh trung thực và toàn diện.
Bóng ma của D.T. Suzuki ám ảnh đâu đây, phải phân hai, nếu cần phân ba, nếu cần cứ phân ra một trăm, một ngàn lần. Sự phân hai chỉ có với óc phân hai. Giác ngộ là tự nguyện phân hai!
Tôi có giác ngộ? Có hề gì chuyện ấy! Không bận tâm đến giác ngộ nữa.
Khi nói đói là no, no là đói thì không có nghĩa là ta hãy nhịn đói đi: ăn vô ích vì no có nghĩa là đói; khi nói phải là sai, không có nghĩa là ta làm sai đi: làm phải vô ích, vì phải là sai, vân vân… không thể nói như vậy được vì không có sự lựa chọn.
Sartre đã biến cái “choix” thành ra một “présupposition” trong triết lý của ông vì lý do ấy, ý nghĩa của tác động “néantiser” trong triết lý ông đã mất ý nghĩa tiêu cực xứng đáng, khiến cho triết lý ông trở thành một thứ “siêu hình học” thủ cựu nhất trong những nền siêu hình học lỗi thời của Tây phương.
Ta không nên chọn đường tốt hoặc đường xấu, bởi vì thực ra trên đời không có cái gì tốt mà cũng chẳng có cái gì xấu. Chúng ta nghĩ như thế nào thì nó như thế đó. Sự lựa chọn “choix” là một vấn đề quan trọng trong triết học hiện sinh của Sartre; khi ta nói không có sự lựa chọn thì cũng chưa đúng hẳn, bởi vì đó cũng là lựa chọn thái độ không lựa chọn, như thế tức là cũng lựa chọn nữa rồi. Je peux toujours choisir, mais je dois savoir que si je ne choisis pas, je choisis encore(Sartre, L’existentialisme est un humanisme, 73), vì thế, tôi phải nói lại: sự lựa chọn không đặt thành vấn đề, ta không theo thái độ lựa chọn mà cũng không theo thái độ không lựa chọn, ta vượt tất cả mọi thái độ kể cả thái độ vượt hay kể cả thái độ không thái độ: nói như thế nghĩa là ta tự mình giải thoát khỏi vòng triền phược chấp trước của tri thức vọng kiến, và vượt lên tất cả mọi sự mâu thuẫn đối nghịch để mà có thể đạt đến hình ảnh trọn vẹn của cuộc đời toàn diện.
Hình ảnh trọn vẹn của đời sống toàn diện, tư tưởng trung tính hôm nay phải phá bỏ luôn mọi hình ảnh trọn vẹn của đời sống toàn diện, bôi sạch vết tích cuối cùng của Hegel (đồng thời trên một bình diện khác của Marx).
Tôi xin trở lại với William Saroyan. Tôi đã nói: nghệ thuật của Saroyan là nghệ thuật phi nghệ thuật (the art of artnessless) thực ra thì chỉ đúng một phần chứ không đúng hẳn. Thoạt đầu nghệ thuật của Saroyan là phi nghệ thuật, nhưng rồi sau cùng Saroyan vượt hết tất cả mọi quan niệm mọi thái độ, vượt hết, hết,… việc làm Saroyan, nếu nói theo danh từ đạo Phật thì gọi là “Achintya”.
Giữa Saroyan và “vô niệm” của Phật giáo có một sự sai biệt trong một kẽ tơ rất vi tế. Điều cần yếu cho Saroyan là nhảy.
Achintya nghĩa là không chia sẻ, vượt qua tác dụng của tri thức tương đối hay tất cả vọng tưởng mê chấp. Achintya cũng có cũng có nghĩa là “bất tư nghì”.
Nói cho gọn lại: nghệ thuật ở đây là Saroyan; Saroyan là nghệ thuật, chứ không còn sự phân chia ra hai phần cách biệt như Saroyan và nghệ thuật của Saroyan. Chính chữ “ của” này làm ta có vọng tưởng là có hai thực thể đối đãi như chủ và vật.
5. Hầu hết nghệ thuật hôm nay là biểu tượng về cuộc đời chứ không phải là cuộc đời. Saroyan đem nghệ thuật ra ngoài biểu tượng mà trở thành cuộc đời, chứ không phải là biểu tượng về cuộc đời; nghệ thuật hôm nay có giới hạn, Saroyan phá tung giới hạn ấy.
Cái nhìn hay sự vật được nhìn, chính cái nhìn mới quyết định?
Vết tích của chủ thể tính còn vướng ở đây. phải bôi sạch luôn mọi hình thức của chủ thể tính, chiến thắng “subjectivisme”.
Nếu hỏi Saroyan có thành công hay không thì chính ta phải trả lời câu hỏi ấy khi đọc thẳng tác phẩm của ông; bởi vì chính tinh thần thưởng ngoạn nghệ thuật của ta cũng phải là tinh thần sáng tạo. Khi ta nói rằng Saroyan không thành công tức là ta nói ta không thành công, khi ta nói ông thành công tức là ta nói ta thành công chacun accomplit des actes similaires à ceux qu’il attribue aux autres; que la protection de soi - même est la destruction de soi même, etc [2].
Sáng tạo là mang nợ, không có sáng tạo thuần tuý từ hư vô biến ra hữu thể. “Thiên tài là kẻ mang nợ nhiều nhất” (Emerson).
Khi thưởng thức một nghệ phẩm như tác phẩm của Wiliam Saroyan, ta phải có tinh thần sáng tạo (chứ không phải là một độc giả thụ động) ta phải sáng tạo lại, ta sống tinh thần sáng tạo ấy như khi ta ngắm bức tranh trắng đen Sumiye của Thiền tông hay như khi ta đọc thơ Haiku của văn chương Nhật (chẳng hạn như mấy bức tranh đời Đường và những bức tranh của thiền sư Sesshu và mấy bài thơ của Basho hoặc Saigyo) [3]. (Xin xem quyển Zenga của Kurt Brash).
Triết học là học về sự thất bại. Không bao giờ có một nền triết lý thành công. Triết lý “dấn thân” là triết lý ấu trĩ.
Nói đến nghệ thuật Saroyan, gián tiếp ta đã đặt ra nhiều vấn đề triết học quan trọng; nói đến triết học là nói đến sự thất bại của lý trí con người, là nói lên sự mâu thuẫn liên tục của suy tư; người viết đến đây cảm thấy bàng hoàng vô cùng.
6. Sở dĩ có câu hỏi “như thế nào” là vì con người sợ sự hỗn mang và muốn nhốt sự hỗn mang vào một dạng thức, một hình thức (forme). Con người xuống thang sa đoạ là con người đòi hỏi một pattern, một “forme” cho tất cả mọi sự. Aristote!
William Saroyan viết truyện ngắn như thế nào? Trước khi trả lời, ta phải tự hỏi: phải đọc truyện ngắn của Saroyan như thế nào?
Tôi thấy có hai nguyên tắc dẫn đạo để giúp ta tìm hiểu nghệ thuật viết truyện ngắn của Saroyan; đây cũng có thể gọi là Ý thức Bất Nhị.
Ý thức Bất Nhị không phải là Bất Nhị.
Nguyên tắc thứ nhứt: không có gì là hấp tấp vội vã. Nguyên tắc thứ hai: Không có gì để nói cả.
Hai nguyên tắc cao nhất của tư tưởng và nghệ thuật.
Nhưng tại sao lại gọi là “nguyên tắc”? chữ Hy lạp là “arché” đã bị xuyên tạc thành ra chữ La Tinh “principia”. Tất cả sự thất bại của truyền thống văn hoá Tây phương nằm ở sự xuyên tạc liên tục này. Newton đã đặt vòng vương miện qua nhan đề tác phẩm khoa học của ông với chữ “principia” (và Descartes!)
Đọc truyện ngắn của Saroyan ta thường gặp Saroyan nhắc đi nhắc lại nhiều lần những câu sau đây: “tuyệt đối không hấp tấp”, There is absolutely no haste (truyện “My self upon the Earth”) “tuyệt đối không có gì để nói cả”, There was absolutely nothing to say(truyện “The Earth, Day, Night, Self”). Ta thử ngưng lại và suy nghĩ xem Saroyan muốn nói những gì, khi ông nhắc đi lập lại hai câu trên.
Ta còn nhớ: ở đời không có gì tốt không có gì xấu, không có phải, không có sai, không có thiện, không có ác, không có không, cũng không có có.
Nói như thế thì rất dễ vượt qua tính cách “oihilisme” này mới quan trọng.
Nam Tuyền thiền sư đã vượt qua “đoạn-diệt”.
Thiền sư Nam Tuyền nói: “Đại Đạo nhất thế thật vô phàm thánh. Nhược hữu danh tự giai thuộc hạn lượng. Sở dĩ Giang tây lão túc vân “Bất thị tâm bất thị Phật bất thị vật”. Tất cả đều có sự phân chia “tốt” hay “xấu”, vân vân, đều là do trí năng ta. Hãy ném trí thức đi. Hãy giết trí thức đi [4].
Ý nghĩa của Yatha (như thị! như thị) của Phật giáo.
Cuộc đời là cuộc đời, là như vậy, không có cái này mà cũng không có cái kia, nên ta không thể lựa chọn được. Tất cả triết lý Sartre đều quay về sự lựa chọn (choix); thực ra, ta không nên lựa chọn gì cả (và cũng không lựa chọn và không không không không vân vân); nghĩa là sự lựa chọn không đặt ra thành vấn đề; vì cuộc đời này không cái này mà cũng không cái kia hay là cái này mà cũng là cái kia.
“Nhậm tánh”- cưu mang thể tánh như là thể tánh, so với một bình diện khác,“cưu mang nỗi chết qua nỗi chết” (Heidegger: den Tod als Tod zu übernahmen).
“Chi Đạo vô nan, duy hiềm giản trạch, nhậm tánh hiệp đạo, tiên diên tuyệt não hệ niệm quai chơn, vật ố lục trần, lục trần bất ố, hoàn đồng chánh giác, vân vân…”
Ý nghĩa chữ “grundlos” của Schopenhauer.
Cuộc đời không mục đích, không ý nghĩa, không cứu cánh; khi ta có một mục đích nào đó để đạt đến thì ta hấp tấp vội vã cho mau đến đích; ta không hiểu rồi đây ta sẽ đi về đâu; ta không hiểu cho nên ta không hấp tấp vội vã, vì nếu là hấp tấp vội vã thì gián tiếp tự cho mình có mục đích để đến.
Ý nghĩa của chữ “Langeweile” mà Johann Georg Hamann đã dùng. Hamann người tự nhận là “tình nhân của Langeweile” nghĩa là “kẻ thích sống không làm gì cả”.
“Vội vã hấp tấp” là cơn bệnh trầm trọng của tâm hồn (ai nói thế, Rilke? Kafka? Simone Weil?)
Saroyan không bao giờ xem trọng nghệ thuật và cũng không bao giờ có quan niệm chặt chẽ, đàng hoàng về nghệ thuật viết văn, ông không đem một mục đích cứu cánh cho việc viết văn của mình, bởi thế, ông không vội vã hấp tấp: vội vã và hấp tấp để làm gì, để đi về đâu khi không có mục đích cứu cánh gì cả. Đọc tác phẩm của Saroyan, ta thấy ông muốn viết gì thì viết, cứ theo đà xung đột mãnh liệt của lòng ông, ông không bao giờ để ý lo lắng đến lối viết văn, hình thức, không khí nghệ thuật, vân vân. Nói đến đây, ta nhớ đến mấy lời của Whitman [5].
Cũng chưa lôi thôi và rườm ra như Faulkner, một thứ rườm rà, dài dòng, thôi thôi thần thánh của thiên tài!
Có nhiều chuyện ngắn của Saroyan dài dòng, lôi thôi rườm rà (chẳng hạn truyện “Seventy Thousand Assyrians”, truyện “Myself Upon the Earth”...) ta nóng lòng, ta hấp tấp vội vã muốn tác giả nói thẳng đi, nói mau đi cho rồi; bởi vì ta thấy ông ra ngoài đề quá xa, ông nói đi rồi nói lại, nói bên trong rồi lại nói ra bên ngoài, loanh quanh, luẩn quẩn nhì nhằng như kẹo cao su, thay vì đi đường thẳng, ông lại bình thản từ từ đi một vòng tròn thật rộng; ta sốt ruột cả lên và ông ung dung trả lời “khoan, sao mà hấp tấp thế, tuyệt đối không có gì vội vã” (there is absolutely no haste).
Bùi Giáng là người duy nhất
thể hiện mãnh liệt nhất
lối viết đi ngoài khung khổ hạn định.
Văn nghệ Việt Nam đến bây giờ còn lết bết đi sau Bùi Giáng đến một trăm năm. Nhưng nỗi nguy hiểm nhất của Bùi Giáng vẫn là “hubris” trong ý nghĩa Hy Lạp. Hölderlin: “Wo aber die Gefahr ist, wächst das Rettende auch”!
Người ta viết văn thường có quan niệm nghệ thuật vững chãi, nào là bố cục phải phân minh, nhập đề, thân kết, vân vân… nghĩa là người ta có mục đích đàng hoàng, người ta phải hấp tấp không dám đứng lại nhì nhằng, nhập đề phải gọn, kết luận phải ngắn và sắc, vân vân… người ta không dám ra ngoài khung khổ hạn định; con đường đi ấy ngắn, người ta phải cố gắng vội vã đi trong vòng mấy phút, không được đi lố giờ trong trung bình mà bao nhiêu người khác đã đi; trái lại, Saroyan không giống như vậy, ta hãy tưởng tượng một con đường ngắn đáng lẽ chỉ mất mấy phút, ông lại đi hoài đi mãi mà không bao giờ tới; bởi vì Saroyan bước đi chậm chạp, khoan thai, bước chừng vài bước lại dừng chân lại, ngồi ngủ dưới gốc cây, rồi thức dậy, ngắm mây trắng bồng bềnh, nghe chim kêu, rồi lại bước đi, đi chừng vài bước lại dừng chân ngắm đoá hoa và bướm vàng bên vệ đường rồi lại bước đi, cứ như thế đi hoài đi mãi mà không bao giờ tới nơi tới chốn. Nói đến Saroyan, ta dễ nhớ đến tư tưởng mấy thiền sư: “Đi là sống; tới là chết” [6].
Nhưng Trung Quán Luận của Phật giáo: “Trước hết sự vận hành thành tựu rồi thì không phải là vận hành, mà sự vận hành chưa thành tựu thì cũng không phải là vận hành. Sự vận hành hiện tại ở ngoài hai sự vận hành kia (đã thành tựu và chưa thành tựu) thì không thể có nghĩa được” (nguyên bản Tây Tạng: re zig son la mi’ gro ste “ma son ba’ la’ an’ gro ba med” son dan ma son ma gtogs par “bgom pa ses pas par mi’ gyur ro”).
Đọc tác phẩm của Saroyan, ta đừng quên nguyên tắc thứ nhất “tuyệt đối không hấp tấp vội vã”, ta cứ đọc chầm chậm, đừng nóng lòng chờ đợi kết cục thế nào, câu chuyện sẽ đưa đến đâu, vân vân… Câu chuyện sẽ không đưa đến đâu cả bởi vì:
Nguyên tắc thứ hai: Không có gì để nói cả.
Mỗi nhà văn khi cầm bút đều sẵn có một số quan niệm nào đó trong đầu.
Lại Sartre nữa! Hãy đọc lại mấy bài Sartre viết về Flaubert thì thấy rõ!
Họ viết để nói một cái gì, chẳng hạn như những vở kịch và tiểu thuyết của Jean-Paul Sartre đều dùng để nói lên triết lý hiện sinh của ông chẳng hạn như quyển tiểu thuyết La Nausée, đã được Sartre viết ra là vì ông đã có sẵn trước một ý niệm (qui s'est inspiré d’un concept) ý niệm về triết lý hiện sinh, ý niệm về quyển La Nausée, nghĩa là Sartre đã có sẵn một kỹ thuật trứ tác, một recette (une technique de production préalable que fait partie du concept, et qui est au fond une recette), như vậy, quyển La Nausée là một cuốn sách (một sự vật) đã được trước tác ra trong một đường lối nào đó và chứa đựng một sự ích lợi được xác định đàng hoàng: dùng để nói lên triết lý hiện sinh (un object qui se produit d’une certaine manière et qui, d’ autre part, a une utilité définie [7], khi viết La Nausée, Sartre đã muốn dùng quyển ấy để làm gì rồi, bởi thế ta có thể dùng danh từ của
Thực ra, essentia và existentia của Sartre ở đây đã bị Heidegger vạch ra bộ mặt của Thần học công giáo Trung cổ. “Lật ngược một mệnh đề siêu hình học vẫn là siêu hình học”.
Sartre để mà nói gọn lại rằng bản chất yếu tính (l’essence) của quyển (La Nausée) đã có trước sự hiện hữu (l'existence) của quyển ấy (l’essence - c’est-à-dire l’ensemble des recettes et des qualités permettent de le produire et de le définir-précède l'existence) [8]; sự có mặt của La Nausée đã được xác định trước rồi; bởi thế ta có thể nói rằng khi viết tiểu thuyết hay kịch, Sartre đã có một cái nhìn kỹ thuật (une vision technique du monde), nghĩa là về con người thì Sartre cho rằng sự hiện hữu có trước yếu tính (l'existence précède l’essence) nhưng về nghệ thuật văn nghệ thì Sartre gián tiếp cho rằng yếu tính có trước hiện hữu (l’essence précède 'existence).
Nên đặt lại ý nghĩa của “existence” của Saroyan trong ý nghĩa xuất (ex-) của chữ Exsistenz của Heigeger thì mới đúng hơn vì existence của Sartre kẹt vào existentia của kinh viện Trung cổ.
William Saroyan khác Sartre; nếu nói theo danh từ của Sartre thì đối với Saroyan, về nghệ thuật văn nghệ: hiện hữu có trước yếu tính (l'existence précède l’essence) chẳng hạn như trường hợp của Sartre viết quyển La Nausée và Saroyan viết truyện Common Prayer. Yếu tính của La Nausée có trước hiện hữu của La Nausée; còn hiện hữu của Common Prayer có trước yếu tính của Common Prayer. Trước khi viết La Nausée, Sartre đã có trước một ý niệm; trước khi viết Common Prayer, Saroyan chẳng có ý niệm nào cả.
Sự trống rỗng của Saroyan ở đây là ý nghĩa chữ “le vide” trong nghệ thuật (xin đọc, Le Vide, expérience spirituelle en Occident et en Orient, trang 290-307, loại sách Hermès, Paris, 1969).
Đầu óc của Saroyan trống rỗng. Saroyan cứ lại bàn ngồi rồi lấy bút ra viết (vì cảm thấy ngứa tay) và để ngòi bút chạy đi đâu thì chạy. Sartre có một cái gì để nói; còn Saroyan hoàn toàn chẳng có gì để nói hết. Thiền tông “Nhử đản vô sự ưu tâm vô tâm ư sự tắc hư nhi linh không nhi diệu”. Ta chẳng lấy làm lạ đối với Sartre, viết văn là “une entreprise” [9] , Sartre nói khi viết, Saroyan sống khi viết; Sartre viết để nói, Saroyan viết để sống. Saroyan: “tôi chỉ là người trẻ tuổi, tôi viết để mà viết, vì tôi chẳng biết làm gì cả” (“Myself upon the Earth”). Việc viết lách, đối với Saroyan, là một công việc thông thường của cuộc sống, như ăn, uống, ngủ hay đi tiểu tiện, đại tiện, vân vân. Saroyan viết là viết, chứ không nghĩ gì cả; bởi thế một số lớn tác phẩm của Saroyan là cuộc đời chứ không phải nói về cuộc đời. Thực sự tuyệt đối không có gì để nói: there was absolutely nothing to say (Saroyan).
Giới hạn của ngôn ngữ thông thường. Trả ngôn ngữ lại vị thế ban đầu của nó thì ngôn ngữ chính là cuộc đời. Thực ra chữ quan trọng không phải là “cuộc đời” mà chính là chữ “là”. Ý nghĩa của chữ Hy Lạp “eĩvai” rất quan trọng ở đây.
Thi ca của Thiền tông cũng thế. Những bài thơ sống nhất của Thiền là những bài thơ chẳng nói gì hết, không có gì để nói hết; những bài thơ ấy là cuộc đời chứ không phải triết lý hay chú giải về cuộc đời (cf. Alan. Watts: the most expressive Zen poetry is that which “says nothing”, which, in other words, is not philosophy or commentary about life) [10] .
“Con người” là gì? Phải tránh “nhân trung thuyết” ở đây.
Một số tác phẩm của Saroyan không phải là tác phẩm, sách, truyện hay tiểu thuyết: ai rờ vào đây là rờ vào một con người. Camerado, this is no book, who touches this touches a man (Walt Whitman, so long).
Henry Miller đã đi ra ngoài tất cả những hạn chế của nghệ thuật. Walt Whitman vẫn còn kẹt vào đôi hạn chế (như Restif de la Bretonne).
Đọc Henry Miller, Restif de la Bretonne (thiên tài dị thường của Pháp ở thế kỷ XVIII), Walt Whitman hay Saroyan ta đều có cảm giác như trên.
Đối với Saroyan, Henry Miller, Walt Whitman, Restif de la Bretonne viết là sống, sống là viết.
Có thể bỏ viết mà vẫn sống được không? Chỉ có Henry Miller là làm được việc khó khăn này.
Saroyan đã tự thú như vầy:
“Trong vòng sáu tháng qua, tôi phải bị xa lìa việc viết lách của tôi và tôi không còn là gì nữa hay là tôi đã bước đi quanh quẩn như một cái xác không hồn, một bóng mơ hồ trong ác mộng của vũ trụ” [11].
Đây cũng là thảm kịch của tôi trong nhiều năm. Thảm kịch này giống như người bị bệnh cuồng thiền. Tham thiền một thời gian rồi nghiện thiền như nghiện thuốc lá. Đó là sự nguy hiểm dễ sợ nhất.
Khi nào không viết, Saroyan có cảm giác rằng ông đã mất đi, chết đi (unalive), bởi vì Saroyan sống trong lúc viết là viết trong lúc sống, đối với Saroyan đọc, viết, sống chỉ là một. Tác phẩm của Saroyan chính là Saroyan, là một “quyển sách sống” (mượn chữ “Livre vivant” của Restif de la Bretonne).
Đây là một cách thủ dâm bằng chữ nghĩa. Cuộc sống như một người đàn bà. Con người luôn luôn trễ tàu. Chỉ sống sau khi hoặc chỉ sống trước khi, còn đang sống là sợ hết. Tai nạn thường trực.
Kinh nghiệm phi thường của Edmond Jabès. Đối với Jabès, chỉ thoát được ra ngoài quyển sách là trong quyển sách: quyển sách không ở trong thế giới là chính thế giới ở trong Quyển sách. Edmond Jabés: “Nếu Thượng đế hiện hữu thì sở dĩ là thế vì Thượng đế ở trong quyến sách” (Si Dieu est, c’est parce qu’il est dans le livre). Kinh nghiệm thần bí của Jabès: “Thế giới hiện hữu bởi vì cuốn sách hiện hữu” (Le monde existe parce que le livre existe). Khủng khiếp nhất là giây phút trực nhận của Jabès: “Quyển sách là tác phẩm của quyển sách” (le livre est l’oeuvre du livre).
So sánh Edmond Jabès et la question du livre trong quyển L’ Écriture et la Différence của Jacques Derrida, trang 99 – 116 vaf 429 – 436). Viết về quyển Yael của Edmond Jabès, Gabriel Bounoure trong Critique (Juin 1968, trang 587) nói: “…Le livre de Yael n’est pas fini, qu’il se poursuivra dans un livre intérieur au livre”.
Trái tim của con người đập nhịp nhàng ngay trong tác phẩm của Saroyan; muốn gọi gì thì gọi, muốn nói gì thì nói, tác phẩm của ông đang thở. “What difference does it make what you call it, just so it breathes” (Saroyan). Tác phẩm của Saroyan không phải là nói về trái tim: chính tác phẩm ấy là trái tim; trái tim nằm trong ấy và máy động nhịp nhàng ở trong ấy [12].
Nhưng chính Marquis de Sade là nạn nhân tàn nhẫn của sự ngộ nhận vĩ đại!
Những tác phẩm của Restif de la Bretonne hay Saroyan (hay Henry Miller, Walt Whitman) đều cũng thế. Những tác phẩm của họ thường bị người đời hiểu lầm; một Marquis de Sade làm gì hiểu nổi Restif de la Bretonne; một John Brown có bao giờ hiểu được thiên tài lung linh của William Saroyan; một Bertrand Russel bao giờ hiểu được thiên tài mãnh liệt của D.H. Lawrence? (cf. Portraits from Memory, tr. 111-116). Cả dân tộc Mỹ đã bỏ quên thiên tài phi thường của Henry Miller trong mấy chục năm trời và giờ đây mới chỉ bắt đầu mở mắt ra mà nhìn tầm vóc vĩ đại của Henry Miller.
Thực ra ở thế giới này có mấy người hiểu được Henry Miller? Ngày trước số người hiểu được thuyết Einstein có thể đếm trong đầu ngón tay, nhưng ngày nay số người hiểu được Henry Miller thì lại khó tìm thấy hơn.
Người ta chê Saroyan (hay chê Henry Miller, Restif de la Bretonne, Marc Chagall, vân vân), người ta chê những thiên tài này là”con nít, ngây ngô…”. Saroyan lại nghĩ rằng “con nít là nòi giống duy nhất của con người thực sự; tất cả những gì còn lại đều là giả dối” [13]. Restif de la Bretonne lại trả lời: “những chi tiết trẻ con ngây ngô mới thực là cần thiết” [14].
Người ta chê họ là “tầm thường, nói những điều ai cũng biết rồi”. Saroyan lại hãnh diện nói: “Tôi không có ý lãnh giải Pulitzer hay giải Nobel hay bất cứ giải thưởng nào khác, tôi ngồi đây trong gian phòng nhỏ bé, viết một bức thư gửi những người tầm thường và bằng một ngôn ngữ giản dị đơn sơ, tôi kể cho họ nghe những điều họ đã biết rồi”. [15]
Chúng ta nhớ lại khi Marquis de Sade khinh chê Restif de la Bretonne viết những điều ai cũng biết – ce que tout le monde sait. Restif de la Bretonne trả lời rằng chính những điều tầm thường ấy, những điều ai cũng biết, ce que tout le monde sait, chính những điều ấy mới chứa đựng chân lý của cuộc đời, sự huyền diệu của cuộc đời, sự bí mật phong phú, phi thường của con người.
Người ta chỉ có viết những điều có thể biết.
Giẫm lên giới hạn của điều có thể biết là điều khó đạt nhất và bí mật nhất.
Ta đã đau đớn biết bao khi thấy con người sống tù hãm trong những định thức thành kiến gò bó.
Chừng nào những Sade mới biết im lặng để cho những Restif de la Bretonne, những Saroyan, những Henry Miller được thung dung thổi gió về vi vu trong lòng ta? Người ta cười những lời ngây thơ của Saroyan, Restif de la Bretonne và Henry Miller; người ta cười lúc họ thành thật hơn bao giờ hết. Hãy cười đi - Người ta đã cười Picasso, đã cười Chagall, đã cười những kẻ “điên, ngu, dại, ngây ngô, khờ khệch”. Người ta cứ mải miết loanh quanh đi tìm cao siêu, sâu sắc, uyên bác, thâm trầm, trông thái, già giặn, vân vân… Một ngàn cụ Einstein cũng không thể nào sánh được với một người nhà quê dốt nát, nghèo khổ, ngây ngô, dại dột: và mộng của Einstein cũng chỉ muốn được như vậy mà thôi, được làm một người nhà quê dốt nát. Tolstoi có những điệu bộ nào vào lúc già mà khiến cho tâm hồn ta phải xao động lạ lùng như vậy?
Con người cứ mải miết đi tìm Niết bàn. Niết bàn không có ở đâu cả; Niết bàn ở ngay trong vòng Luân hồi, Luân hồi là Niết bàn [16], các người có nghe rõ chưa?
Nhưng trước khi thể hiện được như vậy, phải sống cho qua giữa một mùa hỏa ngục.
Khi ta đọc vài ba truyện ngắn nào đó của Saroyan mà ta chưa kịp hiểu hoặc ta thấy “tầm thường” quá thì ta hãy nhớ nguyên tắc thứ hai: “Không có gì để nói hết”.
Con người bị đoạ, vì biết nói. Nhân vật vĩ đại nhất của Carson Mc Cullers là những người câm (The heart is lonely hunter).
Thuyết Bất nhị của Thiền tông Phật giáo lại trở về phiêu diêu… Tất nhiên, con người đã sinh ra đời không thể nào im lặng, vì im lặng cũng có tiếng nói của nó, và khi ta bảo rằng: “Tuyệt đối không có gì để nói hết” thì cũng là có gì để nói rồi; không có gì để nói là có gì để nói và có gì để nói là không có gì để nói; bởi thế có khi ta thấy tác phẩm của Saroyan nhờ thế này, có lúc ông lại đổi khác đi -
Làm sao lý luận như vầy mà không rơi vào “ba phải”?
tựu trung, Saroyan vượt lên tất cả mọi suy tư- Khi ông muốn nói thì nói; lúc ông không muốn nói thì không nói; lúc ông muốn viết thì ông ngồi bàn mà viết; lúc không muốn viết thì thôi; lúc ông muốn suy nghĩ, ông suy nghĩ- Saroyan không tự bắt buộc phải trung thành với bất cứ cái gì, dù trung thành với những cái gì tự ông đã đặt ra.
Thoát ra ngoài “ý tính”, vấn đề khó khăn nhất của con người.
Saroyan muốn trước rồi nghĩ sau; Sartre nghĩ trước và muốn sau. Saroyan thấy thích viết thì viết, chứ cũng chẳng nghĩ gì hết, ngay đến chuyện nghĩ cũng thế, ông thích nghĩ thì cứ nghĩ…
Nhưng Saroyan không phải là một thiền sư.
Hành động của Saroyan, danh từ Phật giáo gọi là “diệu dụng”. Thiền tông: “Bất khả dĩ hữu tâm đắc; bất khả dĩ vô tâm cầu”.
William Saroyan viết truyện ngắn thế nào?
Ông muốn viết thế nào ông viết; ông muốn, chứ không nghĩ. Khi nào Saroyan muốn viết thì cứ ngồi xuống viết, I just sit down and write [17].
Muốn chính là nghĩ.
Ông không nghĩ gì hết, những lúc nào ông muốn nghĩ về nghệ thuật viết truyện ngắn, ông muốn nghĩ rằng:
Tất cả những luật viết truyện ngắn đều sai, bởi vì những luật ấy bỏ rơi con người tôi ra ngoài.
Đừng bao giờ để ý đến những luật viết truyện ngắn của những kẻ khác đặt ra; họ làm ra những luật ấy để che chở họ, để bảo vệ họ.
Hãy quên Edgar Poe và O. Henry – hãy quên tất cả những nhà văn.
Nhưng con người chính là một thể, một “form”? rồi?
Không có một thể thơ (poem-form), thể truyện ngắn (story-form); chỉ có CON NGƯỜI thôi (There is Man only). Tất cả cái khác đều giả dối, lường gạt.
Nói tóm lại, tôi không phải là một nhà văn gì hết (Briefly, I am not a writer at all)
Không ai thoát khỏi cái nghiệp nhà văn dù là một người không viết văn gì cả thì cái óc của kẻ ấy cũng viết văn.
Tôi định phân tích những truyện ngắn tiêu biểu cả Saroyan, nhưng không thể nào phân tích cho đàng hoàng được: tác phẩm của Saroyan là con người ông. Tôi chỉ có thể diễn tả đại khái về con người ấy như sau: yêu thương những người nghèo khổ, yêu thương nhân loại (truyện “Seventy Thousand Assyrians”) xót xa chan chứa giao cảm với con người lạc loài, bị xã hội ruồng bỏ hiếp đáp (truyện “Among the Lost”), tâm hồn bơ vơ cô độc (truyện “1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8,”) thương mến sự hồn nhiên ngây ngô của kẻ nghèo (truyện “Dear Greta Garbo”), thương xót tâm hồn lạc lõng của gái giang hồ (truyện “Love”), khóc than sự ngộ nhận hiểu lầm trên đời (truyện “And Man” và truyện “Laughter”), đau khổ lạc lõng xa lạ nơi quê hương mình (truyện “Going Home”), tình yêu rạo rực (truyện “Romance”), phẩm giá con người (truyện “The Man with the French Postcard”, khóc than vì sự xấu tồn tại ở trần gian này (truyện “War”), chống đối chiến tranh (truyện “Fight your own War”), sự kỳ lạ nhiệm màu của nòi giống của con người (truyện “The Earth, Day, Night, Self” ), sức sống miên man của con người vươn lên trên nghịch cảnh (truyện “A Cold Day”), sự va chạm phũ phàng của một thiếu niên trước cuộc đời, trước ái tình (truyện “Seventeen”), ca ngợi cuộc đời, vinh hạnh vì biết mình sống, chống văn minh, chống tiến bộ, công thức, giả tạo, chống tất cả những lề luật, những truyền thống, gò bó, khuôn khổ (truyện “Myself Upon The Earth”), bơ vơ, đói khổ nhưng vẫn thiết tha với đời (truyện The Daring Young Man on the Flying Trapeze), vân vân.
Sống chính là nhớ. “Sứ mạng của con người trên mặt đất này là nhớ” (Henry Miller). Phải hiểu nhớ trong nghĩa Andenken của Heidegger.
Con người của Saroyan không phải chỉ có thế thôi. Ta hãy tìm thẳng vào tác phẩm của Saroyan và khi đọc, nhớ sống.
Chú thích:
Tôi định phân tích những truyện ngắn tiêu biểu cả Saroyan, nhưng không thể nào phân tích cho đàng hoàng được: tác phẩm của Saroyan là con người ông. Tôi chỉ có thể diễn tả đại khái về con người ấy như sau: yêu thương những người nghèo khổ, yêu thương nhân loại (truyện “Seventy Thousand Assyrians”) xót xa chan chứa giao cảm với con người lạc loài, bị xã hội ruồng bỏ hiếp đáp (truyện “Among the Lost”), tâm hồn bơ vơ cô độc (truyện “1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8,”) thương mến sự hồn nhiên ngây ngô của kẻ nghèo (truyện “Dear Greta Garbo”), thương xót tâm hồn lạc lõng của gái giang hồ (truyện “Love”), khóc than sự ngộ nhận hiểu lầm trên đời (truyện “And Man” và truyện “Laughter”), đau khổ lạc lõng xa lạ nơi quê hương mình (truyện “Going Home”), tình yêu rạo rực (truyện “Romance”), phẩm giá con người (truyện “The Man with the French Postcard”, khóc than vì sự xấu tồn tại ở trần gian này (truyện “War”), chống đối chiến tranh (truyện “Fight your own War”), sự kỳ lạ nhiệm màu của nòi giống của con người (truyện “The Earth, Day, Night, Self” ), sức sống miên man của con người vươn lên trên nghịch cảnh (truyện “A Cold Day”), sự va chạm phũ phàng của một thiếu niên trước cuộc đời, trước ái tình (truyện “Seventeen”), ca ngợi cuộc đời, vinh hạnh vì biết mình sống, chống văn minh, chống tiến bộ, công thức, giả tạo, chống tất cả những lề luật, những truyền thống, gò bó, khuôn khổ (truyện “Myself Upon The Earth”), bơ vơ, đói khổ nhưng vẫn thiết tha với đời (truyện The Daring Young Man on the Flying Trapeze), vân vân.
Sống chính là nhớ. “Sứ mạng của con người trên mặt đất này là nhớ” (Henry Miller). Phải hiểu nhớ trong nghĩa Andenken của Heidegger.
Con người của Saroyan không phải chỉ có thế thôi. Ta hãy tìm thẳng vào tác phẩm của Saroyan và khi đọc, nhớ sống.
Chú thích:
[1] D.T.Suzuki. L’ Essence du Bouddhisme, tr. 104: Une montagne n’est pas une montagne et une rivière n’est pas une rivière; cependant une montagne est une montagne et une rivière est une rivière. La negation est une affirmation et l’affirmation est une negation. Ceci n’est pas simplement un jeu de mots. Si c’est ce que nous en comprenons, nous restons sur le plan de l’intellection et nous ne parvenons pas à sortir du cercle vicieux
[2] Henry Miller, “L’obscénité et la loi de réflexion”, xem Souvenir Souvenirs, trang 237, NRF 1953.
[3] cf. D.T. Suzuki, “Painting, Swordsmanship, Tea ceremony”, trong Zen Buddhism, edited by W. Barrett, Doubleday, New York, 1959, trang 194.
cf. Alain W. Watts, “Zen in the Arts” trong The way of Zen, New American, Library N.Y.1959, trang 194
[4] Daisetz T. Suzuki, L’Essence du Bouddhisme, trang 80 (Cercle de Livre Paris 1955).
[5] cf. Alain Bosquet, Whitman, trang 149 (NRF).
[6] cf. Alan W. Watts, The Way of Zen, trang 190: zen has no goal, it is a traveling without point, with nowhere to go. To travel is to be alive, but to get somewhere is to be dead for as our own proverb says: “to travel is better than arrive”.
[7] Jean - Paul Sartre, L’ Existentialisme est un humahisme, tr. 18 (Nagel, Paris, 1958).
[8] Jean - Paul Sartre, L’ Existentialisme est un humahisme, tr. 18 (Nagel, Paris, 1958).
[9] Jean - Paul Sartre, L’ Existentialisme est un humahisme, tr. 18 (Nagel, Paris, 1958).
[10] Alan W. Watts: The way of Zen, trang 177
[11] Saroyan: And for the past six months I have been separated from my writing, and I have been nothing Or I have been walking about unalive, some indistinct shadow in a nightmare of the universe (“My self upon the Earth”).
[12] cf. Maurice Blancnot: “Un livre vivant” trong Critique, tome IV, No. 22, pp, 105 – 205, Mars, 1948).
[13] Saroyan: Babies are the only race of the earth, the race of man all the rest is pretense (“Seventy Thousand Assyrians”).
[14] Restif de la Bretonne: “Il est peu de vos écrivains polis et de vos jolis versificateurs qui puissent vous appendre ce que je vous apprendrai. Lisez -moi avec courage, malgré mes details enfantins car ils sont nécessaires et vous verrez, après m’avoir lu, que vous saurez des choses don’t vous ne doutez pas”. (cf Maurice Blanchot: “Un livre vivant”, trong Critique, tr. IV No 22).
[15] Saroyan: I am not out win the Pulitzer Prize or the Nobel Prize or any other prize. I am not out here in the Far West, in San Francisco in a small room on Carl Street writing a letter to common people telling in simple language things they already know.
[16] D. T. Suzuki: “The sense of Zen” trong Zen Buddhism, edited by William Barret, p. 15 (Doubleday, N-Y, 1956)
[17] Saroyan: Preface to the first edition of The Daring Young Man on the Flying Trapeze.
[2] Henry Miller, “L’obscénité et la loi de réflexion”, xem Souvenir Souvenirs, trang 237, NRF 1953.
[3] cf. D.T. Suzuki, “Painting, Swordsmanship, Tea ceremony”, trong Zen Buddhism, edited by W. Barrett, Doubleday, New York, 1959, trang 194.
cf. Alain W. Watts, “Zen in the Arts” trong The way of Zen, New American, Library N.Y.1959, trang 194
[4] Daisetz T. Suzuki, L’Essence du Bouddhisme, trang 80 (Cercle de Livre Paris 1955).
[5] cf. Alain Bosquet, Whitman, trang 149 (NRF).
[6] cf. Alan W. Watts, The Way of Zen, trang 190: zen has no goal, it is a traveling without point, with nowhere to go. To travel is to be alive, but to get somewhere is to be dead for as our own proverb says: “to travel is better than arrive”.
[7] Jean - Paul Sartre, L’ Existentialisme est un humahisme, tr. 18 (Nagel, Paris, 1958).
[8] Jean - Paul Sartre, L’ Existentialisme est un humahisme, tr. 18 (Nagel, Paris, 1958).
[9] Jean - Paul Sartre, L’ Existentialisme est un humahisme, tr. 18 (Nagel, Paris, 1958).
[10] Alan W. Watts: The way of Zen, trang 177
[11] Saroyan: And for the past six months I have been separated from my writing, and I have been nothing Or I have been walking about unalive, some indistinct shadow in a nightmare of the universe (“My self upon the Earth”).
[12] cf. Maurice Blancnot: “Un livre vivant” trong Critique, tome IV, No. 22, pp, 105 – 205, Mars, 1948).
[13] Saroyan: Babies are the only race of the earth, the race of man all the rest is pretense (“Seventy Thousand Assyrians”).
[14] Restif de la Bretonne: “Il est peu de vos écrivains polis et de vos jolis versificateurs qui puissent vous appendre ce que je vous apprendrai. Lisez -moi avec courage, malgré mes details enfantins car ils sont nécessaires et vous verrez, après m’avoir lu, que vous saurez des choses don’t vous ne doutez pas”. (cf Maurice Blanchot: “Un livre vivant”, trong Critique, tr. IV No 22).
[15] Saroyan: I am not out win the Pulitzer Prize or the Nobel Prize or any other prize. I am not out here in the Far West, in San Francisco in a small room on Carl Street writing a letter to common people telling in simple language things they already know.
[16] D. T. Suzuki: “The sense of Zen” trong Zen Buddhism, edited by William Barret, p. 15 (Doubleday, N-Y, 1956)
[17] Saroyan: Preface to the first edition of The Daring Young Man on the Flying Trapeze.
Nguồn: Phạm Công Thiện, Ý thức mới trong văn nghệ và triết học (Luận về ý thức mới sau mười năm lang bạt), tái bản lần thứ tư, NXB An Tiêm, Sài Gòn, 1970. Bản điện tử do talawas thực hiện. Bản đăng trên talawas với sự đồng ý của tác giả.
Chương hai
Ý thức giải phóng - Hình ảnh thanh niên thời đại trong tác phẩm của Henry Miller
Ý thức giải phóng - Hình ảnh thanh niên thời đại trong tác phẩm của Henry Miller
Chúng ta đã vượt qua giai đoạn thú vật, nhưng hiển nhiên chúng ta chưa là những con người thực sự.
(Henry Miller, Dimanche après da guerre, tr. 33)
Như vậy con người chính là siêu thể.
(Heidegger,Qu’appelle-t-on penser, tr. 54)
(Henry Miller, Dimanche après da guerre, tr. 33)
Như vậy con người chính là siêu thể.
(Heidegger,Qu’appelle-t-on penser, tr. 54)
1. Phạm Công Thiện vừa lưỡng lự, vừa ngượng ngùng đưa cho tôi tập “Hình ảnh thanh niên thời đại trong tác phẩm Henry Miller”. Tôi đón nhận với một nụ cười. Ít hôm sau tôi mới đọc. Đọc rồi tôi có cảm giác đó là một di cảo. Tôi nóng lòng hỏi thăm về anh, và được tin anh vẫn bình thường, tôi mới tạm yên lòng.
Tôi có cảm giác đó là một di cảo, hơn thế, di cảo của một người “điên” vì mắc bệnh nan y của những tâm hồn lớn trong thời suy loạn. Thiện mắc bệnh của Miller, của con người muốn là “một con heo” để tự giải thoát, của con người ý thức sự đê tiện, nhớp nhúa của mình tự căn để mà muốn dầm mình trong đó để công phá thế giới hiện tại, hầu đem lại một “cái gì khác hơn.”
Cùng hội cùng thuyền với Miller, Thiện thấy sảng khoái vì gặp người đồng điệu. Thiện liều lĩnh nói lên những sầu tư trong tâm khảm của mình như để trút vợi nó ra cho những kẻ đồng điệu khác, chưa hẳn là hiếm trong đám thanh niên trí thức ở thời đại này.
Tại sao Thiện nổi giận, muốn phá, muốn đốt hết cả? Chúng ta tự hỏi: những xây dựng tạo nên bằng khi gian manh của những kẻ thờ thần Mammon, bán luôn cả đến những sự linh thiêng nhất có đáng cho những ngọn lửa sinh, lửa diêm thành Sadome và Gomorrhe thăm viếng không?
Có kẻ bảo Thiện là bi quan, là thác loạn, là kẻ phá hoại. Tôi tưởng không phải, kẻ phá hoại thật có thể rung động trước cử chỉ trao nón dưới trời mưa phũ phàng của ông thầu khoán nọ? Kẻ phá hoại thật có thể có ý nghĩ muốn cải tổ cuộc sống bằng “giao cảm”, bằng tình ngây thơ của trẻ con như Chúa Ki Tô phán: “Nếu các người không trở nên trẻ con, các người không thể vào được Thiên đàng.”
Có lần gần đây, Thiện bảo tôi: “Tôi chưa tự tử, vì tôi còn đang đi tìm, tôi tự tử là tôi đã lựa chọn một thái độ rồi”. Câu ấy còn văng vẳng bên tai tôi. Hôm nay tôi bỗng chợt nhớ lại câu trong Phúc âm: “Hãy tìm thì sẽ thấy, hãy gọi thì sẽ mở cho…”
Và tôi lấy câu đó để chúc cho Thiện cùng cho những thanh niên như Thiện đang lang thang, lạc lõng trên phố nhân buổi xuân về…
HOÀNG MINH TUYNH
(Tạp chí Mai, số 37-38, xuân 1962)
Tôi có cảm giác đó là một di cảo, hơn thế, di cảo của một người “điên” vì mắc bệnh nan y của những tâm hồn lớn trong thời suy loạn. Thiện mắc bệnh của Miller, của con người muốn là “một con heo” để tự giải thoát, của con người ý thức sự đê tiện, nhớp nhúa của mình tự căn để mà muốn dầm mình trong đó để công phá thế giới hiện tại, hầu đem lại một “cái gì khác hơn.”
Cùng hội cùng thuyền với Miller, Thiện thấy sảng khoái vì gặp người đồng điệu. Thiện liều lĩnh nói lên những sầu tư trong tâm khảm của mình như để trút vợi nó ra cho những kẻ đồng điệu khác, chưa hẳn là hiếm trong đám thanh niên trí thức ở thời đại này.
Tại sao Thiện nổi giận, muốn phá, muốn đốt hết cả? Chúng ta tự hỏi: những xây dựng tạo nên bằng khi gian manh của những kẻ thờ thần Mammon, bán luôn cả đến những sự linh thiêng nhất có đáng cho những ngọn lửa sinh, lửa diêm thành Sadome và Gomorrhe thăm viếng không?
Có kẻ bảo Thiện là bi quan, là thác loạn, là kẻ phá hoại. Tôi tưởng không phải, kẻ phá hoại thật có thể rung động trước cử chỉ trao nón dưới trời mưa phũ phàng của ông thầu khoán nọ? Kẻ phá hoại thật có thể có ý nghĩ muốn cải tổ cuộc sống bằng “giao cảm”, bằng tình ngây thơ của trẻ con như Chúa Ki Tô phán: “Nếu các người không trở nên trẻ con, các người không thể vào được Thiên đàng.”
Có lần gần đây, Thiện bảo tôi: “Tôi chưa tự tử, vì tôi còn đang đi tìm, tôi tự tử là tôi đã lựa chọn một thái độ rồi”. Câu ấy còn văng vẳng bên tai tôi. Hôm nay tôi bỗng chợt nhớ lại câu trong Phúc âm: “Hãy tìm thì sẽ thấy, hãy gọi thì sẽ mở cho…”
Và tôi lấy câu đó để chúc cho Thiện cùng cho những thanh niên như Thiện đang lang thang, lạc lõng trên phố nhân buổi xuân về…
HOÀNG MINH TUYNH
(Tạp chí Mai, số 37-38, xuân 1962)
Tôi và ông Hoàng Minh Tuynh khác nhau như Thiên đàng và Địa ngục. Ông Hoàng Minh Tuynh không có gì khả dĩ là tương hợp với tôi cả. Nhưng một điều lạ là nếu tôi không gặp ông Hoàng Minh Tuynh thì có lẽ tôi không bao giờ viết quyển này. Hình như có những người sinh ra trên đời để làm đất cho cỏ mọc lên.
2. Mở cửa bước ra ngoài đường phố. Mở mắt nhìn thiên hạ. Nhìn kỹ nét mặt từng người. Tôi khổ. Anh khổ. Nó khổ. Chúng ta khổ. Chúng bây khổ. Chúng nó khổ. Bao nhiêu đêm trằn trọc; tôi thao thức không ngủ được. Tôi rùng mình: mặt trăng thờ ơ lạnh lẽo như thế kia. Tôi khổ lắm, tôi muốn hét to lên; tim tôi thoi thóp. Đầu tôi bừng lửa. Tôi quay cuồng. Tôi đi quờ quạng chung quanh gian phòng nhỏ bé. Tôi nhìn mặt tôi ở kính: tôi trợn mắt, tôi chóng mặt. Tôi tắt đèn, vội lên giường nằm, rồi thở hổn hển, nhìn chòng
Tôi không ngờ lúc hai mươi tuổi tôi phải khổ đau dữ dội như vậy. Hiện tại, tôi khổ vì người khác hơn là khổ vì tôi. Hồi trước tôi khổ vì nghĩ quá nhiều về mình. Bây giờ có lẽ tôi ít nghĩ về mình. Càng lớn lên tôi càng nổi loạn, càng yêu đời, càng thừa sức để cười mọi sự. Tất cả hạnh phúc đã nằm sẵn trong tôi, ý thức của tôi chỉ cần xê dịch một tí thì mọi sự xấu xa liền trở thành tốt đẹp.
chọc vào đêm tối. Tôi nằm lăn qua lăn lại: tôi lấy hai tay đập mạnh vào gối, vào nệm; hai dòng nước từ đâu lăn dài trên má; thế rồi bỗng nhiên tôi cảm thấy đầu óc nặng trĩu vơi đi phần nào; thế rồi bao nhiêu kỉ niệm xa xưa từ đâu bay về thấp thoáng ở đầu gương: những hình ảnh của tôi ngày xưa, những nét mặt khác nhau lần lượt hiện ra, những nét mặt ngây thơ non dại, rồi những nét mặt lặng buồn, rồi những nét mặt sầu héo; tất cả đều là những nét mặt của tôi ngày xưa, những nét mặt ấy bỗng nhiên bước lui dần vào bóng tối, trở nên xa xôi quá đến nỗi tôi cảm thấy dường như đó là những nét mặt của những kẻ khác, những kẻ xa lạ mà tôi không còn quen biết nữa; giữa bao nhiêu kỷ niệm hình ảnh chập chùng ấy, một nhạc điệu buồn thuở nhỏ tôi thường hát bỗng vi vu hiện về trong tâm tưởng: rồi một góc phố vàng nắng lung linh hiện lại chập chờn: tim tôi đau nhói lên nhẹ nhàng và nước làm ướt cả mặt; trong một thoáng giây, cả một bi kịch bi thương của nỗi đời bỗng hiện ra, tôi thấy thương tôi, thương những kẻ khác, thương tất cả những người trên thế gian nầy. Cả một bài thơ buồn của dĩ vãng sống lại trước mắt tôi: ngày xưa… còn bé… cha mẹ thường đánh chửi nhau. Tuổi trẻ hồn nhiên bỡ ngỡ:
Bây giờ cha mẹ tôi không còn đánh chửi nhau nữa, hai người rất nhường nhịn thương yêu nhau. Nhưng tại sao trễ thế? Phải chi hai người thương yêu nhau lúc tôi còn bé nhỏ thơ dại thì cuộc đời tôi bây giờ chắc chắn đã thay đổi khác hẳn hoàn toàn, nghĩa là hạnh phúc hơn, lạc quan hơn, ngây thơ hơn…
Thiên đàng thiếu tình thương… Tôi sống như xa lạ trong gia đình, không ai thèm để ý đến, tôi trốn đi tắm sông, tôi trốn học, tôi chạy theo những đứa trẻ rong chơi ở đầu đường xó chợ…
Đọc lại đoạn này, tôi thấy thương yêu tôi quá… Cả cuộc đời tôi chỉ là “rong chơi ở đầu đường xó chợ…”
Lớn lên đi vào cuộc đời với đôi mắt thơ ngây… Rồi sống già nua - Mỹ tho, Sài gòn, Nha trang, Đà lạt… Đôi mắt bơ phờ lạc lõng giữa gió đời; tôi không còn là tôi nữa, mà là một kẻ khác: khô khan, già nua, chín chắn và mỗi chiều, thường bước đi lê thê giữa những đường phố âm u, đi mà không biết đi đâu, để cho sương mù lên mờ cả mắt, rồi bước lạnh lùng về phòng trọ, mở sách ra đọc và đọc cả giờ đồng hồ chỉ có một dòng chữ mà không hiểu gì cả, ngồi dậy tắt đèn rồi nằm ngủ để mộng mị đè trĩu nặng trên quả tim bệnh hoạn…
Càng lớn tuổi tôi càng thấy mình trẻ lại, càng lúc càng trẻ lại. Tôi đi ngược trật tự thông thường: khi người ta trẻ thì tôi già, khi người ta già thì tôi trẻ.
Sáng thức dậy, đầu óc mệt mỏi, vội vàng thẫn thờ liếc xem đồng hồ, hấp tấp chạy thay quần áo để đến trường, bước vào lớp lạnh lùng như bước vào căn nhà hoang trống, đảo mắt nhìn học trò như liếc nhìn những bức tượng, nhìn để mà nhìn rồi cầm phấn, giảng bài như máy tự động không ý thức, không hăng nồng; đôi khi nhìn mây trắng nắng vàng ngoài khung cửa kính để mà ý thức bước đi khốc liệt của thời gian, giờ phút trôi đi, ngày đi, tháng đi và tôi vẫn đứng đây, đứng thẫn thờ không hiểu mình đang làm gì, không hiểu mình sống làm gì, mình sẽ đi đâu…
Tôi đứng đây? Không, tôi không còn là tôi nữa, chỉ còn một cái xác không hồn đứng đây.
Mỗi ngày tôi phải chống lại một xác chết, một con ma, một thứ bệnh ung thư đang xâm chiếm tâm trí tôi và hủy hoại tôi còn khốc liệt hơn bất cứ một cơn bịnh nào khác.
Yet every day of my life I was fighting a corpse, a ghost, a cancer that had taken possession of my mind and that ravaged me more than any bodily affection possible coud. (Henry Miller, a Devil in Paradise, tr. 94-95)
Biết mình đang ở đâu, từ đâu đến, rồi đi về đâu, tôi ca ngợi những kẻ như thế (J’admirais chez les autres cet air de savoir ou l’on est, d’ou l’on vient ou l’on va) (Milosz).
Những bài thơ của O. V. de Lubicz Milosz đã ảnh hưởng nhiều đến tôi trong tuổi hai mươi. Tâm trạng tôi dạo ấy giống như câu của Milosz: “Những người chết, những người chết thực ra ít chết hơn tôi”.
Biết bao nhiêu lần tôi đi lang thang, không biết đi đâu và về đâu; tôi đi thơ thẩn trong rừng trong bụi. Hai tay ôm đầu, tôi bắt đầu cười nức nở, tôi cười tôi, rồi cười kẻ khác, rồi cười định mạng, rồi cười những làn sóng man rợ lăn tăn; bởi đầu óc tôi tràn đầy những làn sóng man rợ lăn tăn lên xuống…
I took myself to the forest, alone, and when I had come to the usual halting place beside the pool, I sat down on a log, put my head in my hands and began to laugh. I laughed at myself, then at him, then at fate, then at the wild waves going up and down because my head was full of nothing but wild waves going up and down. (A Devil in Paradise, tr. 93)
Bỗng nhiên tôi kinh ngạc nghe thấy mình cười và khóc, đầu cổ lắc lư, tay chân múa máy, miệng nói thì thào, bước đi nghiêng ngửa như người say rượu.
To my astonishment I caught myself laughing and weeping, shaking my head from side to side, gesticulating, mumbling, lurching like a drunkard. (The Intimate Henry Miller, tr. 177)
Tôi bước lê thê nghiêng ngửa. Tôi không biết bước đi về đâu; tôi bước bơ phờ giữa đường phố Đà lạt; gió lạnh lùng, sương chập chùng. Tôi phải tìm một bến để ghé vào…
A place to go to, that’s the point. (The Intimate Henry Miller, tr. 106)
Trong túi còn vài chục đồng, tôi men vào một phòng trà; ở đây rất im lặng, ít người lui tới, chỉ có một người bồi hiền lành đứng trông coi. Bên tách cà phê, tôi ngồi mơ màng nghe nhạc du dương. Mình sung sướng mà mình không biết, tôi tự nhủ thế.
You poor bugger. You’re happy, only you don’t know it. (The Intimate Henry Miller, tr. 15)
Sung sướng? Ừ sung sướng lắm. I love Paris. Histoire d’un Amour. Jamaica Farewell. Paris Revilsited. Bambino. Tristesse de Chopin… Ngồi uống rồi nghe nhạc. Ở Đà lạt chỉ có một quán này là mang không khí Paris; giờ phút này, tất cả đều vắng lặng, chỉ uống và nghe nhạc.
Ngồi một mình một bóng, cuối nhà hàng vắng lặng và tự mình nói chuyện lê thê với mình…
Un personnage abandonné, au bout du bar, se fait de longs discours. (Henry Miller, Souvenir Souvenirs, tr. 14)
Cơ hồ như mục đích chính của đời là lãng quên… Tôi tự nhủ: “Đây là một nơi xinh xắn đấy một góc khổ ải. Mình sắp quên rằng mình là kẻ hoàn toàn cô độc và đau khổ” (Souvenir Souvenirs, tr. 14).
Trở về phòng trọ, bước lên giường và cố gắng đọc sách. Tôi tự bắn vào đầu… Tôi muốn nói tôi tắt đèn… Và nằm duỗi ra suốt đêm không ngủ…
… Et restez étendu toute la nuit, sans dormir. (Henry Miller, Souvenir Souvenirs, tr. 14)
Miller thân mến… tôi chỉ muốn nói chuyện với anh, tôi cần sự giúp đỡ tinh thần. Tôi sợ gian phòng ngủ của tôi, tôi sợ ngủ một mình. Tôi sợ cô độc… Tôi nhìn ra cửa sổ, mưa bụi đang nói chuyện với tôi mà buổi sáng không đến, dường như đêm không bao giờ dứt…
Dear Miller… I want to talk to you… only moral help I need. I am afraid of my room I am afraid to sleep alone… It is just raining outside and I’m looking out of the window… the rain is talking to me but morning won’t come - it seems to me that night will never end. (The Intimate Henry Miller, tr. 119)
Dường như đêm không bao giờ dứt. Hình ảnh xưa về trong khói cao. Nhớ nhung ướt đầy chăn gối. Nhớ lại “con đường của những ưu tư thuở ban đầu”.“La rue des premiers chagrins” (Souvenir Souvenirs, tr. 268).
Nhớ lại tuổi mười sáu đau khổ bẽ bàng tê tái; trốn vào lòng với tiếng nghẹn bi thương:
A seize ans, j’étais lamentablement morbide: je me repliais sur moi – même… (Souvenir Souvenirs, tr. 267)
Nhớ lại buổi trùng phùng ở quê hương. Trên nẻo đường đời xơ xác, một hôm, tôi bồi hồi trở về quê hương… Về đó, khi tới đường phố, nhìn mấy căn nhà lầu sừng sững, tôi lạnh cả người; đó là hình ảnh bi đát của Phân Tán, từ lâu tôi đã sợ bước lại trong mấy căn nhà ấy.
For years I had dreaded the very thought of walking into that house. (The Intimate Henry Miller, tr. 180)
Đường phố ấy nắng vàng hiu hắt, trông buồn lạ lùng; những người ở hai bên dãy phố đều có vẻ hốc hác; họ chỉ biết đuổi theo tiền… Đối với tôi, dường như họ đang hấp hối vì thiếu sự nuôi dưỡng đầy đủ cho tâm hồn.
Bước vào nhà, tôi bàng hoàng gặp lại cha mẹ. Tôi giựt mình: hai hình ảnh tiều tụy của đau khổ, hai biểu tượng bi đát của nỗi đời; chỉ mấy năm trời xa vắng, tôi đã thấy nhiều đổi thay chua xót trên hai gương mặt xanh xao; cha mẹ già đi rất nhiều… Và trong thoáng giây tê tái, tôi vội ôm ghì lấy bi kịch hãi hùng của đời sống, hai người, của đời sống tôi và của mọi con người trên trần gian nầy.
They had aged terribly. For the space of a moment I had the uncomfortable sensation of gazing at two mummies who had been removed from the vault and galvanized into a semblance of life. We embraced one another fleeting moment during which I comprehended in a flash the appalling tragedy of their life and of my own life and of every animate creatures on earth. (The Intimate Henry Miller, tr. 185)
Câu hỏi đầu tiên trên đôi môi xanh tím của mẹ tôi là: “Con có tiền không con?” Tôi đau khổ nín lặng… Bởi suốt đời, tôi chỉ là một thằng nghèo và không có đồng xu dính túi.
I arrived… in practically the same condition in which I had left, that is, penniless. (The Intimate Henry Miller, tr. 155)
Không có tiền, thế là hết. Mẹ tôi nhăn mặt và không buồn hỏi rằng con mình đi xa về thế nào, sức khoẻ thế nào, mặt sao xanh thế, người sao ốm thế, bệnh có bớt chưa… Không có tiền, thế là hết. Tôi nghẹt thở và nằm úp mặt xuống giường để rồi nghe mẹ than thở nức nở rằng mấy nhà lầu sắp bị đem bán đấu giá, mấy xe Huê kỳ sắp bị phát mãi, rằng hết tiền mua gạo, rằng ông ngoại hấp hối không có tiền mua thuốc, rằng chủ nợ đòi kiện thưa, rằng mấy em nhỏ đã thôi học vì không có tiền để đóng tiền trường, rằng cậu năm dì bảy bị tù oan ức, rằng rằng… Tôi vội chạy lên lầu thăm ông ngoại; ông cháu ôm nhau, ông chỉ còn là một bộ xương với da và nằm thở thoi thóp… Tôi muốn hét to lên… Tối đêm đó, tôi lại bơ phờ chứng kiến thêm cảnh gây cãi chửi nhau giữa mẹ và dì tư. Tôi rụng rời tê tái: từ nhỏ đến lớn, biết bao nhiêu lần tôi khóc vì hình ảnh phũ phàng chua xót như vậy: cha mẹ tôi đánh chửi nhau, mẹ tôi, các dì tôi…
Sáng hôm sau, tôi liền lên đường, trốn khỏi nhà, trốn khỏi hoả ngục tuổi thơ… Và trên đường đi, tôi để hai dòng lệ tuôn chảy thoải mái, tôi khóc nức nở lúc lên đường…
I embraced them in turn rapidly and fled out of the house. In the street I allowed the tear to flow freely I sobbed and wept unrestrainedly all the way to the elevated station. (The Intimate Henry Miller, tr. 174)
Cả sự nghiệp tiêu tan đi, tôi không bao giờ buồn một chút. Nhưng đừng bao giờ để tình yêu tàn tạ trên cõi đời này. Tại sao lại là tiền? Tiền. Tiền. Tiền. Tôi đau buồn và phẫn nộ vô cùng. I felt wretched and exasperated. (The Intimate Henry Miller, tr. 173)
Tôi thấy thương hại loài người, thương hại thế giới hấp hối này. Tôi điên, anh điên, chị điên, cả nhân loại đều điên. Đây là một thế giới điên. It is a mad world. (Henry Miller,The Colossus of Maroussi, tr. 130)
Tôi thối nát. Gia đình thối nát. Xã hội thối nát. Từ đỉnh tới đáy, tất cả mọi người đều lo âu, bất mãn, đố kị và đau bệnh trong lòng. Tất cả đều bị bệnh ung thư và bệnh hủi trong tâm hồn. Kẻ ngu si nhất và đồi bại nhất cũng sẽ bị đòi mang súng và tranh đấu cho một nền văn minh mà chỉ đem đến cho họ toàn khổ sở và suy đồi.
But all of them, from the top to the bottom, are restless, dissatisfied envious and sick at heart. All of them suffer from cancer and leprosy in their souls. The most ignorant and degenerate of them will be asked to shoulder a gun and fight for a civilization which has brought them nothing but misery and degradation. (The Colossus of Maroussi, tr. 130)
Văn minh. Tiền. Tiền. Tiền. Tiến bộ, Tiến bộ để đưa con người đến bàn mổ, đến nhà tế bần, đến nhà thương điên, đến chiến hào.
We are making constant progress, but it is a progress which leads to the operating table, to the poorhouse, to the insane asyium, to the trencher. (The Colossus of Maroussi, tr. 81)
Máy bay gieo sự chết, máy phát thanh gieo sự chết, súng máy gieo sự chết, đồ hộp gieo sự chết, trường học gieo sự chết, những luật pháp gieo sự chết, bộ ống thông hơi gieo sự chết, hình ảnh gieo sự chết, dao nĩa gieo sự chết, chính hơi thở của ta gieo sự chết, chính ngôn ngữ của ta, chính tư tưởng của ta, tiền của ta, tình yêu ta, lòng bác ái của ta, sự vệ sinh của ta, niềm vui của ta. Có hề gì đâu nếu ta là bạn hay là thù, có hề gì đâu nếu gọi ta là Nhật, Thổ, Nga, Pháp, Anh, Đức hay Mỹ, mỗi khi ta đi đâu, nơi nào mà in bóng, nơi nào ta thở thì ta đem đến thuốc độc và sự huỷ hoại… Hoan hô văn minh; hoan hô! Chúng tôi sẽ giết chết tất cả các anh, tất cả mọi người, ở khắp mọi nơi, ở khắp hoàn cầu. Hoan hô thần Chết! Hoan hô!
The aeroplane brings death, the radio brings death, the machine-gun brings death, the tinned goods brings death, the tractor brings death, the priest brings death, the schools brings death, the law brings death, the electricity brings death, the phonograph brings death, the knives and forks brings death, the books brings death, our very breath brings death, our very language, our very thought, our money, our love, our charity, our sanitation, our joy. No matter whether we are friends or enemies, no matter whether we call ourselves Jap , Turk, Russian, French, English, German, or American, wherever we go, wherever we cast our shadow, wherever we breathe, wherever we poison and destroy. Hooray for civilization! Hooray! We will kill you all, everybody. Hooray for Death! Hooray! Horray! (The Colossus of Maroussi, tr. 130 - 131)
Hằng ngày vào lớp dạy học sinh, tôi tự hào rằng tôi khôn, tôi giỏi, tôi giàu kinh nghiệm, tôi bắt buộc các em nhỏ phải làm thế này, thế kia…thật sự tôi quá hư hỏng, tất cả mọi người quá hư hỏng, trường học hư hỏng, giáo dục hư hỏng bởi vì chính quả tim của cuộc đời bị nhiễm độc
Because the very core of life is contaminated. (The Intimate H. Miller, tr. 71)
Vừa mở mắt chào đời, chiến tranh bùng nổ tứ phía, lớn lên chơi vơi giữa ngã tư cuộc đời, nhìn lại đằng sau là một đống gạch vụn, nhìn đằng trước là âm u đe doạ, nhìn dưới chân là tro tàn, là điêu đứng, tan tóc, phân tán, đổ vỡ; đi vào cuộc đời với con tim bệnh hoạn và bộ thần kinh hư hỏng, bao nhiêu bất công cuồng loạn hiện ra trước đôi mắt mệt mỏi, bao nhiêu giá trị rách nát từng mảnh, đầu óc tôi rỗng tuếch và đê tiện không chứa một tư tưởng cao siêu trong đầu; tính từ “cao siêu” biến thành vô nghĩa, tôi sống dật dờ như một bóng ma; sáng chiều lê bước đến trường dạy học rồi bơ phờ thất thểu lê la trên đường phố u buồn, con tim đã trở thành lạnh như đá, tôi ngơ ngác không hiểu gì cả, nhiều khi tôi muốn tự tử một cách bình tĩnh không bồng bột, tự tử trong khi rất sáng suốt, bởi vì tôi muốn tìm lại tôi giữa sự vắng mặt bi đát này.
Đánh mất tôi đi thì mọi sự sẽ trở lại giữa sự có mặt thơ mộng của ngày tháng…
Tất cả đều rỗng tuếch và vô vị. Ngõ cụt. Khoảng trống không. Hư vô vĩ đại. C’est une impasse, le vide, un parfait néant. (Souvenir Souvenirs, tr. 89)
Không có cuộc đời trên đường phố, không có cuộc đời trong gia đình, không có cuộc đời gì cả. Làm việc xong rồi ta trở về nhà, ăn láo nháo, vừa đọc báo vừa nghe radio vừa ngủ, để rồi sáng mai, vội vã đi làm việc, mai một chôn mình trong xưởng, trong sở, trong hiệu buôn. Ta không bao giờ tìm được ta. Luôn luôn vắng mặt, LUÔN LUÔN VẮNG MẶT. Il n’y a pas de vie la rue, pas de vie au foyer, pas de vie d’ aucune sorte. Les hommes se précipitent à la maison au retour du travail, avaient goulument leur nourriture, s’ en dorment sur le journal ou en écoutant la radio, et puis c’ est le matin, le départ à la hâte pour le travail, enterrés perdus dans une usine, une fabrique, une boutique. Il ne sont jamais là ou vous les les cherchez. Toujours absent. (Souvenir Souvenirs, tr. 89)
Cuộc đời chỉ vây phủ đầy sự trống không.
Rien que le vide partout… (Souvenir Souvenirs, tr. 95)
Sống như vậy, Nietzsche phải điên. Gérard de Nerval phải điên. Strindberg phải điên. Ezra Pound phải điên. Van Gogh phải điên. Antonin Artaud phải điên. Hoelderlin phải điên, anh phải điên, tất cả chúng ta đều phải điên mất. Tôi như đứa trẻ trần truồng bị bỏ rơi trong sa mạc. Sau cùng tôi phải điên hoặc là tôi làm hoà với đời.
One becomes like a naked infant abandoned in the wilderness. Finally one runs amok or one conforms. (The Intimate Henry Miller, tr. 129)
Phải chọn, chỉ có hai đường, chỉ có hai lối, chỉ có hai bến sông.
Tôi u mê, ngu si, yếu đuối, không tư tưởng, không quá khứ, không tương lai. Ngay đến hiện tại cũng không có, tất cả đều vĩnh viễn và nặng nề. Nặng trĩu. Mặt trời. Mặt trăng. Sự cô độc của tôi. Đêm. Khoảng vàng. Sương mù. Rừng. Nước… và không gì cả.
J’ étais abruti, idiot, sans pensée veule. Sans pensée, sans futur, Méme le présent n’existait pas… Tout était éternel et présent. Lourd. Le soleil. La lune. Ma solitude. La nuit. L’ etendue jaune. Les brouillards. Le forêt. L’ eau… Et rien. Merde! (Blaise Cendrars, Moravagine, tr. 173)
Tất cả chúng ta đều bị đóng đinh vào thập tự giá.
Nous sommes tous crucifiés, que nous le sachions ou non. (Souvenir Souvenirs, tr. 164)
Vừa mới bỡ ngỡ ngước mắt nhìn trời ta đã bị đâm bởi ngàn lưỡi kiếm.
A peine avons- nous le temps d’ ouvrir et de lever les yeux vers le ciel que nous sommes poignardés de mille épées. (Op. cit. tr. 151)
Tôi chắp tay quì lạy trời, lạy quỉ, lạy người để xin ăn mày một chút thanh bình trong lòng; chỉ có thế thôi mà suốt đời cho đến lúc mắt đã mờ, cho đến hơi thở đã tàn, thế mà tôi cũng không được một chút thanh bình ấy. Tôi xin van lạy để tôi yên một chút. Để tôi yên một chút. ĐỂ TÔI YÊN MỘT CHÚT, CHO TÔI MỘT CHÚT THANH BÌNH, CHO TÔI MỘT CHÚT THANH BÌNH!
Không thể bao giờ có được Thanh Bình. Càng sống càng mất thanh bình. Thanh Bình chỉ có trong sự chết. Tôi không còn ăn mày thanh bình nữa. Cuộc đời là một sự náo động liên tục, ồn ào liên tục. Tôi phải động đậy, bất an, ồn ào. Tôi phải gây hấn với cuộc đời, không thế thì tôi sẽ bị chìm mất trong cơn thịnh nộ của âm thanh. Kinh Hoa Nghiêm dạy tôi phải chấp nhận âm thanh, kiên nhẫn chấp nhận âm thanh (âm thanh nhẫn). Kinh Lăng Già nói đến “âm hưởng nhẫn” (Ghoshànugakshánti)!
Không ai nghe tôi cả. Chúa không nghe. Mahomet không nghe. Phật không nghe. Không ai cả. Vox clamantis…
Phải sống ngay với tinh thần “vô ngã, vô nhân, vô chúng sinh, vô thọ giả” của kinh Kim Cang.
Trong nét mặt của từng người chúng ta đều trông giống như một quyển Thánh kinh sống mà từng trang giấy in lên sự đau khổ, sự khốn cùng, sự bi thống, sự dày vò, sự hấp hối, sự tuyệt vọng, sự chiến bại của nòi giống con người…
Like a human Bible on every page of which is stamped the suffering, the misery, the woe, the torture, the anguish, the despair, the defeat of the human race. (The Intimate Henry Miller, tr. 101)
Đó là sự khởi đầu của chu kì đen. Màu sắc xám xịt.
C’ est le commencement du cycle noir. La couleur est grise… (Souvenir Souvenirs, tr. 92)
Cả thế giới văn minh đều thối tha và sắp tan rã.
Tout le monde civilisé d’ un bout du globe à l’ autre, est pourri et doit se désagréger un jour ou l’autre. (Souvenir Souvenirs, tr. 129)
Tôi di động trong thời gian giữa những mảnh vụn của thế giới lịm chết, tạo ra những dụng cụ để tự tiêu diệt, hững hờ với vận mạng hay định mạng, không hề được một giây phút an bình trong tâm hồn, không hề được một chút đức tin giữa cuộc đời điêu đứng…
We move in clock time amidst the debris of vanished worlds inventing the instruments of our own destruction, oblivious of fate or destiny, knowing never a moment of peace, possessing not an ounce of faith… (The Colossus of Maroussi, tr. 199)
Cả thế giới đang lịm chết. Những quyển sách của tôi sẽ không thể nào viết với giọng điệu như thế nếu tôi không hoàn toàn tin rằng mạt kỳ của thế giới đã gần sát bên.
Je n’aurais jamais pu écrire le genre de livres que j’écrivais si je n’avais pas pleinement convaincu de la proximité de la fin. (Souvenir Souvenirs, tr. 127
Tôi bắt đầu văn nghiệp với ý định kể lại sự thực về tôi.
I began my writing career with the intention of telling the truth about myself. (The Intimate H. Miller, tr. 136)
“Và đây hỡi các ngươi, đây là sự thực huyền diệu thứ nhất, đây là đệ nhất thánh đế; thánh đế về sự đau khổ”. (Kinh Mahàvagga)
“Làm sao mà ta có thể vui được, làm sao mà ta có thể đắm chìm trong lạc thú được? Những ngọn lửa đốt cháy thiên thu. Bóng tối vây phủ, ta không muốn tìm ánh sáng sao?” (Kinh Dhammapada, tr. 146)
”Toàn thế giới bốc lửa ngùn ngụt, toàn thế giới vây phủ màn khói,toàn thế giới bị ngọn lửa thiêu đốt, toàn thế giới rung chuyển…” (Kinh Samyutta Nikâya I, tr. 133)
Chìm tận đáy tuyệt vọng, đi sâu vào hố thẳm âm u, rồi một thoáng giây giao tình nào đó, một ngọn lửa để sẽ phựt cháy nơi cõi lòng ta, rồi từ đó mà mà ánh sáng chiếu rực ngời lên, chiếu sáng cả vũ trụ…
Câu này đã soi rọi đường tôi đi trong mười năm nay. Trong đời sống ồn ào này, thường thường đều có một câu kín đáo nằm trong sự im lặng nào đó, trong xó xỉnh nào đó, thế mà chính nó tác động như cơn lốc thổi lùa đời mình đi về một phương hướng nhất định…
Một đêm tôi tuyệt vọng đến cùng cực, ý nghĩ tự tử vi vu trong đầu óc tôi… Tôi ôm đầu không hiểu gì cả. Trời mưa lênh láng, tôi bước đi khơi vơi như điên dại; thành phố Đà lạt lúc bấy giờ tối đen như ma quái, tôi đi mênh mang, mưa rơi ướt hết cả đầu tóc rối mà tôi cũng không hề biết, không hiểu sao lúc bấy giờ tôi lại có mặc áo mưa; còn đầu thì để trần; tôi đi hằng giờ lảo đảo ngoài mưa gió; đầu óc tôi bừng lửa; tôi không hiểu gì cả ý nghĩ tự tử thánh thót vi vu theo tiếng mưa rơi trên vệ đường… Khi bơ phờ xuống lưng chừng đồi, tôi hoảng hốt đứng lại… Từ trong đêm tối, bỗng vọng ra một tiếng nói dịu dàng: “Ông hãy lấy nón của tôi ra mà đội”. Tôi ngạc nhiên trừng mắt ra nhìn. Ông cụ thầu khoán ở chung nhà trọ; hồi mới dọn lại phòng ở phòng trọ đến nay chỉ mới được vài tháng, tôi chỉ gặp cụ đôi lần trong nhà và cũng chẳng bao giờ để ý đến cụ. Cụ có chết đi, tôi cũng không hề biết và cũng không hề để ý.
Thế mà hôm nay, giữa đêm mưa gió phũ phàng của lòng tôi, giọng nói cụ bỗng gây bàng hoàng kinh ngạc… Bao nhiêu nỗi khắc khoải xao xuyến biến đâu mất, nỗi tuyệt vọng khôn cùng cũng tan mất theo, một ngọn lửa nồng nàn phựt cháy trong lòng tôi… Hốt nhiên, tôi tìm lại con người tôi, hốt nhiên, đôi mắt tôi ngời sáng lên; bỗng nhiên, tôi cảm thấy sung sướng hạnh phúc; tôi thấy vũ trụ loài người không còn chống lại tôi nữa, rằng nhân loại vẫn tốt, rằng đời chưa hẳn tuyệt vọng, rằng tôi đang ở giữa loài người, loài người thực sự, con người nói chung ngôn ngữ với tôi.
I knew I was once again with human beings who spoke my language. (The Intimate H. Miller, tr. 93)
Tôi từ chối nhưng cụ vẫn không chịu, cụ cứ nài nỉ tôi phải lấy nón của cụ mà đội, kẻo mưa ướt đầu… Cụ dở nón ra, đưa tôi và tôi run run cầm lấy mà đội đầu… Cụ cười và bước đi. Tôi cười và bước đi. Tôi có cảm tưởng vừa mới được đội mũ triều thiên… bước chân thoăn thoắt xuống đồi, tôi ca hát véo von như chim non buổi sáng… Tuyệt vọng? Không, không, không có gì tuyệt vọng cả, con người còn có thể ngước nhìn ánh sáng… nếu một chút giao cảm (và tình người) còn rớt lại trên trần gian này.
But hopeless - that I can’t swallow. No, nobody is hopeless, not so long as there is a little sympathy and friendship left in the world. (The Intimate H. Miller, tr. 130)
Nón cối rộng, phủ xuống gần mắt tôi. Lần đầu tiên, tôi đội nón và hãnh diện vì đội nón. Cả đời tôi chỉ đội một lần như thế. Việc ấy tự nhiên đến nỗi làm mắt tôi rưng rưng… Hai giọt nước trên má.
Tôi cảm thấy bình an trong thế giới loài người.
In fact it sounded so good and natural that it brought tears to my eyes… I distinctly remember two big tears rolling down my cheeks and falling on to my hands. I felt safe again among human beings. (Henry Miller, Nights of Love and laughter, tr. 73)
Trời tạnh mưa. Đà lạt ngân lên những âm thanh du dương bất diệt. Nhạc của thông. Nhạc của cỏ. Nhạc của hoa, của lá, của chim, của gió, của sa mù huyền diệu…
Bước chân tôi chảy lênh láng trên cỏ non, tôi bay lênh đênh theo gió… Tôi đến gõ cửa nhà thằng bạn, hắn mở tung cửa ra như đoá hoa bừng nở. Chúng tôi kéo nhau vào nhà, đóng cửa lại và ngồi nói chuyện. Chúng tôi nói đến Paris, nói đến Thonon-les-Bains, đến những bistro ở Montmartre, đến cuộc đời, đến lãng tử, đến con người, sex, Pamplona, whore, hobo…masturbation, limbo. Đà lạt, Thiên đàng, caca pipi, nghệ thuật, tự điển Webster, vân vân… Chúng tôi bàn đến nhan đề của những quyển tiểu thuyết chúng tôi sẽ viết sau này, nào Hobo’s life hoặc Broken Home… Nhưng tựu trung tất cả câu chuyện của chúng tôi đều trở về Henry Miller, nhưng hắn là người đã hiểu Henry Miller nhiều nhất. Suốt ngày gặp nhau là chúng tôi nhắc đến Henry Miller như nhắc tên một người bạn gần gũi nhất… Nói chuyện đã rồi, chúng tôi ca hát như hai thằng điên, rồi ôm nhau cười sặc sụa.
We laughed every day and we laughed long and hard. (The Intimate H. Miller, tr. 16)
Cười vang cả nhà, rồi chúng tôi dẫn nhau ra đi lang thang các đường phố ở Đà lạt. Khuya. Gió lạnh. Hắn nhớ Paris. Đường phố Đà lạt lúc bấy giờ vắng lặng ít thấy bóng người. Hắn nhắc lại những năm trời chết đói ở Bordeaux. Chúng tôi cười vang lên, cả phố Đà lạt im lặng, một thứ im lặng mênh mang của Thiên đàng, của Mộng, của Thơ. Bóng dáng khênh vênh của hai đứa tôi in dài xuống vệ đường rồi lan rộng ra khắp trái đất. Chúng tôi cười. Chúng tôi không hề để ý đến vận mạng của thế giới, bởi vì cả hai đều quả quyết thế giới sắp gần đến hơi thở cuối cùng, chúng tôi không hề đọc báo, mấy danh từ chính trị đối với chúng tôi như rơm, như pipi caca. Chúng tôi ghét chính trị như ghét chó ghẻ. Nhân loại cứ giết nhau đi, khói lửa cứ tơi bời đi, chúng tôi vẫn tươi cười sung sướng, vẫn luôn luôn sống ngoài vòng…
Continuellement en marge. (Souvenir Souvenirs, tr. 290)
Dẫn nhau đi lang thang cho mãi đến khuya, chúng tôi mới chia tay nhau. Mỗi người trở về phòng trọ riêng để hưởng nốt niềm cô tịch vô biên của vũ trụ nồng nàn… Trên đường về, từng bước chân tôi vang lên sỏi đá và gợi lại từng khoảng đời tôi, từ thơ ngây bé nhỏ đến ngày nay, những ngày quá khứ đều đen tối thê thảm, thế mà bao nhiêu biến cố ấy, những biến cố hun đúc cuộc đời tôi bỗng nhiên trở thành quyến rũ đặc biệt, bỗng nhiên tôi cảm thấy say nồng hăng hái lên, rồi cười, nói, khóc, nghiêng ngả như say rượu. Tôi cảm thấy như sống lại… chỉ được sống thôi đã là tuyệt diệu rồi - chỉ có thế và không gì hơn nữa. Tuyệt diệu được sống, được nhớ lại bao nhiêu chuyện xa xưa…
I was alive again, that’ s what it was… It was marvellous to be alive – just that and nothing more marvellous to have lived to remember so much. (The Intimate H. Miller, tr. 177)
Bao nhiêu lần tôi sắp tự tử. Bây giờ tôi mới thấy tôi dại. Trời là. Thế giới là. Con người là. Chúng tôi là. Tôi là.
God is. The world is. Man is. We are. (Henry Miller, A Devil in Paradise, tr. 55)
Tôi nghĩ thế nào thì tôi thế ấy. Nếu có gì không thuận gió trong lòng anh đó là tại anh nghĩ không thuận gió.
What one thinks, one is, if there’s something wrong with you it’ s because your thinking is wrong. (A Devil in Paradise, tr. 92)
Thế giới không có gì sai nhịp. (A Devil in Paradise, tr. 90)
Tôi phải tự than trách mình chứ đừng than trách ai cả.
Từ đây tôi có bệnh loạn thần kinh, tôi có khắc khoải, có xao xuyến trước cuộc đời; đó là tại tôi, tại tôi không mở mắt ra mà nhìn vào lòng mình. Chính mình tự tạo ra bóng ma hãi hùng: chính tôi đã giết đời tôi; đến lúc hấp hối tôi chạy loanh quanh lẩn quẩn để tìm kẻ cứu tôi, nhưng thật sự không có ai có thể cứu tôi được, ngay đến Phật, đến Chúa, đến Mahomet: chỉ có tôi là mới có thể cứu tôi được, chỉ có tôi mới là kẻ thù của tôi, muốn tìm giải thoát, muốn tìm thanh bình cho cõi lòng; chính tôi, phải tự tìm cho tôi; tôi có thể tìm được nếu tôi có ủ đức tin ơi tôi, nếu tôi tự tin…
I blame nobody but myself for my woe and afflictions…
Nobody can help you, but yourself… It depends greatly on you on whether you want to be helped or not. You could cure yourself, I believe, if you had enough faith in yourself.
Nobody has ever been cured on anything who did no want to be cured. (A Devil in Paradise, tr. 55, 90, 91, 93)
Chính tôi hãy tự nỗ lực để giải thoát mình.
Nul ne peut être sauvé ou guéri que par ses propres efforts. Le seul reméde, c’ est la foi. Henry Miller, Big Sur et les oranges de Jérome Bosch, tr. 394)
Sự giải quyết vấn đề chỉ hoàn toàn tùy vào riêng tôi mà thôi.
De plus en plus clairement, je vois que la solution dépend tout entière de moi seul. C’ est moi qui
dois changer, c’est moi qui dois faire preuve de plus de confiance, de plus de foi en la vie elle - même. (Big Sur et les oranges de Jérome Borch, tr. 397)
Tối hôm đó, tôi không thể về phòng trọ để ngủ mà đi lang thang khắp Đà lạt; lần này tôi đi man mác bồng bềnh như đám mây trôi chứ không đi trong điên loạn nghiêng ngửa như ngày xưa, tôi cảm thấy tôi là tôi chứ không còn là một xác không hồn, tôi thấy tôi đi giữa thế giới loài người chứ không còn đi giữa thế giới ma quái; đứng trên đồi cao, giữa đêm khuya tĩnh mịch, tôi dang hai tay ra như một tên tiên tri, bóng tối in hằn trên bầu trời, lớn dần lớn dần, lan ra khắp vũ trụ, tôi bay lượn trên trần gian và nhìn nhân thế với nụ cười thanh bình, đôi mắt chan chứa và lòng thiết tha lên tiếng chúc vi vu: “Bình an cho tất cả mọi người thành tâm ở trần thế”.
3. Trời bắt đầu sáng. Đứng trên đồi cao, tôi dần hoá thân theo ánh mặt trời. Tôi trở thành tôi ngày xưa, trẻ lại khoảng mười năm. Tôi biến hình thành trẻ con, chứ không còn người lớn nữa. Tôi đưa mắt bỡ ngỡ ngó nhìn bầu trời, ngó nhìn cảnh vật chung quanh tôi với đôi mắt ngạc nhiên lạ lùng; tất cả mọi vật đều xuất hiện trước mắt tôi như là mới xuất hiện lần đầu tiên, tôi chăm chú nhìn sung sướng, tôi nhìn cục đá, tôi nhìn con kiến, tôi nhìn lá khô, tôi nhìn ngọn cỏ, nhìn thân cây, nhìn dòng nước đục ngầu chảy trong rãnh, trong mương… Tôi cười reo, tay vẫy sung sướng như đôi cánh con bươm bướm. Tôi chạy tung tăng nô đùa bắt mấy cánh chuồn chuồn, tôi ngồi xuống hí hoáy tìm bắt mấy con ve. Tôi cười vang động cả một góc trời, từ đây tôi không thuộc vào hàng người lớn chín chắn, kinh nghiệm; tôi thuộc vào một loại khác, loại trẻ con, “loài con nít”. Chúng tôi là Arthur Rimbaud, là Raymond Radiguet, Anne Frank, James Dean, Vương Bột… Chúng tôi mãi mãi chiến đấu chết sống với thế giới của người lớn, một thế giới ma quái, một thế giới điêu tàn, một thế giới điên loạn.
Thế giới này thuộc về tuổi trẻ, chứ không phải của những kẻ già nua kinh nghiệm.
C’ est aux jeunes qu’appartient le monde, pas aux vieux. (Henry Miller, Big Sur et les oranges de Jérome Bosch)
Người lớn làm cho con người quá phức tạp, phức tạp đến nỗi đưa đến tang thương như ngày này… Tôi hãy giản dị hoá cuộc đời.
To simplify things… (A Devil in Paradise, tr. 55)
Simplifier sa vie! Cela parait la chose du monde la plus facile à entreprendre, et pourtant rien n’ est plus difficile. Il y a tout a faire. Absolument tout… (Henry Miller, Big Sur, tr. 366. 377)
Sống ở đời không phải là một điều mệt mỏi mà là một sự tiêu khiển vui chơi với điều kiện là ta phải sống trong giản dị và khôn ngoan (Thoureau).
Tôi phải chống đối lại tất cả những gì thuộc về người lớn. Tôi ghét tất cả những gì mà người lớn thích; bởi vì chính tất cả những gì họ thích, chính tất cả những thứ đó đã làm cuộc đời này trở nên bơ phờ điêu đứng. Trước hết là danh từ xã hội. Họ dạy chúng tôi phải phụng sự xã hội, phải làm tròn bổn phận đối với xã hội, phải phải… với xã hội. Không, không, chúng tôi là Arthur Rimbaud, là Henry Miller, là Anne Frank…
Chúng tôi không phụng sự gì cả, chúng tôi không phụng sự xã hội của người lớn; chúng tôi chỉ
phụng sự xã hội của con người thực sự; chứ không phụng sự xã hội của con người ma. Tất cả những xã hội của con người ở trên trần gian này đều thối nát; bởi thế chúng tôi không phụng sự gì, chúng tôi sống ngoài lề… Rất vinh dự mà bỏ mình vì một lý tưởng, nhưng những kẻ đã chết đi rồi thì không thành tựu được gì cả.
It is glorious to offer one’s life for a cause, but dead men accomplish nothing. (Henry Miller, The Colossus of Maroussi, tr. 86)
Thay vì hiến dâng cuộc sống của tôi, cuộc đời hỏi tôi dâng một cái gì khác hơn, như tâm linh, tâm hồn, thông minh, thiện chí…
Đứng bên cạnh danh từ xã hội là danh từ Tiền. Người ta thờ lạy đồng tiền, sùng kính đồng tiền hơn cả Chúa, cả Phật… Bước ra đường phố ở Sài gòn, đảo mắt nhìn chung quanh, tôi đều thấy mọi người bước đi hấp tấp vội vã, mắt họ thường đảo liếc nhìn đồng hồ, họ bước chạy làm sao cho kịp chuyến ô tô buýt hoặc taxi để đến công tư sở, họ chạy không kịp thở, vẻ mặt hốc hác, tất cả mọi người ở Sài gòn đều chạy theo tiền, chạy từ 7 giờ sáng đến khuya, họ chạy mãi mà đuổi cũng không được, sau cùng, gần hấp hối, họ mới biết rằng mình chỉ đuổi theo sự Chết… Tiền đưa đến chết…Chỉ có người lớn là mê tiền… Còn chúng tôi là những đứa con nít, chúng tôi không cần biết đến tiền, chúng tôi ghét tiền; chúng tôi không bao giờ giàu, nhưng chúng tôi sung sướng nhất trần gian.
I am crazy enough to believe that the happiest man on earth is the man with the fewest needs. (Henry Miller, The Colossus of Maroussi, tr. 136)
Sự nghèo nàn không thể làm ta khốn khổ. Tôi có thể nói như vậy bởi vì tôi đã nghèo suốt đời tôi…
I can say it because I’ve been poor all my life. (The Colossus of Maroussi, tr. 136)
Về tinh thần tôi là một kẻ triệu phú.
In spirit I’m millionaire. (The Colossus of Maroussi, tr. 136)
Thà làm một người Hi lạp nghèo nàn hơn là làm một chàng triệu phú Mỹ:
I would a thousand times rather be that poor Greek than an American millionaire. (The Colossus of Maroussi, tr. 53)
Thế là làm ăn mày ở Đà lạt còn hơn làm triệu phú ở Sài gòn. Làm ăn mày ở Ba lê còn hơn là triệu phú ở Nữu ước:
Better a beggar in Paris than a millionaire in New York. (Night of Love and Laughter, tr. 69)
Những danh từ thiêng liêng (như Tiến Bộ, Xã Hội, Văn Minh, Bổn Phận, Ái Quốc, Thành Công, Hiệu Năng, Cơ Giới, vân vân). Không có ý nghĩa gì với tôi, những danh từ này đã làm dòng nước trong trẻo của đời trở thành đục ngầu hôi thúi… Tiến Bộ để đưa đến chết. Văn Minh để đưa đến chết; tất cả danh từ này đã đưa nhân loại xuống hố. (The Colossus of Maroussi, tr. 8, 54, 79, 81, 98, 130, 131, 149, 139, 145).
Tôi không cần những danh từ thối tha trên, tôi chỉ cần một hơi thở của đời, một chút giao cảm giữa con người, một chút giúp đỡ tinh thần. (The Intimate Henry Miller, tr. 119).
Tôi chỉ cần hạnh phúc và thanh bình cô đơn và thư nhàn:
We need peace and solitude and idleness. (The Colossus of Maroussi, tr. 46)
Tôi chỉ cần cái siết tay ấm áp, ánh sáng rực ngời trong đôi mắt, chùm nho mà tôi ngấu nghiến chung nhau, cái ly mà chúng tôi nâng lên một để ghi tình bạn thắm thiết:
The important thing was the warm handclasp,the light in the eyes, the grapes which we devoured in common, the glass we raised to our lips in sign of friendship. (The Colossus of Maroussi, tr. 44)
Tôi chỉ cần mặt trời, sự trần truồng và ánh sáng:
J’ aime le soleil, la nudité, la lumière. (The Colossus of Maroussi, tr. 140)
Tôi ghét lý luận, tôi ghét trí tuệ, trí năng, lý trí (A Devil in Paradise, tr. 51, 55; The Colossus of Maroussi, tr. 8).
Tôi thích mâu thuẫn, tôi thích chơn lý, tôi thích khía cạnh thi vị của mọi vật (A Devil in Paradise, tr. 53, 50)
Hai dòng thơ còn nói nhiều, chứa đựng nhiều hơn cả một quyển sách kềnh càng của học giả.
Two lines of poetry often tell us more, give us more than the weightiest tome by an erudite. (A Devil in Paradise, tr. 58)
Tôi thích phản đối, công phẫn, nổi loạn chống lại tất cả, kể cả cá nhân mình; để mà giản dị hoá mọi sự trên đời.
Mỗi cá nhân phải phản kháng lại một lối sống nào mà không phải của chính mình; ta phải ném bỏ những ý niệm tiền định của ta về phải và trái, về tốt và xấu; về công bình và bất công… Tôi phải tự giải thoát khỏi cái nhìn chật hẹp, bưng bít của tôi trước cuộc đời (The Colossus of Maroussi, tr. 86)
Tôi phải tra vấn nhìn lại mọi sự vật:
One begins to question everything. (The Intimate Henry Miller, tr. 129)
Phải mở tung cửa ra, cho ánh sáng tuôn vào, đừng bưng bít gì cả. Tôi muốn sống một thế giới mà:
Je veux un monde où le vagin soit représenté par une fenêtre, honnête et toute nue, un monde qui sente le contour des os, les couleurs crues et fondamentales, un monde qui ait de la crainte et du respect pour ses origines animales; j’ ai la nausée de regarder des cons tout mignards, déguisés, déformés idéalises… (Xin miễn dịch). (Henry Miller, Printemps Noir, tr. 61)
Đốt. Đốt. Đốt hết tất cả những quyển sách ở thế giới. Đốt Dostoievsky, đốt Hemingway, đốt Nietzche, đốt Spengier, đốt Shakespeare, Erich Maria Remarque, Apollinaire, Jean-Paul Sartre, Kierkegaard, Camus, Simone Weil, Sophocle, Thoreau, Thánh kinh, Eschyle, Kafka, Milosz, Céline, Blaise Cendrars, Hermann Hesses, Faulkner, J. D. Salinger, D.H. Lawrence, Knut Hamsun, Keyserling, Tagore, Antonin Artaud, Capote, Whitman, Giono, Francis Carco, Élie Faure, Rimbaud, Alberto Moravia, Somerset Maugham, Caudwell, Lawrence Durrell, Jack Kerouac, Ignacio Silone, Thomas Mann, Richard Wright, Garcia Lorca, Nikos Kazantzaki, Anne Frank, Julien Green, Jakob Wassermann vân vân.
Đốt hết tất cả đi. Hãy đốt tất cả những quyển sách của nhân loại. Hãy đốt Thánh kinh, hãy đốt sách của Karl Marx, của Khổng Tử, của Thoreau, của Gandhi, của Albert Schweitzer, của Shri Aurobindo, của Swâmi Vivekânanda, của Shri Râmakrishna, của John Dewey.
Hãy đốt hết. Chỉ chừa lại những quyển sách của Henry Miller. Đốt hết và chỉ chừa Henry Miller. Hãy đọc Henry Miller đi. Mở rộng đôi mắt ra mà đọc. Mở rộng trái tim ra mà đọc. Khi đọc xong rồi thì đốt luôn Henry Miller. Đốt hết. Không chừa gì cả, đốt luôn cả trái tim lạnh lẽo của ta. Đốt luôn cả cuộc đời chật hẹp của ta…
Cả thế giới sẽ ngùn ngụt lửa khói. Tất cả thư viện đều bốc cháy đỏ rực, tất cả những quyển sách của nhân loại sẽ thành tro bụi. Hỡi loài người, hãy cười ngất lên, hãy thức tỉnh, hãy đứng dậy, hãy dang hai tay lên trời, ngọn lửa thiêng của thế giới sẽ lan tràn khắp nơi.
Khi tất cả những quyển sách của trần gian đã biến thành tro bụi; lúc bấy giờ, hỡi loài người, ta hãy đứng im lặng, trang trọng ngắm nhìn mây trắng bay về ngút trời xanh và lắng tai nghe tiếng chim kêu vang ca trái đất: Triêu Dương của Mùa Xuân Vĩnh Cửu bắt đầu ngự trên trần gian; một đoá hoa trắng bừng nở rung rinh trên đống tro tàn điên loạn…
Khi viết chương này, tôi chưa từng gặp Henry Miller. Năm 1965, tôi được gặp Henry Miller tại Pacific Palisades ở California. Trời đất đã sắp đặt cho tôi gặp Henry Miller tại Huê kỳ để được ông “điểm đạo”. Sau khi được điểm đạo thì tôi lên sống tại Nữu Ước, sống từ địa ngục này đến địa ngục khác, rồi lại lang thang lê lết ở Paris từ quán cà phê này đến quán cà phê khác, để rồi một ngày hạ dạo đó được gặp mặt Krishnamurti tại Paris dưới bóng những cây marronnier xanh đậm, trộn lẫn với tóc trắng của mây và màu xám của những đường phố lót gạch.
Xin các ngài hình dung cảnh tượng thiêng liêng này: một chàng trai 24 tuổi gặp hai cụ già trên 74 tuổi - họ nói nhau những gì? Xin các ngài thử hình dung chàng trai Platon khi gặp cụ già Socrate và cụ Lão Tử thì cả ba ăn nói ra làm sao? Tất nhiên: một người im lặng, một người nói và một người nghe. Im lặng, nói và nghe; tất cả, tất cả đạo lý nhân loại nằm trong đó.
2. Mở cửa bước ra ngoài đường phố. Mở mắt nhìn thiên hạ. Nhìn kỹ nét mặt từng người. Tôi khổ. Anh khổ. Nó khổ. Chúng ta khổ. Chúng bây khổ. Chúng nó khổ. Bao nhiêu đêm trằn trọc; tôi thao thức không ngủ được. Tôi rùng mình: mặt trăng thờ ơ lạnh lẽo như thế kia. Tôi khổ lắm, tôi muốn hét to lên; tim tôi thoi thóp. Đầu tôi bừng lửa. Tôi quay cuồng. Tôi đi quờ quạng chung quanh gian phòng nhỏ bé. Tôi nhìn mặt tôi ở kính: tôi trợn mắt, tôi chóng mặt. Tôi tắt đèn, vội lên giường nằm, rồi thở hổn hển, nhìn chòng
Tôi không ngờ lúc hai mươi tuổi tôi phải khổ đau dữ dội như vậy. Hiện tại, tôi khổ vì người khác hơn là khổ vì tôi. Hồi trước tôi khổ vì nghĩ quá nhiều về mình. Bây giờ có lẽ tôi ít nghĩ về mình. Càng lớn lên tôi càng nổi loạn, càng yêu đời, càng thừa sức để cười mọi sự. Tất cả hạnh phúc đã nằm sẵn trong tôi, ý thức của tôi chỉ cần xê dịch một tí thì mọi sự xấu xa liền trở thành tốt đẹp.
chọc vào đêm tối. Tôi nằm lăn qua lăn lại: tôi lấy hai tay đập mạnh vào gối, vào nệm; hai dòng nước từ đâu lăn dài trên má; thế rồi bỗng nhiên tôi cảm thấy đầu óc nặng trĩu vơi đi phần nào; thế rồi bao nhiêu kỉ niệm xa xưa từ đâu bay về thấp thoáng ở đầu gương: những hình ảnh của tôi ngày xưa, những nét mặt khác nhau lần lượt hiện ra, những nét mặt ngây thơ non dại, rồi những nét mặt lặng buồn, rồi những nét mặt sầu héo; tất cả đều là những nét mặt của tôi ngày xưa, những nét mặt ấy bỗng nhiên bước lui dần vào bóng tối, trở nên xa xôi quá đến nỗi tôi cảm thấy dường như đó là những nét mặt của những kẻ khác, những kẻ xa lạ mà tôi không còn quen biết nữa; giữa bao nhiêu kỷ niệm hình ảnh chập chùng ấy, một nhạc điệu buồn thuở nhỏ tôi thường hát bỗng vi vu hiện về trong tâm tưởng: rồi một góc phố vàng nắng lung linh hiện lại chập chờn: tim tôi đau nhói lên nhẹ nhàng và nước làm ướt cả mặt; trong một thoáng giây, cả một bi kịch bi thương của nỗi đời bỗng hiện ra, tôi thấy thương tôi, thương những kẻ khác, thương tất cả những người trên thế gian nầy. Cả một bài thơ buồn của dĩ vãng sống lại trước mắt tôi: ngày xưa… còn bé… cha mẹ thường đánh chửi nhau. Tuổi trẻ hồn nhiên bỡ ngỡ:
Bây giờ cha mẹ tôi không còn đánh chửi nhau nữa, hai người rất nhường nhịn thương yêu nhau. Nhưng tại sao trễ thế? Phải chi hai người thương yêu nhau lúc tôi còn bé nhỏ thơ dại thì cuộc đời tôi bây giờ chắc chắn đã thay đổi khác hẳn hoàn toàn, nghĩa là hạnh phúc hơn, lạc quan hơn, ngây thơ hơn…
Thiên đàng thiếu tình thương… Tôi sống như xa lạ trong gia đình, không ai thèm để ý đến, tôi trốn đi tắm sông, tôi trốn học, tôi chạy theo những đứa trẻ rong chơi ở đầu đường xó chợ…
Đọc lại đoạn này, tôi thấy thương yêu tôi quá… Cả cuộc đời tôi chỉ là “rong chơi ở đầu đường xó chợ…”
Lớn lên đi vào cuộc đời với đôi mắt thơ ngây… Rồi sống già nua - Mỹ tho, Sài gòn, Nha trang, Đà lạt… Đôi mắt bơ phờ lạc lõng giữa gió đời; tôi không còn là tôi nữa, mà là một kẻ khác: khô khan, già nua, chín chắn và mỗi chiều, thường bước đi lê thê giữa những đường phố âm u, đi mà không biết đi đâu, để cho sương mù lên mờ cả mắt, rồi bước lạnh lùng về phòng trọ, mở sách ra đọc và đọc cả giờ đồng hồ chỉ có một dòng chữ mà không hiểu gì cả, ngồi dậy tắt đèn rồi nằm ngủ để mộng mị đè trĩu nặng trên quả tim bệnh hoạn…
Càng lớn tuổi tôi càng thấy mình trẻ lại, càng lúc càng trẻ lại. Tôi đi ngược trật tự thông thường: khi người ta trẻ thì tôi già, khi người ta già thì tôi trẻ.
Sáng thức dậy, đầu óc mệt mỏi, vội vàng thẫn thờ liếc xem đồng hồ, hấp tấp chạy thay quần áo để đến trường, bước vào lớp lạnh lùng như bước vào căn nhà hoang trống, đảo mắt nhìn học trò như liếc nhìn những bức tượng, nhìn để mà nhìn rồi cầm phấn, giảng bài như máy tự động không ý thức, không hăng nồng; đôi khi nhìn mây trắng nắng vàng ngoài khung cửa kính để mà ý thức bước đi khốc liệt của thời gian, giờ phút trôi đi, ngày đi, tháng đi và tôi vẫn đứng đây, đứng thẫn thờ không hiểu mình đang làm gì, không hiểu mình sống làm gì, mình sẽ đi đâu…
Tôi đứng đây? Không, tôi không còn là tôi nữa, chỉ còn một cái xác không hồn đứng đây.
Mỗi ngày tôi phải chống lại một xác chết, một con ma, một thứ bệnh ung thư đang xâm chiếm tâm trí tôi và hủy hoại tôi còn khốc liệt hơn bất cứ một cơn bịnh nào khác.
Yet every day of my life I was fighting a corpse, a ghost, a cancer that had taken possession of my mind and that ravaged me more than any bodily affection possible coud. (Henry Miller, a Devil in Paradise, tr. 94-95)
Biết mình đang ở đâu, từ đâu đến, rồi đi về đâu, tôi ca ngợi những kẻ như thế (J’admirais chez les autres cet air de savoir ou l’on est, d’ou l’on vient ou l’on va) (Milosz).
Những bài thơ của O. V. de Lubicz Milosz đã ảnh hưởng nhiều đến tôi trong tuổi hai mươi. Tâm trạng tôi dạo ấy giống như câu của Milosz: “Những người chết, những người chết thực ra ít chết hơn tôi”.
Biết bao nhiêu lần tôi đi lang thang, không biết đi đâu và về đâu; tôi đi thơ thẩn trong rừng trong bụi. Hai tay ôm đầu, tôi bắt đầu cười nức nở, tôi cười tôi, rồi cười kẻ khác, rồi cười định mạng, rồi cười những làn sóng man rợ lăn tăn; bởi đầu óc tôi tràn đầy những làn sóng man rợ lăn tăn lên xuống…
I took myself to the forest, alone, and when I had come to the usual halting place beside the pool, I sat down on a log, put my head in my hands and began to laugh. I laughed at myself, then at him, then at fate, then at the wild waves going up and down because my head was full of nothing but wild waves going up and down. (A Devil in Paradise, tr. 93)
Bỗng nhiên tôi kinh ngạc nghe thấy mình cười và khóc, đầu cổ lắc lư, tay chân múa máy, miệng nói thì thào, bước đi nghiêng ngửa như người say rượu.
To my astonishment I caught myself laughing and weeping, shaking my head from side to side, gesticulating, mumbling, lurching like a drunkard. (The Intimate Henry Miller, tr. 177)
Tôi bước lê thê nghiêng ngửa. Tôi không biết bước đi về đâu; tôi bước bơ phờ giữa đường phố Đà lạt; gió lạnh lùng, sương chập chùng. Tôi phải tìm một bến để ghé vào…
A place to go to, that’s the point. (The Intimate Henry Miller, tr. 106)
Trong túi còn vài chục đồng, tôi men vào một phòng trà; ở đây rất im lặng, ít người lui tới, chỉ có một người bồi hiền lành đứng trông coi. Bên tách cà phê, tôi ngồi mơ màng nghe nhạc du dương. Mình sung sướng mà mình không biết, tôi tự nhủ thế.
You poor bugger. You’re happy, only you don’t know it. (The Intimate Henry Miller, tr. 15)
Sung sướng? Ừ sung sướng lắm. I love Paris. Histoire d’un Amour. Jamaica Farewell. Paris Revilsited. Bambino. Tristesse de Chopin… Ngồi uống rồi nghe nhạc. Ở Đà lạt chỉ có một quán này là mang không khí Paris; giờ phút này, tất cả đều vắng lặng, chỉ uống và nghe nhạc.
Ngồi một mình một bóng, cuối nhà hàng vắng lặng và tự mình nói chuyện lê thê với mình…
Un personnage abandonné, au bout du bar, se fait de longs discours. (Henry Miller, Souvenir Souvenirs, tr. 14)
Cơ hồ như mục đích chính của đời là lãng quên… Tôi tự nhủ: “Đây là một nơi xinh xắn đấy một góc khổ ải. Mình sắp quên rằng mình là kẻ hoàn toàn cô độc và đau khổ” (Souvenir Souvenirs, tr. 14).
Trở về phòng trọ, bước lên giường và cố gắng đọc sách. Tôi tự bắn vào đầu… Tôi muốn nói tôi tắt đèn… Và nằm duỗi ra suốt đêm không ngủ…
… Et restez étendu toute la nuit, sans dormir. (Henry Miller, Souvenir Souvenirs, tr. 14)
Miller thân mến… tôi chỉ muốn nói chuyện với anh, tôi cần sự giúp đỡ tinh thần. Tôi sợ gian phòng ngủ của tôi, tôi sợ ngủ một mình. Tôi sợ cô độc… Tôi nhìn ra cửa sổ, mưa bụi đang nói chuyện với tôi mà buổi sáng không đến, dường như đêm không bao giờ dứt…
Dear Miller… I want to talk to you… only moral help I need. I am afraid of my room I am afraid to sleep alone… It is just raining outside and I’m looking out of the window… the rain is talking to me but morning won’t come - it seems to me that night will never end. (The Intimate Henry Miller, tr. 119)
Dường như đêm không bao giờ dứt. Hình ảnh xưa về trong khói cao. Nhớ nhung ướt đầy chăn gối. Nhớ lại “con đường của những ưu tư thuở ban đầu”.“La rue des premiers chagrins” (Souvenir Souvenirs, tr. 268).
Nhớ lại tuổi mười sáu đau khổ bẽ bàng tê tái; trốn vào lòng với tiếng nghẹn bi thương:
A seize ans, j’étais lamentablement morbide: je me repliais sur moi – même… (Souvenir Souvenirs, tr. 267)
Nhớ lại buổi trùng phùng ở quê hương. Trên nẻo đường đời xơ xác, một hôm, tôi bồi hồi trở về quê hương… Về đó, khi tới đường phố, nhìn mấy căn nhà lầu sừng sững, tôi lạnh cả người; đó là hình ảnh bi đát của Phân Tán, từ lâu tôi đã sợ bước lại trong mấy căn nhà ấy.
For years I had dreaded the very thought of walking into that house. (The Intimate Henry Miller, tr. 180)
Đường phố ấy nắng vàng hiu hắt, trông buồn lạ lùng; những người ở hai bên dãy phố đều có vẻ hốc hác; họ chỉ biết đuổi theo tiền… Đối với tôi, dường như họ đang hấp hối vì thiếu sự nuôi dưỡng đầy đủ cho tâm hồn.
Bước vào nhà, tôi bàng hoàng gặp lại cha mẹ. Tôi giựt mình: hai hình ảnh tiều tụy của đau khổ, hai biểu tượng bi đát của nỗi đời; chỉ mấy năm trời xa vắng, tôi đã thấy nhiều đổi thay chua xót trên hai gương mặt xanh xao; cha mẹ già đi rất nhiều… Và trong thoáng giây tê tái, tôi vội ôm ghì lấy bi kịch hãi hùng của đời sống, hai người, của đời sống tôi và của mọi con người trên trần gian nầy.
They had aged terribly. For the space of a moment I had the uncomfortable sensation of gazing at two mummies who had been removed from the vault and galvanized into a semblance of life. We embraced one another fleeting moment during which I comprehended in a flash the appalling tragedy of their life and of my own life and of every animate creatures on earth. (The Intimate Henry Miller, tr. 185)
Câu hỏi đầu tiên trên đôi môi xanh tím của mẹ tôi là: “Con có tiền không con?” Tôi đau khổ nín lặng… Bởi suốt đời, tôi chỉ là một thằng nghèo và không có đồng xu dính túi.
I arrived… in practically the same condition in which I had left, that is, penniless. (The Intimate Henry Miller, tr. 155)
Không có tiền, thế là hết. Mẹ tôi nhăn mặt và không buồn hỏi rằng con mình đi xa về thế nào, sức khoẻ thế nào, mặt sao xanh thế, người sao ốm thế, bệnh có bớt chưa… Không có tiền, thế là hết. Tôi nghẹt thở và nằm úp mặt xuống giường để rồi nghe mẹ than thở nức nở rằng mấy nhà lầu sắp bị đem bán đấu giá, mấy xe Huê kỳ sắp bị phát mãi, rằng hết tiền mua gạo, rằng ông ngoại hấp hối không có tiền mua thuốc, rằng chủ nợ đòi kiện thưa, rằng mấy em nhỏ đã thôi học vì không có tiền để đóng tiền trường, rằng cậu năm dì bảy bị tù oan ức, rằng rằng… Tôi vội chạy lên lầu thăm ông ngoại; ông cháu ôm nhau, ông chỉ còn là một bộ xương với da và nằm thở thoi thóp… Tôi muốn hét to lên… Tối đêm đó, tôi lại bơ phờ chứng kiến thêm cảnh gây cãi chửi nhau giữa mẹ và dì tư. Tôi rụng rời tê tái: từ nhỏ đến lớn, biết bao nhiêu lần tôi khóc vì hình ảnh phũ phàng chua xót như vậy: cha mẹ tôi đánh chửi nhau, mẹ tôi, các dì tôi…
Sáng hôm sau, tôi liền lên đường, trốn khỏi nhà, trốn khỏi hoả ngục tuổi thơ… Và trên đường đi, tôi để hai dòng lệ tuôn chảy thoải mái, tôi khóc nức nở lúc lên đường…
I embraced them in turn rapidly and fled out of the house. In the street I allowed the tear to flow freely I sobbed and wept unrestrainedly all the way to the elevated station. (The Intimate Henry Miller, tr. 174)
Cả sự nghiệp tiêu tan đi, tôi không bao giờ buồn một chút. Nhưng đừng bao giờ để tình yêu tàn tạ trên cõi đời này. Tại sao lại là tiền? Tiền. Tiền. Tiền. Tôi đau buồn và phẫn nộ vô cùng. I felt wretched and exasperated. (The Intimate Henry Miller, tr. 173)
Tôi thấy thương hại loài người, thương hại thế giới hấp hối này. Tôi điên, anh điên, chị điên, cả nhân loại đều điên. Đây là một thế giới điên. It is a mad world. (Henry Miller,The Colossus of Maroussi, tr. 130)
Tôi thối nát. Gia đình thối nát. Xã hội thối nát. Từ đỉnh tới đáy, tất cả mọi người đều lo âu, bất mãn, đố kị và đau bệnh trong lòng. Tất cả đều bị bệnh ung thư và bệnh hủi trong tâm hồn. Kẻ ngu si nhất và đồi bại nhất cũng sẽ bị đòi mang súng và tranh đấu cho một nền văn minh mà chỉ đem đến cho họ toàn khổ sở và suy đồi.
But all of them, from the top to the bottom, are restless, dissatisfied envious and sick at heart. All of them suffer from cancer and leprosy in their souls. The most ignorant and degenerate of them will be asked to shoulder a gun and fight for a civilization which has brought them nothing but misery and degradation. (The Colossus of Maroussi, tr. 130)
Văn minh. Tiền. Tiền. Tiền. Tiến bộ, Tiến bộ để đưa con người đến bàn mổ, đến nhà tế bần, đến nhà thương điên, đến chiến hào.
We are making constant progress, but it is a progress which leads to the operating table, to the poorhouse, to the insane asyium, to the trencher. (The Colossus of Maroussi, tr. 81)
Máy bay gieo sự chết, máy phát thanh gieo sự chết, súng máy gieo sự chết, đồ hộp gieo sự chết, trường học gieo sự chết, những luật pháp gieo sự chết, bộ ống thông hơi gieo sự chết, hình ảnh gieo sự chết, dao nĩa gieo sự chết, chính hơi thở của ta gieo sự chết, chính ngôn ngữ của ta, chính tư tưởng của ta, tiền của ta, tình yêu ta, lòng bác ái của ta, sự vệ sinh của ta, niềm vui của ta. Có hề gì đâu nếu ta là bạn hay là thù, có hề gì đâu nếu gọi ta là Nhật, Thổ, Nga, Pháp, Anh, Đức hay Mỹ, mỗi khi ta đi đâu, nơi nào mà in bóng, nơi nào ta thở thì ta đem đến thuốc độc và sự huỷ hoại… Hoan hô văn minh; hoan hô! Chúng tôi sẽ giết chết tất cả các anh, tất cả mọi người, ở khắp mọi nơi, ở khắp hoàn cầu. Hoan hô thần Chết! Hoan hô!
The aeroplane brings death, the radio brings death, the machine-gun brings death, the tinned goods brings death, the tractor brings death, the priest brings death, the schools brings death, the law brings death, the electricity brings death, the phonograph brings death, the knives and forks brings death, the books brings death, our very breath brings death, our very language, our very thought, our money, our love, our charity, our sanitation, our joy. No matter whether we are friends or enemies, no matter whether we call ourselves Jap , Turk, Russian, French, English, German, or American, wherever we go, wherever we cast our shadow, wherever we breathe, wherever we poison and destroy. Hooray for civilization! Hooray! We will kill you all, everybody. Hooray for Death! Hooray! Horray! (The Colossus of Maroussi, tr. 130 - 131)
Hằng ngày vào lớp dạy học sinh, tôi tự hào rằng tôi khôn, tôi giỏi, tôi giàu kinh nghiệm, tôi bắt buộc các em nhỏ phải làm thế này, thế kia…thật sự tôi quá hư hỏng, tất cả mọi người quá hư hỏng, trường học hư hỏng, giáo dục hư hỏng bởi vì chính quả tim của cuộc đời bị nhiễm độc
Because the very core of life is contaminated. (The Intimate H. Miller, tr. 71)
Vừa mở mắt chào đời, chiến tranh bùng nổ tứ phía, lớn lên chơi vơi giữa ngã tư cuộc đời, nhìn lại đằng sau là một đống gạch vụn, nhìn đằng trước là âm u đe doạ, nhìn dưới chân là tro tàn, là điêu đứng, tan tóc, phân tán, đổ vỡ; đi vào cuộc đời với con tim bệnh hoạn và bộ thần kinh hư hỏng, bao nhiêu bất công cuồng loạn hiện ra trước đôi mắt mệt mỏi, bao nhiêu giá trị rách nát từng mảnh, đầu óc tôi rỗng tuếch và đê tiện không chứa một tư tưởng cao siêu trong đầu; tính từ “cao siêu” biến thành vô nghĩa, tôi sống dật dờ như một bóng ma; sáng chiều lê bước đến trường dạy học rồi bơ phờ thất thểu lê la trên đường phố u buồn, con tim đã trở thành lạnh như đá, tôi ngơ ngác không hiểu gì cả, nhiều khi tôi muốn tự tử một cách bình tĩnh không bồng bột, tự tử trong khi rất sáng suốt, bởi vì tôi muốn tìm lại tôi giữa sự vắng mặt bi đát này.
Đánh mất tôi đi thì mọi sự sẽ trở lại giữa sự có mặt thơ mộng của ngày tháng…
Tất cả đều rỗng tuếch và vô vị. Ngõ cụt. Khoảng trống không. Hư vô vĩ đại. C’est une impasse, le vide, un parfait néant. (Souvenir Souvenirs, tr. 89)
Không có cuộc đời trên đường phố, không có cuộc đời trong gia đình, không có cuộc đời gì cả. Làm việc xong rồi ta trở về nhà, ăn láo nháo, vừa đọc báo vừa nghe radio vừa ngủ, để rồi sáng mai, vội vã đi làm việc, mai một chôn mình trong xưởng, trong sở, trong hiệu buôn. Ta không bao giờ tìm được ta. Luôn luôn vắng mặt, LUÔN LUÔN VẮNG MẶT. Il n’y a pas de vie la rue, pas de vie au foyer, pas de vie d’ aucune sorte. Les hommes se précipitent à la maison au retour du travail, avaient goulument leur nourriture, s’ en dorment sur le journal ou en écoutant la radio, et puis c’ est le matin, le départ à la hâte pour le travail, enterrés perdus dans une usine, une fabrique, une boutique. Il ne sont jamais là ou vous les les cherchez. Toujours absent. (Souvenir Souvenirs, tr. 89)
Cuộc đời chỉ vây phủ đầy sự trống không.
Rien que le vide partout… (Souvenir Souvenirs, tr. 95)
Sống như vậy, Nietzsche phải điên. Gérard de Nerval phải điên. Strindberg phải điên. Ezra Pound phải điên. Van Gogh phải điên. Antonin Artaud phải điên. Hoelderlin phải điên, anh phải điên, tất cả chúng ta đều phải điên mất. Tôi như đứa trẻ trần truồng bị bỏ rơi trong sa mạc. Sau cùng tôi phải điên hoặc là tôi làm hoà với đời.
One becomes like a naked infant abandoned in the wilderness. Finally one runs amok or one conforms. (The Intimate Henry Miller, tr. 129)
Phải chọn, chỉ có hai đường, chỉ có hai lối, chỉ có hai bến sông.
Tôi u mê, ngu si, yếu đuối, không tư tưởng, không quá khứ, không tương lai. Ngay đến hiện tại cũng không có, tất cả đều vĩnh viễn và nặng nề. Nặng trĩu. Mặt trời. Mặt trăng. Sự cô độc của tôi. Đêm. Khoảng vàng. Sương mù. Rừng. Nước… và không gì cả.
J’ étais abruti, idiot, sans pensée veule. Sans pensée, sans futur, Méme le présent n’existait pas… Tout était éternel et présent. Lourd. Le soleil. La lune. Ma solitude. La nuit. L’ etendue jaune. Les brouillards. Le forêt. L’ eau… Et rien. Merde! (Blaise Cendrars, Moravagine, tr. 173)
Tất cả chúng ta đều bị đóng đinh vào thập tự giá.
Nous sommes tous crucifiés, que nous le sachions ou non. (Souvenir Souvenirs, tr. 164)
Vừa mới bỡ ngỡ ngước mắt nhìn trời ta đã bị đâm bởi ngàn lưỡi kiếm.
A peine avons- nous le temps d’ ouvrir et de lever les yeux vers le ciel que nous sommes poignardés de mille épées. (Op. cit. tr. 151)
Tôi chắp tay quì lạy trời, lạy quỉ, lạy người để xin ăn mày một chút thanh bình trong lòng; chỉ có thế thôi mà suốt đời cho đến lúc mắt đã mờ, cho đến hơi thở đã tàn, thế mà tôi cũng không được một chút thanh bình ấy. Tôi xin van lạy để tôi yên một chút. Để tôi yên một chút. ĐỂ TÔI YÊN MỘT CHÚT, CHO TÔI MỘT CHÚT THANH BÌNH, CHO TÔI MỘT CHÚT THANH BÌNH!
Không thể bao giờ có được Thanh Bình. Càng sống càng mất thanh bình. Thanh Bình chỉ có trong sự chết. Tôi không còn ăn mày thanh bình nữa. Cuộc đời là một sự náo động liên tục, ồn ào liên tục. Tôi phải động đậy, bất an, ồn ào. Tôi phải gây hấn với cuộc đời, không thế thì tôi sẽ bị chìm mất trong cơn thịnh nộ của âm thanh. Kinh Hoa Nghiêm dạy tôi phải chấp nhận âm thanh, kiên nhẫn chấp nhận âm thanh (âm thanh nhẫn). Kinh Lăng Già nói đến “âm hưởng nhẫn” (Ghoshànugakshánti)!
Không ai nghe tôi cả. Chúa không nghe. Mahomet không nghe. Phật không nghe. Không ai cả. Vox clamantis…
Phải sống ngay với tinh thần “vô ngã, vô nhân, vô chúng sinh, vô thọ giả” của kinh Kim Cang.
Trong nét mặt của từng người chúng ta đều trông giống như một quyển Thánh kinh sống mà từng trang giấy in lên sự đau khổ, sự khốn cùng, sự bi thống, sự dày vò, sự hấp hối, sự tuyệt vọng, sự chiến bại của nòi giống con người…
Like a human Bible on every page of which is stamped the suffering, the misery, the woe, the torture, the anguish, the despair, the defeat of the human race. (The Intimate Henry Miller, tr. 101)
Đó là sự khởi đầu của chu kì đen. Màu sắc xám xịt.
C’ est le commencement du cycle noir. La couleur est grise… (Souvenir Souvenirs, tr. 92)
Cả thế giới văn minh đều thối tha và sắp tan rã.
Tout le monde civilisé d’ un bout du globe à l’ autre, est pourri et doit se désagréger un jour ou l’autre. (Souvenir Souvenirs, tr. 129)
Tôi di động trong thời gian giữa những mảnh vụn của thế giới lịm chết, tạo ra những dụng cụ để tự tiêu diệt, hững hờ với vận mạng hay định mạng, không hề được một giây phút an bình trong tâm hồn, không hề được một chút đức tin giữa cuộc đời điêu đứng…
We move in clock time amidst the debris of vanished worlds inventing the instruments of our own destruction, oblivious of fate or destiny, knowing never a moment of peace, possessing not an ounce of faith… (The Colossus of Maroussi, tr. 199)
Cả thế giới đang lịm chết. Những quyển sách của tôi sẽ không thể nào viết với giọng điệu như thế nếu tôi không hoàn toàn tin rằng mạt kỳ của thế giới đã gần sát bên.
Je n’aurais jamais pu écrire le genre de livres que j’écrivais si je n’avais pas pleinement convaincu de la proximité de la fin. (Souvenir Souvenirs, tr. 127
Tôi bắt đầu văn nghiệp với ý định kể lại sự thực về tôi.
I began my writing career with the intention of telling the truth about myself. (The Intimate H. Miller, tr. 136)
“Và đây hỡi các ngươi, đây là sự thực huyền diệu thứ nhất, đây là đệ nhất thánh đế; thánh đế về sự đau khổ”. (Kinh Mahàvagga)
“Làm sao mà ta có thể vui được, làm sao mà ta có thể đắm chìm trong lạc thú được? Những ngọn lửa đốt cháy thiên thu. Bóng tối vây phủ, ta không muốn tìm ánh sáng sao?” (Kinh Dhammapada, tr. 146)
”Toàn thế giới bốc lửa ngùn ngụt, toàn thế giới vây phủ màn khói,toàn thế giới bị ngọn lửa thiêu đốt, toàn thế giới rung chuyển…” (Kinh Samyutta Nikâya I, tr. 133)
Chìm tận đáy tuyệt vọng, đi sâu vào hố thẳm âm u, rồi một thoáng giây giao tình nào đó, một ngọn lửa để sẽ phựt cháy nơi cõi lòng ta, rồi từ đó mà mà ánh sáng chiếu rực ngời lên, chiếu sáng cả vũ trụ…
Câu này đã soi rọi đường tôi đi trong mười năm nay. Trong đời sống ồn ào này, thường thường đều có một câu kín đáo nằm trong sự im lặng nào đó, trong xó xỉnh nào đó, thế mà chính nó tác động như cơn lốc thổi lùa đời mình đi về một phương hướng nhất định…
Một đêm tôi tuyệt vọng đến cùng cực, ý nghĩ tự tử vi vu trong đầu óc tôi… Tôi ôm đầu không hiểu gì cả. Trời mưa lênh láng, tôi bước đi khơi vơi như điên dại; thành phố Đà lạt lúc bấy giờ tối đen như ma quái, tôi đi mênh mang, mưa rơi ướt hết cả đầu tóc rối mà tôi cũng không hề biết, không hiểu sao lúc bấy giờ tôi lại có mặc áo mưa; còn đầu thì để trần; tôi đi hằng giờ lảo đảo ngoài mưa gió; đầu óc tôi bừng lửa; tôi không hiểu gì cả ý nghĩ tự tử thánh thót vi vu theo tiếng mưa rơi trên vệ đường… Khi bơ phờ xuống lưng chừng đồi, tôi hoảng hốt đứng lại… Từ trong đêm tối, bỗng vọng ra một tiếng nói dịu dàng: “Ông hãy lấy nón của tôi ra mà đội”. Tôi ngạc nhiên trừng mắt ra nhìn. Ông cụ thầu khoán ở chung nhà trọ; hồi mới dọn lại phòng ở phòng trọ đến nay chỉ mới được vài tháng, tôi chỉ gặp cụ đôi lần trong nhà và cũng chẳng bao giờ để ý đến cụ. Cụ có chết đi, tôi cũng không hề biết và cũng không hề để ý.
Thế mà hôm nay, giữa đêm mưa gió phũ phàng của lòng tôi, giọng nói cụ bỗng gây bàng hoàng kinh ngạc… Bao nhiêu nỗi khắc khoải xao xuyến biến đâu mất, nỗi tuyệt vọng khôn cùng cũng tan mất theo, một ngọn lửa nồng nàn phựt cháy trong lòng tôi… Hốt nhiên, tôi tìm lại con người tôi, hốt nhiên, đôi mắt tôi ngời sáng lên; bỗng nhiên, tôi cảm thấy sung sướng hạnh phúc; tôi thấy vũ trụ loài người không còn chống lại tôi nữa, rằng nhân loại vẫn tốt, rằng đời chưa hẳn tuyệt vọng, rằng tôi đang ở giữa loài người, loài người thực sự, con người nói chung ngôn ngữ với tôi.
I knew I was once again with human beings who spoke my language. (The Intimate H. Miller, tr. 93)
Tôi từ chối nhưng cụ vẫn không chịu, cụ cứ nài nỉ tôi phải lấy nón của cụ mà đội, kẻo mưa ướt đầu… Cụ dở nón ra, đưa tôi và tôi run run cầm lấy mà đội đầu… Cụ cười và bước đi. Tôi cười và bước đi. Tôi có cảm tưởng vừa mới được đội mũ triều thiên… bước chân thoăn thoắt xuống đồi, tôi ca hát véo von như chim non buổi sáng… Tuyệt vọng? Không, không, không có gì tuyệt vọng cả, con người còn có thể ngước nhìn ánh sáng… nếu một chút giao cảm (và tình người) còn rớt lại trên trần gian này.
But hopeless - that I can’t swallow. No, nobody is hopeless, not so long as there is a little sympathy and friendship left in the world. (The Intimate H. Miller, tr. 130)
Nón cối rộng, phủ xuống gần mắt tôi. Lần đầu tiên, tôi đội nón và hãnh diện vì đội nón. Cả đời tôi chỉ đội một lần như thế. Việc ấy tự nhiên đến nỗi làm mắt tôi rưng rưng… Hai giọt nước trên má.
Tôi cảm thấy bình an trong thế giới loài người.
In fact it sounded so good and natural that it brought tears to my eyes… I distinctly remember two big tears rolling down my cheeks and falling on to my hands. I felt safe again among human beings. (Henry Miller, Nights of Love and laughter, tr. 73)
Trời tạnh mưa. Đà lạt ngân lên những âm thanh du dương bất diệt. Nhạc của thông. Nhạc của cỏ. Nhạc của hoa, của lá, của chim, của gió, của sa mù huyền diệu…
Bước chân tôi chảy lênh láng trên cỏ non, tôi bay lênh đênh theo gió… Tôi đến gõ cửa nhà thằng bạn, hắn mở tung cửa ra như đoá hoa bừng nở. Chúng tôi kéo nhau vào nhà, đóng cửa lại và ngồi nói chuyện. Chúng tôi nói đến Paris, nói đến Thonon-les-Bains, đến những bistro ở Montmartre, đến cuộc đời, đến lãng tử, đến con người, sex, Pamplona, whore, hobo…masturbation, limbo. Đà lạt, Thiên đàng, caca pipi, nghệ thuật, tự điển Webster, vân vân… Chúng tôi bàn đến nhan đề của những quyển tiểu thuyết chúng tôi sẽ viết sau này, nào Hobo’s life hoặc Broken Home… Nhưng tựu trung tất cả câu chuyện của chúng tôi đều trở về Henry Miller, nhưng hắn là người đã hiểu Henry Miller nhiều nhất. Suốt ngày gặp nhau là chúng tôi nhắc đến Henry Miller như nhắc tên một người bạn gần gũi nhất… Nói chuyện đã rồi, chúng tôi ca hát như hai thằng điên, rồi ôm nhau cười sặc sụa.
We laughed every day and we laughed long and hard. (The Intimate H. Miller, tr. 16)
Cười vang cả nhà, rồi chúng tôi dẫn nhau ra đi lang thang các đường phố ở Đà lạt. Khuya. Gió lạnh. Hắn nhớ Paris. Đường phố Đà lạt lúc bấy giờ vắng lặng ít thấy bóng người. Hắn nhắc lại những năm trời chết đói ở Bordeaux. Chúng tôi cười vang lên, cả phố Đà lạt im lặng, một thứ im lặng mênh mang của Thiên đàng, của Mộng, của Thơ. Bóng dáng khênh vênh của hai đứa tôi in dài xuống vệ đường rồi lan rộng ra khắp trái đất. Chúng tôi cười. Chúng tôi không hề để ý đến vận mạng của thế giới, bởi vì cả hai đều quả quyết thế giới sắp gần đến hơi thở cuối cùng, chúng tôi không hề đọc báo, mấy danh từ chính trị đối với chúng tôi như rơm, như pipi caca. Chúng tôi ghét chính trị như ghét chó ghẻ. Nhân loại cứ giết nhau đi, khói lửa cứ tơi bời đi, chúng tôi vẫn tươi cười sung sướng, vẫn luôn luôn sống ngoài vòng…
Continuellement en marge. (Souvenir Souvenirs, tr. 290)
Dẫn nhau đi lang thang cho mãi đến khuya, chúng tôi mới chia tay nhau. Mỗi người trở về phòng trọ riêng để hưởng nốt niềm cô tịch vô biên của vũ trụ nồng nàn… Trên đường về, từng bước chân tôi vang lên sỏi đá và gợi lại từng khoảng đời tôi, từ thơ ngây bé nhỏ đến ngày nay, những ngày quá khứ đều đen tối thê thảm, thế mà bao nhiêu biến cố ấy, những biến cố hun đúc cuộc đời tôi bỗng nhiên trở thành quyến rũ đặc biệt, bỗng nhiên tôi cảm thấy say nồng hăng hái lên, rồi cười, nói, khóc, nghiêng ngả như say rượu. Tôi cảm thấy như sống lại… chỉ được sống thôi đã là tuyệt diệu rồi - chỉ có thế và không gì hơn nữa. Tuyệt diệu được sống, được nhớ lại bao nhiêu chuyện xa xưa…
I was alive again, that’ s what it was… It was marvellous to be alive – just that and nothing more marvellous to have lived to remember so much. (The Intimate H. Miller, tr. 177)
Bao nhiêu lần tôi sắp tự tử. Bây giờ tôi mới thấy tôi dại. Trời là. Thế giới là. Con người là. Chúng tôi là. Tôi là.
God is. The world is. Man is. We are. (Henry Miller, A Devil in Paradise, tr. 55)
Tôi nghĩ thế nào thì tôi thế ấy. Nếu có gì không thuận gió trong lòng anh đó là tại anh nghĩ không thuận gió.
What one thinks, one is, if there’s something wrong with you it’ s because your thinking is wrong. (A Devil in Paradise, tr. 92)
Thế giới không có gì sai nhịp. (A Devil in Paradise, tr. 90)
Tôi phải tự than trách mình chứ đừng than trách ai cả.
Từ đây tôi có bệnh loạn thần kinh, tôi có khắc khoải, có xao xuyến trước cuộc đời; đó là tại tôi, tại tôi không mở mắt ra mà nhìn vào lòng mình. Chính mình tự tạo ra bóng ma hãi hùng: chính tôi đã giết đời tôi; đến lúc hấp hối tôi chạy loanh quanh lẩn quẩn để tìm kẻ cứu tôi, nhưng thật sự không có ai có thể cứu tôi được, ngay đến Phật, đến Chúa, đến Mahomet: chỉ có tôi là mới có thể cứu tôi được, chỉ có tôi mới là kẻ thù của tôi, muốn tìm giải thoát, muốn tìm thanh bình cho cõi lòng; chính tôi, phải tự tìm cho tôi; tôi có thể tìm được nếu tôi có ủ đức tin ơi tôi, nếu tôi tự tin…
I blame nobody but myself for my woe and afflictions…
Nobody can help you, but yourself… It depends greatly on you on whether you want to be helped or not. You could cure yourself, I believe, if you had enough faith in yourself.
Nobody has ever been cured on anything who did no want to be cured. (A Devil in Paradise, tr. 55, 90, 91, 93)
Chính tôi hãy tự nỗ lực để giải thoát mình.
Nul ne peut être sauvé ou guéri que par ses propres efforts. Le seul reméde, c’ est la foi. Henry Miller, Big Sur et les oranges de Jérome Bosch, tr. 394)
Sự giải quyết vấn đề chỉ hoàn toàn tùy vào riêng tôi mà thôi.
De plus en plus clairement, je vois que la solution dépend tout entière de moi seul. C’ est moi qui
dois changer, c’est moi qui dois faire preuve de plus de confiance, de plus de foi en la vie elle - même. (Big Sur et les oranges de Jérome Borch, tr. 397)
Tối hôm đó, tôi không thể về phòng trọ để ngủ mà đi lang thang khắp Đà lạt; lần này tôi đi man mác bồng bềnh như đám mây trôi chứ không đi trong điên loạn nghiêng ngửa như ngày xưa, tôi cảm thấy tôi là tôi chứ không còn là một xác không hồn, tôi thấy tôi đi giữa thế giới loài người chứ không còn đi giữa thế giới ma quái; đứng trên đồi cao, giữa đêm khuya tĩnh mịch, tôi dang hai tay ra như một tên tiên tri, bóng tối in hằn trên bầu trời, lớn dần lớn dần, lan ra khắp vũ trụ, tôi bay lượn trên trần gian và nhìn nhân thế với nụ cười thanh bình, đôi mắt chan chứa và lòng thiết tha lên tiếng chúc vi vu: “Bình an cho tất cả mọi người thành tâm ở trần thế”.
3. Trời bắt đầu sáng. Đứng trên đồi cao, tôi dần hoá thân theo ánh mặt trời. Tôi trở thành tôi ngày xưa, trẻ lại khoảng mười năm. Tôi biến hình thành trẻ con, chứ không còn người lớn nữa. Tôi đưa mắt bỡ ngỡ ngó nhìn bầu trời, ngó nhìn cảnh vật chung quanh tôi với đôi mắt ngạc nhiên lạ lùng; tất cả mọi vật đều xuất hiện trước mắt tôi như là mới xuất hiện lần đầu tiên, tôi chăm chú nhìn sung sướng, tôi nhìn cục đá, tôi nhìn con kiến, tôi nhìn lá khô, tôi nhìn ngọn cỏ, nhìn thân cây, nhìn dòng nước đục ngầu chảy trong rãnh, trong mương… Tôi cười reo, tay vẫy sung sướng như đôi cánh con bươm bướm. Tôi chạy tung tăng nô đùa bắt mấy cánh chuồn chuồn, tôi ngồi xuống hí hoáy tìm bắt mấy con ve. Tôi cười vang động cả một góc trời, từ đây tôi không thuộc vào hàng người lớn chín chắn, kinh nghiệm; tôi thuộc vào một loại khác, loại trẻ con, “loài con nít”. Chúng tôi là Arthur Rimbaud, là Raymond Radiguet, Anne Frank, James Dean, Vương Bột… Chúng tôi mãi mãi chiến đấu chết sống với thế giới của người lớn, một thế giới ma quái, một thế giới điêu tàn, một thế giới điên loạn.
Thế giới này thuộc về tuổi trẻ, chứ không phải của những kẻ già nua kinh nghiệm.
C’ est aux jeunes qu’appartient le monde, pas aux vieux. (Henry Miller, Big Sur et les oranges de Jérome Bosch)
Người lớn làm cho con người quá phức tạp, phức tạp đến nỗi đưa đến tang thương như ngày này… Tôi hãy giản dị hoá cuộc đời.
To simplify things… (A Devil in Paradise, tr. 55)
Simplifier sa vie! Cela parait la chose du monde la plus facile à entreprendre, et pourtant rien n’ est plus difficile. Il y a tout a faire. Absolument tout… (Henry Miller, Big Sur, tr. 366. 377)
Sống ở đời không phải là một điều mệt mỏi mà là một sự tiêu khiển vui chơi với điều kiện là ta phải sống trong giản dị và khôn ngoan (Thoureau).
Tôi phải chống đối lại tất cả những gì thuộc về người lớn. Tôi ghét tất cả những gì mà người lớn thích; bởi vì chính tất cả những gì họ thích, chính tất cả những thứ đó đã làm cuộc đời này trở nên bơ phờ điêu đứng. Trước hết là danh từ xã hội. Họ dạy chúng tôi phải phụng sự xã hội, phải làm tròn bổn phận đối với xã hội, phải phải… với xã hội. Không, không, chúng tôi là Arthur Rimbaud, là Henry Miller, là Anne Frank…
Chúng tôi không phụng sự gì cả, chúng tôi không phụng sự xã hội của người lớn; chúng tôi chỉ
phụng sự xã hội của con người thực sự; chứ không phụng sự xã hội của con người ma. Tất cả những xã hội của con người ở trên trần gian này đều thối nát; bởi thế chúng tôi không phụng sự gì, chúng tôi sống ngoài lề… Rất vinh dự mà bỏ mình vì một lý tưởng, nhưng những kẻ đã chết đi rồi thì không thành tựu được gì cả.
It is glorious to offer one’s life for a cause, but dead men accomplish nothing. (Henry Miller, The Colossus of Maroussi, tr. 86)
Thay vì hiến dâng cuộc sống của tôi, cuộc đời hỏi tôi dâng một cái gì khác hơn, như tâm linh, tâm hồn, thông minh, thiện chí…
Đứng bên cạnh danh từ xã hội là danh từ Tiền. Người ta thờ lạy đồng tiền, sùng kính đồng tiền hơn cả Chúa, cả Phật… Bước ra đường phố ở Sài gòn, đảo mắt nhìn chung quanh, tôi đều thấy mọi người bước đi hấp tấp vội vã, mắt họ thường đảo liếc nhìn đồng hồ, họ bước chạy làm sao cho kịp chuyến ô tô buýt hoặc taxi để đến công tư sở, họ chạy không kịp thở, vẻ mặt hốc hác, tất cả mọi người ở Sài gòn đều chạy theo tiền, chạy từ 7 giờ sáng đến khuya, họ chạy mãi mà đuổi cũng không được, sau cùng, gần hấp hối, họ mới biết rằng mình chỉ đuổi theo sự Chết… Tiền đưa đến chết…Chỉ có người lớn là mê tiền… Còn chúng tôi là những đứa con nít, chúng tôi không cần biết đến tiền, chúng tôi ghét tiền; chúng tôi không bao giờ giàu, nhưng chúng tôi sung sướng nhất trần gian.
I am crazy enough to believe that the happiest man on earth is the man with the fewest needs. (Henry Miller, The Colossus of Maroussi, tr. 136)
Sự nghèo nàn không thể làm ta khốn khổ. Tôi có thể nói như vậy bởi vì tôi đã nghèo suốt đời tôi…
I can say it because I’ve been poor all my life. (The Colossus of Maroussi, tr. 136)
Về tinh thần tôi là một kẻ triệu phú.
In spirit I’m millionaire. (The Colossus of Maroussi, tr. 136)
Thà làm một người Hi lạp nghèo nàn hơn là làm một chàng triệu phú Mỹ:
I would a thousand times rather be that poor Greek than an American millionaire. (The Colossus of Maroussi, tr. 53)
Thế là làm ăn mày ở Đà lạt còn hơn làm triệu phú ở Sài gòn. Làm ăn mày ở Ba lê còn hơn là triệu phú ở Nữu ước:
Better a beggar in Paris than a millionaire in New York. (Night of Love and Laughter, tr. 69)
Những danh từ thiêng liêng (như Tiến Bộ, Xã Hội, Văn Minh, Bổn Phận, Ái Quốc, Thành Công, Hiệu Năng, Cơ Giới, vân vân). Không có ý nghĩa gì với tôi, những danh từ này đã làm dòng nước trong trẻo của đời trở thành đục ngầu hôi thúi… Tiến Bộ để đưa đến chết. Văn Minh để đưa đến chết; tất cả danh từ này đã đưa nhân loại xuống hố. (The Colossus of Maroussi, tr. 8, 54, 79, 81, 98, 130, 131, 149, 139, 145).
Tôi không cần những danh từ thối tha trên, tôi chỉ cần một hơi thở của đời, một chút giao cảm giữa con người, một chút giúp đỡ tinh thần. (The Intimate Henry Miller, tr. 119).
Tôi chỉ cần hạnh phúc và thanh bình cô đơn và thư nhàn:
We need peace and solitude and idleness. (The Colossus of Maroussi, tr. 46)
Tôi chỉ cần cái siết tay ấm áp, ánh sáng rực ngời trong đôi mắt, chùm nho mà tôi ngấu nghiến chung nhau, cái ly mà chúng tôi nâng lên một để ghi tình bạn thắm thiết:
The important thing was the warm handclasp,the light in the eyes, the grapes which we devoured in common, the glass we raised to our lips in sign of friendship. (The Colossus of Maroussi, tr. 44)
Tôi chỉ cần mặt trời, sự trần truồng và ánh sáng:
J’ aime le soleil, la nudité, la lumière. (The Colossus of Maroussi, tr. 140)
Tôi ghét lý luận, tôi ghét trí tuệ, trí năng, lý trí (A Devil in Paradise, tr. 51, 55; The Colossus of Maroussi, tr. 8).
Tôi thích mâu thuẫn, tôi thích chơn lý, tôi thích khía cạnh thi vị của mọi vật (A Devil in Paradise, tr. 53, 50)
Hai dòng thơ còn nói nhiều, chứa đựng nhiều hơn cả một quyển sách kềnh càng của học giả.
Two lines of poetry often tell us more, give us more than the weightiest tome by an erudite. (A Devil in Paradise, tr. 58)
Tôi thích phản đối, công phẫn, nổi loạn chống lại tất cả, kể cả cá nhân mình; để mà giản dị hoá mọi sự trên đời.
Mỗi cá nhân phải phản kháng lại một lối sống nào mà không phải của chính mình; ta phải ném bỏ những ý niệm tiền định của ta về phải và trái, về tốt và xấu; về công bình và bất công… Tôi phải tự giải thoát khỏi cái nhìn chật hẹp, bưng bít của tôi trước cuộc đời (The Colossus of Maroussi, tr. 86)
Tôi phải tra vấn nhìn lại mọi sự vật:
One begins to question everything. (The Intimate Henry Miller, tr. 129)
Phải mở tung cửa ra, cho ánh sáng tuôn vào, đừng bưng bít gì cả. Tôi muốn sống một thế giới mà:
Je veux un monde où le vagin soit représenté par une fenêtre, honnête et toute nue, un monde qui sente le contour des os, les couleurs crues et fondamentales, un monde qui ait de la crainte et du respect pour ses origines animales; j’ ai la nausée de regarder des cons tout mignards, déguisés, déformés idéalises… (Xin miễn dịch). (Henry Miller, Printemps Noir, tr. 61)
Đốt. Đốt. Đốt hết tất cả những quyển sách ở thế giới. Đốt Dostoievsky, đốt Hemingway, đốt Nietzche, đốt Spengier, đốt Shakespeare, Erich Maria Remarque, Apollinaire, Jean-Paul Sartre, Kierkegaard, Camus, Simone Weil, Sophocle, Thoreau, Thánh kinh, Eschyle, Kafka, Milosz, Céline, Blaise Cendrars, Hermann Hesses, Faulkner, J. D. Salinger, D.H. Lawrence, Knut Hamsun, Keyserling, Tagore, Antonin Artaud, Capote, Whitman, Giono, Francis Carco, Élie Faure, Rimbaud, Alberto Moravia, Somerset Maugham, Caudwell, Lawrence Durrell, Jack Kerouac, Ignacio Silone, Thomas Mann, Richard Wright, Garcia Lorca, Nikos Kazantzaki, Anne Frank, Julien Green, Jakob Wassermann vân vân.
Đốt hết tất cả đi. Hãy đốt tất cả những quyển sách của nhân loại. Hãy đốt Thánh kinh, hãy đốt sách của Karl Marx, của Khổng Tử, của Thoreau, của Gandhi, của Albert Schweitzer, của Shri Aurobindo, của Swâmi Vivekânanda, của Shri Râmakrishna, của John Dewey.
Hãy đốt hết. Chỉ chừa lại những quyển sách của Henry Miller. Đốt hết và chỉ chừa Henry Miller. Hãy đọc Henry Miller đi. Mở rộng đôi mắt ra mà đọc. Mở rộng trái tim ra mà đọc. Khi đọc xong rồi thì đốt luôn Henry Miller. Đốt hết. Không chừa gì cả, đốt luôn cả trái tim lạnh lẽo của ta. Đốt luôn cả cuộc đời chật hẹp của ta…
Cả thế giới sẽ ngùn ngụt lửa khói. Tất cả thư viện đều bốc cháy đỏ rực, tất cả những quyển sách của nhân loại sẽ thành tro bụi. Hỡi loài người, hãy cười ngất lên, hãy thức tỉnh, hãy đứng dậy, hãy dang hai tay lên trời, ngọn lửa thiêng của thế giới sẽ lan tràn khắp nơi.
Khi tất cả những quyển sách của trần gian đã biến thành tro bụi; lúc bấy giờ, hỡi loài người, ta hãy đứng im lặng, trang trọng ngắm nhìn mây trắng bay về ngút trời xanh và lắng tai nghe tiếng chim kêu vang ca trái đất: Triêu Dương của Mùa Xuân Vĩnh Cửu bắt đầu ngự trên trần gian; một đoá hoa trắng bừng nở rung rinh trên đống tro tàn điên loạn…
Khi viết chương này, tôi chưa từng gặp Henry Miller. Năm 1965, tôi được gặp Henry Miller tại Pacific Palisades ở California. Trời đất đã sắp đặt cho tôi gặp Henry Miller tại Huê kỳ để được ông “điểm đạo”. Sau khi được điểm đạo thì tôi lên sống tại Nữu Ước, sống từ địa ngục này đến địa ngục khác, rồi lại lang thang lê lết ở Paris từ quán cà phê này đến quán cà phê khác, để rồi một ngày hạ dạo đó được gặp mặt Krishnamurti tại Paris dưới bóng những cây marronnier xanh đậm, trộn lẫn với tóc trắng của mây và màu xám của những đường phố lót gạch.
Xin các ngài hình dung cảnh tượng thiêng liêng này: một chàng trai 24 tuổi gặp hai cụ già trên 74 tuổi - họ nói nhau những gì? Xin các ngài thử hình dung chàng trai Platon khi gặp cụ già Socrate và cụ Lão Tử thì cả ba ăn nói ra làm sao? Tất nhiên: một người im lặng, một người nói và một người nghe. Im lặng, nói và nghe; tất cả, tất cả đạo lý nhân loại nằm trong đó.
Chương ba
Nghĩ về ý nghĩa của Phật giáoThiền tông qua vài suy luận triết học Heidegger
Bây giờ đọc lại chương ba này, nói về Thiền tông và Heidegger thì tâm hồn tôi lại cảm thấy táy máy bồn chồn. Lúc tôi viết chương này thì tôi đang ở một nông trại tại Phi Nôm cách Đà Lạt 20 cây số. Dạo đó tôi mới đọc D. T. Suzuki và cũng mới đọc Heidegger. Mười năm nay, tôi đã đọc đi đọc lại D. T. Suzuki và Heidegger (tôi đã tìm đọc toàn thể tác phẩm của D. T. Suzuki và toàn thể tác phẩm của Heidegger). Trong mười năm nay, tôi đã “ăn nằm” với D. T. Suzuki và Heidegger; D. T. Suzuki tượng trưng cho Đông phương và Heidegger tượng trưng cho Tây phương, tôi đã đọc từng dấu chấm, từng dấu phết của những gì họ viết; tôi đã say mê, sung sướng với từng nhịp điệu ý nghĩa của từng tư tưởng, từng trang văn của họ, nhưng bây giờ sau mười năm qua thì tôi thấy mình đã biến đổi khác hẳn: tôi không còn ảo tưởng nào về D. T. Suzuki và Heidegger nữa. Tôi kính phục họ như kính phục những thầy giáo dạy mình lúc ở tiểu học; nhưng bây giờ thì tôi không còn đi học nữa; tôi đã bỏ học vĩnh viễn.
Bây giờ đối với tôi, chỉ có hai điều phải học: TÌNH YÊU và SỰ CHẾT. Nhưng khốn kiếp cho tôi là tôi cứ học mãi về hai cái này mà không bao giờ thuộc bài được. Tôi ngu dại đến nỗi cho mãi đến bây giờ mới biết rằng Tình yêu không thể học được mà Cái Chết lại càng không thể học được. Không có gì có thể học được trong đời này!
Yêu, phải YÊU, dù không muốn yêu thì cũng phải yêu. Và chết. Chết cho tình yêu và yêu cái chết, đó là ý nghĩa đời sống tột đỉnh mà con người chỉ biết được khi nào đất đã lùi trượt dưới bước chân mình và bầu trời chỉ còn lại trong đôi mắt người mù.
Nhìn vào đôi mắt người mù, tôi thấy được những gì?
Câu hỏi không còn câu trả lời. Bài học đã được chấm điểm bằng một số zéro to lớn.
Nhìn vào số zéro to lớn ấy, tôi thấy được tình yêu ôm liền với nỗi chết. Một người học trò thi hỏng chỉ là kẻ lặp lại tấn kịch muôn đời của Vũ trụ và Hư vô, của một bàn tay vời lên và một giọt mưa rớt xuống. Vừa lúc đứa con ra đời thì người cha và người mẹ đã cùng dắt tay nhau đi về cõi chết.
D. T. Suzuki và Heidegger, hai ông thầy giáo trường làng, hai cụ đã dạy tôi tập đánh vần, làm toàn cộng trừ nhân chia; tôi đã quá lười, tôi đã lãnh nhận những số zéro và tôi đã bị đuổi khỏi trường.
Bây giờ trước cuộc đời lớn rộng đang ôm lấy hai chân tôi. Tôi không mong chờ gì nữa cả. Tôi ngước lên nhìn chậu hoa phong lữ thảo để ở cửa sổ nhà lạ. Nắng mới reo lên và buổi chiều sắp tới. Rồi lại rạng đông và buổi sáng. Tôi là buổi sáng, buổi sáng hiện lên mái nhà, sưởi ấm ngói cũ, đem màu mới cho rong rêu cây cỏ, quét lên đường nắng của dáng người đi bên xóm, lập loè đây đó lác đác cây cao. Buổi sáng càng lúc càng lên cao, đến trưa thì ngự ngay giữa trời một chốc rồi lại đi nhẹ ra xa, càng lúc càng xa, càng lúc càng lùi mất, rồi mất hẳn.
Phạm Công Thiện
1. Thiền tông hoàn toàn khác hẳn triết lý Heidegger. Đem so sánh Thiền tông với bất cứ một hệ thống tư tưởng nào đều là một việc làm ngu xuẩn.
Thiền tông là kinh nghiệm của tâm linh; còn tư tưởng Heidegger là một kinh nghiệm lý trí.
Thực ra Thiền tông thoát ra ngoài tất cả kinh nghiệm và chỉ còn có một điều duy nhất: sống và chảy thơ mộng như nước suối ngọt Thiên thai! Còn Heidegger cuối cùng rồi cũng nhảy qua kinh nghiệm lý trí để lao vào kinh nghiệm của tư tưởng trầm lặng…
Thực ra, tư tưởng của Heidegger không phải là tư tưởng theo nghĩa “Denken” của Đức ngữ, không phải là tư tưởng theo thể cách tri thức có đối tượng; tư tưởng của Heidegger là tư tưởng về Tính trong Bản tính (Denken am Sein selbst); vì thế Heidegger gọi tư tưởng ông là qui tưởng (Andenken), qui tưởng về Tính trong chính Bản tính (Andenken an das Sein). Tất cả những tư tưởng của Heidegger đều nằm tiềm tàng trong Thiền tông; nhưng tất cả Thiền tông lại không ở tiềm tàng trong tư tưởng Heidegger.
Heidegger nói lên những chân lý bằng ngôn ngữ huyền bí đặc biệt; trong khi đó Thiền tông chỉ nói lên chân lý ấy bằng những cử chỉ, hành động cụ thể.
bằng những cử chỉ hành động cụ thể theo nghĩa “diệu dụng”. Còn gì phiêu diêu tuyệt vời cho bằng cái việc tầm thường như “múc nước và chẻ củi”. Và cầu tiêu, giọt nước chảy thì cũng thơ mộng diệu thường!
Những điểm khác nhau rõ ràng nhất là Thiền tông đã nhắm vào sự giải thoát, còn Heidegger thì chỉ hướng về tri tính sử (Seinsgeschichtlich). Thực ra, ta thấy tư tưởng của Heidegger cũng hướng về đường giải thoát, đưa con người ra khỏi sự quên lãng về Chân tính (das Vergessen der Wahrheit des Seins ) nhưng chưa được tiêu cực lắm và toàn triệt như Thiền tông.
Ý nghĩa “tiêu cực” vẫn giấu kín tất cả chân trời thênh thang. Chừng nào con người sống nổi với chân nghĩa của “tiêu cực” thì mới nói tới chuyện giải thoát. Không có gì làm cho con người nô lệ khốn khổ cho bằng những việc làm gọi là “tích cực”. “Tích” là “chứa”, còn “tiêu” là “mất, tan, giải, hoá ra nước”. Triết lý của nước phải bắt đầu từ ý nghĩa chân chính của “tiêu cực”.
Kiến tính là kinh nghiệm tối hậu của Thiền tông “Heidegger cũng đi dần đến con đường kiến tính nếu chúng ta có thể tạm dịch “Sein” là “Tính” (theo nghĩa chữ “Tính” trong “Phật tính”, “Như Lai tạng tính”, “Chân tính”, v.v…)
Chữ “Sein” của Heidegger có thể khiến ta so sánh với chữ Taihata của Phật giáo. Còn chữ Nichts của Heidegger có thể khiến ta so sánh với chữ Sunyata của Trung quán luận (Madhyamika) của Long thọ. Theo Heidegger, Nichts (Hư không) vượt lên trên sự phủ nhận (negation) thông thường; chữ Sunyata của Long thọ (Nagajuna) cũng vượt lên trên mọi sự phủ nhận thông thường vượt ra ngoài bốn phạm trù tri thức (chatuskoti-vinirmukta) nói tóm tắt là Sunyata của chính Sunyata và nói cho rốt ráo thì Sunyata cũng chính là Tathata ; điểm này nhắc ta nhớ đến Heidegger đã kết luận về chữ Nitchs bằng cách trích câu văn của Hegel rằng Nichts và Sein cũng như nhau; và chính sau cùng, Heidegger cũng cho ta thấy Nichts tức là Sein [1] .
Nhưng Heidegger khác hẳn Hegel: Hegel dùng “tiêu” để hiển rạng “tích”, còn Heidegger dùng “tích” để phá “tích” và để cho “tiêu” được là “tiêu”. Tất cả cuộc đời của Heidegger là để cho hư vô được là hư vô.
Heidegger gần Thiền tông nhất là khi Heidegger cố vượt lên trên chủ nghĩa duy thực (réalisme) và duy tâm (idéalisme) hay nói một cách khác, theo từ ngữ Thiền tông, Heidegger hướng về con đường “Bất Nhị”, tức là pháp không hai.
Thực ra con đường “Bất Nhị” không thể đơn sơ như vậy. Nhảy vào “Bất Nhị”, Heidegger chỉ giẫm chân lấy trớn mà vẫn chưa nhảy được, mặc dù ông thừa biết rằng mình cần phải nhảy. “Đốn Ngộ” và “Bất Nhị” đều đồng nghĩa. Con đường của Heidegger gần với “tiệm” hơn là “đốn” (nói cho cùng thì "đốn" và "tiệm" cũng là một. Nhưng nói như thế cũng quá dễ. Điều duy nhất: NHẢY!
Điều này chúng ta thấy rõ nhất khi Heidegger phân tích Da-Sein hay In-der-Welt-Sein hay Sein-zum-Tode chúng ta thấy Heidegger đã quan niệm về Welt (monde) khác hẳn những triết gia đi trước [2] nghĩa là Heidegger không phân chia ra làm một thực thể biệt lập; Heidegger để cho Welt và Tode dính liền chặt với Sein: In-der-Welt-Sein không phải là Sein ở trong Welt (In-der-Welt-Sein) như theo nghĩa trong một vị trí không gian (như cái tách ở trong cái hộp) như thế còn là nằm trong bình diện ontique. Dasein không thể là Dasein nếu không là In-der-Welt-Sein; vì thế chúng ta thấy từ ngữ In-der-Welt-Sein và Sein-zum-Tode đi trên con đường “bất nhị” của Thiền tông. Ngoài ra những quan niệm của Heidegger về tự do và chân lý cũng đáng đem ra so sánh với Thiền tông [3].
Ở trên, chỉ xin vạch ra ba điểm đáng so sánh, nhưng thực ra muốn bàn cho thấu đáo về Heidegger và Thiền tông, dù có viết một luận án ngàn trang; sợ cũng không nói đủ.
Những lời đơn sơ trên không ngoài mục đích nêu lên vài khía cạnh đại khái, để từ đó có thể mở ra những sự thảo luận cần thiết sau này.
2. Vừa viết xong nhan đề “Nghĩa về ý nghĩa đạo Phật Thiền tông qua vài suy luận triết học Heidegger” tôi sực ý thức rằng: tôi đã viết một nhan đề trái nghịch lại hẳn với tinh thần đạo Zen (Thiền). Người nào từng thể nhập Thiền đạo đều thấy rõ ràng tôi đã sai lầm ngay từ nhan đề… Vì sao?
Thoạt tiên, chúng ta để ý đến động từ “nghĩ”. Chúng ta thường nói một cách rất bình tĩnh: “Tôi nghĩ rằng… tôi nghĩ về… thánh nhân kia nghĩ rằng… triết nhân kia nghĩ… đại nhân kia nghĩ… Sartre nghĩ…”. Động từ “nghĩ” là một động từ thông thường hằng ngày mọi người đều dùng một cách ung dung, tự tại và bình thản. Ta nào ngờ động từ “nghĩ” là một động từ rất nguy hiểm và rất tai hại.
Tất cả mọi động từ đều nguy hiểm và rất tai hại. “Nhảy” mà không động mới là nhảy.
Chừng nào động từ “nghĩ” không còn là một động từ phổ thông nữa thì chừng ấy những con chim mới được tha hồ tung cánh bay ngất trời xanh và chừng ấy những bãi cỏ mới tha hồ xanh mướt tươi non dưới gót chân không mang giầy của chúng ta. Mỗi khi anh nói “tôi nghĩ” thì lập tức mấy con chim bị nhốt lồng, cỏ bị khô héo, cả dòng đời cũng đứng lại, cả vũ trụ thế giới câm lặng tàn nhẫn: sương mù tinh mơ tan biến mất, hương nồng trở thành hôi thúi, tất cả tạo vật đều chết lạnh, chết khô, chết cứng. Vừa mở miệng nói: “tôi nghĩ” thì lập tức một lưỡi dao bén nhọn đã làm đâm thấu vào trái tim cuộc đời. Nói đến nghĩ là nói đến giết: tôi giết cuộc đời tôi, tôi giết cuộc đời kẻ khác, tôi giết hơi thở nhịp nhàng của vũ trụ. Người ta gọi “người thích nghĩ” là “tư tưởng gia” hoặc “triết gia”. Hãy đem xử tử tất cả mọi tư tưởng gia và triết gia, kẻ sát nhân nặng tội nhất của loài người không phải là Eichmann hay Hitler; kẻ sát nhân dễ sợ nhất của loài người là Socrate, là Hegel, là Kant, là Jean-Paul Sartre, là tất cả những người mang tên tư tưởng gia, triết gia, lý thuyết gia, phê bình gia, bình luận gia, văn gia…
“Không nghĩ” thì cũng nguy hiểm tai hại như “nghĩ”. “Phi kiến thức, phi học thức, phi tri thức…” thì cũng nguy hiểm tai hại như kiến thức, học thức, tri thức. Chỉ có điều quan trọng: làm gì thì cứ làm, cứ làm giống như cánh bay của ó rừng, bay vút lên và đáp xuống; không để lại dấu vết gì còn lại sau cánh bay.
Ôi, trí thức, kiến thức, triết thức, học thức, tri thức, văn thức. Tôi nguyền rủa Thượng đế (nếu có!) nguyền rủa vì đã ban cho tôi một trí óc. Tôi muốn trở về sống với đồng bào Thượng. Tôi thích sống giữa những con thú vật lù đù. Tôi không thích ngồi đây nghĩ vớ vẩn về Zen, về Heidegger. Tôi sinh ra đời không phải để nghĩ. Tôi sinh ra đời để mà rong chơi, để mà không làm việc gì hết, để mà ngó nhìn bãi cỏ xanh ở Đà lạt hay nhìn những con kiến rượt nhau hay làm bạn với những người điên khùng hoặc lang thang suốt đêm trên những con đường phố sương mù hoặc ngồi mơ màng dưới gốc cây thông bên hồ Đà Lạt hoặc ngủ li bì suốt ngày để thức suốt đêm lim dim lắng nghe những tiếng hát vi vu ở giữa Sài Gòn.
Không thể nào nghĩ về đạo Zen. Thay vì nghĩ về Zen, anh cứ đi phất phơ ra ngoài bến tận Sài Gòn vào lúc tối khuya và cứ ngồi suốt đêm như con sông đen đen; rồi lúc ấy nếu anh có chán đời thì cứ nhảy xuống đi, chứ đừng than thở lôi thôi, còn nếu không dám nhảy xuống thì ngồi đó mà cười ầm lên cho vang động cả đường phố, cho vang động cả dòng sông, cho vang động cả nỗi buồn mênh mông của tuổi trẻ chúng mình. Rồi về nhà, anh cứ xem hết những quyển sách triết học và chạy đi tìm những bức tranh của Chagall để đem treo về bàn thờ. Đừng nghĩ về Zen, Zen để sống, chứ không phải để nghĩ.
“Sống” đã là “nghĩ” rồi. Một người thực sự sống thì không bao giờ bận tâm đến đời sống.
Động từ “nghĩ” hoàn toàn phản nghịch lại linh hồn đạo Zen.
“Linh hồn” đã phản nghịch lại Zen rồi. Nhưng chính sự phản nghịch thì đã phản nghịch nữa rồi. Không chống đối, không có sự phản nghịch nào, đó là Zen! Song nếu có chống đối, có phản nghịch thì đừng biến sự chống đối, sự phản nghịch trở thành vấn đề ám ảnh. Không có bóng ma nào ám ảnh mình, đó là Zen! Zen có nghĩa là “không sợ ma” trong mọi ý nghĩa.
Một môn đệ hỏi thiền sư Triệu Châu về đạo lý Zen. Thiền sư trả lời: “Chú ăn điểm tâm chưa?”; môn đệ ấy đáp: “Vâng, bạch thầy, con đã dùng điểm tâm rồi”. Thiền sư lại nói: “Vậy thì chú hãy lau đĩa đi”. Thiền sư vừa nói xong thì lập tức môn đệ thể nhập vào giác ngộ; môn đệ ấy đã sai lầm vì muốn nghĩ về Zen: thiền sư bèn nhắc đến những việc tầm thường hằng ngày, “nghĩ” là một hành động nguy hiểm đến tính mạng đời sống mỗi người [4].
Sự nguy hiểm cũng cần thiết. Chỉ có một điều duy nhất đáng sợ, đó là đánh mất nỗi nguy hiểm trong đời sống. Cuộc đời càng lớn mạnh thì nỗi nguy hiểm càng hấp dẫn thêm lên.
Còn chữ “về” cũng thế: nói “về” là nói “về” một cái gì, một vật gì hay một người gì, nghĩa là ám chỉ có một người nghĩ và một vật bị nghĩ, tức là phân ra thành chủ thể và khách thể, tách biệt rời ra làm hai. Chủ thể đứng chống lại khách thể; người nghĩ đứng chống lại vật bị nghĩ; người biết đứng chống lại kẻ bị biết [5]. Chữ “về” cắt hai, chia đôi thực tại. Như thế hoàn toàn phản nghịch lại Zen.
Nói đến danh từ “ý nghĩa” lập tức người ta nghĩ đến cái đối nghịch với nó là “vô nghĩa” bởi vì nếu “ý nghĩa” không có “vô ý nghĩa” đối lại thì “ý nghĩa” không thể có ý nghĩa được.
“A” không thể là “A” được, nếu nó không đứng đối lại với cái không phải “A” nghĩa là cần phải có “không A” để làm ra “A”.
“A” có nghĩa là “không A” ở trong “A”. Khi “A” muốn là “A” thì nó ra ngoài “A” nghĩa là “không A”. Nếu “A” không chứa đựng bên trong cái không phải là nó thì “không A” không thể nào ra ngoài “A” để làm “A” ra là “A” [6].
Thực ra “lý luận” này cũng kẹt vào “nguyên lý đồng nhất” (principe d’ identité). D. T. Suzuki vẫn còn lý luận ấu trĩ, tô son phấn rẻ tiền vào “bản lai diện mục” của Thiền tông. Nietzsche có thể không biết gì về Thiền tông và Nietzsche lại xứng đáng là một thiền sư hơn bất cứ thiền sư nào khác (Nietzsche có thể đứng ngang hàng với Bồ-Đề-Đạt-Ma và Lâm-Tế.)
“Ý nghĩa” không thể là “ý nghĩa” được nếu “ý nghĩa” không đứng chống đối lại với cái gì không phải là “ý nghĩa”; cần phải có “vô ý nghĩa” để làm ra “ý nghĩa”; “ý nghĩa” có nghĩa là “vô ý nghĩa” ở trong ý nghĩa. Khi “ý nghĩa” muốn có nghĩa thì nó đã ra ngoài ý nghĩa, nghĩa là “vô ý nghĩa”. Nếu “ý nghĩa” không chứa đựng bên trong cái không phải là nó thì “không ý nghĩa” không thể nào ra ngoài “ý nghĩa” để làm ra “ý nghĩa” trở thành có ý nghĩa.
“Ý nghĩa” có ý nghĩa được là nhờ sự trái ngược đối nghịch. Tính chất đối nghịch là một tính chất hoàn toàn trái phản lại tinh thần đạo Zen (hay tinh thần Phật giáo nói chung).
“Nghĩ về ý nghĩa đạo Phật Thiền qua vài suy luận của triết học Heidegger…” Viết nhan đề như vậy, tôi muốn nói gì? Như tôi đã nói trên, “nghĩ về ý nghĩa của đạo Thiền…” đã là một từ ngữ phản lại tinh thần Zen, thế mà tôi lại không nghĩ thẳng mà lại còn nghĩ qua, như thế còn sai phản lại tinh thần Zen hơn nữa! Tôi muốn nghĩ về Zen mà thay gì nghĩ thẳng về Zen, tôi lại suy luận theo điệu Heidegger. Heidegger không có viết gì về Zen, nhưng lúc đó tôi nghĩ về Zen, tôi đã nhớ đến Heidegger và tôi mượn vài suy luận triết lý Heidegger để soi rọi thêm vài ý nghĩ của tôi về Zen nghĩa là tôi đã “nghĩ qua…”, tức là đã có sự trung gian.
“Trung gian” lại chính là ý niệm quan trọng nhất trong hệ thống của Hegel. Ít nhất cũng có người đã viết một luận án Tiến sĩ gần 400 trang về ý niệm “trung gian trong triết học Hegel” (De la Médiation dans la philosophie de Hegel của Henri Niel, Aubier, Paris, 1945)
Mà bất cứ sự trung gian nào cũng hoàn toàn phản nghịch lại tinh thần Zen. Đối với Zen, tuyệt đối không có trung gian nào hết [7]. Zen là kinh nghiệm riêng lẻ của từng người một; mỗi người cứ tự mình đến thẳng trực tiếp với Zen; mỗi người hoàn toàn cô đơn tuyệt đối trên đường đi của mình, không bạn, không thầy, không gia đình, không quá khứ, không truyền thống, không hành lý, không trung gian gì hết. Cứ đi thẳng và mặt đối mặt với Zen, đừng đi qua bất cứ một trung gian nào. Dù trung gian đó là đức Phật!
Tôi đã trót viết nhan đề sai phản lại tinh thần Zen; vậy có thể bỏ và thay thế lại một nhan đề khác? Không thể được, tôi đã vô ý viết một nhan đề như trên mà nếu bây giờ tôi xoá bỏ, sửa lại thì hành động này cũng phản lại tinh thần Zen! Vì sao? Vì tôi đã nghĩ, tôi đã cố ý không tự nhiên.
Cố ý và không tự nhiên là thái độ hoàn toàn phản lại tinh túy Zen.
Nếu đã “cố ý” thì cứ “cố ý”! Hơi đâu mà lý sự quanh quẩn, hơi đâu mà lo sợ. Tai nạn lớn nhất của con người là “cái vòng lẩn quẩn” (le cercle vicieux); ai cũng sợ kẹt vào “vòng lẩn quẩn”! Cứ nhảy vào vòng lẩn quẩn, cứ để cho kẹt vào vòng lẩn quẩn: Giải thoát là ở sự cuốn xoáy vào trong vòng lẩn quẩn này!
3. Đạo Phật Zen là gì?
Một môn đệ hỏi thiền sư một câu hỏi quan trọng như trên thì thiền sư ấy liền bước xuống ghế rồi tát tai môn đệ (cf, D. T. Suzuki, “Pracrical Methods of Zen Instruction” trong Zen Buddhism, tr. 132).
Nếu tôi là môn đệ ấy thì tôi vừa hỏi vừa tát tai trước! Phải tát tai thiền sư trước khi hỏi ông ta!
CON ĐƯỜNG GIẢI THOÁT LÀ CON ĐƯỜNG NÀO?
Một thiền sư hỏi một con chó: “Mi có muốn biết con đường đi đến giác ngộ hay không?” rồi thiền sư đưa chân đá con chó; chó sủa ầm lên (cf, D. T. Suzuki, l’ Essence du Bouddhisme, tr. 99)
Tại sao thiền sư không sủa với chó mà lại hỏi nó? Thực ra tôi biết rồi: hỏi có nghĩa là sủa! Một người hỏi một câu hỏi về đạo lý thì giống như một con chó sủa đêm.
TINH TÚY ZEN LÀ GÌ?
Một môn đệ hỏi thầy như thế và thầy trả lời: “Cứ hỏi cột trụ nầy”. Một môn đệ sửng sốt: “Bạch thầy, không hiểu thầy muốn nói gì…” Thầy trả lời: “Sự ngu dốt của thầy còn hơn sự ngu dốt của con” (cf, Pierre Pégon, “Questions et Résponses dans le Bouddhisme Zen” trong Présence du Bouddhisme, tr. 735).
Thiền sư Nietzsene: “Chúng tôi là những kẻ biết mà lại không biết về chính bản tính của chúng tôi”. (Wir sind uns unbekannt, wir Erkennenden, wir seibst uns seibst). Vì lý do rất hay ho này: “Chúng tôi không bao giờ tìm kiếm chính chúng tôi thì làm thế nào chúng tôi có thể mong gặp thấy chính chúng tôi”. (Wir haben nie nach uns gesuchi-wie sollte es geschehn, das wir eines Tages faenden?).
Có tìm thì mới thấy. Giác ngộ có nghĩa là không tìm không thấy.
ĐƯỜNG LỐI ĐI VÀO CHÂN LÝ LÀ ĐƯỜNG LỐI NÀO?
Một môn đệ hỏi thầy như thế và thầy trả lời: “Con có nghe tiếng suối reo hay không?”. Môn đệ trả lời: “Vâng, con có nghe”. Thầy đáp lại: “Đó là đường lối đi vào chân lý”.
Ý NGHĨA ĐẠO ZEN LÀ GÌ?
Một thiền sư thuyết giảng như sau:
Khi người ta hỏi thầy về ý nghĩa đạo Zen. Thầy sẽ trả lời rằng Zen giống như nghệ thuật ăn trộm. Một đứa con trai của một kẻ ăn trộm thấy rằng cha đã già yếu, hắn mới tự nhủ: “Nếu cha mình quá già yếu, và không thể làm nghề trộm nữa thì ai sẽ lo kiếm tiền để nuôi gia đình? Chỉ còn mình thôi. Vậy mình phải học nghề cha”. Hắn mới tỏ bày cùng cha và cha hắn đồng ý. Một đêm, cha dẫn con lẻn vào một ngôi nhà giàu, đào ngõ vào nhà, mở một thùng đồ to lớn và bảo con vào thì nắp thùng liền đậy lại và khoá lại. Lúc ấy, người cha đã đi ra ngoài sân và cố ý làm ầm lên, khiến cả gia đình nhà ấy đều thức dậy và người cha lẻn trốn đi mất. Những người ở gia đình lao xao đốt đèn tìm kiếm kẻ trộm nhưng chẳng gặp gì hết. Còn đứa con trai kia, lúc bị khoá nhốt trong thùng, không thể nào trốn thoát được, hắn nguyền rủa thù ghét người cha tàn nhẫn. Một lúc sau, bỗng nhiên hắn vụt sáng ý lên; hắn làm sột soạt như tiếng chuột gặm đồ. Người đầy tớ bưng đèn đến mở thùng ra xem. Hắn tung dậy, thổi đèn tắt, xô người đầy tớ, rồi chạy trốn thoát. Người nhà đuổi theo. Nhìn thấy một giếng nước bên đường, hắn khiêng một hòn đá và quẳng xuống nước. Những người nhà lại đổ xô bên giếng và lúc ấy, hắn chạy thoát về nhà. Hắn cằn nhằn với cha và người cha trả lời: “Đừng bực bội con ạ, hãy kể cho cha nghe con trốn thoát bằng cách nào?...” Lúc đứa con kể xong đầu đuôi, người cha liền nói: “Được rồi đấy, thế là con đã học được nghệ thuật ăn trộm!”.
PHẬT LÀ GÌ?
Một môn đệ hỏi thầy một câu hỏi nghiêm trọng như trên. Thầy trả lời: “Con mèo trèo cây cột”. Môn đệ lại hỏi: “Bạch thầy. Phật là gì?”. Thầy trả lời: “Con cứ hỏi cây cột” (cf, Truyền đăng lục, Fasc. XIV)
BÍ MẬT TỐI THƯỢNG CỦA ZEN LÀ GÌ?
Khi một nhà học giả đạo Khổng đến thăm một thiền sư, nhà học giả ấy hỏi: “Bí mật tối thượng của Zen là gì?”, thiền sư trả lời: “Zen chẳng có bí mật gì để giấu ngài”. Nhà học giả lúng túng: “Bạch thầy, tôi không hiểu gì hết”. Sau đó, hai người bước đi dọc theo đường núi. Lúc bấy giờ cây nguyệt quế đang trổ hoa thơm ngát. Thiền sư liền hỏi: “Ngài có ngửi được mùi thơm của cây đơm hoa?”. Nhà học giả trả lời: “Vâng, tôi đã ngửi được”. Thiền sư đáp lại: “Đấy, đấy, tôi chẳng có gì bí mật để giấu ngài”.
TINH TÚY TỐI THƯỢNG CỦA ZEN LÀ GÌ?
Một lần kia, thiền sư đứng lên giảng đường để thuyết pháp và nói: “Tinh túy tối thượng của đạo Zen là gì?” vừa đặt lên câu hỏi thì dang hai tay ra và chẳng nói gì cả, rồi thiền sư bước xuống giảng đường. Như thế là: bài thuyết pháp đã xong!
LÀM THẾ NÀO ĐỂ ĐẠT ĐẾN PHẬT TÍNH?
Một thiền sư dạy môn đệ như vầy: “Không cần phải cố gắng chịu khó nhọc nhằn mới đạt đến Phật tính. Các con cứ tiếp tục làm những việc thông thường khiêm tốn như đi tiêu, đi tiểu, mặc quần áo, ăn cơm và nằm khi mệt mỏi. Người phúc hậu giản dị sẽ cười các con, những kẻ thánh hiền sẽ hiểu các con.( Fong Yeou Lan, Précis d’Histoire de la Philosophie chinoise, tr.268)
PHẢI KÍNH TRỌNG ĐỨC PHẬT NHƯ THẾ NÀO?
Một thiền sư bước vào một ngôi chùa và phun nước miếng vào tượng Phật và lúc người ta trách vấn thầy, thầy trả lời: “Xin vui lòng chỉ chỗ cho tôi để tôi khạc nhổ, xin chỉ chỗ nào không có Phật đấy” (cf. HG.Creel, Chinese Thought from Confucius to Mao-Tse-Tung, tr. 164).
ĐỨC PHẬT LÀ AI?
Một thiền sư nói như sau: “Kẻ thánh hiền không đi tìm Phật. Phật là kẻ sát nhân vĩ đại đã quyến rũ rất nhiều người xuống hố của quỉ đĩ”. “Chính tôi cũng chẳng biết gì về Zen. Tôi không phải là thầy. Tôi chẳng biết gì hết. Tôi chỉ là một thằng già ăn mày, ăn xin và mỗi ngày đi ỉa. Tôi phải làm gì bây giờ?... Chẳng có gì để làm cả”. (cf. Hu Shih, “Development of Zen Buddhism” in Chinese Social and Political Science Review XV, Bắc Kinh, 1031-32, tr. 502)
PHẢI ĐỐI VỚI ĐỨC PHẬT NHƯ THẾ NÀO?
Với tinh thần phá chấp toàn diện, một thiền sư trả lời: “Hãy giết Phật đi, hãy giết Phật đi” (cf. Introduction, Sermon sur le Bouddhisme Zen trong Presence de Bouddhisme, France-Asie, tr. 338).
CÓ NÊN SÁT SANH KHÔNG?
Với tinh thần phá chấp triệt để, đôi khi những thiền sư đốt tượng Phật, giết mèo, bắt tôm, bắt cá (cf. Ed Conze, Le Bouddhisme dans son essence et son dévelopement, tr. 201).
4. Những nhà văn nổi tiếng nhất hiện nay ở Mỹ là J. D. Salinger và nhóm “Beat Generation” gồm có Jack Kerouac, Lawrence Ferlinghetti, Allen Ginsberg, Gregory Corso v. v.)
Nhóm “Beat Generation” đều là môn đệ của đạo Zen, và J.D. Salinger cũng là môn đệ của đạo Phật Zen, người ta nói rằng J.D. Salinger “hăng hái say mê nghiên cứu Zen” (cf. Time, sept. 15, 1961).
Có người gặp Heidegger đang đọc sách về Zen (do D.T. Suzuki viết) và ông tổ của triết lý hiện sinh hăng hái nói: “Đây là những gì tôi đã cố gắng nói trong tất cả những tác phẩm của tôi” (cf. William Barrett, “Zen for the West” trong Zen Buddhism, Doubleday Anchor Books, tr. XI).
C. G. Jung và Karen Horney cũng say mê nghiên cứu Zen. Trước khi chết, Karen Horney đã viếng thăm Nhật Bản để nghiên cứu trực tiếp sinh hoạt Zen. C. G. Jung đặc biệt lưu ý đến những viễn tượng tâm lý của Zen và kêu gọi Tây - phương phải quan tâm đến Zen. (cf. C. G. Jung, “le Zen et l’ Occident” trong L’ Essence du Bouddhisme,tr. 17 – 49).
Đạo Phật Zen đã hấp dẫn lôi cuốn những người lãnh đạo những phong trào trí thức tiền phong của Âu Mỹ như Salinger, Heidegger và C. G. Jung. Chưa bao giờ Đông phương quyến rũ Tây phương lạ lùng như vậy. Sự kiện này khiến cho ta thắc mắc tự hỏi: Zen đã chứa đựng ý nghĩa gì mà có thể giáo hoá thoả mãn được những đòi hỏi mãnh liệt của bậc thức giả tiến bộ nhất ở Tây phương?
Ý nghĩa của đạo Phật Zen là gì?
Tôi có thể trả lời rất dễ dàng, rất nhanh chóng, không hề lúng túng: đạo Phật Zen chẳng có ý nghĩa gì cả. Tại sao? Bởi vì còn ý nghĩa là còn nằm trong vòng nhị nguyên đối đãi: “ý nghĩa” đối nghịch với “vô ý nghĩa”, như thế hãy còn bị ràng buộc trong danh từ, trong tiến trình biểu tượn
g (processus symbolique), do đó:
Nghĩ về ý nghĩa của Phật giáoThiền tông qua vài suy luận triết học Heidegger
Bây giờ đọc lại chương ba này, nói về Thiền tông và Heidegger thì tâm hồn tôi lại cảm thấy táy máy bồn chồn. Lúc tôi viết chương này thì tôi đang ở một nông trại tại Phi Nôm cách Đà Lạt 20 cây số. Dạo đó tôi mới đọc D. T. Suzuki và cũng mới đọc Heidegger. Mười năm nay, tôi đã đọc đi đọc lại D. T. Suzuki và Heidegger (tôi đã tìm đọc toàn thể tác phẩm của D. T. Suzuki và toàn thể tác phẩm của Heidegger). Trong mười năm nay, tôi đã “ăn nằm” với D. T. Suzuki và Heidegger; D. T. Suzuki tượng trưng cho Đông phương và Heidegger tượng trưng cho Tây phương, tôi đã đọc từng dấu chấm, từng dấu phết của những gì họ viết; tôi đã say mê, sung sướng với từng nhịp điệu ý nghĩa của từng tư tưởng, từng trang văn của họ, nhưng bây giờ sau mười năm qua thì tôi thấy mình đã biến đổi khác hẳn: tôi không còn ảo tưởng nào về D. T. Suzuki và Heidegger nữa. Tôi kính phục họ như kính phục những thầy giáo dạy mình lúc ở tiểu học; nhưng bây giờ thì tôi không còn đi học nữa; tôi đã bỏ học vĩnh viễn.
Bây giờ đối với tôi, chỉ có hai điều phải học: TÌNH YÊU và SỰ CHẾT. Nhưng khốn kiếp cho tôi là tôi cứ học mãi về hai cái này mà không bao giờ thuộc bài được. Tôi ngu dại đến nỗi cho mãi đến bây giờ mới biết rằng Tình yêu không thể học được mà Cái Chết lại càng không thể học được. Không có gì có thể học được trong đời này!
Yêu, phải YÊU, dù không muốn yêu thì cũng phải yêu. Và chết. Chết cho tình yêu và yêu cái chết, đó là ý nghĩa đời sống tột đỉnh mà con người chỉ biết được khi nào đất đã lùi trượt dưới bước chân mình và bầu trời chỉ còn lại trong đôi mắt người mù.
Nhìn vào đôi mắt người mù, tôi thấy được những gì?
Câu hỏi không còn câu trả lời. Bài học đã được chấm điểm bằng một số zéro to lớn.
Nhìn vào số zéro to lớn ấy, tôi thấy được tình yêu ôm liền với nỗi chết. Một người học trò thi hỏng chỉ là kẻ lặp lại tấn kịch muôn đời của Vũ trụ và Hư vô, của một bàn tay vời lên và một giọt mưa rớt xuống. Vừa lúc đứa con ra đời thì người cha và người mẹ đã cùng dắt tay nhau đi về cõi chết.
D. T. Suzuki và Heidegger, hai ông thầy giáo trường làng, hai cụ đã dạy tôi tập đánh vần, làm toàn cộng trừ nhân chia; tôi đã quá lười, tôi đã lãnh nhận những số zéro và tôi đã bị đuổi khỏi trường.
Bây giờ trước cuộc đời lớn rộng đang ôm lấy hai chân tôi. Tôi không mong chờ gì nữa cả. Tôi ngước lên nhìn chậu hoa phong lữ thảo để ở cửa sổ nhà lạ. Nắng mới reo lên và buổi chiều sắp tới. Rồi lại rạng đông và buổi sáng. Tôi là buổi sáng, buổi sáng hiện lên mái nhà, sưởi ấm ngói cũ, đem màu mới cho rong rêu cây cỏ, quét lên đường nắng của dáng người đi bên xóm, lập loè đây đó lác đác cây cao. Buổi sáng càng lúc càng lên cao, đến trưa thì ngự ngay giữa trời một chốc rồi lại đi nhẹ ra xa, càng lúc càng xa, càng lúc càng lùi mất, rồi mất hẳn.
Phạm Công Thiện
1. Thiền tông hoàn toàn khác hẳn triết lý Heidegger. Đem so sánh Thiền tông với bất cứ một hệ thống tư tưởng nào đều là một việc làm ngu xuẩn.
Thiền tông là kinh nghiệm của tâm linh; còn tư tưởng Heidegger là một kinh nghiệm lý trí.
Thực ra Thiền tông thoát ra ngoài tất cả kinh nghiệm và chỉ còn có một điều duy nhất: sống và chảy thơ mộng như nước suối ngọt Thiên thai! Còn Heidegger cuối cùng rồi cũng nhảy qua kinh nghiệm lý trí để lao vào kinh nghiệm của tư tưởng trầm lặng…
Thực ra, tư tưởng của Heidegger không phải là tư tưởng theo nghĩa “Denken” của Đức ngữ, không phải là tư tưởng theo thể cách tri thức có đối tượng; tư tưởng của Heidegger là tư tưởng về Tính trong Bản tính (Denken am Sein selbst); vì thế Heidegger gọi tư tưởng ông là qui tưởng (Andenken), qui tưởng về Tính trong chính Bản tính (Andenken an das Sein). Tất cả những tư tưởng của Heidegger đều nằm tiềm tàng trong Thiền tông; nhưng tất cả Thiền tông lại không ở tiềm tàng trong tư tưởng Heidegger.
Heidegger nói lên những chân lý bằng ngôn ngữ huyền bí đặc biệt; trong khi đó Thiền tông chỉ nói lên chân lý ấy bằng những cử chỉ, hành động cụ thể.
bằng những cử chỉ hành động cụ thể theo nghĩa “diệu dụng”. Còn gì phiêu diêu tuyệt vời cho bằng cái việc tầm thường như “múc nước và chẻ củi”. Và cầu tiêu, giọt nước chảy thì cũng thơ mộng diệu thường!
Những điểm khác nhau rõ ràng nhất là Thiền tông đã nhắm vào sự giải thoát, còn Heidegger thì chỉ hướng về tri tính sử (Seinsgeschichtlich). Thực ra, ta thấy tư tưởng của Heidegger cũng hướng về đường giải thoát, đưa con người ra khỏi sự quên lãng về Chân tính (das Vergessen der Wahrheit des Seins ) nhưng chưa được tiêu cực lắm và toàn triệt như Thiền tông.
Ý nghĩa “tiêu cực” vẫn giấu kín tất cả chân trời thênh thang. Chừng nào con người sống nổi với chân nghĩa của “tiêu cực” thì mới nói tới chuyện giải thoát. Không có gì làm cho con người nô lệ khốn khổ cho bằng những việc làm gọi là “tích cực”. “Tích” là “chứa”, còn “tiêu” là “mất, tan, giải, hoá ra nước”. Triết lý của nước phải bắt đầu từ ý nghĩa chân chính của “tiêu cực”.
Kiến tính là kinh nghiệm tối hậu của Thiền tông “Heidegger cũng đi dần đến con đường kiến tính nếu chúng ta có thể tạm dịch “Sein” là “Tính” (theo nghĩa chữ “Tính” trong “Phật tính”, “Như Lai tạng tính”, “Chân tính”, v.v…)
Chữ “Sein” của Heidegger có thể khiến ta so sánh với chữ Taihata của Phật giáo. Còn chữ Nichts của Heidegger có thể khiến ta so sánh với chữ Sunyata của Trung quán luận (Madhyamika) của Long thọ. Theo Heidegger, Nichts (Hư không) vượt lên trên sự phủ nhận (negation) thông thường; chữ Sunyata của Long thọ (Nagajuna) cũng vượt lên trên mọi sự phủ nhận thông thường vượt ra ngoài bốn phạm trù tri thức (chatuskoti-vinirmukta) nói tóm tắt là Sunyata của chính Sunyata và nói cho rốt ráo thì Sunyata cũng chính là Tathata ; điểm này nhắc ta nhớ đến Heidegger đã kết luận về chữ Nitchs bằng cách trích câu văn của Hegel rằng Nichts và Sein cũng như nhau; và chính sau cùng, Heidegger cũng cho ta thấy Nichts tức là Sein [1] .
Nhưng Heidegger khác hẳn Hegel: Hegel dùng “tiêu” để hiển rạng “tích”, còn Heidegger dùng “tích” để phá “tích” và để cho “tiêu” được là “tiêu”. Tất cả cuộc đời của Heidegger là để cho hư vô được là hư vô.
Heidegger gần Thiền tông nhất là khi Heidegger cố vượt lên trên chủ nghĩa duy thực (réalisme) và duy tâm (idéalisme) hay nói một cách khác, theo từ ngữ Thiền tông, Heidegger hướng về con đường “Bất Nhị”, tức là pháp không hai.
Thực ra con đường “Bất Nhị” không thể đơn sơ như vậy. Nhảy vào “Bất Nhị”, Heidegger chỉ giẫm chân lấy trớn mà vẫn chưa nhảy được, mặc dù ông thừa biết rằng mình cần phải nhảy. “Đốn Ngộ” và “Bất Nhị” đều đồng nghĩa. Con đường của Heidegger gần với “tiệm” hơn là “đốn” (nói cho cùng thì "đốn" và "tiệm" cũng là một. Nhưng nói như thế cũng quá dễ. Điều duy nhất: NHẢY!
Điều này chúng ta thấy rõ nhất khi Heidegger phân tích Da-Sein hay In-der-Welt-Sein hay Sein-zum-Tode chúng ta thấy Heidegger đã quan niệm về Welt (monde) khác hẳn những triết gia đi trước [2] nghĩa là Heidegger không phân chia ra làm một thực thể biệt lập; Heidegger để cho Welt và Tode dính liền chặt với Sein: In-der-Welt-Sein không phải là Sein ở trong Welt (In-der-Welt-Sein) như theo nghĩa trong một vị trí không gian (như cái tách ở trong cái hộp) như thế còn là nằm trong bình diện ontique. Dasein không thể là Dasein nếu không là In-der-Welt-Sein; vì thế chúng ta thấy từ ngữ In-der-Welt-Sein và Sein-zum-Tode đi trên con đường “bất nhị” của Thiền tông. Ngoài ra những quan niệm của Heidegger về tự do và chân lý cũng đáng đem ra so sánh với Thiền tông [3].
Ở trên, chỉ xin vạch ra ba điểm đáng so sánh, nhưng thực ra muốn bàn cho thấu đáo về Heidegger và Thiền tông, dù có viết một luận án ngàn trang; sợ cũng không nói đủ.
Những lời đơn sơ trên không ngoài mục đích nêu lên vài khía cạnh đại khái, để từ đó có thể mở ra những sự thảo luận cần thiết sau này.
2. Vừa viết xong nhan đề “Nghĩa về ý nghĩa đạo Phật Thiền tông qua vài suy luận triết học Heidegger” tôi sực ý thức rằng: tôi đã viết một nhan đề trái nghịch lại hẳn với tinh thần đạo Zen (Thiền). Người nào từng thể nhập Thiền đạo đều thấy rõ ràng tôi đã sai lầm ngay từ nhan đề… Vì sao?
Thoạt tiên, chúng ta để ý đến động từ “nghĩ”. Chúng ta thường nói một cách rất bình tĩnh: “Tôi nghĩ rằng… tôi nghĩ về… thánh nhân kia nghĩ rằng… triết nhân kia nghĩ… đại nhân kia nghĩ… Sartre nghĩ…”. Động từ “nghĩ” là một động từ thông thường hằng ngày mọi người đều dùng một cách ung dung, tự tại và bình thản. Ta nào ngờ động từ “nghĩ” là một động từ rất nguy hiểm và rất tai hại.
Tất cả mọi động từ đều nguy hiểm và rất tai hại. “Nhảy” mà không động mới là nhảy.
Chừng nào động từ “nghĩ” không còn là một động từ phổ thông nữa thì chừng ấy những con chim mới được tha hồ tung cánh bay ngất trời xanh và chừng ấy những bãi cỏ mới tha hồ xanh mướt tươi non dưới gót chân không mang giầy của chúng ta. Mỗi khi anh nói “tôi nghĩ” thì lập tức mấy con chim bị nhốt lồng, cỏ bị khô héo, cả dòng đời cũng đứng lại, cả vũ trụ thế giới câm lặng tàn nhẫn: sương mù tinh mơ tan biến mất, hương nồng trở thành hôi thúi, tất cả tạo vật đều chết lạnh, chết khô, chết cứng. Vừa mở miệng nói: “tôi nghĩ” thì lập tức một lưỡi dao bén nhọn đã làm đâm thấu vào trái tim cuộc đời. Nói đến nghĩ là nói đến giết: tôi giết cuộc đời tôi, tôi giết cuộc đời kẻ khác, tôi giết hơi thở nhịp nhàng của vũ trụ. Người ta gọi “người thích nghĩ” là “tư tưởng gia” hoặc “triết gia”. Hãy đem xử tử tất cả mọi tư tưởng gia và triết gia, kẻ sát nhân nặng tội nhất của loài người không phải là Eichmann hay Hitler; kẻ sát nhân dễ sợ nhất của loài người là Socrate, là Hegel, là Kant, là Jean-Paul Sartre, là tất cả những người mang tên tư tưởng gia, triết gia, lý thuyết gia, phê bình gia, bình luận gia, văn gia…
“Không nghĩ” thì cũng nguy hiểm tai hại như “nghĩ”. “Phi kiến thức, phi học thức, phi tri thức…” thì cũng nguy hiểm tai hại như kiến thức, học thức, tri thức. Chỉ có điều quan trọng: làm gì thì cứ làm, cứ làm giống như cánh bay của ó rừng, bay vút lên và đáp xuống; không để lại dấu vết gì còn lại sau cánh bay.
Ôi, trí thức, kiến thức, triết thức, học thức, tri thức, văn thức. Tôi nguyền rủa Thượng đế (nếu có!) nguyền rủa vì đã ban cho tôi một trí óc. Tôi muốn trở về sống với đồng bào Thượng. Tôi thích sống giữa những con thú vật lù đù. Tôi không thích ngồi đây nghĩ vớ vẩn về Zen, về Heidegger. Tôi sinh ra đời không phải để nghĩ. Tôi sinh ra đời để mà rong chơi, để mà không làm việc gì hết, để mà ngó nhìn bãi cỏ xanh ở Đà lạt hay nhìn những con kiến rượt nhau hay làm bạn với những người điên khùng hoặc lang thang suốt đêm trên những con đường phố sương mù hoặc ngồi mơ màng dưới gốc cây thông bên hồ Đà Lạt hoặc ngủ li bì suốt ngày để thức suốt đêm lim dim lắng nghe những tiếng hát vi vu ở giữa Sài Gòn.
Không thể nào nghĩ về đạo Zen. Thay vì nghĩ về Zen, anh cứ đi phất phơ ra ngoài bến tận Sài Gòn vào lúc tối khuya và cứ ngồi suốt đêm như con sông đen đen; rồi lúc ấy nếu anh có chán đời thì cứ nhảy xuống đi, chứ đừng than thở lôi thôi, còn nếu không dám nhảy xuống thì ngồi đó mà cười ầm lên cho vang động cả đường phố, cho vang động cả dòng sông, cho vang động cả nỗi buồn mênh mông của tuổi trẻ chúng mình. Rồi về nhà, anh cứ xem hết những quyển sách triết học và chạy đi tìm những bức tranh của Chagall để đem treo về bàn thờ. Đừng nghĩ về Zen, Zen để sống, chứ không phải để nghĩ.
“Sống” đã là “nghĩ” rồi. Một người thực sự sống thì không bao giờ bận tâm đến đời sống.
Động từ “nghĩ” hoàn toàn phản nghịch lại linh hồn đạo Zen.
“Linh hồn” đã phản nghịch lại Zen rồi. Nhưng chính sự phản nghịch thì đã phản nghịch nữa rồi. Không chống đối, không có sự phản nghịch nào, đó là Zen! Song nếu có chống đối, có phản nghịch thì đừng biến sự chống đối, sự phản nghịch trở thành vấn đề ám ảnh. Không có bóng ma nào ám ảnh mình, đó là Zen! Zen có nghĩa là “không sợ ma” trong mọi ý nghĩa.
Một môn đệ hỏi thiền sư Triệu Châu về đạo lý Zen. Thiền sư trả lời: “Chú ăn điểm tâm chưa?”; môn đệ ấy đáp: “Vâng, bạch thầy, con đã dùng điểm tâm rồi”. Thiền sư lại nói: “Vậy thì chú hãy lau đĩa đi”. Thiền sư vừa nói xong thì lập tức môn đệ thể nhập vào giác ngộ; môn đệ ấy đã sai lầm vì muốn nghĩ về Zen: thiền sư bèn nhắc đến những việc tầm thường hằng ngày, “nghĩ” là một hành động nguy hiểm đến tính mạng đời sống mỗi người [4].
Sự nguy hiểm cũng cần thiết. Chỉ có một điều duy nhất đáng sợ, đó là đánh mất nỗi nguy hiểm trong đời sống. Cuộc đời càng lớn mạnh thì nỗi nguy hiểm càng hấp dẫn thêm lên.
Còn chữ “về” cũng thế: nói “về” là nói “về” một cái gì, một vật gì hay một người gì, nghĩa là ám chỉ có một người nghĩ và một vật bị nghĩ, tức là phân ra thành chủ thể và khách thể, tách biệt rời ra làm hai. Chủ thể đứng chống lại khách thể; người nghĩ đứng chống lại vật bị nghĩ; người biết đứng chống lại kẻ bị biết [5]. Chữ “về” cắt hai, chia đôi thực tại. Như thế hoàn toàn phản nghịch lại Zen.
Nói đến danh từ “ý nghĩa” lập tức người ta nghĩ đến cái đối nghịch với nó là “vô nghĩa” bởi vì nếu “ý nghĩa” không có “vô ý nghĩa” đối lại thì “ý nghĩa” không thể có ý nghĩa được.
“A” không thể là “A” được, nếu nó không đứng đối lại với cái không phải “A” nghĩa là cần phải có “không A” để làm ra “A”.
“A” có nghĩa là “không A” ở trong “A”. Khi “A” muốn là “A” thì nó ra ngoài “A” nghĩa là “không A”. Nếu “A” không chứa đựng bên trong cái không phải là nó thì “không A” không thể nào ra ngoài “A” để làm “A” ra là “A” [6].
Thực ra “lý luận” này cũng kẹt vào “nguyên lý đồng nhất” (principe d’ identité). D. T. Suzuki vẫn còn lý luận ấu trĩ, tô son phấn rẻ tiền vào “bản lai diện mục” của Thiền tông. Nietzsche có thể không biết gì về Thiền tông và Nietzsche lại xứng đáng là một thiền sư hơn bất cứ thiền sư nào khác (Nietzsche có thể đứng ngang hàng với Bồ-Đề-Đạt-Ma và Lâm-Tế.)
“Ý nghĩa” không thể là “ý nghĩa” được nếu “ý nghĩa” không đứng chống đối lại với cái gì không phải là “ý nghĩa”; cần phải có “vô ý nghĩa” để làm ra “ý nghĩa”; “ý nghĩa” có nghĩa là “vô ý nghĩa” ở trong ý nghĩa. Khi “ý nghĩa” muốn có nghĩa thì nó đã ra ngoài ý nghĩa, nghĩa là “vô ý nghĩa”. Nếu “ý nghĩa” không chứa đựng bên trong cái không phải là nó thì “không ý nghĩa” không thể nào ra ngoài “ý nghĩa” để làm ra “ý nghĩa” trở thành có ý nghĩa.
“Ý nghĩa” có ý nghĩa được là nhờ sự trái ngược đối nghịch. Tính chất đối nghịch là một tính chất hoàn toàn trái phản lại tinh thần đạo Zen (hay tinh thần Phật giáo nói chung).
“Nghĩ về ý nghĩa đạo Phật Thiền qua vài suy luận của triết học Heidegger…” Viết nhan đề như vậy, tôi muốn nói gì? Như tôi đã nói trên, “nghĩ về ý nghĩa của đạo Thiền…” đã là một từ ngữ phản lại tinh thần Zen, thế mà tôi lại không nghĩ thẳng mà lại còn nghĩ qua, như thế còn sai phản lại tinh thần Zen hơn nữa! Tôi muốn nghĩ về Zen mà thay gì nghĩ thẳng về Zen, tôi lại suy luận theo điệu Heidegger. Heidegger không có viết gì về Zen, nhưng lúc đó tôi nghĩ về Zen, tôi đã nhớ đến Heidegger và tôi mượn vài suy luận triết lý Heidegger để soi rọi thêm vài ý nghĩ của tôi về Zen nghĩa là tôi đã “nghĩ qua…”, tức là đã có sự trung gian.
“Trung gian” lại chính là ý niệm quan trọng nhất trong hệ thống của Hegel. Ít nhất cũng có người đã viết một luận án Tiến sĩ gần 400 trang về ý niệm “trung gian trong triết học Hegel” (De la Médiation dans la philosophie de Hegel của Henri Niel, Aubier, Paris, 1945)
Mà bất cứ sự trung gian nào cũng hoàn toàn phản nghịch lại tinh thần Zen. Đối với Zen, tuyệt đối không có trung gian nào hết [7]. Zen là kinh nghiệm riêng lẻ của từng người một; mỗi người cứ tự mình đến thẳng trực tiếp với Zen; mỗi người hoàn toàn cô đơn tuyệt đối trên đường đi của mình, không bạn, không thầy, không gia đình, không quá khứ, không truyền thống, không hành lý, không trung gian gì hết. Cứ đi thẳng và mặt đối mặt với Zen, đừng đi qua bất cứ một trung gian nào. Dù trung gian đó là đức Phật!
Tôi đã trót viết nhan đề sai phản lại tinh thần Zen; vậy có thể bỏ và thay thế lại một nhan đề khác? Không thể được, tôi đã vô ý viết một nhan đề như trên mà nếu bây giờ tôi xoá bỏ, sửa lại thì hành động này cũng phản lại tinh thần Zen! Vì sao? Vì tôi đã nghĩ, tôi đã cố ý không tự nhiên.
Cố ý và không tự nhiên là thái độ hoàn toàn phản lại tinh túy Zen.
Nếu đã “cố ý” thì cứ “cố ý”! Hơi đâu mà lý sự quanh quẩn, hơi đâu mà lo sợ. Tai nạn lớn nhất của con người là “cái vòng lẩn quẩn” (le cercle vicieux); ai cũng sợ kẹt vào “vòng lẩn quẩn”! Cứ nhảy vào vòng lẩn quẩn, cứ để cho kẹt vào vòng lẩn quẩn: Giải thoát là ở sự cuốn xoáy vào trong vòng lẩn quẩn này!
3. Đạo Phật Zen là gì?
Một môn đệ hỏi thiền sư một câu hỏi quan trọng như trên thì thiền sư ấy liền bước xuống ghế rồi tát tai môn đệ (cf, D. T. Suzuki, “Pracrical Methods of Zen Instruction” trong Zen Buddhism, tr. 132).
Nếu tôi là môn đệ ấy thì tôi vừa hỏi vừa tát tai trước! Phải tát tai thiền sư trước khi hỏi ông ta!
CON ĐƯỜNG GIẢI THOÁT LÀ CON ĐƯỜNG NÀO?
Một thiền sư hỏi một con chó: “Mi có muốn biết con đường đi đến giác ngộ hay không?” rồi thiền sư đưa chân đá con chó; chó sủa ầm lên (cf, D. T. Suzuki, l’ Essence du Bouddhisme, tr. 99)
Tại sao thiền sư không sủa với chó mà lại hỏi nó? Thực ra tôi biết rồi: hỏi có nghĩa là sủa! Một người hỏi một câu hỏi về đạo lý thì giống như một con chó sủa đêm.
TINH TÚY ZEN LÀ GÌ?
Một môn đệ hỏi thầy như thế và thầy trả lời: “Cứ hỏi cột trụ nầy”. Một môn đệ sửng sốt: “Bạch thầy, không hiểu thầy muốn nói gì…” Thầy trả lời: “Sự ngu dốt của thầy còn hơn sự ngu dốt của con” (cf, Pierre Pégon, “Questions et Résponses dans le Bouddhisme Zen” trong Présence du Bouddhisme, tr. 735).
Thiền sư Nietzsene: “Chúng tôi là những kẻ biết mà lại không biết về chính bản tính của chúng tôi”. (Wir sind uns unbekannt, wir Erkennenden, wir seibst uns seibst). Vì lý do rất hay ho này: “Chúng tôi không bao giờ tìm kiếm chính chúng tôi thì làm thế nào chúng tôi có thể mong gặp thấy chính chúng tôi”. (Wir haben nie nach uns gesuchi-wie sollte es geschehn, das wir eines Tages faenden?).
Có tìm thì mới thấy. Giác ngộ có nghĩa là không tìm không thấy.
ĐƯỜNG LỐI ĐI VÀO CHÂN LÝ LÀ ĐƯỜNG LỐI NÀO?
Một môn đệ hỏi thầy như thế và thầy trả lời: “Con có nghe tiếng suối reo hay không?”. Môn đệ trả lời: “Vâng, con có nghe”. Thầy đáp lại: “Đó là đường lối đi vào chân lý”.
Ý NGHĨA ĐẠO ZEN LÀ GÌ?
Một thiền sư thuyết giảng như sau:
Khi người ta hỏi thầy về ý nghĩa đạo Zen. Thầy sẽ trả lời rằng Zen giống như nghệ thuật ăn trộm. Một đứa con trai của một kẻ ăn trộm thấy rằng cha đã già yếu, hắn mới tự nhủ: “Nếu cha mình quá già yếu, và không thể làm nghề trộm nữa thì ai sẽ lo kiếm tiền để nuôi gia đình? Chỉ còn mình thôi. Vậy mình phải học nghề cha”. Hắn mới tỏ bày cùng cha và cha hắn đồng ý. Một đêm, cha dẫn con lẻn vào một ngôi nhà giàu, đào ngõ vào nhà, mở một thùng đồ to lớn và bảo con vào thì nắp thùng liền đậy lại và khoá lại. Lúc ấy, người cha đã đi ra ngoài sân và cố ý làm ầm lên, khiến cả gia đình nhà ấy đều thức dậy và người cha lẻn trốn đi mất. Những người ở gia đình lao xao đốt đèn tìm kiếm kẻ trộm nhưng chẳng gặp gì hết. Còn đứa con trai kia, lúc bị khoá nhốt trong thùng, không thể nào trốn thoát được, hắn nguyền rủa thù ghét người cha tàn nhẫn. Một lúc sau, bỗng nhiên hắn vụt sáng ý lên; hắn làm sột soạt như tiếng chuột gặm đồ. Người đầy tớ bưng đèn đến mở thùng ra xem. Hắn tung dậy, thổi đèn tắt, xô người đầy tớ, rồi chạy trốn thoát. Người nhà đuổi theo. Nhìn thấy một giếng nước bên đường, hắn khiêng một hòn đá và quẳng xuống nước. Những người nhà lại đổ xô bên giếng và lúc ấy, hắn chạy thoát về nhà. Hắn cằn nhằn với cha và người cha trả lời: “Đừng bực bội con ạ, hãy kể cho cha nghe con trốn thoát bằng cách nào?...” Lúc đứa con kể xong đầu đuôi, người cha liền nói: “Được rồi đấy, thế là con đã học được nghệ thuật ăn trộm!”.
PHẬT LÀ GÌ?
Một môn đệ hỏi thầy một câu hỏi nghiêm trọng như trên. Thầy trả lời: “Con mèo trèo cây cột”. Môn đệ lại hỏi: “Bạch thầy. Phật là gì?”. Thầy trả lời: “Con cứ hỏi cây cột” (cf, Truyền đăng lục, Fasc. XIV)
BÍ MẬT TỐI THƯỢNG CỦA ZEN LÀ GÌ?
Khi một nhà học giả đạo Khổng đến thăm một thiền sư, nhà học giả ấy hỏi: “Bí mật tối thượng của Zen là gì?”, thiền sư trả lời: “Zen chẳng có bí mật gì để giấu ngài”. Nhà học giả lúng túng: “Bạch thầy, tôi không hiểu gì hết”. Sau đó, hai người bước đi dọc theo đường núi. Lúc bấy giờ cây nguyệt quế đang trổ hoa thơm ngát. Thiền sư liền hỏi: “Ngài có ngửi được mùi thơm của cây đơm hoa?”. Nhà học giả trả lời: “Vâng, tôi đã ngửi được”. Thiền sư đáp lại: “Đấy, đấy, tôi chẳng có gì bí mật để giấu ngài”.
TINH TÚY TỐI THƯỢNG CỦA ZEN LÀ GÌ?
Một lần kia, thiền sư đứng lên giảng đường để thuyết pháp và nói: “Tinh túy tối thượng của đạo Zen là gì?” vừa đặt lên câu hỏi thì dang hai tay ra và chẳng nói gì cả, rồi thiền sư bước xuống giảng đường. Như thế là: bài thuyết pháp đã xong!
LÀM THẾ NÀO ĐỂ ĐẠT ĐẾN PHẬT TÍNH?
Một thiền sư dạy môn đệ như vầy: “Không cần phải cố gắng chịu khó nhọc nhằn mới đạt đến Phật tính. Các con cứ tiếp tục làm những việc thông thường khiêm tốn như đi tiêu, đi tiểu, mặc quần áo, ăn cơm và nằm khi mệt mỏi. Người phúc hậu giản dị sẽ cười các con, những kẻ thánh hiền sẽ hiểu các con.( Fong Yeou Lan, Précis d’Histoire de la Philosophie chinoise, tr.268)
PHẢI KÍNH TRỌNG ĐỨC PHẬT NHƯ THẾ NÀO?
Một thiền sư bước vào một ngôi chùa và phun nước miếng vào tượng Phật và lúc người ta trách vấn thầy, thầy trả lời: “Xin vui lòng chỉ chỗ cho tôi để tôi khạc nhổ, xin chỉ chỗ nào không có Phật đấy” (cf. HG.Creel, Chinese Thought from Confucius to Mao-Tse-Tung, tr. 164).
ĐỨC PHẬT LÀ AI?
Một thiền sư nói như sau: “Kẻ thánh hiền không đi tìm Phật. Phật là kẻ sát nhân vĩ đại đã quyến rũ rất nhiều người xuống hố của quỉ đĩ”. “Chính tôi cũng chẳng biết gì về Zen. Tôi không phải là thầy. Tôi chẳng biết gì hết. Tôi chỉ là một thằng già ăn mày, ăn xin và mỗi ngày đi ỉa. Tôi phải làm gì bây giờ?... Chẳng có gì để làm cả”. (cf. Hu Shih, “Development of Zen Buddhism” in Chinese Social and Political Science Review XV, Bắc Kinh, 1031-32, tr. 502)
PHẢI ĐỐI VỚI ĐỨC PHẬT NHƯ THẾ NÀO?
Với tinh thần phá chấp toàn diện, một thiền sư trả lời: “Hãy giết Phật đi, hãy giết Phật đi” (cf. Introduction, Sermon sur le Bouddhisme Zen trong Presence de Bouddhisme, France-Asie, tr. 338).
CÓ NÊN SÁT SANH KHÔNG?
Với tinh thần phá chấp triệt để, đôi khi những thiền sư đốt tượng Phật, giết mèo, bắt tôm, bắt cá (cf. Ed Conze, Le Bouddhisme dans son essence et son dévelopement, tr. 201).
4. Những nhà văn nổi tiếng nhất hiện nay ở Mỹ là J. D. Salinger và nhóm “Beat Generation” gồm có Jack Kerouac, Lawrence Ferlinghetti, Allen Ginsberg, Gregory Corso v. v.)
Nhóm “Beat Generation” đều là môn đệ của đạo Zen, và J.D. Salinger cũng là môn đệ của đạo Phật Zen, người ta nói rằng J.D. Salinger “hăng hái say mê nghiên cứu Zen” (cf. Time, sept. 15, 1961).
Có người gặp Heidegger đang đọc sách về Zen (do D.T. Suzuki viết) và ông tổ của triết lý hiện sinh hăng hái nói: “Đây là những gì tôi đã cố gắng nói trong tất cả những tác phẩm của tôi” (cf. William Barrett, “Zen for the West” trong Zen Buddhism, Doubleday Anchor Books, tr. XI).
C. G. Jung và Karen Horney cũng say mê nghiên cứu Zen. Trước khi chết, Karen Horney đã viếng thăm Nhật Bản để nghiên cứu trực tiếp sinh hoạt Zen. C. G. Jung đặc biệt lưu ý đến những viễn tượng tâm lý của Zen và kêu gọi Tây - phương phải quan tâm đến Zen. (cf. C. G. Jung, “le Zen et l’ Occident” trong L’ Essence du Bouddhisme,tr. 17 – 49).
Đạo Phật Zen đã hấp dẫn lôi cuốn những người lãnh đạo những phong trào trí thức tiền phong của Âu Mỹ như Salinger, Heidegger và C. G. Jung. Chưa bao giờ Đông phương quyến rũ Tây phương lạ lùng như vậy. Sự kiện này khiến cho ta thắc mắc tự hỏi: Zen đã chứa đựng ý nghĩa gì mà có thể giáo hoá thoả mãn được những đòi hỏi mãnh liệt của bậc thức giả tiến bộ nhất ở Tây phương?
Ý nghĩa của đạo Phật Zen là gì?
Tôi có thể trả lời rất dễ dàng, rất nhanh chóng, không hề lúng túng: đạo Phật Zen chẳng có ý nghĩa gì cả. Tại sao? Bởi vì còn ý nghĩa là còn nằm trong vòng nhị nguyên đối đãi: “ý nghĩa” đối nghịch với “vô ý nghĩa”, như thế hãy còn bị ràng buộc trong danh từ, trong tiến trình biểu tượn
g (processus symbolique), do đó:
Đạo Phật Zen chống thuyết nhân bản, bởi vì thuyết nhân bản vẫn chỉ là sắc thái của ý thức phân biệt;
Đạo Phật Zen chống luận lý học, bởi vì luận lý học còn lệ thuộc vào lãnh vực ngôn ngữ;
Đạo Phật Zen chống lại những giá trị, bởi những giá trị chỉ là những đánh giá thực tại;
Đạo Phật Zen nhận rằng con người chỉ có thể giải thoát nơi cuộc đời này, nơi một trần gian duy nhất (là trần gian này); nơi theo danh từ triết học của Heidegger thì ta gọi thần thể tính (Weltlichkeit) của nhân tính (Menschsein) phủ nhận thế giới “bên kia” (Jenseits) và chỉ nhận “bên này” (Diesseits);
Đạo Phật Zen không tôn thờ đức Phật như là giá trị tối thượng, bởi vì tôn thờ đức Phật là một giá trị thì đức Phật sẽ trở thành đối tượng cho sự đánh giá của con người (nói như Heidegger là: “Gegenstand für die Schätzung des Menschen”);
Đạo Phật Zen chống lại những gì mà nhân loại tôn sùng thờ phụng như là thiêng liêng quí báu.
Tại sao tôi có những nhận xét trên? Đọc lại những lời đối đáp trên giữa thầy trò Zen thì tất nhiên ta phải đi đến những nhận thức trên.
Tôi thấy những nhận thức trên chẳng những nói về đạo Phật Zen mà còn có thể dùng để nói về triết học thể tính của Heidegger, triết lý Heidegger có nhiều điểm khác đạo Phật Zen; nhưng mỗi khi ta đọc Heidegger, ta sẽ nhớ đến đạo Phật Zen. Ít nhứt là vài ba quan kiến nào đó, như quan kiến về Ngôn Ngữ, về Bản Tính, về Chân Lý, vân vân.
Về những nét chung của đạo Phật Zen, tôi đã cố gắng đưa ra những nhận xét sơ lược trên và đi từ những nhận xét ấy, tôi sẽ tha thiết “bênh vực” đạo Phật Zen. (Thực ra Zen đâu cần “bênh vực”). Tôi phải nói trước rằng tôi không phải là một kẻ giỏi lý luận và không phải là một kẻ đem lý trí của mình để phân tích một tôn giáo cao siêu. Khi viết về đạo Phật Zen, tôi chỉ muốn ghi lại cảm giác rất chủ quan của riêng tôi, của một kẻ vui mừng run run tìm được lương thực tinh khiết cho tâm hồn bải hoải của mình. Đạo Phật Zen đã hé mở cho tôi thấy những chân trời bát ngát mênh mông; mỗi lần đi vào tinh thần Zen là mỗi lần tinh thần tôi được đưa lên cao, mọi tuyệt vọng tan biến, thần kinh hết căng thẳng, hơi thở nhịp nhàng khoan khoái, tôi cảm thấy sung sướng hạnh phúc lắm và những nỗi cay đắng nhọc nhằn của đời sống dường như vơi hẳn đi.
5. Thời đại này đang hấp hối, con người trở nên bàng hoàng điêu đứng, bị chà đạp thê thảm vô cùng. Tất cả những tư tưởng gia đều hốt hoảng la lối vang động trời đất: “Hãy trả linh hồn lại cho tôi” (Miguel de Unamuno). “Hãy kính trọng con người” (Saint - Exupéry): một người ngang tàng như Sartre cũng phải vội vã tuyên bố diễn thuyết rằng triết lý hiện sinh (của Sartre) là một chủ nghĩa nhân bản! (Tất nhiên Sartre hiểu nghĩa “nhân bản” hơi khác ý nghĩa nhân bản cổ điển. (cf. L’Existentialisme est un humanisme, tr. 90-94). Mọi người ai cũng đều bênh vực “nhân bản”; nhưng đạo Phật Thiền (Zen) không bênh vực “nhân bản”. Heidegger cũng thế. Heidegger cũng chống lại thuyết “nhân bản”. Người ta đã công kích thái độ Heidegger và ông đã đưa ra vài suy luận để bệnh vực thái độ của ông (xin xem Heidegger, Lettre à Jean Beaufret, tạp chí Fontaine, No. 63).
Trong vài trang sau đây, nói về Zen, tôi xin suy luận theo tinh thần triết lý Heidegger xin đọc M. Heidegger, Uber den Humanismus, Victorio Klostermann, Frankurt am Main, 1951) [8].
Khi tôi nói: “Đạo Phật Zen chống lại thuyết nhân bản” chắc chắn người ta nghĩ rằng tôi muốn nói: “Đạo Phật Zen bênh vực phi nhân tính (L’ In-Humain) và ca tụng sự dã man tàn bạo (còn gì “hợp lý” hơn nữa, vì phủ nhận nhân bản tức là chấp nhận phi nhân bản… Đó là sự hợp lý thông thường của kẻ hạ nhân)…
Khi tôi nói: “Đạo Phật Zen chống luận lý học” tất nhiên người ta nghĩ rằng tôi muốn nói; đạo Phật Zen trục xuất mọi xác đáng tín mật của tư tưởng để thay thế bằng những bản năng và những cảm xúc hoặc để bênh vực chủ nghĩa phi lý trí (L’ irrationalisme), nghĩ như vậy thì “hợp lý” vô cùng vì ai cũng hiểu, chống luận lý học tức là bênh vực phi luận lý học (L’ a-logique). (Đó là lý luận của kẻ hạ nhân).
Khi tôi nói: “Đạo Phật Zen chống lại những giá trị” tất nhiên mọi người đều nghĩ rằng tôi muốn ám chỉ: chống lại những giá trị là nhận rằng tất cả mọi sự đều vô giá trị (Đó là lý luận của kẻ hạ nhân!).
Khi tôi nói: “Đạo Phật Zen cho rằng con người chỉ có thể giải thoát nơi một trần gian này”; tất nhiên người ta nghĩ rằng tôi muốn nói: đạo Phật Zen đã hạ thấp con người xuống hàng trần tục và chối bỏ mọi thể tính siêu việt (Transcendance); nghĩ như vậy thì thực là “hợp lý”! (Đó là sự hợp lý của kẻ hạ nhân!)
Khi tôi nói: “Đạo Phật Zen không tôn thờ đức Phật như là giá trị tối thượng”; tất nhiên người ta nghĩ rằng tôi muốn nói: đạo Phật Zen không thể gọi là đạo Phật; vì đạo Phật Zen phản lại đức Phật! (đó là lý luận của kẻ hạ nhân!)
Khi tôi nói: “Đạo Phật Zen chống lại tất cả những gì nhân loại tôn sùng thờ phụng như là thiêng liêng quí báu”, tất nhiên người ta nghĩ rằng tôi muốn nói: chống lại thiêng liêng quí báu tức là tôn thờ “chủ nghĩa hư vô” tức là phá hoại, tức là vô trách nhiệm; (đó là lý luận của kẻ hạ nhân!)
Nếu tôi chống lại thiên đàng, tất nhiên người ta nghĩ rằng tôi bênh vực hoả ngục; nếu tôi chửi rủa trách nhiệm, tất nhiên người ta nghĩ rằng tôi là một kẻ vô trách nhiệm; nếu tôi chửi rủa Tổ quốc, Quê hương, tất nhiên người ta nghĩ rằng tôi là một kẻ phản quốc; nếu tôi chống lại Luân lý, Đạo đức, tất nhiên người ta nghĩ rằng tôi là một kẻ vô luân; nếu tôi chống lại Gia đình, tất nhiên người ta nghĩ rằng tôi là kẻ phá hoại; nếu tôi chống lại Văn minh, Văn hóa, Văn học, tất nhiên người ta nghĩ rằng tôi là một kẻ lạc hậu, hủ lậu. Thực là hợp lý! Thật là hợp lý! (Cái hợp lý của kẻ hạ nhân!)
Đây là những thần tượng: Thiên đàng, Niết bàn, Trách nhiệm, Tổ quốc, Luân lý, Đạo đức, Gia đình, Xã hội, Văn minh, Văn hoá, Văn học, Tiến bộ, Nhân bản, Luận lý học, Lý trí, Siêu việt thể, Thượng đế, Thiêng liêng, Giá trị, vân vân.
Tôi nghe người ta đồng thanh ca tụng những danh từ trên, rồi tôi lại nghe người ta đồng thanh mạt sát nguyền rủa tất cả những gì đối nghịch lại với những danh từ trên. Những danh từ nào đối nghịch với những danh từ trên thì được xem như xấu xa, dơ nhớp, bẩn thỉu, được xem như “phủ nhận” (“Négatif”) nghĩa là chẳng nghĩa lý gì cả (“null”, “nichtig”). Người ta chia ra hai thái độ: “phủ nhận” và “chấp nhận”; người ta khẳng định rằng “chấp nhận” là “tốt” và “phủ nhận” là “xấu”. Người ta định rằng không “chấp nhận” thì nghĩa là “phủ nhận”. Đối nghịch với cộng là trừ. Không phải positif thì là négatif. Nhờ luận lý học, người ta đã suy luận rất là hùng biện, nếu tôi mở miệng ra chống đối trách nhiệm, lập tức người ta mắng chửi tôi là “một thằng vô trách nhiệm”, và người ta bĩu môi khinh bỉ xa lánh tôi và xem tôi như một “sâu mọt của xã hội” hay “một kẻ phá hại”. Người ta đã định xong những phạm trù nào đó và người ta chấp nhận những phạm trù này như là “xác nhận” những gì đối nghịch lại những phạm trù này được xem như là “phủ nhận”. Người ta ca tụng thái độ “xác nhận” và nguyền rủa thái độ “phủ nhận”; tất cả những gì không nằm trong lãnh vực “xác nhận” thì liền bị người ta quăng ném vào hố sâu (đã được đào trước) và hố sâu này được gọi là hố “phủ nhận”; người ta đồng hoá hố “phủ nhận” với hư vô; người ta đưa đẩy tất cả đối nghịch vào trong chủ nghĩa hư vô mà người ta đã tự phát minh bằng luận lý học (Martin Heidegger: On s’est à tel point empli de “logique” qu’à la seule mention d’une opposition aux valeurs énumérées plus haut, l’ opposé est immédiatément et exclusivement pris pour l’envers, pour le contraire nul et sans valeur. Tout ce qui ne s’en tient pas aux domaines bien connus du positif est rejeté dans la fosse, creusée d’ avance, de la négation pure qu’on identifie, au Néant. On fait tout sombrer dans un nihilisme qu’on vient d’ inventer soi-même à l’aide de la logique) [9].
Sự “đối nghịch” chỉ là “phủ nhận” khi nào người ta đã định trước, đặt sẵn cái “xác nhận”. Tôi muốn hỏi: tại sao người ta không chịu tư tưởng vượt ra ngoài sự định trước, định sẵn? Tại sao người ta không chịu tư tưởng vượt ra ngoài hai thái độ “phủ nhận” và “chấp nhận”? cf. Heidegger: Le “contre” cependant, quand une pensée se dresse face au donné, ne conduit - il pas nécessairement à la négation et au négatif? cela n’arrive - mais alor d’une façon inévitable et définitive, c’est - à - dire sans nous laisser la moindre liberté de regarder sur autre chose - que si le donné a été immobilisé auparavant en tant que “positif” dans le cadre figé de cette opposition (au “negatif”), prise au sens absolu. Derrrière cette attitude se cache alors le refus de la pensée de s’avancer au-dela du donné prédonné. En se référant continuellement au logique, on se donne l’apparence de vouloir s’engager sur le chemin de la pensée, alor qu’on vient, précisément, d’abjurer tout pensée) [10]
Tôi nói rằng cuộc đời phi lý nhưng tôi không tự tử, bởi vì “phi lý” không phải là “phủ nhận”; “phi lý” bị xem như “phủ nhận” là khi nào người ta đã định trước và bất động hóa “hữu lý” như là “xác nhận”.
Người ta dùng luận lý học để phụng sự tư tưởng, nhưng thực sự, người ta đã từ bỏ phản bội tư tưởng.
Chống thuyết nhân bản không phải là để bênh vực tinh thần phi nhân và chống đối này mở ra những viễn tượng khác hẳn. Triết học Heidegger cũng thế. (Heidegger: l’opposition à “L’humanisme” ne mène nullement à une défense de l’ inhumanité, mais qu’ elle nous ouvre des perspectives bien différentes)
Đạo Phật Zen không đặt con người như “cứu cánh” hay “giá trị cao đẳng” (theo chủ nghĩa nhân bản cổ điển) và đạo Phật Zen cũng không cho rằng “con người tự chọn lựa” như chủ nghĩa nhân bản của Sartre. Và mặc dù Heidegger chống đối nhân bản nhưng việc chống đối này của Heidegger cũng mở ra những viễn tượng khác hẳn những viễn tượng của đạo Phật Zen (vì ai cũng biết rằng quan điểm căn bản của triết học Heidegger là quay về “Sein”) và đạo Phật Zen không phải là “chủ nghĩa nhân bản" mà cũng không phải là “chủ nghĩa phi nhân bản”, con người đạt đến Phật tính là con người phủ nhận con người, tức là chối từ nhân bản.
Chống luận lý học không có nghĩa là bênh vực phi lý mà là dẫn đến cái Lý mênh mông của Trời Đất. Triết học của Heidegger cũng thế (Être contre la logique ne signifie pas être pour l’illogique mais pour le logos et son essence).
Khi tôi nói: “Đạo Phật Zen nhận rằng con người chỉ có thể giải thoát tại một trần gian duy nhất là trần gian này”, tôi không muốn nói rằng Zen chối bỏ mọi “siêu việt thể”. Đối với Zen, hai thế giới (tâm linh và vật chất) chỉ là một, không có sự chia rẽ và làm hai miền khác biệt tách rời nhau: chỉ có một vũ trụ con người (so sánh Sartre: Il n’y a pas d’autre univers qu’un univers humain l’univers de la subjectivité humaine) (Câu này của Sartre gợi cho ta nhớ đến thuyết Duy thức của Phật giáo). Zen không ghét bỏ trần tục để mà tìm kiếm một thế giới tâm linh xa xôi. Đối với Zen, thế giới tâm linh ở ngay nơi thế giới ô trọc này, Zen không ước vọng đến tương lai mà chỉ thực hiện đường đi của mình ở hiện tại (đây cũng là điều mà Zen tách xa Heidegger; đối với Heidegger tương lai là quan trọng nhất, để mà con người làm cái Entschlossenheit). Thiên đàng từ trong người tôi chứ không ở nơi đâu cả. (Ta dễ nhớ đến nhà thơ thần bí William Blake; Blake không ghét bỏ trần gian tục giới; ông chỉ nhận thế giới tâm linh ở nơi chính trần gian này).
“Đạo Phật Zen không tôn thờ đức Phật như là giá trị tối thượng” như thế không có nghĩa là Zen đã phản nghịch lại Phật giáo. Trái lại, nhiều học giả đứng đắn ở thế giới thường nhận rằng Zen mới là tinh túy của Phật giáo, bởi vì Zen mới đạt tới trung tâm điểm của kinh nghiệm đức Phật Thích Ca; trung tâm điểm ấy là mỗi người tuyệt đối đi con đường riêng của mình; đức Phật Thích Ca đạt đến chân lý ấy bằng chính những kinh nghiệm bản thân của Ngài, nếu chúng ta trung thành với đức Phật thì chúng ta phải lìa xa Ngài; bởi vì không ai làm thầy ai cả; mỗi người phải làm thầy cho chính mình, chân lý là chân lý của riêng từng người. Hơn nữa, tôn thờ đức Phật như giá trị tối thượng là một hành động nguyền rủa đáng sợ nhất vì đã hạ thấp Phật tính. Vừa tư tưởng vừa đánh giá là xúc phạm nguyền rủa ngạo mạn nhất. (cf. Heidegger: Proclamer “Dieu” comme “valeur suprême”, c’ est donc dégrader l’essence de Dieu. Penser en évaluant constitue, ici partout le plus grand blasphème contre l’ être qui puisse s’ imaginer).
Đạo Phật Zen giải thoát con người ta khỏi mọi ràng buộc ở mọi phương diện và đưa con người đến tự do tuyệt đối, tôn sùng những gì thiêng liêng quí báu là tự ràng buộc mình vào vòng nô lệ; những thiền sư đều xem nhẹ truyền thống và chẳng bao giờ nô lệ những kinh điển: họ chẳng bao giờ trọng những kinh Phật như là những quyển sách thiêng liêng quí báu.
Tinh túy của đạo Phật Zen có thể thu gọn vào bốn câu sau đây:
Ở ngoài kinh điển xa lìa truyền thống
Không dựa vào những tiếng và những chữ
Nhìn vào bản chất và đạt đến Phật tính
Chỉ thẳng vào tâm thức con người.
Những câu trên là những nguyên tắc của đạo Phật Zen và cắt nghĩa sự khác nhau giữa Zen và những tông phái Phật giáo khác.
Chú thích:
Tôi thấy những nhận thức trên chẳng những nói về đạo Phật Zen mà còn có thể dùng để nói về triết học thể tính của Heidegger, triết lý Heidegger có nhiều điểm khác đạo Phật Zen; nhưng mỗi khi ta đọc Heidegger, ta sẽ nhớ đến đạo Phật Zen. Ít nhứt là vài ba quan kiến nào đó, như quan kiến về Ngôn Ngữ, về Bản Tính, về Chân Lý, vân vân.
Về những nét chung của đạo Phật Zen, tôi đã cố gắng đưa ra những nhận xét sơ lược trên và đi từ những nhận xét ấy, tôi sẽ tha thiết “bênh vực” đạo Phật Zen. (Thực ra Zen đâu cần “bênh vực”). Tôi phải nói trước rằng tôi không phải là một kẻ giỏi lý luận và không phải là một kẻ đem lý trí của mình để phân tích một tôn giáo cao siêu. Khi viết về đạo Phật Zen, tôi chỉ muốn ghi lại cảm giác rất chủ quan của riêng tôi, của một kẻ vui mừng run run tìm được lương thực tinh khiết cho tâm hồn bải hoải của mình. Đạo Phật Zen đã hé mở cho tôi thấy những chân trời bát ngát mênh mông; mỗi lần đi vào tinh thần Zen là mỗi lần tinh thần tôi được đưa lên cao, mọi tuyệt vọng tan biến, thần kinh hết căng thẳng, hơi thở nhịp nhàng khoan khoái, tôi cảm thấy sung sướng hạnh phúc lắm và những nỗi cay đắng nhọc nhằn của đời sống dường như vơi hẳn đi.
5. Thời đại này đang hấp hối, con người trở nên bàng hoàng điêu đứng, bị chà đạp thê thảm vô cùng. Tất cả những tư tưởng gia đều hốt hoảng la lối vang động trời đất: “Hãy trả linh hồn lại cho tôi” (Miguel de Unamuno). “Hãy kính trọng con người” (Saint - Exupéry): một người ngang tàng như Sartre cũng phải vội vã tuyên bố diễn thuyết rằng triết lý hiện sinh (của Sartre) là một chủ nghĩa nhân bản! (Tất nhiên Sartre hiểu nghĩa “nhân bản” hơi khác ý nghĩa nhân bản cổ điển. (cf. L’Existentialisme est un humanisme, tr. 90-94). Mọi người ai cũng đều bênh vực “nhân bản”; nhưng đạo Phật Thiền (Zen) không bênh vực “nhân bản”. Heidegger cũng thế. Heidegger cũng chống lại thuyết “nhân bản”. Người ta đã công kích thái độ Heidegger và ông đã đưa ra vài suy luận để bệnh vực thái độ của ông (xin xem Heidegger, Lettre à Jean Beaufret, tạp chí Fontaine, No. 63).
Trong vài trang sau đây, nói về Zen, tôi xin suy luận theo tinh thần triết lý Heidegger xin đọc M. Heidegger, Uber den Humanismus, Victorio Klostermann, Frankurt am Main, 1951) [8].
Khi tôi nói: “Đạo Phật Zen chống lại thuyết nhân bản” chắc chắn người ta nghĩ rằng tôi muốn nói: “Đạo Phật Zen bênh vực phi nhân tính (L’ In-Humain) và ca tụng sự dã man tàn bạo (còn gì “hợp lý” hơn nữa, vì phủ nhận nhân bản tức là chấp nhận phi nhân bản… Đó là sự hợp lý thông thường của kẻ hạ nhân)…
Khi tôi nói: “Đạo Phật Zen chống luận lý học” tất nhiên người ta nghĩ rằng tôi muốn nói; đạo Phật Zen trục xuất mọi xác đáng tín mật của tư tưởng để thay thế bằng những bản năng và những cảm xúc hoặc để bênh vực chủ nghĩa phi lý trí (L’ irrationalisme), nghĩ như vậy thì “hợp lý” vô cùng vì ai cũng hiểu, chống luận lý học tức là bênh vực phi luận lý học (L’ a-logique). (Đó là lý luận của kẻ hạ nhân).
Khi tôi nói: “Đạo Phật Zen chống lại những giá trị” tất nhiên mọi người đều nghĩ rằng tôi muốn ám chỉ: chống lại những giá trị là nhận rằng tất cả mọi sự đều vô giá trị (Đó là lý luận của kẻ hạ nhân!).
Khi tôi nói: “Đạo Phật Zen cho rằng con người chỉ có thể giải thoát nơi một trần gian này”; tất nhiên người ta nghĩ rằng tôi muốn nói: đạo Phật Zen đã hạ thấp con người xuống hàng trần tục và chối bỏ mọi thể tính siêu việt (Transcendance); nghĩ như vậy thì thực là “hợp lý”! (Đó là sự hợp lý của kẻ hạ nhân!)
Khi tôi nói: “Đạo Phật Zen không tôn thờ đức Phật như là giá trị tối thượng”; tất nhiên người ta nghĩ rằng tôi muốn nói: đạo Phật Zen không thể gọi là đạo Phật; vì đạo Phật Zen phản lại đức Phật! (đó là lý luận của kẻ hạ nhân!)
Khi tôi nói: “Đạo Phật Zen chống lại tất cả những gì nhân loại tôn sùng thờ phụng như là thiêng liêng quí báu”, tất nhiên người ta nghĩ rằng tôi muốn nói: chống lại thiêng liêng quí báu tức là tôn thờ “chủ nghĩa hư vô” tức là phá hoại, tức là vô trách nhiệm; (đó là lý luận của kẻ hạ nhân!)
Nếu tôi chống lại thiên đàng, tất nhiên người ta nghĩ rằng tôi bênh vực hoả ngục; nếu tôi chửi rủa trách nhiệm, tất nhiên người ta nghĩ rằng tôi là một kẻ vô trách nhiệm; nếu tôi chửi rủa Tổ quốc, Quê hương, tất nhiên người ta nghĩ rằng tôi là một kẻ phản quốc; nếu tôi chống lại Luân lý, Đạo đức, tất nhiên người ta nghĩ rằng tôi là một kẻ vô luân; nếu tôi chống lại Gia đình, tất nhiên người ta nghĩ rằng tôi là kẻ phá hoại; nếu tôi chống lại Văn minh, Văn hóa, Văn học, tất nhiên người ta nghĩ rằng tôi là một kẻ lạc hậu, hủ lậu. Thực là hợp lý! Thật là hợp lý! (Cái hợp lý của kẻ hạ nhân!)
Đây là những thần tượng: Thiên đàng, Niết bàn, Trách nhiệm, Tổ quốc, Luân lý, Đạo đức, Gia đình, Xã hội, Văn minh, Văn hoá, Văn học, Tiến bộ, Nhân bản, Luận lý học, Lý trí, Siêu việt thể, Thượng đế, Thiêng liêng, Giá trị, vân vân.
Tôi nghe người ta đồng thanh ca tụng những danh từ trên, rồi tôi lại nghe người ta đồng thanh mạt sát nguyền rủa tất cả những gì đối nghịch lại với những danh từ trên. Những danh từ nào đối nghịch với những danh từ trên thì được xem như xấu xa, dơ nhớp, bẩn thỉu, được xem như “phủ nhận” (“Négatif”) nghĩa là chẳng nghĩa lý gì cả (“null”, “nichtig”). Người ta chia ra hai thái độ: “phủ nhận” và “chấp nhận”; người ta khẳng định rằng “chấp nhận” là “tốt” và “phủ nhận” là “xấu”. Người ta định rằng không “chấp nhận” thì nghĩa là “phủ nhận”. Đối nghịch với cộng là trừ. Không phải positif thì là négatif. Nhờ luận lý học, người ta đã suy luận rất là hùng biện, nếu tôi mở miệng ra chống đối trách nhiệm, lập tức người ta mắng chửi tôi là “một thằng vô trách nhiệm”, và người ta bĩu môi khinh bỉ xa lánh tôi và xem tôi như một “sâu mọt của xã hội” hay “một kẻ phá hại”. Người ta đã định xong những phạm trù nào đó và người ta chấp nhận những phạm trù này như là “xác nhận” những gì đối nghịch lại những phạm trù này được xem như là “phủ nhận”. Người ta ca tụng thái độ “xác nhận” và nguyền rủa thái độ “phủ nhận”; tất cả những gì không nằm trong lãnh vực “xác nhận” thì liền bị người ta quăng ném vào hố sâu (đã được đào trước) và hố sâu này được gọi là hố “phủ nhận”; người ta đồng hoá hố “phủ nhận” với hư vô; người ta đưa đẩy tất cả đối nghịch vào trong chủ nghĩa hư vô mà người ta đã tự phát minh bằng luận lý học (Martin Heidegger: On s’est à tel point empli de “logique” qu’à la seule mention d’une opposition aux valeurs énumérées plus haut, l’ opposé est immédiatément et exclusivement pris pour l’envers, pour le contraire nul et sans valeur. Tout ce qui ne s’en tient pas aux domaines bien connus du positif est rejeté dans la fosse, creusée d’ avance, de la négation pure qu’on identifie, au Néant. On fait tout sombrer dans un nihilisme qu’on vient d’ inventer soi-même à l’aide de la logique) [9].
Sự “đối nghịch” chỉ là “phủ nhận” khi nào người ta đã định trước, đặt sẵn cái “xác nhận”. Tôi muốn hỏi: tại sao người ta không chịu tư tưởng vượt ra ngoài sự định trước, định sẵn? Tại sao người ta không chịu tư tưởng vượt ra ngoài hai thái độ “phủ nhận” và “chấp nhận”? cf. Heidegger: Le “contre” cependant, quand une pensée se dresse face au donné, ne conduit - il pas nécessairement à la négation et au négatif? cela n’arrive - mais alor d’une façon inévitable et définitive, c’est - à - dire sans nous laisser la moindre liberté de regarder sur autre chose - que si le donné a été immobilisé auparavant en tant que “positif” dans le cadre figé de cette opposition (au “negatif”), prise au sens absolu. Derrrière cette attitude se cache alors le refus de la pensée de s’avancer au-dela du donné prédonné. En se référant continuellement au logique, on se donne l’apparence de vouloir s’engager sur le chemin de la pensée, alor qu’on vient, précisément, d’abjurer tout pensée) [10]
Tôi nói rằng cuộc đời phi lý nhưng tôi không tự tử, bởi vì “phi lý” không phải là “phủ nhận”; “phi lý” bị xem như “phủ nhận” là khi nào người ta đã định trước và bất động hóa “hữu lý” như là “xác nhận”.
Người ta dùng luận lý học để phụng sự tư tưởng, nhưng thực sự, người ta đã từ bỏ phản bội tư tưởng.
Chống thuyết nhân bản không phải là để bênh vực tinh thần phi nhân và chống đối này mở ra những viễn tượng khác hẳn. Triết học Heidegger cũng thế. (Heidegger: l’opposition à “L’humanisme” ne mène nullement à une défense de l’ inhumanité, mais qu’ elle nous ouvre des perspectives bien différentes)
Đạo Phật Zen không đặt con người như “cứu cánh” hay “giá trị cao đẳng” (theo chủ nghĩa nhân bản cổ điển) và đạo Phật Zen cũng không cho rằng “con người tự chọn lựa” như chủ nghĩa nhân bản của Sartre. Và mặc dù Heidegger chống đối nhân bản nhưng việc chống đối này của Heidegger cũng mở ra những viễn tượng khác hẳn những viễn tượng của đạo Phật Zen (vì ai cũng biết rằng quan điểm căn bản của triết học Heidegger là quay về “Sein”) và đạo Phật Zen không phải là “chủ nghĩa nhân bản" mà cũng không phải là “chủ nghĩa phi nhân bản”, con người đạt đến Phật tính là con người phủ nhận con người, tức là chối từ nhân bản.
Chống luận lý học không có nghĩa là bênh vực phi lý mà là dẫn đến cái Lý mênh mông của Trời Đất. Triết học của Heidegger cũng thế (Être contre la logique ne signifie pas être pour l’illogique mais pour le logos et son essence).
Khi tôi nói: “Đạo Phật Zen nhận rằng con người chỉ có thể giải thoát tại một trần gian duy nhất là trần gian này”, tôi không muốn nói rằng Zen chối bỏ mọi “siêu việt thể”. Đối với Zen, hai thế giới (tâm linh và vật chất) chỉ là một, không có sự chia rẽ và làm hai miền khác biệt tách rời nhau: chỉ có một vũ trụ con người (so sánh Sartre: Il n’y a pas d’autre univers qu’un univers humain l’univers de la subjectivité humaine) (Câu này của Sartre gợi cho ta nhớ đến thuyết Duy thức của Phật giáo). Zen không ghét bỏ trần tục để mà tìm kiếm một thế giới tâm linh xa xôi. Đối với Zen, thế giới tâm linh ở ngay nơi thế giới ô trọc này, Zen không ước vọng đến tương lai mà chỉ thực hiện đường đi của mình ở hiện tại (đây cũng là điều mà Zen tách xa Heidegger; đối với Heidegger tương lai là quan trọng nhất, để mà con người làm cái Entschlossenheit). Thiên đàng từ trong người tôi chứ không ở nơi đâu cả. (Ta dễ nhớ đến nhà thơ thần bí William Blake; Blake không ghét bỏ trần gian tục giới; ông chỉ nhận thế giới tâm linh ở nơi chính trần gian này).
“Đạo Phật Zen không tôn thờ đức Phật như là giá trị tối thượng” như thế không có nghĩa là Zen đã phản nghịch lại Phật giáo. Trái lại, nhiều học giả đứng đắn ở thế giới thường nhận rằng Zen mới là tinh túy của Phật giáo, bởi vì Zen mới đạt tới trung tâm điểm của kinh nghiệm đức Phật Thích Ca; trung tâm điểm ấy là mỗi người tuyệt đối đi con đường riêng của mình; đức Phật Thích Ca đạt đến chân lý ấy bằng chính những kinh nghiệm bản thân của Ngài, nếu chúng ta trung thành với đức Phật thì chúng ta phải lìa xa Ngài; bởi vì không ai làm thầy ai cả; mỗi người phải làm thầy cho chính mình, chân lý là chân lý của riêng từng người. Hơn nữa, tôn thờ đức Phật như giá trị tối thượng là một hành động nguyền rủa đáng sợ nhất vì đã hạ thấp Phật tính. Vừa tư tưởng vừa đánh giá là xúc phạm nguyền rủa ngạo mạn nhất. (cf. Heidegger: Proclamer “Dieu” comme “valeur suprême”, c’ est donc dégrader l’essence de Dieu. Penser en évaluant constitue, ici partout le plus grand blasphème contre l’ être qui puisse s’ imaginer).
Đạo Phật Zen giải thoát con người ta khỏi mọi ràng buộc ở mọi phương diện và đưa con người đến tự do tuyệt đối, tôn sùng những gì thiêng liêng quí báu là tự ràng buộc mình vào vòng nô lệ; những thiền sư đều xem nhẹ truyền thống và chẳng bao giờ nô lệ những kinh điển: họ chẳng bao giờ trọng những kinh Phật như là những quyển sách thiêng liêng quí báu.
Tinh túy của đạo Phật Zen có thể thu gọn vào bốn câu sau đây:
Ở ngoài kinh điển xa lìa truyền thống
Không dựa vào những tiếng và những chữ
Nhìn vào bản chất và đạt đến Phật tính
Chỉ thẳng vào tâm thức con người.
Những câu trên là những nguyên tắc của đạo Phật Zen và cắt nghĩa sự khác nhau giữa Zen và những tông phái Phật giáo khác.
Chú thích:
[1] Heidegger, Was ist Metaphysik (Frankfurt am Main; Verlag G. Schmete Bulme, 1931)
[2] Heidegger, "Wom Wesen des Grundes" (Jahrbuch für Philosophie und Phänologische Forschung, Ergänzungsband, Halle, Niemeyer 1929).
[3] Xem Heidegger, “The Essence of Truth”, bản dịch Anh trong quyển Existence and Being do Werner Brock giới thiệu và trình bày trong (trang 143-83) (Vision Press, London 1949).
Trong thiên cảo luận “The Essence of Truth”, chúng ta thấy Heidegger định nghĩa “chân lý” theo nghĩa Hy lạp là Aletheia (sự lột màn) chứ không phải theo nghĩa thông thường La tinh là Veritas (chân lý theo nghĩa Veritas có nghĩa là xứng hợp tương ứng giữa vật và trí, rei và intellectus).
Quan niệm Chân lý của Heidegger là lột trần màn để cho xuất hiện chân tính (Sein); nếu đem so sánh với tư tưởng Phật giáo thì sự lột màn Vô minh để cho xuất hiện Chân tính, tức là Phật tính.
[4] D.T. Suzuki, “Satori, or Enlightenment” trong Zen Buddhism, Doubleday, N.Y. 1956, tr. 91
[5] D.T. Suzuki, Buddhist Philosophy and its effects on the life and thought of the Japanese people, Kokusai, Bunka Shinkikai, 1963, tr. 4.
[6] Cf. D.T. Suzuki, “Existentialism, Pragmatism and Zen” trong Zen Buddhism, Doubleday, N.Y. 1959, 269.
[7] Cf. D.T. Suzuki, Essais sur le Bouddhisme Zen, Albin Michel, 1949-1943, tr. 21.
[8] Martin Heidegger, Lettre sur l’humanisme, editions Montaigne Paris, 1957
[9] So sánh nguyên tác: Man ist so erfüllt von “Logik” dass alles sogleich als verwerfliches Gegenteil verrechnet wird, was der gewohnten Schläfrigkeit des Meinens zuwider ist. Man wirft alles, was nicht bei dem bekannten und beliebten Postiven stehen bleibt, in die zuvor angelegte Grube der blossen Negation, die alles verneint, dadurch im Nichts endet und so den Nihilismus vollendet. Man lässt auf diesem logischen Weg alles in einem Nihilimus untergehen, den man sich mit Hilfe de Logik erfunden hat.
[10] So sánh với nguyên tác: Aber weist denn das “Gegen” da sein Denken gegenüber dem gewöhnlich Gemeinten vorbringt, notwendig in die blosse Negation und in das Negative? Das geschieht nur dann und dann allerdings unvermeidlich und endgültig, das heisst ohne einen freien Ausblick auf anderes und von diesem her über den Bezirk der möglichen Entgegensetzungen zu ihm absolut und zugleich negativ entscheidet. In solchem Verfahren verbirgt sich die Weigerung, das vorgemeinte “Positive” samt der Position und der Opposition, in die es sich gerettet glaubt einer Besinnung auszusetzen. Man erweckt mit der ständigen Berufung auf das Denken ein, während man dem Denken abgeschworen hat.
[2] Heidegger, "Wom Wesen des Grundes" (Jahrbuch für Philosophie und Phänologische Forschung, Ergänzungsband, Halle, Niemeyer 1929).
[3] Xem Heidegger, “The Essence of Truth”, bản dịch Anh trong quyển Existence and Being do Werner Brock giới thiệu và trình bày trong (trang 143-83) (Vision Press, London 1949).
Trong thiên cảo luận “The Essence of Truth”, chúng ta thấy Heidegger định nghĩa “chân lý” theo nghĩa Hy lạp là Aletheia (sự lột màn) chứ không phải theo nghĩa thông thường La tinh là Veritas (chân lý theo nghĩa Veritas có nghĩa là xứng hợp tương ứng giữa vật và trí, rei và intellectus).
Quan niệm Chân lý của Heidegger là lột trần màn để cho xuất hiện chân tính (Sein); nếu đem so sánh với tư tưởng Phật giáo thì sự lột màn Vô minh để cho xuất hiện Chân tính, tức là Phật tính.
[4] D.T. Suzuki, “Satori, or Enlightenment” trong Zen Buddhism, Doubleday, N.Y. 1956, tr. 91
[5] D.T. Suzuki, Buddhist Philosophy and its effects on the life and thought of the Japanese people, Kokusai, Bunka Shinkikai, 1963, tr. 4.
[6] Cf. D.T. Suzuki, “Existentialism, Pragmatism and Zen” trong Zen Buddhism, Doubleday, N.Y. 1959, 269.
[7] Cf. D.T. Suzuki, Essais sur le Bouddhisme Zen, Albin Michel, 1949-1943, tr. 21.
[8] Martin Heidegger, Lettre sur l’humanisme, editions Montaigne Paris, 1957
[9] So sánh nguyên tác: Man ist so erfüllt von “Logik” dass alles sogleich als verwerfliches Gegenteil verrechnet wird, was der gewohnten Schläfrigkeit des Meinens zuwider ist. Man wirft alles, was nicht bei dem bekannten und beliebten Postiven stehen bleibt, in die zuvor angelegte Grube der blossen Negation, die alles verneint, dadurch im Nichts endet und so den Nihilismus vollendet. Man lässt auf diesem logischen Weg alles in einem Nihilimus untergehen, den man sich mit Hilfe de Logik erfunden hat.
[10] So sánh với nguyên tác: Aber weist denn das “Gegen” da sein Denken gegenüber dem gewöhnlich Gemeinten vorbringt, notwendig in die blosse Negation und in das Negative? Das geschieht nur dann und dann allerdings unvermeidlich und endgültig, das heisst ohne einen freien Ausblick auf anderes und von diesem her über den Bezirk der möglichen Entgegensetzungen zu ihm absolut und zugleich negativ entscheidet. In solchem Verfahren verbirgt sich die Weigerung, das vorgemeinte “Positive” samt der Position und der Opposition, in die es sich gerettet glaubt einer Besinnung auszusetzen. Man erweckt mit der ständigen Berufung auf das Denken ein, während man dem Denken abgeschworen hat.
Chương ba
Nghĩ về ý nghĩa của Phật giáo Thiền tông qua vài suy luận triết học Heidegger (tiếp theo)
6. Bởi vì muốn tránh sự đồng hóa nông cạn, chúng ta mới nói Thiền tông chống cái này, chống cái kia. Sự thực thì chữ “chống” này cũng nguy hiểm và dễ gây ngộ nhận.
Thiền là Giải thoát, là Ngộ: như thế Thiền chống lại những vọng tưởng mà người đời thường nuôi dưỡng trong tâm trí họ.
Những “biến kế sở chấp”(vikalpa) tựu trung là:
Nghĩ về ý nghĩa của Phật giáo Thiền tông qua vài suy luận triết học Heidegger (tiếp theo)
6. Bởi vì muốn tránh sự đồng hóa nông cạn, chúng ta mới nói Thiền tông chống cái này, chống cái kia. Sự thực thì chữ “chống” này cũng nguy hiểm và dễ gây ngộ nhận.
Thiền là Giải thoát, là Ngộ: như thế Thiền chống lại những vọng tưởng mà người đời thường nuôi dưỡng trong tâm trí họ.
Những “biến kế sở chấp”(vikalpa) tựu trung là:
Luân lý học
Chủ nghĩa nhân bản
Luân lý
Bảng giá trị
Người đời thường hay viện dẫn mê tín vào bốn vọng tưởng trên; thường khi họ lấy những vọng tưởng ấy làm tiêu chuẩn cho mọi hành động; họ xem những vọng tưởng ấy như là những chân lý bất di dịch, những sự thực tối thượng.
Ở Tây phương, triết gia đầu tiên đã nhận thấy rõ những tai hại của những vọng tưởng trên là Nietzsche: Nietzsche đã can đảm quét sạch những tín điều về bốn vọng tưởng trên; đến Nietzsche chẳng những Thượng đế đã chết, mà chủ nghĩa nhân bản cũng chết theo và sau đó ngã quỵ tất cả thành trì của bảng giá trị cũ, của Luận lý học, của Luân lý. Sau khi Nietzsche mất rồi thì ngày nay, chúng ta thấy Heidegger đang làm tiếp sự nghiệp của Nietzsche.
Mặc dù là một triết gia, nhưng Heidegger đã đi về con đường của Thiền, khi Heidegger nhận ra những vọng tưởng trên.
Thiền đả phá Luận lý học, bởi vì Luận lý học chỉ là một lề lối suy tư có hạn định, không thể đưa đến giải thoát, không thể đưa đến Ngộ; một người còn mê ngủ thì dù họ có lý luận đến tuyệt vời đi nữa thì lý luận ấy cũng chỉ là lý luận trong mộng.
Thiền đả phá chủ nghĩa nhân bản, bởi vì chính chủ nghĩa nhân bản đã là phi nhân bản rồi, sở dĩ phi nhân bản là vì bị ràng buộc trong chủ nghĩa. Nhân bản đúng nghĩa là nhân bản thì không có chủ nghĩa; còn chủ nghĩa là còn nô lệ vào chủ nghĩa ấy, thế mà vẫn chưa giải thoát được. Thiền không là Nhân bản, mà là “Phật bản”.
Thiền đả phá Luân lý vì con người cũng dễ tàn nhẫn một cách có khoa học, khi họ được Luân lý bảo vệ họ; Luân lý là một cái cớ để người ta cầu an; Luân lý xuất phát từ lòng yếu đuối nhu nhược của con người; Thiền vượt lên trên Thiện và Ác. Đại bi (Mahakaruna) cũng đồng nghĩa với Đại trí (Mahaprajna).
Thiền đả phá bảng giá trị, vì Thiền cho rằng xem đức Phật là một giá trị tối thượng, tức là đã hạ thấp Phật tính, vì đã đánh giá đức Phật; dù xem đức Phật là một giá trị tối thượng vẫn là đánh giá đức Phật; vì giá trị tối thượng cũng vẫn là giá trị, chúng ta chưa giác ngộ, chúng ta không quyền đánh giá một người đã giác ngộ; đánh giá là một hành động phạm thượng. Bởi thế, không nên xem đức Phật là một giá trị tối thượng, mà phải xem đức Phật như là khả năng vô biên mà chúng ta có thể thực hiện trong đời này, mà thuật ngữ Phật giáo gọi là “Phật tính”.
Sở dĩ tôi phải xác định thêm những dòng trên là vì tôi muốn tránh những điều ngộ nhận có thể xảy ra khi tôi nói rằng Thiền tông chống Luân lý, chống chủ nghĩa nhân bản, không xem đức Phật là giá trị tối thượng, vân vân. Sự xác định ở trên rất cần thiết, vì dễ có người nông nổi không đặt những nhận định vào văn mạch của toàn bài, rồi hiểu sai chủ ý thì rất đáng buồn.
7. Bây giờ, tôi xin bàn về những ngộ nhận chung quanh Thiền tông. Viết về Thiền tông, hành động “viết về” ấy đã là một ngộ nhận to lớn rồi. Và chính bài này cũng đã vướng vào những ngộ nhận. Nhưng sở dĩ bài này dám nói về những ngộ nhận của người khác chung quanh Thiền tông là vì ít ra bài này cũng ý thức rằng mình đã ngộ nhận trước tiên. Và đi từ nhận thức căn bản này: mình có ngộ nhận, mình mới có thể biết những người khác ngộ nhận, vì tất cả đều nằm chung trong một hoàn cảnh giới hạn.
Tôi chưa giác ngộ, mặc dù tri thức của tôi bảo rằng tôi chưa giác ngộ, nhưng tiềm thức tôi không nhận thế; nếu tiềm thức của tôi cũng đồng ý thực sự với ý thức tôi rằng tôi chưa giác ngộ thì lúc bấy giờ chính sự đồng ý giữ ý thức và tiềm thức ấy là sự giác ngộ rồi; nói một cách khác, nếu thực sự toàn diện con người tôi đồng ý rằng tôi chưa giác ngộ thì ngay lúc ấy, trong lúc ấy, trong chớp nhoáng ấy, tôi đã vụt giác ngộ rồi! Giác ngộ rằng chưa giác ngộ, tức đã là giác ngộ.
Tôi vừa nói câu này như một con vẹt, nếu câu nói này đi đôi với toàn diện con người tôi thì tôi đã giác ngộ.
Thiền không có nghĩa là tham thiền, mặc dù Thiền là bởi chữ Zen mà Zen bởi chữ dhyana; nhưng đến Huệ Năng thì Thiền không có nghĩa là dhyana, mà Thiền đồng nghĩa với Trí Bát Nhã, hay nói một cách khác dhyana đổi ra Prajna. Vậy Thiền đồng nghĩa là Giác ngộ. Nói tóm lại Thiền chính là Ngộ mà người Nhật gọi là Satori.
Điều ngộ nhận to lớn nhất mà hiện nay tôi thấy rất nhiều vị học giả thường vướng là họ hiểu sai chữ Thiền trong nghĩa Thiền tông là Thiền trong nghĩa tham thiền hay toạ thiền, mặc dù Thiền tông cũng có tham thiền và toạ thiền, nhưng chính sự tham thiền và toạ thiền ấy không phải là tất cả nội dung của Thiền tông.Thiền trong nghĩa Thiền tông không phải chỉ là Thiền trong khi toạ thiền hay tham thiền mà trong bất cứ hành động nào thì cũng có thể được cả, và người ta có thể Thiền thực sự mà không cần tham hay toạ. Càng tham thiền hay toạ thiền lại càng xa Thiền, nhưng mượn cớ này để lười biếng không tham thiền hay toạ thiền thì lại là cuồng thiền.
Bây giờ, để dễ thảo luận, tôi xin nêu ra một nguyên tắc, mà nếu mọi người chấp nhận nguyên tắc này thì mới có thể thảo luận được. Nguyên tắc đầu tiên là:
Thiền có nghĩa là Ngộ.
Ngộ ở đây có nghĩa là Giác Ngộ, tức là kinh nghiệm tuyệt đối mà chỉ có đức Phật là thí dụ cụ thể nhứt mà ta đã thấy trong lịch sử nhân loại.
Nguyên tắc thứ nhất này rất quan trọng, vì chính nguyên tắc này sẽ làm tiêu chuẩn để chặn đứng tất cả mọi cuộc tranh luận bí lối và tất cả những lạm dụng nguy hiểm.
Từ nguyên tắc thứ nhất này, chúng ta có thể đi đến mọi nhận thức sau đây:
- Thiền là Ngộ, ai cũng có quyền nói về Thiền, viết về Thiền, bênh vực Thiền, chỉ trích Thiền, tranh luận về Thiền; muốn làm gì thì làm, nhưng luôn luôn cần phải tự hỏi rằng: “mình có ngộ hay không?”; nếu mình tự nhận rằng chưa Ngộ thì khi viết hay nói về Thiền thì phải đứng trên quan niệm “chưa ngộ”; còn nếu tự nhận rằng mình đã “Ngộ” thì lấy gì làm tiêu chuẩn để biết rằng mình “Ngộ”; bởi vì “Ngộ” làm gì có tiêu chuẩn và ai cũng hiểu rằng “Ngộ” mà biết rằng mình “Ngộ” thì chưa phải là “Ngộ”; vậy “không Ngộ” là Ngộ ư? Nói như thế cũng không đúng. Chỉ có cách giải quyết duy nhất là muốn biết mình “Ngộ” hay không, thì cứ đợi đến “Ngộ” rồi sẽ biết.
Tóm tắt lại từ nguyên tắc thứ nhất: Thiền là Ngộ.
Ta đi đến nhận thức này:
- Chúng ta, tôi, anh, ông, chưa được Ngộ. Từ nhận thức này, chúng ta ý thức được thẩm quyền và giới hạn của chúng ta;
- Vì chưa được Ngộ, nên muốn nói về Thiền, chúng ta phải nhớ đứng trên vị trí “chưa Ngộ”. Từ ý thức trên, chúng ta đi đến những nhận xét này;
- Vì đứng trên vị trí “chưa Ngộ” thì dù có bỏ suốt đời để nghiên cứu Thiền thì Thiền ấy cũng vẫn là “Thiền chưa Ngộ”.
Nếu “chưa Ngộ” mà muốn nói về Thiền thì phải nói như thế nào? Thì phải nói đến những gì là “chưa Ngộ” của chính mình; nếu mình thành thật thao thức đau khổ chấp nhận tất cả những gì “chưa Ngộ” trong con người mình thì lúc ấy là lúc “Ngộ” dễ vụt đến trong nháy mắt, bởi vì “chưa Ngộ” được thực sự hoàn toàn ý thức là “chưa Ngộ” thì đã là “Ngộ” rồi.
Bây giờ xin vào đề.
Trước hết, tôi xin phê bình tất cả những tác phẩm của D.T. Suzuki về Thiền tông.
Nhận xét đầu tiên là tôi thấy ngay trọn vẹn sự nghiệp D.T. Suzuki về Thiền tông là một cái dao hai lưỡi, biết dùng thì có lợi, nhưng vung tay thì tới đại nguy hiểm.
Tất cả những quyển sách của Suzuki chỉ có giá trị là khi Suzuki viết về Thiền mà đứng trên vị trí “chưa Ngộ” và nhất là, ý thức rằng mình “chưa Ngộ”.
Tôi xin kết luận ngay rằng D. T. Suzuki là một học giả thông minh, rất uyên bác về Thiền tông, có thể nói là uyên bác nhất thế giới, nhưng tôi phải nói ngay rằng tất cả những quyển sách của D. T. Suzuki đều hoàn toàn vô giá trị, vì D.T. Suzuki đã viết về Thiền mà viết với giọng điệu đầy thẩm quyền như chính D. T. Suzuki đã “Ngộ” rồi! D. T. Suzuki “chưa Ngộ” mà khi viết về Thiền, ông đã dùng ngôn ngữ của người đứng trên vị trí “Ngộ”. Thực ra “Ngộ” làm gì có vị trí.
Bởi thế, đọc trọn vẹn sự nghiệp của D. T. Suzuki, tôi chỉ thấy ông lặp đi lặp lại và càng ngày tư tưởng ông càng cạn đi, để rồi đọng lại thành khuôn thước và hệ thống.
Ngộ nhận lớn nhất mà D. T. Suzuki đã phạm là khi ông tự đặt ra câu hỏi sau đây:
Thiền là gì? [1]
D. T. Suzuki viết bằng Anh ngữ là:
- What is Zen?
Khi hỏi một câu hỏi như vậy thì đã là thiển cận rồi, vì hỏi như thế thì ít nhất cũng tự nhận mình đã “Ngộ” rồi; nhưng chính vì D.T. Suzuki chưa Ngộ, nên câu hỏi trên mới tố cáo cho ta thấy những điều này:
- Khi đặt câu hỏi thì trong câu hỏi ấy đã giới hạn câu trả lời;
- Khi đặt câu hỏi thì câu trả lời đã tiềm tàng có trước câu hỏi.
Như vậy khi đặt câu “Thiền là gì?” (What is Zen?) thì đã tự ý định trước là “Thiền là một cái gì” (Zen is something; vì What có nghĩa là something). Mà nếu cho rằng: “Thiền là một cái gì” thì đã đánh giá Thiền và lôi Thiền xuống ngang hàng một đồ vật (What tức là chỉ cho vật mà thực ngữ của Heidegger gọi là: “Vorhandensein”).
Bây giờ không cần nói đến chữ “gì” (What), mà chỉ cần nói đến chữ “là” là đủ kết luận về một điều sai lầm của Suzuki; “là” (Is tức là to be) là xác nhận một hữu thể, một bản chất, một thể chất, một đặc chất.
Khi ta nói:
- Thiền là.
- Zen is.
Tức là ta đã nhận rằng mình đã “Ngộ” rồi, vì có “Ngộ” thì mới được bản chất, thể chất, thực chất của Thiền; biết như thế mới nói là “là”.
Nếu chúng ta chưa “Ngộ”, thì chúng ta không thể nói:
- Thiền là.
Mà cũng không thể nói:
- Thiền không là.
Bởi vì nếu nói là “không là” thì ít nhất cũng đã biết trước cái “là”, tức là chỉ có thể xác nhận là sau khi đã phủ nhận, mà chỉ có thể phủ nhận là sau khi đã xác nhận; đằng này chúng ta không biết gì cả, chúng ta “chưa Ngộ” thì dù có phủ nhận hay xác nhận cũng đều là vô minh.
Như thế, trong câu hỏi: “Thiền tông là gì?” chúng ta đã thấy người đặt lên câu hỏi ấy là một người hoặc nếu không ngu xuẩn thì cũng tự nhận mình đã “Ngộ” rồi, nhưng thực ra nếu “Ngộ” rồi thì cần gì phải đặt câu hỏi ngu xuẩn như vậy?
Từ những nhận thức trên, bây giờ ta thấy những đường lối mở ra như sau;
- Nói về Thiền cho đúng sự thực thì phải “Ngộ” chẳng hạn như lục tổ Huệ Năng và những vị thiền sư đời Đường, đời Tống.
- Nói về Thiền cho đứng đắn, mà đang lúc mình chưa “Ngộ” thì phải ý thức giới hạn mình và chỉ có thể được quyền đứng trên phương diện, vị trí lập trường của một sử gia, một người chép sử, một người ghi lại kinh nghiệm quá khứ.
Trong một cuộc tranh luận giữa Hồ Thích và D. T. Suzuki, chúng ta thấy cả hai đều rơi vào sai lầm [2]. Hồ Thích đứng trên lập trường của sử gia, nhưng Hồ Thích lại hiểu sai vai trò lịch sử, khi Hồ Thích cho rằng có thể dùng phương pháp sừ học để hiểu Thiền. Hồ Thích đã sai lầm rất lớn; Thiền là kinh nghiệm giác ngộ; lịch sử không phải là kinh nghiệm; lịch sử chỉ là ghi chép kinh nghiệm; Hồ Thích đã sai lầm vì đã cho rằng đứng trên vị trí “chưa giác ngộ” có thể hiểu được Ngộ; còn Suzuki đã đúng khi cho rằng “chưa Ngộ” thì không thể nào hiểu “Ngộ” được, nhưng khi nói câu ấy, Suzuki đã ngụ ý rằng mình đã “Ngộ”.
Tất cả những kinh sách của Thiền tông như Pháp bảo đàn kinh, Vô môn quan, Lăng già sư tư ký, Tín tâm minh, Truyền đăng lục, vân vân,… đều nói lên ngôn ngữ của những con người đã “Ngộ” rồi. Và chính ngôn ngữ ấy là ngôn ngữ của Thiền.
Chẳng hạn như dở quyển Vô quan môn ta đọc thấy những câu sau đây của Thiền sư Vô Môn:
Phùng Phật sát Phật, phùng tổ sát tổ.
“Gặp Phật giết Phật, gặp tổ giết tổ.”
Thiền sư Vô Môn nói câu trên, dùng ngôn ngữ mạnh bạo trên là lúc thiền sư đã “Ngộ” rồi; còn nếu bất cứ người thứ hai nào mà lặp lại câu trên, đang lúc mình “chưa Ngộ” thì câu trên trở thành rất nguy hiểm và tai hại: nó biến thành cái cớ để người ta tự bào chữa hành động ngu xuẩn của mình; nó là cái cớ để người ta ngạo mạn kiêu căng; nó là cái cớ để người ta phá hoại tôn giáo, phá hoại truyền thống, không phải phá hoại để giải thoát, mà phá hoại vì ngu si mê muội, vì dại dột; phá hoại như thế có nghĩa là tự sát.
Chúng ta chỉ có quyền lặp lại câu nói của thiền sư Vô Môn với ý thức rằng mình chưa Ngộ và câu nói ấy là câu nói của một người đã chứng “Ngộ”; chúng ta chỉ có quyền lặp lại câu nói trên sau khi chúng ta biết rằng đó chỉ là một lối nói để phá chấp đến triệt để; còn chấp “Phật” tức là chưa thành Phật, còn chấp tổ nghĩa là thành tổ: giết Phật ở đây không có nghĩa là giết Phật, mà có nghĩa là giết ông “Phật” mà ta đã chấp trong trí ta.
Bi kịch lớn lao nhất ở đời là mỗi khi vĩ nhân xuất hiện và sau khi vĩ nhân ấy đã nói lên một lời nào thì những kẻ hạ nhân cũng bắt chước nói lại lời ấy; và mặc dù lời ấy cũng gồm bấy nhiêu chữ, nhưng những chữ ấy không còn là những chữ của vĩ nhân nữa; chẳng hạn vĩ nhân nói “sát Phật” thì hạ nhân cũng bắt chước mà nói “sát Phật”; nhưng đau đớn biết bao là câu lặp lại bỗng trở thành thuốc độc và đưa con người đến chỗ tự sát.
Nietzsche đã hiểu bi kịch trên: chúng ta thấy biết bao nhiêu lần Nietzsche đã để cho Zarathustra cảnh cáo mối tai hại ấy trong quyển Ainsi parlait Zarathustra.
Heidegger cũng hiểu ý của Nietzsche, nên trong quyển Qu’appelle –t-on-penser?, Heidegger có viết: “Trước kia đó là tiếng kêu la của Nietzsche, mà ngày nay tiếng kêu la ấy đã trở thành câu chuyện ba hoa của thiên hạ”.
Chẳng hạn, chúng ta thấy Nietzsche kêu: “Thượng đế đã chết”. Đó là tiếng kêu la thống thiết của Nietzsche để báo tin một kỷ nguyên mới. Ngày nay, thường khi, trong những phòng cà phê hay giảng đường đại học, chúng ta nghe người ta say sưa nói: “Thượng đế đã chết”; họ nói ba hoa như vậy, và họ vẫn tiếp tay duy trì thế giới cũ và cản lối làm chướng ngại vật không cho kỷ nguyên mới mở màn. Thế là “siêu nhân” của Nietzsche đã chết theo sau đó, do những đầu miệng của kẻ hạ nhân.
Thế là Nietzsche cũng chết luôn, như Malraux đã có lần nói như vậy.
Về Suzuki tôi xin tóm lại: Thiền của Suzuki không phải là Thiền của Vô Môn quan, của Pháp bảo đàn kinh, của Truyền đăng lục, vân vân; nghĩa là Thiền của Suzuki là Thiền về Thiền, cũng như Luận lý học là tư tưởng về tư tưởng – la pensée sur la pensée theo kiểu nói của Heidegger. Đó chỉ là một lối suy tư đặc biệt - une façon particulière de penser - một lối suy tư đặc biệt như Thiền của Suzuki cũng là một lối Thiền đặc biệt - une façon particulière de méditer, de “Zenifier”!
Những quyển Vô Môn quan, Pháp bảo đàn kinh, vân vân; là nói lại Thiền của Thiền của vị sư đã “Ngộ”.
Vô Môn quan, Pháp bảo đàn kinh, vân vân, không phải Thiền mà chỉ nói về Thiền.
Như vậy Suzuki đã nói về cái “nói về” ấy; còn những kẻ nào tôn sùng Suzuki và tham khảo sách của Suzuki (như Alan Watts, Christmas Humphreys, Hubert Benoit, Blyth, Sohuku Ogata, Chang Chen Chi, vân vân) thì những kẻ ấy lại nói về “cái nói về cái nói về” dịch ra tiếng Pháp cho dễ hiểu là: la pensée sur la pensée sur la pensée… Như thế là vô minh quá lắm rồi.
8. Trong một câu chuyện giữa người A và người B; người A nói rằng: “Tôi thích cái này, tôi ghét cái kia”.
Anh B vụt trả lời: “Anh nói rằng anh có nghiên cứu Thiền nhưng tại sao anh lại nói rằng anh thích cái này, ghét cái kia? Thiền đâu có ghét, đâu có thích!”.
9. Trong câu chuyện trên, chúng ta thấy anh A chưa ngộ và anh A hồn nhiên nói năng tự nhiên thành thật như một kẻ chưa ngộ; còn anh B thì chưa ngộ mà lại chỉ trích anh A; và khi chỉ trích như vậy thì tỏ ý mình đã hiểu Thiền, đã ngộ Thiền; sự thực thì anh B chưa ngộ; chẳng những thế anh còn vướng vào tội ngạo mạn ngu si vì anh B đã học lỏm được trong một quyển sách nào đó rằng “thích và ghét không phải là Thiền”; câu nói là câu nói của một thiền sư đã Ngộ; anh B chưa Ngộ mà lặp lại một câu của người Ngộ, và như thế tự cho mình cao hơn anh A, nghĩa là tự cho mình ngộ hơn người chưa ngộ! Ôi bi kịch! Chân lý mà bị lặp lại thì đã biến thành tà thuyết!
10.
Anh X nói chuyện với anh Y; anh Y tỏ cho anh X biết rằng anh Y đều tham Thiền vào mỗi buổi sáng. Anh X cật vấn anh Y: “Thiền tông làm gì có tham thiền, chỉ có đốn ngộ thôi, đâu có chuyện lau bụi, anh không nhớ chuyện Thần Tú và Huệ Năng sao”?
11. Qua câu chuyện trên, ta thấy anh X lặp lại một câu nói của kẻ ngộ, anh X chưa giác ngộ thì anh làm gì hơn Thần Tú mà lại có ý xem nhẹ Thần Tú? Có người được “Ngộ” mới xem nhẹ người chưa giác ngộ thôi, nhưng thực ra, người đã “Ngộ” thực rồi thì không bao giờ xem nhẹ kẻ “chưa ngộ”.
12. Về những quyển sách của Suzuki, chúng ta thấy những quyển sách ấy chỉ có giá trị quí báu về phương diện sử học; còn nếu Suzuki muốn đứng về phương diện giải thích kinh nghiệm Thiền thì Suzuki đã thất bại ngay từ căn bản và đứng trên phương diện này, thì những quyển sách của Suzuki chẳng có giá trị gì, mà lại rất nguy hiểm.
13. Dùng thuật ngữ triết học của Heidegger thì sách của Suzuki chỉ có giá trị về mặt ontique nhưng hoàn toàn không có giá trị về mặt ontologique (thực ra Zen vượt lên trên cả ontologique!).
14. Erich Fromm và Richard de Martino trong quyển Zen Buddhism and Psychoanalysis(George Allen and Unwin Ltd. London, 1960) dã đem cho Phân tâm học mà giải thích Thiền và đem Thiền vào khai sáng Phân tâm học; quyển sách này rất giá trị, nhưng chỉ giá trị về mặt ontique!
Hubert Benolt trong quyển La Doctrine Suprême selon la pensée Zen (Editions du Vieux Colombier, Paris, 1960) và quyển Lâcher Prise (Editions du Vieux Colombier, Paris, 1954) đã lấy tâm lý học để tìm ra phương pháp trị liệu tâm bệnh theo Thiền: hai quyển sách này cũng rất giá trị và thông minh, nhưng cũng chỉ giá trị ở mặt ontique!
15. R.H. Blyth đã viết quyển Zen in English Literature and Oriental classics (The Hukuseido Press Tokyo, 1942) để khám phá tư tưởng Thiền trong những tác phẩm văn chương ở Anh và ở thế giới (như Wordsworth, R.L.Stevenson, Shakespeare, Cervantes, vân vân).
R. H. Blyth đã phạm một lỗi lầm lớn nhất là đồng hoá tất cả mọi sự.
R. H. Blyth không có một ý thức nào về ý nghĩa học (Sémantique theo nghĩa của S.L. Hayakawa trong quyển Language in Thought and Action).
Cũng một chữ giống nhau, nhưng ý nghĩa của nó đã thay đổi theo từng người và từng hoàn cảnh; chẳng hạn như chữ A, nếu thiền sư nói A, Shakespeare cũng nói A, tôi cũng nói A, anh cũng nói A; thì tất cả đều là A, nhưng mỗi chữ A này đều khác nhau.
Thiền sư nói A để giải thoát những kẻ chưa ngộ; Shakespeare nói A để đưa lên một thái độ sống của nhân vật; tôi nói A để cho một thí dụ về ý nghĩa học; anh nói A vì anh nói để tập đánh vần, vân vân.
R. H. Blyth đã đem chữ A của thiền sư ra so sánh với chữ A của Shakespeare, rồi kết luận là chữ A của Shakespeare là giống chữ A của Thiền (vì cũng đều là chữ A mà!!!), rồi kết luận rằng ông đã khám phá ra Thiền trong Shakespeare, rồi viết một cuốn sách thật dày đặt tên là Thiền trong văn học Anh (Zen in English Literature)
Và người nhẹ dạ đọc qua quyển sách ấy liền tin theo R. H. Blyth để rồi chẳng biết “Thiền là cái quái gì” mà nhìn ở đâu cũng là Thiền, mà thực sự nói một cách tuyệt đối thì ở đâu cũng là Thiền, nếu vậy thì cần gì phải xác định là “Thiền trong văn học Anh” vì Thiền ở khắp mọi nơi, vậy thì ta cũng có thể viết về những đề tài như “Thiền trong cách bế em” “Thiền trong việc thi cử” “Thiền trong máy phát thanh”, vân vân.
Cứ theo điệu đó thì sẽ đi đến chỗ cuồng Thiền.
Ai mà không biết chữ A của Shakespeare là nói lên thái độ sống của một nhân vật trong vở kịch, tức là chữ A ấy chỉ là sản phẩm của tưởng tượng; còn chữ A của thiền sư là xuất phát từ kinh nghiệm giác ngộ.
R. H. Blyth đã đồng hoá chữ A của Shakespeare với chữ A của thiền sư, đồng hóa một cách vô thức và một cách ngu xuẩn. R.H. Blyth đã đồng hóa trí tưởng tượng với kinh nghiệm xác thực của đời sống!
Sở dĩ tôi phải đem R. H. Blyth ra đây để phê bình nặng lời như trên là vì tôi thấy đã có nhiều vị học giả giáo sư đại học đã vô tình đề cao R. H. Blyth, mà không ý thức được sự tai hại nguy hiểm do R. H. Blyth gây ra.
16. Quyển sách tệ nhất về Thiền mà tôi đã đọc là quyển Essais sur le Bouddhisme en général et sur le Zen en particulier của R. Linssen (dịch ra Anh văn là Living Zen); R. Linssen chỉ lấy tư tưởng của Suzuki, tiêu hoá một cách hời hợt nông cạn thiếu sót, không thông minh.
Một người tiêu hoá thông minh là Alan W. Watts trong quyển The Way of Zen, nhưng quyển này vẫn chỉ giá trị ở mặt ontique!
Sohaku Ogata lại càng tệ nhất, ông là một thiền sư khi mà viết quyển Zen for the West(Rider, London 1959); ông chỉ trích dẫn lại những ý tưởng của Suzuki và nô lệ Suzuki quá nặng.
Christmas Humphreys viết quyển Zen Buddhism (George Allen and Unwin, London 1916) và quyển Zen Comes West (George Allen and Ugwic, London 1960), cũng chỉ nằm trong vòng cương toả của Suzuki.
17. Giáo sư Rokusaburo Nieda, khoa trưởng phân khoa triết lý về tôn giáo tại đại học đường Waseda ở Nhật bản, đã vướng vào một lỗi lầm nặng nề nhất khi ông thuyết trình tại Hội nghị Quốc tế về lịch sử tôn giáo tại Marburg an der Lahn ở Đức vào năm 1960); bài thuyết trình của ông nhan đề là “Nothing of Zen in Comparison with Christian Eschatology and Nothing in European Philosophy”; bài này có đăng lại trong tạp chí Asian Culture July-Dec, 1960, vol II No. 3-4.
Ra đã lầm lỗi nặng nề như sau:
Ở Tây phương, triết gia đầu tiên đã nhận thấy rõ những tai hại của những vọng tưởng trên là Nietzsche: Nietzsche đã can đảm quét sạch những tín điều về bốn vọng tưởng trên; đến Nietzsche chẳng những Thượng đế đã chết, mà chủ nghĩa nhân bản cũng chết theo và sau đó ngã quỵ tất cả thành trì của bảng giá trị cũ, của Luận lý học, của Luân lý. Sau khi Nietzsche mất rồi thì ngày nay, chúng ta thấy Heidegger đang làm tiếp sự nghiệp của Nietzsche.
Mặc dù là một triết gia, nhưng Heidegger đã đi về con đường của Thiền, khi Heidegger nhận ra những vọng tưởng trên.
Thiền đả phá Luận lý học, bởi vì Luận lý học chỉ là một lề lối suy tư có hạn định, không thể đưa đến giải thoát, không thể đưa đến Ngộ; một người còn mê ngủ thì dù họ có lý luận đến tuyệt vời đi nữa thì lý luận ấy cũng chỉ là lý luận trong mộng.
Thiền đả phá chủ nghĩa nhân bản, bởi vì chính chủ nghĩa nhân bản đã là phi nhân bản rồi, sở dĩ phi nhân bản là vì bị ràng buộc trong chủ nghĩa. Nhân bản đúng nghĩa là nhân bản thì không có chủ nghĩa; còn chủ nghĩa là còn nô lệ vào chủ nghĩa ấy, thế mà vẫn chưa giải thoát được. Thiền không là Nhân bản, mà là “Phật bản”.
Thiền đả phá Luân lý vì con người cũng dễ tàn nhẫn một cách có khoa học, khi họ được Luân lý bảo vệ họ; Luân lý là một cái cớ để người ta cầu an; Luân lý xuất phát từ lòng yếu đuối nhu nhược của con người; Thiền vượt lên trên Thiện và Ác. Đại bi (Mahakaruna) cũng đồng nghĩa với Đại trí (Mahaprajna).
Thiền đả phá bảng giá trị, vì Thiền cho rằng xem đức Phật là một giá trị tối thượng, tức là đã hạ thấp Phật tính, vì đã đánh giá đức Phật; dù xem đức Phật là một giá trị tối thượng vẫn là đánh giá đức Phật; vì giá trị tối thượng cũng vẫn là giá trị, chúng ta chưa giác ngộ, chúng ta không quyền đánh giá một người đã giác ngộ; đánh giá là một hành động phạm thượng. Bởi thế, không nên xem đức Phật là một giá trị tối thượng, mà phải xem đức Phật như là khả năng vô biên mà chúng ta có thể thực hiện trong đời này, mà thuật ngữ Phật giáo gọi là “Phật tính”.
Sở dĩ tôi phải xác định thêm những dòng trên là vì tôi muốn tránh những điều ngộ nhận có thể xảy ra khi tôi nói rằng Thiền tông chống Luân lý, chống chủ nghĩa nhân bản, không xem đức Phật là giá trị tối thượng, vân vân. Sự xác định ở trên rất cần thiết, vì dễ có người nông nổi không đặt những nhận định vào văn mạch của toàn bài, rồi hiểu sai chủ ý thì rất đáng buồn.
7. Bây giờ, tôi xin bàn về những ngộ nhận chung quanh Thiền tông. Viết về Thiền tông, hành động “viết về” ấy đã là một ngộ nhận to lớn rồi. Và chính bài này cũng đã vướng vào những ngộ nhận. Nhưng sở dĩ bài này dám nói về những ngộ nhận của người khác chung quanh Thiền tông là vì ít ra bài này cũng ý thức rằng mình đã ngộ nhận trước tiên. Và đi từ nhận thức căn bản này: mình có ngộ nhận, mình mới có thể biết những người khác ngộ nhận, vì tất cả đều nằm chung trong một hoàn cảnh giới hạn.
Tôi chưa giác ngộ, mặc dù tri thức của tôi bảo rằng tôi chưa giác ngộ, nhưng tiềm thức tôi không nhận thế; nếu tiềm thức của tôi cũng đồng ý thực sự với ý thức tôi rằng tôi chưa giác ngộ thì lúc bấy giờ chính sự đồng ý giữ ý thức và tiềm thức ấy là sự giác ngộ rồi; nói một cách khác, nếu thực sự toàn diện con người tôi đồng ý rằng tôi chưa giác ngộ thì ngay lúc ấy, trong lúc ấy, trong chớp nhoáng ấy, tôi đã vụt giác ngộ rồi! Giác ngộ rằng chưa giác ngộ, tức đã là giác ngộ.
Tôi vừa nói câu này như một con vẹt, nếu câu nói này đi đôi với toàn diện con người tôi thì tôi đã giác ngộ.
Thiền không có nghĩa là tham thiền, mặc dù Thiền là bởi chữ Zen mà Zen bởi chữ dhyana; nhưng đến Huệ Năng thì Thiền không có nghĩa là dhyana, mà Thiền đồng nghĩa với Trí Bát Nhã, hay nói một cách khác dhyana đổi ra Prajna. Vậy Thiền đồng nghĩa là Giác ngộ. Nói tóm lại Thiền chính là Ngộ mà người Nhật gọi là Satori.
Điều ngộ nhận to lớn nhất mà hiện nay tôi thấy rất nhiều vị học giả thường vướng là họ hiểu sai chữ Thiền trong nghĩa Thiền tông là Thiền trong nghĩa tham thiền hay toạ thiền, mặc dù Thiền tông cũng có tham thiền và toạ thiền, nhưng chính sự tham thiền và toạ thiền ấy không phải là tất cả nội dung của Thiền tông.Thiền trong nghĩa Thiền tông không phải chỉ là Thiền trong khi toạ thiền hay tham thiền mà trong bất cứ hành động nào thì cũng có thể được cả, và người ta có thể Thiền thực sự mà không cần tham hay toạ. Càng tham thiền hay toạ thiền lại càng xa Thiền, nhưng mượn cớ này để lười biếng không tham thiền hay toạ thiền thì lại là cuồng thiền.
Bây giờ, để dễ thảo luận, tôi xin nêu ra một nguyên tắc, mà nếu mọi người chấp nhận nguyên tắc này thì mới có thể thảo luận được. Nguyên tắc đầu tiên là:
Thiền có nghĩa là Ngộ.
Ngộ ở đây có nghĩa là Giác Ngộ, tức là kinh nghiệm tuyệt đối mà chỉ có đức Phật là thí dụ cụ thể nhứt mà ta đã thấy trong lịch sử nhân loại.
Nguyên tắc thứ nhất này rất quan trọng, vì chính nguyên tắc này sẽ làm tiêu chuẩn để chặn đứng tất cả mọi cuộc tranh luận bí lối và tất cả những lạm dụng nguy hiểm.
Từ nguyên tắc thứ nhất này, chúng ta có thể đi đến mọi nhận thức sau đây:
- Thiền là Ngộ, ai cũng có quyền nói về Thiền, viết về Thiền, bênh vực Thiền, chỉ trích Thiền, tranh luận về Thiền; muốn làm gì thì làm, nhưng luôn luôn cần phải tự hỏi rằng: “mình có ngộ hay không?”; nếu mình tự nhận rằng chưa Ngộ thì khi viết hay nói về Thiền thì phải đứng trên quan niệm “chưa ngộ”; còn nếu tự nhận rằng mình đã “Ngộ” thì lấy gì làm tiêu chuẩn để biết rằng mình “Ngộ”; bởi vì “Ngộ” làm gì có tiêu chuẩn và ai cũng hiểu rằng “Ngộ” mà biết rằng mình “Ngộ” thì chưa phải là “Ngộ”; vậy “không Ngộ” là Ngộ ư? Nói như thế cũng không đúng. Chỉ có cách giải quyết duy nhất là muốn biết mình “Ngộ” hay không, thì cứ đợi đến “Ngộ” rồi sẽ biết.
Tóm tắt lại từ nguyên tắc thứ nhất: Thiền là Ngộ.
Ta đi đến nhận thức này:
- Chúng ta, tôi, anh, ông, chưa được Ngộ. Từ nhận thức này, chúng ta ý thức được thẩm quyền và giới hạn của chúng ta;
- Vì chưa được Ngộ, nên muốn nói về Thiền, chúng ta phải nhớ đứng trên vị trí “chưa Ngộ”. Từ ý thức trên, chúng ta đi đến những nhận xét này;
- Vì đứng trên vị trí “chưa Ngộ” thì dù có bỏ suốt đời để nghiên cứu Thiền thì Thiền ấy cũng vẫn là “Thiền chưa Ngộ”.
Nếu “chưa Ngộ” mà muốn nói về Thiền thì phải nói như thế nào? Thì phải nói đến những gì là “chưa Ngộ” của chính mình; nếu mình thành thật thao thức đau khổ chấp nhận tất cả những gì “chưa Ngộ” trong con người mình thì lúc ấy là lúc “Ngộ” dễ vụt đến trong nháy mắt, bởi vì “chưa Ngộ” được thực sự hoàn toàn ý thức là “chưa Ngộ” thì đã là “Ngộ” rồi.
Bây giờ xin vào đề.
Trước hết, tôi xin phê bình tất cả những tác phẩm của D.T. Suzuki về Thiền tông.
Nhận xét đầu tiên là tôi thấy ngay trọn vẹn sự nghiệp D.T. Suzuki về Thiền tông là một cái dao hai lưỡi, biết dùng thì có lợi, nhưng vung tay thì tới đại nguy hiểm.
Tất cả những quyển sách của Suzuki chỉ có giá trị là khi Suzuki viết về Thiền mà đứng trên vị trí “chưa Ngộ” và nhất là, ý thức rằng mình “chưa Ngộ”.
Tôi xin kết luận ngay rằng D. T. Suzuki là một học giả thông minh, rất uyên bác về Thiền tông, có thể nói là uyên bác nhất thế giới, nhưng tôi phải nói ngay rằng tất cả những quyển sách của D. T. Suzuki đều hoàn toàn vô giá trị, vì D.T. Suzuki đã viết về Thiền mà viết với giọng điệu đầy thẩm quyền như chính D. T. Suzuki đã “Ngộ” rồi! D. T. Suzuki “chưa Ngộ” mà khi viết về Thiền, ông đã dùng ngôn ngữ của người đứng trên vị trí “Ngộ”. Thực ra “Ngộ” làm gì có vị trí.
Bởi thế, đọc trọn vẹn sự nghiệp của D. T. Suzuki, tôi chỉ thấy ông lặp đi lặp lại và càng ngày tư tưởng ông càng cạn đi, để rồi đọng lại thành khuôn thước và hệ thống.
Ngộ nhận lớn nhất mà D. T. Suzuki đã phạm là khi ông tự đặt ra câu hỏi sau đây:
Thiền là gì? [1]
D. T. Suzuki viết bằng Anh ngữ là:
- What is Zen?
Khi hỏi một câu hỏi như vậy thì đã là thiển cận rồi, vì hỏi như thế thì ít nhất cũng tự nhận mình đã “Ngộ” rồi; nhưng chính vì D.T. Suzuki chưa Ngộ, nên câu hỏi trên mới tố cáo cho ta thấy những điều này:
- Khi đặt câu hỏi thì trong câu hỏi ấy đã giới hạn câu trả lời;
- Khi đặt câu hỏi thì câu trả lời đã tiềm tàng có trước câu hỏi.
Như vậy khi đặt câu “Thiền là gì?” (What is Zen?) thì đã tự ý định trước là “Thiền là một cái gì” (Zen is something; vì What có nghĩa là something). Mà nếu cho rằng: “Thiền là một cái gì” thì đã đánh giá Thiền và lôi Thiền xuống ngang hàng một đồ vật (What tức là chỉ cho vật mà thực ngữ của Heidegger gọi là: “Vorhandensein”).
Bây giờ không cần nói đến chữ “gì” (What), mà chỉ cần nói đến chữ “là” là đủ kết luận về một điều sai lầm của Suzuki; “là” (Is tức là to be) là xác nhận một hữu thể, một bản chất, một thể chất, một đặc chất.
Khi ta nói:
- Thiền là.
- Zen is.
Tức là ta đã nhận rằng mình đã “Ngộ” rồi, vì có “Ngộ” thì mới được bản chất, thể chất, thực chất của Thiền; biết như thế mới nói là “là”.
Nếu chúng ta chưa “Ngộ”, thì chúng ta không thể nói:
- Thiền là.
Mà cũng không thể nói:
- Thiền không là.
Bởi vì nếu nói là “không là” thì ít nhất cũng đã biết trước cái “là”, tức là chỉ có thể xác nhận là sau khi đã phủ nhận, mà chỉ có thể phủ nhận là sau khi đã xác nhận; đằng này chúng ta không biết gì cả, chúng ta “chưa Ngộ” thì dù có phủ nhận hay xác nhận cũng đều là vô minh.
Như thế, trong câu hỏi: “Thiền tông là gì?” chúng ta đã thấy người đặt lên câu hỏi ấy là một người hoặc nếu không ngu xuẩn thì cũng tự nhận mình đã “Ngộ” rồi, nhưng thực ra nếu “Ngộ” rồi thì cần gì phải đặt câu hỏi ngu xuẩn như vậy?
Từ những nhận thức trên, bây giờ ta thấy những đường lối mở ra như sau;
- Nói về Thiền cho đúng sự thực thì phải “Ngộ” chẳng hạn như lục tổ Huệ Năng và những vị thiền sư đời Đường, đời Tống.
- Nói về Thiền cho đứng đắn, mà đang lúc mình chưa “Ngộ” thì phải ý thức giới hạn mình và chỉ có thể được quyền đứng trên phương diện, vị trí lập trường của một sử gia, một người chép sử, một người ghi lại kinh nghiệm quá khứ.
Trong một cuộc tranh luận giữa Hồ Thích và D. T. Suzuki, chúng ta thấy cả hai đều rơi vào sai lầm [2]. Hồ Thích đứng trên lập trường của sử gia, nhưng Hồ Thích lại hiểu sai vai trò lịch sử, khi Hồ Thích cho rằng có thể dùng phương pháp sừ học để hiểu Thiền. Hồ Thích đã sai lầm rất lớn; Thiền là kinh nghiệm giác ngộ; lịch sử không phải là kinh nghiệm; lịch sử chỉ là ghi chép kinh nghiệm; Hồ Thích đã sai lầm vì đã cho rằng đứng trên vị trí “chưa giác ngộ” có thể hiểu được Ngộ; còn Suzuki đã đúng khi cho rằng “chưa Ngộ” thì không thể nào hiểu “Ngộ” được, nhưng khi nói câu ấy, Suzuki đã ngụ ý rằng mình đã “Ngộ”.
Tất cả những kinh sách của Thiền tông như Pháp bảo đàn kinh, Vô môn quan, Lăng già sư tư ký, Tín tâm minh, Truyền đăng lục, vân vân,… đều nói lên ngôn ngữ của những con người đã “Ngộ” rồi. Và chính ngôn ngữ ấy là ngôn ngữ của Thiền.
Chẳng hạn như dở quyển Vô quan môn ta đọc thấy những câu sau đây của Thiền sư Vô Môn:
Phùng Phật sát Phật, phùng tổ sát tổ.
“Gặp Phật giết Phật, gặp tổ giết tổ.”
Thiền sư Vô Môn nói câu trên, dùng ngôn ngữ mạnh bạo trên là lúc thiền sư đã “Ngộ” rồi; còn nếu bất cứ người thứ hai nào mà lặp lại câu trên, đang lúc mình “chưa Ngộ” thì câu trên trở thành rất nguy hiểm và tai hại: nó biến thành cái cớ để người ta tự bào chữa hành động ngu xuẩn của mình; nó là cái cớ để người ta ngạo mạn kiêu căng; nó là cái cớ để người ta phá hoại tôn giáo, phá hoại truyền thống, không phải phá hoại để giải thoát, mà phá hoại vì ngu si mê muội, vì dại dột; phá hoại như thế có nghĩa là tự sát.
Chúng ta chỉ có quyền lặp lại câu nói của thiền sư Vô Môn với ý thức rằng mình chưa Ngộ và câu nói ấy là câu nói của một người đã chứng “Ngộ”; chúng ta chỉ có quyền lặp lại câu nói trên sau khi chúng ta biết rằng đó chỉ là một lối nói để phá chấp đến triệt để; còn chấp “Phật” tức là chưa thành Phật, còn chấp tổ nghĩa là thành tổ: giết Phật ở đây không có nghĩa là giết Phật, mà có nghĩa là giết ông “Phật” mà ta đã chấp trong trí ta.
Bi kịch lớn lao nhất ở đời là mỗi khi vĩ nhân xuất hiện và sau khi vĩ nhân ấy đã nói lên một lời nào thì những kẻ hạ nhân cũng bắt chước nói lại lời ấy; và mặc dù lời ấy cũng gồm bấy nhiêu chữ, nhưng những chữ ấy không còn là những chữ của vĩ nhân nữa; chẳng hạn vĩ nhân nói “sát Phật” thì hạ nhân cũng bắt chước mà nói “sát Phật”; nhưng đau đớn biết bao là câu lặp lại bỗng trở thành thuốc độc và đưa con người đến chỗ tự sát.
Nietzsche đã hiểu bi kịch trên: chúng ta thấy biết bao nhiêu lần Nietzsche đã để cho Zarathustra cảnh cáo mối tai hại ấy trong quyển Ainsi parlait Zarathustra.
Heidegger cũng hiểu ý của Nietzsche, nên trong quyển Qu’appelle –t-on-penser?, Heidegger có viết: “Trước kia đó là tiếng kêu la của Nietzsche, mà ngày nay tiếng kêu la ấy đã trở thành câu chuyện ba hoa của thiên hạ”.
Chẳng hạn, chúng ta thấy Nietzsche kêu: “Thượng đế đã chết”. Đó là tiếng kêu la thống thiết của Nietzsche để báo tin một kỷ nguyên mới. Ngày nay, thường khi, trong những phòng cà phê hay giảng đường đại học, chúng ta nghe người ta say sưa nói: “Thượng đế đã chết”; họ nói ba hoa như vậy, và họ vẫn tiếp tay duy trì thế giới cũ và cản lối làm chướng ngại vật không cho kỷ nguyên mới mở màn. Thế là “siêu nhân” của Nietzsche đã chết theo sau đó, do những đầu miệng của kẻ hạ nhân.
Thế là Nietzsche cũng chết luôn, như Malraux đã có lần nói như vậy.
Về Suzuki tôi xin tóm lại: Thiền của Suzuki không phải là Thiền của Vô Môn quan, của Pháp bảo đàn kinh, của Truyền đăng lục, vân vân; nghĩa là Thiền của Suzuki là Thiền về Thiền, cũng như Luận lý học là tư tưởng về tư tưởng – la pensée sur la pensée theo kiểu nói của Heidegger. Đó chỉ là một lối suy tư đặc biệt - une façon particulière de penser - một lối suy tư đặc biệt như Thiền của Suzuki cũng là một lối Thiền đặc biệt - une façon particulière de méditer, de “Zenifier”!
Những quyển Vô Môn quan, Pháp bảo đàn kinh, vân vân; là nói lại Thiền của Thiền của vị sư đã “Ngộ”.
Vô Môn quan, Pháp bảo đàn kinh, vân vân, không phải Thiền mà chỉ nói về Thiền.
Như vậy Suzuki đã nói về cái “nói về” ấy; còn những kẻ nào tôn sùng Suzuki và tham khảo sách của Suzuki (như Alan Watts, Christmas Humphreys, Hubert Benoit, Blyth, Sohuku Ogata, Chang Chen Chi, vân vân) thì những kẻ ấy lại nói về “cái nói về cái nói về” dịch ra tiếng Pháp cho dễ hiểu là: la pensée sur la pensée sur la pensée… Như thế là vô minh quá lắm rồi.
8. Trong một câu chuyện giữa người A và người B; người A nói rằng: “Tôi thích cái này, tôi ghét cái kia”.
Anh B vụt trả lời: “Anh nói rằng anh có nghiên cứu Thiền nhưng tại sao anh lại nói rằng anh thích cái này, ghét cái kia? Thiền đâu có ghét, đâu có thích!”.
9. Trong câu chuyện trên, chúng ta thấy anh A chưa ngộ và anh A hồn nhiên nói năng tự nhiên thành thật như một kẻ chưa ngộ; còn anh B thì chưa ngộ mà lại chỉ trích anh A; và khi chỉ trích như vậy thì tỏ ý mình đã hiểu Thiền, đã ngộ Thiền; sự thực thì anh B chưa ngộ; chẳng những thế anh còn vướng vào tội ngạo mạn ngu si vì anh B đã học lỏm được trong một quyển sách nào đó rằng “thích và ghét không phải là Thiền”; câu nói là câu nói của một thiền sư đã Ngộ; anh B chưa Ngộ mà lặp lại một câu của người Ngộ, và như thế tự cho mình cao hơn anh A, nghĩa là tự cho mình ngộ hơn người chưa ngộ! Ôi bi kịch! Chân lý mà bị lặp lại thì đã biến thành tà thuyết!
10.
Anh X nói chuyện với anh Y; anh Y tỏ cho anh X biết rằng anh Y đều tham Thiền vào mỗi buổi sáng. Anh X cật vấn anh Y: “Thiền tông làm gì có tham thiền, chỉ có đốn ngộ thôi, đâu có chuyện lau bụi, anh không nhớ chuyện Thần Tú và Huệ Năng sao”?
11. Qua câu chuyện trên, ta thấy anh X lặp lại một câu nói của kẻ ngộ, anh X chưa giác ngộ thì anh làm gì hơn Thần Tú mà lại có ý xem nhẹ Thần Tú? Có người được “Ngộ” mới xem nhẹ người chưa giác ngộ thôi, nhưng thực ra, người đã “Ngộ” thực rồi thì không bao giờ xem nhẹ kẻ “chưa ngộ”.
12. Về những quyển sách của Suzuki, chúng ta thấy những quyển sách ấy chỉ có giá trị quí báu về phương diện sử học; còn nếu Suzuki muốn đứng về phương diện giải thích kinh nghiệm Thiền thì Suzuki đã thất bại ngay từ căn bản và đứng trên phương diện này, thì những quyển sách của Suzuki chẳng có giá trị gì, mà lại rất nguy hiểm.
13. Dùng thuật ngữ triết học của Heidegger thì sách của Suzuki chỉ có giá trị về mặt ontique nhưng hoàn toàn không có giá trị về mặt ontologique (thực ra Zen vượt lên trên cả ontologique!).
14. Erich Fromm và Richard de Martino trong quyển Zen Buddhism and Psychoanalysis(George Allen and Unwin Ltd. London, 1960) dã đem cho Phân tâm học mà giải thích Thiền và đem Thiền vào khai sáng Phân tâm học; quyển sách này rất giá trị, nhưng chỉ giá trị về mặt ontique!
Hubert Benolt trong quyển La Doctrine Suprême selon la pensée Zen (Editions du Vieux Colombier, Paris, 1960) và quyển Lâcher Prise (Editions du Vieux Colombier, Paris, 1954) đã lấy tâm lý học để tìm ra phương pháp trị liệu tâm bệnh theo Thiền: hai quyển sách này cũng rất giá trị và thông minh, nhưng cũng chỉ giá trị ở mặt ontique!
15. R.H. Blyth đã viết quyển Zen in English Literature and Oriental classics (The Hukuseido Press Tokyo, 1942) để khám phá tư tưởng Thiền trong những tác phẩm văn chương ở Anh và ở thế giới (như Wordsworth, R.L.Stevenson, Shakespeare, Cervantes, vân vân).
R. H. Blyth đã phạm một lỗi lầm lớn nhất là đồng hoá tất cả mọi sự.
R. H. Blyth không có một ý thức nào về ý nghĩa học (Sémantique theo nghĩa của S.L. Hayakawa trong quyển Language in Thought and Action).
Cũng một chữ giống nhau, nhưng ý nghĩa của nó đã thay đổi theo từng người và từng hoàn cảnh; chẳng hạn như chữ A, nếu thiền sư nói A, Shakespeare cũng nói A, tôi cũng nói A, anh cũng nói A; thì tất cả đều là A, nhưng mỗi chữ A này đều khác nhau.
Thiền sư nói A để giải thoát những kẻ chưa ngộ; Shakespeare nói A để đưa lên một thái độ sống của nhân vật; tôi nói A để cho một thí dụ về ý nghĩa học; anh nói A vì anh nói để tập đánh vần, vân vân.
R. H. Blyth đã đem chữ A của thiền sư ra so sánh với chữ A của Shakespeare, rồi kết luận là chữ A của Shakespeare là giống chữ A của Thiền (vì cũng đều là chữ A mà!!!), rồi kết luận rằng ông đã khám phá ra Thiền trong Shakespeare, rồi viết một cuốn sách thật dày đặt tên là Thiền trong văn học Anh (Zen in English Literature)
Và người nhẹ dạ đọc qua quyển sách ấy liền tin theo R. H. Blyth để rồi chẳng biết “Thiền là cái quái gì” mà nhìn ở đâu cũng là Thiền, mà thực sự nói một cách tuyệt đối thì ở đâu cũng là Thiền, nếu vậy thì cần gì phải xác định là “Thiền trong văn học Anh” vì Thiền ở khắp mọi nơi, vậy thì ta cũng có thể viết về những đề tài như “Thiền trong cách bế em” “Thiền trong việc thi cử” “Thiền trong máy phát thanh”, vân vân.
Cứ theo điệu đó thì sẽ đi đến chỗ cuồng Thiền.
Ai mà không biết chữ A của Shakespeare là nói lên thái độ sống của một nhân vật trong vở kịch, tức là chữ A ấy chỉ là sản phẩm của tưởng tượng; còn chữ A của thiền sư là xuất phát từ kinh nghiệm giác ngộ.
R. H. Blyth đã đồng hoá chữ A của Shakespeare với chữ A của thiền sư, đồng hóa một cách vô thức và một cách ngu xuẩn. R.H. Blyth đã đồng hóa trí tưởng tượng với kinh nghiệm xác thực của đời sống!
Sở dĩ tôi phải đem R. H. Blyth ra đây để phê bình nặng lời như trên là vì tôi thấy đã có nhiều vị học giả giáo sư đại học đã vô tình đề cao R. H. Blyth, mà không ý thức được sự tai hại nguy hiểm do R. H. Blyth gây ra.
16. Quyển sách tệ nhất về Thiền mà tôi đã đọc là quyển Essais sur le Bouddhisme en général et sur le Zen en particulier của R. Linssen (dịch ra Anh văn là Living Zen); R. Linssen chỉ lấy tư tưởng của Suzuki, tiêu hoá một cách hời hợt nông cạn thiếu sót, không thông minh.
Một người tiêu hoá thông minh là Alan W. Watts trong quyển The Way of Zen, nhưng quyển này vẫn chỉ giá trị ở mặt ontique!
Sohaku Ogata lại càng tệ nhất, ông là một thiền sư khi mà viết quyển Zen for the West(Rider, London 1959); ông chỉ trích dẫn lại những ý tưởng của Suzuki và nô lệ Suzuki quá nặng.
Christmas Humphreys viết quyển Zen Buddhism (George Allen and Unwin, London 1916) và quyển Zen Comes West (George Allen and Ugwic, London 1960), cũng chỉ nằm trong vòng cương toả của Suzuki.
17. Giáo sư Rokusaburo Nieda, khoa trưởng phân khoa triết lý về tôn giáo tại đại học đường Waseda ở Nhật bản, đã vướng vào một lỗi lầm nặng nề nhất khi ông thuyết trình tại Hội nghị Quốc tế về lịch sử tôn giáo tại Marburg an der Lahn ở Đức vào năm 1960); bài thuyết trình của ông nhan đề là “Nothing of Zen in Comparison with Christian Eschatology and Nothing in European Philosophy”; bài này có đăng lại trong tạp chí Asian Culture July-Dec, 1960, vol II No. 3-4.
Ra đã lầm lỗi nặng nề như sau:
Hiểu sai chữ “Không” của Thiền (Zen) theo điệu “không” trong “không có”.
Hiểu sai câu “bất lập văn tự” hay “ly văn tự” bằng cách chấp vào chữ “bất” và chữ “ly” ấy, nghĩa là hiểu theo điệu phủ nhận và chấp nhận;
Không hiểu chữ “Dasein” với “Das Seiende” một lầm lẫn quá nặng nề mà bất cứ người nào đã đọc triết lý Heidegger cũng không thể tha thứ được;
Thiền là Ngộ, Heidegger đứng trên vị trí “chưa Ngộ” mà viết triết lý; Rokusaburo Nieda “chưa Ngộ” mà leo lên chỗ “Ngộ” của Heidegger, rồi lại đem so sánh chữ “Không” của Ngộ với chữ “Không” của người chưa ngộ. Chữ “Không” của Heidegger còn nằm trong tri thức, còn nằm trong tính luận (ontoiogique); còn chữ “Không” của Thiền, tức là Sunyata của Tam luận tông, là đồng nghĩa với Tri Bát Nhã (Prajna) với giải thoát, chữ “Không” của Thiền là không hoá (néantiser) cả chữ “Không” tột đỉnh, kể cả “Nichts” của Heidegger. Chỉ khi nào chữ “không” (Nichts) bị phá tan đến vỡ tung mất đi thì “Sunyata” mới xuất hiện lên làm việc giải thoát toàn diện.
Thiền là Ngộ; Ngộ là giải thoát;
Chưa giải thoát mà nói về giải thoát thì chỉ có thể đứng trên lập trường sử học với ý thức rằng mình là kẻ chưa giải thoát;
Lặp lại lời nói của các thiền sư đã giác ngộ, đang khi mình chưa giác ngộ thì chính sự lặp lại ấy đã làm lời nói ấy trở nên vô nghĩa và rất nguy hiểm, đồng thời chặn đứng lại sự giải thoát của chính mình.
Đọc sách của Suzuki để hiểu tư tưởng của Suzuki; đọc Alan Watts để hiểu tư tưởng của Alan Watts; đọc Christmas Humphreys để hiểu tư tưởng của Christmas Humphreys; chứ đọc Suzuki, Alan Watts, Christmas Humphreys để hiểu tư tưởng Thiền là một điều sai lầm to lớn, là lầm ngón-tay-chỉ-ngón-tay-chỉ-ngón-tay-chỉ-ngón-tay với mặt trăng; lầm ngón tay chỉ mặt trăng đã là nguy hiểm; lầm ngón-tay-chỉ-ngón-tay-chỉ-mặt-trăng lại nguy hiểm gấp đôi; lầm ngón-tay-chỉ- ngón-tay-chỉ-ngón-tay, vân vân lại càng nguy hiểm vạn lần.
Thiền là giải thoát; chúng ta được quyền đem Thiền so sánh với bất cứ tư tưởng triết lý nào ở thế giới cũng được, nhưng khi so sánh phải nên nhớ Thiền là Thiền, còn tư tưởng triết lý nào dù cao siêu đến đâu nữa cũng còn nằm trong sự trói buộc của lý trí; dù là chủ nghĩa phi lý vẫn bị trói buộc bởi chữ “phi”.
Sau cùng phải thêm rằng, kẻ viết bài này “chưa Ngộ” và bài này được viết ra trong vị trí “chưa Ngộ” ấy. Hiểu giới hạn mình như thế, phải chăng cũng là thấy được đường đi rồi?
Hiểu Zen có nghĩa là lao vào đêm tối, bước đi trong đêm tối, không có đường, không thể thấy đường nào nữa. Cứ lủi đầu đi vào hố thẳm mà không mong đợi Giác Ngộ! Vứt bỏ luôn cả Zen! Xô ngã mọi con cờ, ném luôn cả ván cờ, đứng dậy, phủi tay và bước ra ngoài đường, ngó lên trời, ngó xuống đất, bước đi và gặp ai cũng cười, không muốn cười thì mở mắt ra nhìn thấy cái chết đang lang thang trên tất cả những hình dáng của mọi sự, rồi tự coi mình như một xác chết đang di động, cái xác chết ấy lại biết uống, biết ăn và biết đói. Và BIẾT YÊU nữa! Yêu, yêu, yêu, cái giống gì cũng yêu. Chết và yêu, yêu và chết, lúc nào cũng yêu-chết, lúc nào cũng chết-yêu. Vừa yêu vừa chết, tất cả phép lạ, tất cả phép lạ ở đấy!
Chú thích:
Hiểu Zen có nghĩa là lao vào đêm tối, bước đi trong đêm tối, không có đường, không thể thấy đường nào nữa. Cứ lủi đầu đi vào hố thẳm mà không mong đợi Giác Ngộ! Vứt bỏ luôn cả Zen! Xô ngã mọi con cờ, ném luôn cả ván cờ, đứng dậy, phủi tay và bước ra ngoài đường, ngó lên trời, ngó xuống đất, bước đi và gặp ai cũng cười, không muốn cười thì mở mắt ra nhìn thấy cái chết đang lang thang trên tất cả những hình dáng của mọi sự, rồi tự coi mình như một xác chết đang di động, cái xác chết ấy lại biết uống, biết ăn và biết đói. Và BIẾT YÊU nữa! Yêu, yêu, yêu, cái giống gì cũng yêu. Chết và yêu, yêu và chết, lúc nào cũng yêu-chết, lúc nào cũng chết-yêu. Vừa yêu vừa chết, tất cả phép lạ, tất cả phép lạ ở đấy!
Chú thích:
[1] Xem quyển Zen and Japanese Culture của D.T. Suzuki trang 3-18 Routledge and Kegan Paul, London, 1959. Hoặc quyển Introduction to Zen Buddhism của D.T. Suzuki, trang 38 - 47 (Routledge and company, London, 1949). Hoặc bộ Essays in Zen Buddhism của D.T. Suzuki, cuốn 1, 2, 3 (Rider and company, London, 1949, 1950, 1953). Hoặc quyển Zen for the West của Sohaku Ogata, trang 11- 20 (Rider and company, London, 1959). Hoặc quyển The Practice of Zen của Chang Chen Chi, trang 120-124 (Harber and Brothers, New York, 1959). Hoặc quyển Zen Buddhism của Christmas Humphreys. (George Allen and Unwin, Ltd, London 1960).
[2] Xem chương “Zen: A Reply to Dr Hu Shih” trong quyển Studies in Zen của D.T. Suzuki, trang 129 - 164 (Rider, London, 1959).
[2] Xem chương “Zen: A Reply to Dr Hu Shih” trong quyển Studies in Zen của D.T. Suzuki, trang 129 - 164 (Rider, London, 1959).
Chương tư
Ý thức bất diệt - Biểu tượng cuộc đời trong tiểu thuyết Ivo Andric
1. Năm 1961, nhà văn Nam Tư Ivo Andric được giải thưởng Nobel về quyển Cầu trên sông Drina. Ông gọi tiểu thuyết của ông là “Chronique” (biên niên sử), bởi vì Cầu trên sông Drina bao gồm trên ba trăm năm lịch sử Nam Tư.
Tôi không nghĩ rằng tôi đang đọc lịch sử. Tôi lại có cảm tưởng man mác rằng mình là một hồn ma; vì quá lưu luyến với cõi trần, nên trên ba trăm năm vẫn hiện về lảng vảng trên cầu Drina để theo dõi những đau thương của cuộc đời.
Càng lớn tuổi tôi càng thấy mình là một con ma giữa đời sống cô hồn này. Mỗi người là một con ma trong tương lai. Nhưng tương lai là gì? Nghĩa địa. Khi thấy mình là ma thì đồng thời cũng thấy mình là Phật, vì chỉ có Phật mới là kẻ duy nhất biết rằng mọi sự đều trở thành ma, nhưng khi vừa biết được như thế thì tất cả bóng ma đều tan mất.
Thế hệ này rồi đến thế hệ khác, lớp lớp người, lớp lớp sóng, bao nhiêu sương gió, mưa to bão loạn, khói lửa ngút trời: dòng sông Drina cuồng loạn, dòng sông Drina thanh bình. Cát bụi. Hương thời gian thổi qua heo hắt. Cầu Drina vẫn lạnh lùng bắc ngang dòng đời vô tận.
Thành phố Visegrad ở ngay bên cầu Drina. Từ mấy thế kỷ, cuộc đời lặng lẽ của dân cư thành phố đã bắt rễ ngay giữa cầu. Vận mạng dân cư thành phố và vận mạng chiếc cầu dính liền chặt chẽ với nhau đến nỗi người ta không thể nào nghĩ rời ra được [1]. Phần quan trọng nhất trên cầu Drina là kapia, sân thượng ở giữa cầu. Tất cả những biến cố lớn nhỏ đều xảy ra tại kapia. Nơi đây, những đêm trăng thanh gió mát, ta thấy bao nhiêu người lô nhô, lố nhố, trò chuyện, nô đùa sung sướng; hết thế hệ này rồi tới thế hệ khác, bao nhiêu lớp người kế tiếp nhau đều lần lượt trải qua chặng đời của họ nơi giữa cầu. Cũng có lúc cầu Drina hoàn toàn vắng lạnh hoang vu; thỉnh thoảng một vài cơn gió vèo qua trên mặt đất khô khan và ánh trăng ma quái chiếu rọi vào những đầu người ứ máu treo lắc lư giữa sân cầu. Đó là những thời tao loạn biến động ở biên thùy. Một vài người lính đi qua lại trên cầu; không khí nặng nề vây trùm cả thành phố. Rồi mọi sự đen tối cũng đều qua hết.
Tất cả đen tối đều phải đi qua. Cả ánh sáng cũng đi qua. Chỉ có người mù mới hiểu thế nào là đêm tối. Khi hiểu như vậy, thì đêm khuya mười hai giờ sẽ trở thành đêm giao thoa của ánh trăng và bình minh.
Cầu Drina lại sống bình thản như xưa; cũng từng ấy người nhỏ lớn, từng ấy câu chuyện vui buồn, từng ấy bi kịch và hài kịch của đời tiếp diễn không ngừng từ mấy trăm năm. Cuộc đời dân cư thành phố đã trôi chảy phát triển trên cầu và tại kapia. Người ta luôn luôn nghe những tiếng “trên cầu” trong tất cả những câu chuyện về biến cố gia đình, công cộng hay riêng tư. Những bước chân chập chững đầu tiên của tuổi thơ và những trò chơi ban đầu của tuổi trẻ đều xảy ra trên cầu Drina (trang 15). Tất cả mọi sự, như đám ma, đám cưới, tình yêu, sự thương lượng, buôn bán, giải hoà, gây cãi, tranh luận, họp mặt, hẹn hò và chờ đợi đều xảy ra nơi sân thượng giữa cầu.
Đời sống là cuộc nổi loạn nơi “sân thượng giữa cầu” và cái chết là dòng sông trôi chảy không ngừng “tự trời cao đổ xuống”.
Dân cư ở Visegrad mang nặng dòng máu nghệ sĩ, họ là những người thích trầm tư mặc tưởng, mơ mộng xa vời, phóng túng chơi vơi, triền miên, thanh thản với đời sống bên trong, tận hưởng thú đời, dễ dãi và xem thường tiền bạc. Người ta kể chuyện một tên cướp nọ, trước khi bỏ nghề vì quá già yếu, đã dặn một môn đệ như vầy: “Lúc nào anh định ẩn núp để đánh cướp và anh thấy thằng nào khùng khùng đi ngựa, chân thòng vắt ngang đằng trước yên, tay đánh trống, miệng hát ầm lên, anh đừng đánh cướp nó, mất công vô ích. Hãy để cho nó đi. Nó là dân ở thành Visegrad. Nó chẳng có tiền bạc gì cả, bởi vì tiền bạc chẳng bao giờ bám hạng người ấy” (trang 21).
Dân Visegrad thích ngồi giữa cầu vào lúc bình minh, hoàng hôn hoặc chiều tối để ngắm muôn triệu ngàn sao trên vòm trời hay ngồi dựa tay vào thành cầu, ngắm nhìn những luồng ánh sáng lung linh trên những triền núi và trông những đám mây chơi vơi. Họ là những thi sĩ không làm thơ, những con người nghệ sĩ sống mông lung trong mộng tưởng triền miên. Người ta nói rằng chính sân thượng kapia ấy đã ảnh hưởng đến vận mạng thành phố và đến cả tính tình bâng quơ của dân cư thành phố.
Lịch sử của cầu Drina cũng là lịch sử đời sống thành phố và đời sống dân cư ở đó.
Mehmed Pasna, đại nhân của đế quốc Thổ Nhĩ Kỳ, đã có công xây cất cầu Drina. Ngày trước, những vùng lệ thuộc đế quốc Thổ đều phải chịu lệ hiến máu. Quân lính Thổ đi lùng kiếm khắp nơi để bắt những trẻ con đẹp trai khoẻ mạnh - từ mười tuổi đến mười lăm tuổi. Những đứa trẻ này được nuôi nấng đàng hoàng ở Thổ Nhĩ Kỳ để trở thành dân Thổ và sống phụng sự đế quốc Thổ Nhĩ Kỳ. Một buổi sáng lờ mờ vào năm 1516, một đứa trẻ thông minh khoảng mười tuổi bị quân lính Thổ bắt đem về Stamboul, lúc đến dòng Drina, đứa bé ấy bỗng nhiên rưng rưng cảm thấy nhói đau trong lòng, nơi đây đã cô đọng tất cả nỗi tuyệt vọng và bất lực khôn cùng của con người, từ đây, đứa bé ấy phải lìa bỏ quê hương vĩnh viễn, theo một lối sống mới, mang tên mới và quên luôn gốc rễ của mình.
“Trở thành người lớn” và “trưởng thành” vẫn luôn luôn có nghĩa là phải chịu cảnh “quên luôn gốc rễ của mình”. Thảm kịch của con người hiện nay là mất rễ. Vũ trụ vốn không có rễ, phải sống cùng độ với sự mất gốc rễ này thì mới có thể ngó thẳng vào sự khủng khiếp ghê sợ của kiếp người: chỉ có sự sợ hãi mới giải thoát khỏi sự sợ hãi. Đi tìm lại gốc rễ là muốn nằm lại trong lòng mẹ. Tự tử.
Về sau, đứa bé ấy trở thành một vị anh hùng tài ba thống đốc và thượng thư trứ danh, tên là Mehmed Pasha Sokolli, người đã mở mang bờ cõi Thổ Nhĩ Kỳ và tạo nhiều huân công oanh liệt; Mehmed Pasha đã quên nguồn gốc ông, nhưng một hôm, bỗng nhiên những vết tích chua xót của tuổi thơ trở về ám ảnh ông một cách đau đớn mãnh liệt và ông cho xây chiếc cầu to lớn ngang qua dòng sông Drina để nối liền miền Bosnie và phương Đông, nối liền nơi ông chào đời và nơi ông thành người.
Phải làm sập đổ tất cả nhịp cầu trong đời mình. Đừng mong muốn bắc cầu lại, hãy để sự ngăn cách được là ngăn cách. Chịu đựng sự phân ly, yêu thương sự phân ly. Muốn bắt lại một nhịp cầu là muốn tìm lại khói nhà xưa, tìm lại cái gì đã bay lên và bay mất.
Sau bao lần trở ngại khó khăn, cầu Drina được cất xong vào năm 1571 và ít lâu sau, Mehmed Pasha chết; nhưng từ đó cầu Drina vẫn sống vĩnh cửu với thời gian, Qua những biến thiên phát triển nhanh chóng của thế hệ loài người, cầu Drina vẫn không ngừng thay đổi như dòng nước chảy dưới cầu (trang 71).
Cái gì rồi cũng thay đổi. Chỉ có một cái không bao giờ thay đổi, đó là cái chết.
Trên ba trăm năm trời, bao nhiêu thiên tai, bao nhiêu hiểm hoạ xảy ra… Bao lần chiến tranh, tàn sát, biến động, nổi loạn, dịch, lụt… chẳng hạn trận đại thủy tai vào hạ bán thế kỷ mười chín (chương V), trận nổi loạn ở Serbie vào đầu thế kỷ mười chín (chương VI), bệnh dịch vào giữa thế kỷ mười chín (chương VII), cuộc nổi dậy ở Serbie vào cuối thế kỷ mười chín (chương IX), quân đội Áo chiếm Bosnie vào năm 1878 (chương IX, X, XI, XIII, XIV, XVI, XVII, và XVIII), những chiến thắng của dân Serbes (chương XVIII), đại công Franz Ferdinand bị ám sát (chương XXII)…
Tất cả những biến cố trên đã lay chuyển tơi bời đời sống thành phố; vai trò cầu Drina nhiều lúc phải thay đổi hoàn toàn; sinh hoạt trên cầu cũng thế và cầu cũng bị chiến tranh tàn phá nhiều; thế mà sau bao lần dâu biển, cầu Drina vẫn không thay đổi qua những năm, qua những thế kỷ hoặc qua những khúc quanh đau đớn nhất trong những biến cố loài người… (trang 101).
2. Bên dòng sông Drina và nhất là nơi sân thượng giữa cầu, từ thế kỷ này đến thế kỷ khác, từng lớp người lặng lẽ đi vào cuộc đời rồi lại chết đi, để từng lớp người khác tiếp tục bước tới và chẳng bao lâu lại biến mất đi, để từng lớp người khác nữa… Cứ thế, cuộc đời vẫn miên man trôi chảy không ngừng như dòng suối ngầu bọt giữa ven rừng: suối vẫn chảy, luôn luôn mới nhưng luôn luôn vẫn là một dòng suối cũ. Những người ấy xuất hiện trên cõi đời như những bóng nắng mùa thu. Họ sống một thời gian ở cõi trần, mang nhiều hy sinh tha thiết với đời, chịu đựng nhiều đau khổ, rồi chết đi nhẹ nhàng như làn khói mỏng bâng quơ… Họ chết nhưng họ bất diệt.
Họ là Ilinka (người thiếu phụ điên và đau khổ), Radisav (vị anh hùng lẫm liệt bỏ mình vì lý tưởng), Arif Beg (người quản đốc việc xây cất cầu). Dauthodja Mutavelic (người quản thủ nhà trọ bên cầu), Jelisije (cụ già ái quốc), Mile (người nhà quê ngây ngô), Salko Corkan (con người cầu bơ cầu bất, lãng tử), Fata (giai nhân mệnh bạc), Alihodja Mutevelic (con nhà danh gia vọng tộc), Pop Nicola (giáo trưởng), Mula Ibrahim (quí tộc), Shemsibeg Brankovic (con người cứng đầu bướng bỉnh), Milan Glasicanin (người đánh bạc), Gregor Fedun (anh lính trẻ tuổi si tình), Lotte (cô quản lý lữ quán), Nikola Glasicanin (chàng thanh niên ái quốc nghèo khổ), Vlado Maric (người thợ trẻ nghèo), Fehim Bahtijarevic (người sinh viên trầm lặng), Pavle Ranpovic (bác thương gia lạc lõng), Corka (cô giáo non trẻ) và Jamak (lão đưa đò quái dị).
Họ sống không lâu ở cõi đời nhưng họ đã để lại trong tâm tưởng tôi những hình ảnh rực ngời nhất của con người, nhất là Ilinka và Jamak, hai kiếp sống tầm thường nhất trong những kiếp sống trên, thế mà không hiểu vì sao tôi cứ bị hai hình bóng tầm thường ấy ám ảnh theo đuổi tôi một cách lạ lùng nhất; tôi thấy rõ nét mặt kỳ dị của Jamak và nghe tiếng than khóc ảo não của Ilinka trong tiềm thức, nhất là vào những đêm tối có trăng. Phải chăng Jamak và Ilinka là những hình ảnh trung thực nhất của con người. Con người sinh để khổ rồi chết. Phải chăng chính sự đau khổ đó làm con người trở nên một con vật cao quý nhất, tốt đẹp nhất? Con người bất diệt bởi vì con người đau khổ. Những lời nói của Faulkner (trong lúc nhận giải thưởng Nobel vào khoảng mười năm trước Ivo Andric) mà đến hôm nay vẫn còn văng vẳng bên tai tôi: “Con người bất diệt bởi vì con người có một linh hồn, một tâm hồn dễ trắc ẩn động lòng, biết hy sinh và chịu đựng đau khổ” [2].
Trên đường đời luân lạc, tôi đã từng gặp biết bao nhiêu cụ già lái đò, tóc bạc trắng phơ, cô đơn chiếc bóng, không gia đình, không con không cái, ngày ngày hiu quạnh đưa khách sang sông. Tôi đã nghĩ gì? Trên những vỉa hè đầu phố, tôi đã từng gặp biết bao nhiêu người đàn bà điên khùng ngơ ngác, bơ vơ, lạc lõng lang thang giữa người đời như con chó ghẻ? Tôi đã nghĩ gì?
Jamak sống vào thời cầu Drina chưa được xây cất. Thuở ấy, chỉ có Jamak chèo đò đưa khách sang sông. Jamak là một cụ già lầm lì trông rất dễ sợ. Chiến tranh đã tàn phá tâm hồn cụ và cụ trở nên bơ phờ lạnh lùng trước cuộc sống. Con người lầm lì ấy đã tung hoành ngang dọc trong mấy trận địa, mang nhiều thương tích và nhiều tiếng tăm, để rồi vào buổi hoàng hôn của đời mình trở về lặng lẽ âm thầm trên dòng Drina. Cụ không bao giờ cười và cũng không bao giờ nói chuyện với khách sang sông; mỗi lần trả tiền đò người ta cứ ném tiền xuống khoang thuyền và cụ vẫn lạnh lùng chẳng bao giờ quan tâm đến. Nét mặt trông hung dữ, nhưng tính tình cương trực ngay thẳng. Những lúc mực nước sông lên cao hay trời kéo mây, cụ kéo đò vào nghỉ và lúc bấy giờ, dòng sông Drina trở thành đại dương bao la vì không ai có thể qua sông được nữa; có kêu gọi cách gì đi nữa; Jamak cũng không bao giờ trả lời. Tiếng người gọi đò ơi ới chan hoà với tiếng mưa rơi phũ phàng, rồi biến mất giữa dòng sông. Cuộc sống lặng lẽ của cụ lái đò cô đơn và kỳ quặc ấy khiến ta bàng hoàng nghĩ ngợi. Những gì đau thương chua xót của đời đã hằn vết ray rứt trong lòng cụ để rồi lúc tóc bạc trắng phơ cụ trở về sống âm thầm bên dòng Drina:
Ý thức bất diệt - Biểu tượng cuộc đời trong tiểu thuyết Ivo Andric
1. Năm 1961, nhà văn Nam Tư Ivo Andric được giải thưởng Nobel về quyển Cầu trên sông Drina. Ông gọi tiểu thuyết của ông là “Chronique” (biên niên sử), bởi vì Cầu trên sông Drina bao gồm trên ba trăm năm lịch sử Nam Tư.
Tôi không nghĩ rằng tôi đang đọc lịch sử. Tôi lại có cảm tưởng man mác rằng mình là một hồn ma; vì quá lưu luyến với cõi trần, nên trên ba trăm năm vẫn hiện về lảng vảng trên cầu Drina để theo dõi những đau thương của cuộc đời.
Càng lớn tuổi tôi càng thấy mình là một con ma giữa đời sống cô hồn này. Mỗi người là một con ma trong tương lai. Nhưng tương lai là gì? Nghĩa địa. Khi thấy mình là ma thì đồng thời cũng thấy mình là Phật, vì chỉ có Phật mới là kẻ duy nhất biết rằng mọi sự đều trở thành ma, nhưng khi vừa biết được như thế thì tất cả bóng ma đều tan mất.
Thế hệ này rồi đến thế hệ khác, lớp lớp người, lớp lớp sóng, bao nhiêu sương gió, mưa to bão loạn, khói lửa ngút trời: dòng sông Drina cuồng loạn, dòng sông Drina thanh bình. Cát bụi. Hương thời gian thổi qua heo hắt. Cầu Drina vẫn lạnh lùng bắc ngang dòng đời vô tận.
Thành phố Visegrad ở ngay bên cầu Drina. Từ mấy thế kỷ, cuộc đời lặng lẽ của dân cư thành phố đã bắt rễ ngay giữa cầu. Vận mạng dân cư thành phố và vận mạng chiếc cầu dính liền chặt chẽ với nhau đến nỗi người ta không thể nào nghĩ rời ra được [1]. Phần quan trọng nhất trên cầu Drina là kapia, sân thượng ở giữa cầu. Tất cả những biến cố lớn nhỏ đều xảy ra tại kapia. Nơi đây, những đêm trăng thanh gió mát, ta thấy bao nhiêu người lô nhô, lố nhố, trò chuyện, nô đùa sung sướng; hết thế hệ này rồi tới thế hệ khác, bao nhiêu lớp người kế tiếp nhau đều lần lượt trải qua chặng đời của họ nơi giữa cầu. Cũng có lúc cầu Drina hoàn toàn vắng lạnh hoang vu; thỉnh thoảng một vài cơn gió vèo qua trên mặt đất khô khan và ánh trăng ma quái chiếu rọi vào những đầu người ứ máu treo lắc lư giữa sân cầu. Đó là những thời tao loạn biến động ở biên thùy. Một vài người lính đi qua lại trên cầu; không khí nặng nề vây trùm cả thành phố. Rồi mọi sự đen tối cũng đều qua hết.
Tất cả đen tối đều phải đi qua. Cả ánh sáng cũng đi qua. Chỉ có người mù mới hiểu thế nào là đêm tối. Khi hiểu như vậy, thì đêm khuya mười hai giờ sẽ trở thành đêm giao thoa của ánh trăng và bình minh.
Cầu Drina lại sống bình thản như xưa; cũng từng ấy người nhỏ lớn, từng ấy câu chuyện vui buồn, từng ấy bi kịch và hài kịch của đời tiếp diễn không ngừng từ mấy trăm năm. Cuộc đời dân cư thành phố đã trôi chảy phát triển trên cầu và tại kapia. Người ta luôn luôn nghe những tiếng “trên cầu” trong tất cả những câu chuyện về biến cố gia đình, công cộng hay riêng tư. Những bước chân chập chững đầu tiên của tuổi thơ và những trò chơi ban đầu của tuổi trẻ đều xảy ra trên cầu Drina (trang 15). Tất cả mọi sự, như đám ma, đám cưới, tình yêu, sự thương lượng, buôn bán, giải hoà, gây cãi, tranh luận, họp mặt, hẹn hò và chờ đợi đều xảy ra nơi sân thượng giữa cầu.
Đời sống là cuộc nổi loạn nơi “sân thượng giữa cầu” và cái chết là dòng sông trôi chảy không ngừng “tự trời cao đổ xuống”.
Dân cư ở Visegrad mang nặng dòng máu nghệ sĩ, họ là những người thích trầm tư mặc tưởng, mơ mộng xa vời, phóng túng chơi vơi, triền miên, thanh thản với đời sống bên trong, tận hưởng thú đời, dễ dãi và xem thường tiền bạc. Người ta kể chuyện một tên cướp nọ, trước khi bỏ nghề vì quá già yếu, đã dặn một môn đệ như vầy: “Lúc nào anh định ẩn núp để đánh cướp và anh thấy thằng nào khùng khùng đi ngựa, chân thòng vắt ngang đằng trước yên, tay đánh trống, miệng hát ầm lên, anh đừng đánh cướp nó, mất công vô ích. Hãy để cho nó đi. Nó là dân ở thành Visegrad. Nó chẳng có tiền bạc gì cả, bởi vì tiền bạc chẳng bao giờ bám hạng người ấy” (trang 21).
Dân Visegrad thích ngồi giữa cầu vào lúc bình minh, hoàng hôn hoặc chiều tối để ngắm muôn triệu ngàn sao trên vòm trời hay ngồi dựa tay vào thành cầu, ngắm nhìn những luồng ánh sáng lung linh trên những triền núi và trông những đám mây chơi vơi. Họ là những thi sĩ không làm thơ, những con người nghệ sĩ sống mông lung trong mộng tưởng triền miên. Người ta nói rằng chính sân thượng kapia ấy đã ảnh hưởng đến vận mạng thành phố và đến cả tính tình bâng quơ của dân cư thành phố.
Lịch sử của cầu Drina cũng là lịch sử đời sống thành phố và đời sống dân cư ở đó.
Mehmed Pasna, đại nhân của đế quốc Thổ Nhĩ Kỳ, đã có công xây cất cầu Drina. Ngày trước, những vùng lệ thuộc đế quốc Thổ đều phải chịu lệ hiến máu. Quân lính Thổ đi lùng kiếm khắp nơi để bắt những trẻ con đẹp trai khoẻ mạnh - từ mười tuổi đến mười lăm tuổi. Những đứa trẻ này được nuôi nấng đàng hoàng ở Thổ Nhĩ Kỳ để trở thành dân Thổ và sống phụng sự đế quốc Thổ Nhĩ Kỳ. Một buổi sáng lờ mờ vào năm 1516, một đứa trẻ thông minh khoảng mười tuổi bị quân lính Thổ bắt đem về Stamboul, lúc đến dòng Drina, đứa bé ấy bỗng nhiên rưng rưng cảm thấy nhói đau trong lòng, nơi đây đã cô đọng tất cả nỗi tuyệt vọng và bất lực khôn cùng của con người, từ đây, đứa bé ấy phải lìa bỏ quê hương vĩnh viễn, theo một lối sống mới, mang tên mới và quên luôn gốc rễ của mình.
“Trở thành người lớn” và “trưởng thành” vẫn luôn luôn có nghĩa là phải chịu cảnh “quên luôn gốc rễ của mình”. Thảm kịch của con người hiện nay là mất rễ. Vũ trụ vốn không có rễ, phải sống cùng độ với sự mất gốc rễ này thì mới có thể ngó thẳng vào sự khủng khiếp ghê sợ của kiếp người: chỉ có sự sợ hãi mới giải thoát khỏi sự sợ hãi. Đi tìm lại gốc rễ là muốn nằm lại trong lòng mẹ. Tự tử.
Về sau, đứa bé ấy trở thành một vị anh hùng tài ba thống đốc và thượng thư trứ danh, tên là Mehmed Pasha Sokolli, người đã mở mang bờ cõi Thổ Nhĩ Kỳ và tạo nhiều huân công oanh liệt; Mehmed Pasha đã quên nguồn gốc ông, nhưng một hôm, bỗng nhiên những vết tích chua xót của tuổi thơ trở về ám ảnh ông một cách đau đớn mãnh liệt và ông cho xây chiếc cầu to lớn ngang qua dòng sông Drina để nối liền miền Bosnie và phương Đông, nối liền nơi ông chào đời và nơi ông thành người.
Phải làm sập đổ tất cả nhịp cầu trong đời mình. Đừng mong muốn bắc cầu lại, hãy để sự ngăn cách được là ngăn cách. Chịu đựng sự phân ly, yêu thương sự phân ly. Muốn bắt lại một nhịp cầu là muốn tìm lại khói nhà xưa, tìm lại cái gì đã bay lên và bay mất.
Sau bao lần trở ngại khó khăn, cầu Drina được cất xong vào năm 1571 và ít lâu sau, Mehmed Pasha chết; nhưng từ đó cầu Drina vẫn sống vĩnh cửu với thời gian, Qua những biến thiên phát triển nhanh chóng của thế hệ loài người, cầu Drina vẫn không ngừng thay đổi như dòng nước chảy dưới cầu (trang 71).
Cái gì rồi cũng thay đổi. Chỉ có một cái không bao giờ thay đổi, đó là cái chết.
Trên ba trăm năm trời, bao nhiêu thiên tai, bao nhiêu hiểm hoạ xảy ra… Bao lần chiến tranh, tàn sát, biến động, nổi loạn, dịch, lụt… chẳng hạn trận đại thủy tai vào hạ bán thế kỷ mười chín (chương V), trận nổi loạn ở Serbie vào đầu thế kỷ mười chín (chương VI), bệnh dịch vào giữa thế kỷ mười chín (chương VII), cuộc nổi dậy ở Serbie vào cuối thế kỷ mười chín (chương IX), quân đội Áo chiếm Bosnie vào năm 1878 (chương IX, X, XI, XIII, XIV, XVI, XVII, và XVIII), những chiến thắng của dân Serbes (chương XVIII), đại công Franz Ferdinand bị ám sát (chương XXII)…
Tất cả những biến cố trên đã lay chuyển tơi bời đời sống thành phố; vai trò cầu Drina nhiều lúc phải thay đổi hoàn toàn; sinh hoạt trên cầu cũng thế và cầu cũng bị chiến tranh tàn phá nhiều; thế mà sau bao lần dâu biển, cầu Drina vẫn không thay đổi qua những năm, qua những thế kỷ hoặc qua những khúc quanh đau đớn nhất trong những biến cố loài người… (trang 101).
2. Bên dòng sông Drina và nhất là nơi sân thượng giữa cầu, từ thế kỷ này đến thế kỷ khác, từng lớp người lặng lẽ đi vào cuộc đời rồi lại chết đi, để từng lớp người khác tiếp tục bước tới và chẳng bao lâu lại biến mất đi, để từng lớp người khác nữa… Cứ thế, cuộc đời vẫn miên man trôi chảy không ngừng như dòng suối ngầu bọt giữa ven rừng: suối vẫn chảy, luôn luôn mới nhưng luôn luôn vẫn là một dòng suối cũ. Những người ấy xuất hiện trên cõi đời như những bóng nắng mùa thu. Họ sống một thời gian ở cõi trần, mang nhiều hy sinh tha thiết với đời, chịu đựng nhiều đau khổ, rồi chết đi nhẹ nhàng như làn khói mỏng bâng quơ… Họ chết nhưng họ bất diệt.
Họ là Ilinka (người thiếu phụ điên và đau khổ), Radisav (vị anh hùng lẫm liệt bỏ mình vì lý tưởng), Arif Beg (người quản đốc việc xây cất cầu). Dauthodja Mutavelic (người quản thủ nhà trọ bên cầu), Jelisije (cụ già ái quốc), Mile (người nhà quê ngây ngô), Salko Corkan (con người cầu bơ cầu bất, lãng tử), Fata (giai nhân mệnh bạc), Alihodja Mutevelic (con nhà danh gia vọng tộc), Pop Nicola (giáo trưởng), Mula Ibrahim (quí tộc), Shemsibeg Brankovic (con người cứng đầu bướng bỉnh), Milan Glasicanin (người đánh bạc), Gregor Fedun (anh lính trẻ tuổi si tình), Lotte (cô quản lý lữ quán), Nikola Glasicanin (chàng thanh niên ái quốc nghèo khổ), Vlado Maric (người thợ trẻ nghèo), Fehim Bahtijarevic (người sinh viên trầm lặng), Pavle Ranpovic (bác thương gia lạc lõng), Corka (cô giáo non trẻ) và Jamak (lão đưa đò quái dị).
Họ sống không lâu ở cõi đời nhưng họ đã để lại trong tâm tưởng tôi những hình ảnh rực ngời nhất của con người, nhất là Ilinka và Jamak, hai kiếp sống tầm thường nhất trong những kiếp sống trên, thế mà không hiểu vì sao tôi cứ bị hai hình bóng tầm thường ấy ám ảnh theo đuổi tôi một cách lạ lùng nhất; tôi thấy rõ nét mặt kỳ dị của Jamak và nghe tiếng than khóc ảo não của Ilinka trong tiềm thức, nhất là vào những đêm tối có trăng. Phải chăng Jamak và Ilinka là những hình ảnh trung thực nhất của con người. Con người sinh để khổ rồi chết. Phải chăng chính sự đau khổ đó làm con người trở nên một con vật cao quý nhất, tốt đẹp nhất? Con người bất diệt bởi vì con người đau khổ. Những lời nói của Faulkner (trong lúc nhận giải thưởng Nobel vào khoảng mười năm trước Ivo Andric) mà đến hôm nay vẫn còn văng vẳng bên tai tôi: “Con người bất diệt bởi vì con người có một linh hồn, một tâm hồn dễ trắc ẩn động lòng, biết hy sinh và chịu đựng đau khổ” [2].
Trên đường đời luân lạc, tôi đã từng gặp biết bao nhiêu cụ già lái đò, tóc bạc trắng phơ, cô đơn chiếc bóng, không gia đình, không con không cái, ngày ngày hiu quạnh đưa khách sang sông. Tôi đã nghĩ gì? Trên những vỉa hè đầu phố, tôi đã từng gặp biết bao nhiêu người đàn bà điên khùng ngơ ngác, bơ vơ, lạc lõng lang thang giữa người đời như con chó ghẻ? Tôi đã nghĩ gì?
Jamak sống vào thời cầu Drina chưa được xây cất. Thuở ấy, chỉ có Jamak chèo đò đưa khách sang sông. Jamak là một cụ già lầm lì trông rất dễ sợ. Chiến tranh đã tàn phá tâm hồn cụ và cụ trở nên bơ phờ lạnh lùng trước cuộc sống. Con người lầm lì ấy đã tung hoành ngang dọc trong mấy trận địa, mang nhiều thương tích và nhiều tiếng tăm, để rồi vào buổi hoàng hôn của đời mình trở về lặng lẽ âm thầm trên dòng Drina. Cụ không bao giờ cười và cũng không bao giờ nói chuyện với khách sang sông; mỗi lần trả tiền đò người ta cứ ném tiền xuống khoang thuyền và cụ vẫn lạnh lùng chẳng bao giờ quan tâm đến. Nét mặt trông hung dữ, nhưng tính tình cương trực ngay thẳng. Những lúc mực nước sông lên cao hay trời kéo mây, cụ kéo đò vào nghỉ và lúc bấy giờ, dòng sông Drina trở thành đại dương bao la vì không ai có thể qua sông được nữa; có kêu gọi cách gì đi nữa; Jamak cũng không bao giờ trả lời. Tiếng người gọi đò ơi ới chan hoà với tiếng mưa rơi phũ phàng, rồi biến mất giữa dòng sông. Cuộc sống lặng lẽ của cụ lái đò cô đơn và kỳ quặc ấy khiến ta bàng hoàng nghĩ ngợi. Những gì đau thương chua xót của đời đã hằn vết ray rứt trong lòng cụ để rồi lúc tóc bạc trắng phơ cụ trở về sống âm thầm bên dòng Drina:
Sầu kiến chu hành phong hựu khởi
Bạch đầu lãng lý bạch đầu nhân
Bạch đầu lãng lý bạch đầu nhân
Hình ảnh Jamak nhắc lại hình ảnh của một người lái đò khác tên là Vasudeva, trong truyện Siddharta của Hermann Hesse (Nobel 1946).
Jamak và Vasudeva là hai người lái đò lạ thường kỳ bí nhứt trong văn chương nhân loại, mà có lẽ suốt đời tôi không bao giờ quên được.
Trong truyện Cầu trên sông Drina, ngoài Jamak, ta cũng không thể quên Ilinka xuất hiện vào lúc cầu Drina bắt đầu được xây cất. Nàng là một người đầy tớ nghèo khổ, khùng khùng điên điên, thế rồi bỗng nhiên nàng có thai và nàng cũng không hề nói đến tên người đã gây đau khổ cho nàng (hay là nàng cũng không biết ai). Nàng sinh đôi trong một chuồng ngựa nào đó; hai đứa hài nhi đều chết; người ta chôn hai đứa con nàng trong một vườn mận. Vài ngày sau, Ilinka ngồi dậy và đi tìm kiếm hai đứa con nàng; nàng bơ phờ đi tìm khắp nơi trong làng hoặc lai vãng bên bờ sông. Người ta cố giải thích rằng con nàng đã chết, nhưng Ilinka nhứt định không tin. Từ đó, ngày nào người ta cũng gặp nàng đi thất tha thất thểu khắp nơi. Một thời gian sau, vào mùa đông lạnh buốt, nàng biệt tăm mất dạng luôn. Người thiếu phụ điên khùng đau khổ ấy là hình ảnh trọn vẹn đẹp đẽ nhất của người đàn bà.
Ngoài Jamak và Ilinka, đáng nhớ nhất là Fata, Gregor Fedun, Radisav, Jelisije, Dauthodja Mutavelic, Alihodja Mutavelic, Nikola Glasicanin, Salko Clirkan, Lotte...
Họ đều là những tâm hồn cao quí, sống trung thành với quả tim của họ, họ thà chết chứ không bao giờ tự đánh lừa hay là để kẻ khác đánh lừa mình, chẳng hạn Gregor Fedun, một anh lính trẻ tuổi gác trên kapia của cầu Drina, đã tha thiết yêu đắm một cô gái đi đường; đang lúc chàng ngây thơ dâng trọn tâm hồn mình, chàng có ngờ đâu chàng đã bị cô gái kia đánh lừa để âm mưu tìm đường tẩu thoát cho một tên cướp ghê gớm; chàng đã lỡ yêu say đắm, đến khi mọi sự đổ vỡ, chàng không thể nào sống được vì chàng đã lỡ yêu say đắm, đến khi mọi sự đổ vỡ, chàng không thể nào sống được, vì chàng đã để kẻ khác đánh lừa chàng một cách thảm thương và chàng đã tự kết thúc đời chàng. Đó là sự kết liễu của một kẻ đã tự đánh lừa và để kẻ khác đánh lừa mình (trang 167).
Hãy để cho người khác đánh lừa mình. Còn sợ tự đánh lừa hay còn sợ người khác đánh lừa mình thì vẫn còn nô lệ vào sự ngu đần của bản ngã. Cứ ngu dại, cứ khờ khệch, cứ để cho mọi người đánh lừa mình, đó là sức mạnh vô hình của hố thẳm.
Hình ảnh Fata cũng đẹp đẽ vô cùng. Cha nàng bắt nàng lấy một người chồng mà nàng không yêu. Nàng vâng lời cha để giữ trọn đạo con, nhưng đồng thời nàng cũng vâng lời quả tim nàng để giữ trọn đạo sống khi đám rước dâu đi đến giữa sân cầu, Fata đã nhảy xuống dòng sông Drina để tìm nơi chốn nào mà tất cả mọi sự đều tự do, vô tận, vô danh và im lặng (trang 109).
Chúng ta không thể nào quên được Radisav, vị anh hùng bất khuất, người đã hy sinh hơi thở của mình để tranh đấu chống lại tàn bạo. Radisav đã bị hành hình ngay trên cầu; chàng chết, nhưng bất diệt như một tượng đá ngàn năm vẫn còn đó (trang 55).
Radisav, Fanta, Gregor Rebun đều ở trong những hoàn cảnh khác nhau, nhưng cả ba giống nhau là đều tìm sự sống trong cõi chết; khi cuộc đời không còn đáp trả lại những tiếng gọi đau thương của lòng họ; họ đã bỏ đi để tìm miền hoa thơm cỏ biếc của một chân trời khác.
Jelisije thoáng hiện trên cầu Drina như một du khách ở trần gian, một bóng phù du trong một thế giới phù du (trang 85) Jelisije là một cụ già có hình dáng của một tiên ông, suốt ngày bềnh bồng lang thang trên những nẻo đường, hết đi hành hương nơi này rồi đến nơi nọ, cuộc đời cụ như một bóng mây phiêu diêu. Vì lòng khí khái và ái quốc, cụ đã bị hành hình trên cầu cùng với người nhà quê ngây thơ vô tội, tên là Mile.
Dauthodja Mutavelic, Alihodja Mutavelic, Nikola Glasicanin, Lotte, Salko Corkan đều là những con người biết sống trọn vẹn với đời họ, cứng đầu cứng cổ, trầm lặng, chịu đựng đau khổ, đầy lòng hy sinh nhân ái, tha thiết vời người, thành thật với lòng họ.
Dauthodja Mutavelic đã nói lên ý nghĩa chung của họ: “Vận mạng chúng tôi trên mặt đất này là đấu tranh chống lại sự suy đồi, sự chết và sự phân tán; dù sự chiến đấu có hoàn toàn hoài công đi nữa, con người cũng phải chịu đựng kiên nhẫn trong sự chiến đấu này” (trang 73).
Sự suy đồi, sự chết và sự phân tán là những điều bí mật của đời sống. Không chiến đấu chống lại sự bí mật. Không giải quyết sự bí mật. Chấp nhận sự bí mật và sống với sự bí mật mà không cần tìm hiểu. Bổn phận của tôi.
3. Ivo Andric đã dựng lại hình ảnh của cầu Drina trên ba trăm trang giấy. Ông muốn nói gì? Phải chăng cầu Drina là biểu tượng của cuộc đời? Trải qua bao nhiêu tang thương biến đổi, trải qua bao nhiêu bi hài kịch của con người, dòng đời cứ trôi chảy mênh mang và bất diệt. Sau bao lần thủy tai, sau bao lần chiến tranh khói lửa, cầu Drina vẫn trường tồn với thời gian (trang 70, 71, trang 80, 81, trang 93, trang 101, trang 142 – 143, trang 214, trang 223, trang 234, trang 289, trang 307…)
Không có gì trường tồn với thời gian. Thời gian chỉ là thời gian vì thời gian vẫn đi qua. Chỉ có giây phút hiện tại là thời gian duy nhất, sự trường tồn duy nhất, để vừa sống vừa chết, vừa yêu vừa thương, vừa cảm tạ vừa sáng tạo. Sự trường tồn là ảo tưởng. Chỉ có sự trường tồn duy nhất là khói thuốc. Và một đôi mắt nào đó của người yêu bắt gặp đôi mắt mình trong một thoáng nhìn lướt qua.
Phải chăng ý nghĩa của tác phẩm Cầu trên sông Drina nằm gọn trong câu văn sau đây: “Cuộc đời là một sự huyền diệu khó hiểu, mặc dù bị phá huỷ tàn hại không ngừng, cuộc đời vẫn trường tồn như chiếc Cầu trên sông Drina” (trang 81).
Quyển truyện chấm dứt lúc Alihodja từ giã cuộc đời và lúc cầu Drina bị chiến tranh phá huỷ thế mà người đọc không cảm thấy thất vọng và lại mang đầy hy vọng triền miên như Alihodja (lúc thở hơi cuối cùng, Alihodja vẫn còn tin tưởng mãnh liệt vào cuộc đời).
Tôi cảm thấy lo lắng lúc thấy cầu Drina bị chiến tranh phá hủy, đọc xong quyển truyện rồi, tôi băn khoăn tự hỏi không biết ngày hôm nay cầu Drina ấy có còn trường tồn ở Nam Tư hay không? Lần dở lại những trang giới thiệu của dịch giả Lovett F. Edwards, tôi vui sướng biết bao được biết rằng: “Du khách đến Nam Tư vẫn còn có thể nhìn thấy chiếc cầu trên sông Drina” (trang 7).
Khi tôi không còn sợ hãi thì chiếc cầu sông Drina vẫn còn đó: Chỉ một thoáng sợ hãi lướt nhẹ qua tim thì một triệu chiếc cầu Drina cũng tan ngay lập tức.
Dù có bị phá hủy, cầu Drina vẫn bất diệt. Ivo Andric đã dựng lên biểu tượng trọn vẹn của cuộc đời.
Sự bất diệt chỉ có ý nghĩa khi nào mình sợ chết. Không sợ chết thì cái chết trở thành chiếc cầu đưa mình qua một miền đầy hoa phong lữ thảo và nắng mới.
Một chiếc cầu và một dòng sông. Chỉ có bấy nhiêu thôi cũng gây nhiều nghĩ ngợi.
Chú thích:
Jamak và Vasudeva là hai người lái đò lạ thường kỳ bí nhứt trong văn chương nhân loại, mà có lẽ suốt đời tôi không bao giờ quên được.
Trong truyện Cầu trên sông Drina, ngoài Jamak, ta cũng không thể quên Ilinka xuất hiện vào lúc cầu Drina bắt đầu được xây cất. Nàng là một người đầy tớ nghèo khổ, khùng khùng điên điên, thế rồi bỗng nhiên nàng có thai và nàng cũng không hề nói đến tên người đã gây đau khổ cho nàng (hay là nàng cũng không biết ai). Nàng sinh đôi trong một chuồng ngựa nào đó; hai đứa hài nhi đều chết; người ta chôn hai đứa con nàng trong một vườn mận. Vài ngày sau, Ilinka ngồi dậy và đi tìm kiếm hai đứa con nàng; nàng bơ phờ đi tìm khắp nơi trong làng hoặc lai vãng bên bờ sông. Người ta cố giải thích rằng con nàng đã chết, nhưng Ilinka nhứt định không tin. Từ đó, ngày nào người ta cũng gặp nàng đi thất tha thất thểu khắp nơi. Một thời gian sau, vào mùa đông lạnh buốt, nàng biệt tăm mất dạng luôn. Người thiếu phụ điên khùng đau khổ ấy là hình ảnh trọn vẹn đẹp đẽ nhất của người đàn bà.
Ngoài Jamak và Ilinka, đáng nhớ nhất là Fata, Gregor Fedun, Radisav, Jelisije, Dauthodja Mutavelic, Alihodja Mutavelic, Nikola Glasicanin, Salko Clirkan, Lotte...
Họ đều là những tâm hồn cao quí, sống trung thành với quả tim của họ, họ thà chết chứ không bao giờ tự đánh lừa hay là để kẻ khác đánh lừa mình, chẳng hạn Gregor Fedun, một anh lính trẻ tuổi gác trên kapia của cầu Drina, đã tha thiết yêu đắm một cô gái đi đường; đang lúc chàng ngây thơ dâng trọn tâm hồn mình, chàng có ngờ đâu chàng đã bị cô gái kia đánh lừa để âm mưu tìm đường tẩu thoát cho một tên cướp ghê gớm; chàng đã lỡ yêu say đắm, đến khi mọi sự đổ vỡ, chàng không thể nào sống được vì chàng đã lỡ yêu say đắm, đến khi mọi sự đổ vỡ, chàng không thể nào sống được, vì chàng đã để kẻ khác đánh lừa chàng một cách thảm thương và chàng đã tự kết thúc đời chàng. Đó là sự kết liễu của một kẻ đã tự đánh lừa và để kẻ khác đánh lừa mình (trang 167).
Hãy để cho người khác đánh lừa mình. Còn sợ tự đánh lừa hay còn sợ người khác đánh lừa mình thì vẫn còn nô lệ vào sự ngu đần của bản ngã. Cứ ngu dại, cứ khờ khệch, cứ để cho mọi người đánh lừa mình, đó là sức mạnh vô hình của hố thẳm.
Hình ảnh Fata cũng đẹp đẽ vô cùng. Cha nàng bắt nàng lấy một người chồng mà nàng không yêu. Nàng vâng lời cha để giữ trọn đạo con, nhưng đồng thời nàng cũng vâng lời quả tim nàng để giữ trọn đạo sống khi đám rước dâu đi đến giữa sân cầu, Fata đã nhảy xuống dòng sông Drina để tìm nơi chốn nào mà tất cả mọi sự đều tự do, vô tận, vô danh và im lặng (trang 109).
Chúng ta không thể nào quên được Radisav, vị anh hùng bất khuất, người đã hy sinh hơi thở của mình để tranh đấu chống lại tàn bạo. Radisav đã bị hành hình ngay trên cầu; chàng chết, nhưng bất diệt như một tượng đá ngàn năm vẫn còn đó (trang 55).
Radisav, Fanta, Gregor Rebun đều ở trong những hoàn cảnh khác nhau, nhưng cả ba giống nhau là đều tìm sự sống trong cõi chết; khi cuộc đời không còn đáp trả lại những tiếng gọi đau thương của lòng họ; họ đã bỏ đi để tìm miền hoa thơm cỏ biếc của một chân trời khác.
Jelisije thoáng hiện trên cầu Drina như một du khách ở trần gian, một bóng phù du trong một thế giới phù du (trang 85) Jelisije là một cụ già có hình dáng của một tiên ông, suốt ngày bềnh bồng lang thang trên những nẻo đường, hết đi hành hương nơi này rồi đến nơi nọ, cuộc đời cụ như một bóng mây phiêu diêu. Vì lòng khí khái và ái quốc, cụ đã bị hành hình trên cầu cùng với người nhà quê ngây thơ vô tội, tên là Mile.
Dauthodja Mutavelic, Alihodja Mutavelic, Nikola Glasicanin, Lotte, Salko Corkan đều là những con người biết sống trọn vẹn với đời họ, cứng đầu cứng cổ, trầm lặng, chịu đựng đau khổ, đầy lòng hy sinh nhân ái, tha thiết vời người, thành thật với lòng họ.
Dauthodja Mutavelic đã nói lên ý nghĩa chung của họ: “Vận mạng chúng tôi trên mặt đất này là đấu tranh chống lại sự suy đồi, sự chết và sự phân tán; dù sự chiến đấu có hoàn toàn hoài công đi nữa, con người cũng phải chịu đựng kiên nhẫn trong sự chiến đấu này” (trang 73).
Sự suy đồi, sự chết và sự phân tán là những điều bí mật của đời sống. Không chiến đấu chống lại sự bí mật. Không giải quyết sự bí mật. Chấp nhận sự bí mật và sống với sự bí mật mà không cần tìm hiểu. Bổn phận của tôi.
3. Ivo Andric đã dựng lại hình ảnh của cầu Drina trên ba trăm trang giấy. Ông muốn nói gì? Phải chăng cầu Drina là biểu tượng của cuộc đời? Trải qua bao nhiêu tang thương biến đổi, trải qua bao nhiêu bi hài kịch của con người, dòng đời cứ trôi chảy mênh mang và bất diệt. Sau bao lần thủy tai, sau bao lần chiến tranh khói lửa, cầu Drina vẫn trường tồn với thời gian (trang 70, 71, trang 80, 81, trang 93, trang 101, trang 142 – 143, trang 214, trang 223, trang 234, trang 289, trang 307…)
Không có gì trường tồn với thời gian. Thời gian chỉ là thời gian vì thời gian vẫn đi qua. Chỉ có giây phút hiện tại là thời gian duy nhất, sự trường tồn duy nhất, để vừa sống vừa chết, vừa yêu vừa thương, vừa cảm tạ vừa sáng tạo. Sự trường tồn là ảo tưởng. Chỉ có sự trường tồn duy nhất là khói thuốc. Và một đôi mắt nào đó của người yêu bắt gặp đôi mắt mình trong một thoáng nhìn lướt qua.
Phải chăng ý nghĩa của tác phẩm Cầu trên sông Drina nằm gọn trong câu văn sau đây: “Cuộc đời là một sự huyền diệu khó hiểu, mặc dù bị phá huỷ tàn hại không ngừng, cuộc đời vẫn trường tồn như chiếc Cầu trên sông Drina” (trang 81).
Quyển truyện chấm dứt lúc Alihodja từ giã cuộc đời và lúc cầu Drina bị chiến tranh phá huỷ thế mà người đọc không cảm thấy thất vọng và lại mang đầy hy vọng triền miên như Alihodja (lúc thở hơi cuối cùng, Alihodja vẫn còn tin tưởng mãnh liệt vào cuộc đời).
Tôi cảm thấy lo lắng lúc thấy cầu Drina bị chiến tranh phá hủy, đọc xong quyển truyện rồi, tôi băn khoăn tự hỏi không biết ngày hôm nay cầu Drina ấy có còn trường tồn ở Nam Tư hay không? Lần dở lại những trang giới thiệu của dịch giả Lovett F. Edwards, tôi vui sướng biết bao được biết rằng: “Du khách đến Nam Tư vẫn còn có thể nhìn thấy chiếc cầu trên sông Drina” (trang 7).
Khi tôi không còn sợ hãi thì chiếc cầu sông Drina vẫn còn đó: Chỉ một thoáng sợ hãi lướt nhẹ qua tim thì một triệu chiếc cầu Drina cũng tan ngay lập tức.
Dù có bị phá hủy, cầu Drina vẫn bất diệt. Ivo Andric đã dựng lên biểu tượng trọn vẹn của cuộc đời.
Sự bất diệt chỉ có ý nghĩa khi nào mình sợ chết. Không sợ chết thì cái chết trở thành chiếc cầu đưa mình qua một miền đầy hoa phong lữ thảo và nắng mới.
Một chiếc cầu và một dòng sông. Chỉ có bấy nhiêu thôi cũng gây nhiều nghĩ ngợi.
Chú thích:
[1] Ivo Andric, Na Drina Cuprija, nhà xuất bản Prosveta Belgrade, 1949. Bản dịch Anh văn: The Bridge on the Drina, dịch giả Lovett F. Edwards, nhà xuất bản Mac Millan, New York 1059, 21.
[2] He is immortal… because he has a soul, a spirit capable of compassion and sacrifice and endurance (Faulkner’s address accepting the 1949 Nobel Prize for literature).
[2] He is immortal… because he has a soul, a spirit capable of compassion and sacrifice and endurance (Faulkner’s address accepting the 1949 Nobel Prize for literature).
Chương năm
Ý thức sinh tồn - Đêm ngày và William Saroyan hay là con người lang thang trong đời sống
Ý thức sinh tồn - Đêm ngày và William Saroyan hay là con người lang thang trong đời sống
Tặng Thanh Tuệ, người bạn khó quên với nụ cười dễ nhớ
Chương này được viết ra trong giai đoạn thơ mộng nhất của tôi ở Đà Lạt cách đây đúng mười năm,tức là năm 1960. Dạo đó, tôi dạy sinh ngữ ở trường Việt Anh tại Đà lạt, tôi ở trọ dưới hầm nhà của một biệt thự số 14 đường Yagut. Phòng tôi nhỏ hẹp, nhưng có một cánh cửa lớn mở ra, khu vườn đầy hoa hồng và bướm. Tối đến, có những con bướm nhỏ bay lạc vào phòng tôi (bây giờ, không biết những con bướm ấy ở đâu? Chắc chúng đã chết từ lâu và chỉ còn tôi ở lại với những gian phòng đóng cửa). Những buổi sáng sớm, tôi nằm ngó ra vườn đầy sương mù và thấy rằng mình đang sống thơ mộng, yêu đời, mênh mang, lòng tôi lúc ấy cất lên tiếng hát ngọt ngào như tiếng chim vừa mới thức dậy trong vườn. Ngày này kéo đi đến ngày khác, tôi sống từ cơn mộng này đến cơn mộng khác. Mộng mị tuôn chảy đêm ngày trong gian phòng rộng cửa mở ra đón tiếng chim và cánh bướm. Đôi khi có vài con ong say mật bay lảo đảo vào phòng tôi. Cánh cửa sổ phòng tôi không phải vẫn mở luôn luôn, vì tôi vẫn đi vắng gần như thường xuyên. Sau những giờ dạy là tôi đi lang thang suốt đêm khắp mọi đường phố Đà lạt. Cả ban ngày tôi vẫn buớc đi khắp đồi núi Đà lạt, cả những ngày mưa, tôi cũng đi trong mưa và dường như không thấy ướt.
Có một đêm tôi đã đi suốt đêm như vậy, tôi đi đê mê trong đêm tối như đi vào trong câu chuyện thần thoại của trẻ em. Và lúc sáng trở về nhà, tôi đã ngồi viết một mạch trọn cả chương này.
Viết xong tôi nằm ngất mê man trên giường. Lúc tôi thức giấc thì Đà Lạt đã về chiều và mưa đập mạnh vào cửa sổ. Tôi vội đứng dậy, choàng áo, đi xông ra ngoài mưa. Đi suốt đêm nữa. Nước mưa ngọt một mùi vị chỉ nếm được trong tiền kiếp.
P. C. T
1. Đêm
Tĩnh mịch im lặng chó sủa tiếng ho buồn buồn của một người đàn ông tất cả đều tĩnh mịch im lặng thiên thu dế kêu nhỏ nhẹ nặng nề mộng mị chó sủa từng hồi từ hoàng hôn Đà - lạt đêm nay trời không làm mưa đêm nay Đà Lạt âm u tĩnh mịch ngày tận cùng của nhân loại sự im lặng thánh kinh của buổi khai thiên lập địa bầu trời nhiều sao hay không tôi khóc nức nở bởi vì khắp nơi đều toàn là sự mù quáng ngộ nhận hiểu lầm thực là lạ lùng. It was this other thing this incredible blindness everywhere I cried bitterlyphải thế không William Saroyan người trẻ tuổi gan dạ trên cái đu bay và người con trai sung sướng là tôi thường thức suốt đêm để hỏi mình là ai và để suốt đời hưởng được một chút thanh bình trong trái tim tôi muốn đi tu vì sợ ở đời sẽ mau trở thành người điên bởi vì cuộc đời quá tươi đẹp và nụ cười của sự chết trên đôi mắt tôi and the smile of death in my eyes Saroyan đã gọi thế trong chuyện Aspirin is a Member of the NRAbởi vì tôi là người bị bịnh thần kinh quá nặng cho nên đêm nay tôi thường nhắc lại tên Saroyan như tên quá khứ để mà thấy rằng cuộc đời đáng sống và để nhớ lại những kỷ niệm xa xôi sẽ làm thuyên giảm bệnh thần kinh như những viên thuốc Névrovitamine 4 hay như nhưng bản nhạc buồn của Chopin của những nhạc sĩ tôi không biết tên và thường lắng nghe đau khổ trong những quán về khuya những lúc chán đời vì cuộc đời quá tươi đẹp và bởi vì William Saroyan là nhà văn Mỹ từ chối giải thưởng Pulitzer và viết văn nhẹ nhàng hay gợi lại những kỷ niệm nồng nàn xa xôi Saroyan thường cười cái chết và nghĩ rằng thực sự tuyệt đối không có gì để nói there was absolutely nothing to say trong truyện The Earth Day Night Self và Saroyan viết văn bàng bạc khơi khơi trên đời chứ không có giọng điệu bệnh hoạn thần kinh neurasthénie psychasthénie hypochondrie dépression schizophrenie et caetare như Hemingway John Dos Passos Faulkner James Joyce và Dosto và Kafka và Leonid Andreyev bởi thế đêm nay không ngủ được nằm tráo trở trên giường thao thức trong đêm tối không thắp đèn vì tôi ghét ánh sáng tôi thích ngồi trong bóng tối đen và nhớ và the light I disliked so I used to sit in the darkness remembering nhớ gì chỉ nhớ lại William Saroyan nhớ Saroyan có nghĩa là nhớ lại những kỷ niệm của chính mình tôi tự hỏi tại sao ngày xưa tôi chỉ ưa thích những điều giản dị và thanh bình và bình lặng và những gia đình We went in for the simple things peace anh quiet and families thế mà loài người không bao giờ để tôi yên và trời ơi sao ở đời lại quá nhiều ngộ nhận bi thương để cho James Dean phải đi bơ vơ lạnh lẽo trên quãng đường vắng vẻ loáng nước mưa và để cho Rimbaud phải du côn đau đớn đi tìm những gì miên viễn ở mấy bến Phi – châu hiu quạnh và để cho Van Gogh bàng hoàng đi ăn mày một ánh lửa mơ hồ ở mặt trời thiêu đốt và để cho Blaise Cendrars phải đau lòng cầu nguyện van xin Thượng đế hãy xót thương những gái giang hồ vào ngày lễ Phục sinh thế rồi Blaise Cendrars từ trần ngày 21 tháng giêng 1961 và trần gian mật một con chim én vàng một con chim én không làm thành mùa xuân như anh đã nói nhưng mùa xuân là cái gì tôi không cần mùa xuân ấy vì cuộc đời chỉ cần có một con chim én thôi và thực ra tôi ghét lý luận lôi thôi và ghét lý trí phân minh cho nên hồi chiều này tôi đã xé trọn 911 trang Histoire de la Philosophie occidentale của Bertrand Russell dù tôi rất yêu Bertrand Russell song tôi rất bực bội mà được Bertrand Russell cho biết rằng William James đã mắng chửi Santayana một cách tồi tệ và Santayana cũng ghét William James vô cùng, tôi lấy làm lạ tại sao những triết gia thường ghét nhau như thế, bởi vậy tôi ghét triết học vì triết học chỉ dạy tôi một điều là ghét triết học tôi ghét triết học cũng như con gái của Luther nói rằng ai không yêu rượu không yêu đàn bà con gái và không yêu bài hát thì vẫn là thằng điên dại suốt đời Wer nicht liebt Wein Weib und Gesang, bleibt ein Narr sein Leben lang tôi chỉ yêu bài hát bài ca âm nhạc chứ không hề muốn yêu con gái vì thế tôi sung sướng làm thằng điên dại suốt đời tôi ghét con gái cũng như tôi ghét Thượng đế cũng như một đứa học trò trốn học ghét thầy cũng như một đứa con hoang đàng bỏ nhà mà đi và ghét cha mình và tôi ghét Thượng đế đến nỗi không bao giờ thích sống trên thiên đàng và muốn sống đời đời dưới hoả ngục để nhìn xem lửa thiêu đốt muôn triệu người triệu triệu triệu triệu người để mà có thể đo được sức tàn nhẫn của Thượng đế và tôi muốn làm quỷ Lucifer để có thể chửi rủa Thượng đế cho hả giận còn nếu Thượng đế không muốn cho tôi làm quỷ thì tôi xin được làm người và đệ một cái đơn xin phép được sống sometime soon I must write an Application for Permission to Live như The Daring Young Man on the Flying Trapeze của William Saroyan và bỗng nhiên tôi nhớ đến hình ảnh đau buồn của một người làm vườn nghèo khổ khum num chắp tay thưa ông chủ nhà rằng xin lạy ông vui lòng cho con nghỉ làm vườn một ngày thôi vì nhà con mới lên Đà Lạt chưa quen lạnh nên đã bị đau phổi con phải nghỉ việc để chạy tiền đi bác sĩ xin ông cho con lạy ông thương hại con không hiểu sao chuyện ấy xảy ra hồi chiều này thế mà tối nay giữa đêm khuya tịch mịch tôi sực nhớ lại có lẽ sẽ nhớ mãi suốt đời cũng như tôi sẽ nhớ mãi thiên thu nét mặt lặng buồn của một người ăn mày bơ vơ đứng giữa ngã ba phố chợ giữa bao nhiêu người bình thản chen chúc vui cười ca tụng cuộc đời tươi đẹp trong khoé mắt đau thương và tôi thương người làm vườn người ăn mày bơ vơ cũng như tôi thương người Ba-lan hay người Do Thái hay người Mỹ Da đen hay người cha già Phi châu quê mùa lum khum đưa tiễn con trai qua Mỹ du học như tôi đã thấy trong tạp chí Life là một tờ báo tôi ghét cũng như tôi ghét Paris Match và Time và Reader’s Digestvà cử chỉ điệu bộ của André Malraux không hiểu tại sao ban đêm tôi thường hay khóc lặng lẽ trong đêm tối chắc là tôi cảm thấy đời mình quá cô độc và cuộc đời hết lối cảm thông toàn là ngộ nhận và đôi lúc tôi mỉm cười vì nghĩ rằng chính mình cũng là hiện thân của ngộ nhận không hiểu sao ban đêm tôi thường khóc có lẽ vì quá cô độc bơ vơ giữa vũ trụ lặng lờ người sẽ bảo tôi như đứa con nít khóc trong giường vì mẹ đi vắng ư thực đúng đôi lúc như đêm nay vì quá khổ cho nên tôi tự an ủi tôi bằng cách tự nhủ như vầy con ơi hãy ngủ đi con tôi bắt chước giọng nồng nàn của một người mẹ và khi tự nói tôi tưởng tượng đó là những lời của một người mẹ hiền lành trên đời đang nhìn tôi khổ và ôm tôi vào lòng mà nói như thế con ơi hãy ngủ đi con tôi cười rồi tôi khóc bởi vì tôi nhớ đến người mẹ trần gian của tôi mỗi lần ngày xưa khi còn nhỏ mà được mẹ tôi gọi tôi là con thì tôi sung sướng vô cùng nhưng ít khi mẹ tôi gọi thế thường thì bị gọi là mầy tôi đau khổ tủi lòng nhưng tôi rất thương mẹ tôi và cha tôi cũng thế ít nói suốt ngày không nói với con một lời hình như cha mẹ tôi không bao giờ sống được một ngày hạnh phúc mặc dù ngày trước đời sống vật chất của gia đình quá thừa thãi thế mà mỗi lần cha mẹ tôi lôi thôi ồn ào với nhau thì mấy anh em chúng tôi là những đứa nhỏ bé bỏng phải xúm lại khóc lóc và quì lạy van xin cha mẹ đừng ghét thù nhau từ đó từ những ngày như vậy tôi bắt đầu biết thế nào là đau khổ từ đó trở đi khi lớn lên bơ vơ bước vào cuộc đời tôi thường bi quan chán đời dù tóc hãy còn quá xanh và tôi thường rụt rè nhút nhát tôi đã đi tìm khắp nơi để tìm thử coi ai có nét mặt mà không mang sự đau khổ nhưng tôi không gặp mà tôi nhớ đến William Saroyan như nhớ đến dòng sông nào tê tái trong giấc mộng đời I could see the pain in the faces everybody I looked everywhere for one face that was not the mask of pained life but I did not find such a face tiếng khóc nức nở của trẻ con và trong tiếng khóc của trẻ con ta thấy tình huynh đệ của loài người and the way they cry there you have the brotherhood of man tiếng chuông linh quang hay linh sơn và tiếng trẻ con khóc xa xa trong đêm tối tiếng chuông nhà thờ có lẽ khoảng năm sáu giờ sáng rồi suốt đêm không ngủ Van Gogh khi tôi đau khổ tôi cố gắng cười và mỗi lúc khi muốn điên lên vì quá đau khổ tôi nhớ trong lust for life và tôi thấy Van Gogh và savoir souffrir sans se plaindre biết khổ mà không than thở tiếng chó sủa vài tiếng chim kêu Chaplin đang khóc và cuộc đời ôi cuộc đời ngõ hẹp buồn bã hương thời gian màu sắc một đêm và những con chim hải âu trên mái nhà của Anne Frank và em bé bán bánh mì rao buồn trên đường cái trời sáng rồi hay sao nét mặt trầm tư của Albert Schweitzer và Einstein viết về Gandhi và đôi mắt của Kafka không có gì để nói there was nothing to say không có gì để nói giọng hát tiếng hát tha thướt của Connie Francis của Dalida của Françoise Hardy mai này tôi chết đi hãy chôn tôi với cây đàn ghi-ta Federico Garcia Lorca mai nầy tôi chết đi xin hãy chôn tôi với cây đàn ghi-ta trời ơi não nùng cuộc đời ho lao ngôi sao bạc mệnh căm căm cuối trời một người con trai cô đơn đau khổ trời bắt đầu sáng chim kêu tiếng chân ai khua động trên sàn gỗ ôi cuộc đời O swift moment of life it ended the earth is again now ôi cuộc đời ôi khoảnh khắc nhanh chóng của cuộc đời và chấm dứt và trần gian mặt đất bây giờ trở lại.
2. Ngày
Quờ quạng bật đèn lấy nước rửa mặt, suốt đêm không ngủ, nước mát rượi, lạnh và trong, nước của Trời, nước của Đà Lạt thiên thu hay là của William Saroyan (nước của Going Home), mùi vị, hương vị ngọt dịu dàng của nước khiến tôi ngạc nhiên lạ lùng, lúc tôi uống nước, trời, sao mà tuyệt diệu, tôi cảm thấy dòng nước mát tung toé thể chất tôi, làm mát dịu thoải mái con người tôi The sweet rich taste of the water amazed him, and as he drank he thought, God, this is splendid. He could fell the cool water splashing into his being refreshing and cooling him (W. Saroyan Going home). Tôi sung sướng, hơi thở trở nên nhẹ nhàng đôi mắt mơn trớn nhìn vào kiếng soi mắt. Rất không đẹp trai. Very unhandsome. Tôi mỉm cười hát khẽ La vie en rose, Green Field và A many splendoured thing; buổi sáng sắp trở về, tôi choàng áo vào người; Đà Lạt sáng tinh sương lạnh lắm; mở ngăn tủ ra còn lại năm đồng, lấy hết bỏ vào túi áo và bước ra ngoài đường phố.
Đường Yagut còn ngủ trong tĩnh mịch thần tiên của buổi sáng tinh mơ, sương mai còn loáng thoáng đâu đây, gió thổi mạnh mơ hồ; tôi hát khẽ trên đường phố chim bay là đà khắp nơi, chim từ đâu sao bay ra nhiều quá; những con chim lí nhí như những cô gái hồn nhiên bước ra trường lúc tan học, tôi mỉm cười khi nghĩ ra một lối so sánh đa tình như vậy; tại sao buổi sáng nào gà cũng gáy sung sướng triền miên và bây giờ mấy con chó cũng không còn sủa nữa, nửa đường Yagut loáng nước, đêm vừa qua không mưa, có lẽ đây là nước ở trong mấy căn nhà đổ ra hay là người ta rửa xe vào lúc đêm, có lẽ thế. Một đàn chim vụt bay ra, không biết từ đâu… những đôi cánh mảnh khảnh khua động trên khúc đường loáng nước. Dế kêu trong đám cỏ ướt sương. Tôi nhìn những hòn sỏi đá nhỏ hao mòn lác đác trên mặt đường hoang vắng. Phân bò rải rác dọc theo bờ. Những đường phố Sài-gòn không bao giờ được như vậy, tôi tự nghĩ và cười sung sướng; buổi sáng xám, lạnh, không vui, một buổi sáng cho nguồn sinh lực bên trong, thực là một buổi sáng tuyệt vời. It was really a splendid morning: gray, cold and cheerless, a morning for inward vigor (Saroyan, The daring young man…) Gà gáy trong trẻo hơn, vài ba con chó lạnh lùng sủa lên đôi tiếng, vài ba tiếng guốc khua lẻ tẻ trên mặt đường, bốn năm con ngỗng vừa chạy vừa kêu vang rền trong mấy bụi cây, tôi ca khẽ những bài hát ngày xưa và ngước nhìn những con chim bay đi, rồi quay về dưới mái nhà rêu bám ở đường Hoàng Diệu. Tôi đã đi đường Hoàng Diệu có cả trăm lần mà mãi đến sáng nay tôi mới thấy một ngôi nhà kia có một cây bưởi xanh, ôi con người vô tình, mấy chục trái bưởi đung đưa nhí nhảnh trên những cành lá ướt át (vì hơi đêm), trái tươi tròn, những cái vú căng sữa của những người mẹ hiền. Vài ba người vừa mới thức giấc, mặt hãy còn ngây ngủ, đứng nhìn bâng quơ ra ngoài đường, một bà cụ gánh hàng đang bước nhanh trước mặt tôi, cuối đường hai ba người xách giỏ thì thào, đi chợ, hai người đàn ông đăm chiêu chạy xe đạp chầm chậm; mộng mị ban đêm còn lảng vảng chập chờn trước đôi mắt kia; bây giờ tôi đang đi ngay giữa thị thành, giữa những người đang sống. (He was now walking in the city itself, among living men (Wiliam Saroyan, The daring young man…). Một bầy chim đang bay qua mái nhà. Một con chó thiu thiu ngủ (suốt đêm đã thức nhiều nên mệt), nằm dài, lừ đừ, vài ba con chim hồn nhiên bay xuống đậu ngay trước mặt, nhưng chó vẫn nằm im lặng. Hai cậu học trò nhỏ bé đi học sớm, trên tay mỗi cậu là mấy đoá hoa tươi, có lẽ mới hái ở dọc đường. Ôi tuổi xanh đã mất. Tôi dừng lại bên cầu HảI Thượng. Hơi sáng bay thoảng vào người tôi. Tôi hít nồng nàn vào phổi. Nhìn xuống dòng nước chảy dưới cầu. Toàn là rác dơ bẩn và hôi. Trong đống rác lềnh bềnh ở dưới chân cầu, tôi sửng sốt nhận ra một đám hoa lục bình xanh: vài đoá hoa tím nở trên ấy và vài cánh bướm trắng chập chờn. Rác. Lục bình trong rác. Hoa trong lục bình. Bướm trong hoa. Tôi mỉm cười ca hát sung sướng trong tâm hồn. Một buổi sáng huy hoàng. Tôi thở nhịp nhàng. Từng đàn chim bay chập chùng trên mái nhà xưa cũ rồi bay trên những ngọn cây cao. Gió thổi nhẹ qua những lá cỏ xanh non. Mùa này mưa bắt đầu trở về và cỏ xanh lạ lùng. Khói nhà ai đun lên tận trời. Những điệu nhạc xa xôi của Chopin trở về bàng bạc trong tâm tưởng.
Anh hãy đàn cho tôi nghe bản nhạc Tristesse của Chopin và bản Paloma, anh đàn đi anh. Tôi thích hai bản này nhất. Thằng này mơ mộng quá, còn nhỏ quá mà thích tình tứ mộng mơ rồi, tao biết tại sao mày thích hai bản này. Gió thổi nhẹ một chiếc lá rơi xuống đất. Trông anh như thằng ngáo. Nhìn nét mặt ngơ ngác. Đi đường phố nào anh cũng tần ngần. Nhìn bộ tịch anh người ta có thể đoán anh mới đến Đà Lạt lần đầu tiên. Gặp cái gì anh cũng nhìn hết, anh chưa đến Đà Lạt bao giờ sao? Vâng đây là lần đầu tiên tôi đến Đà Lạt. Anh sao khó tính quá, anh hãy để tôi nhìn Đà Lạt chứ sao? Đà Lạt đẹp quá vậy anh? Anh trông tôi đứng lại, nhìn đằng trước cũng đẹp, nhìn bên phải cũng đẹp, nhìn bên trái cũng đẹp, nhìn lên trời cũng đẹp mà nhìn dưới đất cũng đẹp, anh nhìn xem: mấy con bướm trắng bay thơ mộng quá, tôi thương mấy con kiến kia quá, anh ơi. Tôi tự tính lại thì ngạc nhiên thấy mình đã sống ở Đà Lạt khá lâu, mấy con bướm và mấy con kiến (mà tôi gặp hồi đến Đà Lạt lần đầu tiên) chắc đến ngày hôm nay chúng nó đã chết rồi. Con người tôi ngày trước bây giờ không còn nữa, con người hồn nhiên ấy cũng chết theo dòng đời. Đôi mắt tôi ngày nay không còn là đôi mắt ngày xưa, của lần đầu tiên đến Đà Lạt. Tôi là một kẻ khác, không phải là tôi nữa. Tôi đã chết lâu rồi. Nghĩ lại mấy năm tôi sống ở Đà Lạt, tôi mới thấy rằng tôi sống như một cái xác không hồn, lãnh đạm, thờ ơ, lạnh lẽo, khó khăn, bơ phờ, mất mát, chết giữa ngày tháng tịch mịch; mỗi sáng mỗi chiều cũng bấy nhiêu cử động, ăn uống, đi dạy, ngủ, ăn, dạy, ngủ, ăn, dạy, đi, về, ngủ, thức, ăn, dạy, đi, về, đi, đi, về, đi rồi về, cũng bấy nhiêu cử động lặp đi lặp lại, ngày nào cũng như ngày nấy, cũng bấy nhiêu cử động máy móc, cũng bấy nhiêu sáng, chiều, tối trở đi, trở lại, trở đi, trở lại, bao nhiêu lần tôi đi lang thang giữa phố chợ mà không biết mình là ai, bao nhiêu lần tôi đi giữa đường phố mà đôi mắt kia không nhìn thấy gì cả, đôi mắt thao láo như đôi mắt của một người chết. Buổi sáng hôm nay bỗng nhiên tôi cảm thấy sống lại; con người tôi của ngày đầu tiên đến Đà Lạt bỗng nhiên trở về nhập lại cái xác không hồn này, tôi lắng nghe hơi thở của tôi dịu dàng trong thể xác, tôi lắng nghe điệu nhạc triền miên của thuở hoa niên xanh mộng trở về thướt tha trong lòng tôi, tôi lắng nghe tiếng lá rơi nhẹ trên mặt đất tôi trố mắt nhìn từng sự vật, tôi có cảm giác như đã mù từ lâu rồi và bỗng nhiên hôm nay mắt được sáng lại; tôi phân biệt từng đợt màu xanh khác nhau trong từng chiếc lá, tôi đứng lại để lặng nhìn một con kiến bé nhỏ đang bò lên lá cỏ; tôi ngửi được hương vị nồng nàn của không khí, mùi thoảng của lá khô, hương thơm của khói, của cây non, của một đoá hoa héo trong bụi cây bên đường; mấy năm nay, tôi đã đi trên đường này biết bao lần nhưng nào có thấy, nghe, ngửi, cảm gì đâu, thế mà hôm nay, cũng trên con đường này, đột nhiên tôi ý thức rằng mình đang thở nhịp nhàng, rằng bao nhiêu sự vật xinh đẹp lạ lùng đang thở quanh tôi. Tôi có cảm giác lạ lùng mới lạ của một đêm ngủ miên man trong một ngàn năm rồi bỗng thức dậy và mắt sửng sốt nhìn tất cả hình ảnh huyền diệu vây phủ chung quanh mình. Tất cả sự vật chung quanh đều xuất hiện ra lần đầu tiên trước đôi mắt tôi. Thực là huy hoàng tuyệt vời. I walked into town, into the streets where we had put up our building, and suddenly I saw them for this first time, suddenly I was really seeing them and they were splendid (W. Saroyan, And Man). Tôi chỉ đứng lại trên cỏ và lắng nghe mình thở; chỉ thở thôi và sung sướng rồi, now it was a pleasure even to breath (Saroyan, Going Home). Thế rồi tôi giựt mình khi nghe tôi cười vang lên giữa đường phố; tôi cười tất cả những điều thảm thương ở trần gian, sự ngộ nhận khắp nơi, sự xung đột đời đời, sự hung dữ tàn ác, những điều đó làm con người trở nên một con vật nham hiểm, tôi cười sự chết, he was laughing at all the pathetic things in the world, the misunderstandings everywhere, the everlasting conflict, the cruelty, the things that made man a malignant thing… (Saroyan, Laughter). The worst that can happen to any of us, I used to laugh, is death. (Saroyan, Aspirin is a Member of NRA).
Tôi cúi xuống hái một lá nhỏ, lặng lẽ nhìn và hôn vào lá ấy. Một người đi đường ngơ ngác ngó lại. Tôi cười. Tôi cảm thấy thương yêu tất cả nhân loại, yêu cả kẻ thù, yêu cả những điều tôi ghét, yêu hết mọi sự vật ở trần gian này. Tôi bước đi. Người ấy ngó theo. Năm sáu con chim én tung bay lên trời. Ý nghĩa trọn vẹn hiện ra; hình ảnh trọn vẹn của trần gian và của con người xuất hiện huy hoàng trước đôi mắt rực ngời của tôi. Ôi trần gian mặt đất này đẹp biết bao. The earth was so lovely (Saroyan, The Earth, Day, Night, Self). Chỉ sống thôi thì thực là vinh quang biết bao. How glorious it is to be alive, to be still living (Saroyan, My self upon the earth). Tôi yêu và thờ phượng cuộc đời… Tôi tin rằng tôi sống… Thoáng giây này sẽ không bao giờ bị xoá nhoà; nó vượt thời gian, I love and worship life… I believe that I live … and the living of this moment can never be effaced. It is beyond time (Saroyan, My self upon the earth). Tôi là tôi, je suis moi, vũ trụ là vũ trụ, trần gian này là trần gian, cuộc đời là cuộc đời, con người là con người. Tôi đang đi đây, ngày nay, năm này tại thành phố Đà Lạt ; tôi biết rằng rồi đây tôi sẽ chết, bởi thế hôm nay tôi sống. Chết là một thực tại, bởi thế sống cũng là một thực tại. Chết không thể nào tránh được, cũng giống như sống cũng không thể nào tránh được. In order not to be a fool, you must believe that as much as death is inevitable life is inevitable (Saroyan). Sự huy hoàng tuyệt vời của Sống. Hãy để con người đi và nói và nghĩ và ngủ và mơ và thức và lại đi và lại nói và lại di động và sống. The splendor of the mere fact of his being alive… Let him walk and talk and think and sleep and dream and awaken and walk again and move and be ALIVE (Saroyan, A cold day). Hãy sống. Đừng chết nữa. Tôi đã chết. Rất nhiều người đã chết. Hầu hết nhân loại hiện nay đang chết. Hãy sống. Hãy ca tụng tình huynh đệ của những sự vật sống, the brotherhood of things alive (Saroyan). Sống là tuyệt đối là trọn vẹn, vĩnh cửu, thiên thu. Sống là chân lý. Nhớ là sống, cười là sống, không hấp tấp vội vã là sống, you are in a hurry but I am not: I shall witness your disintegration (Saroyan, Aspirin is a Member of the NRA). Ngủ là sống, It is only sleep that we my know that we live (Saroyan, The daring young man…). Yêu thương là sống, đau khổ là sống, trung thành với chính mình là sống, I want him to be himself (Saroyan, Myself upon the earth). Luật lệ, phép tắc, quy chế, truyền thống, ngôn ngữ, triết học, lý trí không phải là sống. All my life I have laughed at rules and mocked traditions, styles and mannerisms… I do not believe in philosophies (Saroyan, Myself…). Sự thù ghét, sợ hãi, sự ham quyền lực không phải là sống, những chủng tộc, những chính quyền không phải là sống. I do not believe in races, I do not believe in governments ( Saroyan, Seventy thousand Assyrians).
Những nhà đạo đức, luân lý, những kẻ hèn nhát và những hiền nhân, thánh nhân, hiền triết không phải là sống. I love to make small explosions with the infated bags of moralists cowards, and wise men (Saroyan, Myself upon….). Tất cả những ngôn ngữ hợp lại là sống, hay không có ngôn ngữ nào cả là sống, sự im lặng là sống, We see the universe through the language we know, we do not see it through all languages or though no language at all through silence. If I want to do anything, I want to speak a more universal language (Saroyan, Seventy thousand Assyrians). Trái tim của con người là sống, the heart of man, the unwritten part of man that which is eternal and common to all races (Saroyan, Seventy thousand…). Mâu thuẫn, nghịch lý là sống, Every life is a contradiction… I believe in the right of man to contradict himself(Saroyan, Myself upon….). Hình ảnh trọn vẹn, hình ảnh của sự trọn vẹn là sống.
Chương trình kế hoạch của tôi là SỐNG vô hạn định, It is my plan to stay ALIVE indefinitely (Saroyan, Fight your own war).
Đà Lạt có nhiều chim hơn bất cứ nơi nào ở Việt Nam. Tôi vừa đi vừa lắng nghe tiếng chim kêu. Tôi cười miên man và nhìn mấy chiếc lá đung đưa trên những cành cây gầy yếu. Tại sao anh trông gầy yếu xanh xao như vậy? Bởi vì mấy tháng nay tôi bị bịnh mất ngủ, tối nào tôi cũng nằm trằn trọc suốt đêm, nằm ngó trần nhà chứ không làm gì cả. Suốt đêm, tôi nằm trong bóng tối, không dám nghĩ gì cả, nhiều khi tôi cười sặc sụa lúc khuya khoắt hoặc tôi lấy tay đập mạnh vào giường. Tôi không hiểu tại sao tôi làm như vậy; có những đêm, tôi tự hỏi tôi là ai, tại sao lại nằm nơi cái giường này, tôi giựt mình toát mồ hôi ra; sáng thức dậy tôi cử động ăn nói vô ý thức vắng mặt, đi đứng bơ phờ, đầu óc mệt mỏi, chán chường không thích, không thèm gì cả, không ham, không ghét gì cả; tôi sống xa lạ chơi với tất cả mọi người, - tôi không biết đi đâu, không biết thuộc về đâu; tôi là ai, là ai, thân xác này thuộc về ai, mười ngón tay của ai, của tôi; tôi là gì, tôi không biết, tôi không gì cả; tôi không biết gì cả; anh đừng hỏi tôi tại sao tôi gầy yếu, anh đừng hỏi, xin đừng hỏi, tôi là ai, tôi chết, tôi sống, gầy yếu, mạnh khoẻ, trắng, đen, không, có, sống, chết, tôi không biết, xin đừng hỏi, tôi không hiểu gì cả, tôi hét đây, tôi la đây, tôi không hiểu gì cả, anh có nghe không? Thuở ấy tôi đã chết và tôi không biết rằng mình chết, tôi chạy loanh quanh trốn tránh hư vô: tôi đã trốn tránh đủ cách, đủ đường, đủ lối mà càng trốn tránh hư vô tôi càng gặp hư vô và tôi chết; không hiểu sao bỗng nhiên sáng nay tôi thấy mình sống lại và sống là một bí mật, là sự huyền nhiệm, chân lý là đã đi trong sự chết để rồi mới thấy lại sự sống. Tôi không thể cắt nghĩa được và thực ra, tuyệt đối không có gì để nói cả, there was absolutely nothing to say (Saroyan, The earth, day, night, self). Hôm nay, tôi biết rằng tôi sống, tôi thở. Chỉ có thế thôi. Sống là Chân lý. Tìm chân lý là tìm sống. Sống là thiêng liêng, ngoài ra trên đời chẳng có gì thiêng liêng cả, there was no sacred thing in the world (Saroyan, Seventeen). Sống là gì? Tôi không hiểu. Đó là chân lý. Tôi không thể kể nói gì cả. Mỗi người phải tự tìm lấy chân lý cho chính mình. Chân lý ấy không ở trên trời mà lại ở tại trần gian này, tại mặt đất này. I cannot tell anyone. Everyone must see for himself. Everyone must seek the truth for himself (Saroyan, And man). Tôi sống cuộc đời tôi. Anh sống cuộc đời anh. Chị sống cuộc đời chị. Tôi thở cho tôi; tôi không thể nào thở hộ cho ai được. Tôi hoàn toàn vô trách nhiệm; tôi chỉ có trách nhiệm đối với riêng tôi; cũng như anh có trách nhiệm đối với anh. Tôi không có kẻ thù. Nếu có kẻ thù chăng thì chính tôi mới là kẻ thù của tôi. Chính tôi tự cứu lấy tôi; chỉ những nỗ lực của chính tôi mới cứu được tôi; tôi không trung thành với bất cứ một ý niệm hoặc một danh từ trừu tượng nào; tôi phản bội với tất cả; đôi khi tôi cũng phản bội với chính tôi; tôi chỉ trung thành với hơi thở nhịp nhàng của tôi và của con người. Ở đời không có tốt và không có xấu không có giả , chỉ có chết và sống mà thôi; thực ra thì chỉ có sống bởi vì chết chỉ là một hình thức triền miên của sống và sống và chết chỉ là một; sau cùng chỉ có hơi thở là duy nhất, thiên thu, bất diệt, vĩnh cửu, tuyệt đối, trọn vẹn.
Hai ba chiếc lá rơi xuống, tôi đứng lại nhìn rồi lại tiếp tục bước đi. Mây trắng bàng bạc đầy trời. Chim én tung bay đầy trời. Mây trắng, chim én, lá rơi, ôi cuộc đời! Đà Lạt đẹp. Trần gian đẹp. Ôi cuộc đời!
Mặc dù trần gian này đầy đau khổ, nhưng trần gian này vẫn luôn luôn là một trần gian tươi đẹp. Nếu sự đau khổ không còn ở trần gian này thì trần gian không còn tươi đẹp nữa. Thế giới này phải được thoát thai trong sự đau khổ để làm trần gian này trở thành một toàn thể (une totalité). Trần gian này, cuộc đời này, sự sống này là một cái gì trọn vẹn mà chúng ta không bao giờ nhìn thấy đủ hết tầm vóc. Bất cứ một hệ thống triết lý nào, bất cứ một ý thức hệ nào, bất cứ một chính trị nào cũng thất bại. Con người muốn nhìn thấy rõ sự thật, sự trọn vẹn của cuộc đời, của trần gian, của con người mình thì phải đánh đổ phá hủy tất cả những gì hiện nay mình yêu quý hoặc mình ghét; con người ấy phải là con người chỉ sống trong hiện tại, không quá khứ, không tương lai, không truyền thống, không đất đứng, không một mái nhà để che đầu. Con người ấy tự lột cả áo quần, đứng trần truồng và nhìn sự trần truồng của trần gian, của cuộc đời. Con người ấy phải là một đám mây trắng lênh đênh trên trời, bềnh bồng trong sự sống không vô hạn, bay trên những ti tiện và cao siêu của nhân thế. Bay trên tất cả những chiều hướng xung khắc đối chọi nhau của cuộc đời. Đám mây trắng phiêu bạt ấy không thuộc về một bầu trời nào, không thuộc về một lũng đồi nào, không thuộc một giải đất nào, không thuộc về một đại dương nào; đám mây trắng ấy không thuộc về riêng một cái gì và đám mây trắng ấy thuộc về tất cả. Con người hãy ngước nhìn mây trắng, con người không cần phải thuộc về đâu cả, không cần phải thuộc một nhóm nào, một đảng phái nào, một tôn giáo nào hoặc một chủ nghĩa nào. Con người không cần phải nhập Đảng cộng sản hay đi theo tư bản mới có thể sống được. Con người không cần phải đi nhà thờ hoặc đi chùa mới thở được. Không cần phải đứng dưới một lá cờ nào mới có thể sống. Trái lại phải tránh tất cả những thứ ấy. Hơi thở là hơi thở; có những thứ ấy hay không hơi thở vẫn là hơi thở. Dù sao tôi vẫn tin rằng tất cả mọi sự đều được tạo ra để trần gian này được thở. Người ta sinh ra để thở. Người ta sinh ra để hạnh phúc. Bởi vì người ta không muốn thở, không muốn hạnh phúc cho nên người ta chết và không hạnh phúc. Tôi xin mãnh liệt rằng tôi đang sống và tôi muốn sống. Tôi không đòi hỏi những kẻ khác phải tự hy sinh để thực hiện đức tin của tôi. Tôi không cần người khác phải trung thành, phải kính trọng tôi. Tôi chỉ ước rằng những kẻ khác cũng muốn sống trọn vẹn như vậy. Tôi là một người có đức tin. Tôi tin nơi tôi. Tôi tin nơi con người et ma foi est dans l’ homme. Tôi tin nơi quả tim của con người. Quả tim ấy ngừng, tôi sẽ không còn thở nữa, chỉ có thế thôi. Tôi ước mong thế giới này sẽ tiêu tan ra từng mảnh và nhân loại sẽ bị tiêu diệt hết đi để còn sót lại hai người thôi; hai người ấy sẽ sinh con đẻ cái, tạo ra những con người mới, những con người thực sự, yêu thương nhau, lắng nghe hơi thở nồng nàn và được kết hợp nhau bằng nhịp điệu du dương của con tim chớ không phải bằng giai cấp, tôn giáo, tổ quốc, nòi giống, nghề nghiệp, chính trị, nhân sinh quan hay ý thức hệ. Dù sao tôi vẫn tin rằng nhân loại vẫn không đến nỗi phải đáng chịu tiêu diệt như vậy bởi vì tôi vẫn tin nơi con người; nói như Anne Frank, tôi vẫn tin nơi lòng tốt bẩm sinh của con người (omdat ik nog steeds aan de innerlijke goedhied van de mens geloof) It is the heart of man that I am trying to imply in this work… Man has great dignity, do not imagine that he has not (W. Saroyan, Seventy Thousand Assyrians). Tôi tôn thờ một tổ quốc: con người, nghĩa là trần gian và tất cả những người ở trần gian. Tổ quốc con người hiện nay đang đổ vỡ điêu đứng nhưng rồi đây tất cả mọi điêu đứng tan thương sẽ qua hết. Tôi phải giết con người tôi hiện nay để mà có thể sống lại giữa đất ngước loài người. Con người của tôi hiện nay là con người giả dối, hèn nhát, không dám trung thành với chính mình mà chỉ trung thành với những khuôn thước mẫu mực của người, không dám ăn, không dám nói, không dám đi đứng, di động và không dám thở. Tôi phải giết tôi để tìm lại tôi. Tôi chúc anh tìm lại anh.
Đường này là đường Phạm Phú Thứ? Nhiều cây lá lắm. Lá thông khô đưa ra một hương vị ngày xưa. Hoa đỏ từng chùm trong bụi cây xanh. Hai ba chiếc lá rơi xuống, tôi đứng lại nhìn rồi tiếp tục bước đi. Mây trắng bàng bạc đầy trời. Chim én tung bay đầy trời. Mây trắng, chim én, lá rơi, ôi cuộc đời! Đà Lạt đẹp. Trần gian đẹp. Ôi cuộc đời!
Cuộc đời lạ lùng biết bao. Mỗi cuộc đời là một sự mâu thuẫn, một chân lý mới, một phép lạ mới. Every life is a contradiction, a new truth, a new miracle (W. Saroyan, My self upon the earth). Tôi phải bỏ tất cả tư tưởng và lăn mình vào cuộc sống. Cuộc đời đầy mâu thuẫn. Đây không phải là bi kịch; chỉ bi kịch là khi người ta sợ mâu thuẫn, chân lý là sự bí mật, đầu tiên là Trời, tiếng Trời, ngoài tất cả mọi vật mà vượt lên trên, không có không gian và không thời gian, rồi hư vô, sự trống rỗng im lặng rộng hơn trí óc của con người, trừu tượng và đích xác và thực sự và mất mát, bản thể trong sự trống rỗng, rồi lại đích xác và với sức nặng và sự cứng cỏi và hình thể, hoả và chất lỏng và rồi đi bách bộ qua những vườn nho. The truth was the secret, god first, the word, the word god, out of all things and beyond, spaceless and timeless, then the void, the silent emptiness, vaster than any mortal mind could conceive, abstract and precise and real and lost, the substance in the emptiness, again precise and with weight and solidity and form, fire and fluid, and then, walking through the vinegards. (W. Saroyan, And man).
Thế giới của tôi sống hiện nay là một thế giới hoàn toàn phi lý, không luật lệ, đầy mâu thuẫn, con người hiện nay cảm thấy bơ vơ lạc lõng, mất gốc. Hư vô phủ đầy trời. Ngày xưa tôi thường chạy trốn như vô, tìm nguôi khuây trong sự giả dối tạm bợ, tìm lãng quên bằng trăm vạn lối. Tôi đã chạy trốn và tôi đã thất bại. Hôm nay, tôi đã biến thành con người mới. Tôi không trốn hư vô nữa. Tôi không than thở nữa. Tôi không tìm về mái nhà xưa nữa. Tôi không còn đau khổ vì mình phải bị mất gốc và mất đất đứng giữa cuộc đời. Tôi sung sướng bơi lội trong hư vô. Tôi hoàn toàn cảm thấy thoải mái trong hư vô và không cảm thấy hãi hùng nữa mà lại cảm thấy tuyệt diệu thanh thoát. Hư vô không phải là bi kịch; chỉ bi kịch là người ta không muốn bơi lội trong Hư vô, khi người ta buông xuôi để cho dòng nước Hư vô cuốn trôi đến chết, khi người ta không cố gắng nhô lên mà thở, khi người ta không chịu học bơi lội. Đây là chân lý. Chân lý thường giản dị như thế.
Muốn bơi được trong Hư vô mà không bị chìm, tôi phải làm những điều giản dị như sau: trước hết tôi phải cởi bỏ tất cả quần áo giầy dép nặng nề, tôi lột truồng ra để cho được nhẹ người; công việc này cũng khá khó khăn và hơi kỳ cục vì hiển nhiên người ta sẽ gọi tôi là một thằng điên. Nhưng có hề gì. Thà làm thằng điên để được sống hơn là làm thông thái thánh nhân để bị chìm mà chết. Trước hết tôi cởi bỏ công ước ra ngoài thân thể tôi. Công ước (convention) là một bộ phần quần áo nặng nề nhất có thể làm tôi bơi lội không được; công ước là kiến thức, ngôn ngữ, dấu hiệu, luật lệ, luân lý, đạo đức, nhãn hiệu, số đếm, vai trò, nghệ thuật, vân vân. Nói tóm lại, tất cả những quy ước do loài người đặt ra để tiện giao thiệp với nhau. Tôi gọi những thứ ấy là công ước bởi vì đó là một sự ký kết đồng ý giữa xã hội này đối với xã hội khác. Tôi lột bỏ những thứ ấy bởi vì những thứ ấy đã thất bại trong việc giúp tôi làm nhẹ nhàng thân thể tôi trong giòng nước Hư vô. Tất cả những gì thuộc về công ước để có thể nhìn được hình ảnh trọn vẹn của vũ trụ và của đời tôi; tôi không thể nào dùng những danh từ trừu tượng để diễn tả thực tại cụ thể. Dù muốn dù không, khi lớn lên, con người phải sống trong giả tạo, sống trong những lề lối công thức đã có sẵn. Khi tôi bắt đầu có trí khôn, tôi phải đi học và đi học có nghĩa là học cách chấp nhận những luật lệ công ước của xã hội; nếu tôi biết chấp nhận thâu thái những thứ đó thì tôi sẽ trở thành phần tử kiên cố của xã hội, một người công dân tốt và gương mẫu. Còn trái lại thì tôi sẽ trở thành một con người bị bỏ rơi, mất đất đứng, sống ngoài vòng xã hội, một persona non grata. Khi ra đời sống với con người, tôi phải làm hoà với công ước và nếu tôi không thể làm hoà được thì sẽ có sự giao tranh mãnh liệt giữa công ước xã hội với lòng khát sống phong phú của tôi, khi sự giao tranh ấy trở nên quá phũ phàng, tôi rất dễ trở thành một người điên, một người tội lỗi, một kẻ giết người, một tu sĩ, một người tự tử hoặc một kẻ biết sống trọn vẹn với đời mình. Chỉ có hai đường như trên, một đường thông thường của thế nhân chứa nhiều thành công, hứa hẹn nhiều hạnh phúc và một đường bất thường của một số ít người chứa nhiều thất bại cay đắng, hứa hẹn đầy nguy hiểm giông tố. Tôi tha thiết muốn sống thực sự với tôi, tôi muốn giữ gìn bản ngã tôi, but I have said that I want to preserve my identity (W. Saroyan, My self upon…) bởi thế tôi xin chọn con đường thứ hai. Anh sẽ bảo rằng tôi cực đoan bởi vì người ta không thể nào sống được nếu ở đời không có công ước giả tạo như thế, dù muốn hay không khi lớn lên tự nhiên con người đã biết nói rồi, người ta không thể nào tự mình muốn câm được. Tôi cũng có nghĩ như anh, nhưng thực ra chính công ước tự nó không có gì xấu, chỉ có thái độ của người ta hiện nay đối với những công ước ấy mới là nguy hiểm; người ta đã vô tình quên đi vai trò của những công ước ấy và tự đồng hoá sức sống mênh mang của mình với những ý niệm chết cứng, khô khan trừu tượng. Khi tôi nghĩ rằng phải lột bỏ tất cả thứ gì thuộc công thức không có nghĩa là tôi phải cởi tất cả quần áo ra, cởi bỏ kiến thức, giáo dục, ngôn ngữ, tư tưởng vân vân. Tôi có thể ăn mặc sang trọng, thắt cà vạt, quần áo chải chuốt, ăn nói trưởng giả, làm công công chức, ở nhà lầu, đi xe huê kỳ; nhưng mà tôi vẫn có thể tự hào là một người chống công ước mãnh liệt nhất, bởi vì chính những cái cà vạt kia, những chiếc xe huê kỳ kia, những nhà lầu kia thực sự chẳng có gì xấu cả, chỉ nguy hiểm là thái độ của tôi đối với những thứ ấy. Tôi xin lặp lại một sự thật đơn sơ; ở đời chẳng có gì là xấu và chẳng có gì là tốt; chỉ có lối nhìn của ta mới nguy hiểm thôi, ta nghĩ rằng có tốt, ta nghĩ rằng nó xấu, chỉ có thế thôi. Ta nên xem những thứ công ước ấy chỉ là phương tiện tiện lợi nhất và đừng để những thứ ấy dùng lại ta. “Con người trọn vẹn nhất ở trần gian này là những đứa hài nhi. Những đứa hài nhi chưa bị học nói bất cứ một ngôn ngữ nào mới là nòi giống duy nhất của trái đất này, nòi giống con người thực sự; tất cả những gì còn lại đều là giả dối, hư ngụy như văn minh, hờn ghét, sợ hãi, ham quyền lực, vân vân… khi lớn lên con người học tiếng và chữ của một ngôn ngữ và xem nhìn vũ trụ qua ngôn ngữ ấy”. Babies who have not yet been taught to speak any language are the only race of earth, the race of man: all the rest is pretense, what we call civilization, hatred, fear, desire for strength… we grow up and we learn the words of a language and we see the universe through the language we know (Saroyan, Seventy thousand assyrians). Tuy thế hiển nhiên là ta không thể nào là hài nhi mãi mãi ta phải lớn và cũng như ông cha của ta, ta phải chấp nhận những giả tạo công ước đã có sắn từ bao nghìn năm. Bi kịch không phải là chấp nhận những thứ ấy. Bi kịch là ta đã lãng quên vai trò giới hạn của những thứ ấy và đồng hoá những–tên-để-gọi-sự-vật với sự vật.
Tôi nhìn mây trắng trên vòm trời xanh và tiếp tục bước đi trên vệ đường, đến gần thư viện Đà Lạt, tôi đứng lại và bước qua bãi cỏ bên kia, nhìn sang thung lũng và những ngọn đồi bé nhỏ. Mùa này cỏ xanh lạ lùng và thơm. Tôi không muốn nghĩ ngợi gì nữa, vì mỗi khi nghĩ thì người ta luôn luôn quên thở. Tôi sinh ra không phải để nghĩ. Tôi sinh ra để thở. Một cơn gió rào rạt vi vu thoảng qua người tôi. Mát lạnh. Vài tà áo màu bay xa xôi trong rừng thông bên kia. Một con chim non đậu. Và nhìn tôi. Tôi nhìn lại chan chứa rồi lại tiếp tục bước đi nhè nhẹ. Tôi nhìn thấy nét mặt của Thượng đế trong một đoá hoa capucine ở một bụi lá bên đường. Tôi tiếp tục đi chậm rãi. Bước đến nhà thờ Đà Lạt tôi đứng lại nhìn mấy cây thông rồi bước vào nhà thờ, quì xuống làm dấu thánh giá rồi thì thầm: “Xin Chúa và Đức Mẹ, không hiểu tại sao con không bao giờ chịu tin có Chúa và Đức Mẹ”. Nói nho nhỏ như thằng khờ, rồi tôi lại ngồi trên ghế và khoanh tay nhìn thánh giá ở đằng xa, rồi bỗng nhiên đôi mắt tôi hướng về những luồng nắng vàng từ ngoài đưa vào khung cửa kính của nhà thờ. Tôi sung sướng nhìn nắng vàng và quên cả Chúa. Thế rồi tôi bước ra nhà thờ, cảm thấy khoan khoái nhẹ nhàng hơn, tôi bước đi xuống đường bờ hồ. Một cơn gió thoảng bâng quơ. Hàng cây anh đào không hoa. Xuân đã xa rồi.
Tôi sống trong giây phút thiên thu bất diệt. Giờ đây tôi thấy tôi có thể làm bất cứ chuyện gì trên đời này. Tôi đang sống trọn vẹn với tôi. Tôi không còn đau khổ nữa. Tôi đã chấp nhận đau khổ “Không có sự đổ vỡ nào mà vô phương cứu chữa. Tất cả ý nghĩa cuộc đời đều nằm trong chữ đau khổ” (Aucun désastre n’est irrémédiable. Tout le sens de la vie est contenu dans le mot souffrance.) (Henry Miller, Assassinez l’ assassin). Chính sự đau khổ đã làm cuộc đời có ý nghĩa và sống. Tôi không còn than van oán trách nữa. Tôi cười. Tôi thường nghĩ đến sự đau đớn và sau cùng tôi chỉ biết cười. I used to think about the pain and in the end all I could do was laugh (Saroyan). Sống là thiêng liêng. Đau khổ cũng thiêng liêng. Không có sự đau khổ, tôi không thể nào đi vào bên trong cuộc đời và không thể nào hiểu được những bí mật của đời người; không có sự đau khổ tôi sẽ nằm triền miên trong sự khô khan của cuộc đời tẻ nhạt. Sự đau khổ làm phong phú tâm hồn tôi. Biết đau khổ mà không than mới là chân lý của đời. Savoir souffrir sans se plaindre. Tôi càng bị đau khổ nhiều chừng nào, tôi càng phải cảm tạ trời đất nhiều chừng ấy. Giữa cuộc đời tôi phải đứng bơ vơ với một trái tim rỉ máu. Tôi phải lặn hụp lầy lội trong sự đau khổ. Con người duy nhất thuộc về trần gian này là con người mà thượng đế không bao giờ giết được. Sự đau khổ chỉ giết những kẻ yếu đuối và những kẻ không đáng sống. Tôi đang trôi miên man trong đại dương của Hư vô. Tôi không sợ và không trốn sự đau khổ. Tôi không trốn Hư vô. Tôi thênh thang đi về những phương trời miên viễn để tìm xa lạ. Il s’agit d’arriver l’inconnu par le dérèglement de tous les sens, les souffrances sont énormes mais il faut être fort (Arthur Rimbaud). Cuộc đời đẹp. Giây phút này thiên thu và tôi đang thở khoan khoái.
Le vierge, le vivace et le bel aujourd’hui.
Tôi yêu cuộc đời không phải chỉ vì cuộc đời đẹp. Tôi là một tình nhân say đắm. Tôi yêu cả những nét xấu xa nhất của cuộc đời. Những gì xấu xa ấy, đối với tôi vẫn duyên dáng và đẹp đẽ. Tôi biết rằng ngày mai tôi chết nhưng có hề gì, bởi vì cuộc đời tôi là vĩnh cửu thiên thu; cuộc đời tôi hơi thở tôi vẫn không bao giờ chấm dứt; mỗi một kinh nghiệm chỉ là sự thai nghén ra một kinh nghiệm khác. Ngay đến cái chết cũng thế.
Sau cùng đây là đạo sống:
Hãy cố gắng tập thở cho nồng nàn, khi ăn cho ra ăn, khi ngủ thì cho ra ngủ, hết sức cố gắng trọn vẹn và khi cười, cứ cười ầm lên, và khi giận cứ giận điên lên. Cố gắng sống. Chẳng bao lâu anh sẽ chết.
Try to learn to breathe deeply, really taste food when you eat, and when you sleep, really to sleep. Try as much as possible to be WHOLLY ALIVE , with all your might, and when you laugh, laugh like hell, and when you get angry, get good and angry. Try to be ALIVE. You will be dead soon enough. (William Saroyan)
Hai ba chiếc lá rơi xuống, tôi đứng lại nhìn rồi tiếp tục bước đi. Mây trắng bàng bạc đầy trời. Chim én tung bay. Mây trắng, chim én, lá rơi, ôi cuộc đời! Đà Lạt đẹp. Trần gian đẹp. Ôi cuộc đời! Gió lạnh thổi vi vu. Mưa bắt đầu rơi. Điệu Fantaisies impromptu của Chopin từ xa xưa đưa lại theo nhịp mưa trên đường vắng. Mưa trở nên nặng hột. Nước mưa càng ướt lạnh cả người tôi. Tôi mỉm cười sung sướng. Ngày trước mỗi lần đi đường bị mưa bất chợt, tôi thường vội vã chạy đi tìm chỗ trú mưa. Hôm nay, tôi không làm thế nữa. Tôi thản nhiên vui sướng đi dưới cơn mưa phũ phàng của cuộc đời.
Trên con đường hoang vắng, một bóng người bước lặng lẽ dưới mưa.
Viết thêm về Saroyan
Tôi bao giờ cho đến bây giờ, đối với tôi, Saroyan vẫn là một hiện tượng đáng yêu quý. Nhiều lần, tôi đã chán Saroyan, tôi thấy ông chỉ lặp đi lặp lại bao nhiêu chuyện, cũng như nhiều lần tôi nói tôi đã chán Krishnamurti, tôi thấy ông cũng chỉ lặp đi lặp lại có bao nhiêu lời, cũng như nhiều lần tôi đã chán Hermann Hesse, tôi cũng thấy Hesse chỉ lặp đi lặp lại có bao nhiêu chuyện, cũng như tôi đã chán D.T. Suzuki, tôi chỉ thấy D.T. Suzuki lặp đi lặp lại có bao nhiêu việc.
Nhưng tại sao tôi chưa chán kinh Phật, vì tất cả kinh điển Phật giáo cũng đều chỉ lặp đi lặp lại nói tới nói lui nói lên nói xuống nói ngang nói ngược nói thuận nói nghịch cũng trong mấy điều duy nhất? Ngày nào tôi đã chán hết mọi kinh Phật thì chắc chắn ngày đó tôi đã thành Phật! Tại sao tôi chưa muốn thành Phật mặc dù tôi có thể là Phật bất cứ lúc nào? Tại sao tôi triển hạn? Tại vì thành Phật không quan trọng bằng không thành Phật. Không chịu thành Phật, đó là khả năng tối thượng để thành Phật mà tôi muốn san sẻ với tất cả con người trên mặt đất.
Có một đêm tôi đã đi suốt đêm như vậy, tôi đi đê mê trong đêm tối như đi vào trong câu chuyện thần thoại của trẻ em. Và lúc sáng trở về nhà, tôi đã ngồi viết một mạch trọn cả chương này.
Viết xong tôi nằm ngất mê man trên giường. Lúc tôi thức giấc thì Đà Lạt đã về chiều và mưa đập mạnh vào cửa sổ. Tôi vội đứng dậy, choàng áo, đi xông ra ngoài mưa. Đi suốt đêm nữa. Nước mưa ngọt một mùi vị chỉ nếm được trong tiền kiếp.
P. C. T
1. Đêm
Tĩnh mịch im lặng chó sủa tiếng ho buồn buồn của một người đàn ông tất cả đều tĩnh mịch im lặng thiên thu dế kêu nhỏ nhẹ nặng nề mộng mị chó sủa từng hồi từ hoàng hôn Đà - lạt đêm nay trời không làm mưa đêm nay Đà Lạt âm u tĩnh mịch ngày tận cùng của nhân loại sự im lặng thánh kinh của buổi khai thiên lập địa bầu trời nhiều sao hay không tôi khóc nức nở bởi vì khắp nơi đều toàn là sự mù quáng ngộ nhận hiểu lầm thực là lạ lùng. It was this other thing this incredible blindness everywhere I cried bitterlyphải thế không William Saroyan người trẻ tuổi gan dạ trên cái đu bay và người con trai sung sướng là tôi thường thức suốt đêm để hỏi mình là ai và để suốt đời hưởng được một chút thanh bình trong trái tim tôi muốn đi tu vì sợ ở đời sẽ mau trở thành người điên bởi vì cuộc đời quá tươi đẹp và nụ cười của sự chết trên đôi mắt tôi and the smile of death in my eyes Saroyan đã gọi thế trong chuyện Aspirin is a Member of the NRAbởi vì tôi là người bị bịnh thần kinh quá nặng cho nên đêm nay tôi thường nhắc lại tên Saroyan như tên quá khứ để mà thấy rằng cuộc đời đáng sống và để nhớ lại những kỷ niệm xa xôi sẽ làm thuyên giảm bệnh thần kinh như những viên thuốc Névrovitamine 4 hay như nhưng bản nhạc buồn của Chopin của những nhạc sĩ tôi không biết tên và thường lắng nghe đau khổ trong những quán về khuya những lúc chán đời vì cuộc đời quá tươi đẹp và bởi vì William Saroyan là nhà văn Mỹ từ chối giải thưởng Pulitzer và viết văn nhẹ nhàng hay gợi lại những kỷ niệm nồng nàn xa xôi Saroyan thường cười cái chết và nghĩ rằng thực sự tuyệt đối không có gì để nói there was absolutely nothing to say trong truyện The Earth Day Night Self và Saroyan viết văn bàng bạc khơi khơi trên đời chứ không có giọng điệu bệnh hoạn thần kinh neurasthénie psychasthénie hypochondrie dépression schizophrenie et caetare như Hemingway John Dos Passos Faulkner James Joyce và Dosto và Kafka và Leonid Andreyev bởi thế đêm nay không ngủ được nằm tráo trở trên giường thao thức trong đêm tối không thắp đèn vì tôi ghét ánh sáng tôi thích ngồi trong bóng tối đen và nhớ và the light I disliked so I used to sit in the darkness remembering nhớ gì chỉ nhớ lại William Saroyan nhớ Saroyan có nghĩa là nhớ lại những kỷ niệm của chính mình tôi tự hỏi tại sao ngày xưa tôi chỉ ưa thích những điều giản dị và thanh bình và bình lặng và những gia đình We went in for the simple things peace anh quiet and families thế mà loài người không bao giờ để tôi yên và trời ơi sao ở đời lại quá nhiều ngộ nhận bi thương để cho James Dean phải đi bơ vơ lạnh lẽo trên quãng đường vắng vẻ loáng nước mưa và để cho Rimbaud phải du côn đau đớn đi tìm những gì miên viễn ở mấy bến Phi – châu hiu quạnh và để cho Van Gogh bàng hoàng đi ăn mày một ánh lửa mơ hồ ở mặt trời thiêu đốt và để cho Blaise Cendrars phải đau lòng cầu nguyện van xin Thượng đế hãy xót thương những gái giang hồ vào ngày lễ Phục sinh thế rồi Blaise Cendrars từ trần ngày 21 tháng giêng 1961 và trần gian mật một con chim én vàng một con chim én không làm thành mùa xuân như anh đã nói nhưng mùa xuân là cái gì tôi không cần mùa xuân ấy vì cuộc đời chỉ cần có một con chim én thôi và thực ra tôi ghét lý luận lôi thôi và ghét lý trí phân minh cho nên hồi chiều này tôi đã xé trọn 911 trang Histoire de la Philosophie occidentale của Bertrand Russell dù tôi rất yêu Bertrand Russell song tôi rất bực bội mà được Bertrand Russell cho biết rằng William James đã mắng chửi Santayana một cách tồi tệ và Santayana cũng ghét William James vô cùng, tôi lấy làm lạ tại sao những triết gia thường ghét nhau như thế, bởi vậy tôi ghét triết học vì triết học chỉ dạy tôi một điều là ghét triết học tôi ghét triết học cũng như con gái của Luther nói rằng ai không yêu rượu không yêu đàn bà con gái và không yêu bài hát thì vẫn là thằng điên dại suốt đời Wer nicht liebt Wein Weib und Gesang, bleibt ein Narr sein Leben lang tôi chỉ yêu bài hát bài ca âm nhạc chứ không hề muốn yêu con gái vì thế tôi sung sướng làm thằng điên dại suốt đời tôi ghét con gái cũng như tôi ghét Thượng đế cũng như một đứa học trò trốn học ghét thầy cũng như một đứa con hoang đàng bỏ nhà mà đi và ghét cha mình và tôi ghét Thượng đế đến nỗi không bao giờ thích sống trên thiên đàng và muốn sống đời đời dưới hoả ngục để nhìn xem lửa thiêu đốt muôn triệu người triệu triệu triệu triệu người để mà có thể đo được sức tàn nhẫn của Thượng đế và tôi muốn làm quỷ Lucifer để có thể chửi rủa Thượng đế cho hả giận còn nếu Thượng đế không muốn cho tôi làm quỷ thì tôi xin được làm người và đệ một cái đơn xin phép được sống sometime soon I must write an Application for Permission to Live như The Daring Young Man on the Flying Trapeze của William Saroyan và bỗng nhiên tôi nhớ đến hình ảnh đau buồn của một người làm vườn nghèo khổ khum num chắp tay thưa ông chủ nhà rằng xin lạy ông vui lòng cho con nghỉ làm vườn một ngày thôi vì nhà con mới lên Đà Lạt chưa quen lạnh nên đã bị đau phổi con phải nghỉ việc để chạy tiền đi bác sĩ xin ông cho con lạy ông thương hại con không hiểu sao chuyện ấy xảy ra hồi chiều này thế mà tối nay giữa đêm khuya tịch mịch tôi sực nhớ lại có lẽ sẽ nhớ mãi suốt đời cũng như tôi sẽ nhớ mãi thiên thu nét mặt lặng buồn của một người ăn mày bơ vơ đứng giữa ngã ba phố chợ giữa bao nhiêu người bình thản chen chúc vui cười ca tụng cuộc đời tươi đẹp trong khoé mắt đau thương và tôi thương người làm vườn người ăn mày bơ vơ cũng như tôi thương người Ba-lan hay người Do Thái hay người Mỹ Da đen hay người cha già Phi châu quê mùa lum khum đưa tiễn con trai qua Mỹ du học như tôi đã thấy trong tạp chí Life là một tờ báo tôi ghét cũng như tôi ghét Paris Match và Time và Reader’s Digestvà cử chỉ điệu bộ của André Malraux không hiểu tại sao ban đêm tôi thường hay khóc lặng lẽ trong đêm tối chắc là tôi cảm thấy đời mình quá cô độc và cuộc đời hết lối cảm thông toàn là ngộ nhận và đôi lúc tôi mỉm cười vì nghĩ rằng chính mình cũng là hiện thân của ngộ nhận không hiểu sao ban đêm tôi thường khóc có lẽ vì quá cô độc bơ vơ giữa vũ trụ lặng lờ người sẽ bảo tôi như đứa con nít khóc trong giường vì mẹ đi vắng ư thực đúng đôi lúc như đêm nay vì quá khổ cho nên tôi tự an ủi tôi bằng cách tự nhủ như vầy con ơi hãy ngủ đi con tôi bắt chước giọng nồng nàn của một người mẹ và khi tự nói tôi tưởng tượng đó là những lời của một người mẹ hiền lành trên đời đang nhìn tôi khổ và ôm tôi vào lòng mà nói như thế con ơi hãy ngủ đi con tôi cười rồi tôi khóc bởi vì tôi nhớ đến người mẹ trần gian của tôi mỗi lần ngày xưa khi còn nhỏ mà được mẹ tôi gọi tôi là con thì tôi sung sướng vô cùng nhưng ít khi mẹ tôi gọi thế thường thì bị gọi là mầy tôi đau khổ tủi lòng nhưng tôi rất thương mẹ tôi và cha tôi cũng thế ít nói suốt ngày không nói với con một lời hình như cha mẹ tôi không bao giờ sống được một ngày hạnh phúc mặc dù ngày trước đời sống vật chất của gia đình quá thừa thãi thế mà mỗi lần cha mẹ tôi lôi thôi ồn ào với nhau thì mấy anh em chúng tôi là những đứa nhỏ bé bỏng phải xúm lại khóc lóc và quì lạy van xin cha mẹ đừng ghét thù nhau từ đó từ những ngày như vậy tôi bắt đầu biết thế nào là đau khổ từ đó trở đi khi lớn lên bơ vơ bước vào cuộc đời tôi thường bi quan chán đời dù tóc hãy còn quá xanh và tôi thường rụt rè nhút nhát tôi đã đi tìm khắp nơi để tìm thử coi ai có nét mặt mà không mang sự đau khổ nhưng tôi không gặp mà tôi nhớ đến William Saroyan như nhớ đến dòng sông nào tê tái trong giấc mộng đời I could see the pain in the faces everybody I looked everywhere for one face that was not the mask of pained life but I did not find such a face tiếng khóc nức nở của trẻ con và trong tiếng khóc của trẻ con ta thấy tình huynh đệ của loài người and the way they cry there you have the brotherhood of man tiếng chuông linh quang hay linh sơn và tiếng trẻ con khóc xa xa trong đêm tối tiếng chuông nhà thờ có lẽ khoảng năm sáu giờ sáng rồi suốt đêm không ngủ Van Gogh khi tôi đau khổ tôi cố gắng cười và mỗi lúc khi muốn điên lên vì quá đau khổ tôi nhớ trong lust for life và tôi thấy Van Gogh và savoir souffrir sans se plaindre biết khổ mà không than thở tiếng chó sủa vài tiếng chim kêu Chaplin đang khóc và cuộc đời ôi cuộc đời ngõ hẹp buồn bã hương thời gian màu sắc một đêm và những con chim hải âu trên mái nhà của Anne Frank và em bé bán bánh mì rao buồn trên đường cái trời sáng rồi hay sao nét mặt trầm tư của Albert Schweitzer và Einstein viết về Gandhi và đôi mắt của Kafka không có gì để nói there was nothing to say không có gì để nói giọng hát tiếng hát tha thướt của Connie Francis của Dalida của Françoise Hardy mai này tôi chết đi hãy chôn tôi với cây đàn ghi-ta Federico Garcia Lorca mai nầy tôi chết đi xin hãy chôn tôi với cây đàn ghi-ta trời ơi não nùng cuộc đời ho lao ngôi sao bạc mệnh căm căm cuối trời một người con trai cô đơn đau khổ trời bắt đầu sáng chim kêu tiếng chân ai khua động trên sàn gỗ ôi cuộc đời O swift moment of life it ended the earth is again now ôi cuộc đời ôi khoảnh khắc nhanh chóng của cuộc đời và chấm dứt và trần gian mặt đất bây giờ trở lại.
2. Ngày
Quờ quạng bật đèn lấy nước rửa mặt, suốt đêm không ngủ, nước mát rượi, lạnh và trong, nước của Trời, nước của Đà Lạt thiên thu hay là của William Saroyan (nước của Going Home), mùi vị, hương vị ngọt dịu dàng của nước khiến tôi ngạc nhiên lạ lùng, lúc tôi uống nước, trời, sao mà tuyệt diệu, tôi cảm thấy dòng nước mát tung toé thể chất tôi, làm mát dịu thoải mái con người tôi The sweet rich taste of the water amazed him, and as he drank he thought, God, this is splendid. He could fell the cool water splashing into his being refreshing and cooling him (W. Saroyan Going home). Tôi sung sướng, hơi thở trở nên nhẹ nhàng đôi mắt mơn trớn nhìn vào kiếng soi mắt. Rất không đẹp trai. Very unhandsome. Tôi mỉm cười hát khẽ La vie en rose, Green Field và A many splendoured thing; buổi sáng sắp trở về, tôi choàng áo vào người; Đà Lạt sáng tinh sương lạnh lắm; mở ngăn tủ ra còn lại năm đồng, lấy hết bỏ vào túi áo và bước ra ngoài đường phố.
Đường Yagut còn ngủ trong tĩnh mịch thần tiên của buổi sáng tinh mơ, sương mai còn loáng thoáng đâu đây, gió thổi mạnh mơ hồ; tôi hát khẽ trên đường phố chim bay là đà khắp nơi, chim từ đâu sao bay ra nhiều quá; những con chim lí nhí như những cô gái hồn nhiên bước ra trường lúc tan học, tôi mỉm cười khi nghĩ ra một lối so sánh đa tình như vậy; tại sao buổi sáng nào gà cũng gáy sung sướng triền miên và bây giờ mấy con chó cũng không còn sủa nữa, nửa đường Yagut loáng nước, đêm vừa qua không mưa, có lẽ đây là nước ở trong mấy căn nhà đổ ra hay là người ta rửa xe vào lúc đêm, có lẽ thế. Một đàn chim vụt bay ra, không biết từ đâu… những đôi cánh mảnh khảnh khua động trên khúc đường loáng nước. Dế kêu trong đám cỏ ướt sương. Tôi nhìn những hòn sỏi đá nhỏ hao mòn lác đác trên mặt đường hoang vắng. Phân bò rải rác dọc theo bờ. Những đường phố Sài-gòn không bao giờ được như vậy, tôi tự nghĩ và cười sung sướng; buổi sáng xám, lạnh, không vui, một buổi sáng cho nguồn sinh lực bên trong, thực là một buổi sáng tuyệt vời. It was really a splendid morning: gray, cold and cheerless, a morning for inward vigor (Saroyan, The daring young man…) Gà gáy trong trẻo hơn, vài ba con chó lạnh lùng sủa lên đôi tiếng, vài ba tiếng guốc khua lẻ tẻ trên mặt đường, bốn năm con ngỗng vừa chạy vừa kêu vang rền trong mấy bụi cây, tôi ca khẽ những bài hát ngày xưa và ngước nhìn những con chim bay đi, rồi quay về dưới mái nhà rêu bám ở đường Hoàng Diệu. Tôi đã đi đường Hoàng Diệu có cả trăm lần mà mãi đến sáng nay tôi mới thấy một ngôi nhà kia có một cây bưởi xanh, ôi con người vô tình, mấy chục trái bưởi đung đưa nhí nhảnh trên những cành lá ướt át (vì hơi đêm), trái tươi tròn, những cái vú căng sữa của những người mẹ hiền. Vài ba người vừa mới thức giấc, mặt hãy còn ngây ngủ, đứng nhìn bâng quơ ra ngoài đường, một bà cụ gánh hàng đang bước nhanh trước mặt tôi, cuối đường hai ba người xách giỏ thì thào, đi chợ, hai người đàn ông đăm chiêu chạy xe đạp chầm chậm; mộng mị ban đêm còn lảng vảng chập chờn trước đôi mắt kia; bây giờ tôi đang đi ngay giữa thị thành, giữa những người đang sống. (He was now walking in the city itself, among living men (Wiliam Saroyan, The daring young man…). Một bầy chim đang bay qua mái nhà. Một con chó thiu thiu ngủ (suốt đêm đã thức nhiều nên mệt), nằm dài, lừ đừ, vài ba con chim hồn nhiên bay xuống đậu ngay trước mặt, nhưng chó vẫn nằm im lặng. Hai cậu học trò nhỏ bé đi học sớm, trên tay mỗi cậu là mấy đoá hoa tươi, có lẽ mới hái ở dọc đường. Ôi tuổi xanh đã mất. Tôi dừng lại bên cầu HảI Thượng. Hơi sáng bay thoảng vào người tôi. Tôi hít nồng nàn vào phổi. Nhìn xuống dòng nước chảy dưới cầu. Toàn là rác dơ bẩn và hôi. Trong đống rác lềnh bềnh ở dưới chân cầu, tôi sửng sốt nhận ra một đám hoa lục bình xanh: vài đoá hoa tím nở trên ấy và vài cánh bướm trắng chập chờn. Rác. Lục bình trong rác. Hoa trong lục bình. Bướm trong hoa. Tôi mỉm cười ca hát sung sướng trong tâm hồn. Một buổi sáng huy hoàng. Tôi thở nhịp nhàng. Từng đàn chim bay chập chùng trên mái nhà xưa cũ rồi bay trên những ngọn cây cao. Gió thổi nhẹ qua những lá cỏ xanh non. Mùa này mưa bắt đầu trở về và cỏ xanh lạ lùng. Khói nhà ai đun lên tận trời. Những điệu nhạc xa xôi của Chopin trở về bàng bạc trong tâm tưởng.
Anh hãy đàn cho tôi nghe bản nhạc Tristesse của Chopin và bản Paloma, anh đàn đi anh. Tôi thích hai bản này nhất. Thằng này mơ mộng quá, còn nhỏ quá mà thích tình tứ mộng mơ rồi, tao biết tại sao mày thích hai bản này. Gió thổi nhẹ một chiếc lá rơi xuống đất. Trông anh như thằng ngáo. Nhìn nét mặt ngơ ngác. Đi đường phố nào anh cũng tần ngần. Nhìn bộ tịch anh người ta có thể đoán anh mới đến Đà Lạt lần đầu tiên. Gặp cái gì anh cũng nhìn hết, anh chưa đến Đà Lạt bao giờ sao? Vâng đây là lần đầu tiên tôi đến Đà Lạt. Anh sao khó tính quá, anh hãy để tôi nhìn Đà Lạt chứ sao? Đà Lạt đẹp quá vậy anh? Anh trông tôi đứng lại, nhìn đằng trước cũng đẹp, nhìn bên phải cũng đẹp, nhìn bên trái cũng đẹp, nhìn lên trời cũng đẹp mà nhìn dưới đất cũng đẹp, anh nhìn xem: mấy con bướm trắng bay thơ mộng quá, tôi thương mấy con kiến kia quá, anh ơi. Tôi tự tính lại thì ngạc nhiên thấy mình đã sống ở Đà Lạt khá lâu, mấy con bướm và mấy con kiến (mà tôi gặp hồi đến Đà Lạt lần đầu tiên) chắc đến ngày hôm nay chúng nó đã chết rồi. Con người tôi ngày trước bây giờ không còn nữa, con người hồn nhiên ấy cũng chết theo dòng đời. Đôi mắt tôi ngày nay không còn là đôi mắt ngày xưa, của lần đầu tiên đến Đà Lạt. Tôi là một kẻ khác, không phải là tôi nữa. Tôi đã chết lâu rồi. Nghĩ lại mấy năm tôi sống ở Đà Lạt, tôi mới thấy rằng tôi sống như một cái xác không hồn, lãnh đạm, thờ ơ, lạnh lẽo, khó khăn, bơ phờ, mất mát, chết giữa ngày tháng tịch mịch; mỗi sáng mỗi chiều cũng bấy nhiêu cử động, ăn uống, đi dạy, ngủ, ăn, dạy, ngủ, ăn, dạy, đi, về, ngủ, thức, ăn, dạy, đi, về, đi, đi, về, đi rồi về, cũng bấy nhiêu cử động lặp đi lặp lại, ngày nào cũng như ngày nấy, cũng bấy nhiêu cử động máy móc, cũng bấy nhiêu sáng, chiều, tối trở đi, trở lại, trở đi, trở lại, bao nhiêu lần tôi đi lang thang giữa phố chợ mà không biết mình là ai, bao nhiêu lần tôi đi giữa đường phố mà đôi mắt kia không nhìn thấy gì cả, đôi mắt thao láo như đôi mắt của một người chết. Buổi sáng hôm nay bỗng nhiên tôi cảm thấy sống lại; con người tôi của ngày đầu tiên đến Đà Lạt bỗng nhiên trở về nhập lại cái xác không hồn này, tôi lắng nghe hơi thở của tôi dịu dàng trong thể xác, tôi lắng nghe điệu nhạc triền miên của thuở hoa niên xanh mộng trở về thướt tha trong lòng tôi, tôi lắng nghe tiếng lá rơi nhẹ trên mặt đất tôi trố mắt nhìn từng sự vật, tôi có cảm giác như đã mù từ lâu rồi và bỗng nhiên hôm nay mắt được sáng lại; tôi phân biệt từng đợt màu xanh khác nhau trong từng chiếc lá, tôi đứng lại để lặng nhìn một con kiến bé nhỏ đang bò lên lá cỏ; tôi ngửi được hương vị nồng nàn của không khí, mùi thoảng của lá khô, hương thơm của khói, của cây non, của một đoá hoa héo trong bụi cây bên đường; mấy năm nay, tôi đã đi trên đường này biết bao lần nhưng nào có thấy, nghe, ngửi, cảm gì đâu, thế mà hôm nay, cũng trên con đường này, đột nhiên tôi ý thức rằng mình đang thở nhịp nhàng, rằng bao nhiêu sự vật xinh đẹp lạ lùng đang thở quanh tôi. Tôi có cảm giác lạ lùng mới lạ của một đêm ngủ miên man trong một ngàn năm rồi bỗng thức dậy và mắt sửng sốt nhìn tất cả hình ảnh huyền diệu vây phủ chung quanh mình. Tất cả sự vật chung quanh đều xuất hiện ra lần đầu tiên trước đôi mắt tôi. Thực là huy hoàng tuyệt vời. I walked into town, into the streets where we had put up our building, and suddenly I saw them for this first time, suddenly I was really seeing them and they were splendid (W. Saroyan, And Man). Tôi chỉ đứng lại trên cỏ và lắng nghe mình thở; chỉ thở thôi và sung sướng rồi, now it was a pleasure even to breath (Saroyan, Going Home). Thế rồi tôi giựt mình khi nghe tôi cười vang lên giữa đường phố; tôi cười tất cả những điều thảm thương ở trần gian, sự ngộ nhận khắp nơi, sự xung đột đời đời, sự hung dữ tàn ác, những điều đó làm con người trở nên một con vật nham hiểm, tôi cười sự chết, he was laughing at all the pathetic things in the world, the misunderstandings everywhere, the everlasting conflict, the cruelty, the things that made man a malignant thing… (Saroyan, Laughter). The worst that can happen to any of us, I used to laugh, is death. (Saroyan, Aspirin is a Member of NRA).
Tôi cúi xuống hái một lá nhỏ, lặng lẽ nhìn và hôn vào lá ấy. Một người đi đường ngơ ngác ngó lại. Tôi cười. Tôi cảm thấy thương yêu tất cả nhân loại, yêu cả kẻ thù, yêu cả những điều tôi ghét, yêu hết mọi sự vật ở trần gian này. Tôi bước đi. Người ấy ngó theo. Năm sáu con chim én tung bay lên trời. Ý nghĩa trọn vẹn hiện ra; hình ảnh trọn vẹn của trần gian và của con người xuất hiện huy hoàng trước đôi mắt rực ngời của tôi. Ôi trần gian mặt đất này đẹp biết bao. The earth was so lovely (Saroyan, The Earth, Day, Night, Self). Chỉ sống thôi thì thực là vinh quang biết bao. How glorious it is to be alive, to be still living (Saroyan, My self upon the earth). Tôi yêu và thờ phượng cuộc đời… Tôi tin rằng tôi sống… Thoáng giây này sẽ không bao giờ bị xoá nhoà; nó vượt thời gian, I love and worship life… I believe that I live … and the living of this moment can never be effaced. It is beyond time (Saroyan, My self upon the earth). Tôi là tôi, je suis moi, vũ trụ là vũ trụ, trần gian này là trần gian, cuộc đời là cuộc đời, con người là con người. Tôi đang đi đây, ngày nay, năm này tại thành phố Đà Lạt ; tôi biết rằng rồi đây tôi sẽ chết, bởi thế hôm nay tôi sống. Chết là một thực tại, bởi thế sống cũng là một thực tại. Chết không thể nào tránh được, cũng giống như sống cũng không thể nào tránh được. In order not to be a fool, you must believe that as much as death is inevitable life is inevitable (Saroyan). Sự huy hoàng tuyệt vời của Sống. Hãy để con người đi và nói và nghĩ và ngủ và mơ và thức và lại đi và lại nói và lại di động và sống. The splendor of the mere fact of his being alive… Let him walk and talk and think and sleep and dream and awaken and walk again and move and be ALIVE (Saroyan, A cold day). Hãy sống. Đừng chết nữa. Tôi đã chết. Rất nhiều người đã chết. Hầu hết nhân loại hiện nay đang chết. Hãy sống. Hãy ca tụng tình huynh đệ của những sự vật sống, the brotherhood of things alive (Saroyan). Sống là tuyệt đối là trọn vẹn, vĩnh cửu, thiên thu. Sống là chân lý. Nhớ là sống, cười là sống, không hấp tấp vội vã là sống, you are in a hurry but I am not: I shall witness your disintegration (Saroyan, Aspirin is a Member of the NRA). Ngủ là sống, It is only sleep that we my know that we live (Saroyan, The daring young man…). Yêu thương là sống, đau khổ là sống, trung thành với chính mình là sống, I want him to be himself (Saroyan, Myself upon the earth). Luật lệ, phép tắc, quy chế, truyền thống, ngôn ngữ, triết học, lý trí không phải là sống. All my life I have laughed at rules and mocked traditions, styles and mannerisms… I do not believe in philosophies (Saroyan, Myself…). Sự thù ghét, sợ hãi, sự ham quyền lực không phải là sống, những chủng tộc, những chính quyền không phải là sống. I do not believe in races, I do not believe in governments ( Saroyan, Seventy thousand Assyrians).
Những nhà đạo đức, luân lý, những kẻ hèn nhát và những hiền nhân, thánh nhân, hiền triết không phải là sống. I love to make small explosions with the infated bags of moralists cowards, and wise men (Saroyan, Myself upon….). Tất cả những ngôn ngữ hợp lại là sống, hay không có ngôn ngữ nào cả là sống, sự im lặng là sống, We see the universe through the language we know, we do not see it through all languages or though no language at all through silence. If I want to do anything, I want to speak a more universal language (Saroyan, Seventy thousand Assyrians). Trái tim của con người là sống, the heart of man, the unwritten part of man that which is eternal and common to all races (Saroyan, Seventy thousand…). Mâu thuẫn, nghịch lý là sống, Every life is a contradiction… I believe in the right of man to contradict himself(Saroyan, Myself upon….). Hình ảnh trọn vẹn, hình ảnh của sự trọn vẹn là sống.
Chương trình kế hoạch của tôi là SỐNG vô hạn định, It is my plan to stay ALIVE indefinitely (Saroyan, Fight your own war).
Đà Lạt có nhiều chim hơn bất cứ nơi nào ở Việt Nam. Tôi vừa đi vừa lắng nghe tiếng chim kêu. Tôi cười miên man và nhìn mấy chiếc lá đung đưa trên những cành cây gầy yếu. Tại sao anh trông gầy yếu xanh xao như vậy? Bởi vì mấy tháng nay tôi bị bịnh mất ngủ, tối nào tôi cũng nằm trằn trọc suốt đêm, nằm ngó trần nhà chứ không làm gì cả. Suốt đêm, tôi nằm trong bóng tối, không dám nghĩ gì cả, nhiều khi tôi cười sặc sụa lúc khuya khoắt hoặc tôi lấy tay đập mạnh vào giường. Tôi không hiểu tại sao tôi làm như vậy; có những đêm, tôi tự hỏi tôi là ai, tại sao lại nằm nơi cái giường này, tôi giựt mình toát mồ hôi ra; sáng thức dậy tôi cử động ăn nói vô ý thức vắng mặt, đi đứng bơ phờ, đầu óc mệt mỏi, chán chường không thích, không thèm gì cả, không ham, không ghét gì cả; tôi sống xa lạ chơi với tất cả mọi người, - tôi không biết đi đâu, không biết thuộc về đâu; tôi là ai, là ai, thân xác này thuộc về ai, mười ngón tay của ai, của tôi; tôi là gì, tôi không biết, tôi không gì cả; tôi không biết gì cả; anh đừng hỏi tôi tại sao tôi gầy yếu, anh đừng hỏi, xin đừng hỏi, tôi là ai, tôi chết, tôi sống, gầy yếu, mạnh khoẻ, trắng, đen, không, có, sống, chết, tôi không biết, xin đừng hỏi, tôi không hiểu gì cả, tôi hét đây, tôi la đây, tôi không hiểu gì cả, anh có nghe không? Thuở ấy tôi đã chết và tôi không biết rằng mình chết, tôi chạy loanh quanh trốn tránh hư vô: tôi đã trốn tránh đủ cách, đủ đường, đủ lối mà càng trốn tránh hư vô tôi càng gặp hư vô và tôi chết; không hiểu sao bỗng nhiên sáng nay tôi thấy mình sống lại và sống là một bí mật, là sự huyền nhiệm, chân lý là đã đi trong sự chết để rồi mới thấy lại sự sống. Tôi không thể cắt nghĩa được và thực ra, tuyệt đối không có gì để nói cả, there was absolutely nothing to say (Saroyan, The earth, day, night, self). Hôm nay, tôi biết rằng tôi sống, tôi thở. Chỉ có thế thôi. Sống là Chân lý. Tìm chân lý là tìm sống. Sống là thiêng liêng, ngoài ra trên đời chẳng có gì thiêng liêng cả, there was no sacred thing in the world (Saroyan, Seventeen). Sống là gì? Tôi không hiểu. Đó là chân lý. Tôi không thể kể nói gì cả. Mỗi người phải tự tìm lấy chân lý cho chính mình. Chân lý ấy không ở trên trời mà lại ở tại trần gian này, tại mặt đất này. I cannot tell anyone. Everyone must see for himself. Everyone must seek the truth for himself (Saroyan, And man). Tôi sống cuộc đời tôi. Anh sống cuộc đời anh. Chị sống cuộc đời chị. Tôi thở cho tôi; tôi không thể nào thở hộ cho ai được. Tôi hoàn toàn vô trách nhiệm; tôi chỉ có trách nhiệm đối với riêng tôi; cũng như anh có trách nhiệm đối với anh. Tôi không có kẻ thù. Nếu có kẻ thù chăng thì chính tôi mới là kẻ thù của tôi. Chính tôi tự cứu lấy tôi; chỉ những nỗ lực của chính tôi mới cứu được tôi; tôi không trung thành với bất cứ một ý niệm hoặc một danh từ trừu tượng nào; tôi phản bội với tất cả; đôi khi tôi cũng phản bội với chính tôi; tôi chỉ trung thành với hơi thở nhịp nhàng của tôi và của con người. Ở đời không có tốt và không có xấu không có giả , chỉ có chết và sống mà thôi; thực ra thì chỉ có sống bởi vì chết chỉ là một hình thức triền miên của sống và sống và chết chỉ là một; sau cùng chỉ có hơi thở là duy nhất, thiên thu, bất diệt, vĩnh cửu, tuyệt đối, trọn vẹn.
Hai ba chiếc lá rơi xuống, tôi đứng lại nhìn rồi lại tiếp tục bước đi. Mây trắng bàng bạc đầy trời. Chim én tung bay đầy trời. Mây trắng, chim én, lá rơi, ôi cuộc đời! Đà Lạt đẹp. Trần gian đẹp. Ôi cuộc đời!
Mặc dù trần gian này đầy đau khổ, nhưng trần gian này vẫn luôn luôn là một trần gian tươi đẹp. Nếu sự đau khổ không còn ở trần gian này thì trần gian không còn tươi đẹp nữa. Thế giới này phải được thoát thai trong sự đau khổ để làm trần gian này trở thành một toàn thể (une totalité). Trần gian này, cuộc đời này, sự sống này là một cái gì trọn vẹn mà chúng ta không bao giờ nhìn thấy đủ hết tầm vóc. Bất cứ một hệ thống triết lý nào, bất cứ một ý thức hệ nào, bất cứ một chính trị nào cũng thất bại. Con người muốn nhìn thấy rõ sự thật, sự trọn vẹn của cuộc đời, của trần gian, của con người mình thì phải đánh đổ phá hủy tất cả những gì hiện nay mình yêu quý hoặc mình ghét; con người ấy phải là con người chỉ sống trong hiện tại, không quá khứ, không tương lai, không truyền thống, không đất đứng, không một mái nhà để che đầu. Con người ấy tự lột cả áo quần, đứng trần truồng và nhìn sự trần truồng của trần gian, của cuộc đời. Con người ấy phải là một đám mây trắng lênh đênh trên trời, bềnh bồng trong sự sống không vô hạn, bay trên những ti tiện và cao siêu của nhân thế. Bay trên tất cả những chiều hướng xung khắc đối chọi nhau của cuộc đời. Đám mây trắng phiêu bạt ấy không thuộc về một bầu trời nào, không thuộc về một lũng đồi nào, không thuộc một giải đất nào, không thuộc về một đại dương nào; đám mây trắng ấy không thuộc về riêng một cái gì và đám mây trắng ấy thuộc về tất cả. Con người hãy ngước nhìn mây trắng, con người không cần phải thuộc về đâu cả, không cần phải thuộc một nhóm nào, một đảng phái nào, một tôn giáo nào hoặc một chủ nghĩa nào. Con người không cần phải nhập Đảng cộng sản hay đi theo tư bản mới có thể sống được. Con người không cần phải đi nhà thờ hoặc đi chùa mới thở được. Không cần phải đứng dưới một lá cờ nào mới có thể sống. Trái lại phải tránh tất cả những thứ ấy. Hơi thở là hơi thở; có những thứ ấy hay không hơi thở vẫn là hơi thở. Dù sao tôi vẫn tin rằng tất cả mọi sự đều được tạo ra để trần gian này được thở. Người ta sinh ra để thở. Người ta sinh ra để hạnh phúc. Bởi vì người ta không muốn thở, không muốn hạnh phúc cho nên người ta chết và không hạnh phúc. Tôi xin mãnh liệt rằng tôi đang sống và tôi muốn sống. Tôi không đòi hỏi những kẻ khác phải tự hy sinh để thực hiện đức tin của tôi. Tôi không cần người khác phải trung thành, phải kính trọng tôi. Tôi chỉ ước rằng những kẻ khác cũng muốn sống trọn vẹn như vậy. Tôi là một người có đức tin. Tôi tin nơi tôi. Tôi tin nơi con người et ma foi est dans l’ homme. Tôi tin nơi quả tim của con người. Quả tim ấy ngừng, tôi sẽ không còn thở nữa, chỉ có thế thôi. Tôi ước mong thế giới này sẽ tiêu tan ra từng mảnh và nhân loại sẽ bị tiêu diệt hết đi để còn sót lại hai người thôi; hai người ấy sẽ sinh con đẻ cái, tạo ra những con người mới, những con người thực sự, yêu thương nhau, lắng nghe hơi thở nồng nàn và được kết hợp nhau bằng nhịp điệu du dương của con tim chớ không phải bằng giai cấp, tôn giáo, tổ quốc, nòi giống, nghề nghiệp, chính trị, nhân sinh quan hay ý thức hệ. Dù sao tôi vẫn tin rằng nhân loại vẫn không đến nỗi phải đáng chịu tiêu diệt như vậy bởi vì tôi vẫn tin nơi con người; nói như Anne Frank, tôi vẫn tin nơi lòng tốt bẩm sinh của con người (omdat ik nog steeds aan de innerlijke goedhied van de mens geloof) It is the heart of man that I am trying to imply in this work… Man has great dignity, do not imagine that he has not (W. Saroyan, Seventy Thousand Assyrians). Tôi tôn thờ một tổ quốc: con người, nghĩa là trần gian và tất cả những người ở trần gian. Tổ quốc con người hiện nay đang đổ vỡ điêu đứng nhưng rồi đây tất cả mọi điêu đứng tan thương sẽ qua hết. Tôi phải giết con người tôi hiện nay để mà có thể sống lại giữa đất ngước loài người. Con người của tôi hiện nay là con người giả dối, hèn nhát, không dám trung thành với chính mình mà chỉ trung thành với những khuôn thước mẫu mực của người, không dám ăn, không dám nói, không dám đi đứng, di động và không dám thở. Tôi phải giết tôi để tìm lại tôi. Tôi chúc anh tìm lại anh.
Đường này là đường Phạm Phú Thứ? Nhiều cây lá lắm. Lá thông khô đưa ra một hương vị ngày xưa. Hoa đỏ từng chùm trong bụi cây xanh. Hai ba chiếc lá rơi xuống, tôi đứng lại nhìn rồi tiếp tục bước đi. Mây trắng bàng bạc đầy trời. Chim én tung bay đầy trời. Mây trắng, chim én, lá rơi, ôi cuộc đời! Đà Lạt đẹp. Trần gian đẹp. Ôi cuộc đời!
Cuộc đời lạ lùng biết bao. Mỗi cuộc đời là một sự mâu thuẫn, một chân lý mới, một phép lạ mới. Every life is a contradiction, a new truth, a new miracle (W. Saroyan, My self upon the earth). Tôi phải bỏ tất cả tư tưởng và lăn mình vào cuộc sống. Cuộc đời đầy mâu thuẫn. Đây không phải là bi kịch; chỉ bi kịch là khi người ta sợ mâu thuẫn, chân lý là sự bí mật, đầu tiên là Trời, tiếng Trời, ngoài tất cả mọi vật mà vượt lên trên, không có không gian và không thời gian, rồi hư vô, sự trống rỗng im lặng rộng hơn trí óc của con người, trừu tượng và đích xác và thực sự và mất mát, bản thể trong sự trống rỗng, rồi lại đích xác và với sức nặng và sự cứng cỏi và hình thể, hoả và chất lỏng và rồi đi bách bộ qua những vườn nho. The truth was the secret, god first, the word, the word god, out of all things and beyond, spaceless and timeless, then the void, the silent emptiness, vaster than any mortal mind could conceive, abstract and precise and real and lost, the substance in the emptiness, again precise and with weight and solidity and form, fire and fluid, and then, walking through the vinegards. (W. Saroyan, And man).
Thế giới của tôi sống hiện nay là một thế giới hoàn toàn phi lý, không luật lệ, đầy mâu thuẫn, con người hiện nay cảm thấy bơ vơ lạc lõng, mất gốc. Hư vô phủ đầy trời. Ngày xưa tôi thường chạy trốn như vô, tìm nguôi khuây trong sự giả dối tạm bợ, tìm lãng quên bằng trăm vạn lối. Tôi đã chạy trốn và tôi đã thất bại. Hôm nay, tôi đã biến thành con người mới. Tôi không trốn hư vô nữa. Tôi không than thở nữa. Tôi không tìm về mái nhà xưa nữa. Tôi không còn đau khổ vì mình phải bị mất gốc và mất đất đứng giữa cuộc đời. Tôi sung sướng bơi lội trong hư vô. Tôi hoàn toàn cảm thấy thoải mái trong hư vô và không cảm thấy hãi hùng nữa mà lại cảm thấy tuyệt diệu thanh thoát. Hư vô không phải là bi kịch; chỉ bi kịch là người ta không muốn bơi lội trong Hư vô, khi người ta buông xuôi để cho dòng nước Hư vô cuốn trôi đến chết, khi người ta không cố gắng nhô lên mà thở, khi người ta không chịu học bơi lội. Đây là chân lý. Chân lý thường giản dị như thế.
Muốn bơi được trong Hư vô mà không bị chìm, tôi phải làm những điều giản dị như sau: trước hết tôi phải cởi bỏ tất cả quần áo giầy dép nặng nề, tôi lột truồng ra để cho được nhẹ người; công việc này cũng khá khó khăn và hơi kỳ cục vì hiển nhiên người ta sẽ gọi tôi là một thằng điên. Nhưng có hề gì. Thà làm thằng điên để được sống hơn là làm thông thái thánh nhân để bị chìm mà chết. Trước hết tôi cởi bỏ công ước ra ngoài thân thể tôi. Công ước (convention) là một bộ phần quần áo nặng nề nhất có thể làm tôi bơi lội không được; công ước là kiến thức, ngôn ngữ, dấu hiệu, luật lệ, luân lý, đạo đức, nhãn hiệu, số đếm, vai trò, nghệ thuật, vân vân. Nói tóm lại, tất cả những quy ước do loài người đặt ra để tiện giao thiệp với nhau. Tôi gọi những thứ ấy là công ước bởi vì đó là một sự ký kết đồng ý giữa xã hội này đối với xã hội khác. Tôi lột bỏ những thứ ấy bởi vì những thứ ấy đã thất bại trong việc giúp tôi làm nhẹ nhàng thân thể tôi trong giòng nước Hư vô. Tất cả những gì thuộc về công ước để có thể nhìn được hình ảnh trọn vẹn của vũ trụ và của đời tôi; tôi không thể nào dùng những danh từ trừu tượng để diễn tả thực tại cụ thể. Dù muốn dù không, khi lớn lên, con người phải sống trong giả tạo, sống trong những lề lối công thức đã có sẵn. Khi tôi bắt đầu có trí khôn, tôi phải đi học và đi học có nghĩa là học cách chấp nhận những luật lệ công ước của xã hội; nếu tôi biết chấp nhận thâu thái những thứ đó thì tôi sẽ trở thành phần tử kiên cố của xã hội, một người công dân tốt và gương mẫu. Còn trái lại thì tôi sẽ trở thành một con người bị bỏ rơi, mất đất đứng, sống ngoài vòng xã hội, một persona non grata. Khi ra đời sống với con người, tôi phải làm hoà với công ước và nếu tôi không thể làm hoà được thì sẽ có sự giao tranh mãnh liệt giữa công ước xã hội với lòng khát sống phong phú của tôi, khi sự giao tranh ấy trở nên quá phũ phàng, tôi rất dễ trở thành một người điên, một người tội lỗi, một kẻ giết người, một tu sĩ, một người tự tử hoặc một kẻ biết sống trọn vẹn với đời mình. Chỉ có hai đường như trên, một đường thông thường của thế nhân chứa nhiều thành công, hứa hẹn nhiều hạnh phúc và một đường bất thường của một số ít người chứa nhiều thất bại cay đắng, hứa hẹn đầy nguy hiểm giông tố. Tôi tha thiết muốn sống thực sự với tôi, tôi muốn giữ gìn bản ngã tôi, but I have said that I want to preserve my identity (W. Saroyan, My self upon…) bởi thế tôi xin chọn con đường thứ hai. Anh sẽ bảo rằng tôi cực đoan bởi vì người ta không thể nào sống được nếu ở đời không có công ước giả tạo như thế, dù muốn hay không khi lớn lên tự nhiên con người đã biết nói rồi, người ta không thể nào tự mình muốn câm được. Tôi cũng có nghĩ như anh, nhưng thực ra chính công ước tự nó không có gì xấu, chỉ có thái độ của người ta hiện nay đối với những công ước ấy mới là nguy hiểm; người ta đã vô tình quên đi vai trò của những công ước ấy và tự đồng hoá sức sống mênh mang của mình với những ý niệm chết cứng, khô khan trừu tượng. Khi tôi nghĩ rằng phải lột bỏ tất cả thứ gì thuộc công thức không có nghĩa là tôi phải cởi tất cả quần áo ra, cởi bỏ kiến thức, giáo dục, ngôn ngữ, tư tưởng vân vân. Tôi có thể ăn mặc sang trọng, thắt cà vạt, quần áo chải chuốt, ăn nói trưởng giả, làm công công chức, ở nhà lầu, đi xe huê kỳ; nhưng mà tôi vẫn có thể tự hào là một người chống công ước mãnh liệt nhất, bởi vì chính những cái cà vạt kia, những chiếc xe huê kỳ kia, những nhà lầu kia thực sự chẳng có gì xấu cả, chỉ nguy hiểm là thái độ của tôi đối với những thứ ấy. Tôi xin lặp lại một sự thật đơn sơ; ở đời chẳng có gì là xấu và chẳng có gì là tốt; chỉ có lối nhìn của ta mới nguy hiểm thôi, ta nghĩ rằng có tốt, ta nghĩ rằng nó xấu, chỉ có thế thôi. Ta nên xem những thứ công ước ấy chỉ là phương tiện tiện lợi nhất và đừng để những thứ ấy dùng lại ta. “Con người trọn vẹn nhất ở trần gian này là những đứa hài nhi. Những đứa hài nhi chưa bị học nói bất cứ một ngôn ngữ nào mới là nòi giống duy nhất của trái đất này, nòi giống con người thực sự; tất cả những gì còn lại đều là giả dối, hư ngụy như văn minh, hờn ghét, sợ hãi, ham quyền lực, vân vân… khi lớn lên con người học tiếng và chữ của một ngôn ngữ và xem nhìn vũ trụ qua ngôn ngữ ấy”. Babies who have not yet been taught to speak any language are the only race of earth, the race of man: all the rest is pretense, what we call civilization, hatred, fear, desire for strength… we grow up and we learn the words of a language and we see the universe through the language we know (Saroyan, Seventy thousand assyrians). Tuy thế hiển nhiên là ta không thể nào là hài nhi mãi mãi ta phải lớn và cũng như ông cha của ta, ta phải chấp nhận những giả tạo công ước đã có sắn từ bao nghìn năm. Bi kịch không phải là chấp nhận những thứ ấy. Bi kịch là ta đã lãng quên vai trò giới hạn của những thứ ấy và đồng hoá những–tên-để-gọi-sự-vật với sự vật.
Tôi nhìn mây trắng trên vòm trời xanh và tiếp tục bước đi trên vệ đường, đến gần thư viện Đà Lạt, tôi đứng lại và bước qua bãi cỏ bên kia, nhìn sang thung lũng và những ngọn đồi bé nhỏ. Mùa này cỏ xanh lạ lùng và thơm. Tôi không muốn nghĩ ngợi gì nữa, vì mỗi khi nghĩ thì người ta luôn luôn quên thở. Tôi sinh ra không phải để nghĩ. Tôi sinh ra để thở. Một cơn gió rào rạt vi vu thoảng qua người tôi. Mát lạnh. Vài tà áo màu bay xa xôi trong rừng thông bên kia. Một con chim non đậu. Và nhìn tôi. Tôi nhìn lại chan chứa rồi lại tiếp tục bước đi nhè nhẹ. Tôi nhìn thấy nét mặt của Thượng đế trong một đoá hoa capucine ở một bụi lá bên đường. Tôi tiếp tục đi chậm rãi. Bước đến nhà thờ Đà Lạt tôi đứng lại nhìn mấy cây thông rồi bước vào nhà thờ, quì xuống làm dấu thánh giá rồi thì thầm: “Xin Chúa và Đức Mẹ, không hiểu tại sao con không bao giờ chịu tin có Chúa và Đức Mẹ”. Nói nho nhỏ như thằng khờ, rồi tôi lại ngồi trên ghế và khoanh tay nhìn thánh giá ở đằng xa, rồi bỗng nhiên đôi mắt tôi hướng về những luồng nắng vàng từ ngoài đưa vào khung cửa kính của nhà thờ. Tôi sung sướng nhìn nắng vàng và quên cả Chúa. Thế rồi tôi bước ra nhà thờ, cảm thấy khoan khoái nhẹ nhàng hơn, tôi bước đi xuống đường bờ hồ. Một cơn gió thoảng bâng quơ. Hàng cây anh đào không hoa. Xuân đã xa rồi.
Tôi sống trong giây phút thiên thu bất diệt. Giờ đây tôi thấy tôi có thể làm bất cứ chuyện gì trên đời này. Tôi đang sống trọn vẹn với tôi. Tôi không còn đau khổ nữa. Tôi đã chấp nhận đau khổ “Không có sự đổ vỡ nào mà vô phương cứu chữa. Tất cả ý nghĩa cuộc đời đều nằm trong chữ đau khổ” (Aucun désastre n’est irrémédiable. Tout le sens de la vie est contenu dans le mot souffrance.) (Henry Miller, Assassinez l’ assassin). Chính sự đau khổ đã làm cuộc đời có ý nghĩa và sống. Tôi không còn than van oán trách nữa. Tôi cười. Tôi thường nghĩ đến sự đau đớn và sau cùng tôi chỉ biết cười. I used to think about the pain and in the end all I could do was laugh (Saroyan). Sống là thiêng liêng. Đau khổ cũng thiêng liêng. Không có sự đau khổ, tôi không thể nào đi vào bên trong cuộc đời và không thể nào hiểu được những bí mật của đời người; không có sự đau khổ tôi sẽ nằm triền miên trong sự khô khan của cuộc đời tẻ nhạt. Sự đau khổ làm phong phú tâm hồn tôi. Biết đau khổ mà không than mới là chân lý của đời. Savoir souffrir sans se plaindre. Tôi càng bị đau khổ nhiều chừng nào, tôi càng phải cảm tạ trời đất nhiều chừng ấy. Giữa cuộc đời tôi phải đứng bơ vơ với một trái tim rỉ máu. Tôi phải lặn hụp lầy lội trong sự đau khổ. Con người duy nhất thuộc về trần gian này là con người mà thượng đế không bao giờ giết được. Sự đau khổ chỉ giết những kẻ yếu đuối và những kẻ không đáng sống. Tôi đang trôi miên man trong đại dương của Hư vô. Tôi không sợ và không trốn sự đau khổ. Tôi không trốn Hư vô. Tôi thênh thang đi về những phương trời miên viễn để tìm xa lạ. Il s’agit d’arriver l’inconnu par le dérèglement de tous les sens, les souffrances sont énormes mais il faut être fort (Arthur Rimbaud). Cuộc đời đẹp. Giây phút này thiên thu và tôi đang thở khoan khoái.
Le vierge, le vivace et le bel aujourd’hui.
Tôi yêu cuộc đời không phải chỉ vì cuộc đời đẹp. Tôi là một tình nhân say đắm. Tôi yêu cả những nét xấu xa nhất của cuộc đời. Những gì xấu xa ấy, đối với tôi vẫn duyên dáng và đẹp đẽ. Tôi biết rằng ngày mai tôi chết nhưng có hề gì, bởi vì cuộc đời tôi là vĩnh cửu thiên thu; cuộc đời tôi hơi thở tôi vẫn không bao giờ chấm dứt; mỗi một kinh nghiệm chỉ là sự thai nghén ra một kinh nghiệm khác. Ngay đến cái chết cũng thế.
Sau cùng đây là đạo sống:
Hãy cố gắng tập thở cho nồng nàn, khi ăn cho ra ăn, khi ngủ thì cho ra ngủ, hết sức cố gắng trọn vẹn và khi cười, cứ cười ầm lên, và khi giận cứ giận điên lên. Cố gắng sống. Chẳng bao lâu anh sẽ chết.
Try to learn to breathe deeply, really taste food when you eat, and when you sleep, really to sleep. Try as much as possible to be WHOLLY ALIVE , with all your might, and when you laugh, laugh like hell, and when you get angry, get good and angry. Try to be ALIVE. You will be dead soon enough. (William Saroyan)
Hai ba chiếc lá rơi xuống, tôi đứng lại nhìn rồi tiếp tục bước đi. Mây trắng bàng bạc đầy trời. Chim én tung bay. Mây trắng, chim én, lá rơi, ôi cuộc đời! Đà Lạt đẹp. Trần gian đẹp. Ôi cuộc đời! Gió lạnh thổi vi vu. Mưa bắt đầu rơi. Điệu Fantaisies impromptu của Chopin từ xa xưa đưa lại theo nhịp mưa trên đường vắng. Mưa trở nên nặng hột. Nước mưa càng ướt lạnh cả người tôi. Tôi mỉm cười sung sướng. Ngày trước mỗi lần đi đường bị mưa bất chợt, tôi thường vội vã chạy đi tìm chỗ trú mưa. Hôm nay, tôi không làm thế nữa. Tôi thản nhiên vui sướng đi dưới cơn mưa phũ phàng của cuộc đời.
Trên con đường hoang vắng, một bóng người bước lặng lẽ dưới mưa.
Viết thêm về Saroyan
Tôi bao giờ cho đến bây giờ, đối với tôi, Saroyan vẫn là một hiện tượng đáng yêu quý. Nhiều lần, tôi đã chán Saroyan, tôi thấy ông chỉ lặp đi lặp lại bao nhiêu chuyện, cũng như nhiều lần tôi nói tôi đã chán Krishnamurti, tôi thấy ông cũng chỉ lặp đi lặp lại có bao nhiêu lời, cũng như nhiều lần tôi đã chán Hermann Hesse, tôi cũng thấy Hesse chỉ lặp đi lặp lại có bao nhiêu chuyện, cũng như tôi đã chán D.T. Suzuki, tôi chỉ thấy D.T. Suzuki lặp đi lặp lại có bao nhiêu việc.
Nhưng tại sao tôi chưa chán kinh Phật, vì tất cả kinh điển Phật giáo cũng đều chỉ lặp đi lặp lại nói tới nói lui nói lên nói xuống nói ngang nói ngược nói thuận nói nghịch cũng trong mấy điều duy nhất? Ngày nào tôi đã chán hết mọi kinh Phật thì chắc chắn ngày đó tôi đã thành Phật! Tại sao tôi chưa muốn thành Phật mặc dù tôi có thể là Phật bất cứ lúc nào? Tại sao tôi triển hạn? Tại vì thành Phật không quan trọng bằng không thành Phật. Không chịu thành Phật, đó là khả năng tối thượng để thành Phật mà tôi muốn san sẻ với tất cả con người trên mặt đất.
Có một buổi chiều nổi cơn điên, tôi chạy hối hả tại thư viện của trường đại học Columbia ở Nữu Ước để mượn toàn thể tác phẩm của Saroyan để đọc lại, từ trường đại học Columbia, hai tay ôm hai chồng sách, tôi thả bộ lừ đừ trở về phòng tôi ở khu phố Riverside Drive gần con sông Hudson, gió thổi lạnh vì trời sắp đổ tuyết, tôi bước đi lểnh khểnh như chàng say rượu, mặc dù buổi chiều ấy, tôi không uống một giọt rượu nào cả. Cả thành phố New York đã ám sát tôi, một “thiên tài hạng nặng” từ Việt Nam gửi đến, tôi, một đứa con trai của một nước nghèo nhất thế giới, một nước ngang tàng nhất thế giới. Tôi cao có một thước sáu mươi phân, thế mà tôi có cảm tưởng hai chân của tôi đang đạp lên đầu của cái cao ốc cao nhất nước Mỹ, Empire State Building!
Tôi, một người con trai của một đất nước quê mùa thất học nhiều nhất ở thế giới, đã nắm trọn cả văn hoá Mỹ quốc trong mười ngón chân. Tôi thừa biết rõ rằng một ngày nào gần đây trong tương lai gần đây, nếu tôi còn sống, nhất định tôi sẽ chinh phục cai trị Mỹ quốc với năm ngón tay phải của tôi; tôi sẽ viết những quyển sách ký đi bằng chữ Anh và xô đẩy toàn thể Mỹ quốc vào trong hố thẳm!
Lòng tôi đầy căm thù, thù hận mặc dù tôi thừa biết rằng chỉ có trái tim nguyên vẹn của tôi mới có sức chuyển hoá thế giới tan nát này thành một toà sen vĩ đại!
Tôi căm thù Mỹ quốc nhưng tôi sẵn sàng khoan dung tha thứ tội lỗi của Mỹ quốc: vì Mỹ quốc cũng tạo ra được những đứa con hoang đàng vĩ đại như Thoreau, Emerson, Whitman, Henry Miller, Faulkner, Wolfe, Robinson Jeffers, E.E. Cummings, Kenneth Patchen, Saroyan, Salinger, Tennessee Wiliams, Carson Mc Culler. Leswis Mumford, và ad infinitum!
Mấy ngày trước đó, tôi đã nhận thư mời của viện Giáo Dục Quốc tế ở New York, tức là Institute of International Education (I.I.E): viện này cử tôi làm đại diện sinh viên ngoại quốc để dự buổi tiếp tân do đại sứ Arthur Golberg khoản đãi; trong một thoáng căm hờn bốc đồng, tôi đã viết thư cho Viện Giáo Dục Quốc tế ấy rằng “tôi là thiên tài vĩ đại của nước Việt Nam gửi đến, tôi không tham dự buổi tiếp tân nào hết, tôi đã chán ngấy Mỹ quốc, vì thấy Mỹ quốc chỉ là trống rỗng, hoàn toàn trống rỗng. (utterly empty, awfully, dreadfully empty).
Có lẽ nhờ thiên thần hộ vệ, bức thư ấy được gửi đi rồi, thế mà tính mạng tôi vẫn an toàn.
Không ai ám sát tôi, vì chắc họ cho tôi là một thằng điên, điên, điên, điên.
Chỉ có những thằng điên mới cứu vớt thế giới này khỏi điên loạn.
Saroyan, buổi chiều hoang trống ở Nữu Ước dạo ấy, tôi đã đóng kín cửa phòng, đóng kín cửa sổ, bật đèn lên, cởi truồng ra, nằm soải người ra để đọc Saroyan và tôi khóc như đứa con nít.
Sức nóng của tình người đã thổi vào phòng tôi buổi chiều hoang vắng ấy. Tôi thương hết tất cả, tất cả. Tôi thương con gà, con bò, con cá, con chó, con kiến; tôi thương trái đất, trái cây, trái vú; tôi thương dân Mỹ, dân Nga, dân Tàu, dân Pháp, dân da đen, da đỏ, dân Tây, dân Thổ, dân nghèo, dân giàu.
Saroyan còn khổ, còn đau, còn bị chà đạp gấp trăm lần tôi; Saroyan nghèo đói, cô độc, điên gan, ngu dại, ngây thơ, lung tung, bất thường gấp trăm lần tôi. Saroyan viết văn thơ mộng gấp trăm lần tôi: Saroyan thông minh tế nhị, nhạy cảm gấp trăm lần tôi.
“Trong gang tấc lại gấp mười quan san.”
Câu thơ ấy của Nguyễn Du đã trở về ám ảnh tôi giữa một chiều thu lạnh giữa Nữu Ước.
Tại sao tôi phải căm thù bọn nổi loạn? Buổi chiều hôm ấy, trên các thành phố hoang vu ở Mỹ quốc, ít nhất cũng có hàng trăm triệu người cũng cô độc, cũng tàn tạ, cũng gẫy đổ tan nát như tôi. Họ cũng không biết phải làm gì cho đời họ, họ cũng bắt buộc phải sống, phải hiện lên một lần cô liêu ở trái đất buồn thảm này để rồi chết đi trong đôi mắt khép kín của kiếp người.
Cuộc đời cần tình yêu của tôi, trái tim trong sạch của tôi hơn là cần hận thù chua xót.
Hận thù quá dễ. Chán đời quá dễ. Yêu thương mới khó, yêu đời mới khó.
Hãy đứng dậy đạp mạnh hai chân xuống đất, đưa hai tay lên trời, khom xuống và vùng dậy và cười lên một tiếng cười ầm ầm như sấm sét. A ha! aha, aha, aha aha aha aha, tôi yêu đời, tôi yêu hết, yêu, yêu, thương, thương…
Aha aha aha aha aha aha…
Nữu Ước, ngày 8 tháng 10 năm 1965, William Saroyan thương mến.
Tôi, Phạm Công Thiện, có cha có mẹ, có tim có phổi, còn hai chân đi được, xin gửi đến anh một bức thư không gửi.
Tôi biết hiện giờ phút này anh đang yêu đời và anh đang nói chuyện với tôi, mặc dù anh không biết tôi là ai và anh cũng không thấy mặt mày tôi lần nào cả.
Tôi sướng hơn anh, vì tôi đã nhìn thấy mặt mày anh cả trăm lần, thấy hình anh đăng trong báo, đằng sau bìa sách: tôi biết mọi sự rất rõ về anh, về đời anh, về những ý tưởng trong đầu anh, về vợ con anh, về cha mẹ, ông nội ông ngoại của anh, về tuổi thơ tuổi trẻ của anh, về quê hương bạn bè của anh, tôi biết rõ rằng anh uống mấy tách cà phê mỗi ngày, anh ăn ngủ làm sao, anh đi chơi gái thế nào, thánh thiện thế nào, dâm đãng thế nào, vui buồn thế nào.
Còn anh thì anh chẳng biết gì về tôi cả, thế là có nghĩa anh đã biết hết về tôi rồi đó: anh biết rõ tôi hơn là tôi biết anh, anh biết rõ tôi hơn cha mẹ anh em tôi,hơn cả bạn bè gọi là “thân thiết” của tôi, anh biết rõ tôi hơn cả chính tôi tự biết tôi, nhưng điều huyền diệu lạ lùng là anh không gặp tôi lần nào cả, anh cũng chẳng biết tên tôi là gì cả, nhưng giờ phút này tôi biết rằng đang có hai dòng sóng điện kỳ dị đang xẹt xẹt trong không khí, một dòng đỏ và một dòng vàng, làn sóng điện của tôi có màu vàng đang xẹt xẹt với dòng sóng điện màu đỏ của anh. Tôi với anh đang nói chuyện nhau trong không khí xẹt lửa.
Tôi biết rằng anh không còn sống được bao năm nữa, nhiều nhất là hai chục năm hay ba chục năm nữa; lúc chết anh hãy đầu thai làm thằng con trai của tôi và tôi sẽ dạy anh (con trai của tôi) đọc lại tất cả những chuyện anh viết lúc anh đầu thai ở Mỹ quốc. Lúc ấy, tôi sẽ nói với anh như vầy:
“Này con, kiếp trước con đã viết những chuyện lạ lùng như thế, chỉ có tuổi thơ mới hiểu con nói gì, còn người lớn thì họ cho con điên và sống như đứa con nít; kiếp này, cha sẽ dạy con làm người lớn vì người lớn cũng thơ mộng như con nít; kiếp này, con phải sống như người lớn, lấy vợ, sinh con để cái và làm việc đứng đắn để nuôi sống con của con cho đàng hoàng, rồi cha sẽ chết và sẽ đầu thai làm con trai của con và lúc ấy con phải dạy cha (tức con trai của con và cháu của cha), con phải dạy cha cho ra hồn, phải sống như con nít, phải biết ăn ở dơ dáy, đánh lộn, trèo cây, kéo đuôi con chó; kiếp trước, cha đã lỡ làm cha của con và cha đã bỏ mất tuổi thơ của cha, cha đã sống như ông già lúc mới 9 – 10 tuổi thôi, kiếp này, con phải dạy cha sống lại cho đàng hoàng, con đừng bắt cha đi học, đừng bắt cha phải ăn nói lễ độ khả kính, cực cha lắm con ơi! Nhưng riêng đối với con, cha khuyên con hãy làm người lớn cho ra hồn, rồi bỏ quách hết mọi sự, lủi mất vào đồi non núi lá nào đó, ngồi tham thiền nhập định, thỉnh thoảng nhớ đọc Tâm Kinh để cứu vớt mấy trăm ngàn ức tỷ con ma đang khổ bơ vơ đang chờ con tế độ… Mỗi khi con giận, thù ghét bất cứ người nào thì con phải nhớ rằng kẻ ấy vừa là người ma cũng vừa là ma-sẽ-thành, bất cứ người nào cũng sẽ là con ma trong tương lai, vậy thì con hãy đọc Tâm Kinh và hô lớn đại thần chú để giúp đỡ họ sang sông. Kiếp trước, con là một đạo sĩ ở Tây Tạng, nhưng vì con đã tỏ ra khinh khỉnh với hạng văn nghệ sĩ, cho nên kiếp vừa qua con đã đầu thai làm Saroyan và con phải viết văn lung tung, nhưng kiếp này, con đã làm con của cha thì con phải trở lại con đường đạo sĩ của con, mỗi ngày, cứ ngồi tham thiền nhập định và khi nào buồn lắm thì hãy phóng làm điện đỏ lên mây và cha sẽ rẩy lên làm sóng điện vàng để ca cười múa hát với con…”
“Thôi, cha cũng đã nói nhiều với con rồi, cha đã xúc phạm đến cõi vô hình, bây giờ cha tập im lặng, không khéo thì cha lại bị đầu thai làm cháu, làm chắt của đứa con của con nữa thì tội cha lắm.”
Anh Saroyan thân mến,
Nằm dài trên giường nệm trắng toát, tôi nghe tiếng xe điện subway chạy rầm rộ lên tiềm thức.
Nếu anh đã bắt được làn sóng điện của tôi thì sẽ hẹn gặp lại anh vào kiếp sau.
Chào thân mến.
Phạm Công Thiện
(Chép lại từ Nhật ký không ghi chép xong ngày 1-8-1970)
Tôi, một người con trai của một đất nước quê mùa thất học nhiều nhất ở thế giới, đã nắm trọn cả văn hoá Mỹ quốc trong mười ngón chân. Tôi thừa biết rõ rằng một ngày nào gần đây trong tương lai gần đây, nếu tôi còn sống, nhất định tôi sẽ chinh phục cai trị Mỹ quốc với năm ngón tay phải của tôi; tôi sẽ viết những quyển sách ký đi bằng chữ Anh và xô đẩy toàn thể Mỹ quốc vào trong hố thẳm!
Lòng tôi đầy căm thù, thù hận mặc dù tôi thừa biết rằng chỉ có trái tim nguyên vẹn của tôi mới có sức chuyển hoá thế giới tan nát này thành một toà sen vĩ đại!
Tôi căm thù Mỹ quốc nhưng tôi sẵn sàng khoan dung tha thứ tội lỗi của Mỹ quốc: vì Mỹ quốc cũng tạo ra được những đứa con hoang đàng vĩ đại như Thoreau, Emerson, Whitman, Henry Miller, Faulkner, Wolfe, Robinson Jeffers, E.E. Cummings, Kenneth Patchen, Saroyan, Salinger, Tennessee Wiliams, Carson Mc Culler. Leswis Mumford, và ad infinitum!
Mấy ngày trước đó, tôi đã nhận thư mời của viện Giáo Dục Quốc tế ở New York, tức là Institute of International Education (I.I.E): viện này cử tôi làm đại diện sinh viên ngoại quốc để dự buổi tiếp tân do đại sứ Arthur Golberg khoản đãi; trong một thoáng căm hờn bốc đồng, tôi đã viết thư cho Viện Giáo Dục Quốc tế ấy rằng “tôi là thiên tài vĩ đại của nước Việt Nam gửi đến, tôi không tham dự buổi tiếp tân nào hết, tôi đã chán ngấy Mỹ quốc, vì thấy Mỹ quốc chỉ là trống rỗng, hoàn toàn trống rỗng. (utterly empty, awfully, dreadfully empty).
Có lẽ nhờ thiên thần hộ vệ, bức thư ấy được gửi đi rồi, thế mà tính mạng tôi vẫn an toàn.
Không ai ám sát tôi, vì chắc họ cho tôi là một thằng điên, điên, điên, điên.
Chỉ có những thằng điên mới cứu vớt thế giới này khỏi điên loạn.
Saroyan, buổi chiều hoang trống ở Nữu Ước dạo ấy, tôi đã đóng kín cửa phòng, đóng kín cửa sổ, bật đèn lên, cởi truồng ra, nằm soải người ra để đọc Saroyan và tôi khóc như đứa con nít.
Sức nóng của tình người đã thổi vào phòng tôi buổi chiều hoang vắng ấy. Tôi thương hết tất cả, tất cả. Tôi thương con gà, con bò, con cá, con chó, con kiến; tôi thương trái đất, trái cây, trái vú; tôi thương dân Mỹ, dân Nga, dân Tàu, dân Pháp, dân da đen, da đỏ, dân Tây, dân Thổ, dân nghèo, dân giàu.
Saroyan còn khổ, còn đau, còn bị chà đạp gấp trăm lần tôi; Saroyan nghèo đói, cô độc, điên gan, ngu dại, ngây thơ, lung tung, bất thường gấp trăm lần tôi. Saroyan viết văn thơ mộng gấp trăm lần tôi: Saroyan thông minh tế nhị, nhạy cảm gấp trăm lần tôi.
“Trong gang tấc lại gấp mười quan san.”
Câu thơ ấy của Nguyễn Du đã trở về ám ảnh tôi giữa một chiều thu lạnh giữa Nữu Ước.
Tại sao tôi phải căm thù bọn nổi loạn? Buổi chiều hôm ấy, trên các thành phố hoang vu ở Mỹ quốc, ít nhất cũng có hàng trăm triệu người cũng cô độc, cũng tàn tạ, cũng gẫy đổ tan nát như tôi. Họ cũng không biết phải làm gì cho đời họ, họ cũng bắt buộc phải sống, phải hiện lên một lần cô liêu ở trái đất buồn thảm này để rồi chết đi trong đôi mắt khép kín của kiếp người.
Cuộc đời cần tình yêu của tôi, trái tim trong sạch của tôi hơn là cần hận thù chua xót.
Hận thù quá dễ. Chán đời quá dễ. Yêu thương mới khó, yêu đời mới khó.
Hãy đứng dậy đạp mạnh hai chân xuống đất, đưa hai tay lên trời, khom xuống và vùng dậy và cười lên một tiếng cười ầm ầm như sấm sét. A ha! aha, aha, aha aha aha aha, tôi yêu đời, tôi yêu hết, yêu, yêu, thương, thương…
Aha aha aha aha aha aha…
Nữu Ước, ngày 8 tháng 10 năm 1965, William Saroyan thương mến.
Tôi, Phạm Công Thiện, có cha có mẹ, có tim có phổi, còn hai chân đi được, xin gửi đến anh một bức thư không gửi.
Tôi biết hiện giờ phút này anh đang yêu đời và anh đang nói chuyện với tôi, mặc dù anh không biết tôi là ai và anh cũng không thấy mặt mày tôi lần nào cả.
Tôi sướng hơn anh, vì tôi đã nhìn thấy mặt mày anh cả trăm lần, thấy hình anh đăng trong báo, đằng sau bìa sách: tôi biết mọi sự rất rõ về anh, về đời anh, về những ý tưởng trong đầu anh, về vợ con anh, về cha mẹ, ông nội ông ngoại của anh, về tuổi thơ tuổi trẻ của anh, về quê hương bạn bè của anh, tôi biết rõ rằng anh uống mấy tách cà phê mỗi ngày, anh ăn ngủ làm sao, anh đi chơi gái thế nào, thánh thiện thế nào, dâm đãng thế nào, vui buồn thế nào.
Còn anh thì anh chẳng biết gì về tôi cả, thế là có nghĩa anh đã biết hết về tôi rồi đó: anh biết rõ tôi hơn là tôi biết anh, anh biết rõ tôi hơn cha mẹ anh em tôi,hơn cả bạn bè gọi là “thân thiết” của tôi, anh biết rõ tôi hơn cả chính tôi tự biết tôi, nhưng điều huyền diệu lạ lùng là anh không gặp tôi lần nào cả, anh cũng chẳng biết tên tôi là gì cả, nhưng giờ phút này tôi biết rằng đang có hai dòng sóng điện kỳ dị đang xẹt xẹt trong không khí, một dòng đỏ và một dòng vàng, làn sóng điện của tôi có màu vàng đang xẹt xẹt với dòng sóng điện màu đỏ của anh. Tôi với anh đang nói chuyện nhau trong không khí xẹt lửa.
Tôi biết rằng anh không còn sống được bao năm nữa, nhiều nhất là hai chục năm hay ba chục năm nữa; lúc chết anh hãy đầu thai làm thằng con trai của tôi và tôi sẽ dạy anh (con trai của tôi) đọc lại tất cả những chuyện anh viết lúc anh đầu thai ở Mỹ quốc. Lúc ấy, tôi sẽ nói với anh như vầy:
“Này con, kiếp trước con đã viết những chuyện lạ lùng như thế, chỉ có tuổi thơ mới hiểu con nói gì, còn người lớn thì họ cho con điên và sống như đứa con nít; kiếp này, cha sẽ dạy con làm người lớn vì người lớn cũng thơ mộng như con nít; kiếp này, con phải sống như người lớn, lấy vợ, sinh con để cái và làm việc đứng đắn để nuôi sống con của con cho đàng hoàng, rồi cha sẽ chết và sẽ đầu thai làm con trai của con và lúc ấy con phải dạy cha (tức con trai của con và cháu của cha), con phải dạy cha cho ra hồn, phải sống như con nít, phải biết ăn ở dơ dáy, đánh lộn, trèo cây, kéo đuôi con chó; kiếp trước, cha đã lỡ làm cha của con và cha đã bỏ mất tuổi thơ của cha, cha đã sống như ông già lúc mới 9 – 10 tuổi thôi, kiếp này, con phải dạy cha sống lại cho đàng hoàng, con đừng bắt cha đi học, đừng bắt cha phải ăn nói lễ độ khả kính, cực cha lắm con ơi! Nhưng riêng đối với con, cha khuyên con hãy làm người lớn cho ra hồn, rồi bỏ quách hết mọi sự, lủi mất vào đồi non núi lá nào đó, ngồi tham thiền nhập định, thỉnh thoảng nhớ đọc Tâm Kinh để cứu vớt mấy trăm ngàn ức tỷ con ma đang khổ bơ vơ đang chờ con tế độ… Mỗi khi con giận, thù ghét bất cứ người nào thì con phải nhớ rằng kẻ ấy vừa là người ma cũng vừa là ma-sẽ-thành, bất cứ người nào cũng sẽ là con ma trong tương lai, vậy thì con hãy đọc Tâm Kinh và hô lớn đại thần chú để giúp đỡ họ sang sông. Kiếp trước, con là một đạo sĩ ở Tây Tạng, nhưng vì con đã tỏ ra khinh khỉnh với hạng văn nghệ sĩ, cho nên kiếp vừa qua con đã đầu thai làm Saroyan và con phải viết văn lung tung, nhưng kiếp này, con đã làm con của cha thì con phải trở lại con đường đạo sĩ của con, mỗi ngày, cứ ngồi tham thiền nhập định và khi nào buồn lắm thì hãy phóng làm điện đỏ lên mây và cha sẽ rẩy lên làm sóng điện vàng để ca cười múa hát với con…”
“Thôi, cha cũng đã nói nhiều với con rồi, cha đã xúc phạm đến cõi vô hình, bây giờ cha tập im lặng, không khéo thì cha lại bị đầu thai làm cháu, làm chắt của đứa con của con nữa thì tội cha lắm.”
Anh Saroyan thân mến,
Nằm dài trên giường nệm trắng toát, tôi nghe tiếng xe điện subway chạy rầm rộ lên tiềm thức.
Nếu anh đã bắt được làn sóng điện của tôi thì sẽ hẹn gặp lại anh vào kiếp sau.
Chào thân mến.
Phạm Công Thiện
(Chép lại từ Nhật ký không ghi chép xong ngày 1-8-1970)
Chương sáu
Ý thức thể hiện - Phác hoạ về Somerset Maugham hay là con người hoạch định mẫu sống
1. Đi vào tác phẩm của Somerset Maugham là đi vào cuộc đời, miên man lạc vào thế giới tạp sắc của tâm hồn con người, là khơi dậy trong ta một niềm phẫn nộ, một lòng trắc ẩn, một mối hoài nghi xao xuyến, một thoáng nhìn chan chứa đối với thân phận mong manh của con người. Đi vào tác phẩm của Somerset Maugham là soi kính để thấy hình bóng của mình, là tự vấn, là tra gạn ý nghĩa của vận mệnh mình, là đi tìm ý thức thể hiện để hoạch định mẫu sống. Chẳng những thế, đi vào tác phẩm của Somerset Maugham còn là thâm thiết đi vào ngã tư của trần gian, là hít mạnh hương vị nồng đượm của mười phương trời thanh sắc, của Thái bình dương “chóng thay đổi và bất thường như lòng người” (The trembling of a leaf), của đảo Tahiti “khả ái như một trinh nữ tuyệt trần lãng phí một cách duyên dáng sức mê hoặc và vẻ diễm kiều của mình” (The Moon and Sixpence), của những đêm Á châu huyền ảo, vạn lý trường thành sương phủ thoang thoảng mùi vị nha phiến và hương trà Khổng Trang (On a Chinese Screen), của miền thị tứ Trung Hoa ngột ngạt dưới sự tiêu diệt tàn nhẫn của bệnh dịch “như người ta bị những bàn tay của một kẻ điên bóp cổ” đang lúc đó “màu xanh lơ của bầu trời vẫn trong suốt như cõi lòng của một đứa trẻ ngây thơ” (The Painted Veil) của những dấu chân người trong nẻo rừng huyền hoặc ở Mã Lai (Ah King), của một nội địa Ấn Độ nhiệm màu thoang thoảng “mùi vị Đông phương vừa chát vừa thơm” (The Razor's Edge).
2. Somerset Maugham đã để lại đời những nhân vật đáng ghi nhớ nhất:
Ý thức thể hiện - Phác hoạ về Somerset Maugham hay là con người hoạch định mẫu sống
1. Đi vào tác phẩm của Somerset Maugham là đi vào cuộc đời, miên man lạc vào thế giới tạp sắc của tâm hồn con người, là khơi dậy trong ta một niềm phẫn nộ, một lòng trắc ẩn, một mối hoài nghi xao xuyến, một thoáng nhìn chan chứa đối với thân phận mong manh của con người. Đi vào tác phẩm của Somerset Maugham là soi kính để thấy hình bóng của mình, là tự vấn, là tra gạn ý nghĩa của vận mệnh mình, là đi tìm ý thức thể hiện để hoạch định mẫu sống. Chẳng những thế, đi vào tác phẩm của Somerset Maugham còn là thâm thiết đi vào ngã tư của trần gian, là hít mạnh hương vị nồng đượm của mười phương trời thanh sắc, của Thái bình dương “chóng thay đổi và bất thường như lòng người” (The trembling of a leaf), của đảo Tahiti “khả ái như một trinh nữ tuyệt trần lãng phí một cách duyên dáng sức mê hoặc và vẻ diễm kiều của mình” (The Moon and Sixpence), của những đêm Á châu huyền ảo, vạn lý trường thành sương phủ thoang thoảng mùi vị nha phiến và hương trà Khổng Trang (On a Chinese Screen), của miền thị tứ Trung Hoa ngột ngạt dưới sự tiêu diệt tàn nhẫn của bệnh dịch “như người ta bị những bàn tay của một kẻ điên bóp cổ” đang lúc đó “màu xanh lơ của bầu trời vẫn trong suốt như cõi lòng của một đứa trẻ ngây thơ” (The Painted Veil) của những dấu chân người trong nẻo rừng huyền hoặc ở Mã Lai (Ah King), của một nội địa Ấn Độ nhiệm màu thoang thoảng “mùi vị Đông phương vừa chát vừa thơm” (The Razor's Edge).
2. Somerset Maugham đã để lại đời những nhân vật đáng ghi nhớ nhất:
Nhân vật Larry Darrell của quyển tiểu thuyết The Razor's Edge.
Nhân vật Mayhew của truyện ngắn “Mayhew” trong quyển Cosmopolitans;
Nhân vật Strickland của quyển tiểu thuyết The Moon and Sixpence.
Nhân vật Edward Barnard trong quyển The Fall of Edward Barnard.
Tất cả những nhân vật trên đều là những tâm hồn nghệ sĩ; họ làm cuộc đời họ trở thành một bài thơ tuyệt vời; Larry Darrell là hình ảnh lý tưởng của mọi người thanh niên thời đại, con người nghệ sĩ lang thang khao khát đi tìm Tuyệt Đối trên những phương trời xa lạ, từ Âu châu đến Ấn độ; Mayhew và Larry Darrell đều từ bỏ nước Mỹ để sống vô danh trên những đất trời miên viễn để thực hiện những mộng đời miên man của họ; Strickland và Edward Barnard khước từ nền văn minh Tây phương để trở về sống hồn nhiên trên hải đảo Thái bình dương.
Chúng ta có thể quên hết tất cả những tác phẩm của Maugham và chỉ nhớ nhân vật Larry Darrell thôi cũng là đủ lắm rồi. Mỗi thanh niên đều ngạc nhiên thấy Larry Darrell là chính hình bóng của mình, một hình bóng thân yêu của Mộng đời bất tận.
Larry Darrell đi vào tâm hồn mình như là một chất rượu mạnh; Larry Darrell là hình ảnh nên thơ nhất của con người nghệ sĩ giang hồ, của lãng tử lang thang, của những giấc mộng đẹp nhất ở trần gian này.
Somerset Maugham đã tạo ra Larry Darrell bằng chữ bằng lời; nhưng Larry Darrell đã nhập thể, trở thành con người bằng da bằng thịt: Larry Darrell trở thành thần tượng của thế hệ thanh niên ngày nay. Hơn thế nữa, Larry Darrell đã trở thành chính hơi thở của mọi người trai trẻ ở thời đại này. Mỗi người thanh niên hiện nay phải xem quyển The Razor's Edge của Somerset Maugham là Thánh kinh của thế hệ mình và nên tôn thờ Larry Darrell như là đấng Cứu Thế của thời đại điêu đứng này.
Chú thích:
Nói đến tác phẩm của Somerset Maugham người ta thường ca tụng Philip Carey trong quyển Of Human Bondage (Servitude Humaine), nhưng thực ra Philip Carey không đáng được ca tụng; Philip Carey chỉ đáng thương hại và chẳng có gì đáng nói. Philip Carey chỉ là một hình ảnh thanh niên nhu nhược, yếu đuối, vướng bệnh thương thân trách phận (“self-pity”) và tầm thường khờ khệch, lăng nhăng, không dám vươn lên những bầu trời phiêu lãng của Hư vô và Tuyệt Vọng.
Viết thêm về Somerset Maugham
Somerset Maugham là tác giả văn chương đầu tiên tôi đọc trong đời; lúc bé nhỏ khoảng 9 - 10 tuổi gì đó, tôi chỉ đọc loại sách văn chương con nít, những quyển sách của Contesse de Ségur, Trilby, Swift, Ed. de Amicis, vân vân (tôi mong rằng lúc nào tôi già được khoảng 80 tuổi thì tôi sẽ viết về những tác giả của tuổi thơ tôi với những dòng tuyệt đối cao siêu nhất). Tác giả văn chương người lớn đầu tiên tôi đọc vào khoảng 10-15 tuổi chính là Somerset Maugham; quyển sách đầu tiên ấy là quyển Of Human Bondage dày khoảng 700 trang. Dạo ấy, tôi còn sống với cha mẹ tôi ở Mỹ Tho, tôi còn nhớ nằm dài trên ghế sofa và đọc trọn quyển sách dày 700 trang từ 6 giờ chiều cho đến 9 giờ sáng trọn đêm không hề ngủ quên một giây! Ôi cái tuổi 15, cái tuổi 16! Cái tuổi yêu đương rạo rực, khát khao lãng mạn, chứa đựng tất cả những phiêu lưu vĩ đại sau này của trọn đời người…
Từ 15 tuổi cho mãi đến 18 tuổi, tôi đọc bao nhiêu sách của Maugham, truyện ngắn, truyện dài, cảo luận, kịch. Tôi nhớ dạo ấy thư viện Anh British Council còn ở đường Nguyễn Huệ, suốt ngày tôi cứ ngồi ở đó đọc tất cả những quyển sách của Somerset Maugham. Năm 18 tuổi, tôi có viết một loạt bài về Maugham đăng trong tạp chí Bách Khoa, nhưng vì toà soạn Bách Khoa chỉ cho đăng có một lần thôi và bỏ dở dang (có ý cho rằng tôi viết dòng lê thê quá), tôi nổi giận bỏ luôn ý định viết hẳn một quyển sách về Maugham. (Dạo nhỏ tuổi ấy, tôi thường thích viết bài đăng trong Bách Khoa, nhưng tôi vẫn thường nổi giận và bị cụt hứng thường xuyên vì toà soạn Bách Khoa có cái tật kỳ quái là hay cắt bỏ bài viết của tôi, chẳng hạn tôi viết 20 trang thì họ cắt lại chỉ còn 5 trang là nhiều!)
Chừng khoảng 19 tuổi gì đó, tôi bỏ đọc Maugham, vì lúc ấy, tôi cảm thấy Maugham là một văn sĩ hạng bét, ông chỉ kể chuyện và tôi thì đã chán tất cả những truyện kể; tâm hồn tuổi trẻ tôi khao khát những lương thực khó tiêu khác, tôi xô đẩy Maugham vào loại tác giả viết cho những người chưa trưởng thành! Rồi từ 19 tuổi đến bây giờ, khoảng 10 năm, tôi đã quên Maugham như quên một câu truyện cổ tích bỏ rơi trong kẹt cửa.
Bây giờ tôi gần 30 tuổi, tôi mới khám phá lại rằng thích Somerset Maugham đã ảnh hưởng tôi nhiều nhất vào chính thời gian tôi bỏ quên ông ta! Vì trong khoảng 10 năm gần đây, bây giờ nhìn lại, tôi thấy mình đã sống y hệt như những nhân vật của Somerset Maugham! Ngay đến cái tật kỳ quái của tôi, cái tật hay nghi ngờ rằng tất cả đàn bà con gái đều là kẻ ngoại tình, chính cái tật này đã được( bị) di truyền từ những tác phẩm của Somerset Maugham! Ô, tôi đã tìm ra thủ phạm (ân nhân) rồi!
Bây giờ tôi coi nhân vật Larry trong quyển The Razor's Edge như anh chàng nghệ sĩ làm trò con nít (như cái việc lang thang, nghệ sĩ, tìm đạo, vân vân), nhưng lúc 18 tuổi, đối với tôi, Larry là một cái gì phóng hiện ra để nói lên mười năm sau tuổi trẻ tôi.Trong khoảng mười năm gần đây, giống như Larry trong The Razor's Edge (Le Fil du Rasoir), tôi cũng bày đặt lãng mạn lung tung, cũng lang thang, nghệ sĩ, tìm đạo, ôi đủ chuyện nhảm nhí buồn cười. Hiện tại, tôi đã chấm dứt những chuyện lung tung ấy và tôi đang bắt đầu mở một chu kỳ khác cho mười năm sắp tới; và trong chu kỳ tới, tôi quyết định sống lung tung, sẽ lang thang tới nơi tới chốn gấp triệu lần lúc trước. Nghĩa là tôi sắp đẩy tất cả cái chất nghệ sĩ trong tôi cho nổ vỡ tan hoang, một cơn nổ vỡ tan hoang trong sự Im Lặng, trong một ngàn nỗi im lặng trên tận đỉnh Hy mã lạp sơn.
… Tôi xin đánh mật hiệu bằng ba dấu chấm (…) cho mười năm sắp tới…
Phạm Công Thiện
Sài Gòn, ngày 12-8-1970
Chương bảy
Ý thức siêu thực - Tình yêu trong thơ Apollinaire hay là sự đồng nhất giữa Thơ và Tình
Chúng ta có thể quên hết tất cả những tác phẩm của Maugham và chỉ nhớ nhân vật Larry Darrell thôi cũng là đủ lắm rồi. Mỗi thanh niên đều ngạc nhiên thấy Larry Darrell là chính hình bóng của mình, một hình bóng thân yêu của Mộng đời bất tận.
Larry Darrell đi vào tâm hồn mình như là một chất rượu mạnh; Larry Darrell là hình ảnh nên thơ nhất của con người nghệ sĩ giang hồ, của lãng tử lang thang, của những giấc mộng đẹp nhất ở trần gian này.
Somerset Maugham đã tạo ra Larry Darrell bằng chữ bằng lời; nhưng Larry Darrell đã nhập thể, trở thành con người bằng da bằng thịt: Larry Darrell trở thành thần tượng của thế hệ thanh niên ngày nay. Hơn thế nữa, Larry Darrell đã trở thành chính hơi thở của mọi người trai trẻ ở thời đại này. Mỗi người thanh niên hiện nay phải xem quyển The Razor's Edge của Somerset Maugham là Thánh kinh của thế hệ mình và nên tôn thờ Larry Darrell như là đấng Cứu Thế của thời đại điêu đứng này.
Chú thích:
Nói đến tác phẩm của Somerset Maugham người ta thường ca tụng Philip Carey trong quyển Of Human Bondage (Servitude Humaine), nhưng thực ra Philip Carey không đáng được ca tụng; Philip Carey chỉ đáng thương hại và chẳng có gì đáng nói. Philip Carey chỉ là một hình ảnh thanh niên nhu nhược, yếu đuối, vướng bệnh thương thân trách phận (“self-pity”) và tầm thường khờ khệch, lăng nhăng, không dám vươn lên những bầu trời phiêu lãng của Hư vô và Tuyệt Vọng.
Viết thêm về Somerset Maugham
Somerset Maugham là tác giả văn chương đầu tiên tôi đọc trong đời; lúc bé nhỏ khoảng 9 - 10 tuổi gì đó, tôi chỉ đọc loại sách văn chương con nít, những quyển sách của Contesse de Ségur, Trilby, Swift, Ed. de Amicis, vân vân (tôi mong rằng lúc nào tôi già được khoảng 80 tuổi thì tôi sẽ viết về những tác giả của tuổi thơ tôi với những dòng tuyệt đối cao siêu nhất). Tác giả văn chương người lớn đầu tiên tôi đọc vào khoảng 10-15 tuổi chính là Somerset Maugham; quyển sách đầu tiên ấy là quyển Of Human Bondage dày khoảng 700 trang. Dạo ấy, tôi còn sống với cha mẹ tôi ở Mỹ Tho, tôi còn nhớ nằm dài trên ghế sofa và đọc trọn quyển sách dày 700 trang từ 6 giờ chiều cho đến 9 giờ sáng trọn đêm không hề ngủ quên một giây! Ôi cái tuổi 15, cái tuổi 16! Cái tuổi yêu đương rạo rực, khát khao lãng mạn, chứa đựng tất cả những phiêu lưu vĩ đại sau này của trọn đời người…
Từ 15 tuổi cho mãi đến 18 tuổi, tôi đọc bao nhiêu sách của Maugham, truyện ngắn, truyện dài, cảo luận, kịch. Tôi nhớ dạo ấy thư viện Anh British Council còn ở đường Nguyễn Huệ, suốt ngày tôi cứ ngồi ở đó đọc tất cả những quyển sách của Somerset Maugham. Năm 18 tuổi, tôi có viết một loạt bài về Maugham đăng trong tạp chí Bách Khoa, nhưng vì toà soạn Bách Khoa chỉ cho đăng có một lần thôi và bỏ dở dang (có ý cho rằng tôi viết dòng lê thê quá), tôi nổi giận bỏ luôn ý định viết hẳn một quyển sách về Maugham. (Dạo nhỏ tuổi ấy, tôi thường thích viết bài đăng trong Bách Khoa, nhưng tôi vẫn thường nổi giận và bị cụt hứng thường xuyên vì toà soạn Bách Khoa có cái tật kỳ quái là hay cắt bỏ bài viết của tôi, chẳng hạn tôi viết 20 trang thì họ cắt lại chỉ còn 5 trang là nhiều!)
Chừng khoảng 19 tuổi gì đó, tôi bỏ đọc Maugham, vì lúc ấy, tôi cảm thấy Maugham là một văn sĩ hạng bét, ông chỉ kể chuyện và tôi thì đã chán tất cả những truyện kể; tâm hồn tuổi trẻ tôi khao khát những lương thực khó tiêu khác, tôi xô đẩy Maugham vào loại tác giả viết cho những người chưa trưởng thành! Rồi từ 19 tuổi đến bây giờ, khoảng 10 năm, tôi đã quên Maugham như quên một câu truyện cổ tích bỏ rơi trong kẹt cửa.
Bây giờ tôi gần 30 tuổi, tôi mới khám phá lại rằng thích Somerset Maugham đã ảnh hưởng tôi nhiều nhất vào chính thời gian tôi bỏ quên ông ta! Vì trong khoảng 10 năm gần đây, bây giờ nhìn lại, tôi thấy mình đã sống y hệt như những nhân vật của Somerset Maugham! Ngay đến cái tật kỳ quái của tôi, cái tật hay nghi ngờ rằng tất cả đàn bà con gái đều là kẻ ngoại tình, chính cái tật này đã được( bị) di truyền từ những tác phẩm của Somerset Maugham! Ô, tôi đã tìm ra thủ phạm (ân nhân) rồi!
Bây giờ tôi coi nhân vật Larry trong quyển The Razor's Edge như anh chàng nghệ sĩ làm trò con nít (như cái việc lang thang, nghệ sĩ, tìm đạo, vân vân), nhưng lúc 18 tuổi, đối với tôi, Larry là một cái gì phóng hiện ra để nói lên mười năm sau tuổi trẻ tôi.Trong khoảng mười năm gần đây, giống như Larry trong The Razor's Edge (Le Fil du Rasoir), tôi cũng bày đặt lãng mạn lung tung, cũng lang thang, nghệ sĩ, tìm đạo, ôi đủ chuyện nhảm nhí buồn cười. Hiện tại, tôi đã chấm dứt những chuyện lung tung ấy và tôi đang bắt đầu mở một chu kỳ khác cho mười năm sắp tới; và trong chu kỳ tới, tôi quyết định sống lung tung, sẽ lang thang tới nơi tới chốn gấp triệu lần lúc trước. Nghĩa là tôi sắp đẩy tất cả cái chất nghệ sĩ trong tôi cho nổ vỡ tan hoang, một cơn nổ vỡ tan hoang trong sự Im Lặng, trong một ngàn nỗi im lặng trên tận đỉnh Hy mã lạp sơn.
… Tôi xin đánh mật hiệu bằng ba dấu chấm (…) cho mười năm sắp tới…
Phạm Công Thiện
Sài Gòn, ngày 12-8-1970
Chương bảy
Ý thức siêu thực - Tình yêu trong thơ Apollinaire hay là sự đồng nhất giữa Thơ và Tình
Tặng thi sĩ Ninh Chữ và xin cảm ơn một ngày ở Đà Lạt.
1. Apollinaire là người dân của thế giới, ta không biết gọi chàng là người nước nào; mẹ chàng là người Ba Lan, cha chàng là Ý đại lợi, trước kia quốc tịch chàng là Nga, sau chàng đổi lại quốc tịch Pháp, chàng sinh tại La Mã, học ở Monaco và Pháp, sinh sống ở Đức, giang hồ luân lạc khắp Âu châu, yêu một cô gái Anh, sau chàng trở về sống ở đất Pháp, làm thơ đăng tạp chí Đức, tham dự chủ động vào tất cả những phong trào văn nghệ mỹ thuật ở Âu châu vào đầu thế kỷ; cũng như Blaise Cendrars chàng là lãng tử, lấy tất cả vũ trụ làm quê hương.
Apollinaire sinh tại Rome vào ngày 26 tháng 8 năm 1880: tên thực của chàng là Guillaume - Albert- Wladimir-Alexandre-Apollinaire- Kostrowitzky, thông minh ngay từ nhỏ, học lớp nào ở ban trung học cũng đều lãnh rất nhiều phần thưởng ưu hạng; mới 17 tuổi, chàng đã là thi sĩ, thuở nhỏ ngoan đạo lắm, nhưng sau bỏ đạo, tuy còn nhỏ tuổi, chàng đọc rất nhiều sách và bỏ học lúc chưa đầy hai mươi tuổi, bước vào đời sống văn nghệ, rồi năm hai mươi tuổi yêu một cô gái Do Thái, tên là Linda, làm thơ dâng tặng nàng, nhưng lòng nàng (cũng như lòng của nhiều cô gái) không khác gì chiếc lá khoai “đổ bao nhiêu nước ra ngoài bấy nhiêu); còn trái lại lòng chàng (cũng như lòng của tất cả chàng trai) thì như biển sóng còn “chứa muôn con nước ngàn con sông dài”, Apollinaire thất tình, sang Đức làm thầy dạy chữ Pháp trong một gia đình quí phái, rồi lại yêu một cô gái người Anh cũng làm việc ở đó và chàng lại thất tình, rong chơi phiêu lãng mấy nước Âu châu, trở về làm việc ở Paris, cô đơn đau khổ, tham gia đời sống văn nghệ, kết bạn tâm giao chí thiết cùng Picasso và Max Jacob, sống đời nghệ sĩ lang thang, la cà những quán cà phê cùng bạn bè văn nghệ, lòng vẫn hướng về cô gái người Anh thuở ấy (tên là Annie Playden) nhưng chàng đành tuyệt vọng và suốt đời là một kẻ thất tình; năm 1907, chàng gặp Marie Laurencin, hai người yêu nhau say đắm, nhưng sau này cũng chẳng đi đến đâu, nàng lấy chồng vào năm 1914; ít lâu sau, Apollinaire tự ý xin nhập ngũ, chàng thi sĩ quan nhân ấy gặp lại nàng Louise de Coligny Châtilion (tức là Lou trong những bài thơ của chàng) và chàng say mê nàng; thi sĩ vốn đa tình, trong một chuyến xe lửa, chàng gặp một cô gái khác tên là Madeleine Pages, chàng cũng say mê luôn; năm 1916, chàng bị một mảnh tạc đạn đâm thủng vào đầu, chàng bị thương, rồi băng đầu trở về Paris lay lắt sống đời nghệ sĩ trong mấy quán cà phê văn nghệ và Apollinaire chết vào ngày 9 tháng 11 năm 1918; chàng chết lúc mới 38 tuổi, cuộc đời chàng bị cắt đứt lưng chừng nhưng chàng vẫn trở thành mặt trời sáng rực trong vũ trụ thi ca hiện đại.
2. Apollinaire trông to lớn; tướng người hiên ngang, nhưng nét mặt buồn buồn, nhất là đôi mắt, đôi mắt đau khổ mơ mơ màng màng.
Jean Cocteau nói rằng Apollinaire có con mắt tròn tròn của con chim hoạ mi [1]; André Billy nói rằng Apollinaire vốn vui tính, yêu đời, tò mò, tọc mạch,ham thích dị vật hiếm, thích lông bông và tế nhị (ce bon vivant, cet amateur de raretés et de curiosités, ce dilettante, ce raffiné) [2]…
Gertrude Stein có nhắc nhiều đến Apollinaire. Bà nói rằng Apollinaire rất khả ái, dễ cảm, dễ thương, đẹp trai thông minh rực rõ dị thường “Guillaume Apollinaire was very wonderful… Apollinaire was very attractive and very interesting…Guillaume was extraordinarily brilliant…) [3]. Bà nói thêm rằng từ ngày Apollinaire chết, những bạn văn nghệ đều chia rẽ nhau, nếu Apollinaire còn sống thì chàng sẽ nối kết lại hết vì chàng có đức tin ràng buộc giữ gìn tình bè bạn giữa anh em (Guillaume would have been bond of union, he always had a quality of keeping people together, and now that he was gone everybody ceased to be friends…).
Đọc lại những tập hồi ký của André Rouveyre, Vlaminck, André Salmon, Toussaint Luca, Francis Carco, Faure Favier, vân vân, tôi thấy tất cả bạn bè của Apollinaire đều tỏ lòng yêu quí, mến thương chàng vô cùng tính tình của Apollinaire hiền lành lịch sự dễ dãi, hết lòng tử tế với anh em bạn.[tran1] Mặc dù là một nhà thơ rất “avant- gardiste”, rất “lập dị” nhưng tính tình của Apollinaire không “du côn ngang tàng xấc xược” như Rimbaud, Apollinaire không phải là loại poète maudit; tính tình chàng không khó khăn, không cuồng loạn đầy thịnh nộ như những poète maudits (như Lucrèce, Rimbaud, Antonin Artaud, Ezra Pound, Hart Crane, Baudelaire, Mayakovsky…)
Những nhà thơ thường hay lười biếng, thi sĩ thường hay ít đọc sách, nhưng Apollinaire lại đọc sách rất nhiều, nhiều hơn cả những học giả (T. S. Eliot, Pound hay Kenneth Rexroth cũng thế) nhưng mặc dù đọc sách rất nhiều, thơ của Apollinaire không nhiễm không khí bác học thông thái như thơ của T. S. Eliot, K. Rexroth hay Pound, Apollinaire cũng giống như Leopardi, là nhà học giả trước khi là nhà thơ, nhưng khi họ làm thơ, thì thơ họ là thơ thuần túy.
Đứng giữa thời đại kỹ nghệ, cơ khí, Apollinaire không có những bực bộ phẫn nộ phản kháng; chàng không phải là l’ homme révolté; chàng không cảm thấy “xa lạ, mất gốc, bị đày” như Melville hay Kafka; chàng không có cảm giác bi đát trước cuộc đời như Unamuno; chàng không phũ phàng cuồng nộ bơ phờ như Knut Hamsun, Strindberg hay D. H. Lawrence; đời sống thành phố không làm náo động thần kinh chàng (Knut Hamsun nghĩ rằng đời sống thành thị đã ăn mòn con người).
Đứng trước chiến tranh, chàng không phản kháng chống đối theo kiểu Hermann Hesse, Romain Rolland hay Bertrand Russell; đối với chàng, những trái phá tạc đạn rực trời đẹp đẽ không khác gì pháo bông; ở giữa mặt trận, chàng mơ màng ngắm tạc đạn nổ tung “như cây trinh nữ trổ hoa.”
Un obus éclatant sur le front de l’armée
Un bel obus semblable aux mimosas en fleurs
(Poèmes à Lou)
Chàng không mạt sát văn minh, chàng không chạy trốn bỏ Âu châu và Mỹ châu lại đằng sau như Rimbaud hay Lafcadio Hearn. Chàng không có những khắc khoải siêu hình như những thiên tài khác.
Ta thấy những thiên tài khai sinh nền văn học hiện đại đều là những kẻ xao xuyến khắc khoải, thác loạn (như Nietzsche, Kierkegaard, Lautréamont, Dostoievsky, Melville, Strindberg, Kafka, Joyce, Rimbaud.)
Rimbaud và Apollinaire đã khai sinh ra nguồn thơ hiện đại (Blaise Cendrars và Max Jacob cũng có tham dự vào việc khai sinh này).
Trường thơ siêu thực đã tôn Apollinaire (cùng Rimbaud và Lautréamont) là những kẻ tiền phong, những người cha khai sinh ra thơ mới. Cùng với Rimbaud và Lautréamont, Apollinaire đã mở ra những chân trời bát ngát cho thi ca hiện đại, nhưng ngược lại với Rimbaud và Lautréamont, Apollinaire không sống ở hoả ngục, Apollinaire không điên loạn ma quỷ như Rimbaud và Lautréamont, Apollinaire rất “trần tục”; Apollinaire cũng có những khắc khoải, Apollinaire cũng đau khổ; nhưng những khắc khoải đau khổ của Apollinaire không đến nỗi khiến chàng điên cuồng hoặc tự tử, những khắc khoải đau khổ của chàng không đến nỗi khiến chàng phải bỏ làm thơ như Rimbaud; trái lại càng đau khổ, Apollinaire lại càng làm nhiều thơ.
Apollinaire đau khổ, nhưng đau khổ của Apollinaire là nỗi đau khổ của một con người hồn nhiên; chàng ngây thơ lắm; đọc thơ chàng (nhất là trong tập Poèmes à Lou), ta thấy chàng hay làm thơ với những danh từ tục tĩu “đỏ mặt” (Henry Miller, D. H. Lawrence cũng thế). Những dòng chữ tả chân “tục tĩu” của Alberto Moravia (hay Erskine Caldwell) mang một dụng ý phong phú, nhưng không ngây thơ hồn nhiên như Apollinaire (Tôi nhớ đến truyện “The Innocent” của Graham Greene; truyện này giúp ta hiểu rõ hơn về tương quan giữa sự tục tĩu và sự ngây thơ.)
Apollinaire sinh tại Rome vào ngày 26 tháng 8 năm 1880: tên thực của chàng là Guillaume - Albert- Wladimir-Alexandre-Apollinaire- Kostrowitzky, thông minh ngay từ nhỏ, học lớp nào ở ban trung học cũng đều lãnh rất nhiều phần thưởng ưu hạng; mới 17 tuổi, chàng đã là thi sĩ, thuở nhỏ ngoan đạo lắm, nhưng sau bỏ đạo, tuy còn nhỏ tuổi, chàng đọc rất nhiều sách và bỏ học lúc chưa đầy hai mươi tuổi, bước vào đời sống văn nghệ, rồi năm hai mươi tuổi yêu một cô gái Do Thái, tên là Linda, làm thơ dâng tặng nàng, nhưng lòng nàng (cũng như lòng của nhiều cô gái) không khác gì chiếc lá khoai “đổ bao nhiêu nước ra ngoài bấy nhiêu); còn trái lại lòng chàng (cũng như lòng của tất cả chàng trai) thì như biển sóng còn “chứa muôn con nước ngàn con sông dài”, Apollinaire thất tình, sang Đức làm thầy dạy chữ Pháp trong một gia đình quí phái, rồi lại yêu một cô gái người Anh cũng làm việc ở đó và chàng lại thất tình, rong chơi phiêu lãng mấy nước Âu châu, trở về làm việc ở Paris, cô đơn đau khổ, tham gia đời sống văn nghệ, kết bạn tâm giao chí thiết cùng Picasso và Max Jacob, sống đời nghệ sĩ lang thang, la cà những quán cà phê cùng bạn bè văn nghệ, lòng vẫn hướng về cô gái người Anh thuở ấy (tên là Annie Playden) nhưng chàng đành tuyệt vọng và suốt đời là một kẻ thất tình; năm 1907, chàng gặp Marie Laurencin, hai người yêu nhau say đắm, nhưng sau này cũng chẳng đi đến đâu, nàng lấy chồng vào năm 1914; ít lâu sau, Apollinaire tự ý xin nhập ngũ, chàng thi sĩ quan nhân ấy gặp lại nàng Louise de Coligny Châtilion (tức là Lou trong những bài thơ của chàng) và chàng say mê nàng; thi sĩ vốn đa tình, trong một chuyến xe lửa, chàng gặp một cô gái khác tên là Madeleine Pages, chàng cũng say mê luôn; năm 1916, chàng bị một mảnh tạc đạn đâm thủng vào đầu, chàng bị thương, rồi băng đầu trở về Paris lay lắt sống đời nghệ sĩ trong mấy quán cà phê văn nghệ và Apollinaire chết vào ngày 9 tháng 11 năm 1918; chàng chết lúc mới 38 tuổi, cuộc đời chàng bị cắt đứt lưng chừng nhưng chàng vẫn trở thành mặt trời sáng rực trong vũ trụ thi ca hiện đại.
2. Apollinaire trông to lớn; tướng người hiên ngang, nhưng nét mặt buồn buồn, nhất là đôi mắt, đôi mắt đau khổ mơ mơ màng màng.
Jean Cocteau nói rằng Apollinaire có con mắt tròn tròn của con chim hoạ mi [1]; André Billy nói rằng Apollinaire vốn vui tính, yêu đời, tò mò, tọc mạch,ham thích dị vật hiếm, thích lông bông và tế nhị (ce bon vivant, cet amateur de raretés et de curiosités, ce dilettante, ce raffiné) [2]…
Gertrude Stein có nhắc nhiều đến Apollinaire. Bà nói rằng Apollinaire rất khả ái, dễ cảm, dễ thương, đẹp trai thông minh rực rõ dị thường “Guillaume Apollinaire was very wonderful… Apollinaire was very attractive and very interesting…Guillaume was extraordinarily brilliant…) [3]. Bà nói thêm rằng từ ngày Apollinaire chết, những bạn văn nghệ đều chia rẽ nhau, nếu Apollinaire còn sống thì chàng sẽ nối kết lại hết vì chàng có đức tin ràng buộc giữ gìn tình bè bạn giữa anh em (Guillaume would have been bond of union, he always had a quality of keeping people together, and now that he was gone everybody ceased to be friends…).
Đọc lại những tập hồi ký của André Rouveyre, Vlaminck, André Salmon, Toussaint Luca, Francis Carco, Faure Favier, vân vân, tôi thấy tất cả bạn bè của Apollinaire đều tỏ lòng yêu quí, mến thương chàng vô cùng tính tình của Apollinaire hiền lành lịch sự dễ dãi, hết lòng tử tế với anh em bạn.[tran1] Mặc dù là một nhà thơ rất “avant- gardiste”, rất “lập dị” nhưng tính tình của Apollinaire không “du côn ngang tàng xấc xược” như Rimbaud, Apollinaire không phải là loại poète maudit; tính tình chàng không khó khăn, không cuồng loạn đầy thịnh nộ như những poète maudits (như Lucrèce, Rimbaud, Antonin Artaud, Ezra Pound, Hart Crane, Baudelaire, Mayakovsky…)
Những nhà thơ thường hay lười biếng, thi sĩ thường hay ít đọc sách, nhưng Apollinaire lại đọc sách rất nhiều, nhiều hơn cả những học giả (T. S. Eliot, Pound hay Kenneth Rexroth cũng thế) nhưng mặc dù đọc sách rất nhiều, thơ của Apollinaire không nhiễm không khí bác học thông thái như thơ của T. S. Eliot, K. Rexroth hay Pound, Apollinaire cũng giống như Leopardi, là nhà học giả trước khi là nhà thơ, nhưng khi họ làm thơ, thì thơ họ là thơ thuần túy.
Đứng giữa thời đại kỹ nghệ, cơ khí, Apollinaire không có những bực bộ phẫn nộ phản kháng; chàng không phải là l’ homme révolté; chàng không cảm thấy “xa lạ, mất gốc, bị đày” như Melville hay Kafka; chàng không có cảm giác bi đát trước cuộc đời như Unamuno; chàng không phũ phàng cuồng nộ bơ phờ như Knut Hamsun, Strindberg hay D. H. Lawrence; đời sống thành phố không làm náo động thần kinh chàng (Knut Hamsun nghĩ rằng đời sống thành thị đã ăn mòn con người).
Đứng trước chiến tranh, chàng không phản kháng chống đối theo kiểu Hermann Hesse, Romain Rolland hay Bertrand Russell; đối với chàng, những trái phá tạc đạn rực trời đẹp đẽ không khác gì pháo bông; ở giữa mặt trận, chàng mơ màng ngắm tạc đạn nổ tung “như cây trinh nữ trổ hoa.”
Un obus éclatant sur le front de l’armée
Un bel obus semblable aux mimosas en fleurs
(Poèmes à Lou)
Chàng không mạt sát văn minh, chàng không chạy trốn bỏ Âu châu và Mỹ châu lại đằng sau như Rimbaud hay Lafcadio Hearn. Chàng không có những khắc khoải siêu hình như những thiên tài khác.
Ta thấy những thiên tài khai sinh nền văn học hiện đại đều là những kẻ xao xuyến khắc khoải, thác loạn (như Nietzsche, Kierkegaard, Lautréamont, Dostoievsky, Melville, Strindberg, Kafka, Joyce, Rimbaud.)
Rimbaud và Apollinaire đã khai sinh ra nguồn thơ hiện đại (Blaise Cendrars và Max Jacob cũng có tham dự vào việc khai sinh này).
Trường thơ siêu thực đã tôn Apollinaire (cùng Rimbaud và Lautréamont) là những kẻ tiền phong, những người cha khai sinh ra thơ mới. Cùng với Rimbaud và Lautréamont, Apollinaire đã mở ra những chân trời bát ngát cho thi ca hiện đại, nhưng ngược lại với Rimbaud và Lautréamont, Apollinaire không sống ở hoả ngục, Apollinaire không điên loạn ma quỷ như Rimbaud và Lautréamont, Apollinaire rất “trần tục”; Apollinaire cũng có những khắc khoải, Apollinaire cũng đau khổ; nhưng những khắc khoải đau khổ của Apollinaire không đến nỗi khiến chàng điên cuồng hoặc tự tử, những khắc khoải đau khổ của chàng không đến nỗi khiến chàng phải bỏ làm thơ như Rimbaud; trái lại càng đau khổ, Apollinaire lại càng làm nhiều thơ.
Apollinaire đau khổ, nhưng đau khổ của Apollinaire là nỗi đau khổ của một con người hồn nhiên; chàng ngây thơ lắm; đọc thơ chàng (nhất là trong tập Poèmes à Lou), ta thấy chàng hay làm thơ với những danh từ tục tĩu “đỏ mặt” (Henry Miller, D. H. Lawrence cũng thế). Những dòng chữ tả chân “tục tĩu” của Alberto Moravia (hay Erskine Caldwell) mang một dụng ý phong phú, nhưng không ngây thơ hồn nhiên như Apollinaire (Tôi nhớ đến truyện “The Innocent” của Graham Greene; truyện này giúp ta hiểu rõ hơn về tương quan giữa sự tục tĩu và sự ngây thơ.)
Apollinaire ngây thơ;
Apollinaire không bạo động, không phẫn nộ, không điên loạn, không tuyệt vọng;
Apollinaire không bận tâm thù ghét chiến tranh, không thù ghét văn minh, đời sống kỹ nghệ máy móc hay đời sống thành thị;
Apollinaire là học giả sâu rộng mà không làm thơ tư tưởng hay thơ triết lý hay thơ siêu hình.
Đó là những nét chính mà tôi đã thấy trong con người Apollinaire. Những nét chính trên đã đi ngược hẳn với trào lưu văn học và tư tưởng hiện đại.
Văn học hiện đại thì quá già dặn, hết ngây thơ hồn nhiên, có chứa phức cảm tội lỗi, bạo động, phẫn nộ, điên loạn, thù ghét chiến tranh, chán mứa văn minh kỹ nghệ máy móc; nhìn chung, tiểu thuyết hay kịch hiện đại đều là nặng nề về tư tưởng; thơ hiện đại chỉ thừa hưởng những khám phá kỹ thuật của Apollinaire (và của Blaise Cendrars) còn về đường tư tưởng thì thơ ca hiện đại đi ngược hẳn màu sắc trữ tình; thơ hiện đại là thơ triết lý hoặc thơ tôn giáo. Về nội dung tư tưởng, Apollinaire đã đi ngược lại những trào lưu chính của nền văn học hiện đại, nhưng về kỹ thuật hình thức, thì thi ca hiện đại đều nằm trong hơi thở của Apollinaire.
3. Nói đến con người Apollinaire mà không nói đến Tình yêu là không nói được gì cả. Có những người sinh ra đời chỉ để yêu đàn bà và mọi sự trong đời họ đều bị đàn bà chi phối mãnh liệt. Apollinaire thuộc vào hạng người này. Tình yêu đã ảnh hưởng quyết định đến sự nghiệp thi ca của Apollinaire. Đối với Apollinaire, Cuộc Đời, Thơ và Tình Yêu chỉ là Một; Cuộc Đời là Tình Yêu, tất cả mọi sự đều dẫn về Tình Yêu. Ta có thể gọi những thi sĩ nào ở thế giới là thi sĩ của Tình yêu? Robert Burns? Giacomo Leopardi? Christopher Marlowe? So wol Kim? Byung Wha Cho? Sappho? Pétrarque? Heine? Tất cả những thi sĩ không nhiều thì ít đều ca tụng Tình yêu; Tình yêu đã ảnh hưởng mãnh liệt đến Rainer Maria Rilke, nhưng Rilke vẫn xem tình yêu như “gia tăng thêm sự cô đơn” và suốt đời Rilke vẫn lang thang đi tìm “một quê hương tâm linh” mặc dù Rilke đã chết vì đoá hoa hồng của Tình yêu, nhưng phải gọi Rilke là thi nhân của Tâm linh (Gabriel Marcel gọi Rilke là “témoin du spirituel”; danh từ “Thi nhân của Tình Yêu” phải dành cho Pétrarque hay, gần đây hơn, phải dành cho Apollinaire. Pétrarque đã bất tử nhờ mối tình của thi nhân đối với Laura; Apollinaire đã bất tử là nhờ những mối tình của thi nhân đối với Anne với Marie, với Lou, với Madeleine. Tất cả nhân sinh quan hay vũ trụ quan của Apollinaire đều trở về trung tâm điểm là người đàn bà. Có người làm bao nhiêu bài thơ chỉ để ca tụng con người trong đời sống hiện đại (như Walt Whitman), có người làm bao nhiêu bài thơ khóc than cho nỗi bi thương của mình (như Leopardi), có người làm thơ để đọc kinh cho nỗi cô đơn mãnh liệt của mình (như Hàn Mặc Tử và Hoài Khanh), có người làm thơ ca tụng Thượng đế, để tìm Vô hạn (l’inépuisable) trong Hữu hạn (như Paul Claudel), có người làm thơ để tìm Thượng Đế ở Hoả Ngục (như Rimbaud), có người làm thơ chỉ để ca tụng “ngày mai ca hát” (như Bertolt Brecht), nhưng cũng có người làm hàng ngàn bài thơ chỉ để ca tụng một người đàn bà đó là Apollinaire.
Apollinaire tham lam, suốt đời chỉ chạy loanh quanh lẩn quẩn với hình bóng nàng này và mái tóc nàng kia, Apollinaire nhìn ở đâu cũng thấy những giai nhân; suốt đời chàng cứ bận rộn với những nàng con gái “xinh như mộng”; mặc ai đánh giết nhau, thế giới có tơi bời lửa đạn đi nữa, Apollinaire cũng chẳng hề nhọc óc, chàng cứ thản nhiên làm thơ gửi về “những nàng con gái bên kia ấy”; đang lúc khỏi lửa và đạn bay vèo đầy trời, Apollinaire vẫn thản nhiên mơ mơ màng màng ở giữa trận tuyến; chàng nhìn mọi sự vật trên đời với cặp mắt mơ màng của một người đang yêu, bởi thế chiến tranh không ảnh hưởng gì đến chàng cả; cả vũ trụ của chàng chỉ có nàng: nhìn ở đâu, chàng Gui (Guillaume) Apollinaire cũng đều thấy nàng Lou; ở giữa trận tuyến lửa đạn nghi ngút đầy trời, thi nhân mơ màng:
La nuit
S’achève
Et Gui
Poursuit
Son rêve
Où tout
Est Lou
On est en guerre
Mais Gui
N’y pense guère
Đêm tàn
Và chàng
Mơ màng
Chỉ thấy
Tất cả
Là nàng
Chiến tranh
Nhưng chàng
Vẫn chẳng hề màng.
Đứng trước cuộc đời, chàng cũng có thái độ như thế. Cần gì bạo động cần gì phẫn nộ phản kháng, ai muốn làm gì cứ làm, ai muốn nghĩ gì nghĩ, tôi chẳng xao xuyến gì cả, tôi dửng dưng hết, bởi vì thế giới của tôi chỉ có một hình bóng mà thôi. Apollinaire chẳng cần thắc mắc xao xuyến trước ý nghĩa của cuộc đời, chẳng cần run run đi tìm Thượng đế, bởi vì đối với Apollinaire, Thượng đế là nàng Anne, là nàng Lou, là nàng Marie, là nàng Madaleine, là nàng có tên gọi là la Jolie Rousse.
Có những kẻ thất tình vài lần thì mất tự tin và tuyệt vọng rồi trở thành triết gia hoặc kẻ độc tài (như Hitler); Nietzsche và Schopenhauer rút cục lại chỉ là những kẻ thiếu tình yêu của đàn bà và trở thành thù ghét đàn bà; những misogynes chỉ là những kẻ đại thất tình; nhưng càng thất tình, chàng càng đeo miết mấy cô, mỗi lần bị thất tình, chàng cũng đau khổ dữ dội lắm, chàng cũng thất vọng, nhưng không bao giờ tuyệt vọng; nàng Anne không yêu chàng, chàng đau khổ quằn quại lắm, nhưng rồi chàng lại đi tìm nàng Anne khác (như Marie, như Lou, vân vân).
Xin hoan hô tư cách “đàn ông” của Apollinaire. Dại gì khổ mãi? Hãy bôi sạch những nàng tiên đã đi qua trong đời mình, vì cả vũ trụ này còn có những mấy mươi trăm triệu nàng tiên khác đang rụt rè chờ đợi mình!
Có những triết gia mà cả đời không trả lời được một câu hỏi; trái lại, ta tưởng chừng như Apollinaire trả lời rất dễ dàng. Nếu ta hỏi cuộc đời là gì? Có lẽ Apollinaire sẽ trả lời: là chàng yêu nàng. Thơ là gì? Thơ là em. Triết học là gì? Là lời em thỏ thẻ.
Nietzsche đã từng gọi “chân lý” là một “cô nàng”! Và ai thấy lời thỏ thẻ nào của nàng Lou Salomé đang run rẩy đằng sau những trang triết lý cuồng nộ của Nietzsche!
Apollinaire không chạy trốn cuộc đời (như Kafka, Hemingway, Sadegh Hedayat, vân vân); chàng bám vào cuộc đời, chàng nghiến ngấu cuộc đời như nhai một trái đào tươi, chàng uống cuộc đời như say mê uống ly rượu mạnh; bởi vì đối với chàng, cuộc đời là tình yêu. Đối với Apollinaire, tất cả đều mất hết biên giới: Cuộc Đời, Thơ và Tình Yêu lộn lẫn với nhau và chỉ có một ý nghĩa với nhau, Hư và Thực chỉ là một, Vô Hạn và Hữu Hạn chỉ là một, L’intérieur và L’extérieur của L’existant chỉ là một; Phénomène và Noumène chỉ là một, Trắng hay Đen chỉ là một, Chiến tranh hay Hòa bình chỉ là một, Essence và Existence chỉ là một; En – soi và Pour - soi chỉ là một; Sunyata và Tathata chỉ là một; Logique và Alogique chỉ là một; Xấu và Đẹp chỉ là một; Thành phố và Đồng quê chỉ là một; Tầm Thường và Cao Siêu chỉ là một; Dơ dáy và Sạch sẽ chỉ là một, và Một là gì? Một là Nàng. Một là chàng yêu nàng và nàng yêu chàng. Khi Hai trở thành Một thì cả vũ trụ giao hoà thuận hợp. Khi Hai trở thành Một thì Hỗn Độn trở thành Trật Tự. Một là gì? Một là Tuyệt đối. Một là Siêu Thực Tại (Surréalité). Apollinaire đã khai sinh ra chữ “Surréalité” và từ đó phong trào Surréalisme chào đời để khai thác lĩnh vực hoang vu mà Apollinaire đã tìm ra.
Nhưng chính trường phái gọi là “Surréalisme” lại đánh mất Surréalité! Giống như Bouddhissme đánh mất Bouddha và Christianisme đánh mất Christ!
Sống và Chết chỉ là một. Thực tại và Tưởng tượng chỉ là một, Quá khứ và Tương lai chỉ là một, Trên và Dưới chỉ là một. Khi Hai trở thành Một thì mọi Mâu Thuẫn đều chấm dứt. TÔI LÀ CUỘC ĐỜI, TÔI LÀ ÂM THANH, và ÁNH SÁNG, TÔI LÀ XÁC THỊT ĐÀN ÔNG.
Je suis la Vie… Je suis le Son et la Lumière
Je suis la Chair des Hommes
(Poèmes retrouvés)
Khi HAI ôm thành MỘT, ta có thể khiêu khích thách đố cả sự chết và ta có thể gọi xanh là đỏ, gọi trắng là đen, gọi sáng là chiều:
Et liés l’un à l’autre en une étreinte unique
Nous pouvons défier la mort et son destin
Quand nos dents claqueront en claquement panique
Nous pouvons appeler soir ce qu’on dit matin
(Poèmes à Lou)
Đứng trước Tình yêu, Kafka cảm thấy bàng hoàng trước cái vật “gớm tởm” (abscheulich) và “dơ dáy” (schmutzig). Kafka chán sợ trước cái nhầy nhụa của xác thịt, bởi thế khi Kafka định tìm giải thoát khỏi sự ám ảnh Hư Vô, Kafka không thể tìm trong Tình Yêu và chàng đã thất bại đau đớn. Đối với Apollinaire thì trái ngược hẳn với Kafka, Apollinaire thần tượng hoá Tình Yêu; Apollinaire ngây thơ, chứ không mang nặng phức cảm tội lỗi như Kafka. Apollinaire hồn nhiên và trước sự nhầy nhụa ấy Apollinaire vẫn hoàn toàn “trong sạch như bầu trời đẹp”.
Tu peux défier ma volonté sauvage
Je peux me prosterner comme vers un autel
Devant ta croupe qu’ensanglantera ma rage.
Nos amours resterons pures comme un beau ciel.
(Xin miễn dịch)
(Poèmes à Lou)
Đối với chàng, những mối tình cao thượng không bao giờ xấu xa tội lỗi. Tình yêu là thiêng liêng.
4. Không hiểu mấy ngày vừa qua, tôi lừ đừ bơ phờ như một kẻ bị giam hãm trong ngục tù. Chẳng có lý do gì. Bỗng nhiên chán nản hết mọi sự. Thù ghét hết mọi sự. Lấy bút ra định viết ít bài đăng báo, viết được chục trang rồi xé liệng, toàn là những ý tưởng lăng nhăng bệnh hoạn. Lấy tiểu thuyết ra đọc để lấy tinh thần, đọc chừng năm trang đã thấy mệt và cũng chẳng biết mình đang đọc gì; đôi mắt nhìn vào mấy dòng chữ mà tâm trí đang bềnh bồng nơi khác. Đứng dậy định bước chân ra ngoài nhưng rồi ngồi xuống vì không biết đi đâu. Đi mà không biết đi đâu. Ngồi: không biết ngồi làm chi. Viết: chẳng biết viết gì. Muốn làm một cái gì: chẳng biết làm gì bây giờ.
Tôi bước đi quờ quạng trong phòng; tình cờ bàn tay thờ ơ rờ mó vào tập thơ Hàn Mặc Tử. Tôi bơ phờ giở ra đọc bâng quơ. Thời gian bỗng ngừng lại. Đôi mắt tôi sáng lên. Tôi ngồi xuống.
Trời tối. Ánh nắng chiếu vàng vọt yếu ớt. Tôi cố gắng trừng mắt đọc. Tôi đọc. Chừng năm phút sau tinh thần tỉnh lại. Thần kinh hết căng thẳng. Hết những chán chường thất vọng. Tôi cười. Một người bệnh nan y và cô đơn ở trong một túp lều tranh tồi tàn. Nỗi chán chường bơ phờ của tôi không có nghĩa lý gì cả nếu so với nỗi bơ phờ tuyệt vọng của Hàn Mặc Tử:
Mây chết đuối ở dòng sông vắng lặng
Trôi thây về xa tận cõi vô biên
Tôi hết thất vọng chán mứa. Tôi hết mất mát. Thơ làm tôi sống lại. Thơ giải thoát tôi ra khỏi vòng tù hãm nhọc nhằn của cuộc sống. Thơ đặt tôi trước đời sống.
Tôi mỉm cười bước xuống nhà dưới, tình cờ thấy tờ giấy báo dơ nằm dưới đất, tôi lượm lên đọc bâng quơ:
Mùa thu đêm mưa
phố cũ hè xưa
công viên lá đổ
ngóng em kiên khổ phút giờ
Mùa thu âm thầm
Bên vườn Lục Xâm
ngồi quen ghế đá,
không em buốt giá từ tâm
mùa thu nơi đâu
người em tóc nâu
tóc vàng sợi nhỏ?
Mong em chín đỏ trái sầu…
(Cung Trầm Tưởng)
Tôi ngạc nhiên. Tim tôi máy động. Cung Trầm Tưởng là ai mà làm thơ tài hoa vậy? Tôi mơ màng. Tôi hình dung những chiếc lá rơi. Tôi nhìn thấy dòng sông Seine lững lờ trôi chảy. Kia là tả ngạn Rive Gauche… Kia là đường phố Aumont- Thiévil và l’ avenue des Ternes… Kia là những kẻ tứ chiến giang hồ… Kia là cầu Mirabeau… Kia là mùa thu rơi… Kia là Pont – Neuf. Ôi Paris Souvenir Souvenirs… Remember to Remember…
Cung Trầm Tưởng làm tôi nhớ đến Apollinaire. Ừ, chỉ có Apollinaire mới có những dòng thơ bất tuyệt để làm sống lại Paris. Nói đến Paris là nói đến Kỷ niệm, nói đến Nghệ sĩ, là nói đến Tình yêu và Tuổi trẻ. Paris là thành phố của những kẻ tứ chiếng giang hồ, của những clochards của những femmes de joie, của những Henry Miller, những Hemingway, những Gertrude Stein, những Picasso, những Apollinaire…
Mùa thu nơi đâu
người em mắt nâu
tóc vàng sợi nhỏ
Mong em chín đỏ trái sầu
Cung Trầm Tưởng làm tôi nhớ đến Apollinaire….
J’ ai cueilli ce brin de bruyère
L’ automne est morte souviens t’en
Nous ne nous verrons plus sur terre
Odeur du temps brin de bruyère
Et souviens-toi que je t' attends
Cũng vào mùa thu, Cung Trầm Tưởng ngóng người yêu “kiên khổ phút giờ” và “chín đỏ trái sầu”, ngóng chờ mong đợi như Apollinaire đã ngóng chờ mong đợi giữa hương thời gian và mùi thạch thảo:
Odeur du temps brin de bruyère
Et souviens-toi que je t' attends
Trời tối hẳn rồi. Tôi bước vào giường nằm ngủ, mắt nhắm lại, những dòng thơ của Hàn, của Cung, của Apollinaire chan hoà thướt tha đưa tôi vào giấc ngủ triền miên…
5. Sáng sớm, tôi sực thức giấc. Tôi thở khoan khoái. Giấc ngủ êm đềm đã xoá nhòa tất cả những khắc khoải của mấy ngày qua. Tôi bước ra ngoài vườn; gió cao nguyên lạnh buốt. Mặt trăng còn chiếu sáng. Bỗng nhiên tôi sực muốn viết về Apollinaire. Bỗng nhiên… Ừ, chắc những dư vang của tối hôm qua còn đọng lại sau giấc ngủ nhẹ nhàng. Tôi bước vào nhà vội vã ngồi vào bàn.
Nhưng… nhưng mà viết gì đây? Có thể viết về Apollinaire sao? Viết thế nào? Viết về thơ Apollinaire? Không thể được. Có thể phê bình thơ Apollinaire? Không. Ừ, không gì vô lý bẩn thỉu bằng cái việc phân tích phê bình thơ. Nói đến thơ thì chỉ có việc ca tụng hoặc thờ phụng.
Nói đến Thơ không khác gì nói đến Thượng đế. Phê bình Thơ là làm việc phạm thánh, là “blasphème.”
Nhưng thi sĩ không phải là loài người, họ là những thiên thần, những thánh hoặc những quỉ ma. Nếu ta không chấp nhận họ được thì ta phải ca tụng họ hết lời. Ta không được quyền có thái độ của học giả hoặc giáo sư hoặc nhà phê bình. Phải giết hết những nhà phê bình để cho Keats sống, để cho Chatterton đừng chết lúc mới 18 tuổi xanh!
Anh không thể cảm thơ người ta thì anh hãy im lặng; còn nếu cảm được thì anh hãy tha thiết ca ngợi, đừng e dè giữ gìn gì cả. Không nên có những nhà phê bình thơ mà chỉ nên có những kẻ ca tụng thơ. Thơ là của riêng từng người; không có ai làm thầy ai cả. Phê bình văn nghệ ư? Đau đớn lắm.
Giở lại mấy trang của André Rousseaux trong quyển Littérature du vingtième siècle (cuốn thứ 6), tôi đọc đôi lời thú nhận của học giả già dặn: “Il est très difficile de parle vraiment d’ Apollinaire.”
Ừ, không thể nào nói về Apollinaire cho đàng hoàng được. Đối với những thi hào đều thế. Đối với Rimbaud cũng thế. Blaise Cendrars cũng thế. Miloz, Lorca, Georg Trakl, Seferis, Cummings, Blake, Dylan Thomas, Kathleen Raine, Cavafis cũng thế.
Đây không phải là một bài khảo luận. Xin anh đừng kiếm sự quảng bác thông minh. Tôi không biết lý luận; tôi không biết phân tích và phê bình. Tôi chỉ biết ca ngợi.
Tôi ca ngợi: Apollinaire là thiên tài của nhân loại; Apollinaire là hiện thân của thơ; Apollinaire là mây trắng của vòm trời xanh bất diệt…
Chú thích:
Văn học hiện đại thì quá già dặn, hết ngây thơ hồn nhiên, có chứa phức cảm tội lỗi, bạo động, phẫn nộ, điên loạn, thù ghét chiến tranh, chán mứa văn minh kỹ nghệ máy móc; nhìn chung, tiểu thuyết hay kịch hiện đại đều là nặng nề về tư tưởng; thơ hiện đại chỉ thừa hưởng những khám phá kỹ thuật của Apollinaire (và của Blaise Cendrars) còn về đường tư tưởng thì thơ ca hiện đại đi ngược hẳn màu sắc trữ tình; thơ hiện đại là thơ triết lý hoặc thơ tôn giáo. Về nội dung tư tưởng, Apollinaire đã đi ngược lại những trào lưu chính của nền văn học hiện đại, nhưng về kỹ thuật hình thức, thì thi ca hiện đại đều nằm trong hơi thở của Apollinaire.
3. Nói đến con người Apollinaire mà không nói đến Tình yêu là không nói được gì cả. Có những người sinh ra đời chỉ để yêu đàn bà và mọi sự trong đời họ đều bị đàn bà chi phối mãnh liệt. Apollinaire thuộc vào hạng người này. Tình yêu đã ảnh hưởng quyết định đến sự nghiệp thi ca của Apollinaire. Đối với Apollinaire, Cuộc Đời, Thơ và Tình Yêu chỉ là Một; Cuộc Đời là Tình Yêu, tất cả mọi sự đều dẫn về Tình Yêu. Ta có thể gọi những thi sĩ nào ở thế giới là thi sĩ của Tình yêu? Robert Burns? Giacomo Leopardi? Christopher Marlowe? So wol Kim? Byung Wha Cho? Sappho? Pétrarque? Heine? Tất cả những thi sĩ không nhiều thì ít đều ca tụng Tình yêu; Tình yêu đã ảnh hưởng mãnh liệt đến Rainer Maria Rilke, nhưng Rilke vẫn xem tình yêu như “gia tăng thêm sự cô đơn” và suốt đời Rilke vẫn lang thang đi tìm “một quê hương tâm linh” mặc dù Rilke đã chết vì đoá hoa hồng của Tình yêu, nhưng phải gọi Rilke là thi nhân của Tâm linh (Gabriel Marcel gọi Rilke là “témoin du spirituel”; danh từ “Thi nhân của Tình Yêu” phải dành cho Pétrarque hay, gần đây hơn, phải dành cho Apollinaire. Pétrarque đã bất tử nhờ mối tình của thi nhân đối với Laura; Apollinaire đã bất tử là nhờ những mối tình của thi nhân đối với Anne với Marie, với Lou, với Madeleine. Tất cả nhân sinh quan hay vũ trụ quan của Apollinaire đều trở về trung tâm điểm là người đàn bà. Có người làm bao nhiêu bài thơ chỉ để ca tụng con người trong đời sống hiện đại (như Walt Whitman), có người làm bao nhiêu bài thơ khóc than cho nỗi bi thương của mình (như Leopardi), có người làm thơ để đọc kinh cho nỗi cô đơn mãnh liệt của mình (như Hàn Mặc Tử và Hoài Khanh), có người làm thơ ca tụng Thượng đế, để tìm Vô hạn (l’inépuisable) trong Hữu hạn (như Paul Claudel), có người làm thơ để tìm Thượng Đế ở Hoả Ngục (như Rimbaud), có người làm thơ chỉ để ca tụng “ngày mai ca hát” (như Bertolt Brecht), nhưng cũng có người làm hàng ngàn bài thơ chỉ để ca tụng một người đàn bà đó là Apollinaire.
Apollinaire tham lam, suốt đời chỉ chạy loanh quanh lẩn quẩn với hình bóng nàng này và mái tóc nàng kia, Apollinaire nhìn ở đâu cũng thấy những giai nhân; suốt đời chàng cứ bận rộn với những nàng con gái “xinh như mộng”; mặc ai đánh giết nhau, thế giới có tơi bời lửa đạn đi nữa, Apollinaire cũng chẳng hề nhọc óc, chàng cứ thản nhiên làm thơ gửi về “những nàng con gái bên kia ấy”; đang lúc khỏi lửa và đạn bay vèo đầy trời, Apollinaire vẫn thản nhiên mơ mơ màng màng ở giữa trận tuyến; chàng nhìn mọi sự vật trên đời với cặp mắt mơ màng của một người đang yêu, bởi thế chiến tranh không ảnh hưởng gì đến chàng cả; cả vũ trụ của chàng chỉ có nàng: nhìn ở đâu, chàng Gui (Guillaume) Apollinaire cũng đều thấy nàng Lou; ở giữa trận tuyến lửa đạn nghi ngút đầy trời, thi nhân mơ màng:
La nuit
S’achève
Et Gui
Poursuit
Son rêve
Où tout
Est Lou
On est en guerre
Mais Gui
N’y pense guère
Đêm tàn
Và chàng
Mơ màng
Chỉ thấy
Tất cả
Là nàng
Chiến tranh
Nhưng chàng
Vẫn chẳng hề màng.
Đứng trước cuộc đời, chàng cũng có thái độ như thế. Cần gì bạo động cần gì phẫn nộ phản kháng, ai muốn làm gì cứ làm, ai muốn nghĩ gì nghĩ, tôi chẳng xao xuyến gì cả, tôi dửng dưng hết, bởi vì thế giới của tôi chỉ có một hình bóng mà thôi. Apollinaire chẳng cần thắc mắc xao xuyến trước ý nghĩa của cuộc đời, chẳng cần run run đi tìm Thượng đế, bởi vì đối với Apollinaire, Thượng đế là nàng Anne, là nàng Lou, là nàng Marie, là nàng Madaleine, là nàng có tên gọi là la Jolie Rousse.
Có những kẻ thất tình vài lần thì mất tự tin và tuyệt vọng rồi trở thành triết gia hoặc kẻ độc tài (như Hitler); Nietzsche và Schopenhauer rút cục lại chỉ là những kẻ thiếu tình yêu của đàn bà và trở thành thù ghét đàn bà; những misogynes chỉ là những kẻ đại thất tình; nhưng càng thất tình, chàng càng đeo miết mấy cô, mỗi lần bị thất tình, chàng cũng đau khổ dữ dội lắm, chàng cũng thất vọng, nhưng không bao giờ tuyệt vọng; nàng Anne không yêu chàng, chàng đau khổ quằn quại lắm, nhưng rồi chàng lại đi tìm nàng Anne khác (như Marie, như Lou, vân vân).
Xin hoan hô tư cách “đàn ông” của Apollinaire. Dại gì khổ mãi? Hãy bôi sạch những nàng tiên đã đi qua trong đời mình, vì cả vũ trụ này còn có những mấy mươi trăm triệu nàng tiên khác đang rụt rè chờ đợi mình!
Có những triết gia mà cả đời không trả lời được một câu hỏi; trái lại, ta tưởng chừng như Apollinaire trả lời rất dễ dàng. Nếu ta hỏi cuộc đời là gì? Có lẽ Apollinaire sẽ trả lời: là chàng yêu nàng. Thơ là gì? Thơ là em. Triết học là gì? Là lời em thỏ thẻ.
Nietzsche đã từng gọi “chân lý” là một “cô nàng”! Và ai thấy lời thỏ thẻ nào của nàng Lou Salomé đang run rẩy đằng sau những trang triết lý cuồng nộ của Nietzsche!
Apollinaire không chạy trốn cuộc đời (như Kafka, Hemingway, Sadegh Hedayat, vân vân); chàng bám vào cuộc đời, chàng nghiến ngấu cuộc đời như nhai một trái đào tươi, chàng uống cuộc đời như say mê uống ly rượu mạnh; bởi vì đối với chàng, cuộc đời là tình yêu. Đối với Apollinaire, tất cả đều mất hết biên giới: Cuộc Đời, Thơ và Tình Yêu lộn lẫn với nhau và chỉ có một ý nghĩa với nhau, Hư và Thực chỉ là một, Vô Hạn và Hữu Hạn chỉ là một, L’intérieur và L’extérieur của L’existant chỉ là một; Phénomène và Noumène chỉ là một, Trắng hay Đen chỉ là một, Chiến tranh hay Hòa bình chỉ là một, Essence và Existence chỉ là một; En – soi và Pour - soi chỉ là một; Sunyata và Tathata chỉ là một; Logique và Alogique chỉ là một; Xấu và Đẹp chỉ là một; Thành phố và Đồng quê chỉ là một; Tầm Thường và Cao Siêu chỉ là một; Dơ dáy và Sạch sẽ chỉ là một, và Một là gì? Một là Nàng. Một là chàng yêu nàng và nàng yêu chàng. Khi Hai trở thành Một thì cả vũ trụ giao hoà thuận hợp. Khi Hai trở thành Một thì Hỗn Độn trở thành Trật Tự. Một là gì? Một là Tuyệt đối. Một là Siêu Thực Tại (Surréalité). Apollinaire đã khai sinh ra chữ “Surréalité” và từ đó phong trào Surréalisme chào đời để khai thác lĩnh vực hoang vu mà Apollinaire đã tìm ra.
Nhưng chính trường phái gọi là “Surréalisme” lại đánh mất Surréalité! Giống như Bouddhissme đánh mất Bouddha và Christianisme đánh mất Christ!
Sống và Chết chỉ là một. Thực tại và Tưởng tượng chỉ là một, Quá khứ và Tương lai chỉ là một, Trên và Dưới chỉ là một. Khi Hai trở thành Một thì mọi Mâu Thuẫn đều chấm dứt. TÔI LÀ CUỘC ĐỜI, TÔI LÀ ÂM THANH, và ÁNH SÁNG, TÔI LÀ XÁC THỊT ĐÀN ÔNG.
Je suis la Vie… Je suis le Son et la Lumière
Je suis la Chair des Hommes
(Poèmes retrouvés)
Khi HAI ôm thành MỘT, ta có thể khiêu khích thách đố cả sự chết và ta có thể gọi xanh là đỏ, gọi trắng là đen, gọi sáng là chiều:
Et liés l’un à l’autre en une étreinte unique
Nous pouvons défier la mort et son destin
Quand nos dents claqueront en claquement panique
Nous pouvons appeler soir ce qu’on dit matin
(Poèmes à Lou)
Đứng trước Tình yêu, Kafka cảm thấy bàng hoàng trước cái vật “gớm tởm” (abscheulich) và “dơ dáy” (schmutzig). Kafka chán sợ trước cái nhầy nhụa của xác thịt, bởi thế khi Kafka định tìm giải thoát khỏi sự ám ảnh Hư Vô, Kafka không thể tìm trong Tình Yêu và chàng đã thất bại đau đớn. Đối với Apollinaire thì trái ngược hẳn với Kafka, Apollinaire thần tượng hoá Tình Yêu; Apollinaire ngây thơ, chứ không mang nặng phức cảm tội lỗi như Kafka. Apollinaire hồn nhiên và trước sự nhầy nhụa ấy Apollinaire vẫn hoàn toàn “trong sạch như bầu trời đẹp”.
Tu peux défier ma volonté sauvage
Je peux me prosterner comme vers un autel
Devant ta croupe qu’ensanglantera ma rage.
Nos amours resterons pures comme un beau ciel.
(Xin miễn dịch)
(Poèmes à Lou)
Đối với chàng, những mối tình cao thượng không bao giờ xấu xa tội lỗi. Tình yêu là thiêng liêng.
4. Không hiểu mấy ngày vừa qua, tôi lừ đừ bơ phờ như một kẻ bị giam hãm trong ngục tù. Chẳng có lý do gì. Bỗng nhiên chán nản hết mọi sự. Thù ghét hết mọi sự. Lấy bút ra định viết ít bài đăng báo, viết được chục trang rồi xé liệng, toàn là những ý tưởng lăng nhăng bệnh hoạn. Lấy tiểu thuyết ra đọc để lấy tinh thần, đọc chừng năm trang đã thấy mệt và cũng chẳng biết mình đang đọc gì; đôi mắt nhìn vào mấy dòng chữ mà tâm trí đang bềnh bồng nơi khác. Đứng dậy định bước chân ra ngoài nhưng rồi ngồi xuống vì không biết đi đâu. Đi mà không biết đi đâu. Ngồi: không biết ngồi làm chi. Viết: chẳng biết viết gì. Muốn làm một cái gì: chẳng biết làm gì bây giờ.
Tôi bước đi quờ quạng trong phòng; tình cờ bàn tay thờ ơ rờ mó vào tập thơ Hàn Mặc Tử. Tôi bơ phờ giở ra đọc bâng quơ. Thời gian bỗng ngừng lại. Đôi mắt tôi sáng lên. Tôi ngồi xuống.
Trời tối. Ánh nắng chiếu vàng vọt yếu ớt. Tôi cố gắng trừng mắt đọc. Tôi đọc. Chừng năm phút sau tinh thần tỉnh lại. Thần kinh hết căng thẳng. Hết những chán chường thất vọng. Tôi cười. Một người bệnh nan y và cô đơn ở trong một túp lều tranh tồi tàn. Nỗi chán chường bơ phờ của tôi không có nghĩa lý gì cả nếu so với nỗi bơ phờ tuyệt vọng của Hàn Mặc Tử:
Mây chết đuối ở dòng sông vắng lặng
Trôi thây về xa tận cõi vô biên
Tôi hết thất vọng chán mứa. Tôi hết mất mát. Thơ làm tôi sống lại. Thơ giải thoát tôi ra khỏi vòng tù hãm nhọc nhằn của cuộc sống. Thơ đặt tôi trước đời sống.
Tôi mỉm cười bước xuống nhà dưới, tình cờ thấy tờ giấy báo dơ nằm dưới đất, tôi lượm lên đọc bâng quơ:
Mùa thu đêm mưa
phố cũ hè xưa
công viên lá đổ
ngóng em kiên khổ phút giờ
Mùa thu âm thầm
Bên vườn Lục Xâm
ngồi quen ghế đá,
không em buốt giá từ tâm
mùa thu nơi đâu
người em tóc nâu
tóc vàng sợi nhỏ?
Mong em chín đỏ trái sầu…
(Cung Trầm Tưởng)
Tôi ngạc nhiên. Tim tôi máy động. Cung Trầm Tưởng là ai mà làm thơ tài hoa vậy? Tôi mơ màng. Tôi hình dung những chiếc lá rơi. Tôi nhìn thấy dòng sông Seine lững lờ trôi chảy. Kia là tả ngạn Rive Gauche… Kia là đường phố Aumont- Thiévil và l’ avenue des Ternes… Kia là những kẻ tứ chiến giang hồ… Kia là cầu Mirabeau… Kia là mùa thu rơi… Kia là Pont – Neuf. Ôi Paris Souvenir Souvenirs… Remember to Remember…
Cung Trầm Tưởng làm tôi nhớ đến Apollinaire. Ừ, chỉ có Apollinaire mới có những dòng thơ bất tuyệt để làm sống lại Paris. Nói đến Paris là nói đến Kỷ niệm, nói đến Nghệ sĩ, là nói đến Tình yêu và Tuổi trẻ. Paris là thành phố của những kẻ tứ chiếng giang hồ, của những clochards của những femmes de joie, của những Henry Miller, những Hemingway, những Gertrude Stein, những Picasso, những Apollinaire…
Mùa thu nơi đâu
người em mắt nâu
tóc vàng sợi nhỏ
Mong em chín đỏ trái sầu
Cung Trầm Tưởng làm tôi nhớ đến Apollinaire….
J’ ai cueilli ce brin de bruyère
L’ automne est morte souviens t’en
Nous ne nous verrons plus sur terre
Odeur du temps brin de bruyère
Et souviens-toi que je t' attends
Cũng vào mùa thu, Cung Trầm Tưởng ngóng người yêu “kiên khổ phút giờ” và “chín đỏ trái sầu”, ngóng chờ mong đợi như Apollinaire đã ngóng chờ mong đợi giữa hương thời gian và mùi thạch thảo:
Odeur du temps brin de bruyère
Et souviens-toi que je t' attends
Trời tối hẳn rồi. Tôi bước vào giường nằm ngủ, mắt nhắm lại, những dòng thơ của Hàn, của Cung, của Apollinaire chan hoà thướt tha đưa tôi vào giấc ngủ triền miên…
5. Sáng sớm, tôi sực thức giấc. Tôi thở khoan khoái. Giấc ngủ êm đềm đã xoá nhòa tất cả những khắc khoải của mấy ngày qua. Tôi bước ra ngoài vườn; gió cao nguyên lạnh buốt. Mặt trăng còn chiếu sáng. Bỗng nhiên tôi sực muốn viết về Apollinaire. Bỗng nhiên… Ừ, chắc những dư vang của tối hôm qua còn đọng lại sau giấc ngủ nhẹ nhàng. Tôi bước vào nhà vội vã ngồi vào bàn.
Nhưng… nhưng mà viết gì đây? Có thể viết về Apollinaire sao? Viết thế nào? Viết về thơ Apollinaire? Không thể được. Có thể phê bình thơ Apollinaire? Không. Ừ, không gì vô lý bẩn thỉu bằng cái việc phân tích phê bình thơ. Nói đến thơ thì chỉ có việc ca tụng hoặc thờ phụng.
Nói đến Thơ không khác gì nói đến Thượng đế. Phê bình Thơ là làm việc phạm thánh, là “blasphème.”
Nhưng thi sĩ không phải là loài người, họ là những thiên thần, những thánh hoặc những quỉ ma. Nếu ta không chấp nhận họ được thì ta phải ca tụng họ hết lời. Ta không được quyền có thái độ của học giả hoặc giáo sư hoặc nhà phê bình. Phải giết hết những nhà phê bình để cho Keats sống, để cho Chatterton đừng chết lúc mới 18 tuổi xanh!
Anh không thể cảm thơ người ta thì anh hãy im lặng; còn nếu cảm được thì anh hãy tha thiết ca ngợi, đừng e dè giữ gìn gì cả. Không nên có những nhà phê bình thơ mà chỉ nên có những kẻ ca tụng thơ. Thơ là của riêng từng người; không có ai làm thầy ai cả. Phê bình văn nghệ ư? Đau đớn lắm.
Giở lại mấy trang của André Rousseaux trong quyển Littérature du vingtième siècle (cuốn thứ 6), tôi đọc đôi lời thú nhận của học giả già dặn: “Il est très difficile de parle vraiment d’ Apollinaire.”
Ừ, không thể nào nói về Apollinaire cho đàng hoàng được. Đối với những thi hào đều thế. Đối với Rimbaud cũng thế. Blaise Cendrars cũng thế. Miloz, Lorca, Georg Trakl, Seferis, Cummings, Blake, Dylan Thomas, Kathleen Raine, Cavafis cũng thế.
Đây không phải là một bài khảo luận. Xin anh đừng kiếm sự quảng bác thông minh. Tôi không biết lý luận; tôi không biết phân tích và phê bình. Tôi chỉ biết ca ngợi.
Tôi ca ngợi: Apollinaire là thiên tài của nhân loại; Apollinaire là hiện thân của thơ; Apollinaire là mây trắng của vòm trời xanh bất diệt…
Chú thích:
[1] Les Écrivains célèbres, éditions Lucien Mazenod cuốn III, trang 195.
[2] Apollinaire, Oeuvres poétiques, bibliothèque de la Plélade, préface, Paris. XXXII.
[3] Gertrude Stein, The Autobiography of Alice B. Toklas, trang 58-63 (Random House, N.Y.)
[2] Apollinaire, Oeuvres poétiques, bibliothèque de la Plélade, préface, Paris. XXXII.
[3] Gertrude Stein, The Autobiography of Alice B. Toklas, trang 58-63 (Random House, N.Y.)
(Tiếp chương bảy)
6. Tập Alcools là tập thơ tuyệt vời nhất của Apollinaire; tập Calligrammes mang nặng màu sắc “avant-gardiste”; những tập thơ khác của Apollinaire (như Poèmes à Lou, Le Guetteur mélancolique, II y a, Vitam Impendce Amori, v.v…) chứa đựng hương sắc trữ tình nồng nàn ân ái vô tận.
Tập thơ đầu tiên của Apollinaire là tập Le Bestiaire ou cortège d’ Orphée. Tập thơ này không lôi cuốn như tập Alcools, nhưng thỉnh thoảng tập Le Bestiaire cũng loé lên vài ánh ngọc lung linh như:
Belles journées, souris du temps
Vous rongez peu à peu ma vie
Phòng của tôi có vài ba con chuột: tối ngủ mấy con chuột ấy cứ gặm phá ồn ào, tôi bực mình lắm. Đọc hai câu trên của Apollinaire tôi toát mồ hôi, tôi không bao giờ nghĩ được hình ảnh lạ lùng như thế. Ôi chuột thời gian mi gặm nhấm ăn mòn cuộc đời của ta!...
Belles journées, souris du temps
Vous rongez peu à peu ma vie
Tập Alcools mở đầu với bài thơ “Zone”, một trong những bài thơ lạ lùng nhất của Apollinaire và của thi văn hiện đại ở thế giới:
A la fin tu es las de ce monde ancien
Bergère ô tour Eiffel le troupeau des pónt bêle ce matin.
Thế rồi sau cùng mi chán thế giới cũ kỹ này
Ô kẻ chăn cừu Hỡi tháp Eiffel đoàn cừu của nàng là những cây cầu kêu be be sáng nay
Chắc Apollinaire là một thiên thần mới có thị quan khơi vơi như trên? Phải chăng thiên thần Apollinaire bay liệng trên thành phố Paris và tưởng tháp Eiffel là một kẻ chăn cừu và những cây cầu rải rác là một đoàn cừu? Kẻ chăn cừu ấy là một nàng con gái:
Bergère ô tour Eiffel…
Thành phố Paris hiện ra huy hoàng, tôi bước đi lang thang vào một con đường xinh xinh mơ màng quên hết mọi sự:
J’ ai vu ce matin une jolie rue don’t j’ai oublié le nom
Neuve et propre du soleil elle était le clairon.
Sáng nay tôi thấy một con đường xinh đẹp mà tôi đã quên tên
Mới tinh và sạch sẽ như kèn lính của mặt trời
Thành phố huyên náo nhộn nhịp, ốc hụ, chuông gắt gỏng (“cloche rageuse”), những bảng hiệu, những tờ cáo thị, con đường kỹ nghệ yêu kiều (“la grace de cette rue industrielle”) tôi nhớ tuổi thơ ngoan đạo hồn nhiên trong trắng (“vous priez toute la nuit dans la chapelle du collège”), dĩ vãng xinh đẹp chim én bay đầy trời, nhưng hỡi ơi, hiện tại chỉ là nỗi cô đơn buồn sầu héo:
Maintenant tu marches dans Paris tout seul parmi la foule
Des troupeaux d’autobus mugissants près de toi roulent
L’angoisse de l’amour te serre le gosier
Bây giờ mi đi bách bộ ở Paris và cô đơn chiếc bóng giữa thiên hạ người đời
Những đàn cừu ô tô buýt kêu rống chạy gần mi
Nỗi đau đớn ray rứt của tình yêu bóp cổ họng mi.
Đi giữa thành phố Paris, bước lang thang vào con đường xinh xắn, Apollinaire bỗng dưng nhớ đến tuổi thơ của chàng, người thi sĩ ấy nhớ lại tuổi hoa niên ngây ngô trong trắng, chưa lấm bụi đời, cái tuổi đầy mơ mộng, cậu bé nhỏ mặc áo xanh trắng ấy đã đọc kinh ngoan đạo và mơ mộng hồn nhiên ngây thơ vô cùng; nhưng hỡi ơi dĩ vãng xanh mộng ấy đã qua rồi và hiện tại chỉ phũ phàng cay đắng, ngày xưa là xinh đẹp vô tư lự, nhưng bây giờ chàng đau khổ cô đơn, đang bước đi lang thang giữa đường phố đông người và đang đau đớn thất tình:
L’angoisse de l’amour te serre le gosier.
Đau khổ quá, chàng lẩm rẩm đọc kinh giữa đường phố, nhưng chàng giật mình hổ thẹn khi bắt chợt mình đang đọc kinh (bởi vì từ lâu, chàng đã mất đức tin và không còn ngoan đạo nữa, tuổi thơ sùng đạo mất rồi), chàng cười ra nước mắt:
Vous avez honte quand vous surprenez à dire une prière
Tu te moques de toi et comme le feu de l’ Enfer ton rire pétille
Les étincelles de ton rire dorent le fonds de ta vie
Anh hổ thẹn lúc anh bắt chợt anh đang đọc kinh
Mi chế nhạo mi và như lửa ở Hoả Ngục tiếng cười mi nổ lẹt đẹt.
Những đóm lửa của tiếng cười mi mạ vàng đáy sâu của cuộc đời mi
Cười chua chát, chàng tiếp tục bước đi lang thang giữa đường phố Paris:
Aujour d’hui tu marches dans Paris les femmes sont ensanglantées
Hôm nay mi đi bộ ở Paris những người đàn bà loang máu
Lòng chàng, tim chàng cùng loang máu, tình yêu ám ảnh chàng vô cùng mãnh liệt, tình yêu hành hạ chàng một cách tủi nhục (“l’amour dont je souffre est une maladie honteuse”), bước đi lang thang ở Paris, chàng nhớ đến những chuyến giang hồ, những chuyến viễn trình trong đời chàng những mẩu tình vụn vặt chàng đã gặp trên bước lang thang hải hồ, những chuyến đi ở Prague, ở Marseille, ở Coblence, ở Rome, Amsterdam…
Chàng làm những chuyến giang hồ vui và buồn, chàng đã thất tình lúc hai mươi tuổi và lúc ba mươi tuổi.
J’ai vécu comme un fou et j’ai perdu mon temps.
Tôi đã sống như một thằng điên và tôi đã đánh mất thời gian.
Chàng không dám nhìn hai bàn tay chàng (“tu n’oses plus regarder tes mains’) và chàng muốn khóc nức nở, khóc cho chàng, cho người chàng yêu, cho tất cả những khi bẽ bàng kinh hãi.
Chàng tiếp tục bước đi giữa thành phố Paris và đến một quán nước, chàng dừng chân lại:
Tu es debout devant le zine d’un bar crapuleux
Tu prends un café à deux sous parmi les malheureux
Tu es la nuit dans grand le restaurant.
Mi đứng trước quầy rượu bẩn thỉu dâm ô.
Mi uống cà phê rẻ tiền giữa những người đau khổ.
Ban đêm mi đang ở trong một nhà hàng sang trọng.
Đêm sắp tàn bình minh ló dạng:
Tu es seul le matin va venir,
Les laitiers font tinter leurs bidons dans les rues
Mi cô đơn và ngày sắp đến
Những người bán sữa khua động bình thiết trên những đường phố.
Những âm thanh của buổi sáng tinh mơ trỗi dậy: đường phố khua động du dương, chàng nâng ly lên uống rượu trước khi rời bỏ quầy hàng.
Et tu bois cet alcool brûlant comme ta vie
Ta vie que tu bois comme une eau-de-vie.
Và mi uống rượu nồng cháy như cuộc đời mi
Cuộc đời mi mà mi uống như rượu mạnh.
Chàng bước trở về nhà để ngủ một giấc miên man. Mặt trời lưng chừng thoáng hiện.
Adieu Adieu
Soleil cou coupé
Giã biệt giã biệt
Mặt trời cổ bị cắt
Bài thơ “Zone” chấm dứt như trên. Tôi muốn trích trọn bài “Zone” vào đây, nhưng bài thơ dài quá, dài đến sáu trang giấy. (Xin xem phần chú thích) [1]. Bài “Zone” là bài thơ tiêu biểu nhất của Apollinaire. Người ta than rằng bài “Zone” khó hiểu. Tôi đã đọc hết cả những tập thơ Apollinaire từ xưa, thế mà từ đó đến nay không có bài thơ nào ảnh hưởng tôi mãnh liệt như bài “Zone”, có những bài thơ mà hồi còn trẻ nhỏ ta rất say mê nhưng đến lúc lớn khôn ta không thích, nhưng ngược lại cũng có những bài thơ mà càng lớn tuổi ta càng say mê hơn nữa. “Zone” nằm trong trường hợp sau. Thực ra, bài “Zone” chẳng có gì khó hiểu. Có khó hiểu chăng là vì quá nhiều hình ảnh lạ lùng dồn dập hoà lẫn với nhau và biên giới thời gian không gian đã mờ nhạt đi, không còn thứ tự thường lệ nữa. Hầu hết thi ca hiện đại đều thế. Ta từng đọc những quyển tiểu thuyết khác thường của Faulkner và James Joyce, James Joyce và Faulkner đã sử dụng lối độc thoại nội tâm (monologue intérieur) trong tiểu thuyết. Apollinaire (và nhất là T. S. Eliot) đã xử dụng lối độc thoại nội tâm trong thơ. Bài “Zone” (hay bài “Cortège”) của Apollinaire chỉ là những bài độc thoại nội tâm thường khó hiểu đối với những người quen đọc lối văn cũ. Chủ đề bài “Zone” là gì? Theo tôi đó là một bài trầm buồn của một người thất tình Apollinaire là một nhà thơ của Tình yêu; những bài thơ tuyệt vời nhất của Apollinaire đều là những bài hát của kẻ thất tình. Bài “Zone” đưa ta vào những đường phố Paris; Apollinaire buồn chán đi lang thang trên những đường phố Paris từ sáng đến chiều tối, rồi đến khuya sáng hôm sau mới trở về nhà mà ngủ. Đang lúc Apollinaire lững thững bước đi, những hình ảnh tưng bừng của Paris và ngày xưa trở về xuất hiện lộn xộn trong tâm tưởng chàng, chàng thấy lại lúc bé thơ ngây thơ hồn nhiên, chàng thấy lại những lúc bé thơ ngây ngô hồn nhiên, chàng thấy lại những lần lang bạt kỳ hồ ở bờ Địa trung hải, ở Prague, ở Marseille, ở Coblence, Rome, Amsterdam; đang lúc chàng đi lang thang ở Paris, những hình ảnh ấy sống lại trong tâm tưởng chàng; mỗi bước chân chàng gợi lại những quãng đời chàng, những hình ảnh hiện tại và quá khứ xuất hiện lẫn lộn trong tâm tưởng của một chàng thi sĩ thất tình đau khổ; đêm tàn buổi sáng trở về; trước khi về nhà ngủ, chàng uống một ly rượu mạnh như uống cuộc đời chàng:
Et tu bois cet alcool brûlant comme ta vie.
Ta vie que tu bois comme une eau - de - vie.
Hai câu thơ trên là hai câu thơ hay nhất của bài “Zone”; Apollinaire đã lấy chữ Alcool trong hai câu thơ ấy để đặt nhan đề tập thơ Alcools. Khi viết bài “Zone”, Apollinaire muốn nói gì?
Đi trên thành phố phai nhầu
Bước chân xiêu vẹo nghe sầu vọng âm
Lời em trên mắt âm thầm
Khua chân phố nhỏ giọt đầm đìa tuôn
(Hoài Khanh)
Có thể lấy mấy câu thơ trên để làm chủ đề cho bài “Zone” là một buổi lang thang xiêu vẹo “nghe sầu vọng âm” trên thành phố phai nhầu Paris.
Tôi không hiểu tại sao tôi lại thích mê đi lang thang trên những đường phố, bất cứ một đường phố nào. Chỉ bước đi lang thang và ngó nhìn bâng quơ, chỉ bấy nhiêu thôi là đủ hạnh phúc lắm rồi.
Nhứt là đi lang thang từ tối khuya đến sáng tinh mơ. Tôi nghĩ rằng bất cứ kẻ nào đã từng lang như chó hoang, khi đọc bài “Zone”, sẽ càng thấm thía vô cùng. Nếu có đọc “Zone”, chắc Sherwood Anderson thích thú lắm. (Sherwood Anderson là kẻ lang thang bâng quơ nhất trên những đường phố Mỹ quốc).
Apollinaire đi lang thang ở nhiều nước ngay từ lúc còn trẻ. Blaise Cendrars cũng thế. Valéry Larbaud cũng thế. Hơi thở của “Zone” nhắc ta nhớ đến “Prose du Transbérien” hoặc “Pâques à New York” của Blaise Cendrars.
“Zone” mạnh và dồn dập thôi thúc hơn bài “Le Pont Mirabeau”. Dở tập Alcools, ta thấy sau bài “Zone” là bài “Le Pont Mirabeau”; cả hai bài đều bất hủ; nhưng cái style nouveau được thể hiện rõ ràng mãnh liệt trong “Zone” hơn là trong “Le Pont Mirabeau”.
Bài “Le Pont Mirabeau” nằm trong truyền thống thi ca trữ tình Pháp:
Sous le pont Mirabeau coule la Seine
Dưới cầu Mirabeau sông Seine chảy.
Apollinaire đứng nhìn sông Seine trôi chảy và thi nhân đau đớn khắc khoải sống lại dĩ vãng và những mối tình xưa:
Sous le pont Mirabeau coule la Seine
Et nos amours
Faut – il qu’il m’en souvienne
Tôi nhớ đến mấy câu thơ của Hoàng Trúc Ly; Hoàng Trúc Ly sống lại dĩ vãng và những mối tình xưa:
Tôi đứng bên bờ dĩ vãng
Thương về con nước ngại ngùng xuôi
Những người con gái bên kia ấy
Ai biết chiều nay có nhớ tôi
Tôi muốn hôn bằng môi của em
Mùa mưa thao thiết nắng hoe thềm.
(Hoàng Trúc Ly)
Hoàng Trúc Ly “Thương về con nước ngại ngùng xuôi” mang theo mất những mối tình của thi nhân cũng như Apollinaire thổn thức “Tình yêu trôi đi như dòng nước chảy”:
L’amour s’en va comme cette courante
L’amour s’en va
Comme la vie est lente
Et comme l’Espérance est violente
Vienne la nuit sonne l’heure
Les jours s’en vont je demeure
Tình yêu trôi đi như dòng nước chảy. Tình yêu trôi đi, cuộc đời chậm chạp, hoài vọng mãnh liệt. Đêm đến, giờ điểm, thời gian trôi chảy, chỉ còn thi nhân ở lại bên cầu thương dĩ vãng. Chẳng biết có chịu ảnh hưởng Apollinaire hay không mà Hoài Khanh cũng có những lời thơ tuyệt tác có thể khiến ta nhớ đến những câu thơ của Apollinaire.
Rồi em lại ra đi như đã đến
Dòng sông kia cứ vẫn chảy xa mù
Ta ngồi lại bên cầu thương dĩ vãng
Nghe giữa hồn cây cỏ mọc hoang vu.
(Hoài Khanh)
Mỗi nhà thơ mang một giọng điệu riêng, nhưng ta có thể lấy câu “ta ngồi lại bên cầu thương dĩ vãng” để giải thích câu “je demeure” của Apollinaire trở nên bất hủ; ý nghĩa cô đọng súc tích mông lung vô cùng, ta muốn hiểu thế nào cũng được. Thời gian trôi đi mất, chỉ còn nỗi khổ triền miên ở lại cùng tôi! Đoạn thơ hay nhất trong bài “Le Pont Mirabeau” là đoạn này:
Les mains dans les mains restons face à face
Tandis que sous
Le pont de nos bras passe
Des éternels regards l’onde si lasse
Vienne la nuit sonne l’heure
Les jours s’en vont je demeure
Tay trong tay mặt hãy nhìn mặt
Đang lúc dưới
Cầu của những cánh tay đôi ta lướt dòng nước mệt mỏi của những thoáng nhìn thiên thu
Hãy để đêm về giờ điểm
Ngày trôi tôi vẫn còn đây.
Thi nhân nhớ lại ngày xưa cũng tại nơi đây, thi nhân cùng người yêu âu yếm nhìn nhau, tay trong tay, mặt đối mặt, đang lúc ấy cánh tay của hai người chàng qua như một cây cầu (“le pont de nos bras”) và dưới cầu tay ấy là những thoáng nhìn thiên thu của đôi tình nhân không khác gì dòng nước mệt mỏi lướt chảy dưới cầu (“l’onde des étenrnels regards”).
Bài “Le Pont Mirabeau” chấm dứt thật tái tê thê lương:
Passent les jours et passent les semaines
Nile temps passé
Nil les amours riviennent
Sous le pont Mirabeau coule la Seine
Vienne la nuit sonne l’heure
Ngày đi, tháng đi, năm đi, những tuần lễ trôi đi, thời gian bên ngoài trôi xuôi đi mất, chỉ còn thời gian bên trong tâm tưởng là không đi và những mối tình cũng không trở lại (“Ni les amours reviennent”) và nước sông Seine vẫn “xuôi lạnh một dòng sầu” dưới cầu Mirabeau để cho “mấy mầu thời gian” trôi đi mất và chỉ còn lại thi nhân đứng nhìn con sông xa nguồn mà tê tái (“je demeure”)
Nước xuôi lạnh một dòng sầu
Biết về đâu hỡi mấy màu thời gian
(Hoài Khanh)
Sous le pont Mirabeau
Vienne la nuit sonne l’heure
Les jours s’en vont ….
(Apollinaire)
Con sông nào đã xa nguồn
Thì con sông ấy sẽ buồn với tôi
(Hoài Khanh)
Sous le pont Mirabeau coule la Seine…
Les jours s’en vont je demeure
(Apollinaire)
Màu thời gian không xanh
Màu thời gian tím ngát
Hương thời gian không nồng
Hương thời gian thanh thanh
(Đoàn Phú Tứ)
Màu thời gian không còn xanh nữa, màu thời gian đã tím ngát và chỉ còn Apollinaire đứng lại bên cầu Mirabeau bẽ bàng mơ màng ngửi lại “hương thời gian” như dịch mấy chữ “Odeur du temps” trong bài “Adieu” của Apollinaire (chắc Đoàn Phú Tứ không đọc Apollinaire và đây chỉ là trùng nhau thôi).
Bài “Le Pont Mirabeau” chấm dứt với hai chữ “je demeure” để lại những âm vang đồng vọng mãi suốt cả đời tôi:
Tiếng dội lưng mây đồng vọng mãi
Tình hoang mang gợi tứ hoang mang
(Quách Tấn)
Tiếng dội lưng mây ấy là tiếng “je demeure” của Apollinaire. Suốt đời tiếng “je demeure” vẫn quyện lấy lòng tôi như tảng mây trắng quyện lấy núi đồi.
…Je demeure
Phải chăng đối với:
….Je suis l’Autre
(Gérard De Nerval)
Hay là:
…Je est un autre
(Rimbaud)
Giao hòa cùng:
… Ta có là Ta chăng hề Ai chứ là Ngươi
(Vũ Hoàng Chương)
Ngoài hai bài tuyệt tác như “Zone” và “Le Pont Mirabeau”, tất cả những bài thơ khác trong tập Alcools đều tuyệt vời, bất cứ bài nào trong tập Alcools cũng đều đặc sắc. Tôi khó lòng quên những câu du dương lướt thướt như:
Voie lactée Ô soeur lumineuse
Des blancs ruisseaux de Chanaan
Et des corps blancs des amoureuses
Nageurs morts suivrons-nous d’ ahan
Ton cours vers d’ autres nébuleuses (…)
L’ amour est mort j’ en suis tremblant
J’ adore de belles idoles (…)
Juin ton soleil ardente lyre
Brule mes doigts endoloris
Trisle et mélodieux délire
J ‘erre à travers mon beau Paris
Sans avoir le coeur d ‘y mourir
Apollinaire suốt đời vẫn lang thang ở Paris, thành phố đẹp tuyệt trần của lòng chàng (“mon beau Paris”…); đời sống Paris vẫn gắn bó nồng nàn cùng bài hát thất tình của chàng thi nhân đau khổ ấy; oô những buổi chiều Paris… những chiều bàng bạc men nồng…
Soirs de Paris ivres de gin
Câu trên là câu thơ hay nhất của bài “La Chanson du Mal – Aimé.”
Men khói đêm nay sầu dựng mộ
Bia đề tháng sáu ghi mười hai
Tình ta ta tiếc cuồng ta khóc
Tố của Hoàng nay Tố của Ai
(Vũ Hoàng Chương)
Ôi, men khói đêm Paris…
Soirs de Paris ivres de gin
(Apollinaire)
Em ơi lửa tắt bình khô rượu
Đời vắng em rồi say với ai
(Vũ Hoàng Chương)
Ừ, chỉ say với những đêm Paris…
Soirs de Paris ivres de gin
(Apollinaire)
Apollinaire yêu một cô gái người Anh tại Đức. Chàng yêu say đắm; chàng yêu nàng ngây ngất khi nàng trở về Anh, chàng đã lững thững sang đến Luân Đôn để hỏi cưới nàng, chàng bị từ khước; thất vọng chàng làm bài “La Chanson du Mal – Aimé”; cùng với bài “Zone” và “Le Pont Mirabeau”, bài “La Chanson du Mal – Aimé” cũng trở thành bất hủ:
L’ amour est mort j’ en suis tremblant
Đời đã vắng em rồi…Đời vắng em rồi…L’ amour est mort… L’ amour est mort… từ đây anh bơ vơ lang thang khắp phố phường Paris, J ‘erre à travers mon beau Paris… lòng khô đắng, ôi tình anh đã chết, men khói đêm nay sầu dựng mộ…
Soirs de Paris ivres de gin
Anh đi trên những buổi chiều Paris, men khói cuồng say, ôi Tố của Hoàng hay Tố của Ai? Ôi, những buổi chiều Paris men khói cuồng say, đời vắng em rồi say với ai? Apollinaire lang thang đau đớn trên những buổi chiều Paris… Soirs de Paris… Apollinaire lắng nghe tiếng xe điện khua động điên cuồng trên đường phố (“Les tramways feux verts…”) những quán cà phê bồng khói (“Les cafés gonflés de funée ”); đời sống Paris quay cuồng và lòng thi nhân xót xa hướng vọng về người yêu. L’ amour est mort j’ en suis tremblant, Duyên trăm năm đã chết…
Duyên trăm năm đứt đoạn
Tình một thủa còn hương
Hương thời gian thanh thanh
Màu thời gian tím ngắt
(Đoàn Phú Tứ)
Hỡi ơi, tình một thủa còn hương, nhưng Hương đã chết rồi và suốt đời chàng lang thang đau khổ để lại “La Chanson du Mal – Aimé” giữa cuộc đời lạnh lẽo này. Chàng đi vào nghĩa địa hoang vu:
Dans ce cimetière presque dérzst…
(“La Maison des morts”)
Hoặc chàng đi tìm hương thơm của mấy dòng sông để cho đỡ nguôi sầu nhớ em Hương thủa ấy:
L’ odeur des fleuves dans leurs villes
(“Cortège”)
Hoặc chàng rưng rưng gõ cửa, nước mắt chàng ràn rụa, hỡi ôi, cuộc đời luân lưu bất định như dòng Euripe, chàng rưng rưng gõ cửa, nhưng cửa vẫn đóng kín, em nỡ lòng nào tàn nhẫn thế?
Ouvrez-moi cette porte où je frappe en pleurant
La vie est variable aussi bien que l ‘Euripe
(“La Voyageur”)
Hoặc những lần nhìn lá thu rơi lác đác chàng thấy hai bàn tay nàng thu thướt:
Et tes mains feuilles de l’automme
(“Marie”)
Hoặc chàng lững thững bên bờ sông Seine, tay cầm sách cũ, dòng sông giống như nỗi khổ đau đớn của chàng, sông vẫn chảy mãi và không bao giờ khô cạn, biết về đâu hỡi mấy mầu thời gian?
Je passais au bord de la Seine
Un livre ancien sous le bras
Le fleuve est pareil à ma peine
Il s’ écoule et ne tarit pas
Quand donc finira la semaine
(“Marie”)
Hoặc Nguyệt lên trời chàng đau thương nhìn thấy Thu đã chết, Hương thủa ấy không còn, giờ đây Thu cũng mất, Hương và Thu đã bỏ chàng bơ vơ:
L’ automne est morte souviens-t’ en
(“Adieu”)
Đã chết mùa thu em biết chưa
Anh không khóc nữa để mong chờ
Buồn không chở nổi bao niềm nhớ
Rưng rức đâu từ vạn cổ sơ
(Hoài Khanh)
Hoặc chàng buồn bã lắng nghe tiếng hát biến mất xa xôi, tê tái:
J’ entends mourir et remourir un chant lointain
(“La porte”)
Some song that I might hear little by little
Dying into the distance down a lane
(G. Leopardi)
Hoặc chàng say lúy túy để phá tan “vạn cổ sầu”, li rượu lung linh leo lét như một ngọn đèn óng ánh:
Mon verre est plein d’un vin trembleur comme une famme
(“Rhénanes”)
Chàng say; men lên chuếnh choáng; chàng “gắng say say để lên hề tận độ” và li rượu bể tan tành như một tiếng cười vang động thiên thu:
Mon verre s’est brisé comme un éclat de rire
(“Rhénanes”)
Hoặc bị giam hãm giữa đường đời, mọi lối thoát không còn, chàng khóc than những năm trời trôi mất và những người con gái quá xa xôi:
Ô mes année ô jeunes filles
(“A la Santé”)
Những hoàng hôn mưa ướt cuộc đời
Em cách xa rồi xa rồi em ơi!
(Hoàng Trúc Ly)
Chàng khóc những giờ phút trôi đi thê lương như đám ma:
Que lentement passent les heures
Comme passe un enterrement
(“A la Santé”)
Hoặc khi Thu trở về, chàng khóc như gió khóc, rừng khóc, tiếng Thu rơi xào xạc, chàng yêu Thu chàng yêu những tiếng mùa ào ạc, trái rơi, những giọt lệ thu rơi từng lá, tiếng chân ai khua động đạp trên những chiếc lá, tiếng tàu hoả buồn buồn và cuộc đời trôi chảy lênh láng:
Et que j’aime ô Sàigòn que j’aime tes rumeurs
Les fruits tombant sans qu’on les cueille
Le vent et la forêt qui pleurent
Toules tours larme en automme feuille à feuille
Les feuilles
Qu’on foule
Un train
Qui roule
La vie
S’ écoule
(“Automne malade”)
Ừ, em nghe chăng mùa thu? Con nai vàng ngơ ngác, đạp trên lá vàng khô thu…ôi tiếng thu!…
Les feuilles
Qu’on foule
Un train
Qui roule
La vie
S’ écoule
Một chiều trở về nhà, đi dọc theo bờ sông hoang tối, chàng lắng nghe tiếng hát trầm buồn văng vẳng đồng vọng:
Un soir passant le long des quais désertsy et sombres
En rentrant à Auteuil j’entendis une voix
Qui chantait gravement se taisant quelque fois
Pour que parvint aussi sur les bords de la Seine
La plainte d’autres voix limpides et lointaines
Chàng lắng nghe tiếng hát của Paris trỗi dậy trong đêm tối tưng bừng són nhạc:
Et j’ écoutais longtemps tous ces chants et ces cris
Qu’éveillait dans la nuit la chanson de Paris?
(“Vendémiaire”)
Máu giang hồ sống lại, chàng khát khao những thành phố Pháp, ở Âu châu và khắp ở hoàn cầu.
J’ai soif des villes du France, d’ Europe et du monde
Venez toutes couler dans ma gorge profonde
(“Vendémiaire”)
Chàng từng làm bao nhiêu chuyến đi ngoại quốc, bao nhiêu chuyến viễn trình, nhưng giờ đây chàng lại khao khát muốn lên đường nữa, chàng muốn đi vào biển cả mênh mông, để “chôn chuyện yêu đương vào quá khứ” như người thủy thủ cô đơn này:
Biển cả mênh mông với nhiều đảo hoang cô độc
Sóng bạc trùm lấy đầu anh, với những tảng mây trắng vướng trên đầu anh
Kết thành vòng hoa tang chôn chuyện yêu đương của Phương Anh ngày xưa vào quá khứ
(…)
Anh sẽ chôn em dưới lớp lá mùa thu, mỗi buổi chiều không tên để khuôn mặt đừng thiếu máu thời gian cho người đời rẻ rúng
Rồi người thủy thủ trẻ con trở về những bài thơ cuộc đời đầy bão loạn, đống dây thừng buộc chặt lấy đời anh
(…..)
Anh trở về hành lí ngày xưa chỉ còn dăm ba hàng mây trắng
(Định Giang)
Chàng khao khát những thành phố ở thế giới, vì thế chàng đã uống say mèm vì đã uống cả vũ trụ:
Je suis ivre d’ avoir bu tout l’ univers
(“Vendémiaire”)
Ừ, hãy say lên, say để chôn em dưới lớp lá mùa thu. Bài “Vendémiaire” là bài thơ cuối cùng trong tập Alcools của Apollinaire.
Tôi xếp tập Alcools lại và cả tâm hồn thể xác tôi say lúy túy, tôi bước chuếnh choáng hơi men, đã đưa cho tôi li rượu mạnh nồng cháy và tôi đã uống cuộc đời tôi như uống rượu mạnh:
Et tu bois cet alcool brûlant comme ta vie
Ta vie que tu bois comme une eau de vie.
Xếp tập Alcools lại, tôi say tận độ, tiềm thức bừng cháy, thời gian chới với, không lẫn lộn men lên ngào ngạt, tôi uống cạn Alcools, tôi đã uống cạn cuộc đời tôi.
O mes années ô jeunes filles…
Hỡi ôi, tôi đã chôn quá khứ dưới lớp lá chết mùa thu…
6. Tập Alcools là tập thơ tuyệt vời nhất của Apollinaire; tập Calligrammes mang nặng màu sắc “avant-gardiste”; những tập thơ khác của Apollinaire (như Poèmes à Lou, Le Guetteur mélancolique, II y a, Vitam Impendce Amori, v.v…) chứa đựng hương sắc trữ tình nồng nàn ân ái vô tận.
Tập thơ đầu tiên của Apollinaire là tập Le Bestiaire ou cortège d’ Orphée. Tập thơ này không lôi cuốn như tập Alcools, nhưng thỉnh thoảng tập Le Bestiaire cũng loé lên vài ánh ngọc lung linh như:
Belles journées, souris du temps
Vous rongez peu à peu ma vie
Phòng của tôi có vài ba con chuột: tối ngủ mấy con chuột ấy cứ gặm phá ồn ào, tôi bực mình lắm. Đọc hai câu trên của Apollinaire tôi toát mồ hôi, tôi không bao giờ nghĩ được hình ảnh lạ lùng như thế. Ôi chuột thời gian mi gặm nhấm ăn mòn cuộc đời của ta!...
Belles journées, souris du temps
Vous rongez peu à peu ma vie
Tập Alcools mở đầu với bài thơ “Zone”, một trong những bài thơ lạ lùng nhất của Apollinaire và của thi văn hiện đại ở thế giới:
A la fin tu es las de ce monde ancien
Bergère ô tour Eiffel le troupeau des pónt bêle ce matin.
Thế rồi sau cùng mi chán thế giới cũ kỹ này
Ô kẻ chăn cừu Hỡi tháp Eiffel đoàn cừu của nàng là những cây cầu kêu be be sáng nay
Chắc Apollinaire là một thiên thần mới có thị quan khơi vơi như trên? Phải chăng thiên thần Apollinaire bay liệng trên thành phố Paris và tưởng tháp Eiffel là một kẻ chăn cừu và những cây cầu rải rác là một đoàn cừu? Kẻ chăn cừu ấy là một nàng con gái:
Bergère ô tour Eiffel…
Thành phố Paris hiện ra huy hoàng, tôi bước đi lang thang vào một con đường xinh xinh mơ màng quên hết mọi sự:
J’ ai vu ce matin une jolie rue don’t j’ai oublié le nom
Neuve et propre du soleil elle était le clairon.
Sáng nay tôi thấy một con đường xinh đẹp mà tôi đã quên tên
Mới tinh và sạch sẽ như kèn lính của mặt trời
Thành phố huyên náo nhộn nhịp, ốc hụ, chuông gắt gỏng (“cloche rageuse”), những bảng hiệu, những tờ cáo thị, con đường kỹ nghệ yêu kiều (“la grace de cette rue industrielle”) tôi nhớ tuổi thơ ngoan đạo hồn nhiên trong trắng (“vous priez toute la nuit dans la chapelle du collège”), dĩ vãng xinh đẹp chim én bay đầy trời, nhưng hỡi ơi, hiện tại chỉ là nỗi cô đơn buồn sầu héo:
Maintenant tu marches dans Paris tout seul parmi la foule
Des troupeaux d’autobus mugissants près de toi roulent
L’angoisse de l’amour te serre le gosier
Bây giờ mi đi bách bộ ở Paris và cô đơn chiếc bóng giữa thiên hạ người đời
Những đàn cừu ô tô buýt kêu rống chạy gần mi
Nỗi đau đớn ray rứt của tình yêu bóp cổ họng mi.
Đi giữa thành phố Paris, bước lang thang vào con đường xinh xắn, Apollinaire bỗng dưng nhớ đến tuổi thơ của chàng, người thi sĩ ấy nhớ lại tuổi hoa niên ngây ngô trong trắng, chưa lấm bụi đời, cái tuổi đầy mơ mộng, cậu bé nhỏ mặc áo xanh trắng ấy đã đọc kinh ngoan đạo và mơ mộng hồn nhiên ngây thơ vô cùng; nhưng hỡi ơi dĩ vãng xanh mộng ấy đã qua rồi và hiện tại chỉ phũ phàng cay đắng, ngày xưa là xinh đẹp vô tư lự, nhưng bây giờ chàng đau khổ cô đơn, đang bước đi lang thang giữa đường phố đông người và đang đau đớn thất tình:
L’angoisse de l’amour te serre le gosier.
Đau khổ quá, chàng lẩm rẩm đọc kinh giữa đường phố, nhưng chàng giật mình hổ thẹn khi bắt chợt mình đang đọc kinh (bởi vì từ lâu, chàng đã mất đức tin và không còn ngoan đạo nữa, tuổi thơ sùng đạo mất rồi), chàng cười ra nước mắt:
Vous avez honte quand vous surprenez à dire une prière
Tu te moques de toi et comme le feu de l’ Enfer ton rire pétille
Les étincelles de ton rire dorent le fonds de ta vie
Anh hổ thẹn lúc anh bắt chợt anh đang đọc kinh
Mi chế nhạo mi và như lửa ở Hoả Ngục tiếng cười mi nổ lẹt đẹt.
Những đóm lửa của tiếng cười mi mạ vàng đáy sâu của cuộc đời mi
Cười chua chát, chàng tiếp tục bước đi lang thang giữa đường phố Paris:
Aujour d’hui tu marches dans Paris les femmes sont ensanglantées
Hôm nay mi đi bộ ở Paris những người đàn bà loang máu
Lòng chàng, tim chàng cùng loang máu, tình yêu ám ảnh chàng vô cùng mãnh liệt, tình yêu hành hạ chàng một cách tủi nhục (“l’amour dont je souffre est une maladie honteuse”), bước đi lang thang ở Paris, chàng nhớ đến những chuyến giang hồ, những chuyến viễn trình trong đời chàng những mẩu tình vụn vặt chàng đã gặp trên bước lang thang hải hồ, những chuyến đi ở Prague, ở Marseille, ở Coblence, ở Rome, Amsterdam…
Chàng làm những chuyến giang hồ vui và buồn, chàng đã thất tình lúc hai mươi tuổi và lúc ba mươi tuổi.
J’ai vécu comme un fou et j’ai perdu mon temps.
Tôi đã sống như một thằng điên và tôi đã đánh mất thời gian.
Chàng không dám nhìn hai bàn tay chàng (“tu n’oses plus regarder tes mains’) và chàng muốn khóc nức nở, khóc cho chàng, cho người chàng yêu, cho tất cả những khi bẽ bàng kinh hãi.
Chàng tiếp tục bước đi giữa thành phố Paris và đến một quán nước, chàng dừng chân lại:
Tu es debout devant le zine d’un bar crapuleux
Tu prends un café à deux sous parmi les malheureux
Tu es la nuit dans grand le restaurant.
Mi đứng trước quầy rượu bẩn thỉu dâm ô.
Mi uống cà phê rẻ tiền giữa những người đau khổ.
Ban đêm mi đang ở trong một nhà hàng sang trọng.
Đêm sắp tàn bình minh ló dạng:
Tu es seul le matin va venir,
Les laitiers font tinter leurs bidons dans les rues
Mi cô đơn và ngày sắp đến
Những người bán sữa khua động bình thiết trên những đường phố.
Những âm thanh của buổi sáng tinh mơ trỗi dậy: đường phố khua động du dương, chàng nâng ly lên uống rượu trước khi rời bỏ quầy hàng.
Et tu bois cet alcool brûlant comme ta vie
Ta vie que tu bois comme une eau-de-vie.
Và mi uống rượu nồng cháy như cuộc đời mi
Cuộc đời mi mà mi uống như rượu mạnh.
Chàng bước trở về nhà để ngủ một giấc miên man. Mặt trời lưng chừng thoáng hiện.
Adieu Adieu
Soleil cou coupé
Giã biệt giã biệt
Mặt trời cổ bị cắt
Bài thơ “Zone” chấm dứt như trên. Tôi muốn trích trọn bài “Zone” vào đây, nhưng bài thơ dài quá, dài đến sáu trang giấy. (Xin xem phần chú thích) [1]. Bài “Zone” là bài thơ tiêu biểu nhất của Apollinaire. Người ta than rằng bài “Zone” khó hiểu. Tôi đã đọc hết cả những tập thơ Apollinaire từ xưa, thế mà từ đó đến nay không có bài thơ nào ảnh hưởng tôi mãnh liệt như bài “Zone”, có những bài thơ mà hồi còn trẻ nhỏ ta rất say mê nhưng đến lúc lớn khôn ta không thích, nhưng ngược lại cũng có những bài thơ mà càng lớn tuổi ta càng say mê hơn nữa. “Zone” nằm trong trường hợp sau. Thực ra, bài “Zone” chẳng có gì khó hiểu. Có khó hiểu chăng là vì quá nhiều hình ảnh lạ lùng dồn dập hoà lẫn với nhau và biên giới thời gian không gian đã mờ nhạt đi, không còn thứ tự thường lệ nữa. Hầu hết thi ca hiện đại đều thế. Ta từng đọc những quyển tiểu thuyết khác thường của Faulkner và James Joyce, James Joyce và Faulkner đã sử dụng lối độc thoại nội tâm (monologue intérieur) trong tiểu thuyết. Apollinaire (và nhất là T. S. Eliot) đã xử dụng lối độc thoại nội tâm trong thơ. Bài “Zone” (hay bài “Cortège”) của Apollinaire chỉ là những bài độc thoại nội tâm thường khó hiểu đối với những người quen đọc lối văn cũ. Chủ đề bài “Zone” là gì? Theo tôi đó là một bài trầm buồn của một người thất tình Apollinaire là một nhà thơ của Tình yêu; những bài thơ tuyệt vời nhất của Apollinaire đều là những bài hát của kẻ thất tình. Bài “Zone” đưa ta vào những đường phố Paris; Apollinaire buồn chán đi lang thang trên những đường phố Paris từ sáng đến chiều tối, rồi đến khuya sáng hôm sau mới trở về nhà mà ngủ. Đang lúc Apollinaire lững thững bước đi, những hình ảnh tưng bừng của Paris và ngày xưa trở về xuất hiện lộn xộn trong tâm tưởng chàng, chàng thấy lại lúc bé thơ ngây thơ hồn nhiên, chàng thấy lại những lúc bé thơ ngây ngô hồn nhiên, chàng thấy lại những lần lang bạt kỳ hồ ở bờ Địa trung hải, ở Prague, ở Marseille, ở Coblence, Rome, Amsterdam; đang lúc chàng đi lang thang ở Paris, những hình ảnh ấy sống lại trong tâm tưởng chàng; mỗi bước chân chàng gợi lại những quãng đời chàng, những hình ảnh hiện tại và quá khứ xuất hiện lẫn lộn trong tâm tưởng của một chàng thi sĩ thất tình đau khổ; đêm tàn buổi sáng trở về; trước khi về nhà ngủ, chàng uống một ly rượu mạnh như uống cuộc đời chàng:
Et tu bois cet alcool brûlant comme ta vie.
Ta vie que tu bois comme une eau - de - vie.
Hai câu thơ trên là hai câu thơ hay nhất của bài “Zone”; Apollinaire đã lấy chữ Alcool trong hai câu thơ ấy để đặt nhan đề tập thơ Alcools. Khi viết bài “Zone”, Apollinaire muốn nói gì?
Đi trên thành phố phai nhầu
Bước chân xiêu vẹo nghe sầu vọng âm
Lời em trên mắt âm thầm
Khua chân phố nhỏ giọt đầm đìa tuôn
(Hoài Khanh)
Có thể lấy mấy câu thơ trên để làm chủ đề cho bài “Zone” là một buổi lang thang xiêu vẹo “nghe sầu vọng âm” trên thành phố phai nhầu Paris.
Tôi không hiểu tại sao tôi lại thích mê đi lang thang trên những đường phố, bất cứ một đường phố nào. Chỉ bước đi lang thang và ngó nhìn bâng quơ, chỉ bấy nhiêu thôi là đủ hạnh phúc lắm rồi.
Nhứt là đi lang thang từ tối khuya đến sáng tinh mơ. Tôi nghĩ rằng bất cứ kẻ nào đã từng lang như chó hoang, khi đọc bài “Zone”, sẽ càng thấm thía vô cùng. Nếu có đọc “Zone”, chắc Sherwood Anderson thích thú lắm. (Sherwood Anderson là kẻ lang thang bâng quơ nhất trên những đường phố Mỹ quốc).
Apollinaire đi lang thang ở nhiều nước ngay từ lúc còn trẻ. Blaise Cendrars cũng thế. Valéry Larbaud cũng thế. Hơi thở của “Zone” nhắc ta nhớ đến “Prose du Transbérien” hoặc “Pâques à New York” của Blaise Cendrars.
“Zone” mạnh và dồn dập thôi thúc hơn bài “Le Pont Mirabeau”. Dở tập Alcools, ta thấy sau bài “Zone” là bài “Le Pont Mirabeau”; cả hai bài đều bất hủ; nhưng cái style nouveau được thể hiện rõ ràng mãnh liệt trong “Zone” hơn là trong “Le Pont Mirabeau”.
Bài “Le Pont Mirabeau” nằm trong truyền thống thi ca trữ tình Pháp:
Sous le pont Mirabeau coule la Seine
Dưới cầu Mirabeau sông Seine chảy.
Apollinaire đứng nhìn sông Seine trôi chảy và thi nhân đau đớn khắc khoải sống lại dĩ vãng và những mối tình xưa:
Sous le pont Mirabeau coule la Seine
Et nos amours
Faut – il qu’il m’en souvienne
Tôi nhớ đến mấy câu thơ của Hoàng Trúc Ly; Hoàng Trúc Ly sống lại dĩ vãng và những mối tình xưa:
Tôi đứng bên bờ dĩ vãng
Thương về con nước ngại ngùng xuôi
Những người con gái bên kia ấy
Ai biết chiều nay có nhớ tôi
Tôi muốn hôn bằng môi của em
Mùa mưa thao thiết nắng hoe thềm.
(Hoàng Trúc Ly)
Hoàng Trúc Ly “Thương về con nước ngại ngùng xuôi” mang theo mất những mối tình của thi nhân cũng như Apollinaire thổn thức “Tình yêu trôi đi như dòng nước chảy”:
L’amour s’en va comme cette courante
L’amour s’en va
Comme la vie est lente
Et comme l’Espérance est violente
Vienne la nuit sonne l’heure
Les jours s’en vont je demeure
Tình yêu trôi đi như dòng nước chảy. Tình yêu trôi đi, cuộc đời chậm chạp, hoài vọng mãnh liệt. Đêm đến, giờ điểm, thời gian trôi chảy, chỉ còn thi nhân ở lại bên cầu thương dĩ vãng. Chẳng biết có chịu ảnh hưởng Apollinaire hay không mà Hoài Khanh cũng có những lời thơ tuyệt tác có thể khiến ta nhớ đến những câu thơ của Apollinaire.
Rồi em lại ra đi như đã đến
Dòng sông kia cứ vẫn chảy xa mù
Ta ngồi lại bên cầu thương dĩ vãng
Nghe giữa hồn cây cỏ mọc hoang vu.
(Hoài Khanh)
Mỗi nhà thơ mang một giọng điệu riêng, nhưng ta có thể lấy câu “ta ngồi lại bên cầu thương dĩ vãng” để giải thích câu “je demeure” của Apollinaire trở nên bất hủ; ý nghĩa cô đọng súc tích mông lung vô cùng, ta muốn hiểu thế nào cũng được. Thời gian trôi đi mất, chỉ còn nỗi khổ triền miên ở lại cùng tôi! Đoạn thơ hay nhất trong bài “Le Pont Mirabeau” là đoạn này:
Les mains dans les mains restons face à face
Tandis que sous
Le pont de nos bras passe
Des éternels regards l’onde si lasse
Vienne la nuit sonne l’heure
Les jours s’en vont je demeure
Tay trong tay mặt hãy nhìn mặt
Đang lúc dưới
Cầu của những cánh tay đôi ta lướt dòng nước mệt mỏi của những thoáng nhìn thiên thu
Hãy để đêm về giờ điểm
Ngày trôi tôi vẫn còn đây.
Thi nhân nhớ lại ngày xưa cũng tại nơi đây, thi nhân cùng người yêu âu yếm nhìn nhau, tay trong tay, mặt đối mặt, đang lúc ấy cánh tay của hai người chàng qua như một cây cầu (“le pont de nos bras”) và dưới cầu tay ấy là những thoáng nhìn thiên thu của đôi tình nhân không khác gì dòng nước mệt mỏi lướt chảy dưới cầu (“l’onde des étenrnels regards”).
Bài “Le Pont Mirabeau” chấm dứt thật tái tê thê lương:
Passent les jours et passent les semaines
Nile temps passé
Nil les amours riviennent
Sous le pont Mirabeau coule la Seine
Vienne la nuit sonne l’heure
Ngày đi, tháng đi, năm đi, những tuần lễ trôi đi, thời gian bên ngoài trôi xuôi đi mất, chỉ còn thời gian bên trong tâm tưởng là không đi và những mối tình cũng không trở lại (“Ni les amours reviennent”) và nước sông Seine vẫn “xuôi lạnh một dòng sầu” dưới cầu Mirabeau để cho “mấy mầu thời gian” trôi đi mất và chỉ còn lại thi nhân đứng nhìn con sông xa nguồn mà tê tái (“je demeure”)
Nước xuôi lạnh một dòng sầu
Biết về đâu hỡi mấy màu thời gian
(Hoài Khanh)
Sous le pont Mirabeau
Vienne la nuit sonne l’heure
Les jours s’en vont ….
(Apollinaire)
Con sông nào đã xa nguồn
Thì con sông ấy sẽ buồn với tôi
(Hoài Khanh)
Sous le pont Mirabeau coule la Seine…
Les jours s’en vont je demeure
(Apollinaire)
Màu thời gian không xanh
Màu thời gian tím ngát
Hương thời gian không nồng
Hương thời gian thanh thanh
(Đoàn Phú Tứ)
Màu thời gian không còn xanh nữa, màu thời gian đã tím ngát và chỉ còn Apollinaire đứng lại bên cầu Mirabeau bẽ bàng mơ màng ngửi lại “hương thời gian” như dịch mấy chữ “Odeur du temps” trong bài “Adieu” của Apollinaire (chắc Đoàn Phú Tứ không đọc Apollinaire và đây chỉ là trùng nhau thôi).
Bài “Le Pont Mirabeau” chấm dứt với hai chữ “je demeure” để lại những âm vang đồng vọng mãi suốt cả đời tôi:
Tiếng dội lưng mây đồng vọng mãi
Tình hoang mang gợi tứ hoang mang
(Quách Tấn)
Tiếng dội lưng mây ấy là tiếng “je demeure” của Apollinaire. Suốt đời tiếng “je demeure” vẫn quyện lấy lòng tôi như tảng mây trắng quyện lấy núi đồi.
…Je demeure
Phải chăng đối với:
….Je suis l’Autre
(Gérard De Nerval)
Hay là:
…Je est un autre
(Rimbaud)
Giao hòa cùng:
… Ta có là Ta chăng hề Ai chứ là Ngươi
(Vũ Hoàng Chương)
Ngoài hai bài tuyệt tác như “Zone” và “Le Pont Mirabeau”, tất cả những bài thơ khác trong tập Alcools đều tuyệt vời, bất cứ bài nào trong tập Alcools cũng đều đặc sắc. Tôi khó lòng quên những câu du dương lướt thướt như:
Voie lactée Ô soeur lumineuse
Des blancs ruisseaux de Chanaan
Et des corps blancs des amoureuses
Nageurs morts suivrons-nous d’ ahan
Ton cours vers d’ autres nébuleuses (…)
L’ amour est mort j’ en suis tremblant
J’ adore de belles idoles (…)
Juin ton soleil ardente lyre
Brule mes doigts endoloris
Trisle et mélodieux délire
J ‘erre à travers mon beau Paris
Sans avoir le coeur d ‘y mourir
Apollinaire suốt đời vẫn lang thang ở Paris, thành phố đẹp tuyệt trần của lòng chàng (“mon beau Paris”…); đời sống Paris vẫn gắn bó nồng nàn cùng bài hát thất tình của chàng thi nhân đau khổ ấy; oô những buổi chiều Paris… những chiều bàng bạc men nồng…
Soirs de Paris ivres de gin
Câu trên là câu thơ hay nhất của bài “La Chanson du Mal – Aimé.”
Men khói đêm nay sầu dựng mộ
Bia đề tháng sáu ghi mười hai
Tình ta ta tiếc cuồng ta khóc
Tố của Hoàng nay Tố của Ai
(Vũ Hoàng Chương)
Ôi, men khói đêm Paris…
Soirs de Paris ivres de gin
(Apollinaire)
Em ơi lửa tắt bình khô rượu
Đời vắng em rồi say với ai
(Vũ Hoàng Chương)
Ừ, chỉ say với những đêm Paris…
Soirs de Paris ivres de gin
(Apollinaire)
Apollinaire yêu một cô gái người Anh tại Đức. Chàng yêu say đắm; chàng yêu nàng ngây ngất khi nàng trở về Anh, chàng đã lững thững sang đến Luân Đôn để hỏi cưới nàng, chàng bị từ khước; thất vọng chàng làm bài “La Chanson du Mal – Aimé”; cùng với bài “Zone” và “Le Pont Mirabeau”, bài “La Chanson du Mal – Aimé” cũng trở thành bất hủ:
L’ amour est mort j’ en suis tremblant
Đời đã vắng em rồi…Đời vắng em rồi…L’ amour est mort… L’ amour est mort… từ đây anh bơ vơ lang thang khắp phố phường Paris, J ‘erre à travers mon beau Paris… lòng khô đắng, ôi tình anh đã chết, men khói đêm nay sầu dựng mộ…
Soirs de Paris ivres de gin
Anh đi trên những buổi chiều Paris, men khói cuồng say, ôi Tố của Hoàng hay Tố của Ai? Ôi, những buổi chiều Paris men khói cuồng say, đời vắng em rồi say với ai? Apollinaire lang thang đau đớn trên những buổi chiều Paris… Soirs de Paris… Apollinaire lắng nghe tiếng xe điện khua động điên cuồng trên đường phố (“Les tramways feux verts…”) những quán cà phê bồng khói (“Les cafés gonflés de funée ”); đời sống Paris quay cuồng và lòng thi nhân xót xa hướng vọng về người yêu. L’ amour est mort j’ en suis tremblant, Duyên trăm năm đã chết…
Duyên trăm năm đứt đoạn
Tình một thủa còn hương
Hương thời gian thanh thanh
Màu thời gian tím ngắt
(Đoàn Phú Tứ)
Hỡi ơi, tình một thủa còn hương, nhưng Hương đã chết rồi và suốt đời chàng lang thang đau khổ để lại “La Chanson du Mal – Aimé” giữa cuộc đời lạnh lẽo này. Chàng đi vào nghĩa địa hoang vu:
Dans ce cimetière presque dérzst…
(“La Maison des morts”)
Hoặc chàng đi tìm hương thơm của mấy dòng sông để cho đỡ nguôi sầu nhớ em Hương thủa ấy:
L’ odeur des fleuves dans leurs villes
(“Cortège”)
Hoặc chàng rưng rưng gõ cửa, nước mắt chàng ràn rụa, hỡi ôi, cuộc đời luân lưu bất định như dòng Euripe, chàng rưng rưng gõ cửa, nhưng cửa vẫn đóng kín, em nỡ lòng nào tàn nhẫn thế?
Ouvrez-moi cette porte où je frappe en pleurant
La vie est variable aussi bien que l ‘Euripe
(“La Voyageur”)
Hoặc những lần nhìn lá thu rơi lác đác chàng thấy hai bàn tay nàng thu thướt:
Et tes mains feuilles de l’automme
(“Marie”)
Hoặc chàng lững thững bên bờ sông Seine, tay cầm sách cũ, dòng sông giống như nỗi khổ đau đớn của chàng, sông vẫn chảy mãi và không bao giờ khô cạn, biết về đâu hỡi mấy mầu thời gian?
Je passais au bord de la Seine
Un livre ancien sous le bras
Le fleuve est pareil à ma peine
Il s’ écoule et ne tarit pas
Quand donc finira la semaine
(“Marie”)
Hoặc Nguyệt lên trời chàng đau thương nhìn thấy Thu đã chết, Hương thủa ấy không còn, giờ đây Thu cũng mất, Hương và Thu đã bỏ chàng bơ vơ:
L’ automne est morte souviens-t’ en
(“Adieu”)
Đã chết mùa thu em biết chưa
Anh không khóc nữa để mong chờ
Buồn không chở nổi bao niềm nhớ
Rưng rức đâu từ vạn cổ sơ
(Hoài Khanh)
Hoặc chàng buồn bã lắng nghe tiếng hát biến mất xa xôi, tê tái:
J’ entends mourir et remourir un chant lointain
(“La porte”)
Some song that I might hear little by little
Dying into the distance down a lane
(G. Leopardi)
Hoặc chàng say lúy túy để phá tan “vạn cổ sầu”, li rượu lung linh leo lét như một ngọn đèn óng ánh:
Mon verre est plein d’un vin trembleur comme une famme
(“Rhénanes”)
Chàng say; men lên chuếnh choáng; chàng “gắng say say để lên hề tận độ” và li rượu bể tan tành như một tiếng cười vang động thiên thu:
Mon verre s’est brisé comme un éclat de rire
(“Rhénanes”)
Hoặc bị giam hãm giữa đường đời, mọi lối thoát không còn, chàng khóc than những năm trời trôi mất và những người con gái quá xa xôi:
Ô mes année ô jeunes filles
(“A la Santé”)
Những hoàng hôn mưa ướt cuộc đời
Em cách xa rồi xa rồi em ơi!
(Hoàng Trúc Ly)
Chàng khóc những giờ phút trôi đi thê lương như đám ma:
Que lentement passent les heures
Comme passe un enterrement
(“A la Santé”)
Hoặc khi Thu trở về, chàng khóc như gió khóc, rừng khóc, tiếng Thu rơi xào xạc, chàng yêu Thu chàng yêu những tiếng mùa ào ạc, trái rơi, những giọt lệ thu rơi từng lá, tiếng chân ai khua động đạp trên những chiếc lá, tiếng tàu hoả buồn buồn và cuộc đời trôi chảy lênh láng:
Et que j’aime ô Sàigòn que j’aime tes rumeurs
Les fruits tombant sans qu’on les cueille
Le vent et la forêt qui pleurent
Toules tours larme en automme feuille à feuille
Les feuilles
Qu’on foule
Un train
Qui roule
La vie
S’ écoule
(“Automne malade”)
Ừ, em nghe chăng mùa thu? Con nai vàng ngơ ngác, đạp trên lá vàng khô thu…ôi tiếng thu!…
Les feuilles
Qu’on foule
Un train
Qui roule
La vie
S’ écoule
Một chiều trở về nhà, đi dọc theo bờ sông hoang tối, chàng lắng nghe tiếng hát trầm buồn văng vẳng đồng vọng:
Un soir passant le long des quais désertsy et sombres
En rentrant à Auteuil j’entendis une voix
Qui chantait gravement se taisant quelque fois
Pour que parvint aussi sur les bords de la Seine
La plainte d’autres voix limpides et lointaines
Chàng lắng nghe tiếng hát của Paris trỗi dậy trong đêm tối tưng bừng són nhạc:
Et j’ écoutais longtemps tous ces chants et ces cris
Qu’éveillait dans la nuit la chanson de Paris?
(“Vendémiaire”)
Máu giang hồ sống lại, chàng khát khao những thành phố Pháp, ở Âu châu và khắp ở hoàn cầu.
J’ai soif des villes du France, d’ Europe et du monde
Venez toutes couler dans ma gorge profonde
(“Vendémiaire”)
Chàng từng làm bao nhiêu chuyến đi ngoại quốc, bao nhiêu chuyến viễn trình, nhưng giờ đây chàng lại khao khát muốn lên đường nữa, chàng muốn đi vào biển cả mênh mông, để “chôn chuyện yêu đương vào quá khứ” như người thủy thủ cô đơn này:
Biển cả mênh mông với nhiều đảo hoang cô độc
Sóng bạc trùm lấy đầu anh, với những tảng mây trắng vướng trên đầu anh
Kết thành vòng hoa tang chôn chuyện yêu đương của Phương Anh ngày xưa vào quá khứ
(…)
Anh sẽ chôn em dưới lớp lá mùa thu, mỗi buổi chiều không tên để khuôn mặt đừng thiếu máu thời gian cho người đời rẻ rúng
Rồi người thủy thủ trẻ con trở về những bài thơ cuộc đời đầy bão loạn, đống dây thừng buộc chặt lấy đời anh
(…..)
Anh trở về hành lí ngày xưa chỉ còn dăm ba hàng mây trắng
(Định Giang)
Chàng khao khát những thành phố ở thế giới, vì thế chàng đã uống say mèm vì đã uống cả vũ trụ:
Je suis ivre d’ avoir bu tout l’ univers
(“Vendémiaire”)
Ừ, hãy say lên, say để chôn em dưới lớp lá mùa thu. Bài “Vendémiaire” là bài thơ cuối cùng trong tập Alcools của Apollinaire.
Tôi xếp tập Alcools lại và cả tâm hồn thể xác tôi say lúy túy, tôi bước chuếnh choáng hơi men, đã đưa cho tôi li rượu mạnh nồng cháy và tôi đã uống cuộc đời tôi như uống rượu mạnh:
Et tu bois cet alcool brûlant comme ta vie
Ta vie que tu bois comme une eau de vie.
Xếp tập Alcools lại, tôi say tận độ, tiềm thức bừng cháy, thời gian chới với, không lẫn lộn men lên ngào ngạt, tôi uống cạn Alcools, tôi đã uống cạn cuộc đời tôi.
O mes années ô jeunes filles…
Hỡi ôi, tôi đã chôn quá khứ dưới lớp lá chết mùa thu…
[1] Ý thức siêu thực bàng bạc mênh mông trong thi phẩm của Apollinaire; sau đây, tôi xin dịch những bài thơ hay nhất của thi nhân. (Do phần chú thích này của tác giả quá dài nên chúng tôi chuyển thành phần phụ lục cuối bài viết - talawas)
(Tiếp chương bảy)
7. Tôi chỉ định viết về Apollinaire trong vòng vài ba trang sơ lược thôi, nhưng không hiểu vì lẽ gì tôi miên man viết mãi mà vẫn thấy chưa xong và muốn viết dài thêm nữa. Nhưng thôi. Bấy nhiêu cũng tạm gọi là đủ. Trước khi đặt bút viết, tôi đã đề nhan đề bài này là “Apollinaire, người khai sinh nguồn thơ hiện đại”. Nhưng khi bắt đầu viết xong chừng vài chục trang tôi chỉ mới nói sơ sơ đến tâm tình của thi nhân thôi; tôi tham quá; tôi đã định viết về mọi khía cạnh của Apollinaire nhưng rồi tôi mới thấy rằng không thể tham lam được và chỉ nên giới hạn việc làm, vì thế tôi đổi nhan đề lại là “Tình yêu trong thơ Apollinaire”.
Mấy tuần nay tôi đã hạnh phúc (tôi nghĩ rằng tôi đã hạnh phúc) vì mấy tuần nay tôi chỉ đọc và viết về Apollinaire; trước kia khi còn trẻ, tôi thường say mê Apollinaire, nhưng mấy năm gần đây, tôi đã bỏ quên Apollinaire. Cuộc đời đã ném liệng tôi bồng bềnh đây đó. Cuộc đời đã giết hết tất cả tình cảm trong lòng tôi, khiến tôi bơ phờ, lạnh lùng đi đứng lê thê như một thằng điên hoặc lang thang tê dại giữa phố phường xa lạ như một con chó ốm. Tôi không còn lắng nghe tiếng chim. Thỉnh thoảng lâu lâu tình cờ ngước nhìn lên bỗng gặp mây trắng trên trời lúc bấy giờ tôi mới sực ý thức rằng tôi đã chết giữa cuộc sống; ngày xưa khi còn trẻ, tôi thường ngắm nhìn mây trắng chơi vơi, say mê đọc thơ, ca hát vang cả nhà và thường hay mộng mơ ngớ ngẩn, nhưng ngày nay tất cả các thứ ấy đã hết rồi và khi những thứ ấy không còn nữa thì tâm hồn tôi đã chết lịm giữa đường đời ngày nay, tôi chỉ là một con người tồi tàn bệ rạc yếu đuối, hết tin tưởng, hết lý tưởng, hết hiên ngang kiêu hãnh; ngày nay tôi trở thành một kẻ dè dặt và lo sợ đủ mọi sự, lại hay hoài nghi và bạc nhược. Tuổi thơ hùng mạnh phách lối ngang ngược đã chết. Tôi mang thể xác tinh thần của người lớn tuổi và thường sống giả dối. (Giả dối là đặc điểm của tất cả những người lớn tuổi) Ngày xưa tôi thường khinh chê những kẻ bạc nhược, những kẻ sống lay lắt bệ rạc; nhưng ngày nay chính tôi lại là kẻ ấy.
Thế rồi những ngày gần đây, bỗng nhiên tôi gặp lại Apollinaire, tôi gặp lại Apollinaire như gặp lại một người bạn cũ của đời tôi. Những dòng thơ Apollinaire đã trả tâm hồn xưa lại cho tôi.
Tôi vui sướng. Tôi cảm thấy yêu đời. Apollinaire đã đem cả một mùa hoa xanh mộng về trả lại tôi.
Tôi sống lại. Cả vũ trụ sống lại; Tôi bắt đầu ca hát lại. Tôi bắt đầu tìm thơ đọc lại. Bất cứ bài thơ của thi sĩ nào cũng rung cảm tôi và nhất là tôi bắt đầu mộng mơ ngớ ngẩn lại như thuở “ban đầu lưu luyến ấy”. Mơ mộng hình ảnh nào cũng được, ở bên Tây hay bên ta. Không cần nghĩ ngợi có thực hiện được hay không, chỉ mơ mộng thôi, chỉ có thế thôi là đủ hạnh phúc rồi. Vì đối với tôi, Mộng và Thực không còn khác nhau nữa. Mộng chính là Thực. Khi Mộng và Thực không còn khác nhau nữa thì đó chính là Siêu thực. Với trí tưởng tượng phong phú của tôi, tôi sẽ thu gọn cả vũ trụ vào gian phòng tôi, tôi sẽ hái tất cả hoa thơm trái ngọt của thiên đàng trong lòng bàn tay, tôi sẽ lang thang ca hát trên những nẻo đường thế giới, tôi sẽ tươi cười nồng nàn với những Lou, những Laura, những Marie… Tôi sẽ nhắm mắt lại và mở đôi môi ra uống tất cả những giọt nước cam tuyền của trần gian.
Vâng, tôi sẽ tha hồ mơ mộng, tôi sẽ tha hồ tưởng tượng. Và khi tỉnh mộng, tôi sẽ cười vui sướng. Ôi vĩnh biệt hoa niên!… Giã biệt Thanh Xuân, hỡi hoa Thơm của thời gian, tôi đã thở hương nồng của em.
Jeunesse adieu jasmin du temps
J’ai respiré ton frais parfum
Hôm nay, tôi đã sống trọn vẹn.
Và xin cảm ơn linh hồn Apollinaire.
7. Tôi chỉ định viết về Apollinaire trong vòng vài ba trang sơ lược thôi, nhưng không hiểu vì lẽ gì tôi miên man viết mãi mà vẫn thấy chưa xong và muốn viết dài thêm nữa. Nhưng thôi. Bấy nhiêu cũng tạm gọi là đủ. Trước khi đặt bút viết, tôi đã đề nhan đề bài này là “Apollinaire, người khai sinh nguồn thơ hiện đại”. Nhưng khi bắt đầu viết xong chừng vài chục trang tôi chỉ mới nói sơ sơ đến tâm tình của thi nhân thôi; tôi tham quá; tôi đã định viết về mọi khía cạnh của Apollinaire nhưng rồi tôi mới thấy rằng không thể tham lam được và chỉ nên giới hạn việc làm, vì thế tôi đổi nhan đề lại là “Tình yêu trong thơ Apollinaire”.
Mấy tuần nay tôi đã hạnh phúc (tôi nghĩ rằng tôi đã hạnh phúc) vì mấy tuần nay tôi chỉ đọc và viết về Apollinaire; trước kia khi còn trẻ, tôi thường say mê Apollinaire, nhưng mấy năm gần đây, tôi đã bỏ quên Apollinaire. Cuộc đời đã ném liệng tôi bồng bềnh đây đó. Cuộc đời đã giết hết tất cả tình cảm trong lòng tôi, khiến tôi bơ phờ, lạnh lùng đi đứng lê thê như một thằng điên hoặc lang thang tê dại giữa phố phường xa lạ như một con chó ốm. Tôi không còn lắng nghe tiếng chim. Thỉnh thoảng lâu lâu tình cờ ngước nhìn lên bỗng gặp mây trắng trên trời lúc bấy giờ tôi mới sực ý thức rằng tôi đã chết giữa cuộc sống; ngày xưa khi còn trẻ, tôi thường ngắm nhìn mây trắng chơi vơi, say mê đọc thơ, ca hát vang cả nhà và thường hay mộng mơ ngớ ngẩn, nhưng ngày nay tất cả các thứ ấy đã hết rồi và khi những thứ ấy không còn nữa thì tâm hồn tôi đã chết lịm giữa đường đời ngày nay, tôi chỉ là một con người tồi tàn bệ rạc yếu đuối, hết tin tưởng, hết lý tưởng, hết hiên ngang kiêu hãnh; ngày nay tôi trở thành một kẻ dè dặt và lo sợ đủ mọi sự, lại hay hoài nghi và bạc nhược. Tuổi thơ hùng mạnh phách lối ngang ngược đã chết. Tôi mang thể xác tinh thần của người lớn tuổi và thường sống giả dối. (Giả dối là đặc điểm của tất cả những người lớn tuổi) Ngày xưa tôi thường khinh chê những kẻ bạc nhược, những kẻ sống lay lắt bệ rạc; nhưng ngày nay chính tôi lại là kẻ ấy.
Thế rồi những ngày gần đây, bỗng nhiên tôi gặp lại Apollinaire, tôi gặp lại Apollinaire như gặp lại một người bạn cũ của đời tôi. Những dòng thơ Apollinaire đã trả tâm hồn xưa lại cho tôi.
Tôi vui sướng. Tôi cảm thấy yêu đời. Apollinaire đã đem cả một mùa hoa xanh mộng về trả lại tôi.
Tôi sống lại. Cả vũ trụ sống lại; Tôi bắt đầu ca hát lại. Tôi bắt đầu tìm thơ đọc lại. Bất cứ bài thơ của thi sĩ nào cũng rung cảm tôi và nhất là tôi bắt đầu mộng mơ ngớ ngẩn lại như thuở “ban đầu lưu luyến ấy”. Mơ mộng hình ảnh nào cũng được, ở bên Tây hay bên ta. Không cần nghĩ ngợi có thực hiện được hay không, chỉ mơ mộng thôi, chỉ có thế thôi là đủ hạnh phúc rồi. Vì đối với tôi, Mộng và Thực không còn khác nhau nữa. Mộng chính là Thực. Khi Mộng và Thực không còn khác nhau nữa thì đó chính là Siêu thực. Với trí tưởng tượng phong phú của tôi, tôi sẽ thu gọn cả vũ trụ vào gian phòng tôi, tôi sẽ hái tất cả hoa thơm trái ngọt của thiên đàng trong lòng bàn tay, tôi sẽ lang thang ca hát trên những nẻo đường thế giới, tôi sẽ tươi cười nồng nàn với những Lou, những Laura, những Marie… Tôi sẽ nhắm mắt lại và mở đôi môi ra uống tất cả những giọt nước cam tuyền của trần gian.
Vâng, tôi sẽ tha hồ mơ mộng, tôi sẽ tha hồ tưởng tượng. Và khi tỉnh mộng, tôi sẽ cười vui sướng. Ôi vĩnh biệt hoa niên!… Giã biệt Thanh Xuân, hỡi hoa Thơm của thời gian, tôi đã thở hương nồng của em.
Jeunesse adieu jasmin du temps
J’ai respiré ton frais parfum
Hôm nay, tôi đã sống trọn vẹn.
Và xin cảm ơn linh hồn Apollinaire.
Phụ lục:
1. LA JOLIE ROUSSE
Me voci devant tous un homme plein de sens
Connaissant la vie et de la mort ce qu‘un vivant peut connaitre
Ayant éprouvé les douleurs et les joies de l’amour
Ayant su quelquefois imposer ses idées
Connaissant plusieurs langages
Ayant pas mal voygagé
Ayant vu la guerre dans l’ Artillerrie et l’ Infanterie
Blessé à la tête trépané sous le chloroforme
Ayant perdu ses meilleurs amis dans l’effroyable lutte
Je sais d’ ancien et de nouveau autant qu’un homme seul pourrait des deux savoir
Et sans m’inquieter aujourd hui de cette guerre
Entre nous et pour nous mes amis
Je juge cette longue querelle de la tradition et de l’ invention
De l’ Ordre de l’ Aventure
Vous dont la bouche est faite à l’ image decelle de Dieu
Bouche qui est l’ Ordre même
Soyes indulgents quand vous nous comparez
A ceux qui furent la perfection de l’ ordre
Nous qui quêtons partout l’ aventure
Nous ne sommes pas vos ennemis
Nous voulons vous donner de vastes et d’ étranges domaines
Ou le mystère en fleurs s’ offre à qui veut le cueillir
Il y a là des feux nouveaux des couleurs jamais vues
Mille phantasmes impondérables
Auxquels il faut donner de la réalité
Nous voulons explorer la bonté contrée énorme où tout se tait
Il y a aussi le temps qu’on peut chasser ou faire revenir
Pitié pour nous qui combattons toujours aux frontières
De l’illimité de l’avenir
Pitié pour nos erreurs pitié pour nos péchés
Voici que vient l’été la saison violente
Et ma jeunesse est morte ainsi que le printemps
O Soleil c’est le temps de ta Raison ardente
Et j’attends
Pour la suivre toujours la forme noble et douce
Qu’elle prend afin que je l’ aime seulement
Elle vient et m’attire ainsi qu’un fer l’aimant
Elle a l’ aspect charmant
D’ une adorable rousse
Ses cheveux sont d’ or on dirait
Un bel éclair qui durerait
Ou cer flammes qui se pavanent
Dans les roses thé-qui se fanent
Mais riez riez de moi
Hommes de partout surtout gens d’ ici
Car il y a tant de choses que je n’ ose vous dire
Tant de choses que vous ne me laisseriez pas dire
Ayez pitié de moi.
(Calligrammes, 1918)
Tạm dịch:
Đứng trước tất cả các anh đây, tôi là một con người đủ đầy lương tri
Hiểu biết cuộc đời và hiểu biết về sự chết như tầm kiến thức thông thường của thiên hạ
Đã trải qua những nỗi đau khổ và những niềm vui của tình yêu
Thỉnh thoảng cũng biết bắt buộc người ta phải theo những ý tưởng của mình
Thông hiểu nhiều ngôn ngữ
đã du lịch khá nhiều
Đã chứng kiến chiến tranh trong Pháo binh và Bộ binh
Bị thương nơi đầu, bị mổ xương bằng thuốc mê chroloforme
Đã mất những bạn bè thân yêu nhất của mình trong trận chiến hãi hùng
Tôi từng biết về chuyện cổ và kim cũng nhiều như bất cứ một người đơn độc nào đó có thể biết được cả hai
Và hôm nay không bận tâm lo lắng trận chiến tranh này
Giữa bọn mình và đối với chúng mình, hỡi những người bạn của tôi ơi
Tôi xin xét xử cuộc tranh chấp lâu dài giữa Truyền thống và Sáng tạo, giữa Trật tự và Phiêu lưu.
Các anh mà miệng đã được sáng tạo ra theo hình ảnh Thượng đế
Miệng ấy chính là trật tự rồi
Xin các anh hãy khoan dung khi các anh so sánh chúng tôi với những con người thiện mỹ của trật tự.
Chúng tôi đều là những kẻ đi tìm phiêu lưu ở mọi chân trời
Chúng tôi không phải là kẻ thù của các anh đâu
Chúng tôi đều muốn dâng tặng các anh những lãnh thổ mênh mông xa lạ
Mà nơi đó sự huyền bí đơm hoa sẽ dâng hiến cho kẻ nào muốn gặt hái nó
Nơi đó có những ngọn lửa mới, những sắc màu chưa từng thấy, nghìn ảo tượng vô lượng
Mà chúng tôi phải thể hiện
Chúng tôi muốn thám hiểm cõi thiện, miền cực đại mà nơi đó mọi vật đều im lặng
Nơi đó cũng có thời gian mà chúng ta có thể đuổi đi hoặc gọi về lại
Hãy thương chúng tôi, những người đang luôn luôn chiến đấu tại những biên thuỳ của Vô hạn và của Tương lai
Hãy thương những lỡ lầm chúng tôi, hãy thương những tội lỗi chúng tôi
Giờ đây Hè đang đến, mùa bạo hành
Và tuổi trẻ của tôi chết như mùa Xuân chết
Hỡi Thái dương, đó là thời gian của Lý trí nồng nhiệt
Để mà theo đuổi nàng mãi mãi
Tôi chờ đợi
Hình dáng dịu dàng cao qúy
Mà nàng đã nhập thể để tôi chỉ có thể yêu nàng mà thôi.
Nàng đến đây và lôi cuốn tôi như từ thạch hút sắt
Nàng có vẻ đẹp duyên dáng của một cô gái yêu kiều tóc đỏ
Tóc nàng vàng óng, người ta sẽ nói thế
Trông như tia chớp trường cửu
Hay như những ngọn lửa tha thướt
Trong những đoá hồng trà tàn úa
Hỡi mọi người khắp nơi, hãy cười tôi đi, cười tôi đi, nhất là những người ở đây
Bởi vì có quá nhiều việc mà tôi không dám kể cho các anh
Quá nhiều việc mà các anh sẽ không để tôi nói đâu
Hãy thương tôi.
2. LE PONT MIRABEAU
Sous le pont Mirabeau coule la Seine
Et nos amours
Faut - il qu’il m ‘en souvienne
La joie venait toujours après la peine
Vienne la nuit sonne l’heure
Les jours s‘en vont je demeure
Les mains dans les mains restons face à face
Tandis que sous
Le pont de nos bras passe
Des éternels regards l’onde si lasse
Vienne la nuit sonne l’heure
Les jours s’en vont je demeure
L’amour s’en va comme cette courante
L’amour s’en va
Comme la vie est lente
Et comme l’Espérance est violente
Vienne la nuit sonne l’heure
Les jours s’en vont je demeure
Passent les jours et passent les semaines
Ni temps passé
Ni les amours reviennent
Sous le pont Mirabeau coule la Seine
Vienne la nuit sonne l’heure
Les jours s’en vont je demeure
(Acools, 1913)
Tạm dịch:
Dưới cầu Mirabeau sông Seine chảy
Và những mối tình chúng mình?
Anh có nên nhớ lại chăng?
Niềm vui luôn luôn theo sau nỗi đau đớn
Hãy để đêm đến, giờ đổ
Những ngày trôi qua, và anh vẫn còn đây
Tay trong tay, mặt hãy nhìn mặt
Đang lúc ấy
Dưới cầu tay chúng mình
Dòng nước mệt mỏi của những thoáng nhìn thiên thu
Trôi chảy qua
Hãy để đêm đến, giờ đổ
Những giờ trôi qua, và anh vẫn còn đây
Tình yêu trôi đi như dòng nước chảy
Tình yêu trôi đi
Cuộc đời sao quá chậm
Mà hy vọng quá nhiệt nồng
Hãy để đêm đến, giờ đổ
Những ngày trôi qua, những tuần trôi qua
Mà thời dĩ vãng
Cùng những mối tình xưa không bao giờ trở lại
Dưới cầu Mirabeau sông Seine chảy
Hãy để đêm đến, giờ đổ
Những ngày trôi qua và anh vẫn còn đây.
3. LIENS
Cordes faites de cris
Sons de cloches à travers l ‘Europe
Siècles pendus
Rails qui ligotez les nations
Nous ne sommes que deux ou trois hommes
Libres de tous liens
Donnons- nous la main
Violente pluie qui pêign les fumées
Cordes
Cordes tissées
Câbles sous-marins
Tours de Babel changées en ponts
Araignées – Pontifes
Tous les amoureux qu‘un seul lien a liés
D‘autres liens plus ténus
Blancs rayons de lumière
Cordes et Concorde
J ‘écris seulement pour vous exalter
O sens o sens chéris
Ennemis du souvenir
Ennemis du désir
Ennemis du regret
Ennemis des larmes
Ennemis de tout ce que j ‘aime encore
(Calligrammes, 1918)
Tạm dịch:
Những sợi dây thừng làm thành tiếng kêu
Những tiếng chuông vang rền khắp Âu châu
Những thế kỷ treo lửng lơ
Những đường rầy trói buộc những quốc gia
Chúng ta chỉ là hai hoặc ba người
Thoát khỏi mọi ràng buộc
Chúng ta hãy nắm tay
Những trận mưa mãnh liệt chải tóc khói
Những sợi dây thừng đan dệt
Những hải để [tran1]điện tuyến
Những tháp Babel biến đổi thành những cây cầu
Những con nhện - Những vị giáo trưởng
Tất cả những tình nhân mà chỉ mỗi một dây liên hệ trói buộc lại
Những mối liên lạc tinh vi khác
Những luồng ánh sáng trắng
Những sợi dây thừng và Hoàn thiện
Tôi chỉ viết để tán dương các người
Hỡi những cảm giác thân yêu
Những kẻ thù của kí ức
Những kẻ thù của khát vọng
Những kẻ thù của hối tiếc
Những kẻ thù của nước mắt
Những kẻ thù của tất cả những gì tôi đang hãy còn yêu.
4. ZONE
A la fin tu es las de ce monde ancien
Bergère ô tour Eiffel le troupeau des ponts bêle ce matin.
Tu en as assez de vivre dans l’antiquité grecque et romaine
Ici même les autômbiles ont l’air d’être anciennes
La religion seule est restée toute neuve la religion
Est restée simple comme leshangars de Port - Aviation
Seul en Europe tu n’es pas antique ô Chirstianisme
L’Européen le plus moderne c'est vous Pape Pie X
Et toi que les fenêtres observent la honte retient
D’entrer dans une église et de t’y confesser ce matin
Tu lis les prospectus les catalogues les affiches qui chantent tout haut
Voilà la poésie ce matin et pour la prose il y a les journaux
Il y a les livraisons à 25 centimes pleines d ‘aventures policières
Portraits des grands hommes et mille titres divers
J’ai vu ce matin une jolie rue don’t j’ai oublié le nom
Neuve et propre du soleil elle était le clairon.
Les directeurs les ouvriers et les belles sténo-dactylographes
Du lundi matin au samedi soir quatre fois par jour y passent
La matin par trois fois la sirène gémit
Une cloche rageuse y aboie vers midi
Les inscriptions des enseignes et des murailles
Les plaques les avis à la façon des perroquets criaillent
J’aime la grâce de cette rue industrielle
Située à Paris entre la rue Aumont-Thiéville et l’avenue des Ternes
Voilà la jeune rue et tu n’es encore qu’un petit enfant
Ta mère ne t’habille que de bleu et de blanc
Tu es très pieux et avec le plus ancien de tes camarades René Dalize
Vous n’aimez rien tant que les pompes de l’Église
Il est neuf heures le gaz est baissé tout bleu vous sortez du dortoir en cachette
Vous priez toute la nuit dans la chapelle du collège
Tandis qu’éternelle et adorable profondeur améthyste
Tourne à jamais la flamboyante gloire du Christ
C’est le beau lys que tous nous cultivons
C’est la torche aux cheveux roux que n ‘éteint pas le vent
C’est le fils pâle ei vermeil de la douloureuse mère
C’est l ,arbre toujours touffu de toutes les prières
C’est la double potence de l’honneur et de l’éternité
C’est l’étoile à six branches
C’est Dieu qui meurt le vendredi et ressuscite le dimanche
C’est le Christ qui monte au ciel mieux que les aviateurs
Il détient le record du monde pour la hauteur
Pupille Christ de l’oeil.
Vingtième pupille des siècles il sait y faire
Et changé en oiseau ce siècle comme Jésus monte dans l’ air
Les diables dans les abimes lèvent la tête pour le ragarder
Ils disent qu’il imite Simon Mage en Judée
Il crient s’it sait voler qu’on l’appelle voleur
Les anges voltigent autour du joli voltigeur
Icare Enoch Elie Apollonins de Thyane
Flottent autour du premier aéroplane.
Ils s’ écartent parfois pour laisser passer ceux que transporte la Sainte – Eucharistie
Ces prêtres qui montent éternellement en élevant l’hostie
L’avion se pose enfin sans refermer les ailes
Le ciel s’emplit alors de millions d’hirondelles
A tire d’aile viennent les corbeaux les faucons les hiboux
D’Afrique arrivent les ibis les flamands les poètes
Plane tenant dans les serres le crâne d’Adam la première-tête
L’aigle fond de l’horizon en poussant un grand cri
Et d’Amérique vient le petit colibri
De Chine sont venus les pihis longs et souples
Qui n’ont qu’une seule aile et qui volent par couples
Puis voici la colombe esprit immaculé
Qu’escortent l’oiseau-lyre et le paon ocellé
Le phénix ce bûcher qui soi-même s’engendre
Un instant voile tout de son ardente cendre
Les sirènes laissant les périlleux détroits
Arrivent en chantant bellement toutes trois
Et tous aigle phénix et pihis de la Chine
Fraternisent avec la volante machine
Maintenant tu marches dans Paris tout seul parmi la foule
Des troupeaux d’autobus mugissants près de toi roulent
L’angoisse de l’amour te serre le gosier
Comme si tu ne devais jamais plus être aimé
Si tu vivais dans l’ancien temps tu entrerais dans un monastère
Vous avez honte quand vous vous surprenez à dire une prière
Tu te moques de toi et comme le feu de l’Enfer ton rire pétille
Les étincelles de ton rire dorent le fonds de ta vie
C’est un tableau pendu dans un sombre musée
Et quelquefois tu vas le regarder de près
Aujourd’ hui tu marches dans Paris les femmes sont ensanglantées
C’était et je voudrais ne pas m’en souvenir c’était au déclin de la beauté
Entourée de flammes ferventes Notre-Dame m’a régardé à Chartres
Le sang de votre Sacré-Coeur m’a inondé à Montmartre
Je suis malade d’ouĭr les paroles bienheureuses
L’amour dont je souffre est une maladie honteuse
Et l’image qui te possède te fait survivre dans l’angoisse
C’est toujours près de toi cette image qui passe
Maintenant tu es au bord de la Méditerrannée
Sous les citronniers qui en fleurtoute l’année
Avec tes mis tu te promènes en barque
L’un est Nissard il y a un Mentonasque et deux Turbiasques
Nous regardons avec effroi les poulpes des profondeurs
Et parmi les algues nagent les poissons images du Sauveur
Tu es dans le jardin d’une auberge aux environs de Prague
Tu te sens tout heureux une rose est sur la table
Et tu observes au lieu d’écrire ton conte en prose
La cétoine qui dort dans le coeur de la rose
Epouvanté tu te vois dessiné dans les agates de Saint-Vit
Tu étais triste à mourir le jour où tu t’y vis
Tu ressembles au Lazare affolé par le jour
Les aiguilles de l’horloge du quartier juif vont à rebours
Et tu recules aussi dans ta vie lentement
En montant au Hradchin et le soir en écoutant
Dans les tavernes chanter des chansons tchèques
Te voici à Marsille au milieu des pastèques
Te voici à Coblence à l’hôlel du Géant
Te voici à Amsterdam avec une jeune fille que tu trouves belle et qui est laide
Elle doit se marier avec un étudiant de Leyde
On y loue des chambres en latin Cubicula locanda
Je m’en souviens j’y ai passé trois jours et autant à Gouda
Tu es à Paris chez le juge d’instruction
Comme un criminel on te met en état d’arrestation
Tu as fait de douloureux et de joyeux voyages
Avant de t’apercevoir du mensonge et de l’âge
Tu as souffert de l’amour à vingt et à trente ans
J’ai vécu comme un fou et j’ai perdu mon temps.
Tu n’oses plus regarder tes mains et à tous moments je voudrais sangloter
Sur toi sur celle que j’aime sur tout ce qui t’a épouvanté
Tu regardes les yeux pleins de larmes ces pauvres émigrants
Ils croient en Dieu ils prient les femmes allaitent des enfants
Ils emplissent de leur odeur le hall de la gare Saint-Lazare
Ils ont foi dans leur étoile come les roi-mages
Ils espèrent gagner de l’argent das l’Argentine
Et revenir dans leur pays après avoir fait fortune
Une famille transporte un édredon rouge comme vous transportez votre coeur
Cet édredon et nos rêves sont aussi irréels
Quelques – uns de ces émigrants restent ici et se logent
Rue des Rosiers ou rue des Ecouffes dans des bouges
Je les ai vus souvent le soir ils prennent l’air dans la rue
Et se déplacent rarement comme les pièces aux échecs
Il y a surtout des Juifs leurs femmes portent perruque
Elles restent assises exsangues au fond des boutiques
Tu es debout devant le zine d’un bar crapuleux
Tu prends un café à deux sous parmi les malheureux
Tu es la nuit dans grand le restaurant.
Ces femmes ne son pas méchantes elles ont des soucis cependant
Toutes même la plus laide a fait souffrir son amant
Elle est la fille d’un sergent de ville de Jersey
Ses mains que je n’avais pas vues sont dures et gercées
J ‘ai une pitié immense pour les countures de son vetre
J’humilie maintenant à une pauvre fille au rire horrible ma bouche
Tu es seul le matin va venir,
Les laitiers font tinter leurs bidons dans les rues
La nuit s’éloigne ainsi qu’une belle Métive
C’est Ferdine la fausse ou Léa l’attentive
Et tu bois cet alcool brûlant comme ta vie
Ta vie que tu bois comme une eau – de-vie
Tu marches vers Auteuil tu veux aller chez toi à pied
Dormir parmi les fétiches d’Océanie et de Guinée
Ils sont des Christs d’une autre forme et d‘une autre croyance
Ce sont les Christs inférieurs des obscures espérances
Adieu A dieu
Soleil cou coupé.
(Alcools, 1913)
Tạm dịch:
Sau cùng anh cũng chán nản cõi trần gian cũ kỹ này
Hỡi tháp Eiffel, hỡi nàng chăn cừu ơi, bầy cừu kêu be be sáng nay
Anh đã sống khá nhiều trong thời thượng cổ Hy lạp và La mã
Ở đây ngay đến những chiếc ô tô cũng có vẻ như cổ kính
Chỉ có tôn giáo là vẫn còn mới
Và vẫn còn đơn giản như những kho trại ở Port - Aviation
Ở Âu châu chỉ ngươi là không cổ lỗ, hỡi Ki Tô giáo ơi
Hỡi Đức Giáo Hoàng Pie X, người Âu châu tân tiến nhất là ngài
Và mi mà những cửa sổ quan sát, sự hổ thẹn đã giữ mi lại, không để mi bước vào nhà thờ và không để mi xưng tội ở đó sáng nay
Mi đọc những tờ giấy cáo bạch, những sổ mục lục, những tờ yết thị ca hát inh ỏi
Đó là thi ca sáng nay và về văn xuôi thì có những tờ nhật báo, những tập sách 25 xu đầy những truyện trinh thám, đầy hình vĩ nhân và một nghìn chức tước
Sáng nay tôi đã thấy một con đường xinh đẹp mà tôi đã quên tên đó
Mới mẻ và sạch sẽ, con đường đó là cái kèn của mặt trời
Những ông chủ, những người thợ và những cô thư ký tốc ký đánh máy xinh đẹp
Mỗi ngày bốn lần từ sáng thứ hai đến chiều thứ bảy đều đi qua con đường đó
Ba lần mỗi ngày vào buổi sáng tiếng còi rên rỉ ở đó
Một cái chuông gắt gỏng sủa ầm lên ở đó vào buổi trưa
Những yết thị, chiêu bài của nhà buôn ở trên những tấm bảng và trên tường
Những tấm bảng, những tấm cáo thị la réo như con vẹt
Tôi thích nét yêu kiều duyên dáng của con đường kỹ nghệ này
Nằm ở Ba lê giữa đường Aumont-Thiéville và đại lộ Des Ternes
Đây là con đường trẻ trung và mi chỉ là một đứa trẻ con
Mẹ mi chỉ cho mi mặc quần áo màu xanh và trắng
Mi rất ngoan đạo và cùng người bạn xưa nhất của mi, tên là René Dalize, mi không yêu thích gì hơn là vẻ tráng lệ phù hoa của Giáo hội
Lúc ấy là chín giờ, đèn khí đã hạ thấp và tất cả đều trở nên xanh, anh lẻn đi ra ngoài phòng ngủ một cách kín đáo
Anh đọc kinh suốt đêm trong nhà nguyện của trường trung học
Trong lúc ấy thì sự thâm sâu màu sắc tía, vĩnh cửu và yêu kiều, sự vinh quang và đỏ rực của đấng Ki Tô quay vòng mãi mãi
Đó là hoa huệ xinh đẹp mà tất cả chúng tôi đều trồng
Đó là cây đuốc tóc đỏ mà ngọn gió không thổi tắt
Đó là đứa con trai xanh xao và đỏ hồng của người mẹ đau khổ
Đó là cây luôn luôn rậm rạp với tất cả những lời kinh
Đó là giàn trụ cột song đôi của vinh dự và vĩnh cửu
Đó là ngôi sao với sáu nhánh
Đó là Thượng Đế chết ngày thứ sáu và sống lại ngày chúa nhựt
Đó là đấng Ki Tô bay lên trời tài hơn là phi công.
Ngài đã đoạt kỷ lục về chiều cao
Đấng Ki Tô, con ngươi của mắt, con ngươi thứ hai mươi của những thế kỷ, ngài biết cách vận dụng
Và biến đổi thành một con chim, như đức Giêsu, thế kỷ này cũng bay lên trời
Những con quỉ ở hố thẳm ngẩng đầu lên nhìn ngài
Bọn quỉ nói rằng ngày bắt chiếc Simon, đạo sĩ Judée
Bọn quỉ la lên rằng nếu ngài biết bay thì chúng gọi ngài là kẻ ăn trộm (hay kẻ bay)
Những thiên thần bay lượn quanh kẻ bay lượn xinh đẹp
Icare, Enoch, Elie, Apollonius de Thyane
Bay lênh đênh xung quanh chiếc máy bay đầu tiên
Họ thỉnh thoảng tránh đường để rộng chỗ cho những kẻ nào mà thánh thể mang đi qua
Những ông thầy cả này bay lên mãi mãi, đang khi nâng bánh thánh lên cao
Rồi thì máy bay hạ xuống mà không cần xếp cánh
Bấy giờ bầu trời lan tràn hàng triệu con chim én
Ào ạt bay nhanh tới nơi nào là những con quạ,
Những con ó, những chim cú
Từ Phi châu bay đến nào là đủ loại hạc
Chim Róc mà những văn gia thi sĩ đã làm trở nên bất hủ, cũng bay liệng đến bấu víu cái sọ ông A Dong trong những ngón chân, cái sọ dừa đầu tiên
Con chim Ưng bay sà xuống từ phía chân trời, kêu la inh ỏi
Và từ Mỹ châu bay đến con chim sâu bé nhỏ
Từ Trung Hoa bay đến những con chim lạ dài thon yểu điệu
Và chỉ có một cánh và bay từng cặp
Rồi thì bồ câu bay đến, thánh thần tinh khiết, được hộ tống bằng những con chim thất huyền và con công có khoen tròn lốm đốm
Con phượng hoàng, đống củi lửa mà nó tự thoát thai, trong một khoảnh khắc, vây phủ mọi vật bằng tro bụi hừng hực.
Lìa bỏ những eo biển hiểm nghèo, những con nhân ngư cũng đến dự và cả ba ca hát véo von
Và tất cả, chim ưng, phượng hoàng và kỳ điểu ở Trung Hoa đều kết bạn thân thiết với chiếc máy bay
Bây giờ mi đang đi giữa đô thị Ba Lê, hoàn toàn cô đơn giữa đám đông thiên hạ
Những bầy ô tô buýt rền rĩ chạy lướt gần mi
Nỗi đau quằn quại đau đớn của tình yêu bóp nghẹn cổ họng cơ hồ như là nó sẽ không nên bao giờ được yêu nữa
Nếu mi sống vào thời xưa mi sẽ xin vào tu viện
Anh cảm thấy hổ thẹn khi anh bỗng tự bắt gặp mình đang đọc kinh
Mi tự chế nhạo mi và tiếng cười mi nổ lẹt đẹt như lửa Địa ngục
Những tia lửa của tiếng cười mi loé vàng đáy sâu đời mi
Đó là một bức tranh treo trong một bảo tàng luyện đen tối
Và đôi khi mi đi đến nhìn nó thật gần.
Hôm nay mi đang bước đi giữa Ba Lê, những người đàn bà loang máu
Đó là (và tôi không muốn nhớ làm gì nữa) đó là thời tàn tạ của sắc đẹp
Vây quanh bởi những ngọn lửa hừng hực, Đức Bà nhìn tôi ở tại Chartres
Máu của Thánh Tâm người đã tràn ngập tôi tại Montmatre
Tôi đã chán nghe những lời lành thánh
Tình yêu mà tôi đau khổ chỉ là một cơn bệnh xấu hổ
Và hình bóng ám ảnh kia đã làm mi sống sót lại trong cơn mất ngủ và trong cơn đau nhói quằn quại
Hình ảnh ấy cứ luôn luôn lướt qua gần mi
Bây giờ mi đứng bờ biển Địa Trung Hải
Dưới những cây chanh trổ hoa quanh năm
Với những người bạn mi đi dạo bằng thuyền
Một người bạn thì ở Nice, một người ở Menton và hai người ở La Turbie
Chúng tôi sợ hãi nhìn những con bạch tuộc ở đáy sâu và giữa rong rêu những con cá bơi lội, những hình ảnh của đấng Cứu Thế
Mi đang ở trong một cái vườn của một lữ quán gần thành Prague
Mi cảm thấy hoàn toàn hạnh phúc, một đoá hoa hồng trên bàn và mi ngắm nhìn con bọ cam nằm ngủ trong lòng hoa hồng, thay vì viết câu chuyện bằng văn xuôi
Bàng hoàng sợ hãi, mi thấy mi in bóng trong những đá mã não ở Saint Vit
Mi buồn bã chán đời lúc mi nhìn mi ở đó
Mi giống như Lazare hoảng hốt điên cuồng bởi ánh sáng ban ngày
Những cây kim đồng hồ ở khu phố Do Thái chạy ngược lại
Và mi cũng thụt lùi ngược lại chậm chạp trong cuộc đời mi lúc mi bước lên Hradchin, và
Vào buổi chiều lúc mi lắng nghe những bài ca Tiệp khắc vọng lên từ trong tửu quán…
Bây giờ mi đang ở Marseille, đứng giữa những trái dưa hấu
…Bây giờ mi đang ở Coblence tại lữ quán Géant
Bây giờ mi đang ở La Mã dưới cây sơn trà Nhật bản
Bây giờ mi đang ở Amsterdam với một cô gái mà mi cảm thấy xinh đẹp và thực ra cô ấy thì trong xấu
Nàng sẽ lấy một sinh viên ở Leyde
Người ta mướn phòng bằng chữ La tinh cubicula locanta
Tôi nhớ rằng tôi đã ở đó 3 ngày và nhiều như ở Gouda
Mi đang ở Ba Lê nơi phòng dự thẩm
Như một tên tội đồ, họ quản thúc mi
Mi đã làm những chuyến hành trình đau khổ và vui sướng
Trước khi để ý đến điều giả nguỵ và tuổi tác già nua
Mi đã đau khổ vì tình yêu hồi hai mươi và ba mươi tuổi
Tôi đã sống như thằng điên và tôi đã đánh mất thời gian
Mi không còn dám nhìn những bàn tay của mi vào mỗi một phút giây trong đời, mi đều muốn gục đầu nức nở
Nức nở khóc mình, khóc người mình yêu và khóc tất cả những gì làm mi kinh hãi
Mi nhìn những người di trú nghèo nàn này với đôi mắt rưng rưng nước mắt
Họ tin thờ Thượng Đế. Họ đọc kinh cầu nguyện
Những người đàn bà cho con bú sữa
Họ làm cho nhà ga Saint - Lazare man mác mùi hôi của họ
Họ tin thờ ngôi sao họ như ba vua đạo sĩ
Họ mong làm ăn được ở A Căn Đình
Và trở về quê hương họ khi đã làm giàu
Mỗi một gia đình mang theo một cái mền nhung mao đỏ như anh mang trái tim anh
Cái mền nhung mao ấy và những giấc mộng của chúng ta cũng đều hư ảo
Và người di trú ở lại đây và cư ngụ tại đường Hoa Hồng hay đường Des Ecouffes trong những túp lều bệ rạc
Tôi thường gặp họ vào buổi chiều lúc họ hóng mát trên đường phố và như những quân cờ, họ ít khi di động
Họ phần lớn đều là người Do Thái; những người đàn bà mang tóc giả, họ vẫn ngồi xanh xao tiều tuỵ ở cuối hiệu buôn
Mi đứng trước quầy hàng rượu bẩn thỉu
Mi uống một tách cà phê rẻ tiền, cùng với những người nghèo khổ bạc mệnh
Lúc ấy là ban đêm mi ở trong một hiệu ăn
Những người đàn bà này không bần tiện nham hiểm mặc dù họ sống với nhiều lo âu phiền muộn
Họ đều làm tình nhân họ đau khổ, dù là kẻ xấu xí nhất
Người đàn bà ấy là con gái của một bác cảnh sát Jersey
Những bàn tay nàng (mà tôi chưa từng thấy trước kia) đều cứng và nứt nẻ
Tôi rất thương hại những đường nhăn ở bụng nàng
Bây giờ tôi hạ thấp miệng tôi với một cô gái nghèo nàn có tiếng cười kinh hãi
Mi chỉ một mình cô đơn và buổi sáng sắp đến
Người bán sữa làm khua động những thùng sữa trên đường phố
Đêm tàn và lướt đi như nàng Métive tuyệt trần
Đó là Ferdine hư ngụy hay Léa chuyên tâm ân cần
Và mi uống li rượu này đốt cháy như cuộc đời mi
Cuộc đời mi mà mi uống cơ hồ như rượu mạnh
Mi bước về xóm Auteuil. Mi muốn đi bộ về nhà
Và nằm ngủ giữa những ngẫu tượng đem từ miền Océanie và Guinée
Những ngẫu tượng ấy là những đấng Ki Tô theo hình thể khác và theo tín ngưỡng khác
Đó là những đấng Ki Tô nhỏ bé của những hoài vọng đen tối
Giã từ Giã từ
Mặt trời bị cắt cổ.
1. LA JOLIE ROUSSE
Me voci devant tous un homme plein de sens
Connaissant la vie et de la mort ce qu‘un vivant peut connaitre
Ayant éprouvé les douleurs et les joies de l’amour
Ayant su quelquefois imposer ses idées
Connaissant plusieurs langages
Ayant pas mal voygagé
Ayant vu la guerre dans l’ Artillerrie et l’ Infanterie
Blessé à la tête trépané sous le chloroforme
Ayant perdu ses meilleurs amis dans l’effroyable lutte
Je sais d’ ancien et de nouveau autant qu’un homme seul pourrait des deux savoir
Et sans m’inquieter aujourd hui de cette guerre
Entre nous et pour nous mes amis
Je juge cette longue querelle de la tradition et de l’ invention
De l’ Ordre de l’ Aventure
Vous dont la bouche est faite à l’ image decelle de Dieu
Bouche qui est l’ Ordre même
Soyes indulgents quand vous nous comparez
A ceux qui furent la perfection de l’ ordre
Nous qui quêtons partout l’ aventure
Nous ne sommes pas vos ennemis
Nous voulons vous donner de vastes et d’ étranges domaines
Ou le mystère en fleurs s’ offre à qui veut le cueillir
Il y a là des feux nouveaux des couleurs jamais vues
Mille phantasmes impondérables
Auxquels il faut donner de la réalité
Nous voulons explorer la bonté contrée énorme où tout se tait
Il y a aussi le temps qu’on peut chasser ou faire revenir
Pitié pour nous qui combattons toujours aux frontières
De l’illimité de l’avenir
Pitié pour nos erreurs pitié pour nos péchés
Voici que vient l’été la saison violente
Et ma jeunesse est morte ainsi que le printemps
O Soleil c’est le temps de ta Raison ardente
Et j’attends
Pour la suivre toujours la forme noble et douce
Qu’elle prend afin que je l’ aime seulement
Elle vient et m’attire ainsi qu’un fer l’aimant
Elle a l’ aspect charmant
D’ une adorable rousse
Ses cheveux sont d’ or on dirait
Un bel éclair qui durerait
Ou cer flammes qui se pavanent
Dans les roses thé-qui se fanent
Mais riez riez de moi
Hommes de partout surtout gens d’ ici
Car il y a tant de choses que je n’ ose vous dire
Tant de choses que vous ne me laisseriez pas dire
Ayez pitié de moi.
(Calligrammes, 1918)
Tạm dịch:
Đứng trước tất cả các anh đây, tôi là một con người đủ đầy lương tri
Hiểu biết cuộc đời và hiểu biết về sự chết như tầm kiến thức thông thường của thiên hạ
Đã trải qua những nỗi đau khổ và những niềm vui của tình yêu
Thỉnh thoảng cũng biết bắt buộc người ta phải theo những ý tưởng của mình
Thông hiểu nhiều ngôn ngữ
đã du lịch khá nhiều
Đã chứng kiến chiến tranh trong Pháo binh và Bộ binh
Bị thương nơi đầu, bị mổ xương bằng thuốc mê chroloforme
Đã mất những bạn bè thân yêu nhất của mình trong trận chiến hãi hùng
Tôi từng biết về chuyện cổ và kim cũng nhiều như bất cứ một người đơn độc nào đó có thể biết được cả hai
Và hôm nay không bận tâm lo lắng trận chiến tranh này
Giữa bọn mình và đối với chúng mình, hỡi những người bạn của tôi ơi
Tôi xin xét xử cuộc tranh chấp lâu dài giữa Truyền thống và Sáng tạo, giữa Trật tự và Phiêu lưu.
Các anh mà miệng đã được sáng tạo ra theo hình ảnh Thượng đế
Miệng ấy chính là trật tự rồi
Xin các anh hãy khoan dung khi các anh so sánh chúng tôi với những con người thiện mỹ của trật tự.
Chúng tôi đều là những kẻ đi tìm phiêu lưu ở mọi chân trời
Chúng tôi không phải là kẻ thù của các anh đâu
Chúng tôi đều muốn dâng tặng các anh những lãnh thổ mênh mông xa lạ
Mà nơi đó sự huyền bí đơm hoa sẽ dâng hiến cho kẻ nào muốn gặt hái nó
Nơi đó có những ngọn lửa mới, những sắc màu chưa từng thấy, nghìn ảo tượng vô lượng
Mà chúng tôi phải thể hiện
Chúng tôi muốn thám hiểm cõi thiện, miền cực đại mà nơi đó mọi vật đều im lặng
Nơi đó cũng có thời gian mà chúng ta có thể đuổi đi hoặc gọi về lại
Hãy thương chúng tôi, những người đang luôn luôn chiến đấu tại những biên thuỳ của Vô hạn và của Tương lai
Hãy thương những lỡ lầm chúng tôi, hãy thương những tội lỗi chúng tôi
Giờ đây Hè đang đến, mùa bạo hành
Và tuổi trẻ của tôi chết như mùa Xuân chết
Hỡi Thái dương, đó là thời gian của Lý trí nồng nhiệt
Để mà theo đuổi nàng mãi mãi
Tôi chờ đợi
Hình dáng dịu dàng cao qúy
Mà nàng đã nhập thể để tôi chỉ có thể yêu nàng mà thôi.
Nàng đến đây và lôi cuốn tôi như từ thạch hút sắt
Nàng có vẻ đẹp duyên dáng của một cô gái yêu kiều tóc đỏ
Tóc nàng vàng óng, người ta sẽ nói thế
Trông như tia chớp trường cửu
Hay như những ngọn lửa tha thướt
Trong những đoá hồng trà tàn úa
Hỡi mọi người khắp nơi, hãy cười tôi đi, cười tôi đi, nhất là những người ở đây
Bởi vì có quá nhiều việc mà tôi không dám kể cho các anh
Quá nhiều việc mà các anh sẽ không để tôi nói đâu
Hãy thương tôi.
2. LE PONT MIRABEAU
Sous le pont Mirabeau coule la Seine
Et nos amours
Faut - il qu’il m ‘en souvienne
La joie venait toujours après la peine
Vienne la nuit sonne l’heure
Les jours s‘en vont je demeure
Les mains dans les mains restons face à face
Tandis que sous
Le pont de nos bras passe
Des éternels regards l’onde si lasse
Vienne la nuit sonne l’heure
Les jours s’en vont je demeure
L’amour s’en va comme cette courante
L’amour s’en va
Comme la vie est lente
Et comme l’Espérance est violente
Vienne la nuit sonne l’heure
Les jours s’en vont je demeure
Passent les jours et passent les semaines
Ni temps passé
Ni les amours reviennent
Sous le pont Mirabeau coule la Seine
Vienne la nuit sonne l’heure
Les jours s’en vont je demeure
(Acools, 1913)
Tạm dịch:
Dưới cầu Mirabeau sông Seine chảy
Và những mối tình chúng mình?
Anh có nên nhớ lại chăng?
Niềm vui luôn luôn theo sau nỗi đau đớn
Hãy để đêm đến, giờ đổ
Những ngày trôi qua, và anh vẫn còn đây
Tay trong tay, mặt hãy nhìn mặt
Đang lúc ấy
Dưới cầu tay chúng mình
Dòng nước mệt mỏi của những thoáng nhìn thiên thu
Trôi chảy qua
Hãy để đêm đến, giờ đổ
Những giờ trôi qua, và anh vẫn còn đây
Tình yêu trôi đi như dòng nước chảy
Tình yêu trôi đi
Cuộc đời sao quá chậm
Mà hy vọng quá nhiệt nồng
Hãy để đêm đến, giờ đổ
Những ngày trôi qua, những tuần trôi qua
Mà thời dĩ vãng
Cùng những mối tình xưa không bao giờ trở lại
Dưới cầu Mirabeau sông Seine chảy
Hãy để đêm đến, giờ đổ
Những ngày trôi qua và anh vẫn còn đây.
3. LIENS
Cordes faites de cris
Sons de cloches à travers l ‘Europe
Siècles pendus
Rails qui ligotez les nations
Nous ne sommes que deux ou trois hommes
Libres de tous liens
Donnons- nous la main
Violente pluie qui pêign les fumées
Cordes
Cordes tissées
Câbles sous-marins
Tours de Babel changées en ponts
Araignées – Pontifes
Tous les amoureux qu‘un seul lien a liés
D‘autres liens plus ténus
Blancs rayons de lumière
Cordes et Concorde
J ‘écris seulement pour vous exalter
O sens o sens chéris
Ennemis du souvenir
Ennemis du désir
Ennemis du regret
Ennemis des larmes
Ennemis de tout ce que j ‘aime encore
(Calligrammes, 1918)
Tạm dịch:
Những sợi dây thừng làm thành tiếng kêu
Những tiếng chuông vang rền khắp Âu châu
Những thế kỷ treo lửng lơ
Những đường rầy trói buộc những quốc gia
Chúng ta chỉ là hai hoặc ba người
Thoát khỏi mọi ràng buộc
Chúng ta hãy nắm tay
Những trận mưa mãnh liệt chải tóc khói
Những sợi dây thừng đan dệt
Những hải để [tran1]điện tuyến
Những tháp Babel biến đổi thành những cây cầu
Những con nhện - Những vị giáo trưởng
Tất cả những tình nhân mà chỉ mỗi một dây liên hệ trói buộc lại
Những mối liên lạc tinh vi khác
Những luồng ánh sáng trắng
Những sợi dây thừng và Hoàn thiện
Tôi chỉ viết để tán dương các người
Hỡi những cảm giác thân yêu
Những kẻ thù của kí ức
Những kẻ thù của khát vọng
Những kẻ thù của hối tiếc
Những kẻ thù của nước mắt
Những kẻ thù của tất cả những gì tôi đang hãy còn yêu.
4. ZONE
A la fin tu es las de ce monde ancien
Bergère ô tour Eiffel le troupeau des ponts bêle ce matin.
Tu en as assez de vivre dans l’antiquité grecque et romaine
Ici même les autômbiles ont l’air d’être anciennes
La religion seule est restée toute neuve la religion
Est restée simple comme leshangars de Port - Aviation
Seul en Europe tu n’es pas antique ô Chirstianisme
L’Européen le plus moderne c'est vous Pape Pie X
Et toi que les fenêtres observent la honte retient
D’entrer dans une église et de t’y confesser ce matin
Tu lis les prospectus les catalogues les affiches qui chantent tout haut
Voilà la poésie ce matin et pour la prose il y a les journaux
Il y a les livraisons à 25 centimes pleines d ‘aventures policières
Portraits des grands hommes et mille titres divers
J’ai vu ce matin une jolie rue don’t j’ai oublié le nom
Neuve et propre du soleil elle était le clairon.
Les directeurs les ouvriers et les belles sténo-dactylographes
Du lundi matin au samedi soir quatre fois par jour y passent
La matin par trois fois la sirène gémit
Une cloche rageuse y aboie vers midi
Les inscriptions des enseignes et des murailles
Les plaques les avis à la façon des perroquets criaillent
J’aime la grâce de cette rue industrielle
Située à Paris entre la rue Aumont-Thiéville et l’avenue des Ternes
Voilà la jeune rue et tu n’es encore qu’un petit enfant
Ta mère ne t’habille que de bleu et de blanc
Tu es très pieux et avec le plus ancien de tes camarades René Dalize
Vous n’aimez rien tant que les pompes de l’Église
Il est neuf heures le gaz est baissé tout bleu vous sortez du dortoir en cachette
Vous priez toute la nuit dans la chapelle du collège
Tandis qu’éternelle et adorable profondeur améthyste
Tourne à jamais la flamboyante gloire du Christ
C’est le beau lys que tous nous cultivons
C’est la torche aux cheveux roux que n ‘éteint pas le vent
C’est le fils pâle ei vermeil de la douloureuse mère
C’est l ,arbre toujours touffu de toutes les prières
C’est la double potence de l’honneur et de l’éternité
C’est l’étoile à six branches
C’est Dieu qui meurt le vendredi et ressuscite le dimanche
C’est le Christ qui monte au ciel mieux que les aviateurs
Il détient le record du monde pour la hauteur
Pupille Christ de l’oeil.
Vingtième pupille des siècles il sait y faire
Et changé en oiseau ce siècle comme Jésus monte dans l’ air
Les diables dans les abimes lèvent la tête pour le ragarder
Ils disent qu’il imite Simon Mage en Judée
Il crient s’it sait voler qu’on l’appelle voleur
Les anges voltigent autour du joli voltigeur
Icare Enoch Elie Apollonins de Thyane
Flottent autour du premier aéroplane.
Ils s’ écartent parfois pour laisser passer ceux que transporte la Sainte – Eucharistie
Ces prêtres qui montent éternellement en élevant l’hostie
L’avion se pose enfin sans refermer les ailes
Le ciel s’emplit alors de millions d’hirondelles
A tire d’aile viennent les corbeaux les faucons les hiboux
D’Afrique arrivent les ibis les flamands les poètes
Plane tenant dans les serres le crâne d’Adam la première-tête
L’aigle fond de l’horizon en poussant un grand cri
Et d’Amérique vient le petit colibri
De Chine sont venus les pihis longs et souples
Qui n’ont qu’une seule aile et qui volent par couples
Puis voici la colombe esprit immaculé
Qu’escortent l’oiseau-lyre et le paon ocellé
Le phénix ce bûcher qui soi-même s’engendre
Un instant voile tout de son ardente cendre
Les sirènes laissant les périlleux détroits
Arrivent en chantant bellement toutes trois
Et tous aigle phénix et pihis de la Chine
Fraternisent avec la volante machine
Maintenant tu marches dans Paris tout seul parmi la foule
Des troupeaux d’autobus mugissants près de toi roulent
L’angoisse de l’amour te serre le gosier
Comme si tu ne devais jamais plus être aimé
Si tu vivais dans l’ancien temps tu entrerais dans un monastère
Vous avez honte quand vous vous surprenez à dire une prière
Tu te moques de toi et comme le feu de l’Enfer ton rire pétille
Les étincelles de ton rire dorent le fonds de ta vie
C’est un tableau pendu dans un sombre musée
Et quelquefois tu vas le regarder de près
Aujourd’ hui tu marches dans Paris les femmes sont ensanglantées
C’était et je voudrais ne pas m’en souvenir c’était au déclin de la beauté
Entourée de flammes ferventes Notre-Dame m’a régardé à Chartres
Le sang de votre Sacré-Coeur m’a inondé à Montmartre
Je suis malade d’ouĭr les paroles bienheureuses
L’amour dont je souffre est une maladie honteuse
Et l’image qui te possède te fait survivre dans l’angoisse
C’est toujours près de toi cette image qui passe
Maintenant tu es au bord de la Méditerrannée
Sous les citronniers qui en fleurtoute l’année
Avec tes mis tu te promènes en barque
L’un est Nissard il y a un Mentonasque et deux Turbiasques
Nous regardons avec effroi les poulpes des profondeurs
Et parmi les algues nagent les poissons images du Sauveur
Tu es dans le jardin d’une auberge aux environs de Prague
Tu te sens tout heureux une rose est sur la table
Et tu observes au lieu d’écrire ton conte en prose
La cétoine qui dort dans le coeur de la rose
Epouvanté tu te vois dessiné dans les agates de Saint-Vit
Tu étais triste à mourir le jour où tu t’y vis
Tu ressembles au Lazare affolé par le jour
Les aiguilles de l’horloge du quartier juif vont à rebours
Et tu recules aussi dans ta vie lentement
En montant au Hradchin et le soir en écoutant
Dans les tavernes chanter des chansons tchèques
Te voici à Marsille au milieu des pastèques
Te voici à Coblence à l’hôlel du Géant
Te voici à Amsterdam avec une jeune fille que tu trouves belle et qui est laide
Elle doit se marier avec un étudiant de Leyde
On y loue des chambres en latin Cubicula locanda
Je m’en souviens j’y ai passé trois jours et autant à Gouda
Tu es à Paris chez le juge d’instruction
Comme un criminel on te met en état d’arrestation
Tu as fait de douloureux et de joyeux voyages
Avant de t’apercevoir du mensonge et de l’âge
Tu as souffert de l’amour à vingt et à trente ans
J’ai vécu comme un fou et j’ai perdu mon temps.
Tu n’oses plus regarder tes mains et à tous moments je voudrais sangloter
Sur toi sur celle que j’aime sur tout ce qui t’a épouvanté
Tu regardes les yeux pleins de larmes ces pauvres émigrants
Ils croient en Dieu ils prient les femmes allaitent des enfants
Ils emplissent de leur odeur le hall de la gare Saint-Lazare
Ils ont foi dans leur étoile come les roi-mages
Ils espèrent gagner de l’argent das l’Argentine
Et revenir dans leur pays après avoir fait fortune
Une famille transporte un édredon rouge comme vous transportez votre coeur
Cet édredon et nos rêves sont aussi irréels
Quelques – uns de ces émigrants restent ici et se logent
Rue des Rosiers ou rue des Ecouffes dans des bouges
Je les ai vus souvent le soir ils prennent l’air dans la rue
Et se déplacent rarement comme les pièces aux échecs
Il y a surtout des Juifs leurs femmes portent perruque
Elles restent assises exsangues au fond des boutiques
Tu es debout devant le zine d’un bar crapuleux
Tu prends un café à deux sous parmi les malheureux
Tu es la nuit dans grand le restaurant.
Ces femmes ne son pas méchantes elles ont des soucis cependant
Toutes même la plus laide a fait souffrir son amant
Elle est la fille d’un sergent de ville de Jersey
Ses mains que je n’avais pas vues sont dures et gercées
J ‘ai une pitié immense pour les countures de son vetre
J’humilie maintenant à une pauvre fille au rire horrible ma bouche
Tu es seul le matin va venir,
Les laitiers font tinter leurs bidons dans les rues
La nuit s’éloigne ainsi qu’une belle Métive
C’est Ferdine la fausse ou Léa l’attentive
Et tu bois cet alcool brûlant comme ta vie
Ta vie que tu bois comme une eau – de-vie
Tu marches vers Auteuil tu veux aller chez toi à pied
Dormir parmi les fétiches d’Océanie et de Guinée
Ils sont des Christs d’une autre forme et d‘une autre croyance
Ce sont les Christs inférieurs des obscures espérances
Adieu A dieu
Soleil cou coupé.
(Alcools, 1913)
Tạm dịch:
Sau cùng anh cũng chán nản cõi trần gian cũ kỹ này
Hỡi tháp Eiffel, hỡi nàng chăn cừu ơi, bầy cừu kêu be be sáng nay
Anh đã sống khá nhiều trong thời thượng cổ Hy lạp và La mã
Ở đây ngay đến những chiếc ô tô cũng có vẻ như cổ kính
Chỉ có tôn giáo là vẫn còn mới
Và vẫn còn đơn giản như những kho trại ở Port - Aviation
Ở Âu châu chỉ ngươi là không cổ lỗ, hỡi Ki Tô giáo ơi
Hỡi Đức Giáo Hoàng Pie X, người Âu châu tân tiến nhất là ngài
Và mi mà những cửa sổ quan sát, sự hổ thẹn đã giữ mi lại, không để mi bước vào nhà thờ và không để mi xưng tội ở đó sáng nay
Mi đọc những tờ giấy cáo bạch, những sổ mục lục, những tờ yết thị ca hát inh ỏi
Đó là thi ca sáng nay và về văn xuôi thì có những tờ nhật báo, những tập sách 25 xu đầy những truyện trinh thám, đầy hình vĩ nhân và một nghìn chức tước
Sáng nay tôi đã thấy một con đường xinh đẹp mà tôi đã quên tên đó
Mới mẻ và sạch sẽ, con đường đó là cái kèn của mặt trời
Những ông chủ, những người thợ và những cô thư ký tốc ký đánh máy xinh đẹp
Mỗi ngày bốn lần từ sáng thứ hai đến chiều thứ bảy đều đi qua con đường đó
Ba lần mỗi ngày vào buổi sáng tiếng còi rên rỉ ở đó
Một cái chuông gắt gỏng sủa ầm lên ở đó vào buổi trưa
Những yết thị, chiêu bài của nhà buôn ở trên những tấm bảng và trên tường
Những tấm bảng, những tấm cáo thị la réo như con vẹt
Tôi thích nét yêu kiều duyên dáng của con đường kỹ nghệ này
Nằm ở Ba lê giữa đường Aumont-Thiéville và đại lộ Des Ternes
Đây là con đường trẻ trung và mi chỉ là một đứa trẻ con
Mẹ mi chỉ cho mi mặc quần áo màu xanh và trắng
Mi rất ngoan đạo và cùng người bạn xưa nhất của mi, tên là René Dalize, mi không yêu thích gì hơn là vẻ tráng lệ phù hoa của Giáo hội
Lúc ấy là chín giờ, đèn khí đã hạ thấp và tất cả đều trở nên xanh, anh lẻn đi ra ngoài phòng ngủ một cách kín đáo
Anh đọc kinh suốt đêm trong nhà nguyện của trường trung học
Trong lúc ấy thì sự thâm sâu màu sắc tía, vĩnh cửu và yêu kiều, sự vinh quang và đỏ rực của đấng Ki Tô quay vòng mãi mãi
Đó là hoa huệ xinh đẹp mà tất cả chúng tôi đều trồng
Đó là cây đuốc tóc đỏ mà ngọn gió không thổi tắt
Đó là đứa con trai xanh xao và đỏ hồng của người mẹ đau khổ
Đó là cây luôn luôn rậm rạp với tất cả những lời kinh
Đó là giàn trụ cột song đôi của vinh dự và vĩnh cửu
Đó là ngôi sao với sáu nhánh
Đó là Thượng Đế chết ngày thứ sáu và sống lại ngày chúa nhựt
Đó là đấng Ki Tô bay lên trời tài hơn là phi công.
Ngài đã đoạt kỷ lục về chiều cao
Đấng Ki Tô, con ngươi của mắt, con ngươi thứ hai mươi của những thế kỷ, ngài biết cách vận dụng
Và biến đổi thành một con chim, như đức Giêsu, thế kỷ này cũng bay lên trời
Những con quỉ ở hố thẳm ngẩng đầu lên nhìn ngài
Bọn quỉ nói rằng ngày bắt chiếc Simon, đạo sĩ Judée
Bọn quỉ la lên rằng nếu ngài biết bay thì chúng gọi ngài là kẻ ăn trộm (hay kẻ bay)
Những thiên thần bay lượn quanh kẻ bay lượn xinh đẹp
Icare, Enoch, Elie, Apollonius de Thyane
Bay lênh đênh xung quanh chiếc máy bay đầu tiên
Họ thỉnh thoảng tránh đường để rộng chỗ cho những kẻ nào mà thánh thể mang đi qua
Những ông thầy cả này bay lên mãi mãi, đang khi nâng bánh thánh lên cao
Rồi thì máy bay hạ xuống mà không cần xếp cánh
Bấy giờ bầu trời lan tràn hàng triệu con chim én
Ào ạt bay nhanh tới nơi nào là những con quạ,
Những con ó, những chim cú
Từ Phi châu bay đến nào là đủ loại hạc
Chim Róc mà những văn gia thi sĩ đã làm trở nên bất hủ, cũng bay liệng đến bấu víu cái sọ ông A Dong trong những ngón chân, cái sọ dừa đầu tiên
Con chim Ưng bay sà xuống từ phía chân trời, kêu la inh ỏi
Và từ Mỹ châu bay đến con chim sâu bé nhỏ
Từ Trung Hoa bay đến những con chim lạ dài thon yểu điệu
Và chỉ có một cánh và bay từng cặp
Rồi thì bồ câu bay đến, thánh thần tinh khiết, được hộ tống bằng những con chim thất huyền và con công có khoen tròn lốm đốm
Con phượng hoàng, đống củi lửa mà nó tự thoát thai, trong một khoảnh khắc, vây phủ mọi vật bằng tro bụi hừng hực.
Lìa bỏ những eo biển hiểm nghèo, những con nhân ngư cũng đến dự và cả ba ca hát véo von
Và tất cả, chim ưng, phượng hoàng và kỳ điểu ở Trung Hoa đều kết bạn thân thiết với chiếc máy bay
Bây giờ mi đang đi giữa đô thị Ba Lê, hoàn toàn cô đơn giữa đám đông thiên hạ
Những bầy ô tô buýt rền rĩ chạy lướt gần mi
Nỗi đau quằn quại đau đớn của tình yêu bóp nghẹn cổ họng cơ hồ như là nó sẽ không nên bao giờ được yêu nữa
Nếu mi sống vào thời xưa mi sẽ xin vào tu viện
Anh cảm thấy hổ thẹn khi anh bỗng tự bắt gặp mình đang đọc kinh
Mi tự chế nhạo mi và tiếng cười mi nổ lẹt đẹt như lửa Địa ngục
Những tia lửa của tiếng cười mi loé vàng đáy sâu đời mi
Đó là một bức tranh treo trong một bảo tàng luyện đen tối
Và đôi khi mi đi đến nhìn nó thật gần.
Hôm nay mi đang bước đi giữa Ba Lê, những người đàn bà loang máu
Đó là (và tôi không muốn nhớ làm gì nữa) đó là thời tàn tạ của sắc đẹp
Vây quanh bởi những ngọn lửa hừng hực, Đức Bà nhìn tôi ở tại Chartres
Máu của Thánh Tâm người đã tràn ngập tôi tại Montmatre
Tôi đã chán nghe những lời lành thánh
Tình yêu mà tôi đau khổ chỉ là một cơn bệnh xấu hổ
Và hình bóng ám ảnh kia đã làm mi sống sót lại trong cơn mất ngủ và trong cơn đau nhói quằn quại
Hình ảnh ấy cứ luôn luôn lướt qua gần mi
Bây giờ mi đứng bờ biển Địa Trung Hải
Dưới những cây chanh trổ hoa quanh năm
Với những người bạn mi đi dạo bằng thuyền
Một người bạn thì ở Nice, một người ở Menton và hai người ở La Turbie
Chúng tôi sợ hãi nhìn những con bạch tuộc ở đáy sâu và giữa rong rêu những con cá bơi lội, những hình ảnh của đấng Cứu Thế
Mi đang ở trong một cái vườn của một lữ quán gần thành Prague
Mi cảm thấy hoàn toàn hạnh phúc, một đoá hoa hồng trên bàn và mi ngắm nhìn con bọ cam nằm ngủ trong lòng hoa hồng, thay vì viết câu chuyện bằng văn xuôi
Bàng hoàng sợ hãi, mi thấy mi in bóng trong những đá mã não ở Saint Vit
Mi buồn bã chán đời lúc mi nhìn mi ở đó
Mi giống như Lazare hoảng hốt điên cuồng bởi ánh sáng ban ngày
Những cây kim đồng hồ ở khu phố Do Thái chạy ngược lại
Và mi cũng thụt lùi ngược lại chậm chạp trong cuộc đời mi lúc mi bước lên Hradchin, và
Vào buổi chiều lúc mi lắng nghe những bài ca Tiệp khắc vọng lên từ trong tửu quán…
Bây giờ mi đang ở Marseille, đứng giữa những trái dưa hấu
…Bây giờ mi đang ở Coblence tại lữ quán Géant
Bây giờ mi đang ở La Mã dưới cây sơn trà Nhật bản
Bây giờ mi đang ở Amsterdam với một cô gái mà mi cảm thấy xinh đẹp và thực ra cô ấy thì trong xấu
Nàng sẽ lấy một sinh viên ở Leyde
Người ta mướn phòng bằng chữ La tinh cubicula locanta
Tôi nhớ rằng tôi đã ở đó 3 ngày và nhiều như ở Gouda
Mi đang ở Ba Lê nơi phòng dự thẩm
Như một tên tội đồ, họ quản thúc mi
Mi đã làm những chuyến hành trình đau khổ và vui sướng
Trước khi để ý đến điều giả nguỵ và tuổi tác già nua
Mi đã đau khổ vì tình yêu hồi hai mươi và ba mươi tuổi
Tôi đã sống như thằng điên và tôi đã đánh mất thời gian
Mi không còn dám nhìn những bàn tay của mi vào mỗi một phút giây trong đời, mi đều muốn gục đầu nức nở
Nức nở khóc mình, khóc người mình yêu và khóc tất cả những gì làm mi kinh hãi
Mi nhìn những người di trú nghèo nàn này với đôi mắt rưng rưng nước mắt
Họ tin thờ Thượng Đế. Họ đọc kinh cầu nguyện
Những người đàn bà cho con bú sữa
Họ làm cho nhà ga Saint - Lazare man mác mùi hôi của họ
Họ tin thờ ngôi sao họ như ba vua đạo sĩ
Họ mong làm ăn được ở A Căn Đình
Và trở về quê hương họ khi đã làm giàu
Mỗi một gia đình mang theo một cái mền nhung mao đỏ như anh mang trái tim anh
Cái mền nhung mao ấy và những giấc mộng của chúng ta cũng đều hư ảo
Và người di trú ở lại đây và cư ngụ tại đường Hoa Hồng hay đường Des Ecouffes trong những túp lều bệ rạc
Tôi thường gặp họ vào buổi chiều lúc họ hóng mát trên đường phố và như những quân cờ, họ ít khi di động
Họ phần lớn đều là người Do Thái; những người đàn bà mang tóc giả, họ vẫn ngồi xanh xao tiều tuỵ ở cuối hiệu buôn
Mi đứng trước quầy hàng rượu bẩn thỉu
Mi uống một tách cà phê rẻ tiền, cùng với những người nghèo khổ bạc mệnh
Lúc ấy là ban đêm mi ở trong một hiệu ăn
Những người đàn bà này không bần tiện nham hiểm mặc dù họ sống với nhiều lo âu phiền muộn
Họ đều làm tình nhân họ đau khổ, dù là kẻ xấu xí nhất
Người đàn bà ấy là con gái của một bác cảnh sát Jersey
Những bàn tay nàng (mà tôi chưa từng thấy trước kia) đều cứng và nứt nẻ
Tôi rất thương hại những đường nhăn ở bụng nàng
Bây giờ tôi hạ thấp miệng tôi với một cô gái nghèo nàn có tiếng cười kinh hãi
Mi chỉ một mình cô đơn và buổi sáng sắp đến
Người bán sữa làm khua động những thùng sữa trên đường phố
Đêm tàn và lướt đi như nàng Métive tuyệt trần
Đó là Ferdine hư ngụy hay Léa chuyên tâm ân cần
Và mi uống li rượu này đốt cháy như cuộc đời mi
Cuộc đời mi mà mi uống cơ hồ như rượu mạnh
Mi bước về xóm Auteuil. Mi muốn đi bộ về nhà
Và nằm ngủ giữa những ngẫu tượng đem từ miền Océanie và Guinée
Những ngẫu tượng ấy là những đấng Ki Tô theo hình thể khác và theo tín ngưỡng khác
Đó là những đấng Ki Tô nhỏ bé của những hoài vọng đen tối
Giã từ Giã từ
Mặt trời bị cắt cổ.
Nguồn: Phạm Công Thiện, Ý thức mới trong văn nghệ và triết học (Luận về ý thức mới sau mười năm lang bạt), tái bản lần thứ tư, NXB An Tiêm, Sài Gòn, 1970. Bản điện tử do talawas thực hiện. Bản đăng trên talawas với sự đồng ý của tác giả.
Phạm Công Thiện
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét