Những cái cổ xưa nhất ở Sài Gòn
1. Ngôi trường xưa nhất
Trường Lê Quý Đôn được xây vào năm 1874, hoàn tất năm 1877 do người Pháp quản
lý. Lúc đầu trường có tên Collège Indigène (Trung học bản xứ), rồi đổi thành
Collège Chasseluop Laubat. Năm 1954, trường mang tên Jean Jacques Rousseau. Năm
1967, trường được trả cho người Việt quản lý mang tên Trung tâm giáo dục Lê Quý
Đôn. Từ năm 1975 đến nay đổi tên là trường Trung học phổ thông Lê Quý Đôn. Hơn
một thế kỷ qua trường vẫn giữ được kiến trúc ban đầu.
2. Nhà máy điện xưa nhất
2. Nhà máy điện xưa nhất
Nhà máy điện Chợ Quán được xây vào năm 1896, máy phát điện chạy bằng hơi nước
có 5 lò hơi với 150m2, cung cấp dòng điện 3 pha, công suất chưa tới 120MW
[Megawatt]. Máy phát điện chính công suất 1000A/h [A=Ampere hay Amp./h=hour].
Hiện nay, nhà máy đã được trang bị hiện đại với 7 máy phát điện, hòa với lưới
điện quốc gia cung ứng phần quan trọng cho lưới điện thành phố. Nhà máy tọa lạc
tại số 8 Bến Hàm Tử, quận 5.
3. Bệnh viện xưa nhất
3. Bệnh viện xưa nhất
Bệnh viện Chợ Quán được xây vào năm 1826 do một số nhà hảo tâm đóng góp, sau đó
hiến cho nhà nước. Năm 1954-1957 [Bệnh viện được] giao cho Quân đội và đổi tên
thành Viện Bài lao Ngô Quyền. Năm 1974, đổi thành Trung tâm Y tế Hàn-Việt với
522 giường. Tháng 9/1975, mang tên Bệnh viện Chợ Quán. Đến ngày 5/9/1989 chuyển
thành Trung tâm Bệnh Nhiệt đới. Hiện nay có 610 Cán bộ-Công nhân viên và 550
giường bệnh.
4. Nhà hát xưa nhất
4. Nhà hát xưa nhất
Nhà hát thành phố do kiến trúc sư người Pháp khởi công và hoàn tất vào ngày
17/1/1900. Các phù điêu bên trong được một họa sĩ tên tuổi ở Pháp vẽ giống như
mẫu của các nhà hát ở Pháp cuối thế kỷ XIX. Nhà hát là nơi trình diễn ca nhạc kịch
cho Pháp kiều xem. Năm 1956-1975, Nhà hát được dùng làm trụ sở Hạ nghị viện cho
các chính phủ Đệ I & II Việt Nam Cộng Hòa; tháng 5/1975 trở thành Nhà hát
thành phố với 750 chỗ ngồi. Kỷ niệm 300 năm Sài Gòn, toàn bộ phần kiến trúc bên
ngoài Nhà hát đã được tu sửa lại như lúc nguyên thủy
5. Khách sạn xưa nhất
5. Khách sạn xưa nhất
Khách sạn Continental tọa lạc tại 132-134 Đồng Khởi, được xây vào năm 1880 do
Kiến trúc sư người Pháp thiết kế, tên khách sạn có ngay từ những ngày đầu. Sau
ngày cướp được miền Nam, khách sạn Continental bị tụi Bắc Việt đổi thành Hải
Âu. Đến năm 1989, khách sạn được nâng cấp, chỉnh trang và lấy lại tên cũ
Continental với diện tích 3430m2, cao 3 tầng, nơi đây đã từng đón tiếp các vị tổng
thống, thống đốc, nhà văn, người mẫu nổi tiếng. Ngày nay, khách sạn Continental
là một trong những khách sạn đạt tiêu chuẩn quốc tế
6. Nhà thờ xưa nhất
6. Nhà thờ xưa nhất
Nhà thờ Chợ Quán tọa lạc tại số 20 Trần Bình Trọng, P.2 [phường], Q.5 [quận] được
xây vào năm 1674 là nhà thờ cổ nhất tại Sài Gòn và cổ nhất ở miền Nam. Ngôi
thánh đường nằm ở vị trí trung tâm, có kiến trúc kiểu phương Tây, lợp ngói đỏ,
có thể chứa khoảng 1000 người. Ngoài việc sinh hoạt tôn giáo, Họ đạo Chợ Quán
tích cực tham gia công tác xã hội giúp đỡ người nghèo. Trải qua hơn 3 thế kỷ
Nhà thờ Chợ Quán đã được trùng tu nhiều lần. Hiện nay, nơi đây có phòng khám và
phát thuốc từ thiện dưới quyền quản lý của Hội Chữ thập đỏ [Hội Hồng Thập Tự]
Quận 5.
7. Ngôi đình xưa nhất
7. Ngôi đình xưa nhất
Một trong những ngôi đình cổ nhất của đất Gia Định xưa và xưa nhất Nam Bộ là
đình Thông Tây Hội, được xây vào khoảng năm 1679, là chứng tích còn nguyên vẹn
nhất của thời kỳ dân Ngũ Quảng kéo vào khai khẩn vùng Gò đất có nhiều cây Vắp
(từ đó trở thành tên địa phương là Gò Vấp). Đình lúc đầu là của thôn Hạnh
Thông–thôn khởi nguyên của Gò Vấp, sau đổi thành Thông Tây Hội (do sự sáp nhập
của thôn Hạnh Thông Tây (thôn Mới) và thôn An Hội). Đình Thông Tây Hội có vị
Thành Hoàng rất độc đáo. Hai vị thần thờ ở đình là hai hoàng tử con vua Lý Thái
Tổ, do tranh ngôi với thái tử Vũ Đức nên bị đày đi khai hoang ở vùng cực Nam tổ
quốc và trở thành “Thủy tổ khai hoang” trong lịch sử Việt Nam; hai vị thần đó
là: Đông Chinh Vương và Dục Thánh Vương. Ngôi đình còn giữ được khá nguyên vẹn
về quy mô và kiến trúc, kết cấu, với những chạm khắc đặc trưng Nam bộ. Đình
Thông Tây Hội thuộc P.11, Gò Vấp.
8. Nhà văn hóa xưa nhất
8. Nhà văn hóa xưa nhất
Cung Văn hóa Lao Động. Năm 1866, với tên gọi Cèrcle Spertif Saigonnais được xây
dựng làm sân thể thao cho các quan chức người Pháp với những hồ bơi, sân quần vợt,
phòng đấu kiếm và phòng nhảy đầm. Thời Mỹ chiếm đóng, sân chơi được mở rộng hơn
[và] phục vụ cho cả giới quý tộc. Tháng 11/1975, Ủy ban Quân quản Sài Gòn–Gia Định
trao toàn bộ khu này cho Liên đoàn Lao động Thành phố để biến cải thành khu hoạt
động văn hóa thể thao và vui chơi giải trí cho công nhân lao động, lấy tên là
Câu lạc bộ Lao Động, sau đổi thành Nhà văn hóa Lao Động, và rồi là Cung Văn hóa
Lao Động. Diện tích 2.8ha, với 132 năm hình thành và phát triển, Cung Văn hóa
Lao Động là Nhà văn hóa cổ và lớn nhất của Sài Gòn.
9. Công viên lâu đời nhất
9. Công viên lâu đời nhất
Thảo Cầm Viên do người Pháp xây vào năm 1864, nhà thực vật học nổi tiếng người
Pháp Louis Pierre làm giám đốc đầu tiên. Mục đích xây dựng Thảo Cầm Viên để ươm
cây giống trồng dọc các đại lộ Sài Gòn, đồng thời là nơi nuôi & trồng những
động & thực vật [thuộc] miền nhiệt đới mà các Thảo Cầm Viên của Pháp [lúc bấy
giờ] chưa có. Năm 1865, chính phủ Nhật đã hỗ trợ khoảng 900 giống cây quý như:
Chizgnamat, Goyamtz, Acamatz, Coramatz, Kayanoki, Kayamaki, Enoki, Maiki,
Asoumaro, Sengni, Momi, Cashi, Kiaki, Inoki... Động vật của Thảo Cầm Viên khá
phong phú như: gà lôi, sếu, cu gáy, hồng hoàng, công, hưu, nai, cọp, khỉ, chồn
hương, tắc kè, rùa, cọp xám, đóm đen, gà lôi xanh, chim cú lợn... Đến năm 1989,
Thảo Cầm Viên được trùng tu, mở rộng và nhận thêm nhiều giống thú mới, trồng
thêm cây quý. Hiện nay, có 600 đầu thú thuộc 120 loài, 1823 cây gỗ thuộc 260
loài và nhiều loại cây kiểng quý trên diện tích 21.352m2. Năm 1990, Thảo Cầm
Viên là thành viên chính thức của Hiệp hội các vườn thú Đông Nam Á. Thảo Cầm
Viên đã tròn 134 tuổi, số lượng động & thực vật ngày càng tăng, nơi đây đã
gắn bó với từng bước đi lên của thành phố và là một trong những công viên khoa
học lớn nhất Đông Dương.
10. Ngôi nhà xưa nhất
10. Ngôi nhà xưa nhất
Ngôi nhà có tuổi thọ lâu đời nhất còn hiện diện tại Sài Gòn nằm trong khuôn
viên Tòa Tổng Giám Mục Sài Gòn, số 180 Nguyễn Đình Chiểu, P.6, Q.3. Năm 1790,
Vua Gia Long cho cất ngôi nhà này ở gần Rạch Thị Nghè làm nơi ở cho Linh Mục
Bá-Đa-Lộc và làm nơi dạy học cho Hoàng tử Cảnh. Ngôi nhà được xây bên bờ sông
Thị Nghè trong địa phận Thảo Cầm Viên bây giờ. Năm 1799, Bá-Đa-Lộc chết, ngôi
nhà được giao cho linh mục khác. Từ năm 1811 đến năm 1864 ngôi nhà bị đóng cửa
vì chính sách cấm đạo của triều đình Huế. Sau khi vua Tự Đức ký hòa ước với
Pháp, ngôi nhà được trao lại cho Tòa Giám Mục và được di chuyển về vị trí đường
Alexandre de Rhodes hiện nay. Sau đó năm 1900 Tòa Giám Mục được xây cất tại 180
đường Richaud (nay là đường Nguyễn Đình Chiểu) thì ngôi nhà gỗ lại được dời về
đây làm nhà thờ của Tòa Giám Mục. Ngôi nhà 3 gian 2 chái, lợp ngói âm dương, sườn,
cột bằng gỗ, khung cửa và các khung thờ đều được chạm trổ công phu [với] hình
hoa, lá, chim thú, hoa văn. Trong các di vật còn lại của ngôi nhà có một di vật
có giá trị lịch sử lớn, đó là đôi liễn gỗ có tám chữ triện khảm xà cừ là tám chữ
vua Gia Long ban tặng giám mục Bá-Đa-Lộc, một bên là “Tứ Kỳ Thịnh Hy”, một bên
là “Thần Chi Cách Tư”. Ngôi nhà được tu sửa vào năm 1980, cách tu sửa có tính
chất vá víu, cốt giữ lại những gì có thể giữ được. Trải qua hai thế kỷ ngôi nhà
không giữ được nguyên trạng nhưng đây là một di tích kiến trúc mang dấu ấn lịch
sử, tôn giáo và văn hóa nghệ thuật. Đây là một tài sản có giá trị mà các bậc tiền
nhân đã để lại cho chúng ta, không chỉ là truyền thống - bản sắc dân tộc mà còn
là bộ mặt quá khứ mang tính văn hóa kiến trúc, một khía cạnh văn minh tại một
vùng đất mới mọc lên từ đầm lầy, kênh rạch.
11. Ngôi chùa xưa nhất
11. Ngôi chùa xưa nhất
Ngôi chùa có cảnh trí đẹp nhưng nằm ở địa điểm không tiện đi lại nên được ít
người biết đến, [đó] là chùa Huê Nghiêm, tọa lạc ở 20/8 Đặng Văn Bi, Thủ Đức.
Chùa được thành lập năm 1721 do Tổ Thiệt Thùy (Tánh Tường) khai sáng. Tên chùa
lấy từ tên bộ kinh Hoa Nghiêm. Đây là chùa cổ xưa nhất trong các chùa ở TP Sài
Gòn nên còn gọi là Huê Nghiêm Cổ Tự. Những ngày đầu là một ngôi chùa nhỏ được
xây cất trên vùng đất thấp cách địa thế chùa hiện nay khoảng 100m. Sau đó, Phật
tử Nguyễn Thị Hiên pháp danh Liễu Đạo cúng đất để xây lại ngôi chùa [cho] rộng
rãi khang trang như hiện nay. Qua nhiều lần trùng tu vào các năm 1960, 1969,
1990 mặt tiền chùa ngày nay mang dáng vẻ kiến trúc của chùa hiện đại nhưng các
gian phía trong vẫn giữ nguyên kiến trúc cổ truyền, mái gian mặt tiền được cấu
trúc gồm 3 lớp, nhỏ dần về phía trên. Các đường gờ mái chạy dài xuống cuối đầu
đăng đều trang trí bằng hoa văn hình cánh sen đối xứng, giữa là hình bánh xe
luân pháp, đặt trên hoa sen. Mái lợp ngói ống màu đỏ, đường viền mái ngói màu
xanh. Vườn chùa có nhiều cây xanh bóng mát, có 9 ngôi tháp cổ với nhiều kiểu
dáng khác nhau như những cánh sen vươn lên. Những hàng cột gỗ trong chùa được
khắc nổi các câu đối bằng chữ Hán màu đen kết hợp với việc chạm khắc mô típ
“long ẩn vân” dùng trang trí. Chùa Huê Nghiêm là một di tích Phật giáo quan trọng,
là nơi dừng chân, sống đạo và hành đạo của nhiều vị danh tăng uyên thâm Phật
pháp, có đạo hạnh và có đạo đức. Chùa cũng là bằng chứng về trình độ kiến trúc
và phong tục tập quán của người Việt trên vùng đất mới khai phá, mở ra nền văn
minh trên vùng đất hoang sơ.
12. Đường sắt đầu tiên ở thành phố
12. Đường sắt đầu tiên ở thành phố
Tuyến đường sắt đầu tiên ở nước ta là đoạn đường sắt Sài Gòn–Mỹ Tho dài 71km,
được xây vào năm 1881. Ga chính trước chợ Bến Thành, văn phòng đường sắt là tòa
nhà 2 tầng chiếm cả khu đất bao bọc bởi 3 đường Hàm Nghi-Huỳnh Thúc Kháng-Nam Kỳ
Khởi Nghĩa, nay là Xí nghiệp Liên hợp đường sắt khu vực 3. Xe lửa chạy bằng máy
hơi nước phải dùng than củi đốt nồi súp-de nên xe chạy khá chậm. Vì không cạnh
tranh nổi với xe đò trong việc chuyên chở hàng hóa và hành khách, đường xe lửa
Sài Gòn-Mỹ Tho [đã] ngưng hoạt động từ lâu. Sau năm 1975, Ga xe lửa Sài Gòn được
dời về Ga Hòa Hưng. Vào ngày 8/8/1998, người ta khởi công xây cất Trung Tâm Văn
Hóa Thương Mại Sài Gòn trên nền Ga Sài Gòn cũ.
13. Người Việt đầu tiên viết sử Việt Nam bằng tiếng Pháp
13. Người Việt đầu tiên viết sử Việt Nam bằng tiếng Pháp
Ông Trương Vĩnh Ký (1837-1898). Năm 1859, Pháo hạm Pháp bắn
vào cửa biển Đà Nẵng và thành cũ Gia Định, triều đình nhà Nguyễn bắt buộc chấp
nhận mở cửa đất nước cho tư bản thực dân Pháp xâm nhập. Trong giai đoạn lịch sử
mới, người Việt Nam từng bước tiếp xúc với ngôn ngữ và văn minh mới.
Trương Vĩnh Ký là một trong những người sớm tiếp xúc và hấp thụ ngôn ngữ văn
hóa phương Tây đã trở thành học giả có nhiều sáng tác nhất bằng cả tiếng Pháp
và tiếng Hán-Việt. Ông là người Việt Nam đầu tiên viết sử Việt Nam bằng
tiếng Pháp. Cuốn “Giáo trình lịch sử An Nam” đã được xuất bản gồm hai tập dày
462 trang. Đây thực sự là một công trình bác học biên soạn công phu dưới ánh
sáng của một phương pháp luận khoa học tiến bộ so với đương thời.
14. Tờ báo bằng chữ Quốc Ngữ đầu tiên
Tờ “Gia Định Báo” là tờ báo chữ Quốc ngữ đầu tiên ở nước ta ra đời tháng
4/1865. Tờ báo đăng những thông tin nghị định của nhà nước và những tin kinh tế
xã hội, lời bàn về thời cuộc, luân lý, lịch sử. Báo ra hằng tháng. Sau 4 năm
phát hành, chính quyền thuộc địa cho phép báo phát hành hàng tuần bằng quyết định
số 51 ngày 18/3/1869.
15. Tờ báo đầu tiên của Phụ nữ Việt Nam
15. Tờ báo đầu tiên của Phụ nữ Việt Nam
Ngày 1/2/1918 tờ báo chuyên về Phụ nữ đầu tiên ra đời là tờ
“Nữ Giới Chung” nhằm nâng cao trí thức, khuyến khích công-nông-thương, đề cao
người Phụ nữ trong xã hội, chú trọng đến việc dạy đức hạnh, nữ công, phê phán
những ràng buộc đối với Phụ nữ, đánh đổ mê tín dị đoan, động viên Phụ nữ quan
tâm đến việc “Nữ quyền”. Muốn có vị trí ngang hàng với nam giới ngoài việc tề
gia nội trợ phải am hiểu “tình trong thế ngoài”. Chủ bút tờ báo là nữ sĩ Sương
Nguyệt Anh, con gái nhà thơ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu, vốn có lòng yêu nước,
yêu thương đồng bào như thân phụ nên khi làm báo Bà có ý muốn làm diễn đàn để tỉnh
thức lòng yêu nước trong dân chúng. Tuy chỉ tồn tại được hơn 6 tháng nhưng “Nữ
Giới Chung” cũng đã gióng lên một hồi chuông nữ quyền còn vang mãi đến ngày
nay.
16. Cuốn từ điển tiếng Việt đầu tiên
“Đại Nam Quốc Âm Tự Vị” là cuốn từ điển tiếng Việt quốc ngữ La-tinh của Huỳnh Tịnh
Của gồm hai tập: Tập I xuất bản năm 1895, tập II xuất bản 1896 tại Sài Gòn. Bộ
từ điển chứa nhiều từ ngữ xưa, thành ngữ, tục ngữ, từ ngữ về thảo mộc, cầm thú
của Việt Nam và của miền Nam. Bộ từ điển này trở thành Từ điển
Bách khoa toàn thư đầu tiên về Nam Bộ.
17. Người kiến trúc sư Việt Nam đầu tiên
17. Người kiến trúc sư Việt Nam đầu tiên
Ông Nguyễn Trường Tộ (1828-1871) người làng Bùi Chu, huyện
Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Gia đình ông theo đạo Thiên Chúa, ông giỏi chữ Nho,
thông hiểu Ngũ Kinh Tứ Thư, học chữ Quốc ngữ và chữ Pháp với các giáo sĩ. Ông
được giám mục Gauthier đưa sang Paris năm 1858. Ông am hiểu chính trị,
kinh tế, quân sự, ngoại giao, pháp luật. Năm 1861 ông trở về nước, tàu ghé Sài
Gòn thì nơi đây đã đổi chủ, ông buộc phải làm phiên dịch cho người Pháp. Trong
lúc ở Sài Gòn, ông đã đứng ra xây cất tu viện dòng thánh Phao-lô (số 4 Tôn Đức
Thắng). Đây là công trình xây cất theo kiến trúc Châu Âu do người Việt Nam thực
hiện tại Sài Gòn. Công trình được khởi công từ tháng 9/1862 đến 18/7/1864 hoàn
thành gồm nhà nguyện với ngọn tháp nổi bật trên cao xây theo kiểu Gô-thic, một
tu viện, một nhà nuôi trẻ mồ côi và một tháp chuông. Công trình xây cất này là
kết quả nghiên cứu kiến trúc châu Âu của Nguyễn Trường Tộ khi ông ở Hồng Kông.
Qua nhiều lần sửa chữa trùng tu, ngày nay tu viện thánh Phao-Lô vẫn giữ được đường
nét kiến trúc xưa, chứng tỏ tài năng kiến trúc của Nguyễn Trường Tộ không thua
gì các kiến trúc sư người Pháp.
18. Người Việt Nam đầu tiên vẽ bản đồ địa lý và đồ họa Sài Gòn theo phương pháp
phương Tây
Ông Trần Văn Học, sinh quán ở Bình Dương, giỏi Quốc ngữ,
La-tinh và tiếng Tây Dương, được giới thiệu làm thông ngôn cho Nguyễn Ánh. Ông
phụ trách việc dịch sách kỹ thuật phương Tây, đồng thời kiêm việc chế tạo hỏa
xa, địa lôi và các loại binh khí. Năm 1790, Nguyễn Ánh xây thành Bát Quái. Trần
Văn Học phụ trách “phác họa đường sá và phân khu phố phường”. Ông rất có tài vẽ
địa đồ, họa đồ và kỹ thuật bản đồ như: tỷ lệ, trắc địa, và vẽ gần như chính xác
các thành trì và công trình. Ông được coi [như là] người đầu tiên vẽ bản đồ Sài
Gòn-Gia Định theo phương pháp Tây phương.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét