Nghĩ từ đá Vọng Phu
Bình Định có đá Vọng Phu
Có đầm Thị Nại, có cù lao Xanh
Đến ngã ba xã Cát Tiến, huyện Phù Cát, đi theo con đường tỉnh
lộ ven biển, đến đỉnh đèo Vĩnh Hội, thôn Vĩnh Hội, xã Cát Hải, hiện ngay bên
trái, trên một đỉnh núi thuộc dãy núi Bà, một hòn đá có hình một người mẹ bồng
con nhìn ra biển Đông. Đó là đá Vọng Phu.
Người Việt hẳn không xa lạ gì với câu ca dao “Đồng Đăng
có phố Kỳ Lừa/ Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh”. Lạng Sơn, nơi biên thùy, nơi
chứng kiến chiến tranh, binh đao và ly biệt. Cho nên, không phải ngẫu nhiên mà
“linh hồn cộng đồng” lại phổ lên hòn đá giống hình người mẹ bồng con cái tên
Hòn Vọng Phu - Tô Thị. Trong giai điệu bi tráng, những đối lập tâm trạng trong
bài hát Hòn Vọng Phu nổi tiếng của Lê Thương “Người đi ngoài vạn lý quan
san/Người đứng chờ trong bóng cô đơn/ Người không rời khỏi kiếp gian nan/ Người
biến thành tượng đá ôm con/Người tung hoành bên núi xa xăm/Người mong chồng còn
đứng muôn năm” đã nói lên cái tâm trạng bi thương của đá. Và nàng Tô Thị - Vọng
Phu đã trở thành biểu tượng, hiện thân của bất hạnh chia lìa, của trông chờ tuyệt
vọng. Dân gian đã đơn giản ghi lại lịch sử cộng đồng như vậy- một lịch sử có
tâm hồn!
Thật lạ! Không phải nơi biên thùy, đá Vọng Phu Bình Định nhìn
ra biển, ra đầm Thị Nại, rất gần với cửa Cách Thử nay đã bị lấp, chứng kiến
không biết bao nhiêu cuộc chiến tranh, tao loạn nhưng nguyên nhân Vọng Phu, nội
dung Vọng Phu không có nguồn gốc từ chiến tranh.
Chuyện về đá Vọng Phu do Quách Tấn kể lại trong Nước Non Bình
Định và Sự tích núi Vọng Phu trong Truyện cổ thành Đồ Bàn do nhà nghiên cứu
Nguyễn Xuân Nhân sưu tầm có một số chi tiết khác biệt nhưng cái cốt chính của
chuyện giống nhau. Chuyện rằng, có hai vợ chồng sống ven biển sinh được hai người
con, một anh trai và em gái. Người anh trong một lần sơ ý đã làm em gái bị
thương ở đầu, chảy nhiều máu. Tưởng em gái bị chết, vì sợ cha mẹ, người anh trốn
biệt khỏi nhà. Khi trưởng thành, người anh lấy vợ, sống cuộc sống bình thường,
hạnh phúc. Tình cờ, người anh (tức người chồng) phát hiện vợ mình lại chính là
em gái ruột của mình. Lần này, ôm bi kịch không thể chia sẻ cùng ai, người chồng
(anh) ra đi vĩnh viễn không về. Người vợ (em) bồng con lên núi chờ chồng lâu
ngày hóa thành đá. Đó chính là đá Vọng Phu sừng sững trên núi, cô đơn nhìn ra
biển bây giờ.
Có một thông điệp từ câu chuyện éo le này: tình yêu không thể
sống cùng tội lỗi, ở đây là một trọng tội - tội loạn luân. Người chồng vì đạo
lý mà tự dứt bỏ tình yêu. Đó là nghĩa lớn vì sự tồn vong của cộng đồng, lời nhắc
nhở truyền đời về nghĩa vụ của cá nhân đối với cộng đồng. Nhưng sự éo le ngang
trái giữa tình yêu và đạo lý lại “vận” vào số phận người phụ nữ với bi kịch cá
nhân, với nỗi bất hạnh tình yêu không được đền đáp: “Mưa ba thu lệ tình
lai láng/Ngày rêu in một áng sầu văn” - Đại thi hào Nguyễn Du đã cảm tác về nàng
“Vọng Phu” như vậy. Ẩn sâu trong biểu tượng Vọng Phu, cùng một lúc dân gian gởi
gắm nhiều thông điệp về tình yêu, hạnh phúc, bổn phận.
Biểu tượng Vọng Phu chính là tác phẩm văn hoá mà dân gian tạo
nên bằng cách phổ hồn vào đá, “vĩnh hằng hóa” giá trị cốt lõi, cao quý nhất của
đời sống con người, một cách “khái quát hoá” giá trị cuộc sống của những con
người bình thường, lầm lũi làm ăn, không dễ làm được bài thơ thất ngôn bát cú
hay lục bác đúng niêm luật theo kiểu bác học. Cũng như bất cứ sự “ khái quát”
nào, cái nỗi bất hạnh về khát vọng tình yêu không được đền đáp được chắc lọc từ
đời sống tinh thần cộng đồng nhiều thế hệ, từ “trăm ngàn đau đớn” do chia lìa
đôi lứa biểu hiện trong văn hoá dân gian Bình Định.
Ai từng nghe Lý Vọng Phu hẳn sẽ cảm nhận được cái xa xót day
dứt tột cùng của sự cô đơn: “Trên trời có đám mây xanh/Chính giữa mây trắng,
chung quanh mây vàng/ Ôi tình phụ tình phàng/Chừ là duyên chi lắm bấy/Chừ cái dạ
em trông chồng mà không thấy chồng đâu/ Ôi ông chồng mình ơi/ Chi mà tệ tệ lắm
chàng/Chi mà bạc bạc lắm chàng”. Và đây là sự đau đớn khôn nguôi của tình
yêu đổ vỡ trong một bài ca dao: “Củ lang Đồng Phó, đỗ phụng Hà Nhung/
Chàng bòn thiếp mót đổ chung một gùi/ Chẳng qua duyên nợ sụt sùi/ Anh tức anh bỏ
cái gùi em đi/ Chim kêu trên núi Từ Bi/ Nghĩa nhơn anh còn bỏ huống chi cái
gùi”. Còn đây là nỗi buồn của thiếu phụ chờ chồng trong hát ru Bình Định: “Ngồi
sười núi, núi sườn non biết lấy ai bầu bạn/ Chim trên ngàn, chim trên ngàn vẫn
hát ru con ơi/ Con hỡi, con ơi. Con đừng khóc nữa/ Cha con còn đi biển chưa về.”.
Thật sự không thể kể hết trăm ngàn “mảnh hồn người” gắn tâm
trạng của mình vào cái khát vọng tình yêu - hạnh phúc hóa đá kia trong Lý
thương nhau, Lý dệt vải, Lý con cá…, trong hát ru và cao dao, dân ca xứ Nẫu. Đó
là cái cách mà văn hóa sống đời sống của nó trong tinh thần con người, thể hiện
vai trò của nó đối với đời sống tinh thần cộng đồng, nó làm cho cảm nhận về
chân thiện mỹ luôn hiện hữu, sống động trong những trải nghiệm tinh thần.
Không dừng ở văn hóa dân gian, cái nội dung khát khao - tình
yêu - hạnh phúc tiếp tục “đời sống của nó” trong sáng tác của rất nhiều
tác giả hiện đại. “Mưa vẫn mưa bay trên tầng tháp cổ/ Dài tay em mấy thuở
mắt xanh xao/ Nghe lá thu mưa reo mòn gót nhỏ/ Đường dài hun hút cho mắt thêm
sâu”, đó là sự cô đơn trong khao khát hòa hợp tình yêu mà nhạc sĩ Trịnh Công
Sơn mô tả bằng nhạc trong cảnh quang sáng tác tại Bình Định. Hoặc Xuân Diệu
dùng chính chất liệu biển để nói về khao khát tình yêu của con người: “Anh
xin làm sóng biếc/ Hôn mãi cát vàng em/ Hôn thật khẽ, thật êm/ Hôn êm đềm, mãi
mãi/ …Cũng có khi ào ạt/ Như nghiến nát bờ em/ Là thủy triều yêu mến/ Ngập bến
của ngày đêm”.
Thật khó mà kể hết những biểu hiện của sự khát khao hạnh
phúc- tình yêu trong các loại hình nghệ thuật thời hiện đại. Hiện đại có nguồn
gốc từ truyền thống, hẳn là như vậy rồi. Sự tiếp nối đó chắc chắn đã nói lên một
sự thật rằng khao khát tình yêu của con người quá- khứ- truyền- thống chẳng
khác gì so với con người thời hiện đại. Vì đó là bản chất của cuộc sống.
Mà cũng thật lạ, khát khao tình yêu - hạnh phúc, ý nghĩa của nó với số phận cá
nhân trong câu chuyện về người đàn bà hóa đá thật giống với câu chuyện Mỵ Châu-
Trọng Thủy với cái giếng ngọc- hiện thân của Mỵ Châu.
Có thể hơi khập khiễn một chút khi so sánh chủ đề của một câu
chuyện dân gian Bình Định - Việt Nam với câu chuyện tình nổi tiếng Romeo và
Juiliet của đại văn hào William Shakespear người Anh, nhưng rõ ràng chủ đề tình
yêu gắn với ý nghĩa cuộc sống cá nhân ở hai câu chuyện có xuất xứ từ hai nền
văn hóa khác nhau lại giống nhau đến kỳ lạ. Các nhà văn hóa nói rằng đi đến tận
cùng của truyền thống sẽ gặp cái nhân loại và hiện đại thật quả không sai.
Trong hành trình đi tìm vẻ đẹp tinh thần của người Bình Định
trong tác phẩm nổi tiếng Nước non Bình Định, Quách Tấn đã bắt gặp và ngưỡng mộ
biểu tượng Vọng Phu. Ông đã mô tả kỹ và viết thơ về cái mà ông gọi là “con người
đá”: “Bóng nhạn trời thu tê tái ruột/ Tiếng quyên đêm hạ vẩn vơ hồn”.
Trong cái thời chiến tranh ly biệt mà ông sống, Quách Tấn đi tìm giá trị muôn
thuở của đời người âu cũng là chuyện bình thường. Và trong cách nhìn của nhà
thơ nổi tiếng, đá Vọng Phu như một biểu tượng tinh thần đã trở thành di sản văn
hóa tiêu biểu của người Bình Định.
Đá Vọng Phu bây giờ vẫn nhìn ra biển Trung Lương xã Cát Tiến.
Khung cảnh hoang sơ của núi rừng, rừng dương ven biển, bãi tắm Cánh tiên, của bờ
cát trắng dài với những làn sóng bốn tầng tuyệt đẹp nơi đây đang thu hút khách
du lịch đến ngày một nhiều. Cùng với thiên nhiên, du khách còn được chiêm vọng
đá Vọng Phu để được cùng trải nghiệm với người xưa khát vọng lớn nhất của đời
người - khát vọng về tình yêu - hạnh phúc.
NGÔ HỒNG SƠN
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét