Thứ Năm, 26 tháng 7, 2018

Đem tâm tình của người thầy thuốc nghe Trường Ca Hàn Mặc Tử của Phạm Duy

Đem tâm tình của người thầy thuốc nghe 
Trường Ca Hàn Mặc Tử của Phạm Duy
Buổi sáng, những trận gió ào ào của cơn bão rớt run cây đổ lá thu vàng, hất tung tro bụi ở bên kia ngọn đồi, chỗ mấy tuần trước trận đại hỏa tai Cali vừa xảy ra. Tôi ra vườn "chơi" với gió bão. Nhặt mấy quả cam chín rụng, hái mấy trái lựu gió quái đã làm vỏ nứt bung ra và mượn bão bẻ măng. Buổi xế trưa, gió cuốn gói, vác bị gió đi nơi khác. Trời quang mây tạnh. Một buổi chiều thu, sau cơn bão rớt, thật đẹp. Gần tối, tôi đến căn nhà ấm cúng ở nẻo đường Người Đi Săn (Hunter Lane), Thị Trấn Giữa Đàng (Midway City), tư thất nhạc sĩ Phạm Duy. 
Tôi đến với anh chị Phạm Duy và trường ca Hàn Mặc Tử. Tôi nói hai chữ ấm cúng không màu mè một chút nào cả. Anh Phạm Duy đã cho chúng tôi thưởng thức nhạc trong "tổ ấm" của anh. Nếu tôi không lầm, cái giường ngủ của anh đã được khiêng đi chỗ khác để lấy chỗ làm "sân khấu". Với con mắt của người thầy thuốc, nhìn dấu chân giường in hằn sâu trên thảm, tính ưa khôi hài của tôi lại nổi dậy: anh Phạm Duy còn "khỏe" lắm! Chả thế mà anh còn sáng tác rất hăng, bằng chứng là giờ đây chúng ta lại có thêm một trường ca nữa: trường ca Hàn Mặc Tử.
Căn phòng đầy những máy móc điện tử và điện não. Có lẽ Phạm Duy là một "ông già" chơi máy móc hiện đại cừ khôi vào bậc nhất không kém gì mấy tay trẻ hiện nay. Tôi không phải là một người phê bình âm nhạc hay ca khúc và không bao giờ dám làm. Vả lại làm việc đó đối với  anh Phạm Duy là một việc thừa. Tôi chỉ xin ghi lại đây một vài tâm tình của người thầy thuốc khi nghe thơ của một người bệnh bất hạnh nhưng đa tài Hàn Mặc Tử và nghe thơ ông được cây đũa thần Phạm Duy phổ thành trường ca.
Ai cũng biết rõ Phạm Duy, ngoài những bản nhạc nổi tiếng với lời ca do chính anh soạn, còn là một tay phù thủy phổ thơ thành nhạc. Anh đã đưa những nhà thơ tiếng tăm thêm nổi danh vời vợi cũng như anh đã đưa những người làm thơ chưa ai biết tên trở thành biết tiếng. Anh đã phổ thơ cũ, thơ tiền chiến cho đến thơ mới, thơ trong nước thơ hải ngoại, trước và sau 1975, kể ra không xuể. Xin kể một vài bài: Cô Hái Mơ của Nguyễn Bính, Tiếng Thu Lưu Trọng Lư, Tiếng Sáo Thiên Thai của Thế Lữ, Ngậm Ngùi của Huy Cận... Kiếp Nào Có Yêu Nhau, Đừng Bỏ Em Một Mình của Hoài Trinh, Mùa Thu Paris, Tiễn Em của Cung Trầm Tưởng, Đồi Tím Hoa Sim của Hữu Loan, Kỷ Vật Cho Em của Linh Phương, Khi Tôi Về của Kim Tuấn, Còn Chút Gì Để Nhớ của Vũ Hữu Định... Thơ đạo Đưa Em Tìm  Động Hoa Vàng, Em Lễ Chùa  Này của Phạm Thiên Thư. Thơ "phi đạo" Thà Như Giọt Mưa,  Em Hiền Như Ma Soeur... của Nguyễn Tất Nhiên... Thơ hải ngoại như Mười Năm Một Chuyện Tình Buồn của Hà Huyền Chi; Thư Em Đến, Mai Mốt Ông Về của Cao Tần, Mây Trôi, Trôi Hết Một Đời của Nguyễn Xuân Quang... Rồi Hoàng Cầm Ca thơ Hoàng Cầm... Dĩ nhiên còn nhiều nữa.
Khi được hỏi  lý do tại sao anh phổ thơ Hàn Mặc Tử thành một trường ca, anh cho biết, anh vốn là người yêu thơ ngay từ khi còn nhỏ, lớn lên anh có nhiều bạn làm thơ hay, riêng về Hàn Mặc Tử (HMT), anh đã bị "ám ảnh từ khi biết yêu những bài thơ đầu đời của ông (HMT)" và anh "còn  yêu cho tới bây giờ". Trước đây anh cũng đã phổ bài thơ Tình Quê của HMT vào năm 1958. Bài Giết Người Trong Mộng anh soạn vào cuối thập  niên 60 cũng có xuất xứ từ hai câu thơ của HMT. Anh cũng cho biết thêm "sau khi đi vào Đạo Khúc, Thiền Ca  năm ngoái" anh muốn tiếp tục "nói tới chuyện hóa giải nỗi oan khiên to lớn của cuộc đời Việt Nam sau nửa thế kỷ chiến tranh và hận thù bằng con đường đi vào Đạo để siêu hóa mọi sự". Anh đã thấy trong thơ HMT có Tình Yêu, Đau Khổ, Cái Chết và Đức Tin (Đạo), những chủ đề mà anh cũng đã theo đuổi từ lâu. Và anh đã làm trường ca HMT này.
Về kỹ thuật, anh lè lưỡi "phải thú thực là phổ thơ Hàn Mặc Tử khó vô kể. Trong một năm trời, vật lộn với thơ Hàn MặcTử, nhiều khi tôi chỉ muốn chết theo thi sĩ." Anh muốn giữ nhịp điệu trong thơ HMT nên phải tìm  cách "phong phú hóa ở giai  điệu hay ở thể điệu".
Trường ca HMT gồm có ba phần: Phần một với  tựa đề Tình Quê gồm những bài Tình Quê, Đây Thôn Vĩ Dạ, Đà Lạt Trăng Mờ. Phần này Phạm Duy diễn đạt sự "bình thản trong lòng cũng như trong tâm hồn của một con người hay là của một  nước Việt Nam thanh bình". Dưới con mắt y học, chúng tôi lại cho rằng đây là tuổi dậy tình và thời kỳ ủ bệnh của HMT. Hàn Mặc Tử sinh năm 1912. Năm 1936, lúc hai mươi bốn tuổi biết mình bị bệnh nhưng chưa biết mình bị bệnh Hansen. Một hai năm sau biết mình bị bệnh hiểm nghèo. Năm hai mươi tám tuổi chết tại nhà thương Qui Hòa (Qui Nhơn và Tuy Hòa). So với các bệnh nhiễm trùng khác, thời gian ủ bệnh của Hansen rất lâu, tối thiểu là hai đến ba năm, trung bình là năm đến bẩy năm, tối đa là 40 đến 50 năm. Như thế HMT, tính theo trung bình, đã mang bệnh từ lúc mười bẩy, mười tám tuổi, ở tuổi đang dậy tình và biết mình bị Hansen vào tuổi 25, 27, ở tuổi tình dục đang hoạt động mãnh liệt. Trùng Hansen cộng với vốn tính đa tình, phóng túng của người nghệ sĩ đã là yếu tố chính yếu  khiến tình dục trong thơ HMT đã "khác lạ", ngay của lúc bệnh chưa hiện ra ngoài, ngay cả lúc ông làm thơ khi mười bảy mười tám tuổi. Hiểu như thế, ta sẽ thông cảm với HMT và thông cảm luôn với các nhà phê bình văn học. Phạm Thế Ngữ trong Việt Nam Văn Học Sử cho rằng: ''HMT ca tụng ái tình với một giọng suồng sã đắm đuối''.      
Bóng nguyệt leo song sờ sẫm gối,      
Gió thu lọt cửa cọ mài chăn...      
Một nường con gái trông xinh xinh,      
Ống quần vo xắn lên đầu gối,
Da thịt, trời ơi, trắng rợn mình...       
Ồ kìa bóng nguyệt trần truồng tắm      
Lộ cái khuôn vàng dưới đáy khe...
Ở đây chúng tôi xin nhấn mạnh một điều là trong thơ HMT lúc nào cũng đã có sự hiện diện của trùng Hansen trong người ông rồi. Ngay cả thơ tình ông làm hồi mười bẩy mười tám tuổi cũng đã là thơ có mặt trùng Hansen trong thời kỳ ủ bệnh. Trùng Hansen "tha thẩn" hai tuần mới phân sinh (divide), mới nẩy nở một lần. Chính trùng Hansen đã làm cho thơ ông "nhiều khúc mắc... lời thơ nhiều khi rất thô" (Vũ Ngọc Phan). Những vi trùng này cắn, đục, khoét, cấu, xé, rứt... vào dây thần kinh HMT, lúc "tha thẩn", lúc cuồng điên, khiến cho vần điệu thơ ông nhảy dội lên, nhảy đổng lên, rồi buông rơi xuống hay bay nhảy tứ tung như bị tra tấn. Đây chính là điểm khó phổ thơ HMT thành nhạc và ngoài Phạm Duy khó có ai làm nổi.
Bài Tình Quê đã được Duy Cường soạn theo điệu nhạc chiều (serenade) theo Phạm Duy "rất tha thẩn, quanh co, lang bạt, man mác" được giọng ca đầm ấm Duy Quang hát lên:      
Trước sân anh thơ thẩn      
Đăm đắm trông nhạn về      
Mây chiều còn phiêu bạt      
Lang thang trên đồi quê...
Bài Đây Thôn Vĩ Dạ, theo Phạm Duy, "từ giai điệu qua hòa điệu cùng với tiếng hát Thái Hiền, tất cả đều rất mượt mà, rất đậm đà, rất ngọc ngà...". Giọng ca Thái Hiền điêu luyện và có sắc thái riêng, đòi hỏi tai nghe, nhiều lúc chúng tôi đã trách giới nghe nhạc bất công với người nữ ca sĩ này. Thái Hiền phải có một địa vị sáng chói hơn một vài ca sĩ khác. 
Sao anh không về chơi thôn Vĩ 
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên 
Vườn ai mướt qua xanh như ngọc 
Lá trúc che ngang mặt chữ điền... 
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh 
Ai biết tình ai có đậm đà.
Trong bài Đalat Trăng Mờ, Phạm Duy nói "tính chất thiêng liêng nổi bật qua sự nhắc đi nhắc lại một nhạc đề có nét nhạc minơ (giống như âm giai Nhật Bản dùng cho tiếng sáo shakuhachi), chuyển dần qua đoạn majơ trong sáng ở cuối bài". Hòa âm của Duy Cường làm nổi thêm giọng hát "đắm đuối" của Tuấn Ngọc. 
Đây phút thiêng liêng đã khởi đầu 
Trời mờ trong cảnh huyền mơ thực huyền mơ 
Trời sao đắm đuối trong sương nhạt 
Như đón từ xa một giấc mơ 
Xin hãy nín thinh chớ nói nhiều 
Xin hãy nín thinh chớ nói nhiều 
Để nghe đáy nước hồ reo nước hồ reo 
Để nghe tơ liễu run trong gió 
Và để nghe trời giải nghĩa YÊU...
Ở đây ta đã thấy Tình Yêu của HMT đã có trăng sao, vũ trụ, siêu thực và siêu nhiên. Ở đây đã thấy dấu chứng bệnh lấp ló. Chúng tôi sẽ nói rõ về y học ở dưới.
Phần thứ hai của trường ca với nhan đề Trăng Sao. Mở đầu bằng bài Trăng Sao Rớt Rụng. Giọng nữ Thái Hiền êm đềm trong sáng kèm theo với giọng nam Tuấn Ngọc hoảng hốt, kinh hoàng. Hòa âm của Duy Cường ở đây lên đến tuyệt đỉnh với những tiếng ma hú gọi hồn, tiếng sáo mèo ma quái rợn người, nhiều chỗ nghe nổi gai ốc. Ở đây có gió nổi, có dông tố, có bão táp như trời sáng nay. 
Lạy Chúa tôi, lạy Chúa tôi, lạy Chúa tôi 
Ôi vầng trăng cao sáng, 
Lạy chúa tôi, lạy Chúa tôi, lạy Chúa tôi 
Xin ban cho sáng thêm lên 
Sáng thêm lên cho không gian rất đẫm 
Cho hồn thơ mát rợn đến hương nguyền 
Lạy Chúa tôi, lạy Chúa tôi, lạy Chúa tôi... 
Tôi đi trong ánh trăng mờ 
Tìm con trăng lạc ngoài bờ bên kia... 
Ha ha tôi đuổi theo trăng
Ha ha tôi đuổi theo trăng 
Trăng bay tơi tả trăng tan 
Trăng ngã trên cành ngã trên cành vàng...
Nghệ sĩ yêu trăng từ ngàn xưa đến giờ, nhưng HMT không những yêu trăng mà điên với trăng, rồ với trăng, dại với trăng, quằn quại với trăng. Trước đây có người giải thích rằng trùng Hansen đục khoét thân xác nhiều về đêm, làm đau đớn nhiều về đêm nên bệnh nhân mất ngủ và lấy trăng làm nguồn an ủi, nơi giãi bày thống khổ. Tác giả biết chắc thêm một điều nữa là những vi trùng Hansen đã làm tổn hại dây thần kinh mắt  của người bệnh khiến bệnh nhân sống với ánh trăng êm dịu hơn. Nắng làm hại mắt thêm ở người bệnh đã bị tổn hại thần kinh thị giác. Nắng chói mắt.  Nắng đổ đom đóm mắt. Nắng chói lòa. Nắng lòa chòa. Nắng mờ mắt. Nắng hoa cả mắt. Nắng nhức mắt. Nắng nhói con mắt. Nắng lòa mắt. Nắng mù mắt. Nên người bệnh Hansen yêu trăng, sống với ánh trăng êm dịu, vỗ về. Với hồn thơ, với bệnh tật, có lẽ đã có biến chứng về mắt, với dấu ấn sỉ nhục của người đời nên HMT đã sống điên, rồ, dại cùng trăng. Tiếc một điều là tác giả chưa được xem hồ sơ bệnh lý của HMT. Không rõ trong đó có nói gì đến mắt của HMT không. Nhưng dựa vào sự viêc ông mất quá nhanh (chỉ bốn năm sau khi bệnh thấy rõ) như thế biến chứng vào thần kinh mắt không thể nào tránh khỏi. Theo một thống kê gần đây, ở Ba Tây có đến 33% người bệnh Hansen có thị độ dưới 20/200. Tương tự như thế, tranh Monet gần như chỉ có một màu xanh lam da trời. Monet cũng bị bệnh mắt. Tác giả sẽ có bài viết về nhà danh họa này.
Tới bài Hồn Là Ai? Bệnh đã không kiểm soát được nữa rồi. HMT đã điên loạn cùng trăng "cười như điên sặc sụa cả mùi trăng". HMT sắp chết, đã mê sảng, đã thấy hồn thấp thoáng lăm le muốn lìa  khỏi xác. Giọng ca Tuấn Ngọc ở đây, theo Phạm Duy "rất sân khấu"  (đã thoát ra nhạc phòng trà). Tiếng sáo mèo Duy Cường đưa vào đây như những luồng âm khí chết chóc, lạnh người, len lỏi quanh chỗ người nghe. Ôi tiếng sáo mèo ma quái. Hồn là ai, hồn là ai, tôi chẳng biết (3 lần)
Hồn theo tôi, theo tôi, 
hồn như muốn cợt tôi chơi 
Tôi chết giả và no nê vô vạn 
Cười như điên sặc sụa cả mùi trăng
Tôi đã cấu đã cào nhai ngấu nghiến 
Tôi đau vì rùng rợn đến vô biên...
Bài chót của phần hai trường ca là Trút Linh Hồn. Ở vào lúc sắp lìa đời này, HMT đã thúc thủ xuôi tay cho bệnh hoạn hành hình, ông cũng đã tìm thấy một nơi trăng sao nào đó ngoài trái đất này làm cõi sống vĩnh cửu và ông cũng đã tìm thấy đức tin trong Thiên Chúa, nên tâm hồn ông đã thấy được an bình. Thi sĩ đã chết trong trại cùi Qui Hòa. Tiếng sáo mèo ở đây được Duy Cường dùng làm kèn đám ma. Ôi tiếng kèn đám ma Việt Nam mấy ngàn năm não nuột. Sáng như gươm lạnh như ma (2 lần) 
Ngọn bút thần khai phước lộc nhà 
Mực lòa khí vị vô hồn chữ 
Văn bút hào quang ở miệng ta... 
Ta trút linh hồn giữa nơi đây 
Gió sầu vô hạn nuối trong cây 
Còn em sao chẳng hay gì cả 
Xin để tang anh đến vạn ngày
Nghe khúc nhạc này tôi thấy lại trước mắt những ngày còn học ở thành phố Qui Nhơn thuở nhỏ, những chiều cuối tuần cùng bạn bè vào Ghềnh Ráng lên đồi mộ Hàn Mặc Tử, nơi có tượng Đức Mẹ Maria, nhìn xuống hải cảng Qui Nhơn. Chúng tôi thường ngồi nhổ cỏ dại trên mồ, rồi sau đó đi hái sim, hái dù dẻ. Những lần đi một mình tôi cũng đã ngồi bên mộ HMT làm thơ. Trước đây mấy chục năm, HMT đã làm thơ vượt quỹ đạo địa cầu. Lúc đó, tôi cũng đã làm thơ đi ra ngoài vũ trụ không gian: Em bay,  Anh bay, Chúng mình bay về một hành tinh không có đêm ngày. (Nguyễn Xuân Quang, Thần Tượng)
Tôi nằm đây, trong tiêu điểm không gian, 
Nghe cái chết bầy nhầy man mát. 
Lật bàn tay xem giờ tận số 
Thằng bé con Thần 
Chết leo qua cửa sổ. 
Tôi giơ tay: bonjour!
Nó nhìn ngây ngô như thằng mán rừng... 
Nó bắn Khẩu súng chết, 
Vì không còn viên đạn. 
Mồ hôi ướt đầm trên trán. 
Nó lạy như tế sao. 
Tôi xách tai. "Mày hãy về mài dao cho sắc, 
Nói với tên Bắc Đẩu, Nam Tào, 
Sổ loài người không có tên tao trong 
Định Mệnh" 
(Nguyễn Xuân Quang,  Ngoại Sổ, Thần Tượng)
Tôi đi học, cặp đầy gối, chăn, màn, 
Khi bà cô non ngồi giảng láo, 
Tôi chui xuống gầm bàn, 
Bốn chân mắc bốn đầu màn, 
Ngủ về vô cực không gian 
(Nguyễn Xuân Quang - Ngủ Về Vô Cực Không Gian, Thần Tượng)
Chúng tôi cũng đã đi đến trại cùi Qui Hòa, nơi HMT trút hơi thở cuối cùng. Dọc đường gặp những người bệnh, họ né tránh đi qua lối khác, cúi gầm mặt xuống đất, không dám nhìn chúng tôi. Những người bệnh "hủi cùn hủi cụt" này làm củi, đốt than, nhưng thiên hạ bảo nhau rằng đừng có dại dột mà dính với cùi với hủi, nên bán chẳng ai mua...  họ lầm lũi đi "lầm lũi như thằng hủi đi chợ trưa" (ca dao)...
Phần ba của trường ca với nhan đề Ave Maria với ba bài Lạy Bà Là Đấng Tinh Tuyền Thánh Vẹn, Hỡi Sứ Thần Thiên Chúa Gabri-en và Phượng Trì, Ôi Phượng Trì. Vào những giây phút đớn đau cùng tận  do sự tra tấn hành hạ của bệnh tật và  dấu ấn sỉ nhục của người đời, HMT đã tìm thấy niềm tin nơi Thiên Chúa. Phần ba này do ba giọng ca Duy Quang, Thái Hiền, Thái Thảo trình diễn: 
Ma ri a Ma ri a Ma ri a linh hồn tôi ớn lạnh 
Ma ri a Ma ri a Run như run thần tử thấy long nhan
Ma ri a Ma ri a Run như run hơi th ở chạm tơ vàng...
Phạm Duy cho biết anh làm đoạn đầu ca khúc này từ lâu, có lẽ trước cả bài của Hải Linh.
Bài thứ hai Hỡi Sứ thần Thiên Chúa Ga brien: Hỡi Sứ Thầ n Thiên Chúa Ga brien (2 lần) Khi người xuống truyền tin cho Thánh Nữ Người có nghe thơ mầu nhiệm ra đời Người có nghe náo động cả muôn trời...
Riêng bài chót Phượng Trì Ôi Phượng Trì có cái tên rất lạ. Anh Phạm Duy cho biết anh đã đọc quyển Hàn Mặc Tử, Anh Tôi của Nguyễn Bá Tín và biết được rằng HMT khi coi phim kiếm hiệp Hỏa Thiêu Hồng Liên Tự, thấy nhân vật Cam Phượng Trì, đứng trên cao nhìn bạn bè bị tàn sát, buồn rầu phi thân bay mất dạng lên trời cao. Người tình Diệp Tiểu Thanh chạy đi tìm, réo gọi: "Phượng Trì! Phượng Trì! Phượng Trì!". Tiếng gọi này cho HMT ý niệm "bay về trời". Phượng Trì ôi Phượng Trì ôi Phượng Trì Phượng Trì ôi Phượng Trì ôi Phượng Trì... Thơ tôi bay suốt một thời chưa thấu, Hồn tôi bay biết bao gi ờ m ới đậu Trên triều thiên ngời chói vạn hào quang Trên triều thiên ngời chói vạn hào quang. Amen
Bài chót trong trường ca này, Phượng Trì Ôi Phượng Trì, cho thấy cái tài siêu đẳng soạn nhạc của Phạm Duy mà các tác giả khác không có được. Đó là láy, lặp lại và nhái đi nhái lại. Nhét vào đầu, nhét vào tai người nghe. Nhồi, nhồi, nhồi sọ. Chỉ mấy chữ Phượng Trì, ôi Phượng Trì thôi nhưng nghe lặp đi lặp lại in hằn vào tim óc, thấy rõ HMT bay về một khoảng không gian nào đó, muốn, muốn và muốn bay mãi, "hồn tôi bay biết bao giờ mới đậu"…
Nhắm mắt lại ngồi nghe trường ca HMT, tôi đã thấy rất rõ lại những nốt cùi hủi, những đốm da sượng sần, tôi đã thấy lở loét, tanh hôi máu mủ, tôi đã thấy quằn quại đớn đau, tôi đã thấy cuồng điên, tôi đã thấy rồ dại vì bệnh tật, tôi đã thấy những dấu sắt nung đỏ rực đóng dấu lên mặt người bệnh Hansen, tôi đã thấy phát vãng, tôi đã thấy lưu đày, tôi đã thấy tù đày trong những trại cùi hủi, tôi đã thấy những người áo trắng chữa bệnh trong nghèo khổ, tôi đã thấy hận thù, tôi đã thấy giá áo túi cơm, tôi đã thấy ngu si, dốt nát, tôi đã thấy nghèo đói, bệnh tật, tôi đã thấy những con người nhân danh này nhân danh nọ, lành lặn nhưng còn hủi cùn, hủi cụt hơn những người bệnh bị đóng dấu ấn sỉ nhục này...
Những câu thơ đó ngày trước chúng tôi đã đọc, chúng tôi đã chép trong những trang vở học trò, bây giờ Phạm Duy, Duy Cường đã biến hóa thần sầu, đã nói  lên gấp trăm, gấp vạn lần bằng âm nhạc, bằng giai điệu. Trong triệu triệu người bị bệnh  Hansen từ khi loài người có mặt trên trái đất này đến giờ, có lẽ hiếm hoi mới có một người làm thơ như Hàn Mặc Tử nói lên cái thống khổ, cái đau thương, cái khổ nhục của chứng bệnh bất hạnh này. Và bây giờ chỉ có Phạm Duy, một Phạm Duy duy nhất, mới chở  nổi những khổ đau đó tung ra ngoài quần chúng. Chúng ta biết rõ nhạc chở thơ đi thẳng vào lòng người một cách dễ dàng.
Chúng tôi không những chỉ muốn trường ca Hàn Mặc Tử này cất cánh bay khắp trong bầu trời dân Việt mà muốn nó bay ra khắp cõi trần gian này. Vì bệnh Hansen không phải chỉ giới hạn trong dân Việt. Nó là đại họa của loài người. Chúng tôi muốn trường ca này dịch ra trăm thứ tiếng và hát lên cho những người bệnh Hansen hiện đang bị giam giữ ở những nơi sơn cùng thủy tận, xó núi góc rừng nghe. Hát cho họ nghe, nói cho họ biết rằng chúng ta thấu hiểu nỗi thống khổ nhục nhã của họ. Hát lên chia sẻ với họ, hát lên cho  cả những người trong và ngoài y giới đang hy sinh chăm sóc, chữa trị mà không sợ "bị hủi dính vào người". Trường ca này không phải chỉ là một thông điệp của bệnh Hansen, một trái tim, một tấm lòng, một bàn tay xoa dịu mà còn là một trị liệu, một phương thuốc chữa trị cho người bệnh, cho những người  chữa bệnh và cho cả đại chúng đang hà khắc đọa đày những người bệnh Hansen bất hạnh này.
Mỗi con người sống trên trái đất này nhất là y giới có bổn phận góp một tay vào việc quảng bá trường ca Hàn Mặc Tử này để tận diệt chứng bệnh Hansen được mau chóng. Xin hãy góp một bàn tay. Ước ao một đêm nào đó, dưới ánh trăng ngoài trời, ở một trại Hansen nào đó, ở một xó núi, góc rừng nào đó, ở Ấn Độ, ở Ba Tây, ở Phi Châu, ở Việt Nam quê hương tôi, tôi được nghe trường ca này hát lên. 
Nhiều lúc tôi thấy mình là một người may mắn. May mắn đã được đeo ống nghe lắng nghe thấy những nốt nhạc tiếng tim và những dòng nhạc khởi nguồn ngay từ trong trái tim Phạm Duy. Cũng như tôi đã may mắn thấy bộ dây phát âm bằng vàng ở cổ họng ca sĩ Khánh Ly.
Tháng 12-1993
Nguyễn Xuân Quang 
Nguồn: Pham Duy’ Study 2007
Theo https://phamduy.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Người kể chuyện lúc nửa đêm và những giấc mộng 2

Người kể chuyện lúc nửa đêm và những giấc mộng 2 MƯỜI SÁU Trên mênh mông vùng đồi xứ Ai Len Tôi được Ban lãnh đạo khu sáng tác mang tên nh...