Tư tưởng khát vọng
Đ
|
ầu những năm 80, tôi gặp ông Trang Điền ngẫu nhiên trong một
lần lên chơi núi Công Sơn. Vào thời ấy đất nước còn khó khăn, thiếu thốn nhiều
cái, nhất là cái ăn nên cũng ít người giao du sơn hà như vậy - và tôi cũng chỉ
là một "kẻ ăn theo" các nhà làm phim về danh nhân văn hóa
Nguyễn Trãi.
Nhưng lại là thời ông Trang Điền còn đang sung sức, khám phá
bí mật của núi. Sự tình cờ như cơ duyên sắp đặt chúng tôi nhận biết nhau nhờ
qua chất giọng (cái chất giọng Huế nói khó, lại ít người ta nhại giả giọng được!).
Ông Trang Điền nói với tôi lúc đang đứng ở sân chùa Côn Sơn như một phát kiếm mới
của ông:
- Có lẽ âm điệu ''Mệ'' dịu dàng pha chút âm Chàm cổ ấm nóng rất
riêng biệt của tiếng nói vùng Huế mà những người Huế xa quê chỉ chợt thoáng qua
là nhận ra nhau nhanh lắm.
Vậy nên, tôi gọi ông "kẻ túi vải, mũ nan, chân hài
da trâu" lang bạt thế nhưng nay bắt gặp "mùi hương quê
nhà" như ông Trang Điền "lòng ta xao xuyến sướng run lên chẳng
khác nào kẻ ngồi thiền bỗng nhiên vớ được quyền năng phá công án, thoát ra khỏi
miền sa mạc mênh mông dẫn nhãn trí tới bến bờ mới như là sự trở về ký ức cội
nguồn..."
Sau lần gặp thành ra kết nhau, tuy ông hơn tôi đến ba chục tuổi.
Ông Trang Điền rất vui, cười vênh râu trông hiền như một ông tiên xuống núi.
Ông níu áo kéo tay tôi theo chân ông lên Chùa Côn Sơn vốn là ngôi chùa cổ nằm
trên đất huyện Chí Linh tỉnh Hải Dương. Chùa còn có tên chùa Hun (hay chùa
Khói) từng là trung tâm thiền Đại Việt vào đầu thế kỷ XIV, là nơi các Tổ Trúc
Lâm thường lui tới truyền bá tư tưởng giảng luận triết học cho tăng chúng cùng
giới quý tộc nhà Trần.
Ông Trang Điền kể với tôi lúc ngồi nghỉ trưa dưới cây đại già
hình thù quái cổ, tương truyền do chính tay quan Tư Đồ trồng lúc ông về lại Côn
Sơn tĩnh dưỡng tuổi già vào năm 1385, hiệu Xương Phù đời Trần:
- Ta đã lên đây nhiều lần, và lần nào cũng vậy, ta thường quỳ
gối rất lâu trước ngôi Thượng điện thờ Phật Di Đà và ngôi Tổ dinh để được chiêm
ngưỡng tượng Trúc Lâm Tam Tổ cùng nhan khí uy nghi của pho tượng Trần Nguyên
Đán.
Theo ông Trang Điền "có lẽ đấy là viễn tổ của dòng họ Trần
làng Trúc Lâm ở Huế". Hơn nữa, sau ngày nước nhà thống nhất ông mới có dịp
tìm về "nghiên cứu" chính cái nơi nuôi dưỡng khát vọng hun đúc nên sự
nghiệp vĩ đại nghĩa dấn thân từ ấu thơ của Nguyễn Trãi. Chính từ Côn Sơn Nguyễn
Trãi đã thấm đẫm giáo huấn sâu sắc mang nỗi đau của người tri thức trước thân
phận con người và cả trước thời đại. Những lý tưởng cao cả với bản chất đòi dân
chủ, khát khao độc lập tự do, ước mơ xây dựng nhà nước đức trị, mở rộng đạo
nhân nghĩa, mở rộng lòng ái quốc vằng vặc "như sao khuê" chắc chắn Ức
Trai đã lĩnh hội từ ông ngoại tiến sĩ Trần Nguyên Đán và người cha bảng nhãn
Nguyễn Phi Khanh. Và dĩ nhiên sơn mạch tĩnh lặng khí vận trùng trùng của núi rừng
Côn Sơn phát kế cũng góp phần xây dựng nên nhân cách lớn ở con người Nguyễn
Trãi.
Bây giờ, khi mà cuộc vân du tang bồng thỏa chí, đọc hết chừng
vạn cuốn sách kim cổ, tóc, "người giang hồ quái kiệt" đã ngã sang màu
sương bạc, khuôn mặt gầy khô đen sạm hằn thêm nhiều nếp nhăn, râu ria tua tủa để
dài xuống tận bụng trông như một chiếc phất trần của viên quan giám; duy đôi mắt
vẫn sắc thần nhân hoạt toát lên chân tướng của người sương gió từng trải. Ông
Trang Điền hậu duệ của dòng họ Trần làng Trúc Lâm - Huế, mới chịu quay về bản
quán, dựng nhà ở xóm Hà Khê gần cồn đất mang dáng hình con rồng vươn đầu ra mép
sông Hương, nơi nguyên xưa an táng đại thi hào Nguyễn Du dưới chân sau chùa
Thiên Mụ. Thi thoảng ông lại chống gậy trúc thượng sơn và bình thản tự lại ngồi
lặng thật sâu trên đỉnh núi Kim Phụng định thần. Bóng Trang Điền đổ dài theo chớp
nắng. im lìm cô độc giống như con sư tử già lẻ bạn chờ ngóng trăng vàng cuối
tháng, để thời gian nhấm nháp khí lành giữa thiên trung cùng với mây ngàn gió
núi luyện phép dưỡng sinh!
Núi Kim Phụng còn có tên là ngọn Thượng Sơn, dân gian Huế
quen gọi núi Búp Măng vì đứng xa nhìn như một ngọn măng đâm lên. Núi cao chỉ
khoảng 427m nhưng bứt thoát khỏi vòng kim tỏa của dãy Trường Sơn chừng khoảng để
tự do phóng khoáng làm nên dáng vẻ lẫm liệt khác thường. Toàn trái núi xanh rì
rêu phong bích địa được các nhà phong thủy học xem là ngọn Chủ Sơn, các
nhà văn hóa thì phong Đệ nhất bút tinh của vùng địa cuộc Huế. Núi hiển
hiện đầu nguồn sông Hương - con sông định mệnh lẫy lừng văn hóa sử thi của xứ sở.
Đứng trước dòng sông ấy tôi thường ngẫm nghiệm rằng, những gì
cùng sinh ra lớn lên bên các dòng sông thì đều có ấn chỉ văn hóa hoành tráng của
nó nhất là những dòng sông ầm vang chiến công giữ nước, trĩu nặng huyền thoại lẫn
cùng dấu chân của những người xưa đi mở đất…
Một chiều năm trước trên đường lên chiến khu xưa, tôi dừng lại
nghỉ chân dưới núi Kim Phụng, xem mấy đứa trẻ chăn dê đánh trận giả. Bỗng tôi
nghe tiếng sóng vũ hội theo điệu chầu văn vọng tới, lúc ào ạt lúc du
dương diệu vợi… Khi ấy tôi mới nhận ra nơi đây đang vào mùa lễ hội của các tín
đồ đạo hữu, của ngư dân vạn đò Huế. Trong ký ức tôi chợt hiện lên hình dáng những
cư dân Việt đang từ cửa biển tiến dần lên phía thượng nguồn sông Hương: thì trước
đó rất lâu người Chàm với nền văn minh Chămpa ực rỡ họ đã chọn nơi đây - sơn thủy
hữu tình - để xây dựng một "trung tâm văn hóa tâm linh", mà dấu tích
Thánh địa còn tạc sâu vào hòn Ngọc Trản kế dưới chân núi Kim Phụng - đúng vị thế
Điện Hòn Chén ngày nay, nơi tiếp nhận giao hóa tín ngưỡng thờ Mẫu Chàm
Việt, được xem là linh nghiệm nhất Huế bấy giờ!
Lần ấy có hẹn, tôi lên thăm ông Trang Điền đang ngồi định thiền
dưới bóng gậy cắm trên núi cao. Tự khắc lòng mở rộng như túi càn khôn thu nhận
nguồn năng tinh tú phát tỏa ra từ Kim Phụng. Với nỗi khát vọng trở về dưới mái
nhà xanh vũ trụ cùng tâm thức của "kẻ giang hồ quái kiệt", vui buồn
nơi sơn cùng thủy tận, đói ăn rau rừng trái cây, khát uống nước lã mà ông chứng ngộ
đạo hạnh nhà Phật, tìm thấy cái minh diệu vô vi của đạo Lão, giải thoát lục căn
của nội tại khỏi lụy tục để tâm hồn người thanh thản minh triết hơn.
Những ngày cuối thu mây mù phủ dày lên đỉnh núi mà vốn thường
mây đã nghĩ trọ trên ấy. Không gian u tịch không bóng người, không một cánh
chim. Chỉ có tiếng róc rách của những khe nước nhỏ phun ra từ trong mạch đá núi
trút nhòa vào làn gió ngọn núi cao chầu về thổi qua, bay đi.
Tôi căng mắt dõi tìm về phía thành phố cổ kính, nhưng chỉ thấy
khói mây mù trời che khuất.
Ông Trang Điền ngồi xếp bằng rung cặp đùi, cười khểnh hỏi
tôi:
- Sao, có nhìn thấy gì không?
- Còn ta, ông nói - ta đang "chứng kiến" sắc
tím của dòng sông Hương hắt lên thinh không những vòng sóng nhỏ. Ta nghe rõ tiếng
sóng quẫy lòng tận biển khơi trước sức cuồng nộ của bầy cá kình đang phá lưới bủa
vây của những con tàu đánh cá. Và ta cũng nghe được cả nỗi thổn thức từ trái
tim anh.
Ông Trang Điền lại cười rung rung chòm râu bạc như cước.
Thú thật là người hâm mộ, tôi hết sức kinh ngac trước "khả
năng ngoại cảm" của ông, tôi e có lẽ chẳng chuyện gì dấu ông được. Nhưng
Trang Điền lại khoát tay, không cho đấy là điều cao siêu (theo ông thì ai cũng
làm được) tuy nhiên để đạt điều này cũng không thật là dễ - mà ta phải khổ luyện
nhiều năm điều hòa chân khí, tâm thật tĩnh lặng.
Rồi trong một lần cao hứng ông Trang Điền sôi nổi triết luận
với tôi về những tháng ngày ông giao du khắp đất nước. Vốn là người thích
môn Địa lý học nên ông đi là muốn để truy tìm dấu tích cổ nhân từng
tàng ẩn dưới bóng núi trầm mặc và văn hóa sâu thẳm của nó, mà năng lượng hùng
khí từ các ngọn núi ấy người Việt xưa - nay đã khai sáng làm nên những điều kỳ
diệu thăng hoa cho dân tộc mình.
Dư địa chí của Nguyễn Trãi viết rằng: Tản Viên là
núi Tổ của Đại Việt. Trên núi thờ vị thần hộ quốc, được phong Đại vương,
linh hiển có tiếng. Triều Lý, vua Nhân Tông sai thợ làm đền ở trên đỉnh ngọn thứ
nhất cao tầng lầu. nay dấu tích vẫn còn.
Việc thờ thần núi Tản Viên xuất hiện từ cái thời "rồng
rắn thú dữ sống kề cận con người", đồng bằng sông Hồng với những cột
sóng mùa lũ bất ngờ ập tới. Anh hùng thần thoại (Sơn Tinh) xuất hiện đứng về
phía nhân dân dùng phép thuật Trời ban nâng núi cao thêm chóng chọi với (Thủy
Thần), không chỉ là chuyện tâm linh tín ngưỡng, mà nó còn là nỗi khát vọng tình
yêu hòa bình, ước mơ vươn tới đỉnh cao, con người từ hoang sơ trước cuồng phong
vũ trụ họ đã biết dựa vào núi và chân khí của nó!
Thời các Vua Hùng còn mặc khố đầu đội mũ lông chim, đã biết
chọn đất đóng đô với hình thế 99 ngọn núi cao chầu về phía phong châu - Bạc Hạc,
như những con voi quy phục trước quyền uy tối thượng của con người. Để ngày
nay, hằng năm thần dân trăm họ lại tụ về đây giỗ tổ các Hùng Vương.
Đến đời Đinh Bộ Lĩnh cưỡi trâu trắng, phất cờ lau thống nhất
12 sứ quân cát cứ, mở ra nhà nước độc lập đầu tiên Đại Cổ Việt, lấy núi Hoa Lư
đóng đô ở Ninh Bình. Các vua nhà Lý chọn núi Hương Tích xây dựng nên trung tâm
Phật giáo trở thành Quốc giáo; và theo truyền thống đều chọn các vị thiền sư
phong làm Quốc sư, giúp vua trị nước.
Nhà Trần, mặc dù các ông vua đều là những người chiến thắng,
lại có trong tay quân đội hùng mạnh, nhưng họ vẫn lấy việc nhường ngôi báu khi
còn sung sức, trí lực vẫn sáng - lui về phủ Thiên Trường làm Thái Thượng Hoàng.
Ngày nhàn đọc sách làm thơ, rồi thản nhiên chống thiền trượng vân du lên núi
Yên Tử dựng am Ngọa Vân tu dưỡng tinh thần "xem con trị nước". Từ đỉnh
Yên Tử quanh năm mây trắng giăng màn, người anh hùng dân tộc đánh Nguyên Trần
Nhân Tông lập am tu Thiền. Trong sương núi gió ngàn Ngài đã khai sáng ra phái
Thiền Trúc Lâm (thường gọi là Trúc Lâm Yên Tử), Ngài trở thành Tổ thứ nhất của
Thiền phái này, hay còn gọi là Trúc Lâm đầu đà.
Nhà Trần kiến thiết vùng núi Yên Tử, xây dựng Thiền tông theo
một hệ phái truyền thừa riêng, uyển chuyển giữa Tĩnh và Động, giữa Xuất
thế và Nhập thế, để nơi đây trở thành Rừng Thiền của kinh đô Phật
giáo đầu tiên của Việt Nam.
Khác với rừng núi Yên Tử, vùng núi Côn Sơn là "trung ấp
lui về" để thỏng áo nhẹ đai hưởng chút cái nhàn của những bậc nhân tài tuấn
kiệt từ nhiều thế kỷ trước, như Trần Hưng Đạo, Trần Khánh Dư, Nhị Tổ Pháp Loa,
Tam Tổ Huyền Quang, cả thầy Chu Văn An, Trần Nguyên Đán, Nguyễn Phi Khanh, và cả
danh nhân văn hóa Nguyễn Trãi… Cùng nhiều trí thức, nghệ sĩ quan tướng triều
đình Trần - Lê, cũng đã ghé qua thưởng ngoạn hoặc là quy tụ về đây sống những
ngày cuối đời thanh nhàn! Và cũng từ núi này cả một khối lượng văn chương, triết
học, lịch sử, âm nhạc… đồ sộ đã ra đời. Chính vì vậy mà Côn Sơn trở thành trung
tâm tư tưởng đứng ngang với kinh đô Phật giáo Yên Tử, và đối mặt với trung tâm
quyền lực ở Thăng Long suốt gần hai thế kỷ thời thịnh trị nhất của quốc gia Đại
Việt.
Triều Lê vua Thái Tổ, nhớ buổi dựng cờ nghĩa dấy binh, Lê Lợi
đã chọn núi Chí Linh - Thanh Hóa lập căn cứ kháng chiến. Sau ngày tổ quốc độc lập
về lại Đông Đô, Nguyễn Trãi vi thần tổng kết chiến tranh đã phóng bút ngợi ca
thánh tích núi cũ chiến khu xưa với bào phú núi Chí Linh nổi tiếng.
Mà có lẽ ngày nay đọc lại bốn câu cuối ta vẫn thấy được hào khí ngút trời của
nghĩa quân Lam Sơn đánh Minh, ân nghĩa sâu dày của núi Chí Linh được đất trời ủy
nhiệm, mà ta ghi nhớ đến muôn đời:
… Thấy núi này vòi vọi chừ, nhớ đến gian khổ xưa
Vỗ nền vương nghiệp chừ, mãi mãi vấn vương!
Xin ghi thịnh đức vào đá chừ, để truyền mãi về sau
Suốt thiên cổ, vạn cổ chừ cùng trời đất cửa trường (1)
Thời Lê Thánh Tông võ trị Chiêm Thành trên đường hành quân
qua cố đô Hoa Lư, Ngài lệnh dừng chân ghé thăm núi Non Nước. Núi này có Thạch Cốc
của danh sĩ Trương Hán Siêu, người từng đi trấn nhậm Thuận Hóa, tác giả của nhiều
áng văn, thơ, ký, trong đó có bài Phú Bạch Đằng giang tuyệt hay, ông
cũng là người được các vua Trần cùng thời đều tôn gọi bằng Thầy. Ngày Trương
Hán Siêu giải chức về ẩn tuổi già ở đây, thấy núi soi mình bên dòng sông bạc cuồn
cuộn phù sa giống như hình con chim trả đang tắm. Ông liền đặt tên
cho gọi núi Dục Thúy Sơn. Vua Thánh Tông cảm xúc cảnh đẹp người xưa đá cũ đã
làm thơ cho khắc vào núi.
Triều Nguyễn, vua Minh Mạng Bắc tuần lên đây ngắm cảnh cố đô
xưa. Vua Thiệu Trị sai xây thành phòng hộ, khi xây gặp núi lấy ngay núi làm
thành nên đổi là Hộ Thành Sơn, nhà vua cảm hứng đề mấy câu sau, xin dịch nghĩa:
Trước là núi Dục Thúy, nay đổi Hộ Thành Sơn
Chữ nhàn trông thật khó, người bận, núi không an!
Các vua sau như Tự Đức, Thành Thái, Khải Định; cùng nhiều trí
thức nghệ sĩ lớn, những nhà văn hóa của nhiều thời đại như Ngô Thời Nhậm, Dương
Phước Vịnh, Lê Quý Đôn, Cao Bá Quát… đến 42 người đều lên Dục Thúy "hát
vang lương trời" lưu thơ vào đá.
Tôi theo dấu người xưa leo lên núi vào ngày mây trắng tản xa,
thấy ngọn tháp Linh Tế hiện lộ ký ức, trong tháp có tấm bia khắc bài minh của
danh sĩ Trương Hán Siêu lưu truyền chính sử. Tôi ngưỡng vọng cố nhân bởi những
dấu tích văn hóa tạc vào đây sừng sững qua năm tháng gió mưa mà vẫn tỏa thần
khí thi ca. Núi này là một thắng tích như một "thư viện thơ khắc đá bậc nhất
trong tư tưởng phóng khoáng cao siêu của người Việt" trên đất Ninh Bình.
Ngày tôi theo Trần Hà về quê anh hùng Cảnh Dương, một làng cổ
dưới chân Hoàng Sơn (Đèo Ngang) để dự lễ cầu ngư và tế cá Ông Voi. Đêm vui uống
rượu nóng ran người, tôi rủ anh ra biển hứng gió ngăm trăng vàng hạ tuần. Trên
con thuyền đánh cá neo sát bờ, tôi ngồi vắt vẻo lắc lư theo nhịp sóng đưa, còn
Trần Hà anh nằm nghiêng trong khoang thuyền chống khuỷu tay kê làm gối, ngửa mặt
nhìn trời đêm. Rồi bằng âm giọng của dân biển anh kể với tôi, hồi anh còn nhỏ
ngày hè thường rủ bạn đi hái trái sim muồng, tìm bắt chim núi. Có lần mải chơi,
mệt quá ngồi nghỉ trên thềm cửa ải xưa rồi ngủ thiếp đi… Trong miên man anh gặp
Tiên chúa Nguyễn Hoàng đang thống lĩnh dân binh vượt qua Hoành Sơn hiểm trở, thực
hiện mưu đồ "một dãy Hoàng Sơn dung thân vạn đại" theo kế của Trạng
Trình.
Ở miền Trong chúa chọn núi Ái Tử đóng dinh, tung hoành gươm mở
cõi; chúa sai dựng chùa, lập phố chợ, dung nạp người hiền, khoan sức cho dân, vỗ
nuôi tướng sĩ. Và chỉ 200 năm sau, các chúa Nguyễn đã thu về cho Tổ quốc một miền
đất Nam Bộ rộng lớn phì nhiêu như bây giờ; công ấy bằng cả sức dân tộc mở
nước 4000 năm!
Hiển nhiên người Đàng Trong làm được nhanh như vậy, theo tôi:
một phần cũng nhờ vào dãy Hoành Sơn sừng sững đứng án ngữ chắn ngang lưng trời,
lại thêm có trấn Lũy Thầy, sông Gianh hỗ trợ để hạn chế bớt các cuộc xung dột ừ
Bắc vào, đã tạo thuận lợi cho các chúa Nguyễn rảnh tay tiến thẳng xuống miền
Nam xa xôi.
Từ bãi biển của làng Cảnh Dương, tôi ngước mắt nhìn lên dãy
ĐèoNgang mà từ đấy nó được mệnh danh vùng biên giới cây hoa mai thuộc
về khí hậu phương Nam. Dưới trăng mờ sương giáng, núi ngủ yên trông hiền như một
con rồng vươn mình về biển, đến đây say với sơn tình thủy mặc đành nằm lại
chiêm ngưỡng mà hóa thạch. Trong màn sương khuya ấy từ bên kia chân núi, những
luồng ánh sáng đèn xe vượt đèo chợt hồng rạng lên một góc trời tím ngát. Đã qua
rồi cái thời hung hãn đất Quảng Bình "Ô châu ác địa" suốt cả ngàn
năm.
Tôi ngồi lắng yên nghe núi thở, đêm về gần sáng làng biển Cảnh
Dương thật bình lặng.
Nhớ một lần ngang qua đất Thành Vinh, mùa nắng gió Lào ràn rạt
thổi. Tôi dừng xe nghỉ trưa ở quán nước bên đường ngay dưới chân núi Hồng Lĩnh.
Ngồi uống bát nước chè xanh, ăn tấm kẹo cuđơ, nhân vui tôi hỏi chuyện làm ăn của
chị chủ quán (được giới thiệu) từng là thanh niên xung phong mở đường Trường
Sơn đánh Mỹ, ngày ra quân chị về quê lấy anh chồng thương binh (nguyên là đồng
đội của chị). Rồi chị dựng mái quán lá cọ bán nước dưới chân núi Hồng Lĩnh, để
kiếm thêm chút lời nuôi 3 đứa con quyết theo đòi đèn sách cho đến bậc đại khoa.
Đất Hà Tĩnh xưa nay đều chí học, còn có hai thứ "đặc sản
bình dân" nổi tiếng mà người Việt Nam chắc ai cũng biết. Truyền rằng ngày
trước khi thực dân Pháp thống trị nước ta nghe đâu họ cũng thèm nghiện hai thứ:
"đặc sản" này lắm: uống bát nước chè xanh đặc quánh, chếm miếng
kẹo cuđơ ngọt lịm mà thanh thần của mật mía đất Hà Tịnh!
Dãy núi Hồng Lĩnh chạy dài nhấp nhô như từng đốt xương sống của
trục đất này. Núi quần tụ với 99 ngọn mà truyền thuyết khởi thủy mô tả là nơi bầy
chim Hồng đóng vai trò Thiên sứ bay về đậu trên các mỏm núi. Chúng có nhiệm vụ
tìm kiếm một cuộc đất để vua Hùng lập đô từ thưở Văn Lang vừa mới ra đời.
Mặc dù thời gian dẫu chưa thực hiện được theo như truyền thuyết
kể, song dưới chân Hồng Lĩnh những ngôi làng bình yên mộc mạc, tưới mát nguồn
nước phù sa sông Lam bao đời đã phát kế hun đúc nên những con người xuất chúng.
Suốt cuộc đời họ "nếm mật mằm gai" dấn thân vì đại nghĩa cứu quốc; cả
sự nghiệp sáng tạo nghệt huật của họ để lại những công trình tác phẩm đồ sộ vô
giá đã làm vinh thăng cho nền văn hóa dân tộc Việt. Thí dụ như những Mai Thúc
Loan, Bùi Cẩm Hổ, Hà Công Trình, Nguyễn Thiếp… Những dòng tộc với nhiều thế hệ
nối tiếp làm rạng danh tổ tiên như Nguyễn Nghiễm, Nguyễn Du… Nguyễn Huy Oách,
Nguyễn Huy Tự… Phan Huy Ích, Phan Huy Vịnh… Rồi những Nguyễn Công Trứ, Ngô Đức
Kế, Phan Đình Thông, Phan Đình Phùng… Mới đây khoảng giữa thế kỷ XX này xuất hiện
những con người như Trần Phú, Hà Huy Tập, Hà Huy Giáp, Hoàng Xuân Hãn, Nguyễn Đổng
Chi, Nguyễn Huệ Chi, Nguyễn Từ Chi, Nguyễn Phan Chánh, Xuân Diệu, Huy Cận, Phan
Huy Lê… Nếu đem kể mãi tôi e danh thứ này sẽ kéo dài đến hàng vạn nhân tài tuấn
kiệt đã sản sinh ra dưới chân ngọn Hồng Lĩnh. Có một điều kỳ lạ, hình như những
con người bình thường chân chất ấy khi bước ra khỏi cổng làng, đi tới những nơi
thi kỳ đô hội, các trung tâm chính trị tư tưởng của đất nước (và ngay cả nước
ngoài) họ như có phúc ấm tổ tiên từ mái đình làng phù trợ thêm sức để biến hóa
mà "trở thành người giỏi tức thì - giỏi thực sự đúng nghĩa của nó!"
Tôi thường chiêm nghiệm Hồng Lĩnh mỗi khi qua đây nhìn dãy
núi cao ngất sừng sững giữa trời xanh, và nghĩ rằng phải chăng nguồn khí vận
sinh phát của trục đất Hà Tĩnh minh diệu trường tồn?
Tôi lục tìm trong sách xưa thấy cổ nhân đã viết về thần tích
phong thủy củ những ngọn núi này với những điều huyền diệu như là bất biến để
khẳng định một mỹ ý: Còn khí thiêng trên núi Hồng Lĩnh nghĩa rằng còn nhiều
người hiền tài xuất hiện nơi đây!
Và tôi đã thấy điều này qua thời gian, bóng núi trầm mặc…
Hồi năm 97, tôi có công chuyện phải ra Hà Nội 3 tháng nên chi
tôi không gặp được ông Trang Điền và cũng không biết thêm tin gì. Hôm trở lại
Huế tôi dành hẳn một ngày để leo lên núi Kim Phụng thăm ông Trang Điền, thì được
biết "ông ấy chết rồi!" Như sét đánh, tôi bị hụt hẫng cả
người. Tìm bọn trẻ chăn dê dưới núi tôi hỏi chuyện, chúng hồn nhiên kể lại:
"Ông ấy ngồi im như một pho tượng kiết già đến mấy ngày liền rồi hóa đá. Mấy
bữa sau trèo lên đỉnh xem thì hình như ông đã thăng thiên về trời. Qua một đêm
mưa gió đã xóa nhòa mọi dấu vết ở núi, chỗ ông Trang Điền hóa mây"…
Tôi cảm thấy cô độc giữa cõi mênh mông của núi rừng vì đã mất
ông bạn vong niên hay ngồi thiền trên đỉnh Kim Phụng. Song phần mình tôi nghĩ:
ông Trang Điền chưa chết, mà ông chỉ đi xa về phía núi thẳm như một sơn Thần nhập
vào vách núi của sự hiện hữu để linh hồn được nhẹ gánh trở về cội nguồn tâm thức
mà thôi.
Tôi ngồi lại dưới chân xem đám trẻ chăn dê đùa nghịch như cái
thời ngày xưa tôi cũng thường hay chơi vậy. Lòng trĩu nặng trống vắng, tôi chợt
nhớ về điệu cười vênh râu của ông già quái kiệt.
Có một lần trên đỉnh núi Kim Phụng mây trắng giăng giăng kín
núi. Ông Trang Điền đang khua gậy tít mù dừng lại nói với tôi, đại ý rằng - Núi
đồi Huế khi đã bứt khỏi dãy Trường Sơn thì không còn hùng vĩ dữ dội như núi đồi
Thanh - Nghệ - Tĩnh hay như vùng núi Tây Bắc nơi phát xuất Tổ Sơn của Việt Nam.
Nhưng lại có những ấn chứng sâu thẳm của văn hóa địa tầng để con người chọn núi
ẩn cư, Phật giáo chọn núi dựng chùa, các chúa Nguyễn tìm đất lấy nguyên khí làm
bình phong đóng dinh phủ. Tất thảy kiến trúc đều theo thuật phong thủy dựa vào
các quy luật của thiên nhiên. Trải qua thời gian định cư để rồi thích nghi với
điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng phong vận: đã thấm vào căn cốt tạo nên một sức bền
chịu đựng trong từng con người Huế. Sức bền chịu đựng để tồn tại phát triển rất
khắc nghiệt ấy đã ngấm vào "máu di truyền" trở thành một nếp sống,
cách sống mang bản sắc riêng mà xưa nay người ta thường cảm nhận rằng - Người
Huế có một đời sống văn hóa nhuốm đậm màu Thiền.
Với tôi không dám nghĩ là mình đủ sức căn duyên, hoặc đã bị lực
hút cuồng si mạnh mẽ của núi đồi Huế như ông Trang Điền. Nhưng rõ ràng là điều
gì phát xuất mà dựa vào Núi hoặc Nguyên khí của núi thì lịch
sử ghi nhận thành công, thành đạt, được ngưỡng vọng dài lâu…
Người Huế xưa lấy núi Kim Phụng làm Chủ Sơn để rồi tôn phong
Đệ nhất bút tinh bên cạnh núi tiền án Ngự Bình làm Đệ nhất bảng tinh cho mặt
kinh thành trấn trị và phát triển. Việc núi Bút tinh khắc họa lên núi Bảng tinh
thì chắc chắn đất ấy trọng việc học hành chữ nghĩa rồi.
Thời chúa Tiên kinh lý miền Nam, nghe chuyện Mụ Trời hiện ra ở
đồi Hà Khê (Nơi xưa kia bị Cao Biền yểm tà khí sau chân núi) chúa liền sai dựng
chùa Thiên Mụ nhằm cầu cho tụ khí mong bền vững triều đại. Các vị chúa Nguyễn kế
tiếp thì chọn núi Ngự Bình làm Đệ nhất án sơn. Anh hùng Nguyễn Huệ lấy lại
núi Ba Tầng đắp đàn tế trời lên ngôi Hoàng Đế. Còn Phật giáo Huế với nhưungx Tổ
đình thâm uy nổi tiếng, là nơi có nhiều dòng Thiền du nhập vào để chấn hưng
phát triển thành kinh đô Phật giáo thứ hai của Việt Nam sau Yên Tử. Vị Thiền sư
có công chấn hưng Thiền phái Trúc Lâm ở Thuận Hóa là Hương Hải thường gọi Tổ Cầu,
Ngài chọn núi Linh Thái sát cửa biển Tư Hiền lập chùa, dựng Thiền Tịnh viện
trên núi để hoằng hóa Phật pháp. Cạnh đó là núi Thúy Vân được Nguyễn
Phúc Tần cho xây đàn cầu an để sau này thành chùa Thánh Duyên soi mình bên bóng
nước dầm Đá Bạc, Thiền sư Thích Đại Sán từ Trung Quốc đưa dòng Thiền Tào Động
sang với chú Nguyễn, Sư dựa núi Thiên Mụ ruyền đạo. Hoàng thượng Tử Dung thuộc
dòng Thiền Lâm Tế đời thứ 34 vào Đàng Trong chọn núi Long Sơn lập chùa Ấn Tông,
sau vì phạm húy tên vua Thiệu Trị mà đổi tên Từ Đàm - Một ngôi chùa trung tâm
phật giáo Huế và Việt Nam bây giờ. Còn hòa thượng Giáp Phong lại cắm tích trường
trên núi Hàm Long để dựng chùa báo quốc. Nơi đây từng phát chúng rất nhiều thiền
sư cao tăng, uy danh đức hạn vượt trội lên trên các vị ngang hàng giáo phẩm.
Chùa hiện còn lưu giữ bộ sách quý viết cách đây vài trăm năm trước về con người, cảnh vật thuần hóa và hành trạng của các vị Chư Tổ, sách chưa được dịch truyền rộng rãi ra ngoài, đó là bộ hàm long sơn chí; và một khu bảo tháp. Riêng Tổ Liễu Quán từ đất Phú Yên ra Thuận Hóa học đạo với hai thầy thuộc hai phái Thiền Lâm Tế, Tào Động là sư Giáp Phong và Tử Dung. Ngài lấy phía Nam Ngự Bình đối diện với núi Ngũ Phong dựng chùa Viên Thông tu Thiền. Đến khi đắc chứng ngài vào núi sâu dựng Tổ đình Thuyền Tôn ẩn dưois chân núi Thiên Thai, khai mở ra một Thiền phái riêng, mang phong cách độc đáo của văn hóa Việt, gọi là Thiền Liễu Quán. Vốn là ngôi Tổ đình lớn được các triều đại trước cũng như tăng ni Phật tử, các nhà nghiên cứu Phật học đánh giá cao công nghiệp của Chư Tổ trong dòng truyền thừa theo tư tưởng giáo hóa của người Việt Nam khi qui y cửa Thiền. Đến Hòa thượng Nhất Định, vân du lên đồi núi Thủy Xuân với ngàn thông xanh ngát cất một thảo an lấy chổ che mưa che nắng, vừa dành thời gian phụng dưỡng mẹ già đã ngoài 80, vừa chú tâm tham cứu Thiền…để ngày nay có thêm một ngôi chùa mang tên Từ Hiếu, cảnh sắc mây lòng, bóng núi, chim hót sau vườn tháp, suối chầm chậm lượn trước nhà. Kẻ bụi lòng trần tục đến đây thắp hương cúng Phật mà như lạc vào chốn bồng lai thượng giới, xóa một nỗi u phiền để giữ cho tâm khí thêm thanh tịnh!
Chùa hiện còn lưu giữ bộ sách quý viết cách đây vài trăm năm trước về con người, cảnh vật thuần hóa và hành trạng của các vị Chư Tổ, sách chưa được dịch truyền rộng rãi ra ngoài, đó là bộ hàm long sơn chí; và một khu bảo tháp. Riêng Tổ Liễu Quán từ đất Phú Yên ra Thuận Hóa học đạo với hai thầy thuộc hai phái Thiền Lâm Tế, Tào Động là sư Giáp Phong và Tử Dung. Ngài lấy phía Nam Ngự Bình đối diện với núi Ngũ Phong dựng chùa Viên Thông tu Thiền. Đến khi đắc chứng ngài vào núi sâu dựng Tổ đình Thuyền Tôn ẩn dưois chân núi Thiên Thai, khai mở ra một Thiền phái riêng, mang phong cách độc đáo của văn hóa Việt, gọi là Thiền Liễu Quán. Vốn là ngôi Tổ đình lớn được các triều đại trước cũng như tăng ni Phật tử, các nhà nghiên cứu Phật học đánh giá cao công nghiệp của Chư Tổ trong dòng truyền thừa theo tư tưởng giáo hóa của người Việt Nam khi qui y cửa Thiền. Đến Hòa thượng Nhất Định, vân du lên đồi núi Thủy Xuân với ngàn thông xanh ngát cất một thảo an lấy chổ che mưa che nắng, vừa dành thời gian phụng dưỡng mẹ già đã ngoài 80, vừa chú tâm tham cứu Thiền…để ngày nay có thêm một ngôi chùa mang tên Từ Hiếu, cảnh sắc mây lòng, bóng núi, chim hót sau vườn tháp, suối chầm chậm lượn trước nhà. Kẻ bụi lòng trần tục đến đây thắp hương cúng Phật mà như lạc vào chốn bồng lai thượng giới, xóa một nỗi u phiền để giữ cho tâm khí thêm thanh tịnh!
Núi đồi Huế cũng là nơi lui về trong cõi vĩnh hằng của các
ông vua nhà Nguyễn. Dựa vào núi họ như muôpns mở ra một thế giớ "khác của
cõi âm", mặc dù lúc tại vị họ vẫn theo quan niệm "chết là sự trở về
nguyên khí của vũ trụ". Nhưng sự trở về ấy trong thực tế họ lại muốn bảo
lưu cái phần xác nặng nề kia bằng một "vương quốc lăng tẩm" mà sức
nhân dân cộng với tri thức thời đại tạc vào núi để hấp thu vượng khí nghĩ yên
trong lòng đất.
Có một nhà du lịch người Đức đầu thế kỷ này khi tham quan những
công trình lăng tẩm vua chúa Nguyễn đã nhận xét rất tinh tế rằng: "Nơi đây
tang tóc mỉm cười, vui tươi thổn thức!". Thật là cảnh tiên nhàn của bầu trời
khác.
Tôi lên làng Định Môn nằm về phía trái thượng nguồn sông
Hương, giữ vùng bình nguyên khá hẹp - lăng Gia Long u mờ trong sương sớm, vết
chân đi như đánh thức núi đồi trầm mặc. Lấy núi Thụ Sơn lớn nhất dãy đứng tấn đằng
trước (sau nàu đổi ra Thiên Thụ) cùng với 42 ngọn đồi nhỏ khác quay đầu về, thế
quân tụ phủ phục giữ cho âm trạch tịnh độ của lăng.
Vua Minh Mạng thì chọn núi Cẩm Khê xây lăng (sau lại ban tên
Hiếu Sơn), mặt nhìn ra ngã ba đồn Tuần nơi tụ nước từ nguồn xa đổ về, xung
quanh có một loạt núi nhỏ đứng hộ vệ như núi Bình Sơn, Tam Tài, Hành Sơn, Đức
Hóa, Khải Trạch, Đạo Thống… để Tử Cung vưa lùi dần vào sâu trong đất, tàng dưới
chân núi hóa vào tinh không vũ trụ.
Các ông vua sau như Thiệu Trị lăng dựa núi Thuận Đạo; Tự Đức
lăng tạc vào núi Khiêm Sơn… Ứng lăng Khải Định xẻ ngang quả núi nhỏ ở
làng Châu Chữ, dưới chân núi ấy có khe Châu Ê lượn
quanh hồ Thủy - xẻ núi xây núi xẻ tẩm điện nên còn gọi tựa lăng nghĩa là lăng tựa
vào núi, để từ đây trên cao phóng tầm nhìn ra sông Hương phản chiếu nỗi đau quốc
vận của một ông vua suy hèn, yếu nhược.
Làng Châu Chữ xưa có nhiều chuyện âm dương được truyền kể: đất
nơi đây hung khí người Chàm tích tụ, nó thường xung lên biến ảo gây hại mùa
màng dịch bệnh với sinh linh. Nên phật giáo Huế đã dựng bức tượng Bồ Tát đứng
trên một ngọn núi cao trong vùng để tránh hung khí diệt tà. Người Huế nói rằng
làm như vậy cốt là giữ yên cho tinh hoa mạch đất. Nhưng rồi khi người Pháp xâm
chiếm Đông Dương, và gót giày thực dân đã bước qua cái ngách cửa chủ quyền còn
lại cuối cùng của triều đình nhà Nguyễn, họ đã khẳng định vào kinh thành Huế -
thì cùng lúc ấy trên ngọn đồi cao núi cao kia những chiếc lô cốt quân sự mọc
lên ngạo nghễ…
Mỗi lần đưa bạn khách chơi lăng vua, tôi có thói quen dừng lại
ở một đoạn cong bên ngọn đồi, trước khi mở ra khoảng không gian mới dẫn tới
lăng Khải Định. Từ vị trí ấy tôi ngước mắt nhìn vọng lên cao xanh bóng núi thấp
thoáng "chiếc lô cốt thực dân" bằm phủ trong mây trắng. Một "dấu
hiệu" chiến tranh còn sót lại đập vào mắt tôi, vào ngực tôi ngấm vào sâu ký
ức của tôi nhắc nhở tôi nhớ lại cái thời vong quốc nô lệ. Có một người tiều phu
hàng ngày thường ngồi nghỉ chân bên đường xuống núi, đưa cánh tay gầy như một
cành cây khô chỉ thẳng về phía tượng Phật đang đứng nhìn chúng sinh trong nỗi
vô vọng, nói với chúng tôi: "Phật đứng cao hơn vua nhưng vẫn bị thua lô cốt!"
Tôi chợt ngộ ra ý nghĩ sự so sánh câu nói của người tiều phu
già đang khuất dần sau bóng núi.
Và chúng tôi đi về phía làng Châu Chữ…
Hai năm sau ngày ông Trang Điền quy tiên, một buổi chiều cuối
thu trời Huế se lạnh,sương khói bay nhòa trên sông Hương. Tôi một mình ngược đường
Kim Long lên làng Trúc Lâm. Trong không gian tĩnh lặng, tôi chợt nghe những âm
thanh nhạc khí từ chùa Thiên Mụ dựng trên đồi Hà Khê thong thả đột vào thinh
không, chạm nhẹ người tôi nghe vừa như xa xôi diệu vời, vừa gần gũi sâu lắng chảy
xuống cõi thiền tâm con người.
Sương trắng càng lúc giáng xuống dày thêm, trời tối dần. Trước
khi rẽ vào làng Trúc Lâm tôi ngước mắt nhìn lên đỉnh núi Chủ Kim Phụng. Thấy
trong mây mờ ảo ảo bóng ông Trang Điền đang múa gậy. Gió núi ràn rạt thổi, thi
thoảng lại chớp lóe lên vài tia sáng trông như tia nắng Mặt Trời…
(1) Theo Nguyễn Trãi toàn tập.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét