Tiếng vạc kêu sương
“Ý nghĩa của thế gian là
biết phân biệt giữa ước vọng và hiện thực”
Kurt Gödel
Trong đầu thập niên thế kỷ 21, nhân loại đón nhận các thành tựu
lớn của khoa học cơ bản: Hạt
Higgs và Sóng
Hấp Dẫn.
Hạt Higgs
Sự khám phá hạt Higgs là một xác nhận đầy đủ trọn vẹn Mô
hình chuẩn, là nền tảng giải thích sự vận hành và sự tương tác của các hạt cơ bản
tạo nên vũ trụ của chúng ta, trong đó có chúng ta,có hành tinh xanh, có dãy
Ngân hà kì vĩ. Vai trò của hạt Higgs là tạo khối lượng cho các fermion, thế cho
nên, không có hạt Higgs, không có nguyên tử, không có hành tinh, không có chúng
ta.
Mô hình chuẩn và hạt Higgs thuộc ngành khoa học cơ bản,
bước đầu phục vụ tìm kiếm những nguyên lý tối hậu của vũ trụ thỏa mãn óc tò mò
vô hạn của con người từ bao đời trong khoa học. Và cũng từ đó mà dấy lên những
tham vọng sâu xa hơn về phía trước, bởi tất cả các lực của vũ trụ chưa được thống
nhất, trong ý tưởng rằng chúng phải xuất phát từ một qui luật tổng thể từ thuở
“xa xưa” khi thế giới còn nóng bỏng, nơi đó “tồn tại một thể siêu đối xứng”.
Mô hình chuẩn, một tòa lâu đài nguy nga xây dựng trên kết quả
của cộng đồng vật lý thế giới, được xem là trung gian, là cánh cửa hướng đến
các lý thuyết đại thống nhất tiếp theo sau. Cộng đồng vật lý rất hãnh diện về
nó. Nó đã chinh phục rất nhiều lãnh vực, hiểu rõ nguyên tử, các nhân
nguyên tử và các hạt cơ bản cấu thành nên chúng, những huyền bí về bản thể của
vật chất và năng lượng.
Tuy thế, Mô hình chuẩn đã bỏ ra ngoài yếu tố
quan trọng là lực hấp dẫn và nó đòi hỏi các neutrino phải có khối lượng bằng
không, nhưng thực tế khối lượng của nó khá nhỏ bằng một phần triệu của khối lượng
electron. Vì vậy khiến các nhà khoa học nghĩ rằng các cấu trúc mô tả
trong Mô hình chuẩn không phải là lý thuyết cơ bản trong vật lý. Mô
hình chuẩn của các hạt cơ bản gồm những thành phần chủ yếu là các trường lượng
tử và các hạt cơ bản khác nhau là lượng tử của các trường đó: photon, các hạt W+,
W–, Zo, tám gluon, sáu loại quark, và 3 loại hạt không có khối lượng
gọi là neutrino. Hệ hình của vật lý trải qua một trăm năm vẫn chưa thay đổi,
cũng vẫn là lý thuyết tương đối, lý thuyết lượng tử, lý thuyết trường. Kể từ
năm 1980, lý thuyết dây cho rằng hạt là những sợi dây nhỏ mà cách rung của nó
là sự thể hiện các hạt cơ bản, và một trong những mod rung động đó là hạt
graviton chính là lượng tử của trường hấp dẫn, nhưng cho đến nay chưa ai tìm được
một nghiệm nào của các phương trình phù hợp với sự quan sát.
Sóng Hấp Dẫn
Vào cuối năm 2015, đài quan sát sóng hấp dẫn giao thoa kế
laser (LIGO) bắt được tín hiệu sóng hấp dẫn từ hai “lỗ đen” va chạm nhau, chúng
ở xa Trái đất 1,3 tỷ năm ánh sáng.
Máy đo thấy có sóng khi độ cong của không - thời gian (theo
lý thuyết tương đối rộng thì vật chất làm cong không thời gian. Mật độ vật chất
càng lớn thì càng cong, làm bẻ cong ánh sáng…). Khi hai “lỗ đen” đâm vào nhau
thì chúng làm méo không - thời gian nơi khu vực của chúng một cách khủng khiếp,
tức khắc sự méo mó đó nó lan tỏa ra chung quanh dưới dạng sóng hấp dẫn
(gravitational). Sở dĩ có hiệu ứng dễ “bắt sóng” vì khối lượng rất lớn, năng lượng
tỏa ra kinh khủng. Theo các nhà thiên văn, có đến 1/20 khối lượng của lỗ đen bị
tỏa ra ngoài và họ ước tính việc trái đất quanh mặt trời cũng tạo sóng hấp dẫn
nhưng khá nhỏ, mức năng lượng tỏa ra cỡ 200 watt.
Sự kiện phát hiện ra sóng hấp dẫn đã xác minh bí ẩn
sau cùng trong lý thuyết tương đối rộng kéo dài vì 100 năm qua. Các nhà khoa học
khẳng định thành tựu của LIGO là vĩ đại, trao cho nhân loại tầm nhìn về vũ trụ
theo cách mới mẽ. Nói rằng nó mới mẽ bởi vì lỗ đen là vật thể bí ẩn trong
vũ trụ, có lực hấp dẫn rất mạnh đến nổi ánh sáng không thoát ra ngoài. Giới
khoa học chỉ nhận diện sự tồn tại của nó qua các hoạt động của vật chất ở gần
chúng hay sự tương tác hấp dẫn của chúng. LIGO tìm thấy hai lỗ đen nầy theo
tính toán có khối lượng gấp 29 và 36 lần khối lượng Mặt trời.
Giáo sư BS Sathyaprakask thuộc Đại học Cardiff, một thành
viên LIGO rất lạc quan, tin tưởng rằng có thể xác định bản chất của vật chất tối
trong vòng 10 -15 năm tới. Sóng hấp dẫn sẽ là công cụ quan trọng để các nhà
khoa học tìm hiểu được những gì đã xảy ra ở khoảng thời gian cực ngắn (bức tường
Planck) sau vụ nổ lớn Big Bang.
Gần một thế kỷ đã qua, nhân loại chứng kiến một sự tiến bộ
phi thường trong phần lớn những thành tựu thực dụng. Những thiết bị máy móc, dược
phẩm, hệ thống máy tính, giao thông… có vẻ như danh sách những thành tựu ngày
càng dài thêm. Trong ba mươi năm qua, khoa học thường xuyên giải đáp được những
vấn đề thông qua công nghệ mới. Hầu như lúc nào nói đến kiến thức mới thì y như
rằng người ta nói đến công cụ được cải tiến và những phương thức nhằm chuyển
giao thông tin sao cho tiết kiệm thời gian và năng lượng. Những lý thuyết vật
lý hiện tại hiếm hoi chỉ có một ít định luật cơ bản về tự nhiên được hé lộ.
Thế nên, một số nhà khoa học và triết gia có quan điểm cho rằng
khoa học nói chung đã trải qua Thời Hoàng Kim và dần dà sẽ đi đến hồi kết thúc.
Càng ngày sẽ khó đạt những phát triển thật sự mới, mà chỉ có một số
các biến thiên nhỏ, cũng đủ trở thành tiêu điểm hấp dẫn cho người ta nghiên cứu.
Để hiểu biết sâu thì phải nỗ lực càng lớn về trí tưởng tượng và muốn tiếp cận
được cái cấu trúc của những hệ phức hợp rối rắm thì phải cần đến máy điện toán
mạnh mẽ hơn nữa.
Tự bản thân các nhà khoa học không định ra con đường tương
lai của nền khoa học hiểu theo nghĩa đích thực của nó là trung tâm tri thức thực
chứng mới. Khi hoạt động của họ trở nên tốn kém và không liên quan trực tiếp đến
nền công nghệ hoặc lãnh vực quân sự thì chỉ còn lại hoạt động khoa học sẽ được
hỗ trợ tùy thuộc vào những vấn nạn trầm trọng mà xã hội đang đối mặt. Chẳng hạn
có vấn nạn về khí hậu thì cơ quan phân bố ngân sách ưu tiên cho nhà khoa học
khí tượng hơn cả.
Trong xu thế chung hiện nay và cả tương lai, sự phát triển kiểu
mẩu “khoa học theo vấn nạn”, có nghĩa là nghiên cứu để giải quyết các vấn đề
đang đe dọa sinh tồn và an sinh của con người thì ngày càng được hỗ trợ kinh
phí dồi dào hơn. Bên cạnh mối quan tâm đó, phải kể đến mối đe dọa và sự bùng nổ
của chiến tranh khiến cho con người cảm thấy bức thiết và khẩn trương muốn đặt
trọng tâm vào những lãnh vực chuyên biệt của khoa học và toán học. Vì vậy, có
nhiều nghiên cứu khoa học bị lôi cuốn vào mục đích quân sự cùng với sự hỗ trợ
những khoảng ngân sách lớn. Tình thế này, một mặt tạo cơ sở vật chất thúc đẩy
khoa học phát triển nhanh chóng, nhưng mặt khác lại làm sai lệch tính tự chủ và
độc lập của các tổ chức khoa học. Chẳng hạn, năm 1994 tạp chí Nature tiết lộ Bộ
quốc phòng Hoa Kỳ đảm bảo 55% ngân sách cho ngành khoa học máy tính (computer
science), 70% cho ngành khoa học vật liệu (materials science), 80% cho ngành điện
tử (electronic)
Một hy vọng cho tiến bộ khoa học lâu dài có thể là việc phát
triển những hệ thống điện toán với qui mô thu nhỏ kích thước, có vận tốc xử lý
nhanh, làm được nhiều công việc phức hợp hơn. Những dự án khoa học thuần túy nhằm
phát triển công nghệ này sẽ đóng vai trò chủ chốt trong tương lai.
Ngày nay chi phí nghiên cứu khoa học quá tốn kém, một viễn cảnh
sự hợp tác quốc tế qui tụ đến hàng trăm nhà khoa học, kinh phí đến cả tỷ đô la,
và thời gian nghiên cứu có thể vượt quá cuộc đời phục vụ của người tham gia, đã
nâng cao hoạt động khoa học lên tầm cao mới. Ví như CERN có 20 quốc gia thành
viên Âu Châu và CERN còn duy trì hợp tác với các trung tâm nghiên cứu khác trên
thế giới. CERN có rất nhiều thành tựu, trong số đó phải kể nổi bậc là sự khám
phá tại máy gia tốc đối chùm hadron (LHC) về một beson có khối lượng 125 Gev
phù hợp với beson Higgs được tiên đoán qua lý thuyết từ lâu.
Sự hấp dẫn tiệm cận của loại dự án tập thể hợp tác sẽ là dấu ấn
thành tựu khoa học về vật chất của các nhà vật lý, nơi mà một lý thuyết trung
tâm thành công có thể sử dụng dung lượng số liệu khổng lồ và một hệ thống điện
toán mạnh mẽ. Có thể nói đến các nhà thiên văn học qua kính thiên văn không
gian Hubble, các nhà sinh học qua dự án giải mã bộ gien người…
Rõ ràng các trung tâm nghiên cứu khoa học lớn chỉ có thể xây
dựng tại các quốc gia giàu có và đủ sức hội tụ các nhà nghiên cứu tiếng tăm
cùng với các đại học hàng đầu thế giới. Châu Âu và Bắc Mỹ có ưu thế vượt
trội. Thế cho nên các thập kỷ gần đây, một số đại học của Pháp, Mỹ đặt vấn đề:
Theo họ, một thực tại khoa học khách quan không tồn tại. Khoa học là một vấn đề
văn hóa, mà văn hóa lại phụ thuộc xã hội trong đó nhà nghiên cứu đang làm việc.
Khoa học còn phụ thuộc giới tính và cả nguồn gốc dân tộc. Theo quan điểm của họ
thì các sự kiện tự nhiên chỉ là kết cấu của trí tuệ chứ
hoàn toàn không có cơ sở khách quan. Quan điểm này gọi là “chủ nghĩa giải cấu
trúc” có nguồn gốc tư tưởng của nhà triết học Pháp Jacques Derriada và của
Martin Heidegger, triết gia lớn người Đức.
Cực đoan hơn, họ cho rằng khoa học chỉ là sáng tạo của người
da trắng phương Tây, được phát triển từ châu Âu sau đó tràn ngập thế giới. Sử
gia khoa họ T.Kuhn có một tác phẩm được xem là công trình hàm lâm có ảnh
hưởng xã hội trong hậu bán thế kỷ 20. Tác phẩm có tên “The
structure of scientific revolutions” đã dịch ra 20 ngôn ngữ, và được
trích dẫn bởi nhiều học giả, đã gây ra nhiều phản ứng chỉ trích vì ông cho rằng:
“Các lý thuyết khoa học chỉ là một hệ ý niệm được cộng đồng khoa học thừa nhận
theo chủ quan của họ và dưới tác động của ảnh hưởng xã hội mà họ phải chịu“.
Có một ví dụ gần như phổ biến phản bác ý kiến này: “Cơ học lượng
tử đã khám phá ánh sáng có bản chất lưỡng tính sóng - hạt và bản chất của ánh
sáng sẽ tùy thuộc vào hành động quan sát (công cụ đo đạc) của nhà vật
lý. Thế mà, tại phương Đông, trước đó hàng vài mươi thế kỷ, các nhà khoa học
chiêm nghiệm cúa Đạo Phật đã chứng ngộ chân lý “Pháp vô ngã” có nghĩa là không
gì có thể xác định và tồn tại một cách tự thân.
Cũng vậy, khi thâm nhập vào hạt nhân nguyên tử, họ chỉ tìm thấy
một khoảng chân không, ở đó các hạt quart sinh diệt liên tục gọi là “Không
lượng tử” . Không lượng tử mang dấu ấn hư vô mênh mông tỉnh lặng, từ đó do những
kích thích nhiễu loạn của năng lượng mà vật chất được tạo thành để rồi chúng
tương tác, phân rã, trở về với không. Thừa hưởng một gia tài triết học lâu đời
và một nền khoa học tiên tiến, thé mà Tây Phương đã không ngừng kinh ngạc trước
khái niệm Tánh Không mà Đức Phật đã khám phá 25 thế kỷ trước đây. Khái niệm về
Tính Không có 2 khía cạnh khác nhau:
Khía cạnh thứ nhất mang tính chất triết học và khoa học nói
lên bản chất tối hậu của hiện thực.
Khía cạnh thứ hai là tính cách thực dụng của Tánh Không,
như là một phương tiện hữu hiệu nhất giúp con người hóa giải một sự bám víu, là
nhân tố mang đến sự bất an và đau khổ trong đời sống thế tục.
Sự mở rộng Tánh Không liên quan đến tất cả các hiện
tượng trong vũ trụ, chỉ được khai triển như một khái niệm siêu hình, dựa vào
các biện luận trừu tượng và đã được đặt vị trí trung tâm của Đạo Pháp. Sự chuyển
hướng dứt khoát này được luận sư Vô Trước, trong thế kỷ thứ IV hình thành Duy
thức học, mở ra sự phát triển Kim Cương Thừa và Thiền học. Sự mở rộng này đã
góp phần cho Đạo pháp trở nên phong phú và đa dạng hơn, khiến cho Đạo pháp trở
thành uyên áo, khó khăn cho một số người áp dụng Tánh Không vào việc tu tập.
Có thể vì lý do đó mà hàng loạt khái niệm mới mang tính “cụ
thể”, “dễ hiểu” hơn được xuất hiện trong Kinh luận như: Bản thể của Phật, Như
Lai Tạng, Chư Như, Pháp Thân…, giúp cho việc tu tập dễ hơn.
Có rất nhiều ví dụ tương tự.
Mượn ý kiến của nhà bác học, Bohr hay Erwin Schrodinger để khái quát về sự cần thiết phải thống nhất tư tưởng giữa khoa học Tây phương và Triết học Đông Phương để giải tỏa cái nghịch lý của cơ học lượng tử được nhận thức theo kiểu của Tây phương. Bohr kêu gọi: “Song song với các bài học của lý thuyết nguyên tử… chúng ta cần phải quay về các vấn đề nhận thức luận mà các nhà tư tưởng như Đức Phật và Lão Tử đã từng đối mặt, bằng cách cố gắng làm hài hòa giữa vai trò người xem và diễn viên trong vở kịch lớn của tồn tại”.
Mượn ý kiến của nhà bác học, Bohr hay Erwin Schrodinger để khái quát về sự cần thiết phải thống nhất tư tưởng giữa khoa học Tây phương và Triết học Đông Phương để giải tỏa cái nghịch lý của cơ học lượng tử được nhận thức theo kiểu của Tây phương. Bohr kêu gọi: “Song song với các bài học của lý thuyết nguyên tử… chúng ta cần phải quay về các vấn đề nhận thức luận mà các nhà tư tưởng như Đức Phật và Lão Tử đã từng đối mặt, bằng cách cố gắng làm hài hòa giữa vai trò người xem và diễn viên trong vở kịch lớn của tồn tại”.
Bát nhã tâm kinh viết:
“Sắc bất dị không, không bất dị sắc
Sắc tức thị không, không tức thị sắc”
Nếu cứ nhất thiết khu biệt sắc và không thì
đã rơi vào “nhị kiến” là cái nhìn chấp trước, sẽ trói buộc tâm trí người ta
trong vòng lẩn quẩn của sự u tối, không xóa bỏ được ngã kiến để đồng nhất mình
với cái tâm tỉnh lặng của đất trời. Tinh thần phá chấp là nền tảng của nhân bản
Phật giáo, xem cứu cánh tối hậu của vũ trụ chỉ là năng lượng tự tính của chân
tâm.
Cho đến nay, hai lý thuyết trụ cột của vật lý hiện đại là cơ
học lượng tử và thuyết tương đối được xây dựng từ khởi thủy cũng do các nhà
khoa học người da trắng Châu Âu, nhưng có rất nhiều bằng chứng cho thấy cơ học
lượng tử và lý thuyết tương đối rộng có những lãnh vực ứng dụng thông thường của
chúng rất khác nhau. Khi chúng ta thử tổ hợp cơ học lượng tử với lý thuyết
tương đối rộng thì sự kết hợp đó mang lại những tai biến ghê gớm. Khi những
phương trình của 2 lý thuyết đó được kết hợp lại với nhau, thì nhiều bài toán vật
lý được đặt rất nghiêm chỉnh lại cho những đáp số vô nghĩa, vô nghĩa có dạng là
sự tiên đoán xác suất của một quá trình nào đó xuất hiện là vô hạn. Chúng
ta buộc phải kết luận có một cái gì đó sai một cách nghiêm trọng.
Các nhà vật lý tại các quốc gia khác nhau đã nỗ lực sửa đổi
lý thuyết tương đối rộng cũng như cơ lượng tử để tránh xung đột đó, tuy nhiên
những nỗ lực này dù thông minh và táo bạo đều gặp hết thất bại này đến thất bại
khác. Lý do này dẫn đến sự ra đời lý thuyết siêu dây. Theo lý thuyết dây,
các thành phần sơ cấp của vũ trụ không phải là các hạt điểm, mà chúng là sợi
dây nhỏ một chiều. Dây của lý thuyết siêu dây nhỏ một chiều. Dây của lý thuyết
siêu dây không phải là sợi dây thông thường cấu tạo bởi các nguyên tử và phân tử,
trái lại nó được xem như là nằm sâu trong tâm trái tim của vật chất, là những thành
phần siêu vi mô tạo nên các hạt cấu thành nguyên tử. Các mode dao động của dây
chính là tác nhân tạo ra khối lượng và điện tích.
Các nhà khoa học cho rằng những phân tích mới nhất, lý thuyết
dây vẫn chưa có những tiên đoán quyết định có thể kiểm chứng bằng thực nghiệm để
xác định nó đã vén được những bí mật che giấu các chân lý sâu xa nhất của vũ trụ
hay chưa. Thực tế là cơ sở toán học của lý thuyết phức tạp đến mức, cho tới nay
chưa ai biết được phương trình chia phối lý thuyết này là thế nào.
Hàng ba chục năm sau này, lý thuyết dây tiến hóa thể dạng
trong lý thuyết – M trong việc tìm kiếm lý thuyết tối hậu, người ta vỡ
lẽ ra rằng lý thuyết dây chỉ là một trong số nhiều bước ngoặc trên con đường tiến
tới một quan niệm rộng lớn về vũ trụ. Nơi bước ngoặc này, việc tìm ra công cụ
toán học để xây dựng lý thuyết dây mà không cần viện đến sự tồn tại của
không gian và thời gian là một nhiệm vụ quan trọng nhất của lý thuyết dây, hay
nói cách khác dạng hình học nào sẽ thực sự xuất hiện? Trên con đường dằng dặc
đó, lý thuyết dây là điểm mốc quan trọng hay là đích cuối cùng? Vũ trụ, tự
nhiên vẫn luôn luôn có những bí ẩn được ẩn giấu kín rất sâu xa, mà tri thức con
người không thể đến đó được. Nhà vật lý vũ trụ Stephen Hawkings nổi
tiếng đương đại có nói lên cái thao thức đó như sau: “Thượng đế không chỉ chơi
trò xúc xắc, mà đôi khi còn vứt bỏ những con xúc xắc đó ở đâu mà chúng không
nhìn thấy được“.
Các lý thuyết khoa học về vật lý ở tầm vĩ mô và vi mô trong
quá khứ gần đây, đạt được nhiều thành tựu kỳ diệu, đã thúc đẩy sự phát triển
nhiều ngành công nghệ hiện đại, góp phần tăng trưởng kinh tế và chuyển biến xã
hội loài người.
Tinh thần khoa học, khai phá, giải huyền và dự phóng là những
mặt tích cực làm nên đạo lý cho nền khoa học mới. Khoa học đã chứng tỏ nó có thể
tác động đến thế giới, nhưng tự nó không thể hướng dẫn cho người ta sử dụng nó,
và những ứng dụng của các khám phá đó không thuộc về họ nữa. Tuy nhiên lịch sử
nhân loại đã đặt vấn đề trách nhiệm của nhà khoa học trong Thế chiến thứ hai.
Lúc bấy giờ với dự án “Manhattan” có mục đích chế tạo ra trái bom nguyên tử đầu
tiên, kết quả là khi được thả xuống hai thành phố Hiroshima và Nagassaki giết cả
trăm ngàn người Nhật, một tai họa khủng khiếp đã được báo động cho nhân loại.
Thực ra, nói chung với những nghiên cứu khoa học cơ bản, các
nhà khoa học không thể nào dự đoán được phát minh nào sẽ gây ra những hệ quả
gì. Chẳng hạn, James Maxwell sẽ rất ngạc nhiên khi biết rằng tất cả các thiết bị
điện tử làm nên các tiện nghi vật chất mà con người đang sử dụng lại nhờ vào định
luật điện từ được ông khám phá vào thập niên đầu thế kỷ 20, như đèn điện, máy
fax, GPS (hệ thống định vị toàn cầu), đài, ti vi, điện thoại, internet, wifi v.v... Việc giải mã bộ gen người đã được hoàn thành vào năm 2001, thế là nay người
ta đã nghĩ đến cách biến đổi gen để lựa chọn giới tính, kích thước, màu tóc của
đứa trẻ sắp sinh. Việc sửa chữa di truyền có nguy cơ làm phát sinh chủ
nghĩa ưu sinh của phát xít phân cấp “chủng tộc“. Và khả năng
nhân bản con người trong những năm gần đây báo động các nguy cơ trầm trọng về
an sinh . Còn có quá nhiều những ứng dụng khác của khoa học vào công nghệ chiến
tranh hủy diệt, có nguy cơ đe dọa đến sinh tồn nhân loại đang tiếp tục nghiên cứu
phát triển trong sự tranh giành ưu thế vũ lực.
Các nỗ lực của hoạt động tinh thần nhất thiết phải đạt đến sự
chuyển biến sâu sắc trong cách nhận thức và tác động lên thế giới. Rằng ý thức
của mỗi cá thể không thể biệt lập với thực tại của tổng thể và hơn thế nữa, những
hàm ý của khám phá bằng kinh nghiệm cá nhân đó phải được đồng hóa. Chính sự
tương thuộc này, theo Đạo Phật, phải biểu hiện bằng lòng trắc ẩn, và lòng trắc ẩn
sẽ là một công hạnh làm cho con người thay đổi đến tận gốc rể.
Chìa khóa của đạo đức là sự phản ánh của những phẩm chất bên
trong và dẫn dắt cho việc hành xử qua tư duy, lời nói và hành động. Trên mô thức
này, rõ ràng đạo đức sẽ được xây dựng trên sự tương hợp giữa lý thuyết và kinh
nghiệm sống. Với lộ trình đó, đạo đức sẽ khắc chế và giải phóng được lòng tư dục.
Khoa học như thế, không những có trách nhiệm đạo đức trong cách nghiên cứu của
mình, mà còn có thể khám phá ra cơ sở khoa học của nền đạo đức ấy cho thế giới.
Như vậy có một thách thức rất cơ bản: đó là nhà khoa học
nghiên cứu để học, để hiểu không phải chỉ suy nghĩ bằng khối óc mà còn bằng
trái tim, kể cả sắc thân nữa. Khi đó, họ vừa tra vấn bản chất đúng của thực tại,
bản chất của tri thức (bản chất của cái biết) và đường lối mà làm cho thế giới
tốt đẹp hơn. Điều đó đòi hỏi sự tu dưỡng những hình thức của tri thức nhằm diệt
khổ cho mình và cho cả hành tinh.
Nhà bác học vĩ đại Albert Einstein đã thấy trước điều gì khi
ông nói: … ”Tôn giáo tương lai sẽ là một tôn giáo toàn cầu, vượt lên trên đấng
thần linh, và không còn giáo điều và thần học. Bao quát cả tự nhiên và tinh thần,
tôn giáo ấy phải đặt nền móng trên một ý thức đạo lý khởi lên từ cái kinh nghiệm
thấy toàn thể mọi vật, tự nhiên và tinh thần là một thứ thống nhất đầy ý nghĩa.
Phật giáo đáp ứng điều kiện này“.
Đây là một phát biểu nổi tiếng, nêu lên một nhận định thâm trầm
về Phật giáo được trích dẫn rất nhiều qua các sách khảo luận. Câu nói của ông
xuất phát từ niềm thao thức đi tìm một nền đạo lý phổ quát bao hàm cả đời sống
thiên nhiên lẫn tinh thần, để xây dựng một cuộc sống an lạc trên hành tinh xanh
của chúng ta, trong bức tranh toàn cảnh của khoa học đã có những khám phá mới
làm thay đổi các quan niệm cũ, một thời được xem như những chân lý tuyệt đối thống
trị của nhiều thế kỷ.
Mặt khác, lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, tiếp cận một
cách có chứng lý về sự xóa tan giữa ranh giới chủ thể - khách thể. Điều
này làm ánh hiện thấp thoáng giáo lý “Duyên khởi” do Đức Phật tuyên thuyết trước
đây 26 thế kỷ.
A.Einstein, đã từ giả thế giới này hơn cả trăm năm, mang theo
bộ óc kỳ tài và một tấm lòng rộng mở. Ông đã thấy cái thế giới mà sự thô bạo
hung ác được tưới tẩm bởi hương hoa của nền văn minh, đặt nền tảng trên những
nhận thức sai lầm về ý nghĩa cuộc sống, từ đó đã kéo theo những đánh giá sai lầm
về những giá trị của cuộc sống. Với tâm trí bấn loạn như thế, chúng ta hình như
chỉ còn nghe lời nói của Ông như dư vang một âm điệu buồn của tiếng vạc
kêu sươngtrong những chiều tà lúc hoàng hôn về.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1/ John Barrow: Điều Bất Khả. NXB Trí thức, năm 2012. Dịch
giả: Dịch Minh Tuấn và Chu Trung Can.
2/ Arthur Zajonc: Phật giáo và Thế giới Lượng tử. NXB
Văn hóa - Văn nghệ, TP. Hồ Chí Minh, năm 2012. Dịch giả: Pháp Hiền
3/ Trịnh Xuân Thuận: Vũ trụ và Hoa sen. NXB Trí Thức,
năm 2013. Dịch giả: Phạm Văn Thiiều và Phạm Nguyễn Việt Hưng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét