Tìm hiểu về loại hình nghệ thuật opera
Opera, tức ca kịch/nhạc kịch, là loại hình nghệ thuật tổng hợp
giữa âm nhạc, thanh nhạc và sân khấu. Trong opera có đối thoại, độc thoại bằng
hình thức “hát như đang nói”- recitativo; có đơn ca, gọi là aria hay arioso, có
tam ca, tứ ca… nói lên suy nghĩ của các nhân vật; có hợp xướng phản ánh tinh thần,
thái độ hoặc tình cảm của quần chúng đối với tình huống kịch; ngoài ra còn có
vũ đạo, phản ánh cuộc sống, phong tục tập quán của thời đại xảy ra câu chuyện.
Hành trình
Thế kỷ XVI, đại hợp xướng – một thể loại thanh nhạc nhiều bè
đã đạt tới một trình độ hoàn hảo. Đó là âm nhạc phức điệu 8 - 12 - 16 bè… gây cảm
xúc mạnh về tính đa giọng điệu, nhưng hạn chế ở chỗ hầu như không nghe được lời
hát. Khoảng giữa 2 thập kỷ cuối thế kỷ XVI, tại Florence (ý), một số nhà thơ,
nhạc sĩ, ca sĩ – tự xưng là nhóm Florence hay Academic… thường xuyên gặp nhau
bàn về các vấn đề văn học nghệ thuật. Họ không bằng lòng với âm nhạc phức điệu.
Sùng bái tinh thần Platon, họ chủ trương âm nhạc phục vụ nội dung văn học. Với
tinh thần hoài niệm bi kịch cổ Hy Lạp, họ đi tìm một thủ pháp và hình thức sáng
tác mới cho thanh nhạc.
Vincenzo Galilei (cha của nhà thiên văn học Galilei) phổ nhạc
chương Địa ngục trong Thần khúc của Dante và Thơ buồn của Jéremie, mở ra con đường
sáng tác ca khúc đơn điệu đệm bằng đàn lire (tiền thân của violon). Về sau, nhà
thơ Ottavio Rinuccini viết kịch bản theo tích trong thần thoại Hy Lạp Cuộc đấu
giữa Apollo với Python, ca sĩ kiêm nhà soạn ca khúc Jacopo Peri phổ nhạc Thành
Dafne – vở opera đầu tiên của nhân loại – công diễn năm 1594 tại lâu đài bá tước
Jacopo Corsi. Vở thứ hai, Euridice cũng do Rinucci ni và Peri “hợp tác sản xuất”
đến nay còn lưu lại được, Dafne đã thất lạc. Cũng như trước đó, những vở kịch
Hy Lạp đã được trình diễn cùng âm nhạc, nhưng ngày nay không ai biết chúng ra
sao.
Từ cái nôi Florence, các vở opera được đưa đi biểu diễn ở
Venise, Rome… trở thành một loại hình mới, được ưa chuộng của nghệ thuật
thanh nhạc. ít lâu sau, trung tâm opera chuyển tới Rome, Venise và cuối
cùng là Napoli. Mỗi trung tâm có một lối phát triển riêng, do đó opera lúc
đầu chỉ có hình thức recitativo và ca khúc đơn ca ngắn, đơn giản, về sau mới
phát triển thành aria, song ca, hợp xướng… Lúc đầu dàn nhạc chỉ có một vài nhạc
cụ đệm hát… Ngày nay, opera đã trở thành một loại hình nghệ thuật tổng hợp có kết
cấu hý kịch chặt chẽ, tổ chức hình thức hoàn mỹ với quy mô lớn. Opera cổ điển
châu Âu phản ánh tư tưởng thẩm mỹ từng thời đại. Chẳng hạn, vào thế kỷ XVII-
XVIII, opera trở thành ca kịch nghiêm/opera-seria lấy đề tài thần thoại, phản
ánh uy lực thần quyền. Thế kỷ XIX phát triển loại ca kịch trữ tình/opera lyric
(còn gọi là opera grand) – đề tài dã sử, phản ánh những câu chuyện tình, những
mâu thuẫn xung đột của tầng lớp thượng lưu. Càng ngày nội dung ca kịch càng đi
gần tới đời sống hiện thực. Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, với các opera của
Rossini (Anh thợ cạo thành Servin), Verdi (Aida, La Traviata/Trà hoa nữ)… đã thể
hiện rõ tinh thần yêu nước với những nhân vật “bằng xương bằng thịt” mang tính
hiện thực – lãng mạn. Đặc biệt là Puccini – nhà tác khúc của chủ nghĩa hiện thực
đã viết về những con người bình thường, La Boheme phản ánh cuộc sống văn nghệ
sĩ nghèo Paris, Madame Buterfly nói lên tình yêu trong trắng của cô gái Nhật với
viên sĩ quan hải quân Mỹ phụ bạc là những ví dụ.
Ngoài opera “cỡ lớn” còn có opera buffa hay opera comique –
ca kịch hài. Đây là thể opera có phong cách âm nhạc nhẹ nhàng dễ hiểu, nhân vật
bình dân hóm hỉnh hoặc thượng lưu bôi bác. Trong ca kịch hài, lời thoại thay thế
recitativo, ca khúc thay thế aria. Còn operetta là loại ca kịch nhỏ gọn, đề tài
lãng mạn, đa sầu đa cảm, phong cách nửa nghiêm nửa hài. Thế kỷ XIX có các nhà
tác khúc operetta lỗi lạc như Jaques Offenbach (Pháp) (tác giả Cuộc sống Paris từng
trình diễn tại VN), Johann Strauss (Đức) và Arthur Seymour Sullivan (Anh).
Đầu những năm 1960, Eugeni Onegin của Tchaikovski trở thành vở
opera đầu tiên công diễn tại Việt Nam, hai vai chính do NSND Quý Dương và
NSƯT Ngọc Dậu thủ diễn. Tháng 9/1965, opera VN làm lễ khai sinh bằng Cô Sao của
Đỗ Nhuận. Đầu những năm 1970, Người tạc tượng (Đỗ Nhuận) và Bên bờ Krông pa của
Nhật Lai lần lượt ra mắt đánh dấu bước khởi đầu của opera quốc nội.
Do hoàn cảnh chiến tranh, Nhà hát Nhạc vũ kịch VN thảng hoặc
mới trình diễn một opera nước ngoài như Núi rừng lên tiếng (Triều Tiên), Ruồi
trâu (Liên Xô). Năm 1985, chuyên gia Nga giúp ta dàn dựng Madame Butterfly –
Hoàng Hoa và NSƯT Gia Hội đóng vai chính. Năm 1999, Nhà hát Nhạc vũ kịch Việt
Nam với sự giúp đỡ của các bạn Đức và Pháp lần lượt cho ra mắt hai vở Viên đạn
thần (Weber) cùng Orphee và Euridice (Gluck) báo hiệu sự trở lại của opera ở Việt
Nam.
Nghịch lý Opera
Xung quanh opera còn tồn đọng nhiều vấn đề. Nhiều người cảm
thấy phiền toái khi phải đối mặt với chúng, với ấn tượng về một người sắp chết
vì đói nhưng vẫn hát một cách to khoẻ về tình trạng của mình, thực ra thì cũng
không khác nhau mấy so với việc Hamlet thể hiện nỗi khổ não cao cả của chàng bằng
cách… im lặng. Thực chất vấn đề liên quan tới các thành tố của opera, cùng với
sự đối chọi lẫn nhau giữa chúng. Trong khi thoả mãn đòi hỏi của các ca sĩ về một
thứ âm nhạc phong phú để phô trương khả năng của họ, những đòi hỏi về tính kịch
của tác phẩm thường bị xao lãng và thường không thể phối hợp giữa hát và diễn.
Các tác giả không thể nhìn thấy trước những yếu tố trình diễn đẹp mắt sẽ được
thêm vào, opera (ở các nước tiên tiến) vì vậy dễ trở thành một phương tiện để
phô diễn kỹ thuật tiên tiến hơn là nghệ thuật. Ngoài ra, cùng với sự bành trướng
của dàn nhạc, nhất là vào thế kỷ XIX, thử hỏi người nghe sẽ tiếp nhận được bao
nhiêu phần lời trong khi giọng soprano lên những nốt cao trên nền nhạc do hơn
100 nhạc công tạo thành – không có giải pháp triệt để cho vấn đề này.
Bắt nguồn từ một món giải trí cung đình, opera được các vua
chúa sử dụng từ sớm để khoa trương sự giàu có và xa hoa. Điều này phần nào lý
giải mối liên hệ lâu bền giữa trình diễn và vẻ hào nhoáng. Phản ứng trước sự
thái quá ấy, các nhà lý luận đầu óc nghiêm túc – những người thường cũng soạn
opera – nhấn mạnh nó căn bản là kịch được trình bày mạch lạc bằng âm nhạc. Điều
này đem lại, nhất là trong thời nay, quyền năng cho các nhà sản xuất
(producer), những người đem lại sự kết nối hiếm hoi giữa âm nhạc với các hành động
sân khấu. Vị trí của họ ngày càng được khẳng định bởi một thực tế rằng số những
vở opera trụ lại được trong kịch mục của các nhà hát là không đáng kể; từ đó
đòi hỏi cần phải chuyển thể chúng, để khán giả khỏi cảm thấy nhàm chán.
Một sản phẩm opera nên được nghe và nhìn càng giống lần đầu
dàn dựng càng tốt – hay ít nhất phải giống như người soạn nhạc và viết lời muốn
nó giống – hay nó nên tính toán đến những phát triển sau này của công nghệ biểu
diễn, kỹ thuật thanh nhạc, vai trò ngày càng tăng của nhạc trưởng, kể cả các
trào lưu âm nhạc đương đại? Khi nào các vấn đề này chưa thể thu xếp được, có
nghĩa là cuộc tranh cãi về opera còn rôm rả. Một thực tế không thể bác bỏ rằng,
các cách thức sẵn có để sáng tác opera đã trở nên sa sút, và bản thân hình thức
của nó cũng không ngừng bị mai một.
Một Thế Kỷ Opera: Còn Lại Gì?
Người ta có thể hoang mang trước số lượng khổng lồ các vở
opera của thế kỷ XX, hoặc thất vọng trước chất lượng của chúng. Có lẽ đúng - vì
nhiều lý do mà thời cực thịnh để sản sinh ra opera đã qua. Dù sao cũng có một
vài nhân vật đặc sắc làm phấn chấn những fan của ca kịch.
Những vở opera của Leos Janacek (người Czech) thật độc đáo. ảnh
hưởng bởi dân nhạc Czech, ông cũng học tập nhịp điệu của ngôn ngữ Czech, đem lại
một thứ âm nhạc gồ ghề nhưng trữ tình, phổ vào những vở kịch ngắn gọn đầy sức
thuyết phục. Jenufa (1904), Katya Kabanova (1921), Từ ngôi nhà của người chết
(1930), Makropoulos đi kiện (1926) đều dành những vị trí vững chắc tại các nhà
hát opera của thế giới. Như vở Chú nhỏ Vixen láu cá (1924), đã pha trộn các
tính cách của người và loài vật một cách trần trụi, không thương tiếc. Ông đứng
riêng, thiên tài hiếm có từ trước đến nay.
Tài năng của Gershwin thể hiện ở các ca khúc (nhạc Jazz),
trong đó có một số tuyệt tác, duy nhất một lần ông cố gắng để thực hiện một tác
phẩm có quy mô lớn - dẫn đến Porgy và Bess (1935). Đây cũng là việc mà rất nhiều
nhà soạn nhạc Mỹ cố làm từ trước đến nay mà không xong: một vở kịch nghiêm túc
về những gì thường nhật vẫn diễn ra ở khu dân cư thành thị, và bao phủ lên đó
ánh sáng của chủ nghĩa lãng mạn. Khó mà có thể phân định nó khỏi các ca kịch
“hoạt kê” (musical) của Jerome Kem, nhưng vì một số lý do, nó thuộc về các nhà
hát opera (chứ không phải nhà hát thông thường). Nó cần một dàn nhạc giao hưởng,
một nhà chỉ huy có hạng, và xứng đáng các ca sĩ opera hơn là nhạc nhẹ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét