Về trang phục của
phụ nữ Việt Nam thời hiện đại
Trang phục được hiểu là đồ che phủ hoặc quần áo, các đồ phụ
trang cho thân thể con người. Ngoài những chức năng cơ bản như giữ ấm, bảo vệ
cơ thể thì trang phục hiện đại còn giúp nhận biết người mặc ở một số yếu tố như
giới tính, tuổi, nghề nghiệp, tính cách và góp phần giúp người mặc được hấp dẫn
hơn.
Trong xã hội hiện đại, trang phục không chỉ thể hiện quan niệm
thẩm mỹ, lối sống, trình độ của một nhóm người, một cá nhân mà còn thể hiện đặc
trưng văn hóa của một cộng đồng. Đặc trưng văn hóa ở đây chính là tính truyền
thống được bảo lưu kết hợp với sự tiếp thu các yếu tố của thời trang hiện đại
và thuật ngữ “trang phục hiện đại” dùng để phân biệt với “trang phục truyền thống”.
Có thể nói, trang phục hiện đại là một trong những sản phẩm hiện hữu mang tính
đại diện cho nhận thức, thị hiếu thẩm mỹ của một cộng đồng và được hình thành từ
nhiều yếu tố như điều kiện tự nhiên và môi trường xã hội nhân văn. Trang phục
cũng được hình thành từ đặc điểm của công việc, giới tính và ngày nay, trang phục
còn thể hiện nhu cầu được thể hiện cá tính của con người.
Sự xuất hiện của nữ phục hiện đại trên thế giới
Nữ phục hiện đại xuất hiện cùng với sự tham gia sâu rộng hơn
của người phụ nữ vào lực lượng lao động trong giai đoạn cách mạng công nghiệp
bùng nổ vào cuối TK XVIII đến đầu TK XIX. Các doanh nghiệp bắt đầu thu nhận
ngày càng nhiều lao động nữ vào lĩnh vực hoạt động sản xuất, công việc của người
phụ nữ đã có nhiều thay đổi phù hợp với xã hội mới. Sự thay đổi của phụ nữ về một
cuộc sống năng động hơn được thể hiện rất rõ trong cách ăn mặc. Trang phục hiện
đại được đánh dấu bằng những bộ quần áo đơn giản, gọn nhẹ như váy trở nên ngắn
hơn xưa và áo cánh, áo sơ mi thắt eo mặc cùng váy rời được chấp nhận rộng rãi.
Những bộ trang phục hiện đại tiếp theo tiến dần đến xu thế mềm mại, uyển chuyển,
đặc biệt do sự ảnh hưởng của Thế chiến thứ nhất (1914), quần áo của phụ nữ cũng
bớt cầu kỳ hơn. Chúng có màu đơn sắc, đường cắt đơn giản và độ ngắn vừa phải để
tiện di chuyển và làm việc.
Những thập niên sau đó, thiết kế trang phục nữ hướng dần đến
việc giải phóng cơ thể khỏi những bộ đồ rộng thùng thình và xuất hiện ngày càng
nhiều váy hạ eo với phần dưới hơi xòe hoặc dáng suông, điểm xuyết bởi tua rua
hoặc ren ngang đầu gối; quần dài hay những bộ trang phục được thiết kế chiết
eo, vai tròn, dài tầm trung.
Thập niên 60, 70 của TK XX, phong trào bình quyền của phụ nữ
lan rộng nhiều nơi ở phương Tây đã phá vỡ những rào cản trong quan niệm từ
trong gia đình cho đến ngoài xã hội, mở rộng hơn các lĩnh vực việc làm, có nhiều
cơ hội để lựa chọn công việc mình mong đợi (1). Hình ảnh phái đẹp được biết đến
với người phụ nữ tự do, tự tin về giới tính cũng như năng lực bản thân. Đi cùng
với đó là sự xuất hiện nhiều bộ trang phục có khuynh hướng phá vỡ những tư duy
lối mòn trong thiết kế trước đây với nhiều phong cách mới như váy ngang đùi, bộ
trang phục gồm áo tay lửng, quần âu đi kèm với chân váy dáng suông. Lúc này, phụ
nữ thoải mái hơn khi thể hiện cái tôi cá nhân qua trang phục theo hướng
ôm gọn cơ thể hơn, thậm chí quần ống vẩy, quần jeans, áo phông, giày Sneaker
(2) và áo nỉ được phổ biến trong lựa chọn trang phục nữ vào đầu những năm 1970.
Cho đến ngày nay, trang phục của người phụ nữ với nhiều phong cách, thay đổi
theo mùa và mỗi năm có một xu thế biểu hiện mới.
Sự xuất hiện trang phục hiện đại ở Việt Nam
Khái niệm trang phục hiện đại ở Việt Nam chỉ được đặt ra khoảng
những năm đầu của TK XX. Khi đó, xã hội Việt Nam đang ở trong giai đoạn nửa thuộc
địa, nửa phong kiến với nhiều biến chuyển sâu sắc về kinh tế, chính trị, văn
hóa, xã hội. Trong giai đoạn này, nhiều bộ âu phục được du nhập cho phù hợp với
lối sống ở đô thị, cùng với đó là một số bộ trang phục truyền thống cũng được
cách tân. Tiêu biểu nhất cho xu hướng này là bộ quần áo dài tân thời trong những
giai đoạn thập niên 30, 40 của TK XX. Đó là hình thức trang phục nữ được cải tiến
từ áo truyền thống như áo tứ thân, ngũ thân (3) với sự thay đổi hai vạt trước,
sau (4) mặc với quần sa tanh và đi giày cao gót. Cùng với đó là áo cổ tròn, quần
âu cũng đã bắt đầu xuất hiện.
Ngày 20 tháng 3/1947, trong tác phẩm Đời sống mới, Hồ
Chí Minh, với bút hiệu Tân Sinh, đã viết bài vận động người dân bỏ thói quen mặc
áo dài để thay bằng áo vắn vì mặc áo dài đi đứng, làm việc bất tiện, lượt thượt,
luộm thuộm. Áo dài tốn vải, khoảng hai cái áo dài may được ba cái áo vắn, nếu
chỉ mặc áo vắn có thể sẻn được 200 triệu đồng/năm. Áo dài không hợp với phụ nữ
Việt Nam đời sống mới (5). Lúc này, trang phục trong lao động của người phụ nữ
dần thay bằng áo cánh nâu, theo hướng thân áo may sát eo hơn, vạt áo lượn vòng,
cổ tròn, trong mặc áo lót không tay, quần phin đen nhưng vẫn vấn, chít khăn
vuông mỏ quạ. Kiểu trang phục này gọn gàng, khỏe khoắn, thuận tiện trong lao động
sản xuất theo phương thức mới và phù hợp với bối cảnh xã hội lúc bấy giờ.
Cùng với sự vận động chung của xã hội qua từng giai đoạn,
trang phục người phụ nữ cũng có nhiều biến đổi cho phù hợp với hoàn cảnh và
công việc khác nhau nhưng vẫn giữ được yếu tố truyền thống và gắn liền với đặc
điểm vùng miền. Trang phục của người phụ nữ làm việc trong các cơ quan Nhà nước
thường mặc những áo sơ mi đại cán, tay thẳng, cổ hình cánh nhạn với chất liệu
kaki màu xanh, xám hoặc be hồng. Những chiếc nón quai thao, guốc hay vấn tóc được
thay bằng cặp tóc, buộc khăn trên đầu, đi giày vải hay dép cao su đen… Thường
phục trong sinh hoạt của người phụ nữ thời kỳ này còn có váy, áo dài cách tân
(6) cùng với áo cánh nâu, áo bà ba, áo sơ mi chiết li với nhiều kiểu cổ như
hình quả tim, cổ thìa, cổ vuông; vai áo cũng có nhiều kiểu dáng như vai bồng,
vai liền, vai tra, vai chéo… Ngoài ra còn có kiểu áo mở tà hay áo cánh bướm,
cánh dơi.
Hai thế giới. Tranh của Đào Quốc Huy
Phải đến những năm cuối TK XX, trang phục của người phụ nữ
chú ý đến vóc dáng của mỗi cá nhân theo hướng tôn vinh vẻ đẹp của người phụ nữ.
Điều này cũng phù hợp với bối cảnh xã hội đã và đang mở cửa trên nhiều phương
diện, cả về kinh tế lẫn văn hóa nghệ thuật. Những chiếc váy hiện đại đã bắt đầu
xuất hiện nhiều trên đường phố và người phụ nữ lựa chọn trang phục theo quan điểm
của cá nhân. Quá trình hội nhập sau này cũng tạo nên những xu hướng thời trang
theo những phong cách khác nhau trên thế giới, dẫn đến sự xung đột trong nhận
thức về vẻ đẹp giữa truyền thống và hiện đại.
Qua tìm hiểu, chúng ta dễ nhận thấy rằng trang phục hiện đại
của người phụ nữ Việt Nam trong giai đoạn đầu thường có xu hướng đơn giản,
thiên về những màu trầm, màu dịu tạo cảm giác nhẹ nhàng, hòa điệu với cảnh quan
xung quanh. Trong nữ phục cũng không biểu hiện sự phân biệt giai cấp hay mang
quá nhiều chức năng xã hội, trên mỗi bộ nữ phục thể hiện rõ chức năng sử dụng
và thẩm mỹ. Yếu tố xã hội xuất hiện trên trang phục chỉ xuất hiện trong một
giai đoạn nhất định nhưng không để lại nhiều dấu ấn quá rõ rệt trong diễn trình
phát triển của nữ phục. Sự phát triển nữ phục hiện đại ở Việt Nam cũng phần nào
theo xu thế chung của thế giới, khi mà những bộ trang phục truyền thồng dần được
thay thế bằng những trang phục hiện đại phù hợp với sự phát triển chung của xã
hội cũng như điều kiện làm việc, lao động theo phương thức mới. Tuy nhiên, cũng
do điều kiện đặc thù riêng của Việt Nam nên sự phát triển của nữ phục cũng có
những đặc điểm riêng, đó là sự tương đồng, thống nhất của việc lựa chọn trang
phục trong một thời gian dài và điều này phù hợp trong bối cảnh xã hội những thập
niên 50 đến 70 của thế kỷ trước, khi cả nước đang trong công cuộc thống nhất đất
nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Sau giai đoạn này, đất nước bị cô lập, cấm vận
về nhiều mặt nên trang phục của người dân nói chung cũng không có nhiều biến
chuyển. Chỉ đến khi đất nước đổi mới (1986) sự thay đổi trên nhiều phương diện
như việc xuất khẩu lao động, giao thương rộng rãi hơn với các nước đã đem đến
làn sóng giao lưu văn hóa rộng mở và nhiều kiểu trang phục, lối ăn mặc được
nhanh chóng du nhập vào nước ta, tiêu biểu nhất có thể kể đến là sự thay đổi của
váy cưới, hay nhiều bộ đồ dạ tiệc theo xu hướng châu Âu. Cùng với đó là nhiều
thế hệ nhà thiết kế thời trang (7) được đào tạo bài bản đã mang lại những sắc thái
mới khi kết hợp được những yếu tố hiện đại và dân tộc trong những bộ trang phục
của mình.
Như vậy, sự phát triển của trang phục hiện đại người phụ nữ
có nhiều biến đổi qua những thời kỳ khác nhau với những đặc trưng riêng. Cùng với
sự tiếp biến của làn sóng thời trang du nhập từ ngoài vào, nữ phục hiện đại của
người Việt đã có bước chuyển hóa khi phù hợp với thực tiễn của lối sống mới,
cũng như đa dạng, phong phú mà không đánh mất những giá trị riêng. Đó là con đường
phát triển hợp logic của trang phục Việt từ truyền thống đến hiện đại trong quá
trình hội nhập.
Chú thích:
1. Betty Friedan (1962), The Feminine Mystique, W.W.
Norton and Co., United States, ISBN0-393-32257-2.
2. Là loại giày có đế mềm làm bằng cao su hoặc vật liệu tổng hợp ít tạo ra tiếng động, có phần trên được làm bằng da hoặc vải bạt. Trước được sử dụng trong thể thao nhưng nay đã phổ biến trong giới trẻ…
3. Áo tứ thân thích hợp cho người phụ nữ miền quê quanh năm cần cù bươn chải, gánh gồng tháo vát. Áo ngũ thân là kiểu áo tứ thân được cách tân để giảm chế nét dân dã lao động và gia tăng dáng dấp trang trọng khuê các, trong đó cải biến ở chỗ vạt nửa trước được thu bé lại trở thành vạt con; thêm một vạt thứ năm nằm ở dưới vạt trước. Áo ngũ thân che kín thân hình không để hở áo lót.
4. Tiêu biểu như áo dài Le Mur (1930), áo dài Lê Phổ (1934).
5. Hồ Chí Minh, Về đạo đức cách mạng, Nxb Chính trị quốc gia, 2007, tr.14.
6. Tà và eo rộng, chiều dài ngang đầu gối, cổ cao có lót cứng, ống tay hẹp.
7. Nhà thiết kế thời trang Minh Hạnh, Công Trí, Đỗ Mạnh Cường, Trương Thanh Hải, Hoàng Hải…
2. Là loại giày có đế mềm làm bằng cao su hoặc vật liệu tổng hợp ít tạo ra tiếng động, có phần trên được làm bằng da hoặc vải bạt. Trước được sử dụng trong thể thao nhưng nay đã phổ biến trong giới trẻ…
3. Áo tứ thân thích hợp cho người phụ nữ miền quê quanh năm cần cù bươn chải, gánh gồng tháo vát. Áo ngũ thân là kiểu áo tứ thân được cách tân để giảm chế nét dân dã lao động và gia tăng dáng dấp trang trọng khuê các, trong đó cải biến ở chỗ vạt nửa trước được thu bé lại trở thành vạt con; thêm một vạt thứ năm nằm ở dưới vạt trước. Áo ngũ thân che kín thân hình không để hở áo lót.
4. Tiêu biểu như áo dài Le Mur (1930), áo dài Lê Phổ (1934).
5. Hồ Chí Minh, Về đạo đức cách mạng, Nxb Chính trị quốc gia, 2007, tr.14.
6. Tà và eo rộng, chiều dài ngang đầu gối, cổ cao có lót cứng, ống tay hẹp.
7. Nhà thiết kế thời trang Minh Hạnh, Công Trí, Đỗ Mạnh Cường, Trương Thanh Hải, Hoàng Hải…
NGUYỄN BÍCH NHUNG
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét