Người Việt chúng ta thường tự hào là dân tộc thông minh và hiếu
học. Lòng tự tôn đó dễ khiến ta coi mình là nhất rồi, không cần học tập ai nữa,
thành thử hóa ra có hại cho chí tiến thủ của dân tộc. Người Việt có thể thông
minh, hiếu học, nhưng cũng nhiều dân tộc khác thông minh, hiếu học hơn, trong
đó có dân tộc Do Thái...
Thông minh như người Do Thái
Hãy nhớ câu khen “Thông minh như Do Thái”. Quả là dân tộc Do
Thái, dân tộc có chỉ số thông minh (IQ) trung bình 110 - đặc biệt là dòng Do
Thái từng sinh sống vùng sông Rhin (Đức) sau đó di cư sang các nước châu Âu rồi
Bắc Mỹ - là hết sức nổi bật về trí tuệ. Nếu IQ trung bình trên thế giới là 100,
nhưng dân tộc Do Thái có IQ trung bình là 110 thì điều này có ý nghĩa gì?. Một
dân tộc A có chỉ số IQ trung bình là 100 thì tỉ lệ người có khả năng thành
thiên tài sẽ là 0,4%, nhưng với mức 110 như người Do Thái thì tỉ lệ những người
có khả năng thành thiên tài này sẽ lên tới 2,3%, nghĩa là cứ 1.000 người sẽ có
23 thiên tài, cao gấp 6 lần mức của dân tộc A kia. Vậy cho nên chỉ với 13 triệu
người - chỉ bằng 0,2% dân số thế giới, số người Do Thái hay người có gốc Do
Thái thành danh lại nhiều hơn bất kỳ dân tộc nào trên thế giới. Đầu thế kỷ 20,
ngành khoa học hạt nhân non trẻ còn được biết đến dưới cái tên là “khoa học Do
Thái”. Albert Einstein, nhà vật lý học lớn nhất thế kỷ 20 - cha đẻ của thuyết
tương đối - là người gốc Do Thái. Giải Nobel vật lý được “cha truyền con nối” bởi
hai cha con nhà vật lý học Niels Bohr (Henrik David và Aage) là người gốc Do
Thái. Trong nửa cuối thế kỷ 20, người gốc Do Thái giành được 29% số giải Nobel
văn chương, y học, vật lý và hóa học. Tính chung trong cả thế kỷ 20, tỉ lệ này
là 32%. Riêng tại Mỹ trong thế kỷ 20, nơi cộng đồng Do Thái chỉ chiếm 3% dân số
thì 27% giải Nobel và 25% số giải Turing - được xem là giải Nobel dành cho những
người có đóng góp xuất chúng cho ngành điện toán - đã rơi vào tay người Do
Thái. Trong cả 6 lĩnh vực được xét giải Nobel là văn chương, y sinh học, vật lý
học, hóa học, kinh tế và hòa bình, chưa hề có một chủng tộc nào trên thế giới
có thể sánh được với Do Thái bởi họ thành danh trên cả 6 lĩnh vực này. Đến năm
2011, chỉ riêng các nhà khoa học Israel (người Do Thái mang quốc tịch Israel -
một quốc gia vỏn vẹn 7,8 triệu dân, xấp xỉ dân số TP. Hồ Chí Minh) đã giành đến...
10 giải Nobel.
Người Do Thái còn nổi tiếng khắp thế giới với tài buôn bán từ
nhiều thiên niên kỷ nay. Ngân hàng Thế giới có các cựu chủ tịch và chủ tịch
đương nhiệm như James Wolfensohn, Paul Wolfowitz, Robert Zoellick đều là người
gốc Do Thái. Các lĩnh vực kinh doanh nổi bật như mỹ phẩm, thời trang, thực phẩm,
vũ khí, khách sạn, công nghiệp phim ảnh (kể cả Hollywood và các trung tâm điện ảnh
khác) do người Do Thái nắm.
Nhà phân tâm học Sigmund Freud cũng là người Do Thái. Những
người chế ra vắc xin ngừa bại liệt Jonas Salk và Albert Sabin cũng có gốc Do
Thái. Đến cả nhạc sĩ thiên tài như Johan Strauss - người được mệnh danh là vua
nhạc valse, tác giả bản nhạc bất hủ Sông Danube xanh, hay diễn viên nổi tiếng
như Natalie Portman vừa theo học Đại học Havard vừa tham gia bộ phim siêu phẩm
Chiến tranh giữa các vì sao... cũng có gốc Do Thái. Karl Marx - nhà tư tưởng để
lại tên của mình cho một học thuyết vĩ đại có ảnh hưởng mạnh nhất trong thế kỷ
20 cũng là người có gốc Do Thái! Quá nửa số nhà vô địch thế giới về cờ vua là
người gốc Do Thái. Và còn vô số ví dụ khác. Người Do Thái tài giỏi, điều này không ai phủ nhận nổi, nhưng
nguyên nhân là gì?
Tính hiếu học đặc biệt
Có nhiều tài liệu, công trình khoa học lý giải việc này bằng
các yếu tố về gien, về hoàn cảnh lịch sử - xã hội của cộng đồng Do Thái, về
tính hiếu học đặc biệt của người Do Thái. Nếu hai yếu tố đầu là các yếu tố đặc
thù, không thể bắt chước được thì tính hiếu học của người Do Thái hoàn toàn có
thể là tấm gương để người Việt Nam tự soi mình và noi theo. Tính hiếu học này
được rèn luyện, hình thành và phát triển trong cả ba môi trường gia đình, nhà
trường và xã hội.
Gia đình
Cha mẹ Do Thái vô cùng chăm lo đến việc phát triển trí tuệ của
con. Bà mẹ Do Thái dạy con từ thuở còn... thai: khi mang thai, bà mẹ thường
nghe nhạc, chơi đàn, hát và còn làm toán nữa cho đến khi sinh con ra. Các thai
phụ làm vậy vì tin rằng cách đó sẽ làm đứa bé sau này trở nên thông minh. Người
mẹ chọn ăn hạnh nhân, chà là, uống dầu cá và ăn cá nhưng tránh ăn đầu cá - thật
khác với thói quen thích ăn đầu cá của nhiều người Viêt Nam, cũng vì tin rằng tất
cả điều đó sẽ giúp cho con trở nên thông thái. Từ lúc còn ẵm ngửa đứa bé, bà mẹ
đã tạo cho con thói quen thích sách bằng cách dùng cái mẹo là nhỏ vài giọt mật
lên cuốn sách và cho bé liếm. Khi đó, trong nhận thức non nớt của đứa trẻ, sách
là cái gì đó rất ngọt ngào, hấp dẫn. Ủy ban công nghiệp thành phố New York (Mỹ)
có cuộc điều tra nguồn nhân lực vào năm 1950 và nhận thấy có sự khác biệt lớn về
việc đi làm công nhân giữa phụ nữ Ý với phụ nữ Do Thái.
Phụ nữ Ý thường phải đi làm và thường còn bắt con nghỉ học để đi làm phụ cha mẹ, các bà mẹ Do Thái thì không. Dù kinh tế khó khăn, họ vẫn ở nhà để nuôi dạy con, dồn hết trách nhiệm kiếm sống cho chồng, người ban ngày đi làm nhưng tối về có nghĩa vụ học và dạy cho con học. Cha mẹ Việt Nam, nhất là các gia đình ở nông thôn nên học theo các gia đình Do Thái ở điểm này. Có thể thấy ở một vài vùng miền là vùng trũng về giáo dục của nước ta, cứ gia đình gặp hoàn cảnh khó khăn về kinh tế là cha mẹ bắt con bỏ học để đi làm phụ giúp mình.
Phụ nữ Ý thường phải đi làm và thường còn bắt con nghỉ học để đi làm phụ cha mẹ, các bà mẹ Do Thái thì không. Dù kinh tế khó khăn, họ vẫn ở nhà để nuôi dạy con, dồn hết trách nhiệm kiếm sống cho chồng, người ban ngày đi làm nhưng tối về có nghĩa vụ học và dạy cho con học. Cha mẹ Việt Nam, nhất là các gia đình ở nông thôn nên học theo các gia đình Do Thái ở điểm này. Có thể thấy ở một vài vùng miền là vùng trũng về giáo dục của nước ta, cứ gia đình gặp hoàn cảnh khó khăn về kinh tế là cha mẹ bắt con bỏ học để đi làm phụ giúp mình.
Nhờ sự chăm sóc, động viên của cha mẹ mà học sinh Do Thái nổi
tiếng trong trường về thành tích học tập và tính chuyên cần, khác hẳn với học
sinh nhiều dân tộc khác học kiểu được chăng hay chớ và dễ dàng bỏ học để đi làm
với lý do phụ giúp cha mẹ. Vào năm 1954, hệ thống trường công của thành phố New
York phát hiện ra 28 học sinh có chỉ số IQ cực cao - 170 điểm, thì trong đó 24
là học sinh Do Thái. Ở Việt Nam, một đứa trẻ đi học về mà được cha mẹ quan tâm
thường sẽ được hỏi “Hôm nay con được mấy điểm?”, trong khi trẻ Do Thái nhận được
câu hỏi “Hôm nay con có hỏi gì thầy cô không?”. Họ quan niệm điểm không quan trọng
bằng cách học, mà đã học thì phải hỏi. Người Việt mình hay ghép học với hỏi
thành từ học hỏi. Điều này là rất hay, mọi gia đình nên khuyến khích con em
mình đặt câu hỏi.
Nhà trường
Nhà trường Do Thái không chỉ chăm bẵm lo truyền thụ thật nhiều
kiến thức lý thuyết mà còn chú ý trau dồi nhân cách học sinh. Học sinh Do Thái
nào cũng phải chơi nhạc cụ piano hay violon, nhờ đó mà khả năng cảm thụ cái đẹp
và sự nhạy cảm được bồi bổ. Qua học bắn cung, bắn súng hay chạy bộ, trẻ em luyện
được khả năng tập trung và tính kiên trì. Học sinh Israel dùng hai ngôn ngữ
chính thức là tiếng Do Thái và tiếng Arập. Tiếng Do Thái là ngôn ngữ chính và
thứ nhất của quốc gia, được đa số dân cư sử dụng. Tiếng Arập là của thiểu số
người Arập và một số thành viên cộng đồng Do Thái. Tiếng Anh được dạy trong các
trường học và đa phần dân cư coi đó là ngôn ngữ thứ hai. Do đặc điểm dân cư tụ
về quốc gia này vốn sinh sống từ nhiều nước nên các ngôn ngữ khác được dùng ở
Israel còn có tiếng Nga, tiếng Pháp và một số ngôn ngữ khác. Thông thường, học
sinh Israel có thể nói được ba thứ tiếng. Nếu thành ngữ Pháp “Một người biết
thêm ngôn ngữ thứ hai thì bằng hai người” là đúng thì một trẻ em Israel sẽ có
thể bằng... ba người. Tính dạn dĩ của học sinh luôn được khuyến khích bởi người
Do Thái quan niệm hỏi cũng quan trọng như trả lời. Hỏi quan trọng không kém đáp
bởi đòi hỏi khả năng quan sát và suy nghĩ, công cụ quan trọng để chiếm lĩnh tri
thức. Chẳng lạ gì mà người Do Thái luôn nổi bật về tính độc lập suy nghĩ và tài
lập luận.
Nhà trường Do Thái rất coi trọng tính thực hành. Trong thời
khóa biểu, ngoài các môn học thường gặp ở mọi nhà trường, cấp tiểu học Do Thái
còn có môn kinh doanh. Từ trung học, học sinh học giảm dần các môn lý thuyết mà
chuyển dần qua học cách tạo ra “sản phẩm” với các bài tập thực tế. Tất cả “sản
phẩm” của học sinh dù còn ngây ngô nhưng đều là những thử thách thật sự nghiêm
túc với người tạo ra chúng và những sản phẩm có ý tưởng tốt có thể được giới
thiệu lên các viện hay trường đại học để khai thác. Trong khi đó thì cách dạy -
cách học và nội dung học nhà trường của Việt Nam từ phổ thông đến đại học đều
chăm bẵm nhồi nhét cho học sinh lý thuyết suông, song người học khi ra đời thì
lóng ngóng không biết áp dụng thế nào hoặc có khi lại còn không muốn áp dụng.
Xã hội
Xã hội Do Thái là một xã hội đặt trí tuệ vào bậc cao nhất
trong thang giá trị. Do vậy mà cứ điều gì có hại cho trí tuệ là người Do Thái cố
tránh, có lợi cho trí tuệ thì họ cố làm, từ chuyện “vặt” như hút thuốc lá đến
chuyện trọng đại như lập gia đình. Người Do Thái rất bài trừ thuốc lá, cho nên
dù là khách quý vào nhà mà hút thuốc cũng sẽ bị chủ nhà lịch sự mời ra ngoài.
Đơn giản bởi các nhà khoa học Do Thái chứng minh rằng nicotine trong thuốc lá
làm thoái hóa tế bào não. Hãy nhìn ra xã hội Việt Nam, thuốc lá bán khắp nơi và
số người hút không hề giảm sau bao lời cảnh báo về tác hại của thuốc lá; ở nhà
thì đàn ông tự do hút thuốc, tự do đầu độc não con em mình bằng nicotine. Người
Do Thái có uống rượu nhưng rất chừng mực vì sợ uống nhiều sẽ bị dư luận xã hội
chỉ trích, sợ bị nhà thờ trừng phạt, sợ hại trí tuệ bởi lượng rượu uống kiểu
người nghiện sẽ làm chết các tế bào não. Rượu cồn là thứ thuốc độc thực sự, vậy
mà ở Việt Nam, các nhà máy bia cứ đua nhau mọc lên và mở rộng sản xuất, nên người
Việt Nam thuộc loại có thứ hạng cao trên thế giới về số lít bia rượu tiêu thụ
theo đầu người; trong nhà, ngoài quán, người Việt ta cứ ép nhau, thách nhau uống,
xem có tửu lượng cao là thành tích, không hề cân nhắc hậu quả mà mình cùng vợ
con, cháu chắt và xã hội sẽ phải gánh.
Xã hội Do Thái từ rất sớm đã rất coi trọng việc xóa mù chữ,
coi trọng sách và người có học thức. Dân tộc Do Thái là dân tộc đầu tiên trên
thế giới - từ năm 64 đầu Công nguyên - mà nhà thờ quy định tất cả nam giới phải
biết đọc viết và tính toán; sang thế kỷ thứ 2 thì bắt buộc mọi đàn ông phải có
nghĩa vụ dạy con trai mình đọc, viết, tính toán. Như vậy họ đã thực hiện phổ cập
giáo dục cho nam giới trước các dân tộc khác hàng mười mấy thế kỷ. Israel là nước
đứng đầu thế giới về dân số từ 14 tuổi đọc sách, đứng đầu về số đầu sách xuất bản
theo đầu dân. Không một người Do Thái thành đạt nào lại không tranh thủ thời
gian để đọc, để học, để làm giàu hiểu biết. Ngay cả tại nghĩa trang, người ta
cũng để sẵn sách vì tin rằng những đêm có trăng, các linh hồn sẽ ra đọc sách.
Thì ra trong lúc người Viêt Nam ta đang kêu gọi hãy đọc sách và học suốt đời
thì người Do Thái đã thực hiện học... quá đời! Dân tộc Do Thái coi trọng học giả,
coi trọng người thầy. Họ phản ánh sự tôn trọng trong câu đố cho trẻ con là “Nếu
thầy và cha con bị bắt mà con chỉ có thể cứu được một người thì con cứu ai?” và
đáp án đúng là cứu thầy - vì thầy truyền đạt tri thức cho xã hội. Tri thức được
trọng vọng hơn của cải, hơn cả chức tước, là điều khác hẳn với quan niệm của số
đông người Việt Nam hiện nay. Do vậy người Do Thái sẵn sàng hy sinh cả gia tài
để được làm thông gia với gia đình trí thức. Theo truyền thống, hôn nhân giữa
người thuộc gia đình người có học thức cao với thành viên gia đình thương gia
là một cuộc hôn nhân lý tưởng, làm cho việc kinh doanh càng trở nên có trí tuệ
hơn. Từ ngàn xưa, người Do Thái đã xem tri thức là loại vốn đặc biệt vì có thể
sinh ra vốn và của cải, lại không bị cướp đoạt được.
Người Do Thái đã tự khai sáng mình ngay từ buổi bình minh của
lịch sử loài người như vậy đấy và thành quả mà con cháu họ đạt được ngày nay
trong nhiều lĩnh vực đời sống là kết quả tất yếu, là sự tưởng thưởng xứng đáng.
Người Việt Nam phải phục họ thì không có gì phải xấu hổ. Người Việt Nam cần quyết
tâm tự khai sáng noi theo dân tộc Do Thái, cùng đồng tâm nhất trí loại trừ những
thói quen gây hại cho việc phát triển trí tuệ trong cả ba môi trường giáo dục
là gia đình, nhà trường và xã hội, cùng nhau hình thành thang giá trị mới, trở
nên thật sự hiếu học và có thói quen học suốt đời.
HỒ THIỆU HÙNG
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét