Suy nghĩ của người học Phật về ý thơ:
“Kiếp sau xin chớ làm người
Làm cây thông đứng giữa trời mà reo”
Thi
hào Nguyễn Công Trứ (1778-1858) người làng Uy Viễn, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà
Tĩnh, thời bấy giờ xuất hiện ở trời Nam như một thức giả mang danh người vệ đạo,
là bậc vương giả văn hóa, như ngọn hải đăng tỏa rạng ánh sáng tinh thần của kẻ
sĩ trong xã hội Đông phương từ lâu được xây dựng trên nền tảng Văn và Đạo lý.
Trong ông lúc nào cũng thể hiện nhất quán giữa hành động và tư tưởng dù cuộc đời
ông đã trải qua không ít dâu bể từ thuở thiếu thời cho đến lúc về già.
Ông đã trải qua cảnh hàn vi của Nho sĩ trong suốt bốn mươi
năm do lận đận khoa bảng và ông đã sống trong tâm trạng hàn sĩ đãi thời với
phong vận thanh bạch. Thơ phú vịnh cảnh nghèo chiếm phần lớn trong văn phẩm của
ông. Trong “Hàn nho phong vi phú” ông đã mô tả toàn bộ chân dung cái nghèo của
mình và sự chịu đựng nó, với một tâm hồn dung dị của triết nhân, với vẻ ngang
tàng đầy khí phách của kẻ anh hùng và đầy tính phong lưu lãng mạn của nghệ sĩ
đúng với phương châm “an bần lạc đạo”.
“Ngày
ba bữa, vổ bụng rau bình bịch,
Người
quân tử ăn chẳng cầu no”
“Đêm
năm canh, an giấc ngáy kho kho,
Đời
thái bình cửa thường bỏ ngõ”.
Dù phải
lận đận trường ốc, ông vẫn nuôi dưỡng chí lớn dùi mài kinh sử, quyết tu nhân phải
cách vật trí tri, phải thành ý chính tâm, tự đào tạo một tâm hồn trong sạch chờ
vận hội thành hiển để mang tài kinh bang tế thế ra giúp đời. Ông đã kiên định:
”Đã mang tiếng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông”
Trong
tâm hồn của ông luôn luôn tấu lên bản anh hùng ca trong nhịp điệu của vó ngựa
và tiếng kèn xông trận hăm hở, sôi nỗi tiến về phía biên cương, vẽ nên chân
dung một tráng sĩ oai phong đầy lãng mạn.
“Anh
em ơi! Ba mươi sáu tuổi rồi, khắp đông tây nam bắc bốn phương trời, đâu cũng lừng
danh công tử xác.
Trời đất
nhé, một phen nầy nửa, xếp cung kiếm cầm thư vào một gánh, làm cho nổi tiếng
trượng phu kềnh”.
Ẩn sâu trong cái phong thái tài tử, đó là một ý chí sắt đá,
lòng quyết tâm thách thức với định mệnh, vì vậy hàn sỉ Nguyễn Công Trứ đã dũng
cảm dâng bảng điều trần “Thái bình thập sách” cho vua Gia Long khi đi kinh lý ở
Nghệ An (năm 1813) để bày tỏ những giải pháp xây dựng nước sau thời kỳ loạn ly.
“Hiêu
hiêu nhiên điếu Vị, canh Sằn
Xe bồ
luân, dầu chưa gặp Thang, Văn
Phù thế
giáo một vài câu thanh nghị”
Mãi đến
năm 42 tuổi ông mới bắt đầu xuất chính và thực hiện được tinh thần bảo quốc an
dân trên hai phương diện quan trọng ngoài công vụ hành chính thường xuyên là hoạt
động kinh tế và hoạt động binh bị: ”Vi quốc dĩ nông vi bản”, kẽ sĩ phải sáng suốt
hăm hở ra tài kinh tế. Ông viết:
”Trong lăng miếu ra tài lương đống
Ngoài biên thuỳ rạch mũi can tương”
hay
là:
“Kém gì nam bắc đông tây
Đường thư kiếm vẩy vùng cho hết đất”
Tuy vậy,
cuộc đời xuất chính của thi hào Nguyễn Công Trứ đã gặp nhiều phen sóng gió, ba
chìm bảy nổi trong bể hoạn. Có lúc thăng đến tột bậc đỉnh chung, có lúc giáng
xuống hạng thứ dân. Qua nhiều lần thử thách của số mệnh, ông vẫn giữ phong thái
bình dị của một triết nhân. Không kiêu căng lúc lên cao, không thối chí, sa sút
nhân cách lúc sa cơ lỡ vận.
“Trên trường danh lợi, vinh liền nhục
Trong cuộc trần ai, khóc lộn cười”
hay là:
“Phận
tài hoa đành có lúc vẻ vang
Đường
khoa mục xa nhau đà mấy bước”
và ông
đã nhìn một cách thực tế trong quan niệm sống của con người đã vượt qua lắm đoạn
trường.
“Người ta ở trong phù thế
Chữ vô cầu là chữ thiên nhiên”
Năm
ông 70 tuổi, sau một thời gian sống mảnh liệt, sống đầy đủ một cuộc đời nhập thế,
nhà thơ Nguyễn Công Trứ đã cảm thấy mệt mỏi nhìn lại quảng đời mình: một cuộc đời
“mang gươm đi mỡ bờ cõi”, đã từng đặt chân trên núi non Cao Bằng, đồng chiêm,
bãi muối vùng Nam, rừng thưa Quảng Ngãi và đồng lúa phì nhiêu miền biên viễn An
Giang, đã thả tâm hồn mình pha nhiễm tư tưởng “nhân sinh ảo ảnh”.
“Ôi nhân sinh là thế ấy
Như bóng đèn, như mây nỗi, như gió thổi, như chiêm bao”
Lúc bấy
giờ ông lấy chữ Nhàn làm gốc cho kẻ sĩ thời ẩn dật, vui với cầm kỳ thi tửu, thả
hồn dong duỗi kết duyên cùng với cỏ cây mây nước, ung dung gõ mạn thuyền ngâm
thơ trên dòng sông lạnh.
“Trăng chếch chếch đầu non mới ló
Thuyền một lá xông ngang gành bạch lộ
Buông chèo hoa len lõi chốn sơn cương”
hay
là:
“Thơ một túi phẩm đề câu nguyệt lộ,
Rượu ba chung tiêu sái cuộc yên hà”
Nhìn lại
cuộc đời nhà thơ đất Hồng Lam ta có nhiều cảm kích cho tinh thần, đấu tranh bền
bĩ, đời sống thanh đạm, liêm khiết, cao thượng của kẻ sĩ mà ông là một trong những
biểu tượng đẹp đẽ với cái khí phách hiên ngang cái thế của người anh hùng lập
công và tâm hồn phóng khoáng. Một đặc điểm rất quyến rũ trong dung mạo tinh thần
của ông, qua các sáng tác ở các thời kỳ hàn vi, thời kỳ xuất chính hay lúc hưởng
nhàn là sự giao thoa giữa tâm hồn và hơi thở của vũ trụ. Đây chính là tư tưởng
của Đông Phương kết hợp Nội - Ngoại - mà Nho giáo chủ trương con người lý tưởng
phải có 2 tố chất: Nội thánh và Ngoại vương: chiều kích hướng Nội để phát huy
tiềm lực ẩn sâu trong tinh thần và kết hợp với thực tại siêu việt, còn chiều
kích hướng Ngoại để thành vật, cùng với đất trời hỗ trợ cho việc nuôi nấng chuyển
hóa vạn vật.
Thực tại siêu việt không nhân hình, nhân dạng. Lão giáo gọi
là Đạo, Phật giáo Đại Thừa gọi là Chân Như. Các nhà nghiên cứu triết học dùng để
chỉ thị Nguyên lý vũ trụ hay bản thể vũ trụ, còn người bình dân gọi là Tạo hóa,
là ông Trời. Nho gia gọi là Thiên - Chu Liêm Khê (danh nho đời Tống) gọi là vô
cực. Vô cực chỉ thị cho một thực tại vô hình tướng, vô thỉ, vô chung, bất sinh bất
diệt v.v… Thực tại sinh ra Thái cực tiềm tàng khắp nơi trong vũ trụ thiên nhiên
từ cành hoa, ngọn cỏ, trên cơ thể sinh, động vật. Do đó vạn vật trong vũ trụ đều
ẩn chứa năng lực của Thái cực triển khai qua không thời gian. Do vậy là căn
nguyên cho vạn vật. Nói đến khởi nguyên tức là nói đến khởi đầu và diễn tiến.
Khởi đầu và diễn tiến được gọi là Thái cực. Trong quá trình biến hóa Thái cực
đã triển khai ra 2 nguồn năng lực gọi là Lưỡng Nghi. Lưỡng Nghi là 2 dạng mạo
tiên thiên có tên là Thiên và Địa (hay Càn và Khôn) và trên một quy nhỏ thì có
tên là Âm Dương.
Con người cũng như vạn vật do Lưỡng Nghi Âm Dương tức hai
năng lực Càn - Khôn (Thiên địa) kết hợp mà thành: con người là cái năng lực của
trời đất, có sự giao hòa của Âm dương, có sự hội tụ của tinh lực siêu nhiên và
được kết lọc từ ngũ hành (thủy, hỏa, thổ, kim, mộc). Vì thế con người có khả
năng sâu rộng làm chủ được muôn vật, tạo nên những kỳ vĩ trong vũ trụ. Con người
và vạn vật được điều phối bởi một nguyên lý duy nhất là Thiên lý (Đạo Dịch).
Thi hào Nguyễn Công Trứ viết:
“Trời đất cho ta một cái tài
Giắt lưng, dành để tháng ngày chơi”
hay
là:
“Thiên phú ngô, địa tải ngô
Thiên địa sinh ngô nguyên hữu ý”
Nho
giáo cho rằng sở dĩ con người linh thiêng hơn muôn vật bởi vì trong con người
có phần thiên mệnh, cái phần tinh tuyển nhận từ Trời, nó có từ thuở ban sơ,
chưa bị hoen ố pha tạp. Cái phần thiên mệnh còn gọi là Minh đức chỉ thị thực tại
siêu hình uyên nguyên trong mỗi con người. Thánh nhân, là con người lý tưởng biết
phát huy cái Minh đức và giữ mãi tính thuần nhiên. Đó là đạo nghĩa duy nhất
trong cõi nhân gian.
Bậc thánh nhân trong Nho gia quan niệm rằng có thể xem dáng vẻ
của bầu trời và tình trạng của mặt đất thì có thể biết được nguyên do của
sự huyền diệu - sự huyền diệu kín đáo là vòng sinh - tử.
Theo nho gia quan niệm Thái cực sinh Lưỡng nghi Âm dương sự kết
hợp của 2 sức âm dương tinh tuý tạo hiện tượng sinh, làm nên sự sống và sự sống
có một thực tại siêu hình là hồn, khi hồn ra đi thì vật chất tan rã, sự chết đến.
Sinh tử là hai hiện tượng nối tiếp nhau của vạn vật, vì vậy quan niệm của Đông
phương thì chết không phải là chấm dứt hẳn. Chết ắt về đất, xương thịt tan nát,
âm chất thành đất hoang, phần tinh anh lên không gian thành sáng tỏ rực rỡ.
Đành rằng cái gì đã có thì sẽ còn có tuy có thay đổi dạng thức nhưng dạng thức
tương lai thì không nói được. Đức Khổng Tử với tư cách là một hiền triết có một
trí tuệ siêu việt không bao giờ khẳng định bất cứ một điều gì nếu ngài chưa trải
nghiệm. Ông nói “Cho người chết là chết hẳn là không có lòng nhân. Không thể
nói như vậy. Cho rằng người chết là như lúc sống, là không hiểu biết. Không thể
nói như vậy”. [Chi tử nhi tri tử chi, bất nhân, nhi bất khả vi dả. Chi tử
nhi tri sinh chi, bất tri, nhi bất khả vi dã].
Là môn sinh của Khổng Tử, thi hào Nguyễn Công Trứ đã có một
quảng đời nhập thế sôi nổi mảnh liệt, tâm huyết xã thân cho xã tắc, có tài kinh
bang tế thế nhưng rơi vào hoàn cảnh xã hội bất ổn, loạn lạc, nghèo nàn (thời kỳ
Minh Mệnh có đến 140 cuộc nổi loạn). Cường hào ác bá lộng hành, quan lại triều
đình xu nịnh và chính ông là nạn nhân của tấm bi kịch đó và chính lúc nầy tư tưởng
của ông đã nhuốm màu yếm thế. Ông viết:
“Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy
Cảnh phù du trông thấy cũng nực cười
hay là:
Mảnh hình hài không có có không
Lọ là thiên tứ vạn chung”
Tâm trạng
bi quan ngán ngẩm cho kiếp người trôi nổi vật vờ trên dòng đời dâu bể cho nên
ông mong ước.
“Kiếp sau xin chớ làm người
Làm cây thông đứng giữa trời mà reo”
Theo
các nhà nghiên cứu Triết học Đông phương thì cho đến cách mạng Tân Hợi đã trải
qua hơn 4000 năm với nhiều học thuyết, nhiều dòng tư tưởng sâu rộng mà các bậc
hậu thế gọi là Tam giáo (Nho - Lão - Phật).
Riêng Nho và Lão có 2 nhân vật xuất sắc là Khổng Tử và Lão Tử.
Đó là 2 hệ thống triết học biệt lập tuy có vẻ đối lập (hữu vi - vô vi). Khổng Tử
chủ xướng hữu vi (can thiệp vào việc đời) để giải quyết các rối loạn xã hội, cần
phải dùng “nhân - nghĩa - lễ - nhạc” can thiệp vào gia đình, xã hội yên ổn trở
lại. Còn Lão Tử chủ trương hành động theo tự nhiên (vô vi) thì xã hội trở nên
ban đầu - ổn định. Nhưng xét về vũ trụ quan thì cả hai đều cùng có một cội nguồn
là vì hữu vi và vô vi chỉ là 2 cách ứng xử của con người đối với môi trường
thiên nhiên và xã hội.
– Cái nhìn về vạn vật dưới phạm trù Lưỡng Nghi Âm dương, từng
cặp đối đãi tạo nên lưỡng tính bổ sung và không loại trừ nhau.
– Cho rằng con người là gạch nối giữa 2 nguồn sinh lực Thiên - Địa tạo nên mô thức Thiên - Địa - Nhân làm trung tâm của vạn vật.
Lịch sử cho thấy các phương thế giải quyết xã hội áp dụng
trong suốt thời Xuân Thu - Chiến quốc với lý tưởng “tề gia, trị quốc, bình
thiên hạ” vào xã hội Trung hoa vẫn chưa đưa đến một ngày an ổn. Đạo Phật đã vào
Trung hoa rất sớm từ thời Tần - Hán đến thời Tấn và Lục Triều thì Phật giáo
phát triển nhanh và các người theo học phái Lão - Nho cũng đã có cái nhìn thông
đạt và hòa đồng với Phật Giáo. Vì vậy lúc bấy giờ mới có mô thức: theo Nho nhập
thế vào lúc tuổi trẻ, theo Lão Trang lúc thất bại đau khổ và tìm đến đạo Phật để
giảm trừ Tham - Sân - Si, bước đầu giảm đi những hệ luỵ trần gian. Cụ Nguyễn
Công Trứ tâm sự:
“Thôi cũng muốn Nam Mô Di Đà Phật
Trót dỡ đem thân thế hẹn tang bồng”
Giáo
thuyết của Đức Phật không dạy đi tìm chân lý và không tìm nguyên nhân đau khổ ở
bên ngoài mà phải quay lại nhìn vào bên trong Tâm của mỗi người. Đức Phật đã
phát hiện ra nguồn gốc đau khổ chính là Ái dục - và khi chấm dứt Ái dục thì vô
minh và những ô nhiễm khác như tham, sân, si bị hoá giải, lúc đó con người sẽ
vĩnh viễn hết đau khổ.
Theo các kinh văn nhà Phật thì tác ý hay ý chí phát khởi hành
động, lời nói, cử chỉ, tư tưởng có chủ tâm đều tạo Nghiệp. Đã tạo Nghiệp thì
Nghiệp gây ra báo ứng (nghiệp báo) nằm trong qui luật Nhân quả. Do lý thuyết
Nghiệp báo mà có lý thuyết Tái sinh - luân hồi và định luật Nghiệp báo có thể vận
dụng để giải thích về nguyên nhân đau khổ của con người ở trần gian.
Theo kinh văn Phật giáo thì lý thuyết Nghiệp báo, thuộc về
Tâm, một thực tại tinh thần. Tâm chi phối Nghiệp và Quả cho nên Tâm chi phối cả
quá khứ hiện tại và tương lai của con người. Nhiều khi Quả không thể hiện trên
hữu hình mà còn thể hiện trên thực tại tâm thức vô hình qua các trạng thái sầu
muộn, sân hận, lo âu khắc khoải, ám ảnh sợ hãi thường xuyên. Do vậy, về một
phương diện nào đó thì Niết Bàn hay Địa ngục đều ở tại Tâm.
Trong kinh Tạp A Hàm có ghi lời Phật dạy: “Đã gieo giống nào
thì sẽ gặt quả ấy. Hành thiện sẽ thâu quả lành. Hành ác gặt quả dữ“.
Nghiệp là do tác ý thì Vô minh và Ái dục là nguồn gốc của
Nghiệp. Vô minh và Ái dục là cội nguồn của mọi tội ác ở trần gian. Chỉ với những
ai quyết đi vào Đạo Tâm giải trừ Ái dục và Vô minh mới không tạo Nghiệp. Vậy “kiếp
sau xin chớ làm người” chỉ còn là tiếng thở dài đầy bất lực và thoái thác
đối với kiếp người. Lúc tuổi về chiều khi ngoảnh nhìn lại đời mình thấy chập chờn
như “bức tranh vân cẩu vẽ người tang thương“.
Thực ra vấn đề không thật đơn giản như vậy. Căn cứ vào giáo
pháp của nhà Phật, nguồn gốc của sinh tử là ái dục. Ái dục được hiểu là sự yêu
mến về thân thể của mình và đức tính này thúc đẩy ta chiếm hữu cảnh giới bên
ngoài (hành động quan hệ thầm kín nam nữ là một ví dụ). Chính ái dục đã trói buộc
con người vào trong biển sinh tử mênh mông hết ra lại vào triền miên.
Quan điểm của nhà Nho cũng vậy và cho rằng “Ẩm thực, nam nữ,
nhân chi đại dục tồn yên” tức là ăn uống, quan hệ nam nữ là sự mong muốn lớn nhất
của con người.
Hơn nữa trong các kinh văn nhà Phật có ghi rằng: “Đức Phật thị
hiện ra đời ở nhân gian” và “thân người khó được” là hai ý kiến xác định vị trí
con người trong hệ thống động vật. Đức Phật đã dạy trong kinh điển rằng con người
có 3 đặc điểm mà các loài vật khác không thể có:
* Sự ghi nhớ: con người có khả năng tu duy phân biệt, ghi nhớ
những việc xảy ra trong quá khứ, dự tính tương lai, nhận thức những việc đang xảy
ra trong hiện tại.
* Sự thù thắng của phạm hạnh: con người biết hỗ thẹn. Chỉ có con
người mới biết rõ phạm vi và giới hạn của cha con, thầy trò, vợ chồng, bè bạn,
mối quan hệ của nhân loại và dựa vào các quy định xã hội để đối xử với nhau.
Lòng biết hỗ thẹn là ý hướng đạo đức, nó mang khuynh hướng thiện lành và rời xa
cái xấu ác. Vì biết hỗ thẹn nên con người có đức hạnh tự giác, biết tôn trọng sự
thật, tôn trọng chính mình, tôn trọng dư luận, phát khởi những đức hạnh hợp
tình hợp lý.
* Sự thù thắng của lòng dũng cảm: Lòng mong muốn trong tâm dẫn
đến nghị lực thực hiện một hành vi thực tiễn. Khi khởi lên lòng tinh tấn để làm
thì cho dù muôn vàn khó khăn ta cũng có đủ sức mạnh, kiên nghị để vượt qua.
Ba đặc tính trên là đặc tính thù thắng của con người không có
loài vật nào có được. Trong đặc tính của con người cũng hàm chứa một phần ý nghĩa
Phật tính trong đó. Phật tính là đức tính của Đức Phật, nói rằng Phật tính của
con người tức là nói đến khả năng phát khởi hướng về năng tính của Phật và có
khả năng phát triển thành đức tính của Phật mà thôi.
Tiếng
soạt của mái chèo trên dòng sông, tiếng lướt của ngón tay trên phím dương cầm đều
cần có môi trường truyền đi với âm vang trầm đục hay du dương đều phụ thuộc vào
gốc làm nhân của nó và nhờ bản chất của môi trường truyền dẫn (đứng về phương
diện vật lý) ta mới nhận được.
Cũng vậy, luật Nhân quả Nghiệp báo cũng cần phải có môi trường
để truyền dẫn một tác nhân diễn biến thành quả báo. Môi trường Nhân quả vận
hành rộng khắp, thấm nhiễm mọi nơi cả hữu hình lẫn vô hình (Tâm -Vật), bao trùm
khắp mênh mông của vũ trụ. Có thể gọi đó là Pháp tính, Chân như, Trời, Thượng đế.
Lúc hiện hữu trong con người thì gọi Chân Tâm, Trí huệ, Niết Bàn v.v... Đối với
ai có thể lắng sâu được Tâm đến tận cùng và giác ngộ được môi trường nầy thì sẽ
trực nhận được đường đi lối về, được sự vận hành của Nhân quả Nghiệp báo, thấy
quá khứ hiện tại tương lai tụ thành một trong Thể tánh kỳ diệu này. Tác nhân từ
quá khứ trôi chảy đến hiện tại và tương lai cũng nằm trong Thể tánh đó.
Do vậy con người phải có can đảm chịu trách nhiệm lấy mọi
hành động của mình, không phải do một mặc khải nào đó quy định, nhưng nhất thiết
cũng không phải ngẫu nhiên vô cớ mà có. Phải thấy rõ được niềm hạnh phúc, nỗi bất
hạnh, sự thành công, thất bại, cái thăng trầm vinh, nhục trong hiện tại có nguồn
gốc sâu xa của nó từ quá khứ thì lúc đò thế gian này sẽ là chốn an bình tịnh lạc.
Vì thế ý thơ: “Làm cây thông đứng giữa trời mà reo” chỉ là một ước mơ hão huyền
xa vời trong kiếp Tái sinh - luân hồi, phản ánh nỗi khổ cùng cực do Vô thường
tác động dữ dội trên cuộc đời thi hào Nguyễn Công Trứ mà thôi.
Tài liệu tham khảo
– Thơ văn Nguyễn Công Trứ - NXB Đồng Nai. Tháng 1/2009
– Đạo đức kinh - Lý Minh Tuấn. NXB Phương Đông năm 2010
– Đạo đức học Phương Đông - Thích mẫn Giác. NXB Văn hóa Sài
Gòn năm 2008.
Mẫn Giác
Theo https://dangconghanh.wordpress.com/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét