Tỳ bà là nhạc cụ gảy dây phổ biến ở Trung Quốc, được chơi gần
2000 năm qua. Có một số nhạc cụ liên quan ở Đông Á và Đông Nam Á có nguồn gốc từ
loại đàn này, cụ thể là tỳ bà Việt Nam, pipa Hàn Quốc và biwa Nhật Bản. Do đàn
tỳ bà Việt Nam đã rất quen thuộc nên tôi không giới thiệu. Nếu quan tâm, các bạn
có thể tìm đọc loại đàn này trên Internet hoặc sách báo. Ở đây, tôi xin phép giới
thiệu đàn Tỳ bà Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản.
Tỳ bà Trung Quốc
Thuật ngữ và nguồn gốc
Từ triều đại Tần - Hán cho đến Tùy - Đường, tất cả nhạc cụ gảy
dây đều được gọi là Tỳ bà (琵琶, bính âm: pípá, Latin
hóa: pipa), do đó có nhiều nhận định khác nhau về thuật ngữ này. Theo quyển
Thích danh (釋名) thời Đông Hán, tỳ bà có thể là từ tượng thanh, có nguồn gốc từ âm thanh của nhạc cụ phát ra. Trong những
văn bản cổ xưa nhất, cái từ “tỳ bà” dù được viết khác nhau (tỳ bà 枇杷 hay phê bà 批把) nhưng chúng vẫn có
nguồn gốc từ người Hồ 胡 (có nghĩa là người ngoại quốc,
người man di). Một tài liệu cuối thế kỷ thứ 3 (thời nhà Tấn) cho biết thuật ngữ
“tỳ bà” đã xuất hiện trong triều đại nhà Tần (221–206 TCN). Ngày nay, một số
nhà nghiên cứu cho rằng cho rằng tỳ bà có khả năng xuất phát từ chữ barbat
trong ngôn ngữ Ba Tư. Tóm lại, dẫu thuật ngữ tỳ bà xuất hiện đầu tiên trong thời
kỳ nào, nó là từ ngoại nhập hay do người Trung Quốc nghĩ ra thì có một điều chắc
chắn rằng trong triều đại nhà Tần có một loại đàn gọi là Tần tỳ bà. Người ta
tin rằng loại đàn này mô phỏng hình thức thô sơ của đàn Không hầu (箜篌) và Huyền đào (弦鼗) – loại nhạc cụ
có những dây đàn căng trên cái trống nhỏ gắn tay cầm, được cho là do những người
xây dựng Vạn Lý trường Thành chế tạo vào cuối triều đại nhà Tần. Tần tỳ bà có cần
đàn thẳng, hộp cộng hưởng tròn và 4 dây đàn theo chuẩn 12 nốt. Kiểu này về sau
phát triển thành đàn Nguyễn (阮) – nhạc cụ được đặt tên
từ họ của nhạc sĩ Nguyễn Hàm (阮咸) trong nhóm Trúc Lâm
thất hiền (竹林七賢). Tuy nhiên, cần chú ý, Tần tỳ bà có
thân đàn tròn, do đó nó có thể là loại đàn trùng tên chứ không phải là loại tỳ bà mà chúng ta biết ngày nay (loại có thân đàn hình quả lê).
Về tỳ bà hình quả lê, có hai loại mà nhiều nhà nghiên cứu cho
rằng chúng có khả năng du nhập từ Trung Đông, từ vương quốc cổ Gandhāra (tiếng
Phạn: गन्धार) hay Ấn Độ vào miền bắc Trung Quốc
trong thế kỷ thứ 4. Loại thứ nhất gọi là Quy từ tỳ bà (龜茲琵琶,
Latinh hóa: Kuche pipa), có cần đàn cong với 4 chốt chỉnh dây và 4 dây đàn. Loại
thứ hai gọi là Ngũ huyền tỳ bà (五弦琵琶, Latinh hóa: wuxian
pipa), có cần đàn thẳng, 5 chốt chỉnh và 5 dây.
Trong triều đại nhà Hán có loại đàn gọi là Hán tỳ bà. Nhạc cụ
này có 4 dây đàn tượng trưng cho 4 mùa, còn chiều dài của đàn tượng trưng cho
Thiên - Địa - Nhân và Ngũ hành. Đến triều đại nhà Tống thì những nhạc cụ gảy
dây khác đã có tên riêng, thuật ngữ “tỳ bà” chỉ còn được sử dụng độc quyền cho
nhạc cụ hình quả lê.
Nhìn chung, việc miêu tả những loại tỳ bà có hình quả lê xuất
hiện khá nhiều từ giai đoạn Nam Bắc triều (南北朝, 420 - 589) cho tới đời nhà Đường (唐朝,618-907). Trong triều đại
nhà Đường, tỳ bà phát triển rực rỡ, trở thành nhạc cụ chính trong hoàng cung.
Triều đình triệu những nhạc sĩ Ba Tư, Quy Từ và các thầy dạy đàn đến kinh đô
Trường An (長安) để giảng dạy, biểu diễn và chế tạo tỳ bà. Trong thời kỳ đó, nhiều nghệ nhân làm đàn tỳ bà rất công phu với những nét
hoa văn chạm khắc tuyệt hảo. Mô típ chạm khắc thường có liên quan đến Phật
giáo.
Loại tỳ bà 4 và 5 dây đặc biệt phổ biến trong triều đại nhà
Đường, chúng “lan tỏa” sang Nhật Bản, Việt Nam và Hàn Quốc cũng trong triều đại
này.
Bên cạnh loại tỳ bà thông thường còn có một loại khác gọi là
Nam âm tỳ bà (南音琵琶; Latinh hóa: nanyin pipa, viết gọn
là nanpa) hay Nam quản tỳ bà (南管琵琶, La tinh hóa: Nanguan
pipa), gọi dân dã là “tỳ bà miền nam” hoặc “tỳ bà nằm ngang”. Nhạc cụ này có
nguồn gốc ở khu vực trung tâm Trung Quốc, về sau được đưa tới tỉnh Phúc
Kiến rồi được dùng chủ yếu ở tỉnh này. Nam âm có thân đàn khá giống loại tỳ bà thông thường, những khác biệt chính nằm ở chỗ phím đàn, trục đàn và mặt
thân đàn sơn màu đen. Cần và thân đàn được làm từ một khối gỗ duy nhất
(thường là gỗ thông, không nặng bằng tỳ bà thông thường); tuy nhiên có trường hợp
mặt thân đàn lại làm từ tung wood. Phần đầu trục cong ngược ra
phía sau, phần này và chốt chỉnh được làm riêng. Mỗi bên hông thân đàn có
một lỗ thoát âm hình trăng lưỡi liềm. Dưới ngựa đàn có một lỗ nhỏ hình thoi.
Nam âm tỳ bà chỉ có 4 phím đàn chính (thay vì 6 như tỳ bà thông thường, không
có phím trên cùng và phím dưới cùng), làm từ những miếng gỗ hình tam giác, phù
ngoài bằng vỏ rùa biển; ngoài ra còn 9-10 phím thấp và mỏng cũng làm từ một loại
gỗ theo thang âm diatonic. Phần bàn phím ở hai bên hông những phím tam
giác được khảm xà cừ. Nam âm tỳ bà có 4 dây nilon, chỉnh giọng giống tỳ bà
thông thường, nhưng nhạc cụ này được chơi ở tư thế nằm ngang giống guitar chứ
không dựng đứng tựa trên đùi như tỳ bà thông thường. Khi diễn tấu người ta thường
dùng miếng gảy hơn là sử dụng ngón tay hoặc móng giả.
Một nhạc cụ khác có tên là Đồng tỳ bà (侗琵琶;
Latinh hóa: Dong pipa), trông không giống lắm loại tỳ bà thông thường, vì nó có
thân đàn hình trái tim chứ không phải quả lê. Tuy nhiên, do nhạc cụ này
trùng tên nên chúng tôi cũng giới thiệu ở đây. Đồng tỳ bà là nhạc cụ gảy dây của
tộc người Đồng (侗族) nói tiếng Đồng Thủy (侗水語), cư trú rải rác ở tỉnh Quí Châu, Hồ Nam, Hồ Bắc và khu tự
trị Quảng Tây (廣西; Latinh hóa: Guangxi Zhuang) thuộc miền nam Trung Quốc. Đồng tỳ bà được làm từ một khối gỗ khoét rỗng, có một lớp gỗ
mỏng dán keo ở mặt trước thân đàn; cần và trục đàn làm từ một khối gỗ khác, thường
thì trông khá giống cần đàn Tam huyền (三弦; Latin hóa: sanxien)
hay cần đàn Tam vị tuyến (三味; Latin hóa:shamisen) Nhật
Bản. Đồng tỳ bà có 2 hoặc 3 phím đàn và 4 dây đàn chỉnh bằng 4 trục tròn dài.
Các dây này chạy căng trên một ngựa đàn gỗ nhỏ tới một chốt dây nhỏ ở cuối thân
đàn. Người ta thường sử dụng Đồng tỳ bà để đệm hát và khiêu vũ bằng cách đánh
chập (strumming).
Nhìn chung, đến triều đại nhà Tống thì loại tỳ bà hình
quả lê có 5 dây đã mai một, không còn được sử dụng nữa. Vào đầu thế kỷ 21 người
Trung Quốc đã cố khôi phục lại loại đàn này, tạo ra loại tỳ bà 5 dây hiện đại
mô phỏng từ loại đời nhà Đường, ngoài ra họ còn chế tạo tỳ bà điện. Trên thực tế,
đây là loại tỳ bà thông thường, được gắn thêm những pickup nam châm kiểu guitar
điện để khuếch đại âm thanh thông qua một amplifier hay PA system (hệ thống
phân bố và khuếch đại âm thanh điện tử thông qua microphone, amplifier và
loa). Trên thị trường còn có loại Tụ trân tỳ bà (袖珍琵琶)
- nhạc cụ đồ chơi của Trung Quốc. Nó là phiên bản nhỏ xíu của đàn tỳ bà thông dụng,
có kích cỡ khác nhau. Tùy theo kiểu, tụ trân tỳ bà có từ 2 đến 5 dây, thân đàn
hình quả lê; cần và trục đàn dài ngắn khác nhau. Kiểu nhỏ nhất nằm gọn trong
lòng bàn tay, kiểu lớn nhất dài trên 40cm.
Cấu trúc cơ bản
Tỳ bà có nhiều loại, song hầu như tất cả đều có thân đàn hình
quả lê, mặt đàn thường làm từ gỗ bào đồng hay gỗ phượng hoàng; phần lưng thân đàn
làm từ gỗ hồng sắc, gỗ gụ hoặc gỗ đàn hương đỏ. Cần đàn cong hoặc thẳng tùy
theo loại. Đầu cần chạm khắc những biểu tượng lạc quan theo quan điểm Trung Quốc,
có thể gắn thêm những hạt đá chất lượng tốt. Loại ở đây dài 94,2 cm; thân đàn rộng
22,5 cm, dầy 4,7 cm.
Ban đầu, tỳ bà có cần đàn 4 phím (gọi là tương 相) nhưng đến đầu nhà Minh nhạc cụ này có thêm những phím bằng
tre (gọi là phẩm 品) trên miếng gỗ tăng âm, giúp mở rộng
âm vực. Số phím đàn tăng dần từ 10, 14 hay 16 trong thời nhà Thanh, sau đó tăng
lên 19, 24, 29 và 30 trong thế kỷ 20. Những phím đàn hình nêm trên cần đàn ban
đầu là 4, sau đó được nâng lên là 6 cũng trong thế kỷ 20. Loại tỳ bà 14 hoặc 26
phím đàn được bố trí gần như tương ứng với quãng một cung và nửa cung trong nhạc
phương Tây. Tính từ chốt nâng dây (nut) trên cần đàn, cao độ sẽ là 1 cung -1/2
cung - 1/2 cung -1/2 cung -1/2 cung -1 cung - 1/2 cung -1/2 cung -1/2 cung -1
cung -1 cung - 3/4 cung- 3/4 cung -1 cung - 1 cung - 3/4 cung - 3/4 cung, (vài
phím có giọng 3/4 cung hoặc “giọng không rõ ràng”).
Loại tỳ bà truyền thống có 16 phím trở nên kém phổ biến dần,
mặc dù nó vẫn được dùng trong vài loại nhạc địa phương, thí dụ như thể loại Nam
Quản (南管). Loại tỳ bà hiện đại dài khoảng 96 cm, có 4
dây, được gắn thêm 6 phím phụ, kết hợp với 18, 24, 25 hoặc 28 phím chuẩn, bố
trí khoảng cách 12 âm nửa cung. Bốn dây đàn chỉnh giọng A, d, e, a, với âm vực
rộng từ A đến g3. Ngày xưa dây đàn làm bằng tơ se. Trong triều đại nhà Đường,
nghệ sĩ chơi đàn bằng các ngón của bàn tay phải, về sau mới thay bằng miếng gảy
lớn. Trong thập niên 1950, dây thường được làm bằng thép bọc nilon hoặc dây kim
loại, giúp giọng tỳ bà tươi sáng và sôi nổi hơn, có vẻ tương tự giọng mandolin.
Tuy nhiên, dây kim loại gây trở ngại là khó gảy bằng móng tay hơn, vì thế người
ta thường sử dụng móng giả để chơi đàn. Móng giả thường làm bằng làm bằng nhựa
hoặc mai rùa. Tỳ bà có khả năng diễn tả đa dạng cung bậc cảm xúc khác nhau, thường
được dùng trong dàn nhạc lớn của Trung Quốc hay đệm cho nhạc kịch. Ngày nay người
ta còn sử dụng loại đàn này trong cả nhạc pop và rock.
Kỹ thuật diễn tấu
Khi chơi người ta thường ngồi, đặt đàn trên đùi theo tư thế dựng
đứng (hơi nghiêng về bên trái của người đánh đàn); bàn tay trái giữ cần đàn, những
ngón tay bấm dây, trong khi đó bàn tay phải gảy dây bằng những ngón tay hay miếng
gảy. Có hai kỹ thuật rất phổ biến: thứ nhất là “pí” (琵),
đẩy những ngón tay của bàn tay phải từ phải sang trái, có thể sử dụng một hoặc
vài ngón tay theo cách đó để đánh cùng lúc, tạo đa âm (ngón bật); thứ hai là
“pá” (琶), kéo ngón cái của bàn tay phải từ trái qua phải
theo chiều ngược lại.
Kỹ thuật búng dây gọi là “đàn-khiêu” (彈挑),
sử dụng ngón trỏ và ngón cái. Đàn 彈 là búng dây bằng
ngón trỏ, còn khiêu 挑 là búng dây bằng ngón cái. Thông
thường, cách búng dây trên đàn tỳ bà ngược lại với cách gảy đàn guitar. Người
ta búng những ngón tay (kể cả ngón cái) hướng ra ngoài, trong khi đó, khi chơi
guitar thì những ngón tay lại gảy vào trong, hướng về lòng bàn tay. Đối với tỳ bà, cách gảy ngược vị trí so với “đàn” và “khiêu” gọi theo thứ tự là
“mạt (抹) và “câu” (勾). Khi gảy
hai dây cùng lúc bằng ngón trỏ và cái (hai ngón hoạt động riêng lẻ) gọi là
“phân” (分), chuyển động ngược lại gọi là “chích” (摭). Đánh chập nhanh bằng bốn ngón tay gọi là “tảo” (掃), đánh chập nhanh ở vị trí ngược lại gọi là “phất” (拂). Tạo âm thanh đặc biệt bằng kỹ thuật vê (tremolo) thì gọi
là “luân chỉ” (輪指). Kỹ thuật này thường được sử dụng cả
năm ngón của bàn tay phải, tuy nhiên, có thể sử dụng chỉ bằng một hoặc vài ngón
tay.
Kỹ thuật tay trái rất quan trọng đối với sự biểu cảm của nhạc tỳ bà, giúp tạo ra âm rung, luyến ngắt, vuốt, bật, âm bội và những hòa âm giả
(artificial harmonics) giống như kỹ thuật sử dụng trên đàn violin và
guitar. Kỹ thuật nhấn dây (string-bending) cũng có thể được dùng để tạo
ra âm vuốt và luyến ngắt. Xin lưu ý, phím của tất cả các loại đàn lute Trung Quốc
đều cao, do đó những ngón tay thường không chạm vào bàn phím. Đây là điểm khác
biệt so với những nhạc cụ có phím của phương Tây. Điều này giúp xử lý tốt hơn
trong việc tạo ra giọng và âm sắc. Thêm vào đó, có một số kỹ thuật tạo âm thanh
đặc biệt, thí dụ như gõ vào bề mặt thân đàn để tạo âm gõ hoặc xoắn những sợi
dây vào nhau trong khi chơi để tạo hiệu ứng tiếng chũm chọe.
Bipa Hàn Quốc
Bipa (tiếng Hàn:비파, Hán Việt: tỳ bà) là nhạc cụ truyền thống của Hàn Quốc. Nó là loại
đàn lute có hình quả lê, liên quan với loại tỳ bà Trung Quốc, Việt
Nam và biwa Nhật Bản. Trong quá khứ có hai loại bipa: hyang-bipa (향비파, Hương tỳ bà) và Dang-bipa (당비파, Đường tỳ bà).
hyang-bipa
Hyang-bipa là loại đàn 5 dây, chơi bằng một miếng gảy - loại
chuẩn từ triều đại Cao Câu Ly (고구려, 37-668) đến triều Tân La (신라, -935). Nó là một trong ba loại đàn dây trong triều Tân La (bên cạnh
đàn geomun-go (거문고) và gayageum (가야금). Loại này có cần đàn thẳng; 5 dây đàn; bên trái trục đàn có
3 chốt chỉnh dây, bên phải hai chốt; mặt trước làm từ gỗ bào đồng, mặt
sau làm từ gỗ cây hạt dẻ. Ban đầu nhạc cụ này có 5 phím đàn nhưng đến thời nhà
nước Triều Tiên (조선, 1392-1897) thì tăng lên 10 phím,
riêng những phiên bản hiện đại có thể lên tới 12 phím đàn (âm vực gần 3 quãng
tám). Theo ký tự Trung Quốc thì hyang (鄕,
bính âm: xiāng; Hán Việt: Hương) có nghĩa là "quê quán, quê
nhà", nhằm nói rằng loại đàn này có nguồn gốc ở Hàn Quốc. Khi diễn tấu người
ta thường ngồi, đặt đàn trên đùi theo tư thế dựng đứng (hơi nghiêng về bên
trái), bàn tay trái giữ cần hoặc thân đàn và bấm dây, bàn tay phải sử dụng những
móng gảy (tròng vào ngón tay) để gảy dây đàn. Trước đây người ta gảy đàn bằng
que, nhưng ngày nay hiếm khi sử dụng cách này.
Dang-bipa
Dang-bipa là loại đàn 4 dây, có đầu cần cong ngược ra
phía sau với 12 phím đàn trên cần đàn, phiên bản hiện đại có âm vực rộng
hơn 3 quãng tám. Theo ký tự Trung Quốc Dang (唐;
bính âm: táng; Hán Việt: Đường) là từ nói về triều đại nhà Đường, ý nói loại
đàn này có nguồn gốc từ Trung Quốc, du nhập vào Hàn Quốc từ thời nhà Đường.
Trong thời kỳ Cao Ly (tiếng Hàn: 고려; 918–1392), nó được sử dụng trong nhạc
Dangak (nhã nhạc Hàn Quốc). Cái tên Dangak có nghĩa là “Đường nhạc”, một loại
nhạc mô phỏng từ nhã nhạc nhà Đường, Trung Quốc. Tuy nhiên, kể từ thời Triều
Tiên, nó còn được dùng trong nhạc hyangak. Cái tên hyangak có nghĩa là “nhạc
làng” (village music), một hình thức nhạc cung đình truyền thống của Hàn Quốc
có nguồn gốc trong thời kỳ Tam quốc (삼국시대). Trước đây người ta đã cố phục hồi
lại Dang-bipa nhưng thất bại vì không còn nhạc sĩ chuyên nghiệp về loại đàn
này.
Biwa Nhật Bản
Biwa (琵琶, Tì bà) là loại đàn lute của
Nhật Bản. Chúng có nguồn gốc từ đàn tỳ bà Trung Quốc, du nhập vào Nhật Bản
trong thời Nại Lương (奈良時代, 710-794). Vào thời đó có
hai loại biwa: thứ nhất là gaku biwa (hay bagaku biwa), sử dụng trong nhạc cung
đình Gagaku (Nhã nhạc) và đệm múa Bugaku, phổ biến trên quần đảo Ryukyu; loại
thứ hai là loại kojin biwa (hay moso biwa), do những thầy tu mù (moso)
thuộc dòng Phật giáo Tendai sử dụng. Về sau, kojin biwa phát triển thành hai
dòng riêng: loại của thầy tu mù ở Chikuzen và loại của thầy tu mù ở Satsuma
(Chikuzen và Satsuma là hai tỉnh cũ thuộc đảo Kyushu). Loại của thầy tu mù ở
Chikuzen có 4 dây và 5 phím, còn loại của thầy tu mù ở Satsuma có 3 dây và 6
phím. Đến thế kỷ 14, những người hát rong (biwa-hoshi) thường xuyên chơi biwa.
Họ vừa đàn vừa hát những bài anh hùng ca thời chiến (gunki-monoratari), đặc biệt
là Heike monogatari. Từ đó xuất hiện loại đàn Heike biwa 5 dây, dần dần phổ biến
trong tầng lớp samuarai vào thời Thất Đinh (室町時代,1337-1573)
và thời An Thổ Đào Sơn (安土桃山時代, khoảng 1573 đến
1603), đặc biệt là trong thị tộc Shimazu ở đảo Kyushu.
Khoảng đầu thời Đức Xuyên (徳川時代,
1603-1868), một dòng biwa khác tiến hóa, tách khỏi loại biwa của thầy tu mù ở
Satsuma, dòng đó gọi là Satsuma biwa. Khoảng giữa thời Minh Trị (明治時代, 1868-1912), thêm một dòng biwa nữa phát triển, tách khỏi
loại biwa của thầy tu mù ở Chikuzen, dòng đó gọi là Chikuzen biwa. Theo thời
gian, nhiều dòng biwa khác ra đời. Cho đến ngày nay, căn cứ vào số dây, âm
thanh, loại miếng gảy và cách sử dụng, người ta chia biwa thành 8 loại trở lên,
đó là: Gagaku biwa, Gogen biwa, Moso Biwa, Heike biwa, Satsuma biwa,
Chikuzen biwa, Nishiki biwa và Tsuruta biwa…
Nhìn chung, biwa có thân đàn hình quả lê, được làm từ một khối
gỗ cứng hoặc từ vài miếng gỗ ghép lại; mặt đàn là một lớp gỗ mềm mỏng, thường
có hai lỗ thoát âm hình bán nguyệt; cần đàn ngắn, có 3 đến 6 ngăn phím cao; trục
đàn vuông, cong về phía sau một góc 90 độ với phần đầu trục uốn ngược lên. Biwa
có từ 3 đến 5 dây đàn làm bằng tơ (hiện nay chỉ còn loại 4 và 5 dây, chỉnh giọng
bằng những chốt gỗ tròn và dài nằm ở hai bên trục đàn). Miếng gảy (bachi) sử dụng
cho biwa có hình tam giác, khá lớn, không chỉ dùng để gảy dây mà còn gõ vào mặt
đàn. Thông thường, có một mảnh da thuộc hay giấy dán hồ nằm vắt ngang nửa phần
dưới mặt đàn. Loại ở đây làm bằng gỗ và da thuộc, dài 105cm, rộng 40,3cm, dày
7cm, có 4 dây đàn.
Cách chơi và âm thanh của biwa không giống như
đàn Tỳ bà Trung Quốc. Khi diễn tấu, nghệ sĩ ngồi gập chân kiểu Nhật.
Đối với loại 4 dây họ đặt thân đàn trên hai đùi, theo tư thế ngang giống như
guitar, riêng loại 5 dây thì họ thường giữ đàn thẳng đứng; tay trái giữ cần
đàn, những ngón trái bấm phím, trong khi đó, bàn tay phải cầm miếng gảy khá to,
gảy dây bằng cạnh dưới phía trước của miếng gảy. Họ nhấn dây xuống giữa hai
ngăn phím để tạo ra âm thanh có cao độ theo ý muốn. Do phần đầu của ngăn phím
tròn nên âm thanh của biwa phát ra có nét đặc trưng riêng.
Miếng gảy đàn biwa
Biwa là loại đàn dùng để độc tấu, hòa tấu, chủ yếu là đệm
hát, làm nền cho những câu chuyện kể bằng những giai điệu chậm. Đến thời Minh
Trị, do nhạc phương Tây và nhiều nhạc cụ khác phổ biến hơn nên việc chơi đàn
biwa đã trở nên mai một dần. Tuy nhiên, đến nửa cuối thế kỷ 20, biwa hồi sinh
qua tài năng của nữ nghệ sĩ Nhật Tsuruta Kinshi. Tuy ít được sử dụng trong nhạc
pop, song biwa đã từng xuất hiện trong ban nhạc progressive rock của Nhật (nhóm
Paikappu) trong thập niên 1980 và từ năm 2003, nhóm Rin', một ban nhạc pop Mỹ-Nhật
đã chơi nhạc cụ này.
Chikuzen biwa (筑前琵琶, Trúc tiền tỳ bà)
là loại biwa hiện đại, dài 70cm, có 4 - 5 dây đàn với 4 - 5 ngăn phím. Phần lớn
nghệ sĩ chơi nhạc đương đại đều sử dụng loại 5 dây. Miếng gảy của
Chikuzen biwa rộng khoảng 13cm (nhỏ hơn nhiều so với loại Satsuma
biwa), thường làm bằng gỗ hồng sắc với phần đầu là gỗ hoàng dương hoặc ngà.
Kích cỡ, hình dáng và trọng lượng của loại đàn này còn tùy thuộc vào giới tính
và tuổi tác của người chơi. Loại do nam giới sử dụng rộng hơn và/ hoặc dài hơn một
chút so với loại dành cho phụ nữ và trẻ em. Loại 4 dây được chỉnh giọng B, e,
f#, b; còn loại 5 dây chỉnh C, G, C, d, g hoặc E, B, e, f#, b. Xét về lịch sử,
Chikuzen biwa xuất hiện khoảng cuối thời Nại Lương (奈良時代),
khởi đầu thời Bình An (平安, 794-1185). Vào thời
đó, thầy tu mù Gensei sáng lập ngôi đền Seishukuin, nơi tu hành của những thầy
tu mù vùng Chikuzen. Gensei và những thầy tu mù đã chế tạo nhiều loại đàn biwa
khác nhau. Dần dần loại biwa có 4 dây và 5 phím trở thành chuẩn mực, được sử dụng
rộng khắp ở miền bắc đảo Kyushu, được đặt tên là Chikuzen biwa. Đến giữa thời
Minh Trị (Meiji), Tachibana Satosada đã phổ biến loại đàn này khắp nước Nhật.
Chikuzen biwa thường được dùng để chơi nhạc không lời. Trong lúc diễn tấu, người
ta không bao giờ gõ miếng gảy vào thân đàn. Đối với loại 5 dây, họ giữ đàn thẳng
đứng, còn loại 4 dây thì cầm ngang.
Gagaku biwa (雅楽琵琶, Nhã nhạc tỳ bà) là
loại biwa cổ điển; phần bụng của thân đàn làm từ gỗ hồng sắc, dâu tằm hay gỗ mộc
qua Trung Quốc, đôi khi còn sử dụng gỗ anh đào và gỗ sồi Trung Quốc; phần mặt của
thân đàn làm từ gỗ hạt dẻ. Nếu phần bụng của thân đàn làm từ một miếng gỗ thì gọi
là “hita ko”, còn làm từ hai đến ba miếng gỗ gọi là “hagi ko”. Hita ko được
công nhận là loại giá trị nhất. Phần dưới mặt đàn lót một miếng da thuộc đi
ngang qua, miếng này rộng khoảng 10-12cm. Đây là chỗ người ta gõ miếng gảy vào
khi đánh đàn. Trên miếng da thuộc thường vẽ những bức tranh đẹp, ngoài ra, những
cây biwa nổi tiếng còn có tên riêng, cái tên này liên quan với việc thiết kế những
bức tranh. Phần trên của thân đàn gọi là “shishi kubi” (cổ gầy), nó được làm từ
gỗ cứng nhập khẩu hoặc gỗ dâu tằm. Đỉnh của phần trên gọi là “kairobi” (đuôi
tôm), được làm từ gỗ hoàng dương hoặc gỗ đàn hương. Những chốt chỉnh dây ngắn
và nhỏ, dễ phân biệt với loại biwa hiện đại hơn như Satsuma biwa và Chikuaen
biwa. Miếng gảy của Gagaku biwa mỏng và nhỏ dài khoảng 20cm), làm từ vật liệu cứng
như ngà hay gỗ hoàng dương.
Nhìn chung, loại đàn này lớn và nặng, có 4 dây tơ và 4 phím
đàn, chuyên dùng cho thể loại nhạc cung đình gagaku (Nhã nhạc Nhật Bản). Gagaku
biwa không được dùng để đệm hát. Giống như cách chơi Heike biwa, khi diễn tấu
người ta thường ngồi gập chân, giữ loại đàn này nằm ngang như guitar. Trong Nhã
nhạc Nhật Bản, Gagaku biwa được gọi là Gakubiwa (Nhạc tỳ bà).
Gogen biwa (五絃琵琶, Ngũ huyền tỳ bà) là
loại biwa cổ điển, biến thể của tỳ bà Trung Quốc trong thời nhà Đường. Nó được
làm bằng gỗ, nhiều chỗ khắc hoa văn và cẩn xà cừ. Gogen biwa có 5 dây đàn,
không nên nhầm lẫn chúng với loại biến thể hiện đại cũng có 5 dây, đó là
Chikuzen biwa. Gogen biwa thường được dùng trong Nhã nhạc Nhật Bản.
Heike biwa (平家琵琶, Bình gia tỳ bà) là
loại biwa xuất hiện trong thời Edo (1603-1868). Nó có 4 dây và 5 ngăn phím, chỉnh
giọng A, c, e, a hoặc A, c#, e, a, thường dùng để chơi trong chuyện kể Bình gia
vật ngữ (Heike Monogatari), một bản sử thi về cuộc chiến giành quyền kiểm soát
Nhật Bản giữa dòng dõi samurai Taira với gia tộc quyền quý Minamoto trong cuối
thế kỷ 12. Miếng gảy của loại đàn này lớn hơn một chút so với loại gagaku biwa,
nhưng ngoại hình thì nhỏ hơn nhiều (có thể so sánh với kích cỡ của chikuzen
biwa). Ngày xưa, loại đàn này do những người hát rong sử dụng. Ngoài ra, do có
kích cỡ nhỏ nên người ta có thể chơi chúng trong nhà.
Moso biwa (盲僧琵琶, Manh tăng tỳ bà) là
loại biwa cổ điển, có 4 dây, được dùng trong ca khúc và câu chú Phật giáo. Ngày
xưa, loại đàn này do các thầy tu (moso) thuộc dòng Phật giáo Tendai sử dụng. Nó
có ngoại hình tương tự chikuzen biwa nhưng thân đàn hẹp hơn nhiều. Miếng gảy của
nó khác nhau về kích cỡ và chất liệu. Loại có 4 ngăn phím chỉnh dây E, B, E, A;
loại có 5 ngăn phím chỉnh B, e, f # và f #; còn loại 6 ngăn phím chỉnh
Bb, Eb, Bb và bb.
Nishiki biwa (錦琵琶, Cẩm tỳ bà) là loại
biwa hiện đại. Nó có 5 dây và 5 ngăn phím, do Suitō Kinjō phổ biến. Miếng gảy của
nó giống như loại dùng cho Satsuma biwa. Cách dây đàn được chỉnh giọng
C, G, c, g, g.
Satsuma biwa (薩摩琵琶, Tát ma tỳ bà) là
loại biwa chế tạo ở miền nam Nhật Bản vào thế kỷ 16, rất phổ biến ở đảo Kyushu.
Vào thời ấy, ông hoàng Shimazu Tadayoshi ngự trị Tát ma quốc (vùng Satsuma,
thành phố Kagoshima ngày nay). Ông muốn có một nhạc cụ đệm các ca khúc do ông
sáng tác, nhằm khích lệ tinh thần dũng sĩ samurai và thần dân. Shimazu
Tadayoshi ra lệnh cho Fuchiwaki Ryoko cải tiến loại nhạc cụ do những thầy tu mù
sử dụng ở Satsuma thành loại Satsuma biwa ngày nay.
Theo truyền thống, Satsuma biwa được làm từ gỗ dâu tằm, mặc
dù những loại gỗ cứng khác như gỗ sồi Nhật đôi khi cũng được dùng trong cấu
trúc của chúng. Người ta thường chọn cây dâu tằm có ít nhất 120 tuổi, phơi khô
10 năm trước khi làm loại đàn Satsuma biwa. Chúng dài khoảng 90cm. Loại truyền
thống có 4 ngăn phím và 4 dây tơ thường chỉnh giọng A, E, A, B (theo giọng của
người chơi); trong khi đó loại hiện đại có 5 ngăn phím trở lên, ngoài ra nó có
5 dây (dây 4 và 5 cùng cao độ), được chỉnh theo âm vực giọng của người chơi.
Vài cây lại có 4 nguồn dây đôi, chỉnh giọng G, G, c, g, hay G, G, d, g và thường
được dùng trong nhạc đương đại. Nhìn chung, còn nhiều cách chỉnh dây khác cho cả
loại truyền thống lẫn hiện đại. Ngăn phím của Satsuma biwa truyền thống có thể
nâng cao 4cm, cho phép nốt lượn lên những bậc cao hơn. Miếng gảy của chúng làm
từ gỗ hoàng dương, rộng hơn nhiều so với miếng gảy của những loại biwa khác,
thường rộng từ 25cm trở lên. Satsuma biwa là loại đàn dùng trong hát nói, người
kể chuyện chỉ đàn khi họ nghỉ hát để lấy hơi. Kỹ thuật chơi loại đàn này kết hợp
giữa cách chơi Moso biwa và Heike biwa. Khi diễn tấu, những ngón tay
trái của người chơi bấm mở các dây đàn trong khi đó bàn tay trái gảy dây bằng một
miếng gảy lớn.
Trong thế kỷ 20, Tsuruta Kinshi, một nữ nghệ sĩ Nhật đã chế
tác phiên bản Satsuma biwa đời mới để biểu diễn, bà gọi cây đàn này là Tsuruta
biwa. Loại biwa này có cấu trúc đầu cần khác Satsuma biwa một chút. Nó có 5 dây
(đôi khi dây thứ tư lại là dây đôi) và 5 phím đàn, cho phép có nhiều nốt hơn để
biểu diễn những tác phẩm phương Tây và hiệu đại. Khi chơi loại đàn này bà
Tsuruta Kinshi ngồi xếp chân theo kiểu Nhật, đặt thân đàn tựa lên hai đùi, bàn
tay trái giữ cần đàn, còn những ngón trái bấm phím, trong lúc bàn tay phải cầm
một miếng gảy khá lớn, gảy một cạnh vào dây đàn.
(Tổng hợp từ ATLAS (về nhạc cụ), Wikipedia (Anh, Trung
Quốc) và những tài liệu khác).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét