Từ Hài Cú Nhật Bản, lục bát ba câu
Nguyễn Tôn Nhan, ý niệm rời về
Haiku Việt của Chu Ngạn Thư
Nguyễn Tôn Nhan, ý niệm rời về
Haiku Việt của Chu Ngạn Thư
Thời gian hơn mấy thập niên trở lại đây, nghệ thuật chuyển biến
sáng tạo và lập dựng nhiều trường phái tân hóa, cách điệu và đầy trí dũng.
Đương nhiên, giữa sự đột biến của một thời văn minh xã hội, đưa khoa học lên
hàng kiệt xuất mà cách đây cả thế kỷ trở về trước có ai ngờ một cuộc cách mạng
tri thức tuyệt vời, y như nguyên bản của những ước mơ phù thuỷ hay thần thoại của
thời cổ tích Phong Thần, Liêu Trai Chí Dị, U Minh Liệt Truyện, Harry Potter… đều
trở nên hiện thực. Cái chớp cánh lên không xuyên suốt hàng trăm ngàn cây số,
phiêu du trong vũ trụ, đến mọi chuyển biến trong các độ nhạt chuyên ngành khác
đều như một giấc mộng phù sinh, thời @ đã đưa thuần phong nhĩ, thiên lý nhãn và
những cách điệu truyền âm như một cách phiêu thoát. Đường đời con người không
dài, nhìn lại bản thể có được phục nguyên như tư chất tiên thiên lúc mới khai
sinh không thì mới thấy cái uyên nguyên của trời đất đã là một bí mật với những
kẻ thoát thai lại chìm đắm trong ngõ tối của mọi khuynh loát u mê trong dòng
luân lưu của cuộc sống. Người ta có tâm huyết và duyên cơ đi tìm kẻ đạo, vạch
mù sương trên ánh đuốc giác ngộ lầm lũi vượt đỉnh thái hư, hầu chấp cánh cho bản
lai bước vào cái vô tử vô sinh, dù đó là nghệ thuật hay tâm thức, thì sự diệu kỳ
đã giải thoát con người qua khỏi trăm nẻo u mê. Đạo giáo sinh ra khá nhiều, mà
bước đi chung vẫn chưa hề có mặt, mỗi hình thái cực đoan và phi đạo vẫn tiếp diễn
xảy ra. Cái ác vẫn chập chùng giăng mắc trong kiếp sống lưu sinh của con người,
đâu biết đâu hiểu nẻo ra đã lạc lối chưa nào. Càng ngày, càng chất chồng những
bất hạnh lên vai nhân loại, bởi đi đôi với cái tạm gọi là Thiện, cái tạm gọi là
Ác, vẫn ngang ngửa nhau sức tàn phá và đối kháng như thời Siddhartha chờ bình
minh giác ngộ, Ma vương hiện hình đầy rẫy, gieo mọi tư hướng để đẩy lùi nền
sáng của ngọn đuốc minh triết đang hùng vĩ soi rọi. Cái đối kháng nhiều lúc thần
lực không thua sút nhau, vì mỗi bên đạt ngộ theo cách chuyển bí mật của kẻ hở
vũ trụ, của duyên nghiệp thông hành trên ngõ ngách của huyền vi. Đến “Om
mani pad me hum”, hoa sen nở trong lòng, thì chân lý là dấu ấn pháp giới cũng
chính chiến thắng bản thân mình.
Nghệ thuật cũng vậy, có cái đi thẳng vào một chiều hướng
xuyên sâu ở một giai đoạn cực thịnh của một quan niệm, một triết lý thời thượng,
nếu có một sự bùng vỡ như những hòn bi va chạm toé lửa sẽ nảy sinh những chuyển
biến có lợi cho cuộc hành trình. Chỉ có câu hỏi, sự hồi sinh hay hủy diệt có phải
là chân lý vĩnh cửu, để nghệ thuật thoạt biến thoạt hiện như những ảo giác hay
sự thật mà chân lý đã điểm tô thế giới nhân gian, như hoa nở rực rỡ từ những ngọn
đồi đầy gió thu phong man mác dưới bình minh hay ánh trăng vàng, hay là hoa nở
trong lộc bình lẻ loi trong phòng khách thừa trừ. Cái nhức đầu của người làm
văn nghệ là cứ nhai đi nhai lại những giọng điệu của màn đêm, cũ rích từ ngàn
năm xưa nên người nghệ sĩ chính tự bản thân phải sáng hoá chính mình đưa một tiểu
vũ trụ hoà nhập bản thể vào tam thiên đại thiên thế giới, hay còn những thế giới
ngoài cõi đại giác đã vạch sẵn.
Sự thuần hành trên lẽ đạo là tất nhiên đưa đẩy vun trồng chân
tâm được phóng hoạt lớn nhỏ thường hằng. Khi lớn bao trùm cả vũ trụ mênh mông,
khi nhỏ đến hạt cát cũng chẳng ra gì. Nhưng ai biết trong cái hạt cát đó, chứa
đầy cả một không gian siêu thoát và đạt ngộ. Vì vậy, mỗi tư hướng của nghệ sĩ
đã là cái ngộ vọng tức thời, đưa đẩy cái lẻ loi thành đại chúng. Tôi thầm cảm
ơn những điều gì mình biết được nhào nắn không hiểu từ bao nhiêu ngày tháng của
thời gian mơ hồ, và tôi chiêm nghiệm bao nhiêu sự hóa thân chân chính để làm sống
lại trí tuệ giác tha của bằng hữu văn nghệ. Cái mới mà chính bạn bè bỗng nhiên
tìm thấy, thật kỳ bí và mở rộng cho nghệ thuật như một ánh sáng tuyệt diệu soi
thêm trên thềm hoa cỏ buổi đẫm sương, mát dịu và thanh thoát lòng người.
Hôm Lưu Vân ghé tạt qua thăm tôi, có lẽ đã gần năm, sau những
giọt rượu nồng lay láng tình văn hữu, bỗng nhiên anh vui cười báo về một lối
ngoặc trong thơ của nhà thơ Chu Ngạn Thư, áp dụng thơ Hài Cú Nhật Bản, với ý
niệm là làm mới với danh nghĩa Haiku Việt. Lưu Vân tán thán, sự thành công đậm
đà trong nét thơ này có một hào nhoáng cách tân và sâu sắc. Chu Ngạn Thư là một
nhà thơ có nhiều công lao góp mặt với văn nghệ Việt Nam từ thuở xa xưa, trải
qua bao nhiêu ngày tháng chung đụng với không gian thơ, hẳn nhiên đã đạt hoả hầu
tuyệt diệu. Thì chuyện tạo tác một khuynh hướng đa thể cách,lại là chuyện đương
nhiên, và thêm cho khu vườn nghệ thuật đầy những cánh hoa phục nguyên mới lạ.
Tôi lật đật nhìn lại, một Khế Iêm, Đoàn Minh Hải, Lý Đợi, Nguyễn Phan Thịnh,
cách tân thơ qua ngõ Tân Hình Thức, rồi Nguyễn Tôn Nhan dìu mình từ thuở 16 tuổi
với Thánh Ca chuyển sang thể sấm thi ba câu lục bát, giờ đây Việt Nam lại có
thêm một dòng thơ mượn thể Hài Cú Nhật Bản, mà Chu Ngạn Thư tạm gọi là Haiku Việt.
Sự thành công hay không sẽ để thời gian hậu kiểm, nhưng cái đáng quý là anh em
đã tu chỉnh trong sạch để dọn mình cho bước du hành đầy ý nghĩa cho cuộc sống
nhân sinh.
Hài Cú Nhật Bản là một loại Thiền thi, chấp nhận lẽ huyền diệu
đương nhiên của trời đất và sự đạt ngộ của thế nhân. Sự trong sáng là bản thể
huyền nhiệm của Hài Cú, đưa tất cả cái tự nhiên của chân lý vũ trụ nhập vào
thơ, nhễu vào tri thức giác ngộ cho cục diện hữu hình hiện thân lên ngôn ngữ.
Không lý luận, không gò ép, với hình thức 17 âm sắc, càng ngắn càng tốt, để thể
hiện cái không hư của đạo pháp, cái trung đạo giữa đạt ngộ. Thơ cứ tự nhiên nhập
thể vào ngôn ngữ, như ảnh tượng xảy ra trong lý nghĩa của huyền đạo, không một
ý kiến tha nhân mà chính người chiêm nghiệm sẽ đi sâu hay không vào ý nghĩa của
thơ, tuỳ tâm thức sẵn có của mình. Nhật Chiêu, có bài “Giấu Mình Trong
Hương” đăng ở Giác Ngộ số 74 tháng 5/2002, kính mừng Phật Đản PL 2546, có
viết:
“Và mọi lý thuyết đều màu xám (geothe) như ý nghĩ của
bài tắc sau đây trong Bích nham lục: “Lục Hoàn đại phu (một học giả Phật giáo
thời Lục Triều) hỏi Thiền sư Nam Tuyền:
- Tôi nhớ Triệu Pháp sư nói: “Trời đất cùng ta đồng gốc, vạn
vật cùng ta đồng thể. Kỳ quái thật!
Nam Tuyền chỉ bông hoa trước sân và đáp:
- Người thời nay nhìn hoa này không như hoa mà như mộng.
Thiền sư nhắc nhở học giả rằng hoa hiện thể như hoa, bao giờ
cũng là hoa. Hoa có ở đây, bây giờ, trước mắt ta, với hương sắc diệu kỳ. Không
cần ký luận, không cần giấc mơ.
Hoa có đây, bên hàng giậu:
Ta nhìn sâu xa
Bên hàng giậu nở
Cành Nazuna
Bashô
(Yoku mireba
Nazuna hana saku
Kakine hana)
Đấy là cái nhìn đưa ta vào tinh tố của sự vật, niềm vui của sự
vật, cái nhìn của Trang Tử trước những con cá bơi lội tung tăng dưới hào. Trang
vui niềm vui của con cá và Bashô vui niềm vui của hoa.
Ta nhìn sâu xa
Dưa nằm trong cỏ
Hé mấy nụ hoa
Shiki
(Yoku mireba
Kiuri no tsobomi ya
Kusa no naka)
“Nhìn sâu xa” (yoku mireba) là cái nhìn thiền, một cái nhìn trong
suốt, lắng đọng, như như. Cái nhìn đó “giấu mình” vào sự vật, lặn vào sự vật chứ
không mổ xẻ, phân tích. Cái nhìn đó không cần gọi tên, không cần xếp loại:
Trong cỏ xanh
Cành hoa không biết
Nở ra trắng ngần
Shiki
(Kusa mura ya
Na mo shiranu hana no
Những bông hoa giấu mình trong cỏ, trong hàng giậu, trong
hương thơm, trong bóng trăng, trong sự vô danh. Cái đẹp của hoa chỉ hiện ra
trong cái nhìn sâu xa của tình yêu.”
Sự diệu kỳ của Hài Cú Thiền học Nhật Bản đã là một bản sắc
siêu tuyệt điểm tô cho văn hoá Nhật Bản nhập thần giữa thiên địa mênh mông. Đó
là một loại Thơ Thiền âm hưởng sâu sắc cái đạt ngộ siêu thoát, đưa bản thể vũ
trụ hội nhập chan hoà trong cái tiểu vũ trụ thường hằng. Mà bây giờ từ một
thành không, tan biến giữa tinh hoa tuyệt diệu của một thế giới vĩnh cửu như
kinh sách dẫn chứng?
Bước qua một lối giữ hồn dân tộc như thơ lục bát ba câu của
Nguyễn Tôn Nhan, anh cũng đã là một kỳ nhân trong nhập định với thơ. Xuyên suốt
gần nửa thế kỷ chung sống với thi ca, Nguyễn Tôn Nhan thành công trong nhiều
thi tập và tuôn chảy nhiều tư hướng sáng tạo với thơ. Đã từng bước đi trong ngõ
sáng hoá, lập thuyết cho thơ, nhưng cuối cùng qua 3 giai đoạn thơ của Nguyễn
Tôn Nhan, anh lại nhập thể hồn Việt vào bản chất thơ lục bát ba câu, mà tôi tạm
gọi là sấm thi. Bước qua giai đoạn ẩn dụ, Nguyễn Tôn Nhan đã như một lão
Trang Chulẫn thẫn bước vội trên nét vạch của hà đồ lạc thư, đưa thơ ba
câu trở nên một thừa truyền, khoát vai dịu ngọt với những câu thơ của một Trạng
Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, tiên đoán vận mệnh 500 năm trước và 500 năm sau. Hay một
Nostradamus, lập dựng sự diệu kỳ không ai hiểu nổi, ảnh hưởng cả một vùng trời
phương Tây, kể cả vùng Địa Trung Hải, đến nỗi sự say mê sấm Nostradamus,
đã hoàn sinh tin đồn nhà tiên tri đang hoá thân ở Tây Ban Nha.
Thơ lục bát ba câu của Nguyễn Tôn Nhan, cũng đạt được tinh
tuý của một tân thi, làm mới câu thơ và thấm nhập nét vạch liền vạch đứt của dịch
lý, đã đưa đẩy thơ ba câu của anh thành một loại truyền sai cho dịch lý phương
Đông mà Trung Hoa là chính sử, mặc dầu còn chút hồn Việt Nam là lục bát chân
phương.
Bước đến thơ Chu Ngạn Thư, tài hoa đã định sẵn bởi vì suốt
quá trình nghiêm túc và khổ hạnh với thi ca, nghiệp chướng đã ươm đúc cho tâm
anh một hồn thơ diệu vợi, mà mấy mươi năm trước tôi vẫn thầm thích thú thơ Chu
Ngạn Thư trong những bài được giới thiệu trên tạp chí đương thời. Chu Ngạn
Thư đã là một nhà thơ chứng kiến ngang tầm với sự trôi nổi của đất nước,
kể cả với thi ca, sự lên voi xuống chó của đời thường chỉ là một bếp lửa cho
anh hơ ấm lại những phong trần ngày tháng bám víu vào lẽ sống. Chu Ngạn Thư suốt
đời vì bằng hữu nghĩa tình, vì thuỷ chung… Nên thơ Chu Ngạn Thư đậm đặc một nhân
cách hiền giả, tạo được sự kính trọng của bạn bè văn nghệ đối với anh, đó cũng
là lẽ đương nhiên thôi.
Lưu Vân có đem cho tôi một tài liệu dày về thơ Haiku Việt của
Chu Ngạn Thư, tôi vội vã đọc nghiền ngẫm trong những thích thú riêng tư. Vượt
thoát qua bao nhiêu ngày thử thách trong cuộc đời, tất cả kỷ niệm và sự sống đã
dàn trải dày đặc trong ý thức, đã khiến Chu Ngạn Thư già dặn và logic hơn khi
bước chững chạc trong một cách tân mới:
Bờ kia ngàn dâu thắm
Trách chi đời huyễn mộng cuối trời
Lá vàng đáo ngạn ư?
Thơ hài cú là được cái huyền diệu đang vi vu ẩn tàng trong trời
đất, sự bất chợt cô đọng trong ngôn ngữ chỉ là một cách hoá thân để giao truyền
với nhân gian. Nên cái ý và cái tâm, phải chuyên chở làm một, hư nhiên tự tại để
dễ thấm nhập vào bản thể đạo và đời. Chu Ngạn Thư cũng đạt được một thành công
khá sâu rộng trong sự chuyển hoá này, chỉ có điều tôi thắc mắc là thơ Haiku Việt
còn quá nhiều dấu hỏi. Chính vì vậy, cái mới của Chu Ngạn Thư sẽ thấm nhập vào
sự thế hiện hữu, khác cái bãng lãng siêu thoát của Hài Cú Nhật Bản. Khiến Haiku
Việt như đang là bước đường hoá thân của Nho đạo:
Tên đồ tể múa đao
Tên làm thơ ngồi nhấp chuột
Tên nào sát sanh hơn?
Hay:
Muốn lấy đá thử vàng
Vàng dát mỏng chân đám hạc đình
Đá ngồi mài nước chảy!
Chu Ngạn Thư đã thành công trong hành trình sáng tạo một cách
tân thơ, giúp người đọc được ngồi dưới giàn hoa thiên lý, ngắm trăng và ngâm
nga những tư khúc đầy tâm thức của nhà thơ. Đưa đẩy thơ Chu Ngạn Thư lên thêm một
phương trời tuyệt diệu và đầy tao ngộ với sáng hóa. Sự mơ ước và nguyện vọng của
kẻ làm văn nghệ là được đứng bằng đôi chân và khối óc của mình, nên việc tạo
tác tìm tòi của nhà thơ Chu Ngạn Thư là một điểm chính khuất phục bạn bè.
Tôi thích thú nhiều bài Haiku Việt, 17 chữ của Chu Ngạn Thư
đánh dấu một sự nắm bắt ngôn ngữ và tư tưởng một cách sâu sắc:
Không nghe rặng liễu than
Đèn câu thấp thoáng đuôi tầm mắt
Biển trầm nhất cô liêu
Lục bình hay nước trôi
Nỗi nhớ bỏ quên màu hoa tím
Bây giờ ở trời tây
Chiết cành hoa đang nở
Chiết chữ hết một thời son trẻ
Chưa đáng chân tiểu đồng!
Tiếng hát âm trong lòng
Ngọn núi vẫn xanh chiều mưa mù
Sắc và thanh dạ tưởng
Chúng ta có quyền chờ đọi những hóa thân tuyệt diệu của nhà
thơ, trong cái thanh khí uyên nguyên ngày càng thoát vị trong đời sống hôm nay…
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét