Phác họa tiến trình tiểu thuyết lịch sử
Tiểu thuyết lịch sử đã xuất hiện từ lâu trong văn học Việt
Nam. Cùng những thăng trầm, biến động của dân tộc, thể tài này đã dần khẳng định
được sứ mệnh cao cả, ý nghĩa lớn lao không chỉ trong đời sống văn học mà cả đời
sống tinh thần người Việt.
Với nhu cầu, thực tiễn ở mỗi thời kỳ khác nhau, tiểu thuyết lịch
sử có khi trở thành một trong những thể loại chủ lưu, có lúc lại đánh mất vị thế,
thậm chí không ít lần vắng mặt trong đời sống văn học nước nhà. Mặc dù vậy, như
một mạch nguồn không bao giờ vơi cạn, tiểu thuyết lịch sử đã và đang chiếm vị
trí quan trọng trong lịch sử văn học Việt Nam. Nhìn lại tiến trình phát triển từ
giai đoạn văn học Trung đại đến nay, chúng ta có thể nhận diện tiểu thuyết lịch
sử Việt Nam qua bốn giai đoạn chính. Mỗi giai đoạn mang những đặc điểm riêng về
cơ sở lịch sử, xã hội, thẩm mỹ, khung tri thức thời đại; cùng với đó là sự vận
động, đổi mới không ngừng của thể loại nhằm phù hợp với nhu cầu phát triển
chung của nền văn học nước nhà.
Tiểu thuyết lịch sử giai đoạn Trung đại
Văn xuôi tự sự thời Trung đại xuất hiện khá sớm, ngay từ những
năm đầu khi mới giành được độc lập. Hai đặc điểm dễ nhận thấy nhất của văn xuôi
tự sự giai đoạn này đó là chưa tách khỏi văn học chức năng (hành chính, tôn
giáo) và dấu ấn văn học dân gian trong lối tự sự còn khá đậm đặc. Nằm trong
dòng chảy chung ấy, lĩnh vực tự sự lịch sử cũng chịu ảnh hưởng sâu sắc những đặc
điểm ấy. Nó hiện hữu trong sự “lưỡng lự” giữa một bên là văn học chức năng hành
chính (lối viết sử) và bên kia là văn học chức năng tôn giáo (lối viết thần
tích). Việt điện u linh tập (nửa đầu thế kỷ XIV) của Lý Tế Xuyên và Lĩnh Nam
chích quái (cuối thế kỷ XIV) của Trần Thế Pháp là hai trong số tác phẩm tự sự gợi
hứng nhiều nhất cho dòng tự sự lịch sử giai đoạn sau.
Dấu ấn đáng kể nhất đánh dấu quá trình hình thành thể loại tự
sự lịch sử Trung đại, đó là sự xuất hiện Thiên Nam vân lục liệt truyện của Nguyễn
Hàng khoảng nửa đầu thế kỷ XVI, Thiên Nam liệt truyện (Nguyễn Cảnh thị Hoan
Châu ký) của dòng họ Nguyễn ở Hoan Châu khoảng giữa thế kỷ XVIII và Hoàng Lê nhất
thống chí của Ngô gia văn phái khoảng cuối thế kỷ XVIII. Dựa vào ba tác phẩm có
trước Lĩnh Nam chích quái lục, Việt điện u linh tập và Thiền uyển tập anh ngữ lục,
Nguyễn Hàng đã tổ chức xây dựng lại cốt truyện và nhân vật, khiến cốt truyện
sinh động, phức tạp hơn và nhân vật đậm chất nghệ thuật, giàu sức khái quát
hơn. Với những truyện tiêu biểu như Vuốt rồng, Trương vương, Hai anh em họ
Trương, Phạm Cự Nhĩ, Lý Phục Man..., Thiên Nam vân lục liệt truyện được các nhà
nghiên cứu đánh giá là “cuộc “cách mạng” trong quan niệm của các tác gia tự sự
lịch sử thế kỷ XV - XVII”, “nấc thang đưa tự sự lịch sử tiến dần đến loại hình
văn học đích thực” (1), và Nguyễn Hàng được ghi nhận là người “đã có công đẩy tự
sự lịch sử lên một bước” (2).
Thiên Nam liệt truyện được coi là tác phẩm đầu tiên viết về chiến tranh Lê - Mạc dưới hình thức chương hồi trong văn xuôi tự sự Việt Nam thời Trung đại. Không còn thế “lưỡng lự” như các tác phẩm trước đó, tác giả của nó đã thể hiện ý hướng rõ nét trong việc dung hòa giữa lối viết gia phả, lối viết lịch sử kiểu liệt truyện với hình thức tiểu thuyết chương hồi. Bên cạnh tái hiện chân thực các sự kiện, biến cố lịch sử trong gần 110 năm (1536 - 1645); tác giả đã bắt đầu chú tâm khai thác tâm lý nhân vật với những suy nghĩ, cảm xúc sinh động. Thiên Nam liệt truyện đã đánh dấu một bước tiến trong loại hình tiểu thuyết chương hồi Việt Nam. Nấc thang từ Thiên Nam vân lục liệt truyện và bước tiến của Thiên Nam liệt truyện đã được hoàn thiện trong Hoàng Lê nhất thống chí (cuối thế kỷ XVIII). Tác phẩm của Ngô gia văn phái chính là đỉnh cao của tiểu thuyết chương hồi Việt Nam thời Trung đại. Đây là tác phẩm duy nhất phản ánh phong trào Tây Sơn một cách chân thực, sinh động. Không chỉ có giá trị về lịch sử, cuốn tiểu thuyết còn có ý nghĩa quan trọng bởi sự tròn trịa về hình thức thể loại cũng như sự phong phú về giá trị thẩm mỹ. Các tác giả của nó đã lựa chọn một trong những thời điểm phức tạp, nóng bỏng nhất trong lịch sử, cùng những xung đột, mâu thuẫn gay gắt nhất của dân tộc, gắn với nhiều chân dung lịch sử tiêu biểu của thời đại để tái hiện. Không gian được mở rộng, nhân vật được cá tính hóa cao độ, giọng điệu khá phong phú, ngôn ngữ sắc nét..., tất cả đã làm nên nét độc đáo cho tác phẩm, đánh dấu một đỉnh cao tự sự lịch sử Trung đại Việt Nam.
Thiên Nam liệt truyện được coi là tác phẩm đầu tiên viết về chiến tranh Lê - Mạc dưới hình thức chương hồi trong văn xuôi tự sự Việt Nam thời Trung đại. Không còn thế “lưỡng lự” như các tác phẩm trước đó, tác giả của nó đã thể hiện ý hướng rõ nét trong việc dung hòa giữa lối viết gia phả, lối viết lịch sử kiểu liệt truyện với hình thức tiểu thuyết chương hồi. Bên cạnh tái hiện chân thực các sự kiện, biến cố lịch sử trong gần 110 năm (1536 - 1645); tác giả đã bắt đầu chú tâm khai thác tâm lý nhân vật với những suy nghĩ, cảm xúc sinh động. Thiên Nam liệt truyện đã đánh dấu một bước tiến trong loại hình tiểu thuyết chương hồi Việt Nam. Nấc thang từ Thiên Nam vân lục liệt truyện và bước tiến của Thiên Nam liệt truyện đã được hoàn thiện trong Hoàng Lê nhất thống chí (cuối thế kỷ XVIII). Tác phẩm của Ngô gia văn phái chính là đỉnh cao của tiểu thuyết chương hồi Việt Nam thời Trung đại. Đây là tác phẩm duy nhất phản ánh phong trào Tây Sơn một cách chân thực, sinh động. Không chỉ có giá trị về lịch sử, cuốn tiểu thuyết còn có ý nghĩa quan trọng bởi sự tròn trịa về hình thức thể loại cũng như sự phong phú về giá trị thẩm mỹ. Các tác giả của nó đã lựa chọn một trong những thời điểm phức tạp, nóng bỏng nhất trong lịch sử, cùng những xung đột, mâu thuẫn gay gắt nhất của dân tộc, gắn với nhiều chân dung lịch sử tiêu biểu của thời đại để tái hiện. Không gian được mở rộng, nhân vật được cá tính hóa cao độ, giọng điệu khá phong phú, ngôn ngữ sắc nét..., tất cả đã làm nên nét độc đáo cho tác phẩm, đánh dấu một đỉnh cao tự sự lịch sử Trung đại Việt Nam.
Bên cạnh những dốc mốc quan trọng đó, dòng tự sự lịch sử
Trung đại còn ghi nhận các tác phẩm tiêu biểu khác như Nam triều công nghiệp diễn
chí (1719) của Nguyễn Khoa Chiêm, Hoàng Việt long hưng chí (1904) của Ngô Giáp
Đậu, Việt Lam tiểu sử (1908) của Lê Hoan. Nhìn chung, tiểu thuyết lịch sử giai
đoạn này nghiêng về tính chất tả thực, nặng về mô tả, ít phân tích, luận giải.
Mặc dù yếu tố hư cấu đã được một số tác giả quan tâm đưa vào diễn ngôn tự sự lịch
sử, song còn khá mờ nhạt, không ít tác phẩm chưa thoát khỏi lối viết lịch sử.
Các tác phẩm chịu ảnh hưởng khá đậm nét từ mô hình kết cấu tự sự của thể loại
chương hồi. Mở đầu mỗi hồi đều có hai câu văn theo thể biền ngẫu tóm lược tinh
thần nội dung của hồi đó và để kết thúc hồi, mở ra hồi mới là câu kết - mở quen
thuộc: “Muốn biết sự việc xảy ra thế nào, xem hồi sau sẽ rõ”. Ngoài ra, các tác
giả còn sử dụng những mẫu lời dẫn để chuyển ý, chuyển việc, chuyển đoạn, chuyển
câu chuyện như: “Lại nói…”, “Một hôm…”, “Nói về…”, “Nguyên vốn là…”. Mạch thời
gian theo lối tuyến tính, một chiều, ít có sự đảo chiều, xoay chiều.
Có thể nói, từ khi văn học viết xuất hiện, ở Việt Nam đã có một
truyền thống liền mạch về truyện lịch sử, truyện danh nhân, những thần tích, thần
phả. Đó là một trong những cơ sở quan trọng cho sự ra đời của tiểu thuyết lịch
sử. Chính các tiền đề quý báu này đã góp phần nuôi dưỡng, kích thích sự nở rộ,
phát triển mạnh mẽ của tự sự lịch sử những năm đầu thế kỷ XX. Kể từ đây, tiểu
thuyết lịch sử bắt đầu khẳng định được vị trí vững chắc trong nền văn học dân tộc
với tư cách là một trong những thể loại nòng cốt của văn học.
Tiểu thuyết lịch sử giai đoạn từ đầu thế kỷ XX đến 1945
Với những tiền đề nội sinh và sự ảnh hưởng của văn hóa, văn học
bên ngoài gắn với tiến trình hiện đại hóa văn học Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX, tiểu thuyết lịch sử đã có bước tiến vượt bậc trên nhiều phương diện: đội
ngũ sáng tác, số lượng tác phẩm, quan niệm thẩm mĩ, giá trị tư tưởng, hình thức
nghệ thuật... Sự nở rộ của tiểu thuyết lịch sử giai đoạn này được ghi nhận là một
tất yếu khách quan, một nhu cầu đổi mới tự thân của nền văn học nước nhà.
Trong hoàn cảnh lịch sử ngặt nghèo lúc bấy giờ, để vượt qua sự
kiểm duyệt khắc nghiệt của thực dân Pháp, các nhà văn không còn con đường nào
khác là “mượn xưa nói nay”, tái hiện những giai đoạn lịch sử vẻ vang cùng nhiều
chân dung anh hùng của dân tộc, nhằm gián tiếp đánh thức niềm tự tôn dân tộc,
nhắc nhở ý thức trách nhiệm của mỗi cá nhân trước sự tồn vong của dân tộc.
Trong khi đó, việc giao lưu, tiếp xúc với văn hóa, văn học nước ngoài (Trung Quốc,
Pháp) tạo cơ hội trong việc đẩy nhanh tiến trình hiện đại hóa văn học nói chung
và tiểu thuyết lịch sử nói riêng. Chúng ta dễ dàng nhận ra sự ảnh hưởng rõ nét
của văn học nước ngoài trong cảm thức, lối viết, phương thức tự sự lịch sử. Tất
cả đã làm nên một “mùa vàng” của tiểu thuyết lịch sử trong đời sống văn học dân
tộc.
Mở đầu cho giai đoạn này là tác phẩm Trùng Quang tâm sử của
Phan Bội Châu. Điều khá thú vị, đây là tiểu thuyết được viết bằng chữ Hán. Nó
đã phần nào cho thấy điểm gạch nối giữa tiểu thuyết lịch sử Trung đại và tiểu
thuyết lịch sử hiện đại. Vì lẽ đó, tác phẩm của Phan Bội Châu vừa kế thừa những
đặc trưng của tiểu thuyết giai đoạn trước, vừa có sự đổi mới cho phù hợp với
quan niệm sáng tác, tư tưởng thời đại và thị hiếu công chúng đương thời. Với cảm
thức chiêm bái, ngưỡng vọng, nhà văn họ Phan đã ngợi ca công lao của các vị anh
hùng dân tộc trong cuộc đấu tranh chống lại ách đô hộ của nhà Minh đầu thế kỷ XV tại trại Trùng Quang, Nghệ An. Không chỉ hướng về lãnh tụ khởi nghĩa, tác giả
còn thể hiện một cái nhìn mới mẻ về vai trò của nhân dân, đặc biệt là người phụ
nữ trong việc tạo dựng sức mạnh toàn dân tộc nhằm chống lại sự xâm lược của
quân giặc.
Sau Trùng Quang tâm sử, hàng loạt tiểu thuyết lịch sử gây tiếng
vang ở hai miền Bắc, Nam được công bố: Tiếng sấm đêm đông (1928), Đinh Tiên
Hoàng (1929), Vua Bố Cái (1929), Lê Đại Hành (1929) - Nguyễn Tử Siêu; Giọt máu
chung tình (1926), Gia Long tẩu quốc (1930), Hoàng tử Cảnh như Tây (1931), Gia
Long phục quốc (1932) - Tân Dân Tử; Việt Nam Lê Thái Tổ (1929) - Nguyễn Chánh Sắt;
Việt Nam anh kiệt (1926), Việt Nam Lý trung hưng (1929), Lê triều Lý thị
(1931), Tiền Lê vận mạt (1932), Trần Hưng Đạo (1933) - Phạm Minh Kiên... Tiểu
thuyết lịch sử khoảng 30 năm đầu thế kỉ XX tập trung phục dựng những sự kiện,
biến cố trọng đại trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam. Cùng
với đó nhiều tác giả đã ngợi ca công lao to lớn của các vị anh hùng dân tộc, những
bậc trai tài gái sắc đã cống hiến cho sự nghiệp đánh giặc cứu nước. Không ít vấn
đề nội trị, những mối mâu thuẫn, giao tranh giữa các tập đoàn, thế lực, phe
cánh trong nước được một số tác giả tái hiện. Nhìn chung, hầu hết các tác phẩm
trong giai đoạn này đều chịu ảnh hưởng của lối kết cấu chương hồi khá rõ nét.
Nghệ thuật miêu tả nhân vật thiên về hành động, đời sống nội tâm cũng được chú
ý nhưng không nhiều. Ngôn ngữ chịu ảnh hưởng đậm nét của lối văn cổ điển - biền
ngẫu. Bên cạnh đó đã bắt đầu xuất hiện những tiểu thuyết mang dáng dấp của tiểu
thuyết hiện đại phương Tây (tác phẩm của Tân Dân Tử). Dung lượng văn bản và số
lượng nhân vật được gia tăng đáng kể. Đa phần các tác phẩm giai đoạn trước chỉ
dao động khoảng trên dưới 100 trang văn bản, với khoảng 30 - 40 nhân vật; đến
nay xuất hiện nhiều hơn những tác phẩm có độ dày trên dưới 200 trang, với hàng
trăm nhân vật, đa dạng về ngoại hình, tính cách, vai trò (Vua bà Triệu Ẩu - 150
trang/ 100 nhân vật, Hai Bà đánh giặc - 383 trang/114 nhân vật, Thế kỷ 18 bằng
Quận Công - 157 trang/ 122 nhân vật).
Từ đầu những năm 1930 đến 1945, tiểu thuyết lịch sử có sự
phát triển mạnh mẽ, đạt được nhiều dấu ấn và thành tựu quan trọng. Đội ngũ người
viết đông đảo, số lượng tác phẩm không ngừng gia tăng, đặc biệt có nhiều sự đổi
mới về cảm thức, tư duy và phương thức tự sự lịch sử. Có thể kể đến những tác
phẩm tiêu biểu xoay quanh hai mảng đề tài chống xâm lược và nội trị như: Trần
Nguyên chiến kỷ (1935), Việt Thanh chiến sử (1935), Hai Bà đánh giặc (1936),
Vua bà Triệu Ẩu (1936) - Nguyễn Tử Siêu; Đêm hội Long Trì (1942), An Tư (1944)
- Nguyễn Huy Tưởng; Tiêu Sơn tráng sĩ (1937) - Khái Hưng; Chiếc ngai vàng
(1937), Ai lên Phố Cát (1937), Cái hột mận (1938), Gái thời loạn (1938), Treo bức
chiến bào (1949) - Lan Khai; Hòm đựng người (1936), Bà Chúa Chè (1938), Loạn
kiêu binh (1939), Ngược đường Trường Thi (1939) Chúa Trịnh Khải (1940), Rắn báo
oán (1941) - Nguyễn Triệu Luật… Bên cạnh lối viết truyền thống của tiểu thuyết
chương hồi, bắt đầu xuất hiện những ý hướng cách tân thể loại theo tiểu thuyết
hiện đại phương Tây (Lan Khai, Nguyễn Triệu Luật).
Do ảnh hưởng thi pháp lãng mạn của tiểu thuyết phương Tây,
nhiều tác phẩm trong giai đoạn này đã khai thác chủ đề tình yêu đôi lứa, tạo dựng
diễn ngôn đời tư, thế sự khá đặc sắc. Nhờ vậy, tâm lý nhân vật cùng những chuyển
biến phức tạp trong đời sống nội tâm được quan tâm thể hiện. Yếu tố hư cấu và
chất tiểu thuyết trong tự sự lịch sử được gia tăng một cách rõ rệt. Một số tác
phẩm chỉ neo vào một vài chi tiết trong lịch sử, từ đó sáng tạo, tưởng tượng
nên thế giới nghệ thuật sinh động (Nguyễn Tử Siêu, Nguyễn Huy Tưởng...). Đặc biệt,
không ít nhà văn đã thể nghiệm lối kể chuyện hiện đại với sự đổi mới trong tổ
chức điểm nhìn trần thuật, sự linh hoạt trong xây dựng kết cấu, sự đa dạng
trong kiến tạo ngôn ngữ và giọng điệu (tiểu thuyết của Lan Khai, Nguyễn Triệu
Luật...).
Mặc dù vẫn còn những giới hạn trong việc phân tích, luận giải
lịch sử cũng như nghệ thuật xây dựng tiểu thuyết; song tiểu thuyết lịch sử giai
đoạn 1930 - 1945 đã có bước tiến vượt bậc về ý nghĩa tư tưởng, giá trị thẩm mỹ
và hình thức nghệ thuật. Và đây cũng chính là tiền đề để tiểu thuyết lịch sử vượt
thoát khỏi mô hình truyền thống, tiến đến hiện đại hóa sâu rộng trên nhiều bình
diện.
Tiểu thuyết lịch sử giai đoạn từ 1945 đến 1986
Cách mạng tháng Tám 1945 đã mở ra một giai đoạn mới trong lịch
sử dân tộc, đồng thời cũng tạo ra thời đại mới trong văn học nước nhà. Văn học
giai đoạn này gắn chặt chẽ với sứ mệnh phục vụ hai cuộc chiến tranh cứu nước và
giải phóng dân tộc. Về mặt đề tài, các nhà văn ưu tiên phản ánh những vấn đề thời
sự nóng hổi của dân tộc: bước đi của cách mạng, vận mệnh của dân tộc, đời sống
của nhân dân. Về mặt cảm hứng, văn học ngợi ca chủ nghĩa anh hùng và tinh thần
lạc quan cách mạng, đề cao ý thức và sức mạnh cộng đồng, khẳng định lý tưởng và
niềm tin bất diệt vào thắng lợi chính nghĩa. Về mặt thể loại, thơ, truyện ngắn,
ký - những thể loại ngắn gọn, giàu thông tin thời sự có nhiều cơ hội phát triển
hơn những tác phẩm văn xuôi có tính dài hơi, trong đó có tiểu thuyết lịch sử.
Mặc dù chưa được quan tâm như các đề tài và thể loại khác,
song tiểu thuyết lịch sử giai đoạn này vẫn đạt được những dấu ấn và thành tựu
đáng kể. Cũng như các thể loại khác, tiểu thuyết lịch sử giai đoạn này hướng đến
nhiệm vụ chính trị, cổ vũ tinh thần đấu tranh qua việc khắc họa truyền thống
yêu nước, anh hùng cách mạng của dân tộc. Nổi lên có các tác giả tiêu biểu như
Lan Khai - Treo bức chiến bào (1949); Toan Ánh - Thanh gươm Bắc Việt (1950);
Nguyễn Huy Tưởng - Sống mãi với thủ đô (1960), Lá cờ thêu sáu chữ vàng (1960);
Hà Ân - Bên bờ Thiên Mạc (1967), Tổ quốc kêu gọi (1972), Trên sông truyền hịch
(1980), Người Thăng Long (1981); Chu Thiên - Hùng khí Thăng Long (1964), Bóng
nước Hồ Gươm (1970); Thái Vũ - Cờ nghĩa Ba Đình (1981), Biến động (1984);
Nguyên Hồng - Núi rừng Yên Thế (1981); Sơn Tùng - Búp sen xanh (1981); Nguyễn Đức
Hiền - Sao Khuê lấp lánh (1984)...
Hầu hết các tác phẩm trong giai đoạn này đều tập trung tái hiện
nhiều sự kiện trọng đại trong lịch sử vẻ vang của dân tộc. Điểm khác biệt so với
giai đoạn trước là song song với cảm hứng ngợi ca truyền thống anh hùng từ ngàn
đời, tiểu thuyết giai đoạn này đã khắc họa hình ảnh nhân dân, nâng lên thành biểu
tượng cho vẻ đẹp, sức mạnh, khát khao của thời đại và dân tộc. Cùng với đó, âm
hưởng sử thi dào dạt trên từng trang văn và mỗi nét khắc họa chân dung nhân vật
mang lại bức tranh lịch sử hoành tráng, hào hùng. Tư duy tự sự lịch sử cũng được
nâng lên một bước khi kết hợp hài hòa giữa tư liệu lịch sử và hư cấu nghệ thuật
tạo nên diễn ngôn dân tộc, thời đại sắc nét, chân thực. Tuy tiểu thuyết lịch sử
giai đoạn này có sự phát triển kém sôi động và chưa thật nhiều thành tựu, chưa
gây được tiếng vang so với các thể loại khác như thơ, truyện ngắn, ký; song ở một
phương diện nào đó, thể loại này vẫn tiếp nối mạch cảm thức có từ trước, cùng với
đó là những tìm tòi, thể nghiệm riêng, tạo tiền đề cho những đổi mới, cách tân
thể loại giai đoạn sau.
Tiểu thuyết lịch sử giai đoạn sau 1986
Sau năm 1986, văn học nói chung và tiểu thuyết lịch sử nói
riêng có sự vận động và đổi mới trong điều kiện hoàn toàn khác biệt so với những
năm tháng đất nước còn chiến tranh. Đời sống văn học nước nhà vận động, phát
triển dưới tác động của hàng loạt nhân tố mang tính thời đại như ảnh hưởng của
nền kinh tế thị trường, bùng nổ của các phương tiện thông tin đại chúng, chuyển
biến trong thị hiếu tiếp nhận, giao lưu, tương tác đa chiều, đa phương của các
nền văn hóa/văn học trong kỷ nguyên toàn cầu hóa. Sự đổi mới và sáng tạo trong
không gian văn hóa mới tạo nên những tiền đề quan trọng để mỗi tác giả khai
phóng trong ý tưởng, phiêu lưu trong bút pháp, thể nghiệm trong nghệ thuật tự sự
tạo nên bức tranh đa chiều, sinh động của tiểu thuyết lịch sử Việt Nam sau
1986.
Sau “bộ ba nổi loạn” - Kiếm sắc, Phẩm tiết, Vàng lửa của Nguyễn
Huy Thiệp, các nhà văn giai đoạn này đã thay đổi cách thức tiếp cận và cái nhìn
về lịch sử: Viết/ đọc văn phải khác viết/ đọc sử. Các tiểu thuyết gia thiên về luận
giải lịch sử hơn là mô tả, minh họa lịch sử. Sự diễn giải ấy bao chứa quan niệm
mới về lịch sử và diễn ngôn (về) lịch sử. Từ đây mở ra chân trời mới cho những
tưởng tượng và diễn giải lịch sử, làm xuất hiện nhiều khuynh hướng, cảm thức,
cùng những lối viết rất khác biệt: khuynh hướng chương hồi khách quan (Lê Đình
Danh - Tây Sơn bi hùng truyện, Yên Tử cư sĩ Trần Đại Sĩ - Nam quốc sơn hà, Vũ Ngọc
Đĩnh - Mười hai sứ quân, Phùng Văn Khai - Phùng Vương); khuynh hướng giáo huấn,
“dùng văn dạy sử” (Hoàng Quốc Hải - Bão táp triều Trần, Tám triều vua Lý);
khuynh hướng phân tích, luận giải (Nguyễn Xuân Khánh - Hồ Quý Ly, Mẫu Thượng
Ngàn; Võ Thị Hảo - Giàn thiêu; Bùi Anh Tấn - Đàm đạo về Điều Ngự Giác Hoàng,
Oan khuất; Nguyễn Thế Quang - Nguyễn Du, Thông reo Ngàn Hống; Nguyễn Quang Thân
- Hội thề; Phan Ngọc Cảnh Nam - Thế kỷ bị mất; Thái Bá Lợi - Minh sư; Trần Thu
Hằng - Đàn đáy; Nguyễn Mộng Giác - Sông Côn mùa lũ; Nam Dao - Gió lửa, Đất trời;
Uông Triều - Sương mù tháng Giêng; Lưu Sơn Minh - Trần Khánh Dư; Trần Thanh Cảnh
- Đức Thánh Trần...).
Các tác phẩm tiêu biểu này không chỉ mở rộng đề tài, chủ đề
theo hướng tiếp cận gần gũi hơn với hiện thực đời sống sinh hoạt, đời tư thế sự,
đời sống văn hóa tâm linh dân tộc, mà quan niệm của các nhà văn về một số vấn đề
về thể loại và về lịch sử cũng mang những màu sắc thẩm mỹ mới. Hiện thực lịch sử
không chỉ thu gọn trong những biến cố, sự kiện và đời sống cộng đồng qua cái
nhìn ngưỡng vọng, chiêm bái mà rộng hơn, sâu hơn, “đời hơn”. Văn học sáng tạo về
lịch sử đã đi đúng vào bản chất, khám phá lịch sử, văn hóa và con người ở tầng
vỉa sâu của những bí ẩn, khuất lấp “bề sau, bề sâu, bề xa”. Trong khi miêu tả lịch
sử, nhà văn đã mang lại cho lịch sử những “gương mặt người”. Cái nhìn đời tư -
thế sự - nhân văn đã thực sự giữ vai trò cốt yếu trong cảm quan nghệ thuật của
các nhà văn sáng tạo về đề tài lịch sử. Nhiều nhà văn đề xuất những cách nhìn mới
về lịch sử, mở rộng cái nhìn đối với nhiều thời đại trong quá khứ, truy tìm,
suy ngẫm và giải mã những vấn đề trong quá khứ, ráo riết tìm lời giải đáp cho
các câu hỏi thiết thực của hiện tại. Lịch sử trong tiểu thuyết lúc này trở
thành lịch sử trong cảm nhận, diễn ngôn cá nhân, được nhà văn nhìn nhận bằng
cái nhìn triết học và thụ hưởng trên tinh thần nhân văn hiện đại.
Cùng với đó, sự cách tân, thể nghiệm độc đáo về tư duy,
phương thức, diễn ngôn tự sự lịch sự đã mang lại những thành tựu đáng kể cho thể
loại này. Cho đến nay nhiều tác phẩm không chỉ mang lại những giải thưởng cao
quý cho nhà văn mà còn trở thành món ăn tinh thần độc đáo, thú vị thu hút sự
quan tâm, bàn luận của độc giả. Đến nay thể loại này vẫn đang vận động, phát
triển, báo hiệu những đổi mới, cách tân về lối viết và những hình thức diễn
ngôn mới về lịch sử.
Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đã trải qua những giai đoạn vận
động, phát triển cùng với sự đổi mới, hiện đại hóa nền văn học nước nhà. Mỗi
giai đoạn đều ghi nhận những nỗ lực tìm tòi, thể nghiệm của các nhà văn. Có thể
nói, mặc dù có sự khác nhau về cảm thức, tư duy, lối viết lịch sử, và dù cho có
sự thăng trầm dưới ảnh hưởng của lịch sử, xã hội; song dòng tự sự lịch sử như một
mạch nguồn âm ỉ chảy, góp phần quan trọng tạo nên diện mạo đời sống văn học Việt
Nam từ Trung đại đến hiện đại. Phác họa tiến trình của tiểu thuyết lịch sử như
là cách để nhận diện những bước phát triển cũng như không ít giới hạn của thể
loại. Và cũng từ đây, chúng ta có thể khẳng định lịch sử và diễn giải về lịch sử
luôn là đòi hỏi của con người ở bất kỳ thời đại nào, nhất là khi có một độ lùi
nhất định về thời gian. Đó cũng là cách để người viết lẫn người đọc tìm kiếm
giá trị nền tảng trong lịch sử, văn hóa, đồng cảm với những cuộc đời, số phận
con người, tham dự vào cuộc hành trình giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.
Chú thích:
(1), (2) Nguyễn Đăng Na (2010), Văn xuôi tự sự Việt Nam trung đại (Tiểu thuyết chương hồi), Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
(1), (2) Nguyễn Đăng Na (2010), Văn xuôi tự sự Việt Nam trung đại (Tiểu thuyết chương hồi), Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
Nguyễn Văn Hùng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét